Đoàn Văn Thông
Bí Ẩn Về Tiền Kiếp, Hậu Kiếp
Lời mở đầu
Khi nói đến Nhân và Quả tức là bao hàm ý nghĩa rộng lớn của Luân hồi. Luân hồi
là sự chuyển biến xoay vần trở lại. Con người chết đi không phải là
hoàn toàn mất hẳn. Thân xác sẽ tan rã theo cát bụi nhưng còn một phần vô
cùng linh hoạt và vẫn hiện hữu đó là linh hồn. Mọi sự, vật trong vũ trụ, thiên nhiên đều chịu sự tác động của luân hồi, nhân quả.
Như
nước chẳng hạn, trong thiên nhiên, nuớc bốc thành hơi, hơi nước đọng
lại thành mây rơi xuống thành mưa, mưa chảy tràn ra đất, qua sông suối, hồ và chảy ra biển. Rồi hơi nước lại bốc lên cao gặp lạnh ngưng tụ thành mây rồi thành mưa, cứ thế mà Nước luân hồi chuyển tiếp mãi chẳng bao giờ mất cả.
Tương tự như thế: đất gió, lửa cây cối, thú vật, con người, tất cả đều chuyển biến theo luật Luân hồi nhân quả. Trong vũ trụ cũng vậy, sự xuất hiện tuần tự của ngày và đêm,
sự hình thành và hủy diệt để rồi phát sinh mặt trời khác. Trong vũ trụ
có vô số mặt trời, chúng cũng đều phát sinh, phát triển và hủy diệt. Quả
đất chúng ta đang ở cũng cùng số phận ấy để rồi quả đất khác lại được
sinh ra. Cả vũ trụ đều chịu chung quy luật ấy. Những gì đã có sinh thì
phải có tử nhưng rõ ràng qua nhận thức của ngũ quan con người thì khi đã
tử tức là không còn gì nữa. Nhưng thực tế lúc tử lại là lúc khởi đầu
của sinh. Chỉ có cái gì không sinh ra mới gọi là không bị hủy diệt mà
thôi. Vì thế mới có câu Hữu sinh, hữu tử, hữu luân hồi.
Vô sinh, vô tử, vô luân hồi.
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ
trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung
của tự nhiên. Nhân quả luôn luôn có sự tương quan mật thiết với nhau và
ngay trong nhân đã có quả và ngay trong quả đã có nhân. Vì thế từ nhân
đến quả và từ quả đến nhân phải có sự chuyển hóa ấy liên quan với nhau
rất chặt chẽ, chính sự tương quan chuyển hóa liên tục ấy mà sự tuần hoàn
của trời đất, vũ trũ được điều hòa bằng không sẽ tạo sự bất hợp, rối
loạn.
Hiện tượng nhân quả thường phải qua
một thời gian chuyển hóa và thời gian ấy dài, ngắn còn tùy ở sự kiện,
sự vật, sự tác động. v.v...
Vi trùng đột
nhập cơ thể phải qua một thời gian mới tàn hại được cơ thể, sự chuyển
hóa của bào thai trong bụng người mẹ phải qua một thời gian, sự chuyển
hóa từ tuổi trẻ đến tuổi già cũng phải trải qua một thời gian.v.v... Đôi
khi từ nhân đến quả có thể xảy ra rất nhanh hay rất chậm chạp như sự
tác động của hai luồng điện âm dương phát sinh dòng điện, sức nóng hay
xẹt ra lửa hoặc phát ra ánh sáng.v.v... hoặc hiện tượng tạo sơn, nổi
núi, hiện tượng xâm thực trong thiên nhên...
Hiện tượng nhân quả thấy rõ trong thiên nhiên:
- Hiện tượng địa chất:
Đây là những hiện tượng xuất hiện chậm chạp như hiện tượng đất bồi,
hiện tượng xâm thực, xói mòn của gió, của nước lên đất đai, núi đồi. Có
khi phải mấy triệu năm mới chuyển biến thấy rõ kết quả từ nhân đến quả
như tạo sơn (nổi núi). Sự sồi, sụt của đáy biển, biển rút khỏi lục địa
hay biển chiếm lục địa. Đọc các giai đoạn phát sinh sự sống và sự hình
thành quả đất chúng ta mới thấy nhân và quả liên quan tác động lên nhau
qua một thời gian rất dài có khi hàng triệu hay hàng tỷ năm.
Ngoài ra còn có những hiên tược xuất hiện nhanh chóng như gió mạnh gây
ra sóng lớn, bão tố, Nguyên nhân (Nhân) tạo ra gió (Quả) là sự chuyển
dịch mau lẹ mạnh mẽ của không khí. Gió phát sinh là do không khí ở vùng
nào đó bị loãng khiến không khí của vùng kế cận chuyển đến để bù đắp
và sự chuyển động lớn của không khí như vậy đã phát sinh ra gió bão...
Sất sét phát sinh là do hai luồng điện âm dương từ các đám mây đến gần
nhau. Lụt lội phát sinh do mưa nhiều, nước không thoát kịp dâng cao.
v.v... Mưa là do hơi nước bốc lên gặp lạnh tạo thành mây rồi thành mưa.
v.v...
- Hiện tượng sinh vật học.
Các sinh vật từ vi trùng, vi khuẩn, bào tử, nấm mốc vớ`i kích thước vô
cùng nhỏ bé đến các loài sâu, kiến, chim chóc, trâu bò, voi ngựa và loài
người cũng đều chịu luật Nhân quả chi phối. Nhân và quả ấy luôn luôn
tuân theo một quy luật chặt chẽ đó là nhân nào quả ấy. Từ sinh vật li ti
cho đến loài to lớn, loài nào sinh loài đó như voi kết hợp (Nhân) với
voi sẽ sinh ra voi con (Quả). Voi con qua một thời gian sẽ lớn lên, khi
trưởng thành lại kết hợp với một voi khác (cùng loài) để lại sinh ra
voi.
Ở thực vật cũng vậy từ những loài
rất nhỏ phải nhìn qua kính hiển vi đến những loài to lớn như Thông,
Tùng, Bác, Đại Thọ. v.v... cũng đều trải qua các giai đoạn chuyển hóa
của Nhân và quả. Hạt bí (Nhân) gieo xuống đất sẽ nẩy mầm, phát triển
thành cây Bí (Quả), cây lúa cây táo, cây cà chua cũng vậy loài nào sinh
ra loài đó. Khi cây lớn lên lại sinh hoa kết quả tiếp tục.
Ở đây còn thấy rõ thời gian, giai đoạn chuyển biến từ nhân đến quả có
khi rất lâu dài tạo thành một vòng chuyển biến mà các nhà sinh vật học
gọi là chu trình và trong mỗi chu trình hóa, thoạt nhìn qua tưởng chừng
như phức tạp riêng rẽ khác nhau nhưng thực sự cái chung nhất đều nằm
trong cái thành, trụ, hoại, không, sinh, lão, bệnh tử để rồi chuyển vòng
trở lại theo luật luân hồi, tái sinh.
Schoperhauer đã viết: "Cái tượng trưng đích thực của thiên nhiên ở muôn
nơi và muôn thuở vẫn là cái vòng tròn bất diệt. Cái vòng tròn đó là
biểu thức của sự xoay vần, trở lại có định kỳ. Đó là hình thức phổ biến
nhất trong thiên nhiên, một hình thức phổ quát mà thiên nhên thể hiện ở
mọi sự vật, từ sự chuyển vận của các thiên thể, các hành tinh trong vũ
trụ, cho đến sự sống chết của các sinh vật. Chính nhờ sự trở lại nầy mà
duy trì được đời sống trường tồn."
...
Người và vật có chết đi thì đó cũng chỉ là hiện tượng bề ngoài vì bản
thể đích thực của chúng vẫn tồn tại suốt thời gian ấy.
Đối với người Đông phương, thuyết Luân hồi xuất hiện từ lâu, và trong dân gian luật quả báo luân hồi được xem như là điều
tự nhiên. "Làm ác gặp ác", "Ở hiền gặp lành", "Để đức lại cho con".
v.v... là những câu bình thường trong ý tưởng và trên cửa miệng mọi
người nhất là những người bình dân, dù họ không phải là người theo Phật
giáo. Trái lại, đối với người Tây phương, thuyết Luân hồi
vẫn còn nhiều xa lạ với họ cách đây mấy thế kỷ. Chỉ gần đây, khi những
nhà Tâm lý học. Sinh lý học, các nhà khoa học họ bắt đầu đi sâu vào vấn
đề nghiên cứu các hiện tượng tái sinh kỳ lạ mà thỉnh thoảng xuất hiện
trong cuộc sống thì vấn đề mới được khơi dậy và từ đó sự tìm hiểu bắt
đầu phát triển mạnh mẽ hơn và dĩ nhiên dù muốn dù không, các nhà khoa
học cũng phải tiến sâu vào lãnh vực nghiên cứu thuyết luân hồi,
tái sinh, nghiệp quả... của đạo Phật. Đã từ lâu đối với người Tây
phương, hiện tượng tái sinh quả thật là một hiện tượng lạ lùng nếu không
muốn nói là kỳ quái và đôi khi được gán cho là chuyện huyền hoặc đầy vẻ mơ hồ mê tín. Đối với tín đồ Ky Tô giáo thì hiện tượng tái sinh lại càng khó được chấp nhận và được coi như là "một trong những loại tín ngưỡng ngoại đạo."
Tuy nhiên, mặc cho sự bài bác, chống đối, chỉ trích hiện tượng liên quan đến sự luân hồi, tái sinh vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi và đối với con người, tái sinh vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi và đối
với con người, không hiếm những trường hợp tái sinh đã xuất hiện ở các
quốc gia: Không riêng ở Ấn Độ mà Việt Nam, Trung Hoa, Thổ Nhĩ Kỳ, Tích
Lan, Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, A Phú Hãn, An, Pháp, Hoa Kỳ, Đức, Ý,
Đan Mạch, Hòa Lan, Liban và ở cả những dân tộc khác như người da đỏ ở
Bắc Mỹ châu chẳng hạn. Các hiện tượng xuất hiện ngày càng nhiều là những
bằng chứng rõ ràng về sự kiện tái sinh, tiền kiếp và cũng chính những
bằng chứng nầy đã khiến có sự xích lại gần nhau hơn của các triết gia,
các học giả, các nhà khoa học mà phần lớn người Tây phương trong vấn đề
hợp tác, tìm hiểu, nghiên cứu hiện tượng các hiện tượng liên quan đến
tái sinh, luân hồi.
Chưa bao giờ các nước Tân Phương lại xuất hiện vô số nhà nghiên cứu, đi sâu vào vấn đề tái sinh, luân hồi
như hiện nay, cũng như chưa bao giờ đề tài thuộc lãnh vực nầy lại được
thảo luận với tính cánh nghiêm túc qua các cuộc hội thảo, diễn thuyết,
thuyết trình hoặc qua báo chí, sách vở nhiều như bây giờ. Điều đáng nói
là những người hăng hái, say mê nhất và đi sâu vào lãnh vực luân hồi
tái sinh lại là những Bác sĩ y khoa mà nổi tiếng phải kể đến Bác sĩ Ian
Stevenson (Đại học Virginia), Bác sĩ Bruce Greyson, nữ Bác sĩ Elizabeth
Kubler Ross, nữ Bác sĩ Edith Fiore, Bác sĩ R.J.Staver. Bác sĩ R.B.Hout,
Bác sĩ Ahdrey Butt, Bác sĩ Raymon Moody, Bác sĩ C.G.Jung. Bác sĩ
Schultz, Bác sĩ Wiltse. Bác sĩ A.J.Davis v.v... Nếu kể về các Y Bác sĩ
đã tham gia vào việc nghiên cứu hiện tượng tái sinh, luân hồi
thì danh sách nêu ra sẽ rất nhiều và bên cạnh đó còn có thêm các nhà
khoa học khác tiếp tay như Tiến Sĩ Carl Jung, một Khoa học gia nổi tiếng
trên thế giới. Tiến sĩ Rhine, nhà Khoa học đã mạnh dạn tiên phong trong
vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu linh, người đã phát triển ngành Siêu
tâm lý (Metapsychique hay Parapsychologie). Tiến sĩ Micheal Sabom (người
mà trước đó đã bác bỏ hiện tượng tái sinh, cho đó là điêu
huyền hoặc) là một nhà khoa học bảo thủ nhất nhưng lại là người đã ủng
hộ thuyết tái sinh. Đó là chưa kể các Giáo sư tại các Đại học Hoa Kỳ,
Anh, Đức, Pháp, Hà Lan. Trong đó có các giáo sư như Carol Zaleski,
Daniel Dennette, Ernst Benz. Giáo sư Tiến sĩ Werner Borin, nữ giáo sư
Diane Kemp, giáo sư Crado, Balducci. Giáo sư Tiến sĩ Kenneth Ring v.v..
Ngoài ra còn vô số các nhà phân tâm học, Tâm lý học và đặc
biệt là những nhà nghiên cứu về thôi miên, trong có Tiến sĩ vật lý nổi
tiếng người Pháp là Patrick Drouot đã áp dụng phương pháp thôi miên để
đưa con người đi về quá khứ xa xăm của mình. Cái quá khứ vượt khỏi đời
người hay gọi là Tiền kiếp. Nữ Bác sĩ Edith Fiore cũng là người đã dùng
thôi miên để giúp bệnh nhân thấy lại tiền kiếp của mình. Cuốn sách quy
tụ các công trình của bà là cuốn "Bạn đã sống nơi nầy trước đây" (kiếp
trước) (You have been here before) đã làm bà nổi tiếng và đã
thôi thúc thêm các nhà khoa học mạnh dạn hơn trong việc tiến sâu vào
nghiên cứu vấn đề tái sinh. Đặc biệt hơn nữa là Nữ tiến sĩ Helen Wambach
với tác phẩm biên soạn công phu có giá trị viết về vấn đề kiếp trước
(life before life) trong đó ghi lại hàng trăm trường hợp lạ lùng có thật
về hiện tượng Tái sinh, luân hồi
đã xãy ra. Những sự kiện nầy đã khám phá được nhờ phương pháp thôi miên
để đưa con người vào giấc ngủ gọi là giấc ngủ thôi miên và qua giấc ngủ
ấy, họ đã thấy lại những gì về đời sống ở kiếp trước của họ. Như thế
nhờ thuật thôi miên hổ trợ mà tiền kiếp của mỗi con người được hiện ra
giống như một cuốn phim chiếu lại. Hiện nay các công trình nầy đã và đang
phát triển mạnh trên khắp thế giới. Nhiều sách vở, tài liệu đề cập đến
vấn đề nầy được rất nhiều nhà nghiên cứu biên soạn như Col Albert de
Rochas, Bác sĩ Alexander cannon, Bác sĩ Jonhathan Rodney, Henry Blythe,
Bác sĩ Stevenson, Arnoll Bloxom, Morey Berenstein, Johnathan Rodney
v.v...
Trong
cuốn Many Mansions của Gina Cerninira, cuốn The next world and the Next
hay cuốn Out of the body experiences của Robert Crookall, cuốn Born
Again, Again (Tái sinh) của John Van Auken, cuốn Reincarnation (Sự luân hồi,
Tái sinh) của Lynn Sparrow và Violet Shelley hay trong In search of the
Dead (Nghiên cứu về cái chết) của Jeffrey Iverson... đều nêu lên trường
hợp có thật về sự tái sinh. Các tài liệu giá trị và trung thực nầy đã
được xem là những bằng chứng rõ ràng chứng minh sự luân hồi
tái sinh là có thật. Những cuốn sách điển hình vừa nêu trên chỉ là một
phần, nhỏ trong hàng ngàn cuốn sách trình bày lý giải về những gì thuộc
tiền kiếp con người. Sách được biên soạn bởi các tác giả có uy tín, phần
lớn là những nhà Khoa học, các nhà Sinh lý học, Tâm lý học, các nhân
vật nổi tiếng trong giới y khoa, điều đó nói lên được phần nào sự thật
đáng lưu tâm của vấn đề từ lâu bị ngộ nhận là mê tín và mơ hồ.
Tuy nhiên không phải tất cả giới khoa học đều chấp nhận hay lưu tâm đến
vấn đề tái sinh, về những gì gọi là tiền kiếp và hậu kiếp. Hiện nay vẫn
còn nhiều và rất nhiều nhà khoa học (và ngay cả một số không ít những
con người bình thường có nghĩa không phải họ là những nhà khoa học)
không thừa nhận có sự tái sinh hoặc nếu có quan tâm thì cũng ở trạng
thái hoài nghi mà thôi. Điều dễ hiểu chính là nguyên nhân tự nhiên rằng
với tinh thần khoa học, khó mà không cho phép con người có thái độ hay
nhận thức bất hợp với hiện tượng luân hồi
không nằm trong phạm vi của lý trí con người cũng như không thể chứng
minh trong phòng thí nghiệm. Thật vậy, cho đến nay, mặc dầu sự kiện vẫn
xảy ra đều đều ở khắp nơi trên thế giới về điều mà rõ ràng sự tái sinh
đã được thể hiện. Nhưng cái khó là ở sự nhận thức. Vì làm thế nào để
thấy được sự tái sinh và chứng minh một cách rõ ràng. Từ lâu các nhà
Khoa học cho rằng con người nếu có được sự tái sinh thể hiện qua các
trường hợp được coi là biểu hiện cho sự luân hồi
thì sự thấy hay sự nhận thức ngoại giác quan cả. Mà quả thật con người
chỉ có được khả năng nhận thức theo ngũ quan hiện có của mình mà thôi.
Vì thế đối với một số lớn nhà Khoa học cũng như những người không tin
vào hiện tượng tái sinh thì nhựng gì mà từ lâu con người cho rằng thuộc
về hiện tượng luân hồi,
tiền kiếp đều là những hiện tượng do tưởng tượng, do sự thêu dệt, trùng
ngẫu hoặc đôi khi tạo dựng vì mục đích nào đó chớ không có thực.
Trong khi đó, những người đã và đang nghiên cứu, tìm hiểu hiện tượng luân hồi,
tái sinh cũng cho rằng: Sự nhận thức của con người về hiện tượng tái
sinh quả thật có nhiều trở ngại. Lý do là con người chỉ nhận thức sự
kiện qua năm giác quan giới hạn của mình chớ không thể vượt ra khỏi năm
giác quan ấy.
Theo Pierre Lecomte
de Noiiy, nhà Bác học nổi tiếng thế giới thì "Ngay cả những hình ảnh mà
ta thấy, ta biết hay tự tạo về vũ trụ thì đôi khi cái vũ trụ ấy chỉ là
cái vũ trụ tự tạo của ta qua bộ não của con người. Những hình ảnh có
được sẽ bị lệnh lạc đi gấp đôi do hệ thống giác quan của con người tác
động vào. Từ đó sự hiểu biết trở nên chủ quan vì tùy thuộc vào giác quan
và bộ não. Như thế thì những gì mà khoa học giải đáp cho con người hiểu
rõ thường tùy vào cơ cấu của giác quan và bộ não nên bị cái giới hạn
tuyệt đối là dựa vào nhiều định luật thống kê mà không lưu tâm tới những
hiện tượng cơ bản cá tính. Điều đó đã cản trở con người phần nào trong
việc tiến sâu vào việc khám phá thêm những gì thuộc về sự tiến hóa và
trật tự của vũ trụ...
Nếu con người
chỉ dựa vào năm giác quan mình để nhận thức sự vật, hiện tượng thì con
người chỉ nhận được những chân lý tương đối mà thôi. Phương pháp của
Khoa học chính là phương pháp thực nghiệm vì dựa vào sự quan sát những
hiện tượng cũng như phân tách, diễn dịch. Tuy nhiên khi gặp những hiện
tượng có tính cách siêu hình khó giải thích vì phương pháp thực nghiệm
không áp dụng được ở lãnh vực nầy thì siêu hình được xem như thoát ra
ngoài thực tại và giác quan giới hạn của con người không đủ khả năng để
quan sát, nhận thức. Các nhà khoa học thường có cái tự hào về những gì
gọi là Khoa học thực nghiệm. Họ chỉ tin vào những gì mà họ thấy và biết
qua các giác quan của mình, giác quan của con người. Vì thế mà không lạ
gì khi một bác sĩ giải phẫu nổi tiếng lại gật gù khoái trá tuyên bố
rằng: "Tôi chưa bao giờ thấy được linh hồn
ở mũi dao mổ của tôi cả". Theo Pierre Lecompte de Noiiy thì "làm sao mà
khi mổ xẻ một đĩa hát, ta lại có thể bắt gặp tiếng hát của Caruso ở đấy
được?"
Con người lỗi lạc
Ch.Eug.Guye đã có lần phát biểu như sau: "Con người chỉ có thể thấu hiểu
rõ ràng ý nghĩa của hiện tượng vật lý, hóa ngày nào ta biết được mối
liên hệ kết hợp nó với hiện tượng Tâm lý và Tâm linh có thể đi đôi với
nó ở cơ thể sinh vật" (Nguyễn Hữu Trọng dịch từ Entre savoir et croire
của Pierre Lecompte de Noiiy).
Bao
lâu con người còn khăng khăng cho rằng sự giải quyết mọi vấn đề phải
chứng minh bằng khoa học thực nghiệm thì trong tự nhiên vẫn còn vô số
hiện tượng mà các nhà khoa học sẽ không thể chứng minh được và khi đó
những hiện tượng ấy lại vẫn còn bị cho là vô lý, huyền hoặc, mơ hồ hoặc
có tính cách tôn giáo, trừu tượng. Từ những nguyên nhân xa, gần trên mà
ta thấy rõ được rằng: Ta không thể tìm cách để đưa vấn đề có tính cách
"Huyền bí" như vấn đề Tiền kiếp, Hậu kiếp, vấn đề Tái sinh Luân hồi
đi vào khoa học được, vì cho đến nay, thật sự vấn đề nầy trước nhất
chưa phải là vấn đề mà khoa học chấp nhận dễ dàng vì có những vấn đề cần
được chứng minh nhưng phương pháp khoa học thực nghiệm lại không thể
tiến hành trên các hiện tựơng về tái sinh cũng như sự kiện nầy không thể
đưa vào phòng thí nghiệm, và cũng không thể hiện rõ qua các giác quan
có tầm mức giới hạn của con người. Hơn nữa trên thế giới, không thiếu
những con người đưa khoa học lên hàng Tôn giáo. Cái gì cũng đều phải là
khoa học mới đúng, mới có thật. Ngày xưa hiện tượng thần giao cách cảm
hay thôi miên đều bị xem như những trò mê tín dị đoan. Ngày nay các nhà
Khoa học đã chấp nhận Phân tâm học là một khoa học. Ngày xưa khi nói ảnh
hưởng tinh tú lên con người hay toàn bộ sinh vật là điều huyền hoặc, vô lý mơ hồ thì
ngày nay chính xác các nhà khoa học nhất là các nhà Khoa học Nga lại đề
cao và gọi nó là Thời học sinh, là Nhịp điệu học sinh. Điều cần nhớ là
như nhà khoa học nổi danh Fritjov Carpra đã phát biểu, rằng những hiện
tượng mà ta nghe được, thấy được, thường chỉ là những hậu quả chứ không
bao giờ là bản thân của những hiện tượng mà ta đang cố công tìm kiếm.
Ngày nay con người tự hào đã tìm ra và đi
sâu vào thế giới nguyên tử, siêu nguyên tử nhưng thật sự con người chưa
hoàn toàn thấy, biết rõ rằng bản thân thế giới nhỏ bé nầy vì chúng làm
ngoài sự nhận thức của ngũ quan giới hạn của con người. Nhưng dù cho con
người có tận dụng đến những máy móc tinh xảo để quan sát sâu xa hơn thì
cái tận cùng sâu thẳm và nguyên nhân sau cùng làm phát sinh chúng cũng
khó mà biết rõ hết được. Thật ra, khi đi sâu vào thế giới bên trong của
hạt nguyên tử và tìm hiểu cấu trúc của chúng tức là khoa học đã từng
bước qua lằn ranh giới của cảm quan con người và lúc đó nếu khoa học vẫn
bảo thủ cái khoa học theo ý nghĩ hoàn toàn của mình thì khó lòng để
tiến sâu hơn nữa vào tận cùng của sự khám phá... Nhưng dù sao, đối với
các nhà khoa học, ngay từ thế kỷ 20, cái thế thế giới quan của họ đã bị
rung chuyển vì những khám phá về nguyên tử đã khiến có sự đổi thay lớn
về những khái niệm không gian, thời gian, vật chất và cả hiện tượng nhân
quả. Và cũng từ đó các nhà khoa học mà phần lớn đều đã có cái nhìn hoàn
toàn khác về thế giới, vũ trụ, con người... Ngày xưa, qua vật lý học cổ
điển, thói quen suy nghĩ trong đầu óc con người, ngay cã những nhà khoa
học lỗi lại lúc đó cũng cho rằng không gian rỗng không và vật thể là
lại rắn chắc di chuyển trong không gian trống ấy. Ngày nay ý niệm không
gian và vật chất kiểu đó đã dần dần bị lỗi thời và mất ý nghĩa. Đối với
nguyên tử ngày xưa được xem như là một vật vô cùng nhỏ và cứng chắc, về
sau nhờ Rutherford mà phát giác ra rằng nguyên tử là vùng không gian
rộng lớn hay một thế giới mà trong đó có hiện diện những hạt rất nhỏ gọi
là điện
tử xoay quanh một hạt nhân. Ngày xưa nói đến vi trùng gây bệnh không ai
tưởng tượng ra nổi vi trùng là gì. Đã có biết bao nhà khoa học ngày xưa
cho rằng thịt sinh ra giòi, bùn sinh ra giun, sưong mù sinh ra bướm và
họ lập ra thuyết Tự nhiên sinh. Rồi khi kính hiển vi ra đời, lúc đó mới
thấy rõ vi trùng là có thật và thuyết tự nhiên sinh là cả một sai lầm
lớn lao... Do đó những gì chưa nắm vững được, chưa rõ được, những gì
chưa chứng minh ngay được thì tốt nhất là cần bình tâm tìm hiểu, chưa
nên vội vàng quả quyết sai hay đúng vì một ngày nào đó sự thật sẽ là sự
thật vì tìm chân lý và nói đến chân lý là vấn đề không phải dễ dàng nhất
là khi con người (dù tài năng đến mấy thì vẫn phải chịu một giới hạn
nào đó trong vấn đề tìm hiểu vũ trụ tự nhiên) muốn đi sâu vào thiên
nhiên, vật chất để quyết khám phá tìm hiểu đến tận cùng của sự vật và
hiện tượng thì con người vẫn còn khó mà thấy được những "viên gạch cơ
bản" (buiding blocks) (theo như nhà khoa học Fritjov Carpa đã nói) riêng
biệt mà chỉ thấy phức tạp rắc rối như một mạng lưới liên kết các phần
của một cái toàn thể.
Hiện tượng tái sinh, luân hồi
cũng vậy, đó là một hiện tượng vượt ra ngoài phạm vi của Lý trí và sự
Hiểu biết của con người. Mặc dầu trên thế giới đã xảy ra vô số trường
hợp nói lên sự thật về hiện tượng nầy nhưng không ai dám chắc hay khẳng
định rằng hiện tượng tái sinh là có thật vì theo yêu cầu của ý muốn con
người ở thời đại hiện nay là phải có sự chứng minh rõ ràng. Ông cũng chỉ
phát biểu đại ý rằng các hiện tượng, các trường hợp mà ông sưu tầm,
nghiên cứu, tìm hiểu đã góp phần vào việc nghiên cứu và hy vọng trong
tương lai, vấn đề Luân hồi
tái sinh sẽ trở thành một vấn đề tự nhiên như bao nhiêu vấn đề sẽ trở
thành một vấn đề tự nhiên như bao nhiêu vấn đề liên hệ đến cuộc đời cửa
con người vậy. Trước đó, tại Hoa Kỳ cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu hiện
tượng liên quan đến tiền kiếp. Ông Edgar Cayee là một người Hoa Kỳ có
khả năng biết được kiếp trước của người nào đó bằng phương thức dùng
thôi miên gọi là cuộc soi kiếp. Kết quả ông đã thực hiện ở khoảng 30.000
trường hợp kể rõ rằng về tiền kiếp cho thấy có sự luân hồi tái sinh.
Riêng đối với Albert Einstein, nhà bác học với thuyết Tương đối nổi
tiếng đã phát biểu như sau khi được hỏi về vấn đề Nhân quả: "Càng ngày,
con người càng tin vào luật Nhân quả và ngay cả khoa học cũng đang tiến
dần vào việc xác nhận sự kiện nầy là có cơ sở. Riêng tôi, tôi tin vào
luật Nhân Quả".
Cuốn sách nầy chủ ý
được viết không ngoài mục đích là trình bày một số vấn đề liên quan đến
hiện tượng Nhân Quả, Tái sinh. Hy vọng rằng với mấy trăm trang sách
đơn, sơ, độc giả vẫn có được một sự kiện lạ lùng mà ngay cả chính bản
thân mình đôi khi cũng gặp phải trong đời và một số thắc mắc từ muôn
nơi, muôn thuở về những gì liên hệ đến hiện tượng Luân hồi tái sinh cũng sẽ được giải đáp phần nào.
Đọc hết quyển sách, chắc hẳn độc giả sẽ hoặc hài lòng về một số vấn đề đã được nêu ra. Đó chính là điều khó tránh vì sự lãnh hội và phê bình là những cái mà độc giả hoàn toàn tự do. Tác giả chỉ hy vọng đóng góp một phần rất nhỏ vào lãnh vực nghiên cứu hiện tượng Luân hồi.
Tái sinh, một lãnh vựv mà ngày nay, không riêng gỉ các nhà tôn giáo mà
cả các nhà khoa học cũng đã quan tâm, vì đó là một dữ kiện cần được
nghiên cứu và kiêm nhận.
Khi viết
quyển sách nầy, tác giả may mắn đã có được khá nhiều thuận lợi về nhiều
mặt nhất là vấn đề tài liệu. Trước tiên, tác giả xin chân thành cảm tạ
Thượng toa Thích Trí Hải ở chùa Hải Đức (Nam Giao Huế) đã gởi tặng bức
ảnh (chụp năm 1958) Sư Phước Huệ chụp chung với viên Kỹ sự Frank. M.
Balk (người con tiền kiếp) để chứng minh cho câu chuyện lạ lùng có thật ở
Việt Nam.
Ngoài ra tác giả cũng
xin cảm tạ Linh mục T.H. Châu, Sư huynh Thanh Đức. Thượng tọa Thích
Chánh Lạc, Thượng tọa Thích Giác Lượng đã góp ý, phê bình, khuyến khích
và giúp một số tài liệu. Tác giả cũng không quên cám ơn ông Đoàn Văn
Hai, nhà giáo và cũng là nhà sưu tầm biên soạn ở Huế đã cung cấp nhiều
tài liệu quý giá cũng như đã liên lạc với quý thầy tại chùa Phước Huệ để
ghi lại các sự kiện về Sư Phước Huệ để gởi sang. Tác giả cũng ghi nhận
hảo ý của anh Nguyễn Huy Trực ở Cali đã vui lòng giới thiệu một một số
sách một số sách liên hệ đền đề tài Tái Sinh, Luân hồi.
Ngoài ra còn có nhã ý giới thiệu anh Ngô Văn Hoa ở Montreal dịch giả
cuốn Have We Lived beford của Linda Atkinson (1982). Chính dịch giả cũng
đã từ Montreal viết thư qua khích lệ khi biết tác giả đang biên soạn
cuốn sách nầy và đã cung cấp khá nhiều tư liệu quý giá.
May mắn nhất là những tư liệu tranh ảnh trong công trình biên soạn cuốn
Medical Curiosities của hai nhà khoa học George M.Gould (AM.MD) và
Walter L.Pyle (AM.MD) do nhà xuất bản Hammond Hoa Kỳ phát hành năm 1983.
Đây là những tư liệu tranh ảnh rất có giá trị, giúp góp phần vào sự tìm
hiểu và giải đáp về vấn đề Luân hồi
nghiệp báo. Những tư liệu đặc biệt của nhà nghiên cức Jeffrey Iverson
trình bày những trường hợp có thật về hiện tượng tái sinh cũng như những
trường hợp lạ lung mà Đ.Đ. K. Sri Dhammananda thu thập được khắp nơi
trên thế giới (Minh Tuệ - 1974). Ngoài ra còn nhiều tư liệu tranh ảnh,
sách báo trong và ngoài nước ũng được thu thập để minh họa cho đề tài
Tiền Kiếp và Hậu Kiếp.
Vì nhiều
khó khăn trở ngại, chúng tôi không thể tiếp xúc hay liên lạc được với
tát cả tác giả của những tác phẩm, những tài liệu mà chúng tôi đã sử
dụng, đó là một điều đáng tiếc. Rất mong quý vị hoan hỉ bỏ qua những
thiếu sót lớn lao ấy. Tuy nhiên, để được rõ ràng về nguồn gốc tư liệu,
chúng tôi luôn luôn ghi chú đầy đủ xuất xứ của những tư liệu ở những
đoạn trích đăng hay dưới các tranh ảnh. Các tư liệu trích dẫn còn được
ghi chú rõ ràng ở phần tài liệu tham khảo nơi cuối sách.
Cuốn sách nhỏ nầy không thể chứa đựng đầy đủ những chi tiết quan trọng.
Mặc dầu vậy, chúng tôi cũng hy vọng giúp bạn đọc phần nào có được vài ý
niệm về Luân hồi tái sinh.
Dù tác giả đã cố gắng thật nhiều trong khi soạn thảo cuốn sách nầy,
nhưng chắc chắn lần xuất bản đầu tiên sẽ có nhiều sai sót. Rất mong được
sự sự đóng góp tài liệu và chỉ giáo thêm của quý vị độc giả xa gần để
hy vọng lần xuất bản sau được đầy đủ hơn.
Đoàn Văn Thông
Bí Ẩn Về Tiền Kiếp, Hậu Kiếp
Chương 1
Luân Hồi, Tái Sinh Là Gì?
Luân hồi hay tái sinh là sự chuyển hóa sự sống của một sinh vật qua nhiều kiếp theo sự tái sinh. Đây chính là triết thuyết tôn giáo được phát triển cách đây đến mấy nghìn năm. Thuyết nầy bàng bạc trong dân gian, khắp nơi trên thế giới, ở Ai Cập, Hy Lạp cổ đại, nhất là Ấn Độ. Các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo và cả những người theo thuyết thần trí học (theosophy) đều đề cập đến vấn đề nầy... thuyết luân hồi lan truyền hầu như toàn bộ các nước ở Châu Á. Người Tây phương hiểu luân hồi qua từ Metempsychosis, Tranmission hay Reincarnation. Theo Webster's New World Encylopedia (1992) thì thuyết luân hồi bao hàm ý nghĩa rằng sau khi chết, linh hồn của loài người cũng như loài vật và ngay cả loài cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể nầy qua cơ thể khác từ dạng nầy qua dạng khác tùy theo những gì đã gây ra lúc còn sống.
Thuyết luân hồi hay tái sinh có ý nghĩa vô cùng sâu sắc và chi li: mọi
sinh vật, sau khi chết sẽ chuyển hóa từ một thân xác nầy sang một thân
xác khác. Ngay cả loài vật và loài cây cỏ cũng vậy. Luân hồi hay tái
sinh (Reincarnation) là sự chuyển hóa hay sự chuyển sinh, đầu thai
(transmission) của linh hồn. Nói rõ hơn là khi chết, linh hồn sẽ chuyển
từ thân xác nầy để nhập vào một thân khác. Khi chết thân xác hủy hoại
tan rã, chỉ có linh hồn tồn tại.
Theo
Phật giáo thì luân hồi, tái sinh là một phản ứng nghịch lại, là một sự
báo ứng tự nhiên của mọi hành động. Mỗi hành động đều có những phản ứng
dội lại cho hành động gây ra. Chữ luân hồi theo Phật giáo lấy từ Phạn
ngữ là Samsàra.
Con người phải trải qua nhiều kiếp cho đến khi chịu đủ sự trả quả tương xứng về những
gì đã làm và không tạo nên nghiệp xấu thì mới mong được tới cõi an lạc
mà Phật giáo gọi là cõi Niết Bàn (Nirvana). Những ai phạm điều xấu, ác
thì khi chết phải đọa vào địa ngục và chịu những sự xử phạt công minh.
Theo thuyết của Phật giáo có mười nghiệp dữ (sát sinh, trộm cắp, dâm
dật, tham muốn, tức giận, si mê) đối lại với mười nghiệp dữ có mười
nghiệp lành như không giết hại, không tham lam trộm cắp, không giận hờn,
không mê muội...) nếu khi sống tạo nghiệp ác thì khi chết phải chịu
luân hồi tái sinh vào thân phận kẻ chịu khổ đau vì phải trả cái nghiệp
xấu ấy. Nếu khi sống tạo nghiệp lành, thì khi chết sẽ luân hồi đầu thai
vào thân xác mới có đời sống sung sướng tốt lành hơn. Nói tóm lại tất cả
những gì mà bản thân đang phải trải qua ở hiện tại chính là kết quả của
những nghiệp gì mà kiếp trước bản thân đã làm. Và tất cả những gì mà
hiện tại bản thân hành động thì đó sẽ là cái nghiệp được tạo lập trong
hiện tại để có nghiệp báo ở tương lai tức là sư báo ứng của việc mình
làm.
Các nhà nghiên cứu về thuyết
luân hồi tái sinh lúc đầu tưởng rằng thuyết nầy chỉ phát triển ở các
nước Á Châu, nhất là vùng Đông Nam Á. Nhưng dần dần họ khám phá ra rằng
không riêng gì ở vùng Á Châu mà ở các nước Ai Cập, Hy Lạp cổ đại như nơi
vùng ốc đảo xa xăm, thuyết nầy vẫn bàng bạc trong dân chúng và cả người
dân Da đỏ cũng thường tin vào thuyết tái sinh. Các nhà nghiên cứu hiện
tượng luân hồi lúc đầu rất ngạc nhiên về sự trùng hợp lạ lùng của một số lớn người Da đỏ ở Bắc Mỹ Châu giống một số lớn người dân Châu Á về niềm tin có sự tái sinh. Nhưng khi xét về mặt
địa lý họ thấy không có gì đáng ngạc nhiên vì thời đại Băng Hà, Á Châu
và Mỹ Châu đã dính liền với nhau một cách tạm thời từ hai vùng Tây Bá
Lợi Á (Siberia) và Alaska. Lúc bấy giờ người Á Châu đã liên lạc được với
vùng Bắc Mỹ qua ngả nầy và ngay cả một số loài thú cũng vậy. Bác Sĩ
Mills đã đưa ra những điểm tương đồng về sự kiện nầy như sau.
Người Tây Tạng tin rằng, vì Phật Sống Lạt Ma của họ khi qua đời sẽ lại
tái sinh để chăm dắt và che chở cho dân tộc họ. Cũng vậy, những người Da
đỏ Bắc Mỹ Châu tin rằng vị Tù Trưởng bộ lạc đôi khi chọn sự đầu thai
trở lại để giúp đỡ những người trong thị tộc. Ngày nay, một số tôn giáo
khác tuy nhiên một số người dân ở đây vẫn còn tin vào sự tái sinh.
Thường thì họ suy đoán qua giấc mộng, qua lời nói bất chợt của người
trong nhà, nhất là của đứa bé. Sự trùng hợp về hình hài, cử chỉ, hiện tượng v.. v... đều được chú ý cẩn thận. Đôi khi họ còn tin tưởng rằng người chết hiện về dù
trong giấc mộng cũng bao hàm ý tưởng là họ sắp đầu thai trở lại. Đôi
khi họ còn để ý qua dấu bớt, vết sẹo trên da của trẻ sơ sinh. Nếu giống
với dấu vết mà người đã chết trước đó có thì có thể nghĩ rằng người ấy
đã lại tái sinh. Cũng có khi họ quan sát đứa trẻ về cách cư xử, ăn ở của nó. Nếu giống với người đã chết thì đó là điều đáng quan tâm. Nhiều người trước khi chết thường trối trăn lại lời ao ước muốn hay không muốn được sinh ra lần nữa.
Ý Nghĩa Sâu Xa Của Hai Chữ Luân Hồi.
Chữ luân hồi còn được hiểu rộng nghĩa hơn nữa khi nhắc đến thuyết Linh Vật (Animism). Bách khoa tự điển cho field Enterpises Educational corporation (Hoa Kỳ) xuất bản năm 1961 ghi rằng thuyết Linh Vật tin tưởng rằng mọi vật thể trong vũ trụ đều có tính linh và cũng chịu luân hồi nhân quả. Mọi sinh vật đều có linh hồn, Ngay cả con người có vị thế tối cao trong các loài đôi khi vẫn phải tái sinh làm loài thú như ngựa, bò heo tùy theo những gì mà người ấy đã tạo trước đó. Cái mà người ấy đã gây ra được gọi là nghiệp. Theo D. T. Suzuki nhà tâm lý, triết học nổi danh thế giới, khi nghiên cứu về vấn đề tái sinh từ người qua loài thú đã ghi nhận rằng "cái mà ta gọi là những nghiệp có thể xem như tương đương với những bản tính mà ta thường thấy từ những con vật ấy". Từ đó ông nêu lên những thí dụ như có những con người lúc sống đã có những hành động, cử chỉ, cách sống biểu lộ qua những gì gọi là "thói"1 thì khi chết có thể tái sinh thành con vật có những đặc tính tương tự. Như kẻ phàm ăn, tục tĩu, thô lậu, xấu xa, hèn hạ, dơ bẩn, sau khi chết có thể họ sẽ tái sinh thành loài heo. Trái lại những kẻ khi sống thường ranh mãnh mưu lược, ganh tỵ, thâm hiểm, xảo quyệt... sau khi chết có thể chuyển sinh thành chồn cáo, chuột, khỉ. v. v... lý luận nầy mới nghe qua sẽ không hiếm cho là kỳ quặc mơ hồ. Cũng có lý luận ngược lại rằng những người khi sống có những tướng cách ấy là hình ảnh của loài vật thấp hèn ở tiền kiếp. Những thuyết luân hồi tái sinh thật sự đã trình bày sự việc vấn đề một cách chi li, phức tạp như đã nói và ai trong chúng ta dù không tán thành, đồng ý nhưng cũng ít nhất một lần trong cuộc, sẽ tự hỏi tại sao trong đời lại có những người hình dáng, cử chỉ, hành động, cách sống giống loài thú? Có người khi nằm ngủ co quắp hay co co rúm lại, có người ngáy vang như sấm, có những đi như rắn bò, có người cười như ngựa hí, có kẻ gương mặt luôn luôn nhăn nhó như loài khỉ hay hằn lên nét mặt dữ tợn, với đôi mắt trắng dã, gườm gườm như ác thú. Có người khi ngồi có tư thế như cọp heo hày giọng nói to, sang sảng như tiếng thú gầm vang? Phải chăng đó là những loài thú ở các kiếp quá khứ và hiện tại mang kiếp người nhưng vẫn chưa thoát hẳn một số chi tiết của loài thú? Những kẻ giết người, những kẻ tra tấn người không gớm tay, những đao phủ, luôn cả những đồ tể (những kẻ giết súc vật) phần lớn hiện rõ ác tính trên cử chỉ dáng đi, giọng nói và nhất là gương mặt; thường thì đi lầm lũi (như cảm nhận được cái xấu xa tàn ác của mình nên không thể biểu lộ được sự thanh thản, yên tĩnh của tâm hồn), đôi tay thường nắm lại, như thủ thế, đặc biệt đôi mắt trắng đã lộ nhãn có nhiều đường gân máu tràn cả lòng trắng và lan vào tròng đen. Có điều kỳ dị là những người nầy gần như hầu hết đều có con mắt lồi hay tròng đen treo để lộ 3 phần trắng trong mắt gọi là tam bạch đản hoặc xuất phát, biểu lộ ác tính dã man không có chút tính người qua lời nói như năm 1992, tại Hoa Kỳ, tên sát nhân kỳ dị, dã man chuyên ăn thịt người tên là Jeffrey Dahmer mặc dầu bị bắt hắn vẫn không tỏ dấu ăn năn tội lỗi mà còn tuyên bố: "Nếu có cơ hội, tôi sẽ giết, phân thây và ăn thịt những ai mà tôi bắt được!"
Tên sát nhân Jeffrey Dahmer nầy đã giết 17 người vô tội và ăn thịt rất nhiều người.
Mặc dầu là một con người nhưng rõ ràng hắn còn kém xa thú vật nếu xét về mặt tiến hóa của chủng loại về sự phát triển của tư duy tỉnh cảm.
Vấn đề thú có thể chuyển sinh làm người hay người có thể chuyển sinh
làm thú trong thuyết luân hồi quả báo đã khiến cho thuyết nầy trở nên
bao trùm mọi vật tương tự như thuyết Linh Vật (Animism) theo đó mọi vật
đều có tính linh hay linh hồn và chịu sự chuyển sinh của luân hồi, vì
thế những người tin vào thuyết luân hồi thường kiêng ăn thịt vì hai lý
do: Thứ nhất sinh vật đã có sinh, có diệt, có sống có chết tức là có
biết đau biết khổ, biết sung sướng thì tại sao ta lại giết chúng? Thứ
hai sinh vật ta thấy sống trên quả đất có thể là hậu thân của những
người nào đó hoặc đôi khi có thể là người thân mang hình hài loài thú
qua sự chuyển sinh? Tuy nhiên thuyết luân hồi cho rằng sự tái sinh luôn
luôn xem như một sự tiến hóa hơn. Ở đây cần phải lưu ý về một số thắc mắc được đặt ra, rằng đã là loài thú thì làm gì có trí óc sáng suốt để nhận ra đâu là tà đâu là chánh đâu là điều lành đâu là điều
dữ. Vì thế bảo rằng loài thú gây nghiệp lành hay nghiệp dữ chỉ là sự
ngẫu nhiên mà thôi chớ không phải do chủ ý của nó. Điều thắc mắc rõ ràng
hữu lý, nhưng nếu nhìn lại ngay cả loài người mà từ lâu ai cũng công
nhận là loài sinh vật thượng đẳng có trí óc thông minh
hơn tất cả loài vật vẫn không hiếm những con người tàn ác, vô nhân đạo,
những con người hoàn toàn vô luân, tay luôn luôn nhúng máu, mắt luôn
luôn chỉ muốn thấy cảnh chết chóc và ai thích nghe những lời kêu la
thảng thốt, khổ đau của người khác. Những kẻ nầy có trí óc, có suy nghĩ
nhưng không bao giờ có lòng nhân đạo xót xa. Vậy họ cũng ở cấp độ cao
của trí thức, về cấu
tạo bộ não nhưng tại sao họ lại giống loài ác thú? Những kẻ nầy xét cho
cùng còn thua loài vật vì có nhiều loài vật rất hiền lành. Về ý
niệm tái sinh luân hồi từ cấp độ thấp tới cấp độ cao theo sự tiến hóa
từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu lưu tâm. Nhà sinh vật học Charles
Darwin nêu thuyết tiến hóa của sinh vật theo đó sinh vật tiến hóa từ
trình độ thấp đơn giản dần dần đến trình độ cao hơn và phức tạp hơn theo
nhu cầu, cuộc sống và môi trường sống. Tuy nhiên nhà khoa học chỉ
nghiên cứu căn cứ phần lớn vào những gì có tính cách thuần vật chất về cấu
tạo, dạng thể của các cơ quan cơ thể cùng liên hệ với các hiện tượng
sinh lý, sinh hóa chớ không đi sâu vào lĩnh vực luân lý đạo đức, tâm
linh sâu xa hơn như thuyết luân hồi chuyển kiếp tái sinh. Charles Darwin
nhận thấy rằng những sinh vật như cá, rùa, ếch, chim, sư tử, bò, ngựa,
khỉ, người đều có dạng thể phôi (Rmbryos) đầu tiên tương tự nhau.
Nhà khoa học chỉ thấy rõ sự tiến hóa từ "vạn vật đồng nhất thể" ấy qua
sự tiến hóa mà thành nhiều hướng để phát sinh ra các loài, họ, bộ,
giống, ngành sinh vật khác nhau mà không chú tâm nghiên cứu cái nguyên
nhân sâu xa tiềm ẩn bên
trong và trước đó ở mỗi sự vật. Thuyết tiến hóa như thế chỉ phát họa
được rằng: "con người như là một toàn thể đã trải qua nhiều giai đoạn
tiến hóa. Trong khi thuyết luân hồi cho thấy sự chuyển hóa để thành con
người phải trải qua nhiều giai đoạn của sự tái sinh có liên quan nhiều
đến những gì thuộc về tâm
linh và luân lý cùng sự thưởng phạt công minh giống như những định luật
tự nhiên trong vũ trụ. Mỗi con người trước khi trở thành toàn hảo, hoàn
thiện để vào cảnh giới an lạc phải trải qua nhiều kiếp chuyển hóa tái
sinh. Trong các lần chuyển sinh ấy sẽ có những kiếp khác nhau; khi thì
loài vật, khi thì loài người, khi chuyển sinh thành loài vật, có thể họ
phải trải qua nhiều kiếp như khi thì loài nầy khi thì loài kia tùy theo
cấp độ của nghiệp quả. Qua các tài liệu kinh Phật giáo thì đức Phật
Thích Ca, trước khi thành Phật, ngài đã phải chuyển sinh qua nhiều kiếp.
Cũng theo thuyết luân hồi thì khi còn là kiếp thú, kiếp thú nầy cũng có
hạn định của nó. Hạn định nầy tùy thuộc vào những gì mà nghiệp quả
trước đó đã quy định trong thời gian bao lâu để trải qua. Cùng là một
loài vật nhưng cũng vẫn có những con khác nhau về cách
sống. Nhưng cùng là một loài chó, vậy mà có con rất trung thành, hiền
lành, từ tốn. Trái lại có con rất hung dữ, phản chủ, nhác lười, tham
ăn...
Chúng ta từ nhỏ thường đã từng nghe kể chuyện con chó trung thành nọ rất thương chủ, thường ngày ra ga đón chủ về. Nhưng sau đó chủ nó không trở về nữa
vì bị pháo kích chết trong một chuyến đi. Con chó không biết chủ đã
chết, vẫn ngày ngày đến sân ga đón chủ. Suốt mấy tháng trời, con chó
buồn bả một cách lạ thường bỏ ăn bỏ ngủ và sau đó gục chết ở trên đường
tới nhà ga. Người dân trong vùng vô cùng thương tiếc nên đã chôn cất và
xây cho nó một nấm mồ với tấm bia mộ ghi câu "đây là nơi an nghỉ cuối
cùng của con chó trung nghĩa".
Tùy
theo bản tính riêng biệt ở mỗi con vật mà luật luân hồi tái sanh quy
định cho chúng sự chuyển sinh vào một kiếp nào đó theo đúng với sự
thưởng phạt hoàn toàn vô tư và công bình. Dù mèo, chó, chim chóc, cây
cối...các chủng loại nầy ở cạnh nhau, gần gũi nhau từ thời đại nầy qua
thời đại khác và chẳng có gì là đáng
ngạc nhiên khi chúng ta và ngay cả những đứa bé mới hiểu biết cũng vẫn
cảm thấy rõ ràng là có sự tự nhiên, quen thuộc và hầu như gần gũi với
tất cả những sinh vật xung quanh ta với mọi chủng loại. Phải chăng điều
đó nói lên rằng ta và những sinh vật ấy đã có sự liên hệ vô hình nào đó
ràng buộc? Phải chăng chúng có cùng một bản tính với ta là cùng sinh ra,
lớn lên, bệnh (sâu, bệnh) dinh dưỡng (ăn, uống, hô hấp, bài tiết) sinh
sản rồi chết là do ta và chúng đã có lần chuyển sinh cho nhau từ muôn
ngàn kiếp trước và sẽ còn gặp gỡ ở những kiếp lai sinh? Thế gian, vạn
vật đồng nhất thể đã một phần thể hiện ở đó. Nhìn mọi loài vạn vật chung
quanh chúng ta mới thấy được những hình thức tiến hóa quy tụ cả trên
thế gian nầy giống như trong một trường học có vô số học sinh nhưng khác
nhau về trình độ tri thức, số năm học, lớp học, môn học...
Bên ngoài là toàn thể ngôi trường và toàn thể học sinh nhưng bên trong tiềm tàng sự chuyển động, vận hành của vấn đề học vấn, về sự
tiến hóa của kiến thức, học hỏi và trình độ ngày càng cao của các học
sinh. Nếu các học sinh chuyên tâm học hỏi thì vào thời gian nào đó họ sẽ
được chuyển dần lên lớp mới và ra trường, họ sẽ không còn phải học ở
trường đó nữa. Chỉ có những học sinh nào nhác lười, ham chơi, hạnh kiểm
xấu, học kém thì những học sinh ấy mới dễ bị thi hỏng, ở lại lớp chậm ra
trường... Tất cả những hình ảnh vừa kể là biểu tượng của hình ảnh về sự tiến hóa của những kiếp.
Ngay trong một kiếp sống của ta, nếu tìm hiểu kỹ và suy luận theo
thuyết luân hồi thì (theo D.J.Suziki) cũng thấy được một cách khá rõ
ràng những giai đoạn tương ứng với những cõi mà suốt trong vô lượng kiếp
ta đã phải và sẽ trải qua. Daisetz Teitaro Suzuki đã viết trong cuốn
Mysticism Christian and Buddisht một đoạn về nhận
định nầy với đại ý như sau: "qua những kinh nghiệm hàng ngày của mỗi
con người chúng ta, nếu lưu tâm để ý chúng ta sẽ thấy ngay trong cuộc
sống của đời mình có tất cả những gì mà ta có thể kinh nghiệm được bằng
cách đi qua một hạn kỳ về tái
sinh dài. Những gì mà chúng ta có được hay gặp phải khi đang còn sống
đều thấy có sự tương đồng với nó ở một nơi nào đó ở cõi thanh cao tốt
đẹp là chốn thiên đàng dưới hỏa ngục hoặc ở những nơi khác như cõi ngạ quỉ súc sanh. Khi ta vui vẻ hớn hở, hạnh phúc chính là điều tương ứng với cõi thiên đàng,
còn khi ta đau khổ, gặp hiểm nguy, tai họa khốn cùng là như ta đã rơi
vào cõi địa ngục. Khi ta tức giận, nộ khí xung thiên là như ta đã đi vào
cõi A - tu - la rồi vậy..."
Viviane Contri khi trình bày vấn đề đầu thai trong tạp chí Madame actuelle số 254 đã viết như sau:
"Thời gian trải qua do sự đầu thai ở mỗi linh hồn thường khác biệt
nhau, tu nhiên trung bình một linh hồn đầu thai khoảng mỗi 250 năm. Giữa
thời gian nầy, mỗi linh hồn sẽ nhìn lại kiếp sống đã qua và từ đó sẽ
chọn lựa một cách lý tưởng cho cuộc tái sinh kế tiếp."
Theo Jean Francis Crolart, nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi và là tác giả cuốn sách nổi tiếng nhan đề: "Tái sinh sau khi chết đã ghi nhận rằng:
"Kiếp sống hiện nay của mỗi con người chúng ta tùy thuộc nhiều kiếp
sống trước đây (tiền kiếp) nhưng chính từ kiếp sống hiện tại sẽ đặt nền
tảng và tiền đề cho kiếp sống ở tương lai hay hậu kiếp.
Vai Trò Của Linh Hồn Trong Sự Luân Hồi Tái Sinh.
Câu
hỏi từ ngàn xưa đã được đặt ra là cái gì đã giúp cho sự luân hồi chuyển
sinh được thực hiện, phải chăng đó là linh hồn? Nhưng linh hồn thật sự
có hay không? Nếu có thì linh hồn là gì? Linh hồn hiện hữu hay vô hình?
Từ thời cổ đại con người đã tin rằng: ngoài thân xác ra, con người còn
có linh hồn. Linh hồn là phần linh diệu thâm sâu nhất. Khi chết, thân
xác trở nên bất động và đi vào hủy diệt còn linh hồn thì rời khỏi thân xác.
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng của con người.
Người Âu Mỹ gọi linh hồn qua từ Âme, soul (Pháp, Anh, Mỹ) hay psyché
(Hy Lạp) hoặc seel (Đức). Từ Âme được giải thích là nguyên lý của sự
sống, của tư tưởng hay của tất cả hai, khi nguyên lý được xem như là một
thực tại khác biệt với thể xác, qua đó hồn hoạt động. Thực tại ấy có
thể xem là vật chất hay không vật chất.
Theo người Daisetz Teeitaro Suzuki thì linh hồn không thể được khái niệm
như là một thực thể hay một đối tượng như bất cứ một đối tượng nào khác
mà ta đã thấy quanh ta. Linh hồn không thể là cái có hình dạng hoặc có
thể thấy được qua mắt người... bởi vì nếu là hữu hình thì làm sao linh
hồn đi vào thể xác được?
Đối với người Hy Lạp thì linh hồn chính là cái tinh thần có nhiệt, cái giúp ta cử động hô hấp.
Theo Tự điển và Danh từ triết học của Trần Văn Hiến
Minh thì Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn là cái
yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự sống.
Từ thời cổ đại xuất hiện thuyết nói về linh
hồn đó là thuyết vạn vật linh (hay thuyết linh hồn nguyên thủy:
Animism). Theo thuyết nầy thì tất cả mọi thứ trên quả đất từ con người
đến con thú và ngay cả cỏ cẩy đất đá cũng đều có linh hồn. Quan niệm nầy
còn bàng bạc trong dân gian và ta cũng đã thường gặp lại trong các câu
như: "Hồn thiêng sông núi" "Hồn nước"... Ngày nay, một số lớn người Á
Châu, Phi Châu, Úc Châu và nhất là các thổ dân vùng Hải đảo vẫn còn tin
tưởng về thuyết
đó. Tuy nhiên, tùy theo tôn giáo, phong tục, tập quán mỗi quốc gia mà
sự tin tưởng của mỗi dân tộc có vài khác biệt, nhưng phần chính yếu thì
vẫn giống nhau đó là sự tin tưởng rằng có linh hồn. Người Việt Nam và
Trung Hoa còn chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa
cổ xưa, họ quan niệm rằng con người có ba hồn. Ba thứ hồn ấy là:Sinh
hồn: phần đem lại sinh hoạt lực cho thể xác. Giác hồn: giúp thu nhận và
thể hiện các cảm giác và những phản ứng. Linh hồn: là phần quan trọng
nhất, đây là phần thâm sâu vi điệu nhất của con người và cũng chính nhờ
phần nầy mà sự luân hồi, đầu thai, chuyển sinh được thực hiện thuận lợi.
Đối với người Ai Cập thì khi chết linh hồn sẽ thoát khỏi thể xác như
chim bay vì thể họ dùng hình ảnh một phi điểu biểu tượng cho linh hồn
thể xác thì tan rã nhưng linh hồn thì tường tồn và chuẩn bị chuyển vào một cuộc sống mới khác qua mo6t thân xác khác.
Việc ướp xác của người Ai Cập phần lớn chủ đích muốn duy trì sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác được lâu dài.
Đối với người Tây Tạng thì hồn là phần linh diệu trú ngụ trong một phần
gọi là thân xác. Thể xác chỉ có cái vỏ cho hôn trú ngụ mà thôi. Hồn và
xác liên hệ nhau qua một thể giống như sợi dây đặc biệt có từ tính. Khi
sợi dây ấy đứt chính là lúc hồn lìa khỏi xác.
Đối với các nhà triết học thì từ cổ đại, một số nhà triết học như
Platon, Pythagore, Hereclite. Empedocles, Aristote Epicure đề có nghiên
cứu và đề cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn như là một thể quan trọng trong sự chuyển hóa đời sống. Về sau
có Plotin, Descartes, Pascal, Shopenhauer, Ralph Waldl Emerson,
Frederic William Henry Myers... tiếp nối sự nghiên cứu, tìm hiểu cũng
như tin tưởng vào sự hiện hữa của linh hồn.
Plotin tin rằng: con người phạp tội, khi chết linh hồn rời khỏi thân
xác sẽ nhập vào một cơ thể khác để trải qua một kiếp sống khác nhằm trả
nợ những tội lỗi, sai lầm mà người ấy đã gây ra trước đó. Như vậy, theo
Plotin thì sự tái sinh hay đầu thai phát sinh là do ở tội lỗi mà ra.
Chính những sai lầm, những hành động từ trước của ta đã gây ra những
trừng phạt kế tiếp mà ta phải trả.
D. T.
Suzuki ghi nhận rằng: sau khi chết, linh hồn sẽ chuyển từ một thân xác
nầy sang một thân xác khác thuộc cõi thiên, nhân, động vật, thực vật...
Đối với c tôn giáo thì mặc dầu có khác nhau về lý thuyết nhưng hiếm có tôn giáo nào phủ nhận về linh hồn.
Theo Ấn Độ giáo thì linh hồn là thực thể vô cùng quan trọng đối với mọi
vật thể sống. Linh hồn được gọi là Atman và do đấng toàn năng Brahma
tạo ra. Theo Ấn Độ giáo thì tất cả mọi loài sống trên quả đất nầy đều có
linh hồn. Linh hồn bất sinh bất diệt. Linh hồn giúp sự tái sinh chuyển
hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác nầy qua thân xác khác để trải qua
một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt được điều kiện để hợp nhất
hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được hiểu như linh hồn của vũ
trụ.
Theo quan niệm của Ky Tô giáo thì
con người là một linh hồn và vì con người là một linh hồn nên khi chết,
linh hồn cũng sẽ chết theo. Như vậy đối với Ky Tô giáo, linh hồn hiện
hữa nhưng nhưng linh hồn không thể biệt lập và riêng tư đối với thể xác.
Tuy nhiên cần lưu ý là, theo quan niêm Ky Tô giáo thì "linh hồn nào
phạm tôi thì sẽ chết (Ê Xê Chiên 18: 4 và 20) và đến
ngày phán xét: "mọi người trong Mồ Mả nghe tiếng ngày và ra khỏi: ai
làm lành thì sống lại để được sống, ai làm ác thì sống lại để bị xét
đoán... (Giăng 5: 28 - 30). Như thế, khi một linh hồn chết đi (người là
một linh hồn) thì có thể trong tương lai, trong nầy phán xét, linh hồn
ấy sẽ sống lại và qua sự phán xét của Đấng tối cao, sẽ được sống đời đời
hay chết vĩnh viễn.
Đối với Khổng giáo
thì con người là kết hợp của thể các, hồn, khí và phách. Phách hay vía,
không phải là thể xác (như thể xác đối với tinh thần, mà là những nguyên
lý của sự sống nhưng hạ đẳng. Không thể xem phách là thể xác (corps)
được, những thành ngữ phổ biến trong dân gian chứng minh điều đó. Như
vía độc: fluide vital irefacte đốt vía (để trừ khử hơi hay khí độc, hay
xui xẻo, hay: hồn phi phách lạc (hồn hay phách, hay vía, hay khí rơi:
hoảng hốt, sợ hãi (I'ame s'envole, le suoffle tombe, épouvanté)... khi
chết, chỉ có hình hài tan rã, còn cái khí tinh anh sẽ vào trong vũ trụ.
Riêng đối với Phật giáo thì sinh vật, nhất là con người, có cái năng
lực vi diệu được chuyển từ kiếp nầy qua kiếp khác. Cái năng lực ấy được
gọi là Yid Kyi Mawpar Shespa, một danh từ ất đặc biệt phức tạp mà thông thường
được hiểu như cái gọi là Linh Hồn. Hai chữ linh hồn đối với quan niệm
Phật giáo thật ra chỉ là danh từ tạm dùng mà tạm hiểu cho thuyết luân
hồi chuyên hóa của kiếp người theo luật Karma (nghiệp) để người bình dân
dễ lĩnh hội mà thôi. Vì con người thường hiểu nhầm chữ Linh Hồn với
Thân Trung Ấm hay Thân Thức là phần lìa khỏi thân xác sau khi chết. Tuy
nhiên, để dễ hiểu khi giải thích sự chuyển hóa của hiện tượng luân hồi,
tái sinh, linh hồn được xem như cái cầu nối, là cái chuyển sinh là cái
để đầu thai, trả nghiệp. Vì thế nhiều sách Phật giáo thỉnh thoảng vẫn
thấy bóng dáng chữ Hồn hay Linh Hồn vì một phần nào để giản dị hóa cho
vấn đề là con người sau khi chết sẽ lại tái sinh tùy theo những gì mà
người ấy đã gây ra trước đó.
Theo quan niệm trong dân gian của người Việt Nam và phần lớn chịu ảnh hưởng quan niệm của đạo Phật thì:
Sau khi con người trút hơi thơ cuối cùng thì cái mà ta gọi là linh hồn
tuy đã thoát khỏi thể xác nhưng lúc nầy "linh hồn" còn như ở trong tình
trạng tự do, chưa nhập vào một thân xác mới, giai đoạn nầy phải trải qua
một thời gian là 49 ngày. "linh hồn" thuộc giai đoạn 49 ngày nầy được
gọi là Thân Trung Ấm, một cái "thân" khác với nhục thâ đã bất động là
thân xác. Thân trung ấm còn được gọi là Thần thức.
Phần lớn con người khi chết đều phải qua giai đoạn trun âm nầy (ngoại
trừ những người đã cósẵn đạo đức tu hành, nghiệp quả lớn thì được sinh
ngay lên cảnh giới cao còn những người ác độc thì phải sinh vào địa ngục
sau khi chết). Thân trung ấm có thể xem như linh hồn, tuy không có hình
hài, tai mắt... nhưng vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe và đặc biệt lại có thể đi thông suốt qua mọi vật, nhưng con người đang sống không thể thấy được thân trung ấm.
Trong Luận Câu Xá (cuốn thứ 9) có một đoạn mô tả về thân trung ấm như sau:
Thân trung ấm của chúng sanh nơi Dục giới có kích thước bằng một đứa bé
5 đến 6 tuổi nhưng linh hoạt sáng suốt vô cùng. Thức ăn chỉ toàn là mùi
hương vì thế mà có tên là Càn thát ba (nguyên văn:
Dục giới trung hữa chi lượng, như tiểu nhi niên ngũ, lục tuế, nhiên chư
căn minh lợi, Dục giới chi trung hữa dĩ hương vi thực, nhân chu xưng
chi vi Càn thát bà) (theo T.T Thích chánh lạc Sống và Chết).
Khi chết, thân xác không còn biết gì nữa. Lúc ấy "linh hồn" đang ở vào
trạng thái của thân trung ấm hay thần thức. Thần thức sẽ rời khỏi thể
xác. Thời gian tách rời ấy nhanh hay chậm còn tùy vào nhiều vấn đề. Tổng
quát có thể chia ra làm 2 trường hợp chính sau đây:
1 Trường hợp thứ nhất: Thân trung ấm ngay thân xác trường hợp nầy hiếm,
chỉ có những bậc chân tu, đức độ, đã rủ sạch được nghiệp quả.
2. Trường hợp thứ nhì: thân trung ấm rời khỏi thân xác sau một thời
gian hoặc sau nửa ngày, sau vài ngày hoặc lâu hơn là 49 ngày.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì hồn lìa khỏi xác trong khoảng thời gian
3 ngày đầu sau khi chết rất quan trọng vì hồn cò thể còn nuối tiếc thân
xác và cuộc sống nên vẫn còn lẩn quẩn không chịu rời.
Đối với trường hợp những người bị tai nạn, bị giết hại một cách bất ngờ
thì sự tách rời của "hồn": ra khỏi thể xác lúc đó xảy ra quá nhanh, bất
thình lình nên đã tạo nên một sốc lớn khiến thể xác có những tư thế bất
bình thường qua các phản ứng cơ thể với tác nhân bên ngoài. Thể xác sẽ
có những tư thế nằm, ngồi co quắp hay gương mặt nhăn nhó, mắt mở trừng
trừng, mồm há hốc. v..v...
Linh Hồn Có Hay Không?
Mới
đây ký giả Báo Paris Match là Patrice Van Eersel đã viết cuốn sách nhan
đề "Ia source Noire", trong đó ông trình bày những trường hợp đặc biệt về những
người chết đi sống lại mà những nhà khoa học, những giáo sư, bác sĩ tại
các Đại Học Hoa Kỳ đã lưu tâm nghiên cứu. Theo các nhà nghiên cứu nầy
phần lớn những người chết đi sống lại ấy đều không ít thì nhiều đã có
những cảm nhận lạ lùng là thấy... "hình như" họ đã thoát khỏi thân xác
trong một khoảng thời gian tương ứng với lúc họ mê man bất động. Điều
đặc biệt là "họ thấy chính họ" đang nằm chết. Nhà nghiên cứu những hiện
tượng huyền bí Joe West Hoa Kỳ) năm 1991 cũng viết cuốn sách nói về những điều bí mật
lạ kỳ đáng lưu ý ở nước Mỹ (Great American Mysteries) ông nghi nhận
rằng: có đến hơn 3.000.000 người Mỹ đã trải qua những kinh nghiệm về sự
rời lìa của chính họ ra khỏi thân xác họ trong những trường hợp khác
nhau như tai nạn, bệnh tật, mổ xẻ... có người thấy rõ được mình, đã rời
khỏi thể xác và đi
khá xa đến những nơi mà khi mô tả lại đều trùng hợp với những gì kiểm
chứng sau đó từ thời gian, địa điểm, địa danh, sự việc xảy ra. v.v...
Bác sĩ Eugene E. Barnard (giáo sư thuộc nghành Bệnh Học Tâm Thần
(Psychiatry) ở Đại Học thuộc Bắc Carolina tin rằng: trung bình cứ 100
người trong chúng ta thì có một người đã có lần cảm nhận được điều đó.
Nhà Tâm bệnh học John Bjorkhelm đã khảo cứu hơn 3000 trường hợp về những
hiện tượng lạ thường mà khoa học không giải thích được, những sự "xuất
hồn và chu du nhiều nơi của một số người. Trường hợp nổi bật nhất cũng
là chứng cớ sôi nổi nhất đã do chính Văn Hào
Emest Hemingway kể lại trong lần bị thương nặng đến thập tử nhất sinh
nơi chiến trường trong trận thế chiến thứ 2. Ông đã thấy rõ ràng chính
ông đã thoát ra khỏi cơ thể của ông giống như như hình ảnh của việc lôi
cái khăn tay ra khỏi túi áo, rồi sau đó ông thấy chính mình trở lại,
nhập vào cái tha6nn xác của chính mình lúc hồi tỉnh... Chính sự kiện nầy
đã là nguyên nhân thúc đẩy ông viết cuốn: Giã Từ Vũ Khí (A Farewell to
Arms), cuốn sách hấp dẫn thuộc loại beest seller. Năm 1991 Jim Hogshire
cũng thu thập các sự kiện liên quan đến vần đề "hồn lìa khỏi xác". Đề
tài Out of body đã được nói nhiều trong cuốn Life after Death (Đời sống
sau khi chết). Theo nhà nghiên cứu hiện tượng vừa nói là Jim Hogshire
thì các nhân chứng thường là bác sĩ, y tá, bệnh nhân... không những
chính bản thân của người bị của người bị nạn thấy "hồn" mình thoát khỏi
cơ thể mình vào lúc họ thiếp đi vì tai nạn, mổ xẻ... mà ngay những người
đang ở kề cận họ lúc đó cũng có thể thấy được điều đó. Cô y tá Linda ở
Floria đã kể rằng chính mắt cô thấy rõ một khối mờ đục có dạng như sương
khói thoát khỏi cơ thể một người bệnh đúng lúc người ấy tắt thở. theo
các bác sĩ và nhân viên làm việc ở các bệnh viện cấp cứu (emergency) thì
sự kiện vừa nêu không phải là chuyện lạ lùng. Bác sĩ Josef Issels, (bác
sĩ nổi danh về khoa ung thư ở Đức) cho rằng: hiện tượng người chết "xuất hồn" là chuyện mới nghe qua có vẻ kỳ bí và
phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y khoa cần phải
lưu tâm. Nếu xét theo hiện tượng Vật lý thì hơi ra từ nắp ấm nước cho
thấy nước đã bắt đầu sôi thì khối hơi trắng đục thoát ra khỏi cơ thể
bệnh nhân cũng chỉ là dấu hiệu của sự chết bắt đầu. Cái khối hơi ấy là
hồn, là linh hồn hay gì đó thì cũng chỉ là tiếng gọi mà thôi. Điều quan
trọng là khoa học cần lưu tâm nghiên cứu xem đó là gì? Và phần thoát ra
khỏi cơ thể ấy sẽ đi đâu? Nhiệm vụ nó là gì?... " Có lần theo lời thuật
lại của chính bác sĩ Josef Issels thì một hôm đang ở bệnh viện, ông vào
phòng của một nữ bệnh nhân già, bà nhìn ông chăm chăm và nói: "Bác sĩ có
biết rằng tôi có thể rời khỏi thân xác tôi không? Tôi sẽ cho bác sĩ một
chứng cớ về vấn
đề nầy..." Bác sĩ Josef lấy làm lạ chưa kịp trả lời thì bà lại nói:
"Ngay tại đây và ngay bây giờ, bác sĩ hãy đến phòng số 12, tại đó sẽ
thấy một người đàn bà đang ngồi viết thư cho con..." rồi bà ta còn mô tả hình dạng của người đàn bà đó
và nội dung phần đầu của bức thư. Cho dây là một dịp thuận lợi là lùng
cho mình, bác sĩ Josef Issels vội vã đến ngay phòng sối 12 vừa lúc thấy
người đàn bà ngồi viết thư... Bác sĩ Josef liền quay trở về phòng nữ bệnh nhân gài thì bà đã
chết. Theo bác sĩ Josef thì rõ ràng người bệnh nầy đã thấy được những
gì ở phòng số 12 cách phòng bà khá xa là nhờ một năng lực nào đó. Nếu
đúng như lời bà nói "tôi có thể rời khỏi thân xác tôi..." thì có thể
ngoài thể xác, bà còn có một thể xác nữa đã có thể rời khỏi bà đi tới đó. Cái thể mà người ta thường gọi là hồn ấy cò khả năng đi xuyên qua tường, cây cối hay xuyên qua người khác...
Một trường hợp khác Jacky C. Bayne, quân nhân Mỹ đã kể lại rất rõ (như
đã nói từ trước) trong khi chiến đấu tại Việt Nam (trong trận chiến ở
Chu Lai) đã bị thương nặng và trong giờ phút ngất xỉu ấy, anh ta thấy
mình thoát ra khỏi thể xác và đã thấy rõ ràng thân xác mình ở trên bàn mổ...
Tuy nhiên, một số nhà khoa học không tin vào những gì mà chính cả những đồng nghiệp của mình đã kể lại về cái hiện tượng vừa nói. Bác sĩ Karl Osis, Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Tâm Thần ở Hoa Kỳ (người đã viết cuốn sách nói về những
người chết trên giường bệnh và những hiện tượng quan sát được qua những
cái chết ấy bởi các thầy thuốc và y tá (Deathbed Observations by
Physicans and Nurses), mới đây đã cho biết là hai nhà nghiên cứu các
hiện tượng liên quan đến cõi chết là W. F Barretl và bác sĩ J.H. Hyslop
đã có những nhận xét thuộc hiện tượng ảo giác (Hallucinations). Những ảo
giác về người
chết thường bao gồm từ những cái nhìn mơ hồ của người sắp chết và cả
người sống lúc nhìn sự vật, nhất là sự vật ấy đượm nét siêu linh huyền bí. Thông thường,
đối với những người đang sống, chẳng có gì khác lạ đối diện gặp gỡ
nhau. Nhưng cũng là người quen biết ấy, gặp vào lúc họ sắp qua đời hay
trút hơi hở cuối cùng thì rõ ràng giữa người sống và người chết đã có sự
khác biệt hoàn toàn. Cái cảm giác ấy có ở hầu hết mọi người. Trong giờ
phút đó, cái cảm giác sợ hãi, xa cách giữa sự sống và sự chết nẩy nở rất
nhanh và sự nhìn, sự nhận định sẽ phần nào chịu ảnh hưởng của những cảm
giác vừa kể, được tăng cường đối với không khí huyền bí siêu linh của sự chết làm dễ phát sinh những nhận xét thuộc về hiện
tượng ảo giác. Người yếu bóng vía có thể tưởng tượng ra nhiều hình ảnh
phát sinh từ người chết. Hiện tượng trông thấy linh hồn xuất ra từ thân
xác người chết cũng thuộc vào một trong những ảo giác. Như thế, rõ ràng
nhiều nhà khoa học đã cho rằng những gì mà nhiều người đã thấy, đã kể
lại về sự kiên xuất hồn ở người mới lìa đời chi là hiện tượng ảo giác mà thôi. Ngược lại, những nhà khoa học đang nghiên cứu về hiện
tượng xuất hồn hiện nay mặc dầu chưa khẳng định hoàn toàn có hay không
hiện tượng lìa khỏi xác nhưng họ cũng không đồng ý với lập luận về hiện tượng ảo giác mà một số nhà khoa học đã nêu ra. Theo họ, có thể sự nghi ngờ ấy chỉ là đặc tính của phần lớn các nhà khoa học mà thôi đó là đặc tính thận trọng Trong thực tế, những trường hợp lạ lùng có tính cách siêu linh khó lý giải vẫn thưởng xảy ra và được thực rõ ràng.
Bác sĩ Crookall và F. W. H Myers đã sưu tập hành trăm trường hợp về vấn đề liên quan đến cái gọi là "hồn lìa khỏi xác" và họ phân ra hai trường hợp chính: Một là những kinh nghiệm đã trải qua về hồn rời thân xác và hai là những tin tức, dữ kiện thu nhận được thông qua
những người ngồi đồng, những đồng tử (medium), giáo sư C. J. Ducasse là
một trong những nhà triết học và khoa học tự nhiên nổi tiếng đã tìm
cách lý giải những gì mà hiện nay giới khoa học đang bàn cãi sôi nổi về sự
kiện có hay không cái gọi là hồn hay linh hồn và sự rời lìa của hồn
khỏi xác khi chết. Theo giáo sư thì hiện nay, các nhà nghiên cứu và ngay
cả các nhà khoa học đã dấn thân vào lãnh vực tìm hiểu sự thật của vấn
đề. Họ đã thu thập vô số trường hợp có liên quan, những mô tả về điều mà họ gọi là linh hồn, về sự
liên kết giữa linh hồn và thể xác qua một vật thể giống như một sợi
dây, sự rung động đầy sức sống của sợi dây ấy và cả trường hợp sợi dây
liên hợp ấy đứt rời để cái gọi là "hồn" tách lìa khỏi thể xác cũng được
nhiều người mô tả, sự mô tả thường đồng nhất và nhân chứng không phải
chỉ có người lớn mà còn là trẻ con, sự kiện mà chúng chưa bao giờ nghe,
đã thấy hay đã đủ khả năng nghĩ tới.
Nhà phân tâm học Hippolyte Baraduc đã tận mắt trông thấy một khối hơi
thoát ra khỏi cơ thể người vợ ông khi bà nầy trút hơi thở cuối cùng. Ông
Baraduc đã chụp được bức ảnh lạ lùng nầy.
Một tài liệu sưu tầm về hiện tượng nầy đã được tạp chí tiền phong 1991 đăng tải, theo đó, nhiều nhà khoa học đang mạnh dạn bước vào lãnh vực nghiên cứu về linh hồn.
Như nhà khoa học Jan Lundquyst đã quyết tâm tìm hiểu sự thật về vấn
đề linh hồn khi ông trông thấy một thứ ánh sáng màu xanh xuất phát từ
cơ thể người vừa lìa đời. Bác sĩ phân tâm học Elizabeth Kubler Ross thì
khẳng định rằng: "trước đây tôi không tin về những gì gọi là đời sống sau khi chết. Nhưng nay tôi đã có một vài chuyển hướng trong cách nhận định của tôi về vấn đề nầy".
Sau đây là một số hình ảnh mà các nhà nghiên cứu như các bác sĩ Raymond
Moody Jr., Robert H. Elizebeth Kubler Ross, Iair Stevenson, giáo sư
Carey Williams chuyên nghiên cứu về những
gì sau cõi chết... đã thu thập được từ những người đã gần gũi với cái
chết hay đã có lần chết đi sống lại, đã trải qua một đoạn đường vượt qua
ranh giới cõi sống và cõi chết, nghĩa là bước đi một khoảng đường đi
qua bên kia cửa tử để rồi vì một lý do nào đó lại quay về... đã sống lại. Trong một bài sưu tập về những hình ảnh của những người đã chết đi sống lại đã mô tả, nhan đề "trở về từ cõi chết" đăng tải trong L.S. Tiền Phong 1992, tác giả Thế Vỹ đã nêu ra ba trường hợp chính sau đây:
1. Một người tên là Iva Brawn, sinh sống ở Lamiraada (Cali) đã bị tai
nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người nầy bị xe hất tung đi rất
xa và ngất xỉu. Trong thời gian mê man như chết đó, người nầy đã thấy
nhiều hình ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu chói lòa bao phủ và có tiếng
nói phát ra từ ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ không sao cả" sau 6 ngày hôn
mê, người ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi bà sống lại và bà kể chuyện
nầy cho người chồng nghe. Mấy năm sau, chồng bà Iva Brawn mất và một năm
sau bà Iva Brawn đang nằm ngủ bỗng nhiên thấy chồng mình xuất hiện nói
với bà rằng: "Cách đây mấy năm, mình có kể cho tôi nghe những gì mà mình
đã thấy trong vụ tai nạn xe hơi, nhưng tôi không hiểu giờ đây, tôi đã
hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là nước. Mình không thể tưởng tượng được là
nước ở đây đẹp đến độ nào..."
2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể lại rằng, bà bị chính người chồng dùng dao quyết tâm đâm chết nhưng nhờ bề trên che chở, bà đã được sống lại trước sự kinh ngạc của các y bác sĩ ở bệnh viện. Sttooksbury kể rằng: "lúc bị ngất đi và được
mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết vì máu ra quá nhiều, riêng
tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối đen... ở ngưỡng cửa
sinh tử, tôi đã trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rõ ràng, bà đưa tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hãy trở về: "Hãy trở lại đi, chưa tới lượt con đâu!"
3. Bà Connie Zickefoose ở Cloverdale (tiểu bang Ohio) kể rằng: lúc đó
tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc tôi quay cuồng rồi một màn đen phủ ập
lên... tôi thấy mình đi trên con đường đầy ánh sáng, hoa nở, hồ nước với
cá lội muôn màu... Tôi vào một căn phòng, trong đó có chúa Jesus. Chúa
ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "con không vào được đâu! vì một
khi con đã vào thì không thể ra được phải nhanh lên vì ở đây không có
thì giờ và trên cõi thế, giờ của con cũng sắp hết rồi! thế rồi tôi trở
lại, tôi thấy thân thể tôi rõ ràng ở trên bàn sanh, mặt tái nhợt. Các
bác sĩ đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ tôi đã chết, rồi tự nhiên họ reo lên
vì biểu hiện sự sống nơi tôi đã thể hiện qua cái máy gắn vào cơ thể
tôi.
Trong cuốn "In search of the
Dead" củ Jeffrey Iverson tác giả Jeffrey đã nêu ra rất nhiều trường hợp
của những người chết đi sống lại kể về những gì họ đã thấy.
Kể từ khi cuốn sách Đời tiếp nối đời (life after life) xuất bản năm
1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề tiếp cận đến những hình
ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích và nghiên cứu.
Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một trường hợp có thật đã xảy ra như sau:
Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, thì
bé gái nầy đã ngưng thở gần 20 phút đồng hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu
bé nầy đã chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô hấp nhân tạo, cháu bé
đã tỉnh lại và sau đó kể những gì mà cháu đã trải qua trong thời gian
coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một người mà cháu nghĩ rằng đó
là Chúa Trời. Người hỏi: "cháu có muốn ở lại đây không thì cháu bé trả
lời muốn nhưng người lắc đầu; con còn mẹ, con có trách nhiệm với người
mẹ đang còn sống, vì thế con nên trở về..."
Ngoài ra cháu bé còn kể rằng cháu đã gặp nhiều trẻ con và người lớn,
những người nầy đi lại tự nhiên nhưng nét mặt không vui và không rõ nét
lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như chuẩn bị
đi đâu đó có lẽ đang chờ tái sanh. Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi cháu bé
rằng: cháu đã tỉnh lại lúc nào cháu biết không thì cháu bé trả lời là
khi nghe Chúa bảo con có trách nhiệm với mẹ đang còn sống hãy trở về thì vừa lúc cháu tỉnh lại...
Bác sĩ Melvin Morse còn tiếp tục tìm kiếm và phỏng vấn những trẻ con
khác, những trẻ con đã có lần tiếp cận với cái chết hay đã có lần chết
đi sống lại. Điều kỳ lạ là nhiều trẻ nhỏ đã mô tả lại cả những hình ảnh
mà lúc đó chúng đang trong tình trạng hôn mê. Như đã trông thấy các nhân
viên bệnh viện làm việc ra sao, đẩy băng ca mà trẻ đang nằm bất tỉnh
vào phòng mổ, rồi bác sĩ đặt ống thở vào mũi, rồi những cái máy hồi lực,
đo nhịp tim... tuy bé không hiểu gì nhưng mô tả khá linh động và bác sĩ
Melvin Morse đã cố gắng thành lập các nhóm khảo cứu gồm những nhà thần
kinh học, những chuyên gia chuyên chữa trị bệnh thần kinh
(psychiatrists), neurologists... để tìm hiểu do đâu mà khi bất tỉnh mê
man thường phát sinh ra những hình ảnh lạ lùng và thường hay trùng hợp,
tương tự khi so sánh với những trường hợp như thế với người khác. Sau
một thời gian, một vài kết quả sơ khởi đã được nêu ra. Những nhà nghiên
cứu nầy nhận thấy rằng: Thùy thái dương ở não bộ có vai trò quan trọng
đối với hiện tượng vừa kể trên. Thùy thái dương (the temporal lobe) được
xem như vùng có những mật mã di truyền về những
gì gần gũi với cái chết. Khi bị kích thích điện não một thành viên
trong nhóm đã kêu lên "Ôi chúa tôi! tôi đã rời thân xác tôi rồi!" Phải
chăng trong thùy thái dương của não bộ có một vùng liên quan mẫn cảm với
một thể mà ta gọi là linh hồn. Nhưng nguyên nhân nào đã gây lên tác
động ở thùy nầy của bộ não? Tại sao khi hôn mê phần nầy sẽ được kích
động để biết linh hồn tách khỏi thể xác và những hình ảnh ở cõi giới
khác xuất hiện.
Jeffrey Iverson, nhà nghiên cứu về sự
chết đã phát biểu như sau: "Rõ ràng có một giới hạn lớn và giới hạn ấy
khá xa để khoa học có thể tới gần được với linh hồn và những hình ảnh mà
con người lúc đó thấy được..." Trong cuốn life after life (đời tiếp nối
đời) của bác sĩ Raymond A. Moody cũng có nhiều đoạn mô tả củ những hình
ảnh, ánh sáng và màu sắc lạ lùng như đầu tiên họ thấy một vùng ánh sáng
hình quả cầu xuất hiện ở góc phòng, ngay dưới trần phòng. Khối cầu sáng
ấy có năng lực lạ lùng nâng nhẹ họ lên rồi sau đó họ thấy mình ở trên
cao và nhìn xuống thân xác mình nằm bất động trên giường. Họ nhìn lại
cái thể mới của họ cái thể vừa thoát ra khỏi thân xác. Cái thể mới nầy
giống như sương khói, có pha chút màu sắc xanh lơ, màu cam và màu vàng.
Cái thể ấy họ gọi là "cái hồn". Hồn ấy có dạng hình Ô van và có phần
giống như đầu và tay. Khi hồn họ chuyển theo khối cầu sáng ấy thì chính
họ như được đẩy đi hay nói khác đi là được
khối cầu hút theo nó. Họ cho biết lúc bấy giờ họ nhẹ như tơ và lòng
thanh thản vô biên. Họ xuyên qua tường, xuyên qua những cây cột ở hành
lang bệnh viện, xuyên qua các tầng lầu để xuống tầng dưới các cửa dù đóng
hay mở họ đều đi xuyên qua, xuyên qua cả các nhân viên ở bệnh viện nữa.
Điều kỳ lạ là họ không biết vận tốc của sự chuyển dịch nhất là nhận
thức về tốc
độ. Mỗi lần đền gần sát một vật cản như bức tường, cánh cửa họ đều thấy
tất cả như tan biến hết và trống không vì thề mà họ xuyên qua dễ dàng.
Trong thời gian di chuyển họ thường nghe bên tại như có lời khuyên bảo
hay chỉ dẫn và cái âm thanh lạ lùng kia xa vắng mông lung khó diễn tả
được.
Một bệnh nhân
tên Jack cũng đã kể lại những gì mà mình đã trải qua khi anh đang ở
trong giai đoạn hôn mê. Jack đã mô tả những cảnh trí như vừa nói trên và
anh ta đã theo tiếng gọi xuất phát từ khối cầu sáng đưa anh xuyên qua
nhiều phòng. Sau cùng khi trở lại thân xác mình anh có ảm tưởng như có
người nào đó ở cõi giới vô hình đang đợi anh. Anh nghĩ rằng anh sẽ chết.
Ngày mai người ta sẽ đưa anh vào phòng mổ. Anh cố viết hai lá thư, một
lá thư cho vợ và một lá thư cho con. Anh có cảm tưởng những lời viết
trong thư là những lời giã biệt. Thế rồi anh khóc. Vừa lúc đó anh có cảm
tưởng như ai đang ở bên cạnh và có tiếng hỏi: Sao lại khóc? Anh có
thích theo ra không? Anh trả lời trong tâm trí mình: vâng tôi thích, tôi
muốn ra đi! tiếng nói lại văng
vẳng bên tai: thế tại sao lại khóc? anh trả lời: tôi đang khóc vì
thương nhớ vợ và con, Tôi nghĩ khi ra đi, ai lo cho vợ con tôi...?! Có
tiếng đáp lời anh "Vậy là tốt, anh đã nghĩ đến người khác hơn là nghĩ
tới mình, anh sẽ được sống cho đến khi cháu bé trưởng thành.
Ngày hôm sau cuộc giải phẫu tuy có nhiều khó khăn nhưng bác sĩ Cofeman và đồng sự đã cố gắng hết mình nên đã đem lại kết quả tốt lành, Jack hồi tỉnh...
Những trường hợp đáng lưu tâm:
Dưới đây là lời kể của một người đàn bà đã
phải trải qua một giai đoạn gần gũi với cái chết. Nhà nghiên cứu Verlyn
Klinkenborg chuyên phỏng vấn nhưng người đã đi vào cõi chết ghi lại lời
kể sau đây của một thiếu phụ:
"Tôi
nhớ là mình đã bị sốt cao, nhiệt độ cơ thể lên đến 106 độ (độ F). Tôi
như bị loạn nhịp tim. Toàn thân cảm thấy đau nhức, ớn lạnh nóng ran xen
kẽ. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường. Tôi bị nhiễm trùng đột ngột. Trong
lúc ý thức tôi chìm đắm dần vào cơm mê thì tôi nghe văng
vẳng bên tai tiêng kêu... "tôi không thể, tôi không thể kiểm soát nổi
huyết của bà ta nữa rồi!" (có lẽ đó là tiếng kêu than của bác sĩ đang
theo dõi cơn sốt của tôi.
Rồi bỗng
nhiên torng khoảnh khắc, tôi thấy vô số những phần nhỏ li tu xuất hiện
tràn đến, tôi lâng lâng và cảm thấy nhẹ bỗng một cách lạ thường và tôi
thoát ra khỏi cơ thể của chính tôi dễ dàng như cởi bỏ bộ áo choàng và
cùng lúc như trút lại đàng
sau cơn đau khủng khiếp mà trước đó đã hành hạ tôi. Tôi như bay lên
phía góc của trần nhà trong căn phòng bệnh viện. Từ đó tôi thấy phía
dưới các bác sĩ, các cô y tá đang lăng xăng lo cứu mạng sống của tôi.
Một bác sĩ lộ vẻ bối rối, nét mặt lo âu thực sự vỉ có lẽ tôi đã chết
dưới nhận định của ông và của mọi người đang có mặt trong phòng. Tôi
nghe tiếng bác sĩ làu bàu như nguyền rủa cái gì đó và vô tình ông ngước
nhìn về phía
góc trần nơi tôi đang ở đó, nhưng chắc chắn là ông ta không trông thấy
được tôi. Một thoáng sau, tôi bắt đầu trôi dần vào một vùng sâu thẳm lạ
lùng, có thể ví đó là một đường hầm có miệng hun hút như cái giếng với
những lớp mây màu xám đục bao phủ nhưng tôi vẫn có thể thấy được mình
đang xuyên qua những lớp mây giăng phía trước... Tôi nghe bên tai tiêng
gió vun vún tôi như lướt đi mặc dầu lúc đó tôi không còn có thân xác nữa
vì thân xác tôi đang năm trên giường với tấm ráp phủ lên thân mình.
Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ lùng đến cùng với vầng sáng,
những tia sáng vàng rực rỡ và tôi hòa vào những ánh sáng ấy. Tôi có linh
cảm rằng mình đang đi vào nơi tận cùng của thế giới, đang qua một nơi
trung gian của thế giới tôi đang sống với thế giới khác... tôi muốn tiếp
tục tiến sâu vào nơi chan hòa ánh sáng lạ kỳ ấy nhưng lại như có cái gì
đó níu kéo tôi dừng lại. Tôi bỗng sực nhớ đến hai con tôi. Tôi không
thể xa chúng, tôi phải săn sóc chúng.
Thế rồi tôi lại thấy những chấm nhỏ li ti xuất hiện lần thứ hai y như
lúc tôi vừa bị rơi vào đường hầm hun hút. Tôi nghĩ mình đang quay về đường
cũ. Tôi đến gần thể xác mình và nhập vào cái thân xác bất động ấy. Sự
việc có vẻ tự nhiên và dễ dàng như lần tôi thoát khỏi thân xác mình. Tôi
cảm thấy mình có sức nặng và bỗng nhiên cảm giác đau đớn lại đến... vừa
lúc tôi nghe có tiếng động xôn xao và có tiếng kêu lên: "Bà ta đã sống
lại rồi kìa!". Sau đó, bác sĩ cho tôi biết là đứa con tôi vừa mới chào đời đã chết...
Từ đó, tôi luôn luôn giữ mãi những hình ảnh lạ lùng về những gì mà tôi đã trải qua, những hình ảnh ấy cứ chập chờn mãi trong tâm trí nhất là vào mỗi đêm
trước khi đi ngủ và tôi nghĩ rằng: "mình đã có một lần chết đi sống
lại", và tôi tự hỏi: phải chăng đoạn đường tôi mới bước qua là đoạn đường dẫn vào thế giới khác, một thế giới khác xa với thế giới mà tôi hiện đang sống.
Một trường hợp đặc biệt khác cũng đáng lưu tâm là ngay chính một bác sĩ
(thuộc khoa tâm thần học và là giáo sư bác sĩ tại một trung tâm y khoa
lớn kiêm bệnh viện thuộc đại học đường Virginia) trước đó cũng đã trở về từ
cõi chết tường thuật lại những gì ông đã thấy qua một lần chết đi sống
lại: Giáo sư bác sĩ George Richie, trước đây là một quân nhân bị bệnh
sưng phổi nặng nên được chuyển vào một bệnh viện lớn chữa trị. Thời đó,
thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi
vô cùng khó khăn và thường thường thì hết 90 phần trăm là người bệnh khó
thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Vì thế một thời gian ngắn khi được
chuyển vào bệnh viện, bệnh tình của George Ritchie ngày càng trầm trọng
và đã
qua đời. Các bác sĩ ở bệnh viện đã xác nhận rằng George Ritchie đã chết
nên người ta chuyển xác đến nhà quàng. Tại đây một số thủ tục giấy tờ,
khai tử và chuẩn bị đưa người chết vào quan tài đang được tiến hành và một mặt báo tin cho nhân viên trông coi về các
thủ tục nhập học và tiếp nhận sinh viên được gởi từ các nơi đến để được
huấn luyện các khóa chuyên môn tại đại học Virginia biết là khóa sinh
George Ritchie đã chết. Tuy nhiên bác sĩ trực nhật cho rằng điều nầy
không cần thiết vì thế việc báo tin cho đại học Virginia được bãi bỏ.
Trong lúc Ritchie nằm duỗi trên chiếc băng ca, bác sĩ trực khám lại một
lần nữa và lắc đầu thất vọng, ông nói, giọng rất trầm "chết thật rồi"
vừa nói, bác sĩ nầy vừa kéo hai cánh tay người chết cho thẳng ra để lòng
bàn tay úp xuống. Sau đó phủ tấm drap lên khắp thân xác người chết. Lúc
bấy giờ, nhà xác đầy người chết vì thế bác sĩ trực đề nghị cử người
canh xác và chính nhờ người canh xác nầy mà sau đó anh ta phát giác được
người chết đã cựa quậy dưới tấm drap trắng. Các nhân viên trực nhật khi
nghe người canh xác báo cáo sự việc đều. Chỉ có bác sĩ trực và cô y tá
chịu lắng nghe và họ đã đến bên xác Ritchie. Khi tấm drap được kéo khỏi
mặt Ritchie bác sĩ trực đã dùng 2 ngón tay lật mi mắt xác chết để quan
sát, trong khi đó, cô y tá thấy rõ ràng các ngón tay của Ritchie cử
động... và từ từ Ritchie mở mắt. Thế là George Ritchie, người quân nhân
chết vì bệnh sưng phổi đã sống lại một cách kỳ lạ và vì cơ thể còn quá
yếu nên phải nằm bệnh viện chờ bình phục một thời gian khá lâu và sau đó
mới được chuyển về trại
Barkey rồi sang Âu Châu phục vụ trong quân đội ở ngành quân y. Sau cuộc
chiến, George Ritchie tiếp tục vào học ngành y tại đại học Virginia và
tốt nghiệp khoa bác sĩ.
Bác sĩ George Ritchie đã nhớ lại những gì mà mình đã trải qua trong
suốt khoảng thời gian coi như đã giã từ cõi đời. Mọi chi tiết bác sĩ đều
ghi lại thật đầy đủ và về sau
câu chuyện có thật nầy còn được giáo sư bác sĩ Wilfred Abse ở đại học
Virginia kể lại và nhất là giáo sư Carey Williams và chuyên gia khảo cứu
các vấn đề luần hồi là Sylvia Cranston mô tả lại rõ ràng.
Theo lời kể của chính bác sĩ George Ritchie thì khi đang nằm trên
giường của bệnh viện, tự nhiên ông ta cảm thấy thân xác rã rời rồi một
bức màn xám đen từ đâu phủ ập lên đôi mắt ông nghe mơ màng có tiếng
người chuyển động, tiếng bàn tán và lời của bác sĩ trưởng nói: "đã tắt
thở rồi!". Lúc bấy giờ theo lời của bác sĩ George Ritchie: "tôi không có
y nghĩ gì khác lạ cả. Tôi chỉ cảm thấy mơ màng thôi nhưng tâm trí tôi
rất sáng suốt tôi nhớ là tôi được tuyển chọn để được huấn luyện chuyên
môn về ngành
y tại đại học Virginia nhưng vì bệnh phổi nên phải tạm vào điều trị ở
bệnh viện. Giờ đây tôi phải đến trường đại học gấp vì ở đó đang chuẩn bị
lể khai giảng khóa mới. Tự nhiên tôi cảm thấy cơ thể mình lạnh buốt.
Tôi phải thay quần áo và thế là tôi đi tìm. Bỗng nhiên tôi thấy một
người nằm trên giường mà tôi đang nằm. Tôi nhìn không lầm vì giường có
ghi số rõ ràng. Tôi cảm thấy lạnh quá, phải tìm quần áo ẩm để mặc vào
mới được. Tôi thấy một sĩ quan đang bước qua nên tôi vội vã chạy lại yêu
cầu ông giúp đỡ nhưng tôi có nói bao nhiêu ông ta cũng mơ hồ như không
nghe thấy mà cứ bước đi tự nhiên. Thời giờ gấp rút quá nên tôi, quyết
định chịu rét để đi nhanh đến trường đại học y khoa tại Virginia cho
kịp. Tôi cảm thấy mình lướt đi như những gì thường gặp trong mộng khi di
chuyển. Tôi thấy một con sông rộng rồi cây cầu dài bắt qua sông để tới
một thành phố lớn. Thành phố nầy quả thật tôi chưa bao giờ đến tôi thấy
một tiệm giải khát, tiệm Bia và cả tiệm cà phê nữa. Tại đây tôi gặp một
vài người và hỏi họ tên đường và tên thành phố nhưng chẳng có ai trả lời
tôi cũng như thấy tôi cả. Có lần tôi đập tay lên vai một người khi tôi
hỏi nhiều lần nhưng người nầy vẫn không nói. Tuy nhiên tay tôi như chạm
vào khoảng không. Người nầy có gương mặt tròn và cằm có sợi râu dài. Sau
đó tôi đi đến bên một người thợ điện đang loay hoay quấn dây điện thoại
vào một bánh xe lớn. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình khác người và
rõ ràng chẳng có ai trông thấy tôi mặt dù tôi thấy tất cả mọi người.
Tôi nghĩ rằng nếu cứ như vầy mà tìm đến đại học Virginia thì quả là bất
tiện nên tôi quyết định trở lại bệnh viện tôi đi đến nhà xác, hàng trăm
người đang nằm trên giường. Tôi đi loanh quanh để tìm chỗ nằm của mình.
Tôi thấy một cái xác đã phủ tấm drap trắng, nơi ngón tay của xác nầy có
đeo một chiếc nhẫn mà thoạt nhìn tôi đã cảm thấy ngờ ngợ một cách lạ
lùng. Tôi nhớ là tôi cũng đeo một chiếc nhẫn như thế. Tôi cúi xuống nhìn
thật kỹ, rõ ràng bàn tay có những đặc điểm giống tay tôi... và cái
giường số giường lại chính là số giường tôi đã nằm. Vây đây chính là
thân xác của tôi, tôi đã chết thật rồi sao? Nhưng tôi không có cái cảm
tưởng rằng mình đã chết, tôi thấy đủ thứ như đang còn sống. Chỉ có điều
mà trước đó tôi phải phân vân là hình như chẳng có ai thấy tôi cả. Tôi
cố gắng kéo tấm drap phủ lên các thân xác mà tôi nghĩ là của tôi, ý chí
của tôi thì muốn hành động nhưng tôi không thể nào kéo được tấm drap phủ
mặt cái xác ấy. Tôi cố gắng nhiều lần nhưng tôi không tài nào làm được
và cuối cùng tôi nhận rõ rằng quả thật tôi đã chết. Vừa lúc đó tự nhiên
tôi cảm thấy trong phòng nhà xác sáng rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng
tôi chưa bao giờ thấy và tôi như bị lôi cuốn theo cái nguồn sáng lạ kia,
tôi đã thấy những cảnh trí mà từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa
bao giờ thấy, những cảnh trí mà tôi cảm tưởng rằng chỉ có ở thế giới bên
kia vì những con người ở đây thường không rõ ràng, mờ ảo, vó vùng tối
tăm, có vùng chan hòa ánh sáng mà những nhân vật hiện diện giống như
những thiên thần.
Sau đó tự nhiên vầng sáng giảm dần, tôi cảm thấy muốn quay về.
Trong phút chốc tôi thấy lại những căn phòng, những thân xác bất động
trên giường và tôi tiến tới chiếc giường mà trên đó là thân xác tôi. Tôi
như bị cuốn hút vào cái thân xác đó, tôi từ từ chuyển động các ngón tay
và cuối cùng mở mắt ra. Một lúc sau, bác sĩ và cô y tá đã ở trước mắt
tôi, nét mặt rạng rỡ. Tôi đã sống lại, đã thật sự sống lại...
Những gì mà sau đó George Ritchie kể lại đã làm một số bác sĩ trong
bệnh viện ngạc nhiên. Điều kỳ lạ đáng lưu ý là những gì mà Ritchie đã kể
và đã
ghi chép lại trong tập nhật ký đều chứng thực sau đó. Như trường hợp lạ
kỳ sau đây: Sau khi câu chuyện đi vào thế giới sau cõi chết của Ritchie
đã mô tả được một năm thì Ritchie phải trở về trại Barkey và được
gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân đội. Trên đường xe
chơ Ritchie đã đi qua một thành phố mà trước đây một năm trong khi coi
như đã chết, Ritchie đã đi qua, nào tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu
dài bắt qua sông, những khúc đường rẽ, những bảng hiệu và kỳ lạ hơn nữa
là cái cột điện thoại mà trước đây tôi đã đi xuyên ngang qua thân thể
của một người thợ điện đang quấn dây điện thoại... Đây là thành phố ở
gần chân thành Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà chưa bao giờ
George Ritchie đã đi qua.
Ngày nay
George Ritchie đã là Viện Trưởng Viện tâm thần ở Charlotsville và không
bao giờ quên rằng mình đã có lần chết đi sống lại cũng như không bao giờ
quên những cảnh giới lạ lùng ở bên kia cõi thế gian mà loài người đã
sống.
Nhà nghiên cứu hiện tượng tâm
lý Sushil Bose đã tìm gặp trực tiếp những người đã từng nhớ lại tiền
kiếp để phỏng vấn họ. Năm 1939, ông đã viết một báo cáo chi tiết về cuộc phỏng vấn giữa ông và cô gái Ấn Độ tên là Shanti Devi. Cô gái nầy đã nhớ lại rất rõ ràng về tiền
kiếp của mình. Cô cho biết trước đó tên cô là Lugdi Devi, vợ một người
tên là Pandit Kendermath Chowbey. Nhưng rồi bị một tai nạn nhiễm trùng
và qua đời. Nhà nghiên cứu tâm linh Sushil Bose đã hỏi Shanti Devi như
sau:
- Shanti nhớ rõ về tiền kiếp mình thì có thể nhớ lại những gì xảy ra trước và sau khi chết đó?
Shanti trả lời là nhớ rõ. Và sau đây là một phần của cuộc phỏng vấn đó.
- S, Bose: Shanti hãy thuật lại những gì đã xảy ra vào lúc đó.
- Shanti: Khi ấy tôi cảm thấy mình như mơ màng đi vào cõi sâu thẳm tối
đen rồi sau đó lại thấy ánh sáng chói lọi tỏa rạng dần dần. Đó là thứ
ánh sáng chan hòa kỳ diệu làm hoa mắt. Chính vào lúc đó, tôi biết được
rằng mình đã lìa khỏi thân xác mình qua dạng thể một làn hơi và chuyển
động lên cao dần.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có thấy cái thân xác của mình không?
- Shanti: Lúc đó tôi chỉ có cảm tưởng là đã
lìa khỏi thể xác, mặc dầu tôi như chuyển động lên cao nhưng tôi lại
không nhìn xuống mà chỉ mãi lo nhìn ngắm cái ánh sáng lạ lùng bao phủ
quanh mình. Có lẽ lúc đó nếu nhìn xuống ngay khi tôi có cảm giác mình
tách rời thân xác tôi có thể thấy được thân xác mình.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có cảm giác đau đớn mỏi mệt yếu đuối hay không?
- Shanti: Không! lúc đó tôi không thấy một chút gì gọi là đau đớn mệt mỏi cả. Trái lại tôi thấy mình nhẹ nhàng thanh thản lạ lùng.
- S, Bose: Sau đó còn điều gì xảy ra?
- Shanti: Khi đó, trong cái áng áng chói lọi rực rỡ ấy, tôi thấy có bốn
người mặc áo dài màu vàng sẩm cùng xuất hiện. Những người nầy đều rất
trẻ khoảng 14, 15 tuổi. Trông họ tươi sáng như những thiên thần. Những
người nầy đi về phía
tôi với dáng vẻ nhẹ nhàng thanh thoát. Trước mắt tôi là một ngôi vườn
đẹp tuyệt vời, cái vẻ đẹp mà chưa bao giờ tôi đã thấy được ở thế gian
nên khó mà mô tả cho hết được... Rồi tôi thấy 4 người hồi nãy tiến gần
và nhấc bổng tôi lên cao. Tôi cảm thấy một niềm lâng lâng khó tả lan
khắp người. Tôi chẳng có ý niệm gì nữa về thời gian. Chẳng có mặt trời, mặt trăng, cũng chẳng có ngày đêm.
Tất cả đều chan hòa trong cái ánh sáng vô cùng tỏa rạng, ấm áp, huyền
diệu, lung linh sinh động lạ thường. Tôi chẳng biết nói hay diễn tả làm
sao cho hết những gì tôi đã thấy vào lúc đó. Điều kỳ lạ là lúc nầy hình
như tôi không còn lệ thuộc vào những giác quan mà con người có lúc còn
sống để nhìn, để nghe, để cảm xúc.
Điều đáng lưu tâm là khi kho6ng còn lệ thuộc vào giác quan mình nữa thì
tri giác lại trở nên bén nhạy vô cùng. Dù giác quan con người có tinh
xảo đến mấy cũng không giúp con người thấy được xuyên tường, nhưng nếu
không còn hiện hữu cơ thể phàm trần hay cơ quan thị giác chẳng hạn thì
lại có thể thông suốt được cả bức tường như không và điều nầy cũng thể hiện cho các giác quan khác, ở lãnh vực nghe, cảm nhận, ngửi...
Trên đây là một số sự kiện thu thập được từ các nhà tâm lý, khoa học,
các nhà y học khi họ tiếp xúc được với những người có khả năng nhớ lại
tiển kiếp hay đã có lần chết đi sống lại, những người đã có kinh nghiệm
với cái chết. Những người nầy may mắn có được ý niệm về những
gì gọi là sự chết và linh hồn. Giáo sư H. H. Price (tại Đại học Oxford)
cho rằng: Linh hồn của con người là một phương tiện của ý thức hay nói
rõ là hơn là một công cụ của sự hiểu biết và trong cuộc sống, từ cổ đại
đến nay kinh nghiệm ở mỗi con người đã có được những sự kiện để chứng
minh rằng có cái gì đó ngay trong thân xác họ. Nhiều chứng nhân và nhiều
sự kiện được chứng minh về sự
hiện hữu của linh hồn và còn khẳng định rằng linh hồn không chỉ đơn
thuần là một thể luân phiên thay đổi cho thân xác mà còn là một thể siêu
việt hơn nhiều vì giữ những vai trò then chốt, quan trọng trong vấn đề
suy nghĩ, cảm nhận, cũng như là cầu nối cho những cuộc sống khác tiếp
diễn...
Nhà nghiên cứu
Robert Crookall vừa là nhà tâm lý học vừa là nhà khoa học (ông là giáo
sư khoa học tài nhiều trường Đại học và là hội viên của nhiều hiệp hội
chuyên nghiên cứu về các hiện tượng siêu nhiên huyền bí). Khi nghiên cứu và tìm hiểu về sự
hiện hữu của linh hồn, ông đã sưu tập vô số các sự kiện liên quan và
nhất là gặp gỡ những nhân vật đáng tin cậy, đặc biệt những người có lần
đã trông thấy tận mắt cái mà con người thường gọi là hồn hay linh hồn. Ô
đã ghi chép tất cả những gì đã thu thập và hệ thống rõ ràng. Sau đây là
một số hình ảnh và màu sắc về linh hồn mà Robert Crookall đã sưu tầm được.
"Theo tổng kết của R. Crookall thì linh hồn thể hiện dưới nhiều hình
dáng và màu sắc. Theo Muldoon thì mờ sáng như sương khói, đôi khi như
đầy hơi nước hoặc như vầng mây nhỏ màu trắng không hoàn toàn trong suốt.
Hình ảnh nầy chỉ hiện rõ trong khoảng một vài phút đồng hồ rồi tan
biến. Chính ông Edgar Cayce, người có khả năng xuất hồn để chữa bệnh (
nổi tiếng ở Hoa Kỳ) cũng thường mô tả linh hồn giống như lớp sương hay
khói mờ. Maurice và Irene Elliot cũng đã thấy phần thoát ra từ thể xác
người chết có màu trắng như lớp sương mù. E. W.Oaten thì: "giống như hơi
nước bốc lên".
Bác sĩ Charles Richet xác
nhận rằng: tôi thấy ngay tại giường người chết có một đám mây từ từ
thoát khỏi thân xác người chết. Trong tài liệu sưu tập của Robert
Crookall có nhiều phần mô tả như thế và đó
là những mô tả do chính các nhân chứng như bác sĩ Whiteman, bác sĩ
Simons, giáo sư E. Boano, bác sĩ Gilbert (Alice Gilbert), bác sĩ
A.J.Davis, bác sĩ D.P.Kayner, bác sĩ Hereward Carrington...
Theo một số nhân chứng mà phần lớn là bác sĩ và y tá thì phần sương
khói ấy sau khi thoát ra khỏi cơ thể vẫn còn ở cách cơ thể một khoảng mà
không rời hẳn. Điều kỳ lạ là sự xuất hiện của một dảy sáng mờ giống như
giải lụa nối liền người chết với phần mờ đục như khói sương của cái mà
ta thường gọi là linh hồn.
Ngoài ra những
hình ảnh đáng ghi nhớ khác còn được nhiều nhân chứng đáng tin cậy trông
thấy mà mô tả lại. Đó là sự xuất hiện của một giải màu sáng trắng xuất
phát từ phía sau đầu (tiểu não hay ở thùy chẩm) của người chết nối liền
với phần mờ đục thoát ra khỏi thể xác người chết (linh hồn).
Trong cuốn Out of the Body Experiences, nhà nghiên cứu Robert Crookall
đã mô tả chi tiết các sự kiện vừa trình bày trên đây. Ông đã tiếp xúc
với các nhân chứng, họ là những nhà khoa học, những y tá, những bác sĩ.
Như bác sĩ R.J.Staver, giáo sư Hitchcock, bác sĩ Hout, các nhà khoa học
như J.Bertrand. Oliver Fox, Reverend L.J.C.Street bác sĩ D.P.Kayner,
giáo sư M.Eliade, bác sĩ E.W.Oaten, bác sĩ A.J.Davis và Raynor
C.Johnson... Những người nầy đều đã chứng kiến rõ ràng một khối hơi
thoát ra từ cơ thể người vừa tắt thở và trước đó khối hơi còn nối kết
với thân xác bằng một giải màu sáng đục rung động và khi sợi dây nầy
rung động mạnh và đứt
lìa thì chính là lúc người chấm dứt sự sống, có nghĩa là "hồn đã lìa
khỏi xác" Không còn liên hệ gì với thân xác nữa (vấn đề nầy đã được
trình bày đầy đủ chi tiết trong cuốn Những bí ẩn sau cõi chết - đã xuất bản"
Tóm lại. Hiện tượng về sợi
dây liên kết giữa thân xác người chết và phần giống như sương khói
thoát ra từ thân xác ấy mà người ta thường gọi là hồn hay linh hồn đã là
sự kiện mà các nhà khoa học và nhất là giới y học hiện nay quan tâm và
ra sức nghiên cứu vì như đã trình bày từ trước, nếu sự kiện nầy là có
thật như nhiều chứng nhân đã thấy rõ ràng thì chắc chắn sẽ phát sinh
thêm những ngành chuyên về sự
chết như linh hồn học, tử sinh học... Các nhà khoa học cố gắng tìm cách
để có thể cụ thể hóa qua hình ảnh rõ ràng và sợi dây bạc ấy, họ không
muốn với tinh thần khoa học thực nghiệm lại chỉ vào những lời kể, mô tả
của những nhân chứng dù là các nhà khoa học đáng tin cậy đi nữa mà không
có bằng cớ rõ ràng. Vì về thu
hình đã cố tìm cách ghi lại hình ảnh mà những gì có được lúc con người
vừa trút hơi thở cuối cùng. Một số hình ảnh chụp được khối hơi thoát ra
từ cơ thể người mới chết, nhưng những nhà nghiên cứu còn muốn thu được
những hình ảnh rõ ràng về sợi
dây bạc (Silver core). Schrench Notzing, giáo sư bác sĩ nổi tiếng thế
giới, trong cuốn Phenomena of Materialisation (1928 - Kegan Paul) đã cho
rằng, qua những ảnh chụp về những
gì liên hệ đến khối hơi hay sợi dây bạc, tuy không rõ nét nhưng dù sao
đó cũng là một hình ảnh đáng lưu tâm. Có thể hình ảnh ấy chỉ là lớp
ngoại mạo che dấu bên trong nhiều bí ẩn hơn.
Theo một số lớn các nhà khoa học thì hình ảnh cho thấy như là một khối
siêu vật thể ấy khi tách khỏi cơ thể tức là sự sống không còn, giống như
dòng điện đã ngưng truyền nguồn điện lực vào cái máy.
Tôi rất thích những bài viết về nội dung này, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa