Đi tìm Cổ Nguyệt đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du (Kỳ 2)
- Phạm Ngọc Chánh
II. Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du từ Tiên Điền đến Nghi Tàm (1794-1796)
·1. Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc.Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền
cả. Những năm cuối cùng nhà Lê -Trịnh . Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ
Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên,
Thái Nguyên và Sơn Tây.
Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại
Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ
Hiệu, quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên, Cai Gia tức
Nguyễn Đại Lang làm Quân Sư.. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê
Nhất Thống Chí, vốn là người Phản Thanh Phục Minh Trung Quốc, là tay
'giặc già' , được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em, .
Thái Nguyên là nơi nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ, trộm cướp, trốn
thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống
chết với Cai Gia (Sinh Tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang)
nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn
Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam. (Tôi bác bỏ việc Nguyễn Du
nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả
ghi.Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại
Thái Nguyên).
Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn
giết năm 1790 tại Hà Tỉnh, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền
cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc.
Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có
con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên
Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia
Long có ra làm quan Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ
Nghĩa Hưng, Nam Định, Nguyễn Trù tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long .Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tỉnh.
Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều.
Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa trong năm nhà thơ nhất nước đương thời, lúc này cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du.
Về Tiên Điền,
hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu
sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc chở gạch, ngói, gỗ, đá về
xây cất bằng thuyền. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến bốn đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền:
Đền thờ ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du, đề
thờ ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du,
đền thờ Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du, đền
thờ Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786). Đền thờ Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên.
Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng, cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai.
Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền,
không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu hàng vạn quyển
sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất
quanh vách nhà, ngoài cửa một khóm cúc vàng,
bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Nguyễn Du hớp rượu cho
hồng sắc diện. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân.
Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, Nguyễn Du: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang.Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng.
II.2 Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu Hương ký.: Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của
danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi. Xuân Hương chẳng có dịp may nào
để xông pha về thăm chàng. Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi
lai láng, một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng. Muốn thả lá
đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến, muốn gửi quà nhièu
hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng. Ước gì có người tiên hiện xuống nơi
trần thế giúp tình ta, có vầng trăng soi tỏ tấm lòng.
Nhân tặng
Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
·Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng, Nguyễn Du đáp lại:Một vầng trăng sáng tình ta đó.
Mờ
mịt không trung cát bụi đầy trời, tình hình chính trị mờ mịt, nay Quang
Trung mất, triều đình rối loạn các đại tướng đem quân đánh nhau. Nguyễn
Ánh đang nổi lên ở phương Nam ngày một mạnh, đã chiếm Gia Định, chưa biết tình hình ra sao. Từ ngày về Tiên Điền,
đóng cửa nằm khàn trong nhà, một vầng trăng sáng tình ta đó, non Hồng
dài trăm dậm, đôi ta chung chính khí tổ tiên hun đúc. Việc đời trước mắt
như đám mây nổi, sớm hiện rồi tan, thanh trường kiếm dắt ngang lưng
chưa dùng vào việc gì phất phơ trong gió thu. Một mình không nói nhìn khóm trúc trước sân.Sương tuyết tan đi trúc sẽ hóa rồng, tài năng kẻ sĩ sẽ được trọng dụng.
Gửi bạn Ký hữu
Mờ mịt không trung gió bụi trần, Mạc mạc trần ai mãn thái không.,
Cửa gài, kê gối mãi nằm không. Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung.
Một vầng trăng sáng tình ta đó, Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Trăm dậm Hồng sơn chính khí cùng. Bách lý Hồng Sơn chính khí cùng.
Trước mắt phù vân, ôi thế sự, Nhãn để phù vân khan thế sự,
Bên lưng trường kiếm nổi thu phong. Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Đầu sân ngóng trúc lòng không nói, Vô ngôn độc đối đình tiền trúc.
Sương tuyết tiêu tan sẽ hóa rồng. Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch
III.4 Bài Thu dạ hữu hoài trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, Xuân Hương gửi Nguyễn Du: Câu Bóng nhạn về đâu, mây ở lại,
Nhạn là Nguyễn Du đã bay xa, mây là Xuân Hương còn ở lại.Bài thơ viết
khoảng năm 1794. Đêm tàn, Xuân Hương còn thức, ngơ ngẩn thương nhớ chàng đi xa,
nơi lầu mây, rượu rót nhưng không tri âm, không uống để lạnh, nửa vầng
trăng tà chiếu lóng lánh bạc.Nước chảy, gió thổi mãi, giọt nước trong hồ
đồng rơi đều. Hoa hay trăng tự lòng Xuân Hương, lòng Xuân vắng vẻ, Xuân
hứng không nhiều ư ? Bóng chàng như bóng chim nhạn bay về đâu ? Chỉ còn
nghe tiếng dế trùng than khóc, dòng nước trôi mãi, đêm tàn thêm lo..
Đêm thu cảm hoài Thu dạ hữu hoài.
Đêm tàn người thức lòng ngơ ngẩn, Dạ thâm nhân tỉnh độc trù trù
Rượu lạnh lầu mây bạc ánh tà. Vân lâu tửu lãnh ngân hoàn bán.
Nước chảy gió đùa trơ mặt ngọc, Thủy khoát phong trường ngọc lậu cơ.
Hoa hoa, nguyệt nguyệt nỗi lòng ta. Hoa hoa, nguyệt nguyệt chủ nhân cô.
Xuân vắng vẻ, Xuân tịch tịch,
Xuân hứng chẳng nhiều ư ? Xuân hứng bất đa hồ ?
Bóng nhạn về đâu mây ở lại, Nhạn ảnh hà qui vân tự trụ.
Dế trùng than khóc nước trôi hờ, Trùng thanh như khốc thủy không lưu;
Đêm tàn nên lo. Tuế án tu liên.
Nhất Uyên dịch thơ Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương.
·5 Nguyễn Du phúc đáp bài Thu da hữu hoài của Hồ Xuân Hương
bằng bài Thu dạ I. trong Thanh Hiên thi tập: Anh đã nghe tiếng dế trùng
than khóc nơi tường đông, vì mây ở lại Thăng Long với em nên Hồng Lĩnh
trời lạnh ngắt không một vầng mây.
Trời
đầy sao sáng, sương móc trắng như bạc, tường đông dế gặp lạnh kêu buồn
thảm, chua xót.(tiếp ý dế khóc bài Thu dạ hữu hoài) Bầu trời một màu
lạnh ngắt không một làn mây. Mây ở hết bên em rồi, anh chỉ là cánh chim
đơn côi trong trời lạnh giá. Thấm thoát thời gian qua nhanh, tuổi càng
cao, tóc bạc vì nhiều suy nghĩ trông rất thảm thương. Ở mãi nơi đây, núi xanh chưa chán người, người đi chơi xa bên trời lòng mỏi mệt, Suốt năm nằm bệnh bến Quế Giang. Sông Quế là một tên khác của sông Lam, dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Đêm thu I Thu Dạ I
Đầy trời sao sáng bạc sương dâng, Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Dế lạnh tường đông thảm thiết buồn. Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn dậm tiếng thu rung lá rụng, Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Một trời khí lạnh vắng mây vương. Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
Già rồi tóc bạc lòng thêm xót, Lão lai bạch phát khả liên nhữ,
Ở mãi non xanh chẳng chán chường. Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân.
Ngán nỗi bên trời lòng khách mệt, Tối thị thiên nhai quyện du khách,
Suốt năm nằm bệnh Quế giang tân. Cùng niên ngọa bệnh Quế giang tân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
·6. Xuân Hương
đã phúc đáp bài Thu Dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu Vũ. Mưa Thu. Nàng
đã khóc khi nghe Nguyễn Du bệnh gần cả năm, tóc đã nhuốm bạc. Trời ảm
đạm mây mù dăng mờ mịt, lòng em như mây (tiếp ý mây bài Thu dạ hữu hoài và Thu Dạ I), nhưng mây đầy trời ảm đạm và mù mịt, tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô giọt lệ dài ngắn, trên lá chuối vàng,
tiếng thưa mau. Ngâm đọc xong bài Thu Dạ (I) , đê mê như mơ thương nhớ
chàng cách xa ngàn dậm, sầu vấn vương dăng mắc mối tình năm canh. Nơi
khuê phòng, người nhan sắc, mặt hoa đau khổ vô cùng, một mảnh lòng sầu
vẽ mãi không thành.
Mưa thu Thu vũ
Trời thảm mây dăng tối mịt mùng, Thiên cách vân âl thảm bất minh,
Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân. Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ. Doản trường khô thụ chi đầu lệ,
Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh. Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm, Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Buồn dâng quạnh quẽ nỗi năm canh. Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.
Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc, Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành. Nhất phiến sầu dung họa bất thành.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.
·7. Nguyễn Du trả lời bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu Dạ II..
Tiết bạch lộ tháng tám âm lịch, hơi
thu đã già, qua tháng chín tà tiết sương dâng, không phải chỉ lòng em
đầy mây mù đâu, lòng anh cũng lạnh lẽo sương dâng mờ mịt cây cỏ quanh
bến giang thành đìu hiu. Bên đèn khuya quạnh quẽ ngóng đợi.Vắt tóc như
Chu Công bận lo việc nước, vừa gội đầu vừa tiếp sĩ phu, phải vắt ba lần
mới gội đầu xong.Lo cái chí nguyện tàn phai theo ngày tháng, non sông
nghìn dậm càng nghĩ càng nhớ càng lo lắng trong ngày dài. Phong cảnh bốn
mùa thay đổi riêng mình ngậm ngùi buồn, trời chớm lạnh, mới hay không
áo là khổ, nghe tiếng chày người khuê phụ đập vải trong chiều, lòng nhớ
đến em nơi khuê phòng trông ngóng.
Đêm thu II. Thu Dạ II.
Móc trắng sương thu dăng mịt mùng, Bạch lộ sương vi thu khí thâm,
Dìu hiu cây cỏ bến giang thành. Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Đèn khuya quạnh quẽ đêm dài ngóng, Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Vắt tóc lo hoài chí nhạt tan. Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Vạn dặm giang sơn dài nỗi nhớ, Thiên lý giang san tần trường vọng,
Bốn mùa mây nước ngậm ngùi trông. Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Chớm lạnh mới hay không áo khổ, Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Tiếng chày khuê phụ, bóng chiều phong. Hà xứ không khuê thôi mộ châm..
Thơ chữ Hán Nguyễn Du Thanh Hiên Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú Thích:
Bạch lộ: sươn,g móc trắng, tiết bạch lộ là tháng 8 âm lịch.
Ác phát: Chu Công bận lo việc nước có kháh lại, ông vắt tóc lên ra tiếp, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.
·8 Rồi mùa thu sau. Xuân Hương lại gửi đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán. Cố kinh thu nhật, trong Hương Đình Cổ nguyệt thi
tập.: Thấm thoát đã bao mùa thu qua, bóng trăng xế bóng, tuổi càng cao
ngày một quá thì, nơi chốn cũ phồn hoa nhớ xưa cùng mời rượu chàng. Dòng
sông Tô nước chảy về hướng Tây không ngừng nghỉ, trời quang đảng trông
rõ bóng núi Tam Đảo phía Bắc xa xa.. Dưới đèn nơi Cổ Nguyệt Đường thương chăn xanh,
vật cũ di sản nho học dòng dõi cha ông. Sương móc xuống rơi đọng quanh
nhà., sương móc trắng không chỉ rơi nơi anh (bài Thu Dạ II), mà nơi
em cũng rơi đọng quanh nhà. Ước gì đôi ta thử gặp lại nhau cho đỡ mong
nhớ? Năm hết, tết sắp đến, anh mãi xa thế mãi a ?
Ngày thu kinh đô cũ Cố kinh thu nhật
Thấm thoát đường thu ánh nguyệt tà Nhiễm nhiễm chinh đồ thu nguyệt tà.
Chốn xưa rượu chuốc chén phồn hoa. Nhất bôi hoàn đối cựu phồn hoa.
Dòng Tô nước cuốn về Tây mãi, Nhất Tô thủy lạo Tây vô tận,
Tam Đảo trời quang vọng Bắc xa. Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa.
Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ, Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương buông móc trắng đọng bên nhà. Sương tiền bạch lộ lạc thùy gia.
Ước gì gặp lại vơi mong nhớ Thử lai tương đối trùng tương đắc
Khách cũ, năm tàn mãi thế ai ? Khách cũ niên thâm nhược nại hà ?
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Thanh Chiên: chăn xanh lót bằng tơ tằm thô, hay bông vải, làm mền đắp cho khỏi lạnh. Vương Hiến Chi đời Tấn, đêm thấy kẻ trôm vào nhà lấy nhiều đồ vật. Ông ung dung bảo với tên trộm rằng: Lấy gì thì lấy nhưng
cái chăn xanh là vật cũ của nhà ta, nên bỏ trả lại ta. Về sau người ta
dùng chữ thanh chiên để chỉ những nhà dòng dõi nho học.
·9. Nguyễn Du phúc đáp bài Cố kinh thu nhật của Hồ Xuân Hương bằng bài Khai song, dùng lại điển tích thanh chiên và cũng ý mùa thu. Nguyễn Du vẫn giữ mãi cái chăn xanh, như tấm lòng yêu thương nàng, và cho biết đang chữa bệnh nên chậm thư phúc đáp.
Cảnh vật trước
nhà nay ra sao, thong thả mở cửa sổ, thấy cảnh vật tươi vui, anh nằm
đóng cửa, bệnh chẳng biết trời trăng gì. Sáu tháng qua có gió lớn đưa
cánh chim Bằng bay mãi không nghỉ. Phải chăng chim Bằng là Bằng quận
công, gặp thời nhứ gió bay cao. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ Hoàng Đình
Bảo, khi Bảo bị kiêu binh giết, trốn vào
Nam phò Tây Sơn, đem quân ra Bắc diệt Trịnh thao túng quyền hành Bắc Hà
rồi bị tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm giết.. Tuy nhiên tình hình lúc
Nguyễn Du làm bài này là lúc Gia Long liên tiếp thắng nhiều trận lớn từ
Gia Định đang đánh tới, Bình Thuận, Diên Khánh Nha Trang. Một sân mưa
đọng kiến bò cao, xã hội đầy những kẻ thấp kém bất tài thừa cơ nước lụt
bò lên cao. Nguyễn Du ám chỉ quân Tây Sơn thời mạt vận chăng ? Khác với
anh Nguyễn Nể phò nhà Tây Sơn, được vua Quang Trung trọng dụng, ưu đãi,
hai lần được đi sứ, được giao cho trấn đóng Thành Bình Định, quê hương nhà vua, được dâng sách, dạy vua đọc hàng ngày và thảo chiếu biểu cho Vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du theo Gia Long và khinh
miệt Tây Sơn, khi cho Tây Sơn là kiến, khi là sâu trùng.(Cóc nhái quần
bếp vắng, Sâu trùng bò mé ngoài, bài Bất Mị) Dòng dõi nho gia, chiếc
chăn xanh vật cũ, anh vẫn giữ mãi, giấy rách giữ lấy lề, giữ thanh danh
ông cha mình. Tóc bạc rồi, tài năng chí khí mình như thế mà chưa làm nên
được việc gì thật quái lạ. Bệnh tái phái, anh đang lo chạy chữa nên
chậm thơ phúc đáp thơ em.
Mở cửa sổ Khai song
Trước nhà cảnh vật đã ra sao, Môn tiền yên cảnh cận như hà ?
Mở cửa ngày nhàn sinh ý nhiều. Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Sáu tháng gió tung bằng lượn mãi; Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa.
Một sân mưa đọng kiến bò cao. Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Chăn xanh vật cũ khư khư giữ. Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Tóc bạc hùng tâm luống nghẹn ngào. Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Trở bệnh hãy còn lo chạy chữa, Tái bệnh thương tu điều nhiếp lực,
Biết chi thu tứ đến nhà nao ? Bất tri thu tứ đáo thùy gia.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Lục nguyệt bồi
phong bằng tỉ địa: Sách Trang Tử, thiên Tiêu dao du: Loài chim ấy thấy
biển động bèn bay sang biển Nam. Chim Bằng bay qua biển Nam, làm sóng nước
nổi lên ba ngàn dậm, nương gió bay lên chín vạn dậm, bay sáu tháng mới
nghỉ. Bởi vậy khi chim bằng bay lên cao, cưỡi lên lớp gió dưới nó.
·10. Xuân Hương
lại gửi cho Nguyễn Du một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sư.:. Ngọn gió
Tây đêm qua mang lạnh về, dậu cúc dìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi
nặng mặt nước sông mờ mịt, mưa dứt, trơ trọi một đám mây núi như có ai
vẽ đường nét
mi. Sen tàn cuối hạ còn lưu lại một chút hương mùa xuân cũ. Chim hót có
thấu chăng cõi lòng mình,mỗi lời còn đọng mối tình thương nhớ quê.
Trong thơ Nguyễn Du và Hồ
Xuân Hương, gió Tây không chỉ là gió Lào từ hướng Tây, mà là quân Tây
Sơn ra Bắc, do đó ta có thể đọc một cách khác những ẩn ý trong bài thơ
tả cảnh để nói lên tình hình chính trị đương thời. Quân Tây Sơn ra Bắc
làm cho tình hình đìu hiu. Cuộc chiến đang diễn ra trong Nam với quân
Chúa Nguyễn, tình hình vẫn còn mờ mịt. Nay chỉ còn một mình Vua Tây Sơn
nơi đất Bắc, triều đại nhà Lê suy tàn nhưng lòng người cũng còn nhớ đến.
Có ai thấu chăng lòng mình còn nhớ đến quê hương.
Ngày thu tức cảnh Thu nhật tức sự
Đêm qua lành lạnh gió Tây về, Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi. Ly cúc tiêu sơ tuyết vị chi.
Mưa nặng sông chia mờ mặt nước, Mật vũ tà phi phân thủy diện,
Mây trơ núi biếc vẽ đường mi Cô vân miêu chức viễn sơn mi.
Sen tàn cuối hạ làn xuân rớt, Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu rũ hương thừa áo biếc che. Liễu bạng hương du lão thúy y,
Chim hót nỗi mình ai có thấu, Đề điểu mạc phi tri ngã huống.
Lời lời còn đọng mối tình quê. Thanh thanh trường động cố hương tri.
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương. Hương Đình Cổ Nguyệt Thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
·11 Nguyễn Du lại viết một bài thơ
Thu nhật ký hứng, mở đầu bằng chữ Tây Phong đáp lại bài thơ Thu nhật
tức sự của Hồ Xuân Hương.. Gió Tây mới đến, anh vẫn chưa về mà đã thấy
khí trời lạnh lắm. Non sông nước cũ ngắm trông buổi chiều tà. Dù có xa
em thân thế mặc như đám mây trôi nổi. Giật mình sợ cái cảnh già đến, đêm
qua tiếng gió thu ở đâu nổi lên. Cười mình đầu bạc mà còn vụng thu xếp,
đầy sân. Ta đọc lại bài thơ bằng hậu ý, Nguyễn Du tâm sự: Vì Tây Sơn ra
Bắc nên chàng chưa về Thăng Long, không khí chính trị làm cho lòng dạ
tái tê. Nhìn non nước cũ nhà Lê thời vận đã tàn, ở quê mình mà cũng như
quê người, thân phận tha hương vẫn như đám mây trôi nỗi (khóc cười theo
thời thế, im lặng giữ thân) Sợ rằng tuổi ngày một cao mà chưa làm nên
việc gì, Đêm trước có nghe gió thu, từ phương Nam (Lạy trời cho có gió
Nồm, để thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra) mọi người đều hay biết.
.Tự trách mình bạc đầu còn vụng tính, nhìn lá vàng rơi rụng đầu hè.
Ngày thu cảm hứng Thu nhật ký hứng
Gió Tây mới đến khách chưa về, Tây phong tái đáo bất qui nhân,
Khí lạnh mười phần dạ tái tê. Đốc giác hàn uy dĩ thập phần.
Nước cũ non sông trời lặng ngắm, Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Quê người thân thế gửi mây che. Tha hương thân thế thác phù vân.
Cái già chợt sợ nay đà đến, Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Thu đến nơi nơi đêm trước nghe. Hà xứ thu thanh tạc dạ vân,
Tự trách bạc đầu ta vụng tính, Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Lá vàng rơi rụng, rụng đầu hè. Mãn đình hoàng lạc diệp phân phân.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Bạch đầu. Nguyễn Du thường tả mình dầu bạc, có lẽ ông bị bệnh bạc tóc sớm. Thế kỷ 18,19 tuổi thọ trung bình người Việt Nam chỉ trên năm mươi.Đặc biệt làng Tiên Điền có tục ăn lão năm 53 tuổi, trên tuổi này được xếp vào hạng trưởng lão, ăn trên ngồi trước trong làng.. Anh em Nguyễn Du chỉ sống trên dưới 55 tuổi.
Tha hương :Nguyễn Du còn ở Hà Tỉnh, đang nghĩ chuyện tha hương, vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh
·12
Thời gian xa cách thấm thoát đã hai năm. Nguyễn Du vẫn biền biệt nơi
Hồng Lĩnh. Mẹ Xuân Hương thúc ép nàng lấy chồng, Có anh thầy Lang xóm
Tây làng Nghi Tàm, con cụ Lang, cậy người mai mối. Nhân có người về Hà Tỉnh. Hồ Xuân Hương gửi thơ cấp báo:
Vài hàng viết thư gửi chàng mà chạnh lòng nước mắt rơi, tưởng rằng thức suốt năm canh ánh trăng vẫn còn đó, tưởng rằng em (nguyệt)
có thể chờ đợi anh lâu hơn, nhìn lá nhuộm sương mai buổi sớm mà lòng
thẹn (vì đã hẹn với chàng), màu sương khói chỉ làm rộn ràng nỗi buồn,
bước ra ngoài nhà thẩn thơ trước gió, xa xa tiếng địch ai thổi chói tai
(lời anh Lang xóm Tây theo ve vản nàng), muốn hỏi trăng già sao khe khắc
với tình duyên đôi ta, trêu nhau làm chi mà xe mối tơ không trọn vẹn để
đôi ta xa nhau. Phạm Đình Hổ đã chứng kiến, việc mẹ gã Xuân Hương cho
anh thầy Lang, có lẽ cũng là học trò cụ Đồ Diễn, thư sinh ngày xưa không
thi cử làm quan thì cũng hành nghề: Y, Lý, Bốc, Số, anh Lang không thi
cử, trở về tiếp tục nghề nghiệp của cha. Bài Hoài Cổ. (Nhớ xưa) Phạm Đình Hổ viết về Xuân Hương, tôi dịch như sau: Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học cài trâm. Năm nay hoa đào nở. Mẹ gả xóm Tây gần.
Năm nay hoa đào nở, Gió xuân sao lạnh lùng. Em nhìn hoa mà khóc. Sầu
vương nét mi cong. Năm nay hoa đào nở, Cỏ xuân mượt trời mơ. Bên hoa em
cười nụ, Ngâm thành tự đề thơ.Phạm Đình Hổ là người ham học
hỏi, thấy người tài là đến chơi, thấy nhà ai có nhiều sách hay thì đến
đọc, thấy việc gì cũng ghi chép. Trong thơ văn ông, tôi khám phá, ông
chứng kiến mối tình Xuân Hương với Nguyễn Du, với anh Thầy Lang, với Mai
Sơn Phủ, và cho Xuân Hương mượn tiền để mở quán sách Phố Nam thành Thăng Long, cạnh đền Lý Quốc Sư và trường
ông Nghè Phạm Quý Thích, sau khi Xuân Hương dứt tình với Tổng Cóc
Nguyễn Công Hoà. Xuân Hương không tự đề thơ, mà viết bài thơ cuối cùng
cho Nguyễn Du.
Họa nhân..
Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu;
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương. Lưu Hương ký
·13 Nguyễn Du phúc đáp bằng bài thơ Ký Mộng, mơ Xuân Hương, bỏ mẹ, bỏ lớp dạy trẻ , vượt đèo Tam Điệp đầy hổ báo, vượt Sông Lam lắm cá sấu, đường đi thật hiểm trở, vào
Hồng Lĩnh thăm mình. Tỉnh dậy viết bài Ký mộng gửi Xuân Hương, nên năm
1813 khi tình duyên tan vỡ, đò đã qua mấy chuyến, trong bài Cảm Cựu
Khiêm Trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu, mừng chàng làm Chánh Sứ: Xuân
Hương nhắc lại: Giấc mộng rồi ra nửa khắc không . Đáp lại các câu thơ: Mộng đến ngọn đèn sáng, mộng đi gió lạnh lùng, giai nhân nào thấy nữa, lòng ta rối tơ vương.
Bài Ký mộng Nguyễn Du viết: Thời gian như nước chảy suốt ngày đêm, người đi xa mãi chưa về, bao năm rồi không gặp mặt nhau,biết làm sao vơi hết nỗi nhớ thương. Nay trong mộng thấy rõ ràng, nàng đến tìm ta
nơi bến sông (Giang Đình). Vẻ mặt vẫn như xưa, nhưng áo quần nàng không
buồn chăm sóc. Thoạt tiên nàng kể nỗi đau ốm, rồi than thở nỗi chờ mong
những ngày xa cách. Sụt sùi không nói hết lời, phản phất như cách nhau
một bức màn sa. Bình sinh vốn không biết đường. Mộng hồn chẳng rõ thực hay hư. Núi Tam Điệp (Ba Dội) nhiều hổ báo, sông Lam có lắm cá sấu. Đường đi hiểm
trở khó khăn, thân gái biết nhờ cậy ai ? Mộng đến ngọn đèn cô đơn giọi
sáng, Mộng tàn gió thổi lạnh lùng, Mỹ nhân không thấy nữa, Lòng ta rối
như tơ vương, Nhà trống ánh trăng nghiêng soi vào, chiếu xuống tấm áo cô đơn của ta.. Ngày trước ông Đào Duy Anh, trong cuốn Khào luận Truyện Kiều căn cứ vào câu Du tử hành vị quy,
cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống. Các ông Lê Thước, Trương
Chính trong thơ Chữ Hán Nguyễn Du cho rằng nhớ một người bạn cũ, sau đó
lại cho rằng nhớ người vợ trước em Đoàn Nguyễn Tuấn. Riêng tôi, Nguyễn
Du không gọi là hiền thê, vợ hay bạn hay vua mà gọi là mỹ nhân, Mỹ nhân
đó chính là Xuân Hương Hồ Phi Mai., lúc đó Nguyễn Du còn cô đơn chưa vợ.
Ba mươi tuổi Nguyễn Du mới về Quỳnh Hài cưới vợ, lúc ở Hồng Lĩnh chỉ ở
một mình bếp lạnh hoang vắng.
Ghi lại giấc mộng Ký mộng
Dòng nước ngày đêm chảy, Thệ thủy nhật dạ lưu,
Người biệt chốn cố hương. Du tử hành vị qui.
Bao năm không gặp mặt, Kinh niên bất tương kiến,
Làm sao hết nhớ thương. Hà dĩ úy tương ti (tư).
Trong mộng rành rành thấy, Mộng trung phân minh kiến,
Tìm ta nơi bến sông, Tầm ngã giang chi mi.
Dung nhan vẫn như trước, Nhan sắc thị trù tích,
Y trang buồn biếng chăm. Y sức đa sâm si.
Trước kể nỗi đau ốm, Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Rồi than những ngày xa. Kế ngôn cửu biệt ly.
Nghẹn ngào không nói hết, Đái khấp bất chung ngữ,
Dường cách bức màn sa. Phảng phất như cách duy.
Bình sinh không thuộc lối, Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn biết thật chăng ? Mộng hồn hoàn thị phi ?
Núi Điệp đầy hổ báo, Điệp sơn đa hổ trĩ,
Sông Lam lắm thuồng luồng, Lam thủy đa giao ly,
Đường đi thật hiểm trở, Đạo lộ hiểm thả ác,
Phận gái nhờ ai không ? Nhược chất tương hà y ?
Mộng đến đèn côi sáng, Mộng lai cô đăng thanh
Mộng tan gió lạnh lùng, Mộng khứ hàn phong xuy,
Người đẹp nào thấy nữa, Mỹ nhân bất tương kiến,
Lòng ta rối tơ vương. Nhu tình loạn như ti.
Nhà trống vầng trăng xế, Không lâu ốc tà nguyệt,
Soi manh áo cô đơn, Chiếu ngã đan thường y.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch.
Chú thích:
Cách
duy: cách bức màn. Hoàng hậu vua Hán Vũ Đế là Lý phu nhân, sắc đẹp, múa
giỏi, chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ nói có thể
chiêu hồn Lý phu nhân về, vua bằng lòng. Ban đêm, người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi tron màn, nhìn sang một bức màn khác, thấy bóng một người giống Lý phu nhân.
Nhược chất: tư chất phụ nữ yếu đuối.
Nhu tình: mối tình vương vấn thắm thiết.
·14 Sau khi gửi bài thơ
này cho Hồ Xuân Hương năm 1795.Hồ Xuân Hương hiểu mối tình mình chỉ là
giấc mộng. Nguyễn Du thôi làm Hồng Sơn Liệp Hộ mà làm Nam Hải Điếu Đồ, đi câu cá biển Nam Hải. Tâm sự Nguyễn Du lúc này trong bài Tạp thi I viết: Bạc
đầu tráng sĩ ngửng trời than, Dựng nghiệp mưu sinh thảy lỡ làng, Thu
Cúc, Xuân Lan thành mộng ảo. Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh..
Nguyễn Du cho rằng chuyện tình của mình với cô Cúc làng Trường Lưu hay
với Xuân Hương làng Nghi Tàm đều đã thành mộng ảo.Về Hồng Lĩnh, Nguyễn
Du tâm sự với người bạn cũ Thực Đình (bút hiệu có nghĩa là người ăn ở
đình làng) Họp bạn khó tìm người mắt biếc. Sau vụ khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, người sống sót chẳng ai dám tỏ một thái độ gì. Do đó Nguyễn Du không thể ở lại, dạy học, cũng không thể tìm ra thủ hạ, do đó, tôi bác bỏ đoạn gia phả Nguyễn Tiên Điền chép: Nguyễn Du từ Hà Tỉnh dẫn thủ hạ mang quân lương ra tiếp rước Vua Gia Long. Và được đưa ra Bắc phong tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Trên bước đường tìm mánh mung vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, có lẽ Nguyễn Du đã rơi vào bẩy của công an biên phòng của Hiệp Trấn Hà Tĩnh Nguyễn Văn Thận, nên thay vì vào Khánh Hoà, Nguyễn Du bị chở thẳng vào tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn thân với Nguyễn Nể, và tài
thơ văn Nguyễn Du nên chỉ cho học tập cải tạo sơ sơ mười tuần (ba
tháng) trong . Bài Cảm Hứng trong tù Nguyễn Du cho rằng nổi lòng mình
không ai biết: Tâm sự chút lòng, ai biết tỏ, Như sông Quế sâu dưới non Hồng. Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, vua Gia Long tiến đánh, Thận thua trận chạy ra Thanh Hóa và bị giết ở đó.
Tin tức Nguyễn Du bị tù đã ra tới Thăng Long. Hồ Phi Mai lên đường về nhà chồng anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.
Nguyễn Du sau khi ra tù , ban đêm Nguyễn Du đã đi bộ trốn ra Thăng Long bài Dạ hành: Trăng xế biển Nam ngàn dậm chiếu, Đường xa gió lộng một người trông. Đêm đen mờ mịt bao giờ sáng, Đầu bạc mà còn vụng dấu thân. Trên đường đi Nguyễn Du phải đi ăn xin: Bài Khuất Thực, Nguyễn Du viết: Chống gươm ngạo nghễ thét trời xanh, Ba chục năm trong bùn hôi tanh, Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống, nào ngờ đói rách người thương tâm.
Đến Thăng Long Nguyễn Du đến một quán khách quen biết bên bờ Hồ Tây, chủ quán cho hay Xuân Hương Hồ Phi Mai đã đi lấy
chồng, anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Chủ quán mời một bình trà,
Nguyễn Du uống bao nhiêu lần, không tiền nên chỉ xin nước sôi uống trà
lạt, ngồi viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên. Bài thơ oán trách Hồ Xuân
Hương thậm tệ, nhưng nàng vẫn trân trọng lưu trong tập thơ Lưu Hương
ký. Đã giao du với nhau mấy năm tròn, thề thốt tình thâm giao xe, nón
mãi mãi còn.. Xe nón do chữ Xạ lạp theo sách Phong thổ ký, phong tục
nước Việt thuần phác. Trong buổi sơ giao, hai bên làm lễ kết nghĩa
thường có lời thề: Anh cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái
chào tôi., anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau tôi sẽ xuống ngựa chào
anh.. Thơ Khổng Bình Trọng: Việc đời biến đổi khôn lường, chớ vì cởi xe mà khinh kẻ đội nón.
Vì thế tình thân là xạ lạp chi giao, mối giao tình xe nón.. Không biết
tại lòng nàng tham giàu sang mà thay dạ đổi lòng, lòng đen tựa mực đi lấy chồng thầy thuốc, còn tôi học tập cải tạo mới ra, tình tôi vẫn thắm như son, một lòng yêu nàng. Tai tôi chưa quên lời vàng
ngọc của nàng, nàng có mắt hãy xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non.
Chớ trách chúa xuân, vì sợ chờ đợi tôi mà mỏi mệt sợ lỡ thì. Tình nàng
sớm mận tối đào như thế có xứng đáng dòng dõi con nhà quyền quí chăng. ?
Còn có bài thơ trách móc nào đau đớn hơn.
Chí Hiên tặng I
Chữ giao nguyền với mấy năm tròn,
Xe nón tình kia mãi mãi còn.
Chẳng biết dạ người đen tựa mực,
Sao hay lòng khách thắm như son.
Còn tai chữa lãng lời vàng ngọc,
Có mắt mà xem mặt nước non.
Chớ trách chúa Xuân lòng mỏi mệt;
Mận đào được thế tiếng công môn.
Thơ chữ Nôm Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương lưu trong Lưu Hương ký.
·15.
Bài Chí Hiên tặng II. Nguyễn Du không trách móc nữa mà bày tỏ lòng
mình. Rủi may nào xá gì, nghĩ rằng cùng tắc thông, thông tắc biến, biến
tắc hóa theo Kinh Dịch.. Ra Bắc phen này (1796) mong làm nổi việc, Nghĩ
lại việc vào Nam (1794) cũng hoài công, Hà Tỉnh chẳng ai theo, chẳng thể lập cứ địa chống Tây Sơn, cũng chẳng thể vượt biển vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh.. Bạn thơ
cũ nay đâu, ngồi uống trà một mình, uống bao nhiêu bình nước rồi ấm trà
đã nhạt. Quán trọ đêm qua năm canh không ngủ được vì manh áo quá mong
manh, trời đã vào lập đông.. Trông ra sông hồ mù mịt sương khói từ biển thổi vào.Người xưa Cổ Nguyệt đường lòng như tấm gương trong nào thấy đâu?
Chí Hiên tặng II.
Rủi may nào sá nghĩ cùng thông,
Chưa dễ tri âm tỏ nỗi lòng.
Ra Bắc phen này mong nổi việc.
Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công.
Bạn tao năm hết mâm trà lạt.
Quán khách canh chảy mảnh áo mong.
Gớm nhẽ trông ra mù khói bể
Nguyệt đường bao nã thấy gương trong
Nguyễn Du tìm đến nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, bên bờ sông Nhị, Đoàn đang làm quan Tây Sơn, nhà cao cửa rộng: Trên bờ sông Nhị nhà chen gần, Đã chiếm cả thành hết cảnh xuân, Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng. Chẳng kém gì các biệt thự các vị quan ngày nay. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái út, và giao
cho gia trang tại Quỳnh Hải năm 1797. Từ đây Mùa Xuân Quỳnh Hải, sau
khi góc biển chân trời ba chục tuổi, Nguyễn Du mới biết đến hạnh phúc: Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên, Một trời xuân hứng nhà ai lạc. Muôn dậm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần. Ở đây Nguyễn Du chấm dứt cuộc đời Mười năm gió bụi có vợ con, dạy học, dạy văn và võ,
hoàn tất Truyện Kiều. Năm năm Quỳnh Hải (1797-1802) Nguyễn Du đã giàu
có, nên khi Vua Gia Long kéo quân ra đất Bắc đánh bắt vua Tây Sơn, Cảnh
Thịnh. Nguyễn Du từ Quỳnh Hải dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh
Quỳnh Hải, đem theo lương thực, ngựa ,bò, heo dâng sớ đón rước nhà vua.
Đến Phù Dung trấn Sơn Nam thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay cho làm
tri huyện Phù Dung. Sự kiện này tương tự như Phi Tử thời Chiến Quốc,
người đất Phù Ngưu dâng ngựa lên Vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ
Dung nước phụ chư hầu. Từ đó Nguyễn Du có tên Phi Tử, Nguyễn Hành trong
Minh Quyên thi tập bài Đi săn có nhắc đến bút hiệu này.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa