Trong
đời sống, chúng ta thường bắt gặp những thành ngữ
như: Giấc Nam Kha, Tây Thi, Nguyệt Lão, Liễu Chương
Ðài ... hoặc Prômêtê, Gót Asin, Hồng Thủy ... hoặc
Tú Bà, Chí Phèo, Xuân Tóc Ðỏ ... Ðó là những Ðiển
tích, lấy trong văn hóa cổ, kim của Trung Quốc,
phương Tây, Việt Nam, thường là những tên người,
tên đất, những hình tượng văn học trong thần thoại,
truyền thuyết, văn học, lịch sử ..., đầy tính thơ
ca và chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa.
Với mong muốn làm phong phú thêm vốn sống của bạn
đọc, góp phần nhỏ bé nâng cao trình độ hiểu biết
văn hóa nhân loại, chuyên mục "Ðiển tích Văn
học" ra đời với mục đích ấy, mời các bạn đến
với chuyên mục của chúng tôi!
Bà
Ðế
Ngày
xưa, dưới triều Lê, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh
nam bắc, giặc giã nổi lên tứ tung trong nước. Ở
làng Đỗ Hải sát ven bờ biển miền Bắc thuyền bọn
cướp bể Tàu ô thường hay ra vào đánh phá. Một hôm,
một chiếc thuyền trận lớn từ phía tây nam dong buồm
thẳng vào vịnh Hạ Long, ngang đầu làng Đỗ Hải thì
rẽ lái vào bờ, tìm đến chỗ vắng vẻ mà thả neo. Trên
thuyền lớn ròng xuống một chiếc ghe nhỏ cho một
vị tướng trẻ tuổi cùng năm người lính hộ vệ lên
bờ. Trên cánh đồng cỏ cạnh bãi bể, một cô gái đang
cắt cỏ hát nghêu ngao. Vị tướng lắng nghe tiếng
hát ngọt ngào hướng đi về phía ấy. Người con gái
quê ngửng đầu lên, ngạc nhiên, sợ hãi thấy quan
quân trước mắt vứt liềm toan bỏ chạy. Vị tướng gọi
lại cho biết mình là một hoàng tử họ chúa Trịnh
đi tuần ngoài biển ghé qua đây, muốn vào làng. Cô
gái cắt cỏ nghe nói trở nên bạo dạn, dẫn đường đi
trước. Qua đỉnh một ngọn đồi nhìn ra khắp vùng,
hoàng tử dừng chân dưới gốc cổ thụ im mát, ra dấu
cho đám tùy tùng lui. Còn lại một mình với cô gái
quê da thịt dậy thì, hoàng tử kéo tay ôm choàng
lấy vào lòng. Cô gái cố vùng vẫy gỡ ra song hai
cánh tay khỏe mạnh càng siết chặt lại. Rồi chiếc
áo gấm hoàng bào phủ lên lớp vải nâu sồng. Đến lúc
cô gái quê mở mắt ra thì vị hoàng tử đã đâu mất,
thấy bên cạnh mình một nén vàng óng ánh trên cỏ.
Nàng đưa mắt nhìn ra phía biển, thấy chiếc thuyền
buồm đã chạy xa phía Hạ Long, chỉ còn một chấm trắng
trên nền trời. Tổn thương cả thể xác lẫn tâm hồn,
nàng ứa nước mắt cầm nén vàng lên rồi mạnh tay quẳng
vào bụi. Từ ngày đó, cô gái cắt cỏ mất cả giọng
hát hồn nhiên. Ba tháng sau, một hôm đội cỏ về nhà,
nàng bỗng thấy hoa mắt, trời đất như sụp đổ, ngã
lịm trên đường làng. Bụng nàng cứ lớn dần, bà mẹ
nghi ngờ tra hỏi, nàng tình thật kể lại việc đã
qua. Bà mẹ không ngớt lời chửi mắng, nguyền rủa
và đánh đập cô gái chửa hoang, rồi báo tin xấu hổ
cho chồng hay. Để tránh tiếng nhục nhã với làng
nước và khỏi phải phạt vạ, cả gia đình gồm ông bà
nội, cha mẹ và cô chú, bà bác họp lại để xử tội
đứa con gái bất hạnh. Muốn ém nhẹm tiếng xấu cho
giòng họ, mọi người đồng ý bắt nàng thả trôi sông.
Nàng bị đưa xuống ghe, trói tay chân lại, buộc đá
vào cổ, rồi chở ra ngoài khơi, đẩy xuống biển. Khi
quẳng nàng xuống biển, lạ thay người con gái chửa
hoang đeo nặng trĩu đá vẫn trồi lên mặt nước. Người
ta phải lấy sào nhận xuống một hồi xác mới chịu
chìm. Song từ đó, ghe thuyền qua lại vùng này thấy
cô gái thường hiển hiện trên sóng nước làm nhiều
việc linh ứng. Dân chúng miền duyên hải lấy làm
sợ hãi, dựng miếu thờ ở ngọn đồi trông ra biển,
gọi là đền Bà Đế ngày nay hãy còn dấu tích.
Chân
Nam Đá Chân Xiêu
Bấy
lâu nay, có lẽ nhờ vào nghĩa của từ "đá"
đứng giữa hai vế mà người ta đều hiểu đúng nghĩa
đen của thành ngữ này là "chân nọ đá vào chân
kia", và lại cũng có lẽ do hiểu từ "xiêu"
trong kết hợp "chân xiêu" một cách đơn
thuần là "xiêu xẹo" nên ngẫu nhiên người
ta cũng hiểu được nghĩa bóng của thành ngữ này là
"đi đứng không vững vàng". Nhưng tại sao
"chân nam" lại là chân này và "chân
xiêu" lại là chân kia ?
Thực
ra, "nam" là do "đăm", còn "xiêu"
là do "chiêu" đọc chệch mà thành. "Đăm"
và "chiêu" là hai từ cổ thuần Việt có
nghĩa "bên phải" và "bên trái".
Từ điển "Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh
Của (1895) còn ghi : "đăm" là "tay
mặt, tay hữu"; "chiêu" là "tay
trái, tay tả". "Đăm" và "chiêu"
còn thấy ở nhiều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
như :
"Tay
chiêu đập niêu không vỡ"
hoặc
"Gà
kia mày gáy chiêu đăm
Để chúa tao nằm, tao nghỉ chút nao".
"Đăm",
"chiêu" trong "gà gáy chiêu đăm"
hoặc suy nghĩ "đăm chiêu" đã thoát ra
khỏi nghĩa đen là "phải trái" để mang
nghĩa bóng là "lo nghĩ vất vả, lo nghĩ trước
sau". (Từ điển của hội Khai Trí Tiến Đức 1932).
Như
vậy thành ngữ "chân nam dá chân xiêu"
đọc đúng phải là "chân đăm đá chân chiêu"
tức chân phải đá chân trái để chỉ "trạng thái
đi đứng không vững vàng".
"Ông
cụ Bèo đi bán củi ở chợ Nghệ về, đã làm mấy chén
rượu ở chợ, chân đăm đá chân chiêu về đến nhà".
(Quang Dũng - "Nhà đồi").
Sau
nữa, nếu không đau ốm hoặc say sưa mà lại cũng "chân
nam đá chân xiêu" thì chỉ là những người "vội
vàng tất tưởi". Đây là nghĩa thứ hai của thành
ngữ này : "Nhà Chỉn cũng nghèo thay ! Nhờ được
bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai
cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần
trong mọi việc".
(Nguyễn
Khuyến).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét