Giang hồ Sài Gòn
Chương VIII
Giang hồ Sài gòn xưa khác nay
ác giả viết bài này từng bị giam tại chuồng cọp trại 7, khu C, Côn Đảo
gần hai năm (từ giữa năm 1973 đến 30-4-1975). Trong số tám khu biệt giam
chuồng cọp thuộc trại 7, riêng khu C đúng nhốt tội phạm hinh sự “thú
dữ” và bọn du đãng “có vằn có vện”.
Cứ hai người một phòng giam, luân phiên một vài tháng lại đổi người, nên tôi có dịp làm quen, tìm hiểu khá kỹ về giới giang hồ năm xưa. Khi bị giam ở Chí Hoà, tôi còn gặp cả bọn Chương Khùng, Việt Parker - và trước nữa, trong lần ở tù 1965-1970 là Đại Cathay, trùm du đãng nổi tiếng nhất hồi đó - nên có thể nói phần nào tôi có điều kiện “thâm nhập” giới này.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, khoảng giữa những năm 1980, con trai tôi học Taekwondo tại võ đường Hồ Xuân Hương, quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh, chung với con trai của Năm Cam. Và nhân một lần tổ chức sinh nhật
cho con trai tôi tại nhà riêng (tôi cho phép con mời một số bạn học
việc và bạn học võ chung lớp), Năm Cam chở con trai y tới nhà tôi làm
quen. Hinh như Năm Cam cố ý tìm cơ hội đến làm quen với tôi (khi ấy tôi
đang làm phó Tổng Biên tập Bảo Công an TP. HCM, tạm gọi là có chút địa
vị. Và tôi trở thanh một trong những nhà báo đầu tiên - nếu không dám
nhân là nhà báo đầu tiên - quen biết với Năm Cam. Thế là thông qua Năm
Cam và đàn em của y, tôi cũng biết thêm khá nhiều về giới giang hồ tại TP. HCM sau này.
Do đó, căn cứ vào hiểu biết cả nhân, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số nhận xét của mình về những điểm khác biệt của giới giang hồ xưa
và nay. Tất nhiên những nhận xét của tôi hoàn toàn do chủ quan, rất có
thể phiến diện, còn nhiều sai sót và không được nhiều người đồng tình.
Tôi xin sẵn sàng tiếp thu những ý kiến khác, kể cả trao đổi bổ sung,
thậm chí đối lập với ý kiến của tôi.
Tôi không kể những điểm giống nhau trong giới giang hồ,
vì thời nào chẳng vậy, họ là thủ phạm gây nên nhiều vụ án hinh sự
nghiêm trọng từ cướp của tới giết người, từ đâm thuê chém mướn tới đánh
lộn đánh lạo, từ tổ chức sòng bạc, buôn bán ma tuý tới cho vay nặng lãi,
bảo kê các vũ trường, quán bar, thậm chỉ gầy động mãi dâm, v.v… và v.v…
Mặt khác họ tìm cách hối lộ, mua chuộc các quan chức trong bộ máy nhà
nước, nhất là quan chức trong các lực lượng liên quan đến pháp luật như
công an, toà án, kiếm sát. Họ cũng “kết” với một số nhà báo, nhà văn đề
khti viết bài tố cáo họ (nếu những người này viết tốt về họ thì càng
hay), thậm chí đưa “phòng bì” cho số được coi là nhà báo, nhà văn nay
(trong vụ án Trương Văn Cam, có hai nhà báo liên quan, đã nhiều lần nhận
tiền của hắn nên cũng bị ra toà, lãnh án tù là Nguyễn Hoàng Linh của
bảo Tuổi Trẻ và Võ Quang Thắng của báo Công an TP.HCM).
Tuy nhiên, trong giới giang hồ trước đây luôn có một số điều luật bất thành văn mà giới giang hồ sau này không tôn trọng.
Trước hết, giang hồ cũ
không bảo giờ “đụng” với quan chức thực thì pháp luật. Đại Cathay lẫy
lừng là vậy mà sau lần lỡ tay giựt cùi chỏ đánh Cò Ly (Trưởng ty Cảnh
sát quận 1) tại vũ trường Tự Do đã phải trốn chui trốn nhủi, nhờ người
đứng ra dàn xếp, xin lỗi. Kết cuộc, Đại Cathay phải chịu hinh phạt của
Cò Ly: Cấm không được lui tới những vũ trường, nhà hàng mà Cò Ly đã có
mặt trước - Cò Ly cho rằng Đại Cathay đã phạm tội “khi quan” (!)
Cũng vì dám động đến đám lính không quân (dù chưa làm ai bị thương chớ đừng nói đến chết) mà nguyên đám giang hồ của Đại Cathay bị xoá sổ vào năm 1966.
Giang hồ sau
này khác hẳn; đụng quan chức, kể cả công an cũng “chơi” luôn: Dám dùng
dao đâm chết cảnh sát Phan Lê Sơn ngay tại một quán nhậu ở trung tam
thành phố.
Thứ nhi, tuy dân giang hồ thời
trước cũng có đủ loại vũ khí, từ dao lê, mã tấu, côn nhị khúc… đến
súng, lựu đạn; nhưng “hang nóng” (tức súng, lựu đạn) chỉ dùng để ăn cướp
mà không bao giờ dùng đến khi thanh toán nội bộ hoặc đấu đá, thu phục
lẫn nhau.
Thí dụ, khi Đại Cathay muốn thâu tóm băng của Tin Mã Nàm ở khu vực Đại
Thế Giới, Chợ Lớn, Đại chỉ huy đống binh hùng tướng mạnh mang theo dao
búa gậy gộc tấn công đối thủ. Phe Tín Mã Nàm cũng vậy, chỉ dùng “tay
nghề” tức võ thuật và tài sử dụng dao búa để kháng cự, dù cả hai phe
súng ống đầy dẫy. Nhiều lần đụng độ bất phân thắng bại, có khi mỗi bên
xuất quân tới mấy chục, nhưng chưa khi nào nghe tiếng súng nổ, cũng do
đó bình thường đôi bên chỉ bị thương chớ không ai bỏ mạng bao giờ)
Giang hồ khi
xưa quan niệm, khi chỉ dùng “tay nghề” thi đấu, bên nào thua mới tâm
phục khẩu phục. Cho nên, những “đại ca” thời trước đều phải vừa gan lì,
vừa phải thường xuyên thao dợt võ nghệ, tập luyện thân thể, kể cả trong
tù. Võ của anh em hầu hết không theo một trường phái cụ thể nào, không
nhằm muá cho nhuyễn, “đi bài” cho đẹp, nhưng là những đòn thế giang hồ theo kiểu tổng hợp “thập cẩm” chủ yếu là làm bất cứ cách nào hạ được đối thủ, sát thương đối thủ như chơi.
Trong khi giới giang hồ bây
giờ hở một chút là “chơi hàng nóng”. Cụ thể như Bình Kiểm, mau chóng có
số má chỉ nhờ vào mấy khẩu súng. Hoặc Châu Phát Lai Em, nổi lên bước
đầu nhờ khích một tay đàn anh đấu võ tay không, riêng Lai Em lén giấu
dao trong áo, khi thấy nguy cơ thua liền rút dao đâm diệt đối thủ…
Thứ ba, giang hồ ngày
trưởc, dù đã lên đến hạng “đại ca” vẫn sẵn sàng trực tiếp thi thố tài
năng khi cần thiết. Đại Cathay khi cùng một lô tay em lên Đà Lạt, gặp
trùm du đãng xứ sương mù là Xi Rỗ, Đại Cathay chơi “pạc co (par corps
tức đấu tay đôi) liền, không chút sợ hãi (nếu là Năm Cam hay Hiệp Phò
mã, dám chắc cả hai bỏ chạy có cờ).
Thứ tư, ngày trước đã mang danh dân giang hồ là
phải “chơi đẹp”. Tất nhiên không phải hiểu “chơi đẹp” theo nghĩa thông
thường là chi tiêu hào phóng, rộng rãi; mà là đối với bạn bè - dù bất cứ
thành phần đối tượng nào đã kết thân coi như bạn - phải đàng hoàng,
không nói dóc, hứa cuội, mà giữ gìn chữ tín, nể trọng lẫn nhau.
Mãi đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận một chuyện: Khoảng đầu 1977 tôi gặp
lại Huệ Râu, trước bị giam chúng với tôi tại chuồng cọp khu C, trại 7.
Anh em mừng mừng tủi tủi, ôn lại đủ thứ chuyện hồi
bị giam chung tại khu C trại 7 ngoài Côn Đảo. Thấy anh gầy và xanh, tôi
sực nhớ có nghe một cựu tù nhân kể anh chơi xi ke, tôi hỏi nhưng anh
chối. Tôi nói dứt khoát: “Nếu anh không chơi thứ đó thì tốt. Nhưng nếu
còn dính đến xì ke thì đừng gặp tôi nữa”. Từ đó tôi không bao giờ gặp
lại anh, sau này nghe tin anh chết mà vẫn không bỏ được thứ ma tuý ấy.
Phải chi lúc ấy tôi đừng qua “căng” hoặc Huệ Râu cứ nói dối tôi có thể
sự việc đã đổi khác. Tôi kết thân với anh em giang hồ cũ chính là nhờ điểm này. Đến tận lúc chết, Lâm Chín ngón vẫn tự coi là “đàn em” của tôi một cách rất thật tình.
Giang hồ thời nay không thiếu gì kẻ lừa thầy phản bạn, bán đứng anh em, từ “chơi đẹp” gần như đã chìm hẳn vào quá khứ.
Cũng chinh một phần nhờ “chơi đẹp” mà giang hồ năm
xưa mới nổi đình đám, được cảm tình của một số người, trong đó các
doanh nhân, văn nghệ sĩ, và cả một số lính, cảnh sát của chế độ cũ (như
Lành là cảnh sát Tổng nha theo làm tài xế cho Đại Cathay; Sáng và Cu Quì
là người nhái làm đàn em của Đại…).
Thêm một câu hỏi: Tại sao giang hồ Sài gòn lại rộ lên, với khá nhiều đồn đại (đôi khi không có thực) vào quãng 1962-1967, để rồi tàn lụi? Những thế lực giang hồ về sau này không thể có một vài phong cách hành xử “đẹp” như như Đại Cathay và đàn em trong một số trường hợp, tại sao?
Có thể đưa ra hai lý do để tạm giải thích.
Thứ nhất, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, các tướng lãnh (nguỵ)
cũng như các chính trị gia khi ấy chỉ lo đấu đá, hết đảo chính lại
“chỉnh lý” rồi bầu cử (dỏm) để tranh chức tranh quyền, không mấy chú ý
đến trật tự an toàn xã hội. Tổng nha Cảnh sát chủ yếu lo đối phó với Mặt
trận Giải phóng miền Nam và đán áp sinh viên học sinh xuống đường, biểu
tình chống chiến tranh, chống Mỹ-nguỵ, mà lơ là số du đãng quấy phá.
Mãi đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống, thế chính trị đã tạm
ổn, mới quay ra lập ra “Uỷ ban bài trừ du đãng trung ương” thì giang hồ đã đủ lông đủ cánh, thành một “thế lực” có tiếng tăm khá vang dội.
Thứ nữa, khoảng giữa những năm 1960 là lúc triết học hiện sinh của Jean
Paul Sartre ảnh hưởng khá nhiều đến miền Nam Việt Nam nói chung, giới
thanh niên nói riêng. Rất tiếc, quan niệm “dân thân” (s'engager) của nhà
triết học nổi tiếng người Pháp này lại bị hiểu theo một nghĩa khác là
“sống hết mình”, kể cả ăn chơi, trác táng cũng hết mình. Không ít thanh
niên - nhất là số có nền văn hoá từ trung bình trở xuống - đã thể hiện
quan niệm sai lệch này. Đồng thời đây phải chăng cũng là biểu hiện của
không ít thanh niên khi ấy bế tắc trước cuộc sống: Tương lai mình không
biết đi về đâu trước tình hình thối nát của chế độ miền Nam khi ấy,
trong khi không dễ gì tự mình tìm đến với cách mạng, và cũng không dễ gì
có gan đi theo cách mạng.
Suy cho cùng, giới giang hồ cũng
chỉ là một sản phẩm của xã hội. Chính xã hội bát nháo khi đó, với
“thượng tầng kiến trúc” là các “chính khứa” xôi thịt đấu đá nhau, tranh
giành quyền lực đã tạo ra lớp giang hồ ấy…
Tôi còn nhớ đoạn được đoạn mất của một bài thơ sặc mùi “hiện sinh” mà
Đại Cathay và Lâm Chín ngón rất mê, học được khi “đoong thóc” (tức nằm
hút thuốc phiện) tại tiệm Khang Sinh (nằm gần khu Đại Thế Giới - vốn là
nơi nhiều văn nghệ sĩ và dân giang hồ thời trước thường lui tới), từng đọc cho tôi nghe:
Hắn mái tóc nâu vương niềm đau thế kỷ
Quần blue jeans chung thuỷ bạc thời gian
Bastos xanh gắn chặt ngón tay vàng…
Theo thời gian hắn vươn mình cuồng loạn
Lớp trẻ đôi mươi hôm nay cởi mở lòng
Và trọn vẹn cho hắn sống
Dù mất hồn như François Sagan, David Victor,
Tương lai đâu?…
Hai giờ đêm có kẻ mất hồn
Hè đại lộ, bar, show, dồn dập on night
Lê gót giầy nghiến từng lưng phố sá
Crazy love, kêu em về mộng mị đắm say…
Tuy nhiên, cũng chính nhờ hiểu lõm bõm về Sartre, Albert Camus, Andre
Gide mà du đãng khi ấy còn ghi được một vài nét được gọi là “đẹp” của
giới giang hồ như trên đã viết: Họ muốn tự coi mình vốn là người đàng hoàng, chẳng qua thời thế đưa đẩy mới trở thành giang hồ, và dù là giang hồ vẫn có những hiểu biết nhất định về cách đối nhân xử thế.
Tiếc thay, vài nét được gọi là “đẹp” của giới giang hồ khi
ấy cũng mai một dần, biến tướng dần, trong khi những đặc trưng khác của
xã hội đen như cướp giật, thủ đoạn, tranh giành địa vị, thanh toán lẫn
nhau, kết bè kết phái, mua chuộc hối lộ… ngày càng phát triển; hầu như
trở thành bản chất của các băng nhóm tội phạm hiện nay - sau hơn 40 năm.
Vũ Quang Hùng
HẾT
Mỗi giai đoạn phải có những ứng xử khác nhau, vì thời cuộc và những luật không thành văn; và giới giang hồ cũng như vậy
Trả lờiXóa