Về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Lê Na
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ thường biểu thị cá
tính mạnh mẽ, dám nhìn thẳng và nói thẳng, thông qua lời kể của nhân vật kể
chuyện xưng “Tôi”. Trong bài viết này, tác giả Lộc Hoàng Lê Na phân lập và bình
luận về yếu tố “độc thoại” đan cài hay tách biệt với dòng trần thuật của các
truyện ngắn đó...
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng ngôn
ngữ độc thoại đời thường một cách phổ biến. Việc lựa chọn ngôn ngữ này xuất
phát từ tư duy hướng vào đời tư, bám sát hiện thực đời sống. Nguyễn Thị Thu Huệ
đã đưa vào tác phẩm của mình tiếng nói của đời sống thường nhật, dung nạp nhiều
khẩu ngữ tự nhiên, làm độc giả không mấy khó khăn khi tiếp cận tác phẩm. Ngôn
ngữ này dường như thô nhám, đôi khi suồng sã, bỗ bã, như: “Mặt mũi những thằng
đàn ông suốt đời bị mất trộm” (Tình yêu ơi ở đâu); hoặc những câu nói từ thành
ngữ: “nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện ấy thường lắm” (Nước mắt đàn ông).
Cũng có khi thứ ngôn ngữ này được diễn tả theo một chiều hướng khác bằng lối
nói dân gian “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có nia nào cả” (Thời
gian của mỗi người). Lối nói suồng sã trong truyện ngắn của chị thể hiện rõ
trong những dòng độc thoại nội tâm suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và con
người, thể hiện cách nghĩ của nhân vật về thời cuộc, về chính mình. Những dòng
độc thoại nội tâm bằng lối nói dân gian khi suồng sã, có lúc bỗ bã đến không
ngờ làm cho các nhân vật của chị như gai góc hơn, thực tế hơn, đôi khi là thực
dụng về đời với một tâm trạng buồn xa xôi và chua xót.
Dòng nội tâm của các nhân vật còn được thể hiện
bằng những ngôn từ hiện đại, phóng túng, giàu hình tượng của đời sống kinh tế
thị trường. Điều này làm cho ngôn ngữ của họ cập nhật hơn, mới mẻ hơn với cuộc
sống hiện đại. “Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày” (Nước mắt đàn
ông). Đồng thời Nguyễn Thị Thu Huệ còn có những dòng độc thoại nội tâm
diễn đạt bằng phương ngữ rất đỗi nhẹ nhàng và duyên dáng. Lối diễn đạt này làm
cho dòng nội tâm của nhân vật diễn ra tự nhiên hơn, không câu nệ vào ngôn từ
hay cách diễn đạt của tác giả.
Đưa vào tác phẩm lối nói dung dị, sử dụng ngôn
ngữ đời thường, cây bút nữ trẻ đã cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa tác phẩm và
độc giả. Tiếp xúc tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ tôi nhận thấy rõ
ràng tác giả này đã có những sự rút gần khoảng cách người kể chuyện và
nhân vật, tác giả và bạn đọc. Với lối nói kiểu đời thường này, chị đã góp phần
tái hiện chân thực bức tranh của đời sống với một gam màu lạ, thể hiện được sự
đa dạng và sống động của cuộc sống.
Những tác giả nữ thường có lợi thế trong
việc diễn đạt sâu sắc nội tâm nhân vật nữ, trong việc bộc lộ đến tận cùng thái
độ, cách cảm, cách nghĩ của giới mình. Sự khám phá thế giới tâm hồn người phụ
nữ được Nguyễn Thị Thu Huệ thể hiện ở mọi phương diện, từ trạng thái đến tình
cảm, những cung bậc của cảm xúc, niềm vui và nỗi buồn, những khát khao đam mê
và cả những “gót chân Asin” của họ.
Công việc nội trợ hằng ngày gắn liền với người
phụ nữ, cho nên trong những dòng suy nghĩ, dòng tâm tưởng của họ cũng có ít
nhiều dấu vết. Nguyễn Thị Thu Hụê đã nhìn màn “đêm đen thẫm như một miếng
thạch” (Cát đợi); ví liên khúc các bài hát như: “một xâu cá rô quẫy đạp liên
hồi” (Cát đợi) và “những người đàn bà khác chạy qua đời tôi nhạt nhẽo như bí
luộc” (Người đàn bà ám khói); hay những cảm nhận thú vị: “nhiều khi nó thấy ở
mồm mẹ nó nói ra những câu đối thoại giống như một cái chợ bán cá thu nhỏ” (Phù
thuỷ), “khuôn mặt méo xệch, vẹo vọ méo mó như cái oản bẹp” (Phù thuỷ).
Bằng trực giác và cảm nhận sâu sắc, chị viết nên
những tâm sự của giới đàn bà, với những điều giản dị và không xa lạ với hầu hết
phụ nữ. Những tâm sự, niềm vui nỗi buồn rất đàn bà được Nguyễn Thị Thu Huệ diễn
tả tinh tế “Tôi mệt mỏi và thèm nói với anh những chuyện con con như em Thuý
tập lẫy, chuyện nó đi tướt mọc răng” (Hình bóng cuộc đời)... Ngoài ra chị còn
thành công ở diễn tả nội tâm của người phụ nữ lo về tuổi tác và nhan sắc: “Sao
đến bên gương và nhìn thấy mình trong đó. Mí mắt sùm sụp, dưới mắt mòng mọng
sưng, hai vành môi đã bắt đầu đen và lỗ chân lông trên mặt to ra như những đầu
tăm” (Giai nhân). Có thể nói người đàn bà trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ
luôn cảm nhận về “cái già đang ập đến” và ngôn từ miêu tả nỗi lo lắng này trong
tâm trạng phụ nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng khác biệt.
Cây bút nữ này đã thực sự làm người đọc xúc động
với những trang viết về tình mẫu tử, diễn tả những cảm xúc xác thực của người
đàn bà “thèm có con. Thèm được làm mẹ” (Người đàn bà ám khói); nỗi đau của
người mẹ phải xa đứa con thân yêu “phải xa những gì lâu nay là máu thịt của
chị. Xa đứa con trai bé bỏng thơm tho như một chiếc bánh ga tô vừa mới ra lò”
(Tân cảng). Nỗi lòng của những bà mẹ có con gái lớn cũng được Nguyễn Thị Thu
Huệ thể hiện rất đạt: “Mẹ bảo: lắm khi đang ngủ, tao giật mình không hiểu mày
có lấy được chồng không. Nằm ngẩn một lúc, nhớ ra là mày đã có chồng, có con
tao mừng không thể tưởng được” (Biển ấm).
Trời phú cho phái nữ trái tim nhạy cảm, suy nghĩ
của họ thường mang màu sắc cảm tính, họ quan sát nắm bắt hiện thực bằng trực
cảm… Khi đọc tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ chúng ta bắt gặp không biết bao
nhiêu cặp từ “hình như” chảy qua những dòng độc thoại nội tâm rất phụ nữ, những
do dự, những tâm trạng lo lắng. Xu hướng sử dụng với tần suất cao lớp từ đặc tả
những khoảnh khắc của tâm trạng, bộc lộ lối cảm nhận trực giác tạo nên
sức ám gợi với người đọc, tôi nghĩ, rất đặc trưng cho người viết là phụ nữ.
Tái hiện hiện thực tâm lý qua độc thoại nội tâm
bằng ngôn ngữ trực giác và linh cảm, cây bút truyện ngắn này đã bộc lộ khả năng
nắm bắt những biến thái của tâm hồn con người, đặc biệt là phụ nữ. Đọc truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ người đọc cảm nhận đó là tiếng lòng của người phụ
nữ viết nên từ những trải nghiệm. Dù là lời lẽ góc cạnh hay những khẩu ngữ đời
thường gần gũi, hay ngôn ngữ mang sắc thái nữ, thì ẩn sau những câu chữ
vẫn luôn là tiếng lòng, là những dự cảm thân phận được viết ra từ sự dẫn dắt
tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng.
Giọng điệu độc thoại giãi bày tâm sự thường gặp ở
đây mượn hình thức tự bạch. Hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ được
viết dưới dạng người kể chuyện xưng tôi. Với hình thức này người kể chuyện tham
gia vào câu chuyện như một nhân chứng, cũng là cách làm tăng độ tin cậy của bạn
đọc đối với tác phẩm. Nhân vật xưng tôi tự kể chuyện mình, bộc bạch những nỗi
niềm tâm sự, suy tư, cảm xúc của mình. Đứng ở điểm nhìn trần thuật này nhiều
trường hợp giọng điệu tác giả và giọng điệu nhân vật hoà làm một.
Với người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, các chuyện
ngắn này bộc lộ xu hướng viết “như một nhu cầu trình bày những trải nghiệm của
bản thân”. Người kể chuyện lúc này xoá đi khoảng cách trần thuật của mình để
đối thoại với độc giả. Nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự bộc bạch nỗi lòng
của mình. Cũng có đôi khi người đọc thấy dường như “Nhà văn tự đưa mình vào tác
phẩm” bộc lộ nhu cầu giãi bày tâm sự qua nhân vật. Một số truyện của Nguyễn Thị
Thu Huệ dù người kể ở ngôi thứ ba nhưng vẫn mượn giọng tự bạch.
Bằng độc thoại nội tâm, tác giả đã diễn đạt những
giằng xé, dằn vặt của nhân vật trước biến cố cuộc đời, tạo nên giọng điệu thâm
trầm sâu lắng. Trong các tác phẩm độc thoại nội tâm như là sự giải toả tâm
trạng, nhân vật thường đặt câu hỏi cho chính bản thân mình: “Sao tôi thấy cô
đơn và sợ cuộc sống thế này” (Mi nu xinh đẹp), thừa nhận với mình: “Tôi thấy
trống trải và hụt hẫng” (Biển ấm), khẳng định cho chính mình: “Tôi tin rằng
mình lại có tình yêu bởi vì tôi mất nó quá lâu rồi” (Cát đợi).
Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng của nhà văn.
Với sự chi phối của cảm hứng về cái bi, truyện của cây bút này mang giọng xót
xa khinh bạc, đặc biệt là khi nhìn vào mặt trái của cuộc sống, vào những éo le
khôn cùng của những “lỉnh kỉnh, dở dang của cuộc sống”, những ảo tưởng
tình yêu tan vỡ, trống trải và hụt hẫng sau những nỗ lực để bằng mọi giá có
được người đàn ông của đời mình...
Giọng điệu này có trong nhiều truyện như: Người
đàn bà ám khói, Hoàng hôn màu cỏ úa, Thiếu phụ chưa chồng, Một chiều mưa…
Nguyễn Thị Thu Huệ thường viết về cái nhìn đầy
nghi kỵ, thậm chí là khinh bạc với giới đàn ông sống thực dụng. Đàn ông trong
tác phẩm của chị thường là nhân vật gây ra những đau khổ cho nhiều phụ nữ đặc biệt
là những cô gái trẻ ngây thơ và cả tin. Người đàn bà biết rõ nỗi cô đơn ngày
càng thắt chặt, nên những dòng độc thoại nội tâm của họ được Nguyễn Thị Thu Huệ
diễn đạt rất sâu sắc. Những nhân vật nữ trong truyện ngắn của tác giả nữ
này suốt cuộc đời không tìm thấy điểm tựa và họ chua chát khi nhận ra điều đó:
“Chị hay khóc với tôi và cho rằng đàn ông thì cần thật nhưng tốt nhất là không
nên có” (Hoàng hôn màu cỏ úa).
Ngôn ngữ độc thoại biểu thị sự xót xa khinh bạc
của Nguyễn Thị Thu Huệ tỏ rõ một sự đồng cảm sâu sắc. Ngôn ngữ độc thoại
đó còn hài hước châm biếm thể hiện qua cách miêu tả hiện thực trong tâm tưởng
mang sắc thái bi hài: Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng nên hình tượng người trí thức
trong hoàn cảnh túng quẫn về kinh tế, thay vì nuôi dưỡng những ý tưởng khoa
học, hằng ngày anh ta phải nuôi chó Nhật để mưu sinh. Cũng dưới ngòi bút sắc
sảo của Nguyễn Thị Thu Huệ, người đàn ông trong Hậu thiên đường thảm hại ở cả
hai tư cách “làm chồng và làm người tình”…; những đấng nam nhi đại trượng phu
trong con mắt những nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ được phác họa là: “những
anh chàng thương gia thì lạnh lùng, thô lỗ. Chàng Việt kiều thì ki bo, bủn xỉn.
Nhà thơ thì yếu đuối, bệ rạc” với cái mặt: “méo mó, vẹo vọ như oản bẹp” (Tình
yêu ơi ở đâu).
Có thể nói giọng điệu độc thoại châm biếm, hài
hước đem đến cho cây bút nữ này một âm hưởng riêng trong các truyện ngắn phê
phán. Những dòng độc thoại nội tâm của các nhân vật trong các tác phẩm thể hiện
cái nhìn hiện thực mang tính dân chủ của người viết. Với thái độ không khoan
nhượng những nghịch lý trớ trêu của cuộc đời, các trang viết của Nguyễn Thị Thu
Huệ góp phần tái hiện bức tranh hiện thực nhiều chiều.
Quyết liệt khi miêu tả những dòng độc thoại nội
tâm thể hiện những khát khao rất đàn bà nhưng cũng có khi giọng trữ tình độc
thoại đằm thắm trở thành âm điệu chính trong tác phẩm của chị. Trong văn của
Nguyễn Thị Thu Huệ thường có cái gì đó không thuần nhất, thậm chí đối chọi nhau
chan chát, lúc bạo liệt táo tợn, lúc lại dịu dàng đến bất ngờ. Chao chát, dịu
dàng ngây thơ và từng trải, đau đớn và tin tưởng cứ trộn lẫn trong tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
Giọng điệu trữ tình đằm thắm một mặt khơi sâu vào
cảm xúc chủ quan của nhân vật, một mặt lại khơi gợi ở người đọc những khoảnh
khắc rung động tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống. Dù với tình cảm
đậm nhạt khác nhau, sự tồn tại cả hai mặt đối lập này trong cùng một cây bút
không phải là điều khó lý giải. Bản tính nữ và khát khao đấu tranh cho sự bình
quyền, được lên tiếng trước những bất công trong đời sống, trước những thực
trạng tinh thần của con người, đã tạo nên tính đa cực của ngòi bút. Đó là bằng
chứng về sự đổi mới tư duy văn học và sự giải phóng ý thức cá nhân - một nhu
cầu vừa mang tính nội tại vừa chịu ảnh hưởng của xu thế thời đại.
Từ ngôn ngữ độc thoại trong các tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ, tôi nhận thấy tư duy nội hướng là một đặc điểm định tính đã
phần nào chi phối đến các phương thức diễn đạt góp phần vào sự phát triển, vận
động của truyện ngắn Việt Nam.
Ngôn ngữ độc thoại là một phần quan trọng của tác
phẩm văn chương. Cùng với ngôn ngữ đối thoại nó hoàn chỉnh tác phẩm ở góc độ
ngôn ngữ. Qua việc khảo sát ngôn ngữ độc thoại trong tập “37 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ”, tôi nhận thấy một lối tư duy mới, cách cảm, cách nghĩ mới mang
đậm màu sắc nữ giới. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong các tác phẩm truyện ngắn
của Nguyễn Thị Thu Huệ góp phần tạo nên một giọng điệu mới trong giai đoạn văn
chương hiện đại sau 1975 với những sự nhìn nhận đánh giá về một thế giới đa cực
của hiện tại.
(Nguồn Văn nghệ
Truyện của Nguyễn Thu Huệ rất hấp dẫn
Trả lờiXóa