Will Durant
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 1
Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant
PLATON
PLATON
1. BỐI CẢNH:
Nếu
bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như
một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo
Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL)
đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ
thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một
lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một
nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở
giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những
nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar,
nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về
phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những
xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam,
những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những
chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn
sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu
cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia
cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên
lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát
triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự
phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như
Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.
Hãy
nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes:
đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của
Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ
để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở
đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến
trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi
xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
Vào
khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối
hận thù để hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến
Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte
cung cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm
dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải
ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội
tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu
mạnh nhất thời
thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh nông và bị cô lập với thế
giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao
điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng
nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những
truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau
và được cô đọng lại. Trong khi có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau,
người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những
thương gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì
họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi
người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu
manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ
phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học
nảy sinh với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người
có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không
khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu
và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao trên trời không những để tìm
phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí
mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn.
Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người Hy lạp tìm
cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người
ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được giao phó
cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa
học, triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi
đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế
giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật.
Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360
tTL). Démocrite nói rằng: "trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không",
đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một
thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279
tTL) và Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của
nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận
gia đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho
chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình hơn tất cả mọi vật
trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý,
họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt
câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo
hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất
cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về mặt
chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho
rằng thiên nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất
cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình đẳng với các
định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói
buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác giống như Nietzsche cho rằng
thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên
nhiên con người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để
giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo đức tối thượng và sự
ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế độ quý tộc.
Sự
tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm
người giàu có ở Athènes họ tự lập một đảng gọi là lực lượng những người
ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái
dân chủ mà họ chỉ trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày
hôm nay. Trong số 400 ngàn dân của Athènes, đã có 250 ngàn thuộc vào
hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền chính trị, trong số 150 ngàn người
còn lại chỉ có một thiểu số được đại diện tại quốc hội để bàn cãi và
quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền dân chủ còn lại
đó là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ
xưa đến nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của
quốc gia, tối cao pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng
những kẻ hối lộ), số thẩm phán này được tuyển chọn theo thứ tự ABC trong
danh sách của toàn thể công dân. Không một chế độ chính trị nào dám
thực hành tư tưởng dân chủ đi xa đến mức độ ấy.
Trong
cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 tTL) lực lượng các
người ưu tú của Athènes do Critias lãnh đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế
độ dân chủ vì cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một
chính thể giống như chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều
lãnh tụ của lực lượng bị lưu đày. Sau khi chiến tranh chấm dứt với sự
đầu hàng của Athènes, một trong các điều kiện đình chiến là phải đại xá
cho những người trong lực lượng bị lưu đày. Những người này tôn Critias
làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập một chính phủ của lực
lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận. Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.
2. SOCRATE
Nếu
chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót
lại trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang phế thì ta sẽ nhận thấy rằng
Socrate có một diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và
tròn, một cặp mắt sâu và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn ... Cái mặt đó làm ta
liên tưởng đến một người gác cổng hơn là một triết gia danh tiếng vào
bậc nhất.
Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta sẽ thấy rằng, qua những nét khắc
trong đá, một cái gì hoà nhã và bình dị thoát ra từ bộ mặt đó, những nét
ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên thành Athènes kính
mến. Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu Socrate hơn
triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như Aristote. Sau
hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với
chiếc áo choàng thụng
thịnh bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn toàn
không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ họp những thanh
niên và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước
cửa các đền thờ để cùng nhau đàm đạo.
Những
người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những
người này đã tạo nên nền triết lý tây phương. Có những người con nhà
giàu như Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của
Socrate, cũng có những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống
nghèo nàn của Socrate và cho đó là một dấu hiệu của sự thánh thiện, cũng
có những kẻ chủ trương diệt trật tự như Aristippe, họ chủ trương một xã
hội không có nô lệ cũng không có chủ nô lệ, tất cả đều sống tự do và
không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề làm con người suy
nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được đem ra mổ xẻ
trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một cách thành thật rằng nếu cuộc
đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng
sống. Trong nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều
được đại diện.
Socrate làm gì để sống ?
Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao giờ nghĩ đến ngày
mai. Ông ăn khi nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời ông vì
xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì ông ta
không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du
thực chỉ đem về cho gia đình một ít tiếng tăm mà không bao giờ đem về
tiền bạc hoặc lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate,
những cuộc đàm đạo này, rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta
biết rằng bà ta yêu Socrate và rất đau buồn trước cái chết của người bạn
tinh thần.
Tại sao những môn đệ kính
mến Socrate đến thế ? Có lẽ tại rằng Socrate là một người trước khi là
một triết gia: ông đã khinh thường gian nguy để cứu Alcibiade trong vòng
tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối mà cũng không
đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất có
lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta: ông không tự cho rằng mình hiểu triết
lý, ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là
triết gia nhà nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là
người thông minh nhất của
xứ Hy lạp. Socrate cho rằng câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của
ông ta: "Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết". Triết lý
bắt đầu khi người ta biết hoài nghi, nhất là
hoài nghi những niềm tin của chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những
niềm hy vọng ao ước thầm kín, những khao khát đã trở thành những niềm
tin đối với chúng ta ? Biết đâu rằng những tư tưởng có vẻ khách quan chỉ
là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết lý nếu chúng ta
không chịu khó đi một vòng quanh và quan sát lại chính chúng ta: "Hãy tự
biết mình !" Socrate nói thế.
Trước
Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép
như Thalès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc như
Pythagore và Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết
gia hướng về vật lý, họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế
giới bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng khen, Socrate nói, nhưng có
một điều vô cùng quý giá hơn những cây cỏ, sông núi, trăng sao, đó là
con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến đâu ?
Rồi
từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý,
hoài nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta thường nói đến hai chữ công
bằng, Socrate liền hỏi công bằng là gì ? Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại
sao anh dám đem hai chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại ?
Danh dự là gì ? Đạo đức là gì ? Bản ngã của anh là gì ? Đó là những vấn
đề đạo đức và tâm lý mà Socrate thường tự hỏi. Có những người lấy làm
khó chịu về phương pháp của Socrate, một phương pháp đòi hỏi những định
nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những phân tích xác đáng. Họ
cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí con người nhiều
hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên Socrate đã để lại cho triết
học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của chúng ta: Đạo đức là gì? Quốc gia tốt đẹp nhất là gì ?
Không
một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã
làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh niên thành Athènes đối với các vị
thần thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các
vị thần thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi
của họ nếu không bị pháp luật ràng buộc. Một chủ nghĩa cá nhân lan tràn
và làm suy yếu đức tính của người Athènes khiến cho nước này trở nên một
món mồi ngon của liên bang Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân
chủ cực đoan đã làm say mê dân Athènes cũng đem đến nhiều điều bất
tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho quốc hội, các cuộc bầu cử
được tổ chức quá vội vàng, người có trách nhiệm như các tướng lãnh đã
được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định những nông phu,
thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự ABC là
những yếu tố làm tan rã một nền hành chính và chính trị vững mạnh. Làm
thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình
trạng suy đồi của quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên ?
Chính
vì trả lời cho các câu hỏi trên mà Socrate đã nhận lấy cái chết và đồng
thời trở nên bất tử. Phái thủ cựu có lẽ sẽ thương tiếc ông ta nếu ông
lên tiếng bênh vực lối thờ phượng đa thần của ngày xưa, nếu ông xúi giục
các môn đệ của
ông đến các nơi thờ phượng và dâng lễ cúng cho những đấng thần linh
ngày trước. Trái lại, Socrate cho rằng làm như vậy tức là đi ngược với
nền tiến triển của nhân loại, đó là một sự tiến tới diệt vong. Ông chủ
trương rằng chỉ có một đấng tối cao mà thôi, nhưng ông lại cho rằng một
nền đạo đức thực tiễn không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể
tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học, hoàn toàn
thích hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội có
thể được ổn định mà không cần đến thần học.
Nếu
có ai nhận thức rằng con người tốt là con người thông minh, con người
đức hạnh là con người khôn ngoan, nếu họ nhận thức được đâu là quyền lợi
chính đáng, thấu triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn
để khỏi cảnh hỗn độn tự diệt và đi đến một xã hội có kỷ cương, thì họ
đã nắm được cái tinh hoa của nền luân lý, họ không cần dựa theo lời răn
dạy của thần học hay những điều ngăn cấm khác.
Tất
cả tội lỗi đều do vô minh mà ra. Người trí huệ cũng bị cám dỗ bởi tham
sân si như người vô minh nhưng họ biết dùng trí huệ để chế ngự sự cám dỗ
và không rơi vào vòng tội lỗi. Một xã hội sáng suốt là một xã hội trong
đó người dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự
do thí ít. Trong xã hội ấy, ăn ở ngay thẳng là giữ đúng quyền lợi mình
và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội đều phát xuất từ sự
nhận định sáng suốt của cá nhân.
Nhưng
nếu chính phủ là một sự hỗn độn và phi lý, nếu chính phủ cai trị mà
không giúp đỡ, chỉ huy mà không lãnh đạo thì làm sao có thể thuyết phục
người dân đồng hoá quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội ? Alcibiade
nổi loạn chính vì để chống một chính phủ lung lạc nhân tài và mị dân.
Không suy nghĩ sáng suốt tất nhiên đi đến cảnh hỗn độn, đám đông quyết
định trong hấp tấp và vô ý thức tất nhiên có ngày phải hối hận vì sai
lầm. Ai có thể tin rằng đám đông có lẽ phải ? Sự thật thì đám đông luôn
luôn ngông cuồng hơn, độc ác hơn những cá nhân hành động đơn độc. Để cho
kẻ miệng lưỡi lung lạc quần chúng là một điều sỉ nhục, họ chỉ là những
cái máy nói, mỗi khi vặn lên là thao thao bất tuyệt. Việc trị nước an
dân là một việc tối quan trọng đòi
hỏi nhiều kinh nghiệm và suy xét. Xã hội chỉ có thể được cứu vãn và trở
nên hùng mạnh nếu được lãnh đạo bởi những người khôn ngoan và sáng suốt nhất.
Các
bạn thử tưởng tượng phản ứng của nhà cầm quyền Athènes khi nghe những
lời trên đúng vào lúc phải giải quyết chiến tranh, đúng vào lúc một
thiểu số trí thức và quí tộc đang âm mưu một cuộc đảo chánh. Các bạn hãy
đặt mình vào địa vị của Anytus nhà lãnh đạo thành Athènes bị cậu con
trai về nhà đổ lư hương vì cậu này là một môn đệ của Socrate.
Rồi
cuộc nội chiến bùng nổ, phe trí thức và quý tộc choảng nhau hết mình
với phe nhân dân. Cuối cùng phe nhân dân thắng. Biến cố này quyết định
luôn cả số phận của Socrate : ông là nhà lãnh đạo tinh thần của phe nổi
loạn, dù ông có yêu chuộng hoà bình đến mấy cũng mặc, chính ông đã chủ
trương thuyết quý tộc cầm quyền, chính ông đã xúi giục đám thanh niên
hội thảo. Anytus kết luận: Socrate cần phải chết.
Cái
chết của Socrate được Platon kể lại trong một quyển sách bất hủ. Với
những lời lẽ cảm động Platon suy tôn bậc Thầy đã hy sinh vì chân lý, vì
tự do tư tưởng, thà chết chứ không chịu xin đám đông tha tội vì xưa nay
Socrate vẫn khinh thường phán quyết của đám đông.
Socrate bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của
ông tìm cách cứu ông một lần chót: những kẻ giữ ngục đồng ý nhận một
món tiền hối lộ và làm ngơ cho Socrate trốn đi. Socrate từ chối. Ông đã
bảy mươi tuổi, có lẽ ông nghĩ rằng có chết cũng vừa, vả lại đây cũng là
một cơ hội tốt để mà chết. Với các môn đệ đến ngục thất để tiễn đưa Socrate về cõi chết, Socrate nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể phách của thầy.
Nói
xong ông đứng dậy và đi vào phòng tắm với Criton. Chúng tôi (theo
Platon kể lại) ngồi đợi ở ngoài, lòng buồn vô hạn. Ông cũng như cha, bây
giờ ông chết, chúng tôi không khác gì những kẻ mồ côi. Giờ mặt trời lặn
đã gần kề. Khi ông trở ra, ông lại ngồi với chúng tôi, chuyện trò rất
ít. Chằng bao lâu người giữ ngục đi vào, đến gần ông và nói như sau: -
Ông thật là người cao quý nhất, hiền lành nhất trong
đời. Chắc rằng ông không có ý nghĩ giận tôi giống như những kẻ thường
chửi bới mắng nhiếc tôi khi tôi tuân lệnh trên, đem chén thuốc độc vào
đây cho họ uống. Xin ông thông cảm, tôi với ông không thù hằn gì. Chúc
ông can đảm chịu đựng. Nói xong người giữ ngục oà khóc và ôm mặt đi ra
ngoài. Socrate trả lời như sau: - Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc ông
mọi sự tốt lành. Quay về phía chúng tôi Socrate nói như sau: - Người đó
rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây, y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y
thực tình mến tiếc, nhưng Criton ơi, hãy đem chén thuốc vào đây nếu
thuốc đã chế xong. Nếu thuốc chưa chế xong, hãy nói người ta chế. Criton
nói: - Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời tối
mới uống và trước khi uống họ được quyền ăn uống no say thoả thích. Xin
sư phụ chớ gấp gáp, hãy còn thì giờ. Socrate nói: - Những kẻ ấy làm rất
phải, vì họ có lợi trong sự chần chờ, nhưng ta thì không thấy có lợi gì
khi uống chén thuốc độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy
làm như ta đã nói và xin đừng từ chối. Criton ra dấu cho người giúp
việc, người này đi ra một lúc rồi trở lại với người giữ ngục, tay cầm
chén thuốc. Socrate nói: - Ông bạn là người thông thạo về vấn đề này,
xin ông cho biết tôi phải làm thế nào? Người giữ ngục trả lời: - Uống
xong ông nên đi dạo một lúc, khi nào cảm thấy nặng ở hai chân thì nằm
xuống, thuốc sẽ ngấm dần lên đến tim. Nói xong hắn đưa chén thuốc cho
Socrate. Socrate nhận lấy một cách vô cùng nhã nhặn, không chút sợ sệt
hoặc thay đổi sắc mặt. - Trước khi uống, tôi cần dành một phần chén
thuốc để dâng cúng thần linh không ? - Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. - Tôi
hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho tôi
trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia. Nói xong Socrate cầm chén
thuốc đưa lên môi và uống một cách vui vẻ.
Từ
trước đến giờ chúng tôi cố nén sự đau buồn thương tiếc, nhưng khi thấy
ông uống cạn chén thuốc, chúng tôi không còn cầm lòng được nữa. Nước mắt
tôi tuôn trào, tôi ôm mặt khóc. Không phải tôi khóc ông, mà chính là
tôi khóc tôi từ nay vĩnh biệt tôn sư. Criton khóc trước tôi, y ôm mặt đi
lãng xa vì không thể chứng kiến nổi cảnh ấy. Tôi cũng ôm mặt theo
Criton. Trong lúc ấy thì Apollodorus đang khóc bỗng thét lên một tiếng
làm tất cả chúng tôi đều giật mình. Socrate vẫn bình tĩnh, ông nói: -
Cái gì lạ vậy ? Không cho phụ nữ vào đây là để tránh cái cảnh này. Người
ta cần phải chết trong thanh tịnh. Các con hãy bình tĩnh và nhẫn nại.
Nghe những lời nói ấy chúng tôi hổ thẹn và thôi không khóc. Ông đi dạo
một hồi cho đến khi cảm thấy nặng ở chân, rồi nằm xuống đúng theo lời
dặn. Người giữ ngục quan sát tay chân ông, đè mạnh xuống hai bàn chân và
hỏi: - Ông cảm thấy gì không ? - Không. Người ấy đi lần lên phía trên,
vừa đè vừa hỏi. Chúng tôi thấy hai chân ông đã cứng và lạnh, Socrate
cũng lấy tay ấn thử và nói: - Khi nào thuốc ngấm đến tim là xong. Khi
lạnh đến thắt lưng, ông bỏ miếng vải che mặt và nói: - Criton, thầy nợ
Asclepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy. - Con sẽ trả, còn gì nữa
không ?
Không có tiếng trả lời, vài
phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải che mặt ra,
Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng của
tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.
3. THỜI KỲ HỌC HỎI CỦA PLATON:
Cuộc gặp gỡ giữa Platon và Socrate có một tầm quan trọng đặc
biệt. Platon thuộc về giai cấp trung lưu, đẹp trai và khoẻ mạnh. Ông đã
từng ở trong quân ngũ và đã đoạt giải quán quân về thể thao. Không ai
có thể ngờ rằng một người như vậy có thể trở nên một triết gia. Tâm hồn
tế nhị của Platon tìm thấy vui thích trong biện chứng pháp của Socrate.
Platon rất sung sướng khi nghiền ngẫm những lý thuyết của Socrate nhằm
đả kích các luận điệu sai lầm đương thời: Platon dự vào cuộc tranh luận
triết lý cũng như ông ta đã dự vào những cuộc tranh giải thể thao, và từ
những cuộc tranh luận đó Platon đã đi đến những suy tư thâm thuý hơn.
Chàng ta trở thành một người yêu triết lý và một môn đệ ưu
tú của Socrate. Chàng thường nói rằng: "Tôi cám ơn trời đã cho tôi làm
một người Hy lạp chứ không phải một dân mọi rợ, một người tự do chứ
không phải một người nô lệ, một người đàn ông chứ không phải một người
đàn bà, và quan trọng nhất là được sinh vào thời Socrate."
Khi
Socrate chết, Platon mới được 28 tuổi, và biến cố cảm động này đã in
sâu vào tâm thức của Platon. Nó làm cho Platon thù ghét những tư tưởng
dân chủ, thù ghét quần chúng thêm vào sự thù ghét phát sinh từ giai cấp
quý tộc của Platon. Do đó ông ta chủ trương rằng cần phải tận diệt chế
độ dân chủ và thay vào đó một chính thể do những phần tử quý tộc và sáng
suốt lãnh đạo. Một trong những vấn đề trọng đại mà Platon đã nghiên cứu suốt đời là làm sao tìm ra người khôn ngoan nhất để giao phó việc lãnh đạo quốc gia.
Trong
lúc đó những liên hệ giữa Platon và Socrate làm cho chính quyền đương
thời nghi ngờ Platon. Những bạn bè của ông khuyên ông nên trốn khỏi
Athènes và ông cũng cho rằng đây là một dịp tốt để chu du thế giới. Năm
399 tTL ông xách gói ra đi.
Những
nơi nào ông đã đi qua chúng ta không được biết rõ. Hình như ông đã đi Ai
cập trước tiên và ông rất bất bình khi nghe các nhà lãnh đạo tôn giáo
cai trị xứ này nói rằng Hy lạp là một quốc gia ấu trĩ không có truyền
thống và văn hoá và không thể so sánh được với quốc gia Ai cập. Sự bất
mãn này làm ông ta suy nghĩ nhiều hơn và chuyến đi Ai Cập đóng một vai
trò quan trọng trong
tác phẩm của ông nhan đề là Utopia. Sau đó ông đáp tàu qua Sicie và đến
Ý. Ở đó ông gia nhập nhóm triết gia do Pythagore sáng lập. Cảnh tượng
một nhóm người có quyền chính trị rộng rãi lại say mê trong việc nghiên
cứu và học hỏi, sống một cuộc đời bình dị mặc dù nắm nhiều quyền thế
trong tay là một đề tài để Platon suy nghĩ. Ông đi chu du suốt 12 năm,
học hỏi tất cả các chính thể, họp bàn với tất cả các nhóm, tìm hiểu tất
cả các học thuyết. Một vài người cho rằng ông đã đến Judée và đã nghiên
cứu học thuyết đượm tính chất xã hội của các triết gia ở đây. Có người
cho rằng ông đã đến tận bờ sông Hằng và học hỏi tư tưởng các triết gia
Ấn độ.
Ông trở về Athènes năm 387
tTL, lúc này ông đã 40 tuổi, một người già dặn sau nhiều năm học hỏi ở
nhiều nước. Ông vẫn còn giữ sự hăng hái của tuổi trẻ nhưng ông đã nhận
thức được rằng tất cả những tư tưởng quá khích chỉ là những chân lý nửa
vời. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông vừa
khúc chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là
lối văn đàm thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng
lạn như vậy. Văn thể của ông sáng chói ngay cả trong những bản dịch.
Shelley nhận xét rằng văn thể của Platon kết hợp luận lý sắc bén và hồn
thơ lai láng, vừa dịu dàng trong âm điệu vừa hùng hồn trong lập luận.
Nên biết rằng trước khi trở thành một triết gia Platon là một nhà soạn
kịch.
Sự kết hợp của văn chương và triết
lý, của khoa học và nghệ thuật trong các tác phẩm của Platon đôi khi làm
chúng ta khó hiểu: chúng ta không biết rằng những nhân vật của Platon
diễn tả tư tưởng của mình trong trường hợp nào, châm biếm, pha trò hay
nói đứng đắn. Khuynh hướng pha trò châm biếm của Platon đôi khi làm
chúng ta bỡ ngỡ. Những cuộc đối thoại do Platon viết ra là để cho đại
chúng: nhờ trình bày những luận điệu bênh vực và đả kích, nhờ lập đi lập
lại những ý tưởng nòng cốt, các tác phẩm của Platon rất thích hợp với
những người muốn học triết lý cho qua thì giờ. Do đó những lối ngụ ngôn,
những giọng văn hài hước thường rất nhiều. Ngoài ra lẽ cố nhiên còn có
những tư tưởng liên quan đến những biến cố mà Platon cùng người đương
thời thường bàn bạc đến, những tư tưởng này rất khó hiểu đối với một độc
giả thế kỷ thứ hai mươi.
Chúng ta phải
công nhận rằng Platon có những đặc tính mà ông thường chỉ trích. Ông
không ưa những thi sĩ với trí tưởng tượng quá dồi dào. Ông không ưa
những giáo sĩ, nhưng chính ông là một giáo sĩ, một giảng sư. Giống như
Shakespeare, ông cho rằng mọi sự so sánh đều nhầm lẫn, nhưng ông lại
luôn luôn dùng phương pháp so sánh. Ông chỉ trích các triết gia đương
thời là những kẻ miệng lưỡi nhưng chính ông cũng dùng phương pháp này.
Faguet đã nhại lối văn của Platon như sau: - Toàn thể lớn hơn một phần,
phải chăng ? - Chắc chắn như vậy. - Và một phần nhỏ hơn toàn thể phải
chăng ? - Đúng như thế. - ... Do đó rõ ràng là triết gia phải lãnh đạo
quần chúng. - Ông nói cái gì ? - Thật là rõ ràng, chúng ta hãy lý luận
trở lại.
Mặc dù tất cả những lời chỉ trích, những cuốn đối thoại của Platon là một trong những tác phẩm hay nhất của
thế giới. Tác phẩm Cộng hoà là một công trình rộng lớn dưới hình thức
một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của Platon về siêu
hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và thẩm mỹ.
Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề mà ngày nay chúng ta đang
băn khoăn suy nghĩ: thuyết Cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình
quyền, thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của
Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề cũng Rousseau về trạng
thái thiên nhiên và tự do giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống
(élan vital) và những vấn đề của Freud về phân tâm học. Emerson nói rằng
: "Platon là triết lý, và triết lý là Platon". Đối với ông, thì quyển
Cộng hoà của Platon cũng như kinh Coran và người ta có thể đốt tất cả
các thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này.
Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Cộng hoà !
4. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC:
Cuộc
tranh luận xảy ra trong nhà của Cephalus, một người giàu có thuộc giai
cấp quý tộc. Trong cuộc tranh luận còn có Glaucon và Adeimantus, anh của
Platon, Thrasymachus, một triết gia đương thời. Socrate (mà Platon dùng
như một nhân vật để diễn tả những tư tưởng của chính mình) hỏi
Cephalus: - Lợi ích quan trọng nhất mà
tiền của đem lại cho ta, theo ý ông là gì ? Cephalus trả lời: tiền của
cho phép ông ta có thể độ lượng, thật thà và công bằng. Socrate hỏi:
công bằng nghĩa là gì ? Và mở ra một cuộc tranh luận dài. Không gì khó
hơn một định nghĩa, vì nó đòi hỏi nhiều khôn khéo và sáng suốt trong tư
tưởng. Socrate đả phá tất cả những định nghĩa do cử toạ đưa ra cho đến
lúc Thrasymachus mất bình tĩnh và la lên: - Socrate, ông có điên không ?
Tại sao các ông lại dẫm chân nhau như vậy ? nếu ông muốn biết công bằng
là gì, ông phải trả lời chứ không được hỏi, ông không nên tự hào vì đả
phá được kẻ khác... Có rất nhiều người có thể đặt câu hỏi nhưng không
thể trả lời. Socrate không nao núng. Ông vẫn hỏi chứ không trả lời, và
sau cùng Thrasymachus đưa ra một định nghĩa: "Hãy nghe đây: tôi cho rằng
sức mạnh là lẽ phải, và công bằng là quyền lợi của kẻ mạnh ... Những
chính thể khác nhau làm nên luật, dù đó là chính thể dân chủ, quý tộc
hay độc tài, tất cả đều nhắm đến quyền lợi của mình; và những điều luật
ấy, làm ra để phụng sự quyền lợi của chúng, được đặt lên đầu nhân dân và
gọi là công bằng, những kẻ nào cưỡng lại sẽ bị phạt và bị xem là không
công bằng...
Tôi nói về sự
bất công một cách tổng quát, và ý nghĩ của tôi rất rõ ràng khi nghiên
cứu chính thể độc tài. Trong chính thể này, người ta dùng sức mạnh và sự
gian trá để xâm chiếm tài sản kẻ khác. Khi một người đã lấy tất cả tài
sản của dân chúng và bắt dân chúng làm nô lệ người ta xem nó không phải
là một kẻ thượng lưu. Người ta chỉ trích sự bất công khi người ta là nạn
nhân chứ không phải vì bị lương tâm cắn rứt mỗi khi có hành vi bất
công."
Đó là học thuyết mà ngày nay được
gán ít nhiều cho Nietzsche. "Tôi thường cười những kẻ yếu tưởng rằng
mình là tốt, chỉ vì chúng nó chân tay què quặt". Stirner diễn đạt tư
tưởng một cách gọn gàng hơn: "một nắm quyền hành tốt hơn một bao lẽ
phải". Tư tưởng trên cũng được Platon diễn tả trong Gorgias. Calliclès
chỉ trích rằng đạo đức là một phát minh của kẻ yếu để vô hiệu hóa quyền
lực của kẻ mạnh.
"Chúng nó khen và chê
tuỳ theo quyền lợi của chúng: chúng nói rằng gian manh là bất công và
nhục nhã, chúng nó cho rằng gian xảo là ý muốn có nhiều hơn người hàng
xóm, vì tự biết trình độ thấp kém của mình, chúng chỉ mong được bình
đẳng... Nhưng nếu có một người với đầy đủ quyền lực, người ấy sẽ vượt
lên trên những lý luận này, sẽ chà đạp tất cả những công thức, những
luật lệ ...
"Những kẻ sống thực sự cần
phải cho ý chí của mình phát triển đến tột độ; và khi đã phát triển ý
chí đến tột độ, họ phải có đủ can đảm và thông minh để phụng sự ý chí,
để thoả mãn tất cả những điều ham muốn. Đó là lẽ công bằng tự nhiên, sự
quý phái tự nhiên. Nhưng đa số không thể làm như vậy, do đó họ chỉ trích
người khác. Chính vì họ nhục nhã trong sự bất lực, chính vì họ muốn che
dấu sự nhục nhã ấy, họ tuyên bố rằng lòng tham vô độ là thấp kém... Họ
muốn kìm hãm những kẻ quý phái hơn và cổ võ sự công bằng chỉ vì họ là
những kẻ nhút nhát".
Sự công bằng ấy là
một đạo đức không phải đối với người xuất chúng mà đối với người hạ cấp;
đó là một thứ đạo đức nô lệ không phải là đạo đức xuất chúng, những đức
tính thực sự là của người ta là lòng can đảm và trí thông minh.
Có
lẽ rằng những tư tưởng phi đạo đức kể trên phản ảnh sự bành trướng của
chủ nghĩa đế quốc trong chính sách ngoại giao của tiểu quốc Athènes,
chính sách này đối xử rất tàn bạo với những dân tộc nhỏ bé. Trong một
bài văn tế, Periclès nói: "Đế quốc của ngài căn cứ vào quyền lực của
ngài chứ không phải là thiện chí của thần dân". Các sử gia kể lại công
cuộc ép buộc Melos phải về phe Athènes để chống với Sparte như sau: "Ông
cũng biết như chúng tôi rằng chỉ có vấn đề lẽ phải đối với những kẻ
quyền lực ngang nhau: kẻ mạnh làm cái gì y có thể làm và kẻ yếu chịu
đựng cái gì y bắt buộc phải chịu đựng". Chúng ta có ở đây những vấn đề
đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Công bằng là gì ? -
Chúng ta cần phải tìm lẽ phải hay cần phải tìm quyền lực ? -Chúng ta
nên tốt hay nên mạnh ?
Platon giải quyết
vấn đề này như thế nào ? Sự thật thì ông không giải quyết gì cả. Ông
nhấn mạnh rằng lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc
vào tổ chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ
cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Nếu
chúng ta có thể hình dung một quốc gia công bằng, chúng ta mới có đủ yếu
tố để định nghĩa một cá nhân công bằng. Platon lấy ví dụ rằng muốn thử
con mắt của một cá nhân cần phải cho họ đọc những chữ lớn rồi dần dần
đến những chữ nhỏ. Cũng thế, định nghĩa công bằng trong mẫu mực lớn là
quốc gia giản dị hơn định nghĩa công bằng trong mẫu mực nhỏ là cá nhân.
Sự thật thì Platon muốn dùng lối lý luận này để nối liền hai phần nghiên
cứu. Chẳng những ông muốn thảo luận về vấn đề đạo đức cá nhân mà ông
còn muốn thảo luận cả về vấn đề xã hội và chính trị. Trong cuộc thảo
luận này Platon sắp đưa ra tác phẩm Quốc gia lý tưởng (Utopia).
5. VẤN ĐỂ CHÍNH TRỊ:
Công
bằng sẽ là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị. Platon tưởng
tượng như sau: Trước hết chúng ta thử hình dung nếp sống của một xã hội
giản dị. Người ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ
sẽ làm việc lưng trần và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm
trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh, họ
ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả lưng vào giường hoặc vào thân cây.
Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự làm lấy, mang những vòng hoa
trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống trong sự hoà nhã êm ái
không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương tiện sinh nhai vì
họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh... Lẽ cố nhiên họ có những
món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ rau khác; họ
tráng miệng bằng xoài, mận, đào, họ nướng những loại bánh và uống rượu
có chừng mực. Với những món ăn như vậy họ có thể sống an nhàn cho đến
tuổi già và để lại cho con cháu một đời sống cũng an nhàn.
Chúng
ta hãy để ý đến sự kiểm soát sinh sản, sự ăn chay và sự sống theo thiên
nhiên mà các huyền thoại Do thái dùng để tả thiên đường. Toàn thể đoạn
văn làm chúng ta liên tưởng đến triết lý của Diogène khuyên ta nên trở
về sống với thú vật bởi vì chúng nó sống yên ổn.
Chúng
ta cũng còn liên tưởng đến các lý thuyết của Saint Simon, Fourrier,
William Morris và Tolstoi. Nhưng Platon có phần hoài nghi hơn những tác
giả ấy, ông không đi sâu vào vấn đề: tại sao một đời sống gần như thiên
đàng không bao giờ đến với nhân loại ? Tại sao những tiểu quốc thuộc
loại Utopia chưa bao giờ nằm trên bản đồ ?
Platon
trả lời: Đó là tại lòng tham và sự xa hoa. Con người không chịu bằng
lòng với một đời sống giản dị, họ luôn luôn muốn chiếm đoạt, muốn ao
ước, muốn ganh đua, muốn ghen ghét. Họ sẽ bất mãn với những gì họ có và
chạy theo những gì họ chưa có, họ chỉ muốn những cái gì thuộc về kẻ
khác. Kết quả là sự xâm chiếm lãnh thổ kẻ khác, sự cạnh tranh giữa các
nhóm để giành giựt tài nguyên và cuối cùng là chiến tranh. Nền kinh tế
phát triển đem lại những giai cấp mới. "Tất cả những quốc gia đều gồm có
hai quốc gia, quốc gia của những người nghèo và quốc gia của những
người giàu, hai quốc gia xung đột nhau gay gắt. Nếu cho rằng đó chỉ là
một quốc gia thì chúng ta lầm lỗi lớn". Một giai cấp thương gia trỗi dậy
muốn dùng tiền của để chiếm địa vị và cổ võ sự tiêu thụ hàng hoá.
"Chúng nó sẽ tiêu những số tiền lớn để các bà vợ trang sức". Những sự
thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt
chính trị : khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa
chủ, chính thể phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương. Lúc đó sự
phối hợp các lực lượng xã hội và sự điều chỉnh chính sách quốc gia, nói
tóm là nghệ thuật trị nước được thay thế bằng những thủ đoạn chính trị
phát xuất từ những đảng phái và sự háo danh lợi.
Tất
cả những chính thể quốc gia đều có khuynh hướng tự đào thải khi đi vào
con đường quá khích. Chính thể quý tộc tự đào thải khi thu hẹp số người
nắm giữ quyền hành, chính thể dân chủ tự đào thải vì lòng tham giành
giựt danh lợi. Trong cả hai trường hợp thế nào cũng đi đến cách mạng.
Khi cách mạng xảy đến, người ta có cảm tưởng rằng nguyên do là những
biến cố nhỏ nhặt, sự thật thì cách mạng là hậu quả của vô số lỗi lầm
chồng chất lại. "Khi một cơ thể đã suy yếu, những nguyên do rất tầm
thường cũng có thể đem đến bệnh tật. Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo
chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số và cho tất
cả mọi người những quyền hành và tự do bình đẳng".
Nhưng
chính thể dân chủ tự huỷ vì quá dân chủ. họ muốn rằng tất cả mọi người
đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem
qua thì đó là một lý tưởng quá tốt đẹp, nhưng thực ra nó trở nên vô cùng
nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài
giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp nhất.
"Dân chúng không có kiến thức, họ chỉ lập lại những điều gì nhà cầm
quyền nói với họ". Muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn
những vở kịch trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ trích hoặc
cổ võ trước công chúng. Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con
thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị
gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì
chầy, một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài. Dân chúng rất
ưa những lời nịnh hót, những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ tự gán cho mình
cái danh nghĩa bảo vệ dân chúng rất có cơ hội cầm quyền tối cao.
Càng nghĩ đến vấn đề này, Platon càng kinh ngạc về sự điên rồ khi giao cho quần chúng trọng trách
chọn người cầm giềng mối quốc gia, đó là chưa nói đến những thế lực kim
tiền núp sau sân khấu chính trị dân chủ để điều khiển những chính quyền
bù nhìn. Platon phàn nàn rằng đối với một việc nhỏ như việc đóng giày,
người ta còn phải lựa chọn những người thợ chuyên môn, tại sao trong
lãnh vực chính trị là một lãnh vực trọng đại,
người ta có thể tin tưởng rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu đều
biết cách trị nước an dân. Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta mời đến một y
sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và thực tập, chúng ta không
mời những y sĩ đẹp trai nhất hoặc những y sĩ miệng lưỡi nhất. Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy, chúng ta không tìm đến những người khôn ngoan nhất, đức hạnh nhất ? Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi chính phủ, chọn lựa những kẻ tài cao đức trọng, đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
6. VẤN ĐỀ TÂM LÝ:
Đằng
sau vấn đề chính trị là vấn đề tính chất con người. Muốn hiểu chính
trị, chúng ta cần phải hiểu tâm lý. " Con người thế nào, quốc gia thế
ấy"; "Chính thể thay đổi cũng như tính người thay đổi... Quốc gia được
cấu tạo bởi bản chất con người". Do đó, chúng ta không thể mơ tưởng
những quốc gia hoàn hảo hơn khi chúng ta chưa có những con người hoàn
hảo. Chúng ta là những người thật kỳ lạ, luôn luôn uống thuốc chữa bệnh
làm cho bệnh trạng càng rắc rối và nặng hơn, luôn luôn tưởng rằng có thể
được chữa lành bởi một vài thứ thuốc rẻ tiền do một vài người chỉ bày,
nhưng không bao giờ khá hơn, trái lại chỉ nặng thêm mà thôi... Những kẻ
ấy thật kỳ lạ khi họ muốn trở thành nhà lập pháp và tưởng tượng rằng với
một vài cải cách họ có thể chấm dứt nạn tham nhũng của nhân loại. Họ
không biết rằng tham nhũng cũng như con rắn thần thoại, chặt đầu này nó
mọc đầu khác".
Chúng ta hãy xem xét con
người, chất liệu cấu tạo triết lý chính trị. Hành động con người có ba
nguyên do: tham, sân và trí. Lòng tham muốn, khao khát, dục, bản năng,
tất cả đều thuộc một loại; sân si, giận dữ, can đảm, tất cả đều thuộc
một loại; trí huệ, hiểu biết lý luận, tất cả đều thuộc một loại. Lòng
tham nằm nơi thận, nó là một kho chứa năng lực phần lớn là thuộc tính
dục. Sân si nằm ở trái tim, và bị chi phối bởi áp lực máu trong huyết
quản. Trí huệ nằm trong đầu, và có thể trở thành kẻ hướng đạo cho linh
hồn.
Những yếu tố ấy có trong tất cả mọi
người, nhưng với mức độ khác nhau. Một số người chỉ là sự thể hiện của
lòng tham, luôn luôn muốn chiếm đọat tiền của, muốn sống xa hoa và phô
trương, muốn chạy theo những gì họ chưa có. Đó là những người cầm đầu
trong giới làm ăn. Một số khác ưa gây gỗ và can đảm, họ thích gây gỗ chỉ
để gây gỗ, họ muốn có quyền hơn là có của, họ sung sướng trên chiến
trường hơn là ngoài đồng áng, những người này cấu tạo những lực lượng
lục quân và hải quân trên thế giới. Cuối cùng, có những người ưa thích
suy nghĩ và hiểu biết, họ không chạy theo của cải hoặc chiến thắng mà
chạy theo sự hiểu biết. Họ tránh xa thị trường và chiến trường để suy tư
trong cảnh tịch mịch. Họ là những người khôn ngoan đứng riêng rẽ và
không được ai sử dụng.
Hành vi của con
người có giá trị khi lòng tham sân si được hướng dẫn bởi trí tuệ. Trong
một quốc gia lý tưởng, những lực lượng sản xuất chỉ lo sản xuất mà không
cai trị, những lực lượng võ trang chỉ lo bảo vệ mà không cai trị, những
lực lượng trí huệ phải được nuôi dưỡng và bảo vệ và phải cầm quyền cai
trị. Nếu không được hướng dẫn bởi trí huệ, dân chúng chỉ là một đám ô
hợp, dân chúng cần sự hướng dẫn của triết gia cũng như lòng tham cần sự
hướng dẫn của trí huệ. "Sự sụp đổ sẽ xảy đến khi những con buôn nhờ giàu
sang đã trở thành những người cai trị". Hoặc khi một tướng lãnh dùng
lực lượng võ trang của mình để lập nên một chính thể quân nhân. Những
người sản xuất rất thích hợp trong lãnh vực kinh tế, những chiến sĩ rất
thích hợp trên chiến trường, nhưng cả hai đều tai hại trong lãnh vực
chính trị, trong những bàn tay vụng về của họ, những thủ đoạn chính trị
thay thế nghệ thuật trị nước an dân. Thuật trị nước vừa là khoa học vừa
là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều sự tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết
gia mới thích hợp trong việc trị nước. "Khi nào triết gia trở thành quốc
vương và tất cả quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì
những tệ đoan của xã hội sẽ chấm dứt, đó là tư tưởng nòng cốt của
Platon.
7. GIẢI PHÁP TÂM LÝ:
Chúng
ta phải làm những gì ? Chúng ta phải gởi về đồng quê tất cả những công
dân trên 10 tuổi. Một khi đã kiểm soát được đám trẻ con chúng ta sẽ
không để cho lũ trẻ con này bị ảnh hưởng xấu của cha mẹ chúng nó. Chúng
ta không thể xây dựng một quốc gia lý tưởng mà không hoàn toàn dứt khoát
với quá khứ. Có thể dùng một miền đất xa xôi nào đó để thực hiện một
quốc gia lý tưởng. Đám trẻ con ấy sẽ được dạy dỗ đồng đều: những kẻ kỳ
tài xuất chúng có thể tìm thấy ở tất cả mọi giới vậy cần phải cho tất cả
trẻ con những cơ hội học hỏi đồng đều.
Trong 10 năm đầu, nền giáo dục sẽ đặc biệt chú trọng đến
thể dục, mỗi trường học đều có một sân chơi và một sân vận động. Chương
trình học gồm toàn những môn thể dục và thể thao. Trong 10 năm đó, lũ
trẻ sẽ có một sức khoẻ dồi dào khiến cho việc khám bệnh và trị bệnh trở
nên hoàn toàn vô ích. Sở dĩ người ta thường mắc bệnh là đã sống một cuộc
đời quá nhàn rỗi, quá bê tha, thiếu vận động. Về mục đích của nền giáo
dục trong giai đoạn này là làm cho bệnh tật không có cơ hội để phát
triển. Chính những kẻ nhà giàu vì cuộc sống quá nhàn rỗi đã tự đem bệnh
hoạn đến cho mình. Nếu một kẻ lao động nhuốm bệnh, họ sẽ tìm một loại
thuốc nào công hiệu để chóng khỏi. Nếu có người khuyên nhủ họ phải trải
qua một thời kỳ điều trị công phu như
là lựa chọn các món ăn, tắm hơi, đấm bóp... Kẻ ấy sẽ trả lời rằng họ
không có thì giờ và họ cũng không muốn mất công nuôi dưỡng bệnh trạng
trong khi còn bao nhiêu việc khác cần phải làm, họ sẽ chế nhạo ông thầy
thuốc đã khuyên họ những lời khuyên lố bịch ấy, họ sẽ ăn uống như thường
ngày. Nếu họ lành bệnh thì sẽ tiếp tục nghề nghiệp, nếu bệnh không lành
họ sẽ chết một cách giản dị. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn
một quốc gia gồm toàn những bệnh nhân sống không ra sống, chết không ra
chết. Quốc gia lý tưởng cần phải được xây dựng trên sức khoẻ của dân
chúng.
Tuy nhiên, những môn
thể dục và thể thao có khuynh hướng phát triển con người chỉ về một
chiều. Những kẻ can đảm có sức mạnh siêu quần thường không được nhã
nhặn. Quốc gia lý tưởng không thể chỉ gồm những võ sĩ và lực sĩ. Vậy cần
phải dạy cho dân chúng biết âm nhạc. Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý
thức được sự điều hoà và nhịp điệu, do đó ý thức được công lý. Sự điều
hoà không bao giờ đi đôi với bất công. Nhạc lý sẽ thâm nhập vào linh hồn
con người khiến cho linh hồn trở nên đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ uốn nắn
tính tình con người và do đó đem đến một giải pháp tốt đẹp cho các vấn
đề xã hội và chính trị. Mỗi khi tiết tấu của âm nhạc thay đổi thì các
nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.
Âm
nhạc chẳng những sửa đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn
hoặc bảo đảm sức khoẻ. Dân Corybantic có tục lệ chữa trị các phụ nữ mắc
bệnh điên bằng âm nhạc. Một khi điệu nhạc trỗi lên các bệnh nhân sẽ nhảy
nhót một cách cuồng loạn cho đến khi kiệt lực và nằm ngủ. Sau giấc ngủ
đa số bệnh nhân đã bình phục. Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức
được khơi động bởi những phương pháp kể trên. Những kẻ xuất chúng là
những kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ cõi vô thức. Không một
người nào trong trạng thái hữu thức có thể có những ý nghĩ xuất chúng.
Những người xuất chúng và những người điên giống nhau ở điểm này.
Platon
đã đề cập đến khoa phân tâm học. Ông nói rằng sở dĩ khoa tâm lý chính
trị của nhân loại còn mơ hồ vì người ta chưa biết rõ và chưa nghiên cứu
tường tận những sở thích và bản năng của con người. Nếu quan sát những
giấc mơ, người ta có thể hiểu rõ hơn về những bản năng ấy. "Một vài loại
thú vui được xem như bất hợp pháp, mọi người ai cũng thích những thú
vui ấy nhưng đối với phần đông thì sở thích bị dồn ép bởi luật lệ và lý
trí. Những sở thích luôn luôn có mặt trong tiềm thức trong khi khả năng
của lý trí bị lu mờ. Trong những lúc ấy những sở thích trỗi dậy như
những con vật và có thể gây ra tất cả những tội ác có thể tưởng tượng
được. Đối với những người có sức khoẻ tinh thần họ luôn luôn đủ sức kềm
hãm những khuynh hướng kể trên và không rơi vào vòng tội lỗi". Âm nhạc
và nhịp độ khiến cho tâm hồn trở nên khoẻ mạnh. Tuy nhiên, quá nhiều âm
nhạc cũng có hại như quá nhiều thể thao, thể dục. Những lực sĩ chỉ biết
có thể dục không khác gì một kẻ rừng rú, những nhạc sĩ chỉ biết có nhạc
thường trở nên quá yếu mềm. Vậy cần phải dung hoà cả hai khuynh hướng.
Quá 16 tuổi mọi môn âm nhạc cần phải đình chỉ, trừ những môn đồng ca. Âm
nhạc còn cần phải được dùng để giảng giải những môn khó khăn hơn như
toán học, sử ký và khoa học. Cần phải phổ nhạc những bài học để cho dễ
nhớ hơn. Những kẻ nào không có khiếu để học các môn kể trên được tự do
lựa chọn những môn khác, không nên ép buộc trẻ con phải thấu hiểu bất cứ
môn học nào. Người ta cần phải được tư do trong vấn đề học hỏi. Những
môn học ép buộc không bao giờ thấm nhuần vào tâm trí của người học. Việc
học cần phải được tổ chức như một trò chơi và như thế có thể cho phép
chúng ta tìm hiểu khuynh hướng thiên nhiên của đứa trẻ.
Tâm
trí cần phải được tự do trong việc phát triển và thể chất cần phải mạnh
mẽ nhờ các môn thể thao và thể dục. Có như vậy quốc gia mới được vững
mạnh trên hai căn bản tâm lý và sinh lý. Tuy nhiên cần phải có một căn
bản đạo đức, tất cả những cá nhân trong một tập thể cần phải được thống nhất,
họ phải biết vai trò của họ trong tập thể, tất cả mọi người đều có
quyền hành và trách nhiệm đối với người khác. Chúng ta phải xử trí cách
nào trong khi mọi người đều tham lam, ganh ghét, dâm dật và ưa gây gổ ?
Phải dùng đến cảnh sát chăng ? Đó là một phương pháp dữ tợn và tốn kém.
Có một phương pháp khác tốt đẹp hơn đó là sự chế tài của một đấng tối
cao: chúng ta cần có một tôn giáo.
Platon
tin tưởng rằng một nước không có tín ngưỡng vào một đấng tối cao không
thể là một nước mạnh. Chỉ tin tưởng vào một nguyên lý sơ khai, một sức
mạnh vũ trụ hoặc một sức sống mãnh liệt mà không tin tưởng vào một đấng
tối cao thì cũng chưa đủ để tạo nên hy vọng, sự tận tâm và lòng hy sinh,
chưa đủ để an ủi tinh thần của những kẻ thất vọng hoặc gây sự can đảm
cho những kẻ chinh chiến. Chỉ có một đấng tối cao mới có thể làm những
việc sau này, mới có thể bắt buộc những người ích kỷ phải dằn lòng để
sống một cuộc đời tiết độ, kềm hãm sự đam mê. Cần phải cho dân chúng tin
tưởng vào sự bất diệt của linh hồn: chính sự tin tưởng ấy làm cho người
ta có can đảm để đương đầu với sự chết hoặc chịu đựng sự vĩnh viễn ra
đi của những kẻ thân yêu.
Người ta sẽ
chiến đấu với nhiều ưu thế hơn khi người ta chiến đấu với lòng tin. Vẫn
biết rằng sự hiện hữu của một đấng tối cao không bao giờ có thể chứng
minh được; vẫn biết rằng đấng tối cao chỉ có trong sự tưởng tượng do hy
vọng và lòng thành kính của con người đặt ra, vẫn biết rằng linh hồn
không khác gì những tiếng nhạc do một nhạc khí phát ra và sẽ tiêu tan
cùng lúc với nhạc khí ấy... Nhưng chúng ta vẫn thấy rằng tín ngưỡng
không đem lại điều gì có hại mà chỉ đem lại những điều lợi cho con em
của chúng ta.
Công việc giảng giải những hiện tượng trong vũ trụ trước óc tò mò càng ngày càng lớn của đám thanh niên là một việc rất khó, nhất là
khi chúng đến lứa tuổi 20 và bắt đầu tìm hiểu để thực nghiệm những điều
đã học. Đó cũng là lúc chúng ta tổ chức những kỳ thi tổng quát vừa lý
thuyết vừa thực hành. Cần phải cho những thí sinh các thử thách vật chất
cũng như tinh thần. Tất cả những khả năng sẽ có dịp xuất hiện cùng lúc
với những nhược điểm. Những thí sinh nào bị rớt sẽ nhận những công việc
kinh tế của quốc gia, họ sẽ là những nhà buôn bán, thư ký, thợ, làm
ruộng. Cuộc thi phải được tổ chức một cách vô tư, tất cả những người có
khả năng, bất luận họ thuộc thành phần nào đều phải được chấm đậu.
Những
người được chấm đậu qua kỳ thi đầu tiên này sẽ học thêm 10 năm nữa để
rèn luyện tinh thần, thể chất và tính tình. Sau 10 năm đó họ sẽ thi một
lần thứ hai khó hơn lần trước rất nhiều. Những kẻ nào rớt sẽ trở thành
những người phụ tá, những sĩ quan tham mưu trong tổ chức chính phủ. Cần
phải an ủi những kẻ bị thi rớt để họ chấp nhận số phận một cách vui vẻ.
Làm thế nào để đạt mục đích ấy ? Chúng ta phải nhờ đến tôn giáo và tín
ngưỡng. Chúng ta nói cho họ biết rằng số trời đã định như vậy và không
thể thay đổi được. Chúng ta có thể nói với họ như sau: "Hỡi các đồng
bào, tất cả chúng ta đều là anh em nhưng trời sinh chúng ta mỗi người
một khác, có người có khả năng chỉ huy, những người ấy không khác gì
vàng, họ phải có những vinh dự lớn nhất. Có những người khác được ví như bạc, họ có thể là những kẻ phụ tá đắc lực. Những người còn lại là những người nông phu hoặc
thợ thuyền, họ có thể ví như sắt và đồng. Có nhiều khi cha mẹ vàng sinh
con bạc hoặc cha mẹ bạc sinh con vàng. Vậy cần phải thay đổi ngôi thứ
để thích hợp với khả năng của mọi người. Những kẻ làm quan to cũng không
nên buồn phiền khi thấy con cái mình phải làm nông dân hoặc thợ thuyền.
Trái lại cũng có những trường hợp con cái nông dân thợ thuyền trở nên
quan lớn. Số trời đã định rằng nếu để những người thuộc hạng sắt và đồng
lên cầm quyền thì quốc gia sẽ điêu tàn".
Có
lẽ nhờ huyền thoại ấy mà chúng ta thu hoạch được sự phục tùng của dân
chúng hầu thi hành chính sách quốc gia. Đối với những kẻ thi đậu kỳ thứ
hai phải làm thế nào ? Họ sẽ được học môn triết lý. Lúc này họ đã được
30 tuổi vì không nên cho những người quá trẻ học triết lý quá sớm, họ sẽ
quen thói suy luận cãi cọ, hồ nghi... giống như những con chó con hay
cắn xé những miếng giẻ trong các trò chơi của chúng. Theo Platon thì
triết lý có hai nghĩa: Đó là phương pháp suy luận một cách minh bạch và
cai trị một cách khôn ngoan. Trước hết những kẻ trí thức trẻ tuổi phải
học cách suy luận minh bạch, họ phải biết thế nào là một ý nghĩ.
Lý thuyết của Platon về ý nghĩ là một trong những lý thuyết rắc rối và tối tăm nhất của
lịch sử triết lý. Platon cho rằng ý nghĩ có thể bao trùm tổng quát hoặc
có thể là một định luật chi phối vạn vật hoặc có thể là một lý tưởng.
Sau thế giới hiện tượng do các giác quan của con người phát hiện là thế
giới của những ý nghĩ do sự suy luận phát hiện. Thế giới của những ý
nghĩ có tính cách trường tồn hơn thế giới hiện tượng và do đó có thể xem
là xác thực hơn. Ví dụ ý nghĩ về con người trường tồn hơn sự hiện hữu
của ông A, ông B hay bà C. Ý nghĩ về vòng tròn tồn tại mãi mãi trong khi
một vòng tròn kẻ trên giấy có thể biến mất. Một cái cây có thể còn đứng
vững hoặc đã ngã xuống nhưng những định luật chi phối sự đứng vững hoặc
ngã xuống của cái cây còn tồn tại mãi mãi. Thế giới của ý nghĩ do đó có
thể coi là đã có trước thế giới hiện tượng và có thể tồn tại sau khi
thế giới hiện tượng đã biến mất. Đứng trước một cây cầu giác quan chỉ
cảm thấy một khối khổng lồ bằng sắt và xi-măng nhưng chính nhờ ý nghĩ mà
người kỹ sư hình dung được các định luật chi phối sự thành hình của cây
cầu, các định lý toán học, vật lý học theo đó tất cả cây cầu phải được
xây cất. Nếu những định luật ấy không được tuân theo, cây cầu sẽ sụp đổ.
Có thể nói rằng chính những định luật đóng vai trò của đấng tối cao để
giữ cho cây cầu đứng vững. Các định luật do đó là một phần cần thiết
trong việc học hỏi triết lý. Ở trước cửa đi vào Hàn lâm viện Platon cho
vẽ những chữ sau đây: "Kẻ nào không thông suốt hình học thì xin chớ vào
đây".
Không có thế giới của ý
nghĩ mọi vật sẽ hỗn độn và vô nghĩa. Chính ý nghĩ cho phép con người
sắp xếp vũ trụ theo thứ tự. Thế giới không có ý nghĩ là một thế giới
không có thật, không khác gì những hình bóng cử động trên tường. Do đó
mục đích chính của nền đại học là đi tìm những ý nghĩ để biết được hướng
tiến lý tưởng, biết được sự tương quan giữa vật này và vật khác, biết
vũ trụ diễn biến như thế nào. Chúng ta cần phải phối hợp và sắp đặt các
kinh nghiệm của giác quan theo các tiêu chuẩn kể trên, chính điểm này là
điểm khác biệt duy nhất giữa người ngu và người thông minh.
Sau
5 năm học hỏi về thế giới của ý nghĩ, về nguồn gốc và sự diễn tiến của
vũ trụ, sau 5 năm học hỏi khác về cách áp dụng những nguyên lý kể trên
trong việc xử thế và trị nước, sau 10 năm học hỏi để phát triển thể chất
và tinh thần, những kẻ được may mắn chấm đậu đã sẵn sàng để cầm quyền
chưa ? Chắc chắn họ đã trở nên những triết gia lãnh tụ đủ sức để cầm
quyền và giải phóng xứ sở chưa ?
Platon
cho rằng chưa đủ. Sự đào luyện đến đây vẫn còn khiếm khuyết. Sau giai
đoạn đào luyện về lý thuyết cần phải bước qua giai đoạn đào luyện bằng
thực hành. Cần phải cho những ông tiến sĩ ấy hoà mình vào đời sống, các
lý thuyết sẽ không có giá trị nếu chúng không bị thử thách bởi cuộc sống
hằng ngày. Những ông tiến sĩ này phải chung đụng với đời một cách hoàn
toàn bình đẳng, họ phải cạnh tranh để mưu sống với những nhà buôn bán,
những phần tử đầy thủ đoạn xảo quyệt, trong cuộc sống này họ sẽ được đào
luyện bởi trường đời, họ sẽ đem mồ hôi để đổi lấy bát cơm. Cuộc sống
này sẽ kéo dài thêm 15 năm. Một số các thí sinh sẽ bị đào thải, số còn
lại sẽ trở nên ôn hoà và tự tin hơn trước, họ không còn tự đắc mù quáng
vào những lý thuyết, họ sẽ có một sự hiểu biết quý báu do truyền thống,
kinh nghiệm và sự đấu tranh đem lại. Những người ấy xứng đáng được cầm
quyền trị nước.
8. GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ:
Dân chủ có nghĩa là cơ hội đồng đều cho toàn thể công dân nhất là trong lãnh vực giáo dục. Nó không phải chỉ là để cho mọi người có cơ hội tham gia chính quyền, điểm quan trọng là
tất cả mọi người đều có cơ hội học hỏi để sau này có thể đảm nhận những
phần việc trong chính quyền. Tuy nhiên chỉ những kẻ nào tỏ ra thông
minh xuất chúng mới có đủ điều kiện. Những chức vụ cao sẽ được lựa chọn
không phải bằng cách bầu cử cũng không phải bằng sự đấu tranh giữa các
phe nhóm mà chính là bằng khả năng của từng người. Không một người nào
được giữ chức vụ cao mà không được huấn luyện trước hoặc chưa làm tròn
nhiệm vụ ở những chức vụ thấp.
Phải chăng đây là một chính thể quý tộc ? - Vấn đề danh từ không quan trọng lắm, nó chỉ quan trọng đối với người ngu và các chính trị gia. Chúng ta muốn được cai trị bởi những phần từ xuất sắc nhất,
đó là tinh hoa của chính thể quý tộc. Tuy nhiên chúng ta thường quan
niệm rằng chính thể quý tộc là phải cha truyền con nối. Về điểm này
chúng ta hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Platon. Thật vậy, Platon
chủ trương một chính thể quý tộc dân chủ. Thay vì phải chọn lựa những
ứng cử viên do các bè phái đưa ra, người dân có thể tự đề cử mình bằng
cách học hỏi. Ở trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có
vấn đề cha truyền con nối, tất cả mọi tài năng đều có cơ hội phát triển
đồng đều, dù là con vua chúa hay là con thứ dân cũng đều bắt đầu ngang
nhau. Nếu con vua chúa mà không có khả năng cũng vẫn bị đào thải. Nếu là
con thứ dân mà có đủ khả năng cũng vẫn có thể tiến tới. Đây là nền dân
chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần đẹp đẽ hơn nền dân chủ
của thùng phiếu.
Và như vậy
những người cầm quyền sẽ dành tất cả nỗ lực của mình để duy trì tự do
cho xứ sở. Không có vấn đề phân quyền; lập pháp, hành pháp cũng như tư
pháp đều tập trung vào một nhóm người, ngay cả nguyên tắc pháp trị cũng
không thể làm cho họ bó tay trước những tình thế đặc biệt. Quyền hành
của họ là một thứ quyền hành vừa thông minh, vừa mềm dẻo, vừa không có
giới hạn.
Làm sao có thể tìm ra những
người có đủ sự thông minh và mềm dẻo ? Adeimantus ( một nhân vật trong
tác phẩm của Platon ) quan niệm rằng triết gia cũng có thể lầm lạc và
ích kỷ, những người này đôi khi trở thành kỳ dị và hoàn toàn vô dụng
trong xã hội. Quan niệm này có thể áp dụng đối với một số người trong xã
hội ngày nay. Platon đã nghĩ đến vấn đề này và chủ trương một lối giáo
dục thực tế, đi đôi với đời sống, song hành với một nền học vấn uyên
thâm. Hậu quả của phương pháp nầy là đào tạo những phần tử nhìn xa thấy
rộng và ưa hoạt động. Platon quan niệm triết lý là một nền văn hoá hoạt
động kết hợp được sự khôn ngoan sáng suốt và nhu cầu hoạt động của con
người. Trong lãnh vực này Platon rất khác biệt với triết gia Kant.
Để
đối phó với sự tham nhũng trong giai cấp lãnh đạo, Platon chủ trương
một chế độ cộng sản triệt để: "Trong giai cấp này không ai được quyền có
của riêng ngoài những vật dụng tối cần thiết cho đời sống. Họ không
được có nhà riêng có cửa khoá, vật dụng và đồ ăn uống chỉ vừa đủ cho một
chiến sĩ lâm trận. Họ lãnh một số phụ cấp vừa đủ ăn và sống đời sống
tập thể giống như những quân nhân trong doanh trại. Họ không cần có vàng
bạc vì giá trị bản thân họ quý hơn vàng bạc. Họ không cần phải động đến
các thứ đó hoặc đeo chúng vào người. Trong những điều kiện ấy họ mới có
thể duy trì được nước. Nếu trái lại họ ham mua nhà, đất hoặc tích trữ
tiền bạc, họ sẽ trở nên những người chủ nhà hoặc chủ nông trại thay vì
phải là những người giữ nước. Họ sẽ trở nên kẻ thù của những người khác.
Sự căm thù và những âm mưu làm hại nhau là những mầm móng phá tan xã
hội từ bên trong, hiệu quả hơn những kẻ thù từ bên ngoài".
Lối
sống kể trên làm cho giai cấp lãnh đạo không nghĩ đến việc bè phái mà
chỉ nghĩ đến ích lợi chung. Họ không thiếu thốn, không cần lo nghĩ về
những vấn đề kinh tế nhưng đồng thời họ cũng không có cơ hội để tham
nhũng và đeo đuổi những khát vọng cá nhân. Họ sẽ ăn chung với nhau, ngủ
chung với nhau trong một đời sống giản dị. Quyền lực của họ sẽ không làm
hại kẻ khác, phần thưởng độc nhất của
họ là niềm tự hào đã giúp ích cho xã hội. Chắc chắn sẽ có những người
bằng lòng sống một đời sống như vậy, họ sẽ đánh giá một đời sống tận tụy
cho xứ sở cao hơn những món lợi kinh tế. Do đó sẽ không còn những phe
phái cấu xé nhau vì địa vị.
Những
người vợ ở nhà thì sao ? Các bà này có chịu hy sinh những xa hoa của
đời sống không ? - Giai cấp lãnh đạo sẽ không có vợ, chế độ cộng sản bao
gồm cả những người vợ. Chẳng những họ không tìm cái lợi cho bản thân mà
còn không tìm cái lợi cho gia đình. Họ không bị các bà vợ thúc giục vơ
vét của cải, họ tận tâm với xã hội chứ không phải với một người. Những
đứa con sinh ra cũng không thể gọi là con của người nào. Tất cả hài nhi
đều phải rời mẹ từ khi mới lọt lòng và được nuôi nấng chung, không ai
được giành quyền sở hữu trên những hài nhi ấy. Tất cả những người mẹ đều
chăm sóc cho toàn thể những người con. Tình huynh đệ giữa
những đứa trẻ này sẽ nẩy nở vô cùng tốt đẹp. Tất cả những đứa con trai
đều là anh em, tất cả những đứa con gái đều là chị em, tất cả những
người đàn ông đều là cha, tất cả những người đàn bà đều là mẹ.
Tìm
đâu ra những người đàn bà ấy ? - Một số sẽ tuyển dụng trong những giai
cấp khác, một số sẽ từ giai cấp lãnh đạo lớn lên. Trong xã hội nầy sẽ
không có vấn đề phân chia nam nữ nhất là trong lãnh vực giáo dục. Con gái cũng có đầy đủ cơ hội học hỏi như con trai và có thể đảm nhận những chức vụ vao nhất trong
xã hội. Khi Glaucon ( một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) nêu ra ý
kiến rằng nếu để cho phái nữ tham gia chính trị thì nguyên tắc phân
công sẽ bị xâm phạm, Platon trả lời rằng nguyên tắc phân công căn cứ
trên khả năng không phải trên điều kiện sinh lý. Nếu một người đàn bà tỏ
ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để cho bà ta làm chính
trị. Nếu một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho ông ta rửa
chén.
Sung công phụ nữ không
phải là giao hợp bừa bãi. Ngay trong lãnh vực này cũng phải có kế hoạch
và kiểm soát. Cần phải rút kinh nghiệm trong kỹ thuật nuôi súc vật:
người ta đã thành công trong việc pha giống bò để có những con bò to lớn
khoẻ mạnh, tại sao người ta không áp dụng những kỹ thuật tương tự trong
việc đào tạo giống người. Cho đứa trẻ một nền giáo dục thích hợp chưa
đủ, cần phải cho nó một giống tốt. Sự giáo dục phải bắt đầu trước khi
đứa bé ra đời. Vì lẽ đó, không một người đàn ông hoặc đàn bà nào được
phép gầy giống và sinh đẻ nếu họ không hoàn toàn khoẻ mạnh. Muốn làm giá
thú trước hết phải có chứng chỉ sức khoẻ. Người đàn ông chỉ được phép
gây giống nếu trên 30 tuổi và dưới 45 tuổi. Người đàn bà chỉ được phép
sinh đẻ nếu trên 20 tuổi và dưới 40 tuổi. Những người đàn ông khoẻ mạnh
trên 35 tuổi mà không chịu lập gia đình sẽ bị đánh thuế nặng. Những hài
nhi ra đời một cách bất hợp pháp hoặc tàn tật ốm yếu sẽ bị thủ tiêu. Sự
giao hợp được tự do ngoài những thời kỳ cho phép với điều kiện là phải
phá thai. Hôn thú giữa những người bà con sẽ bị cấm vì con cái sinh ra
không được khoẻ mạnh. "Những phần tử ưu tú nhất trong
phái nam cũng như trong phái nữ sẽ được giao hợp càng nhiều càng tốt.
Những phần tử yếu kém chỉ được giao hợp với nhau. Tuy nhiên chỉ những
hài nhi do những phần tử ưu tú sinh ra mới được nuôi dưỡng. Đó là phương
pháp duy nhất để có một giống nòi ưu tú !"
Một
xã hội như vậy cần phải được bảo vệ chống với kẻ thù bên trong lẫn bên
ngoài. Cần phải sẵn sàng để chiến thắng. Xã hội của chúng ta lẽ cố nhiên
là hiếu hoà và giữ mức độ dân số phù hợp với những phương tiện sinh
sống. Nhưng các nước láng giềng có thể thèm thuồng sự thịnh vượng nầy và
đem quân qua cướp phá. Vì lẽ đó chúng ta sẽ có một giai cấp chiến sĩ
sống một cuộc đời khắc kỷ giống như giai cấp lãnh đạo và cũng do dân
chúng chu cấp. Đồng thời tất cả mọi biện pháp phải được thi hành để
tránh chiến tranh. Nguyên do thứ nhất của
chiến tranh là dân số quá đông, nguyên do thứ hai là sự buôn bán giữa
các nước. Thật vậy, sự cạnh tranh trong lãnh vực buôn bán thật ra là một
hình thức chiến tranh. Vì lẽ đó xã hội của chúng ta cần phải ở sâu
trong đất liền để không có điều kiện phát triển ngoại thương. "Đại dương
làm cho một quốc gia tràn ngập hàng hoá cùng với những kẻ làm tiền,
những sự mua bán đổi chác nó làm cho con người quen với tánh tham lam và
gian xảo. Nền ngoại thương đòi hỏi một hạm đội để bảo vệ, và hạm đội là
mầm móng của chiến tranh. Trong tất cả các trường hợp, chiến tranh là
trách nhiệm của một thiểu số trong khi đại đa số quần chúng là bạn. Hình
thức chiến tranh tệ hại nhất là
nội chiến, giữa người Hy lạp với người Hy lạp. Nếu tất cả các người Hy
lạp biết đoàn kết thành một liên minh thì họ có thể tránh được sự đô hộ
của ngoại bang.
Cơ cấu chính trị
của chúng ta sẽ do một nhóm lãnh đạo, nhóm này được bảo vệ bởi các quân
nhân và sau cùng là các nhóm người buôn bán, làm kỹ nghệ, làm ruộng để
nâng đỡ hai nhóm trên. Chỉ có nhóm thứ ba nầy mới được có của cải riêng,
vợ chồng riêng, con cái riêng. Tuy nhiên các ngành thương mãi và canh
nông sẽ do nhóm lãnh đạo điều khiển để tránh những trường hợp quá giàu
hoặc quá nghèo, những người nào có của cải gấp 4 lần trung bình phải nộp
số thặng dư cho nhà nước, việc cho vay nặng lãi bị cấm và tiền lời bị
hạn chế. Chế độ cộng sản triệt để áp dụng cho giai cấp lãnh đạo không
thể áp dụng cho giai cấp kinh tế. Đặc điểm của giai cấp nầy là tánh ưa
vơ vét và cạnh tranh, chỉ có một số ít có tâm hồn cao thượng hơn, còn
phần đông chỉ lo chỉ lo chạy theo món lợi thay vì phải chạy theo chân lý
và lẽ phải. Những kẻ chạy theo tài lợi không đủ tư cách để trị nước và
chúng ta hy vọng rằng nếu giai cấp lãnh đạo sống giản dị và làm việc hữu
hiệu thì giai cấp kinh tế sẽ vui lòng chịu nhận sự lãnh đạo của họ. Nói
tóm lại một xã hội lý tưởng là một xã hội trong đó mỗi giai cấp sống
theo bản tánh tự nhiên của mình và không giai cấp nào động chạm đến
quyền lợi của giai cấp khác. Trái lại tất cả ba giai cấp đều phối hợp để
hợp thành một xã hội điều hoà, một quốc gia công bình.
9. GIẢI PHÁP LUÂN LÝ:
Chúng ta đã bàn về giải pháp chính trị. Bây giờ chúng ta sẵn sàng để trả lời câu hỏi đã đặt ra: - Công bằng là gì ?
Trên
đời nầy chỉ có ba vật đáng giá, đó là công bằng, mỹ thuật và chân lý.
Trong ba ý niệm ấy, không có một ý niệm nào có thể định nghĩa được. Bốn
trăm năm sau Platon, một viên chức La mã, Judea, cũng đặt ra câu hỏi: Sự
thật là gì ? Và ngày hôm nay các triết gia cũng không thể cho chúng ta
biết mỹ thuật là gì ?
Đối với ý
niệm công bằng Platon cho chúng ta một định nghĩa như sau: Công bằng là
có hoặc làm cái gì thuộc về ta. Định nghĩa này có vẻ làm ta thất vọng.
Sau ba cuộc tham luận chúng ta chờ mong một định nghĩa huyền diệu. Định
nghĩa của Platon diễn tả một cách giản dị rằng công bằng là mỗi người
nhận được cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với bản tánh
của mình nhất.
Một người công bằng là một người ở đúng vị trí của mình, làm theo đúng
bản tánh của mình và trả lại cho xã hội những cái gì họ đã nhận của xã
hội. Một xã hội gồm có những người công bằng là một xã hội điều hoà và
hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí của họ, làm theo đúng bản tính của
họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc toàn hảo. Sự công bằng
trong một xã hội là một yếu tố điều hoà sự di chuyển của các tinh tú
trên bầu trời. Có công bằng xã hội mới có thể tồn tại. Nếu con người
không giữ đúng vị trí của mình, nếu giai cấp kinh tế áp đảo giai cấp
lãnh đạo, nếu giai cấp quân nhân đòi cầm quyền thì sự điều hoà đã bị tổn
thương, xã hội sẽ bị phân hoá và tan rã. Công bằng chính là sự phối hợp
tuyệt hảo.
Đối với cá nhân, công
bằng cũng là một sự phối hợp của những bản năng, mỗi bản năng giữ đúng
vị trí của mình và làm đúng phận sự của nó. Mỗi một cá nhân là một sự
phối hợp của các ước muốn, các tình cảm và các ý nghĩ. Nếu các yếu tố ấy
được điều hoà thì cá nhân sẽ được tồn tại và thành công. Nếu các yếu tố
ấy không giữ đúng vị trí của mình, nếu để tình cảm hướng dẫn hành động
con người sẽ mất thăng bằng. Công bằng là sự ổn cố của tâm hồn. Tâm hồn
cần có công bằng cũng như thể xác cần có sức khoẻ. Tất cả sự xấu xa trên
đời đều do sự thiếu điều hoà nghĩa là thiếu công bằng : giữa người và
vũ trụ, giữa người và người, giữa những yếu tố trong tâm hồn của một
người.
Theo Platon thì công bằng chẳng
những là sức mạnh mà còn là sức mạnh điều hoà. Công bằng không phải là
quyền lực của kẻ mạnh mà là sự điều hoà của toàn thể. Một người ra khỏi
vị trí của mình có thể gặt hái một vài điều lợi, người cuối cùng họ sẽ
bị chế tài một cách tự nhiên. Chiếc đũa của nhạc trưởng luôn luôn kéo
những nhạc khí vào đúng âm điệu và tiết nhịp. Vị sĩ quan đảo Corse có
thể muốn đặt châu Âu dưới một nền quân chủ chuyên chế nhưng cuối cùng
ông bị đày ra một hòn đảo hoang vắng và khi đó ông mới nhận thấy rằng
ông chỉ là công cụ của tạo hoá.
Những ý
niệm trên không có gì mới mẻ hoặc lạ lùng và chúng ta có thể nghi ngờ
những lý thuyết tự cho là mới mẻ trong lãnh vực triết học. Chân lý có
thể mỗi ngày khoác một bộ áo khác nhưng dưới bộ áo ấy chân lý luôn luôn
không thay đổi. Trong lãnh vực luân lý, chúng ta không nên chờ đợi một
cái gì mới lạ: tất cả các ý niệm luân lý đều quay xung quanh sự điều hoà
của tập thể. Luân lý bắt đầu với tập thể, với sự tương quan, với sự tổ
chức. Đời sống trong xã hội đòi hỏi sự nhượng bộ của một ít quyền lợi cá
nhân để góp phần vào trật tự chung. Một xã hội sẽ được tồn tại nhờ khả
năng hợp tác của những phần tử trong xã hội ấy. Còn sự hợp tác nào đẹp
đẽ hơn khi mỗi cá nhân có thể làm việc theo đúng bản tánh của mình, đó
là mục tiêu mà tất cả các xã hội phải tìm đến. Đạo đức đối với Gia tô
giáo là sự thương yêu kẻ yếu hèn, đối với Nietzsche là sự can đảm của kẻ
mạnh, đối với Platon là sự điều hoà của tập thể. Rất có thể cả ba định
nghĩa đều đúng và phải được phối hợp với nhau nhưng chúng ta có thể tự
hỏi trong ba định nghĩa ấy, định nghĩa nào là căn bản ?
10. PHÊ BÌNH:
Chúng
ta có thể nói gì về quốc gia lý tưởng của Platon? Một quốc gia như vậy
có thể được thực hiên không ? Nếu không thực hiện được hoàn toàn chúng
ta có thể áp dụng một phần nào vào đời sống chính trị hiện nay không ?
Có nơi nào đã áp dụng lý tưởng của Platon hoặc toàn thể hoặc một phần
nào không ?
Câu hỏi chót trên đây có thể
được trả lời một cách thuận lợi cho Platon: Trong suốt 1000 năm Âu châu
bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp không khác gì giai cấp cầm
quyền lý tưởng mà Platon đã mô tả. Trong thời kỳ trung cổ người ta
thường phân chia dân chúng thành 3 giai cấp : đó là giai cấp cần lao,
giai cấp quân nhân và giai cấp giáo sĩ. Giai cấp sau cùng này, mặc dù
chỉ là một thiểu số đã nắm trong tay tất cả quyền hành và đã cai trị một
cách gần như tuyệt đối một phần nửa lãnh thổ Âu châu. Giai cấp giáo sĩ
này được lên cầm quyền không phải do sự tấn phong của dân chúng mà chính
là do công trình nghiên cứu học hỏi, nếp sống đạo đức và giản dị. Giai
cấp giáo sĩ cũng không bị ràng buộc vì nếp sống gia đình và trong nhiều
trường hợp họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến ái mà Platon chủ
trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo. Nếp sống độc thân của giai cấp
giáo sĩ là một yếu tố tâm lý rất thuận lợi: phần thì họ không bị cản trở
bởi sự ích kỷ dành cho gia đình, phần thì dân chúng coi họ như những
con người đặc biệt đứng trên sự kêu gọi xác thịt.
Các
thủ đoạn chính trị của giáo hội Thiên chúa giáo là sự áp dụng những
huyền thoại mà Platon đã đề ra: Ý niệm về thiên đàng, địa ngục có những
liên hệ mật thiết với những ý kiến trình bày trong cuốn Cộng hoà. Với
một mớ lý thuyết như trên, dân chúng Âu châu đã được cai trị mà không
cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không bao
giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền. Những giai cấp
buôn bán và quân nhân, những nhóm lẻ tẻ ở địa phương, tất cả đều một
lòng tùng phục La Mã. Giai cấp lãnh đạo thời ấy thật khôn khéo, họ đã
xây dựng nên một tổ chức cai trị vững mạnh và lâu dài nhất thế giới.
Những
giáo phái cai trị xứ Paraguay trước đây là những giai cấp lãnh đạo xứng
đáng với lý tưởng của Platon. Đó là một giai cấp giáo phẩm thượng lưu
vừa biết nhiều hiểu rộng, vừa có biệt tài ở giữa một đám đông dân chúng
bán khai. Sau cách mạng tháng 10 năm 1917 những nhà lãnh đạo cộng sản ở
Nga xô cũng sống cuộc đời mà Platon đã mô tả. Họ là một thiểu số cấu kết
với nhau bằng một niềm tin mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn
là sợ chết, hoàn toàn hiến thân cho đảng, chết vì đảng không khác gì các
thánh tử đạo, họ sống một cuộc đời giản dị đơn sơ trong khi cầm quyền
cai trị một nửa diện tích Âu châu.
Những
ví dụ kể trên chứng tỏ rằng lý tưởng của Platon có thể thực hiện được
và chính Platon cũng căn cứ lý thuyết của mình trên các nhận xét thực tế
trong các cuộc du lịch của ông. Ông đã để ý đến giai cấp lãnh đạo thời
ấy gồm một thiểu số giáo sĩ. Platon đã so sánh chính thể Ai cập với
chính thể tại thành Athènes và cảm thấy Athènes còn nhiều khiếm khuyết.
Tại nước Ý ông có dịp quan sát một nhóm lãnh đạo đúng theo chế độ cộng
sản và ăn chay trường. Nhóm này cầm quyền khá lâu và khá vững. Ở Sparte
ông cũng quan sát những điều kiện tương tự: Nhóm lãnh đạo ở đây sống một
cuộc đời khắc khổ tập thể, họ rất chú trọng đền
việc cải thiện nòi giống, chỉ những kẻ khoẻ mạnh can đảm thông minh mới
được quyền lập gia đình và sinh con cái. Một tác giả đương thời tên là
Euripides cũng đã chủ xướng một nếp sống cộng sản triệt để. Giải phóng
nô lệ, sung công phụ nữ, bình định các lãnh thổ Hy lạp. Nói tóm lại, khi
đề ra chương trình của mình Platon không coi đó là một chương trình hão
huyền, xa vời thực tế.
Tuy nhiên,
những kẻ chỉ trích Platon từ thời Aristote đến nay cũng đã đưa ra nhiều
luận cứ đáng để ý, Aristote nói rằng những đề nghị của Platon đã xuất
hiện nhiều lần trong lịch sử nhân loại. Nói rằng tất cả mọi người là anh
em thật là một điều hay ho trên lý tưởng nhưng trên thực tế khi cho
rằng tất cả mọi người là anh em thì mối thâm tình giữa những người anh
em thật sự không còn ý nghĩa nữa. Đối với vấn đề cộng sản cũng vậy, nó
sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ. Khi tất cả của cải đều thuộc
quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn ai lo giữ gìn của cải
ấy. Sau cùng, chế độ cộng sản bắt buộc dân chúng sống cuộc đời tập thể
nghĩa là giết chế sự độc đáo cá nhân và sự tự do của đời tư, chỉ những
kẻ giác ngộ mới có thể sống đời sống tập thể mà không gây ra những xích
mích nan giải. Đem áp dụng lối sống ấy cho đại đa số quần chúng là một
điều sai lầm; không thể bắt dân chúng sống theo mức sống đạo đức quá cao
so với mức trung bình, không thể bắt dân chúng hấp thụ một nền giáo dục
chỉ thích hợp với một thiểu số xuất chúng. Trái lại chúng ta phải nhắm
đến một lối sống trung bình thích hợp với đại đa số quần chúng và một
chính thể mà đại đa số có thể chấp nhận.
Những lời chỉ trích của Aristote, người học trò thông minh nhất của
Platon, được nhiều triết gia hưởng ứng. Platon khinh thường sức mạnh
của tập tục đã được xây dựng lâu đời như phong tục độc thê, ông không
tiên liệu tánh ghen tuông tự nhiên của người đàn ông, tình mẫu tử của
người đàn bà. Khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ những
điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua cũng chỉ
là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đả kích gia đình
Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lý tưởng mà ông
sắp xây cất.
Những lời chỉ trích
kể trên không phải hoàn toàn xa lạ đối với Platon. Nếp sống cộng sản do
ông chủ xướng không áp dụng đối với quảng đại quần chúng. Platon biết
rằng chỉ một thiểu số giác ngộ mới đủ đức tính tinh thần để sống một
cuộc đời lãnh đạo, chỉ những người lãnh đạo mới xem nhau như anh em, chỉ
những người lãnh đạo mới từ bỏ quyền tư hữu. Đa số dân chúng còn lại
được quyền sống theo các tập tục cổ xưa, họ được phép có của riêng, được
phép sống xa hoa, được phép cạnh tranh, họ có thể sống với gia đình,
chồng đâu vợ đó, mẹ đâu con đó v.v. Đối với giai cấp lãnh đạo họ phải có
tinh thần danh dự và sự hãnh diện của giai cấp, chính những yếu tố này
cho phép họ sống cuộc đời khắc khổ tập thể. Đối với tình mẫu tử, chúng
ta phải công nhận rằng tình nầy không mãnh liệt khi đứa trẻ chưa sinh ra
hoặc chưa lớn, người mẹ trung bình chấp nhận đứa hài nhi sơ sanh không
phải bằng sự vui mừng mà bằng sự nhẫn nhục. Tình mẫu tử không phải có
ngay lúc đó mà chỉ lớn dần cùng với đứa con với sự săn sóc của người mẹ,
nó trở thành một mối tình lớn khi đứa con trở thành sự đúc kết của công
lao người mẹ.
Nhiều luận điệu chỉ trích khác dựa trên yếu tố kinh tế. Người ta trách Platon quá chú trọng đến
sự phân chia giai cấp. Sự thật thì nguyên do của sự phân chia là những
mâu thuẫn kinh tế trong xã hội. Trong chính thể của Platon giai cấp lãnh
đạo đã tự ý từ bỏ sự cạnh tranh để vơ vét của cải. Chúng ta có thể kết
luận rằng giai cấp lãnh đạo của Platon là một giai cấp có quyền mà không
có trách nhiệm chăng ? - Không phải như vậy, họ có quyền chính trị và
quyền điều khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Giai cấp kinh tế
có thể từ chối cấp dưỡng nếu họ bất bình với giai cấp lãnh đạo, cũng như
ngày nay quốc hội kiểm soát hành pháp bằng cách biểu quyết ngân sách.
Một số người khác thắc mắc làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững
được quyền hành nếu không kiểm soát được những lực lượng kinh tế ? Họ
dựa vào lý thuyết của Hamilton và Marx cho rằng quyền lực chính trị chỉ
là hình ảnh của kinh tế, quyền lực chính trị sẽ không còn gì một khi
quyền lực kinh tế đã vào tay một nhóm khác như đã xảy ra tại Âu châu
trong thế kỷ thứ 18.
Đó là một lý
lẽ rất căn bản, tuy nhiên chúng ta thấy rằng quyền lực của giáo hội
Thiên chúa giáo La Mã đã có một thời rất oanh liệt không phải nhờ thế
lực của kim tiền mà nhờ vào sự tín ngưỡng của dân chúng. Quyền lực của
giáo hội ngày xưa một phần là do ở trạng thái nông nghiệp: Những nhà
nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ tuỳ thuộc rất nhiều vào
thiên nhiên. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi, khi nền kinh tế kỹ nghệ
bắt đầu thay thế cho nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực của giáo
hội bắt đầu sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh
để ăn khớp với tình trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platon không
chóng thì chầy sẽ bị phụ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng nó.
Dù giai cấp cầm quyền nắm trong tay tất cả quân lực cũng không thoát
khỏi sự lệ thuộc ấy. Quan niệm chính yếu của Platon có lẽ là muốn chứng
minh rằng dù cho các lực lượng kinh tế quyết định chính sách quốc gia,
những kẻ thi hành chính sách này phải là những nhà chuyên môn, không thể
để những người thương gia, kỹ nghệ gia cầm quyền chính trị vì họ chưa
được huấn luyện trong lãnh vực này.
Người
ta thường chê trách rằng Platon chưa ý thức được sự đổi thay thăng trầm
của tất cả các chế độ kinh tế, văn hoá cũng như chính trị : Ông phân
loại người thành những giai cấp không khác gì nhà côn trùng học phân
loại các côn trùng. Ông còn tạo ra các huyền thoại để bắt buộc dân chúng
tin tưởng vào sự phân loại ấy. Quôc gia của Platon là một quốc gia thủ
cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật
tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp nhưng không biết nuôi
dưỡng các nghệ sĩ.
Platon chủ trương rằng những kẻ cầm quyền phải là những kẻ ưu tú nhất,
ông còn thêm rằng những kẻ cầm quyền phải được huấn luyện chu đáo. Đó
là hai ý kiến đã được đem ra bàn cãi và đã được áp dụng nhiều lần trong
lịch sử; sau cùng cần phải nói thêm rằng quốc gia lý tưởng của Platon
không nhất thiết
phải là một quốc gia trên thực tế, nó chỉ ấn định đường hướng cho các
quốc gia khác noi theo. Tuy nhiên đã có lần Platon muốn thực hiện một
quốc gia lý tưởng : Đó là vào khoảng năm 384 tTL, Platon được một quốc
vương mời làm cố vấn để thực hiện những cải cách sâu rộng. Platon nhận
lời nhưng lẽ cố nhiên việc của ông không thành tựu vì quốc vương kia
không muốn giảm bớt quyền hạn của mình. Tục truyền rằng Platon bị kết
tội khi quân và bị đem bán làm nô lệ.
Những năm cuối cùng trong đời của Platon có thể gọi là những năm hạnh phúc. Môn đệ của ông nhiều người giữ địa vị cao trong xã hội. Ông được các môn đệ tìm đến vì ông luôn luôn giữ được tinh thần sáng suốt cởi mở thông cảm với tất cả mọi người. Năm 80 tuổi, Platon được một môn đệ mời
đi dự đám cưới. Khi tiệc gần tàn Platon lui vào nhà trong để nằm nghỉ.
Sáng sớm người ta đến thức ông dậy thì thấy rằng ông đã qua đời. Đám
táng của ông được tổ chức rất trọng thể với rất nhiều người tham dự./.
Will Durant
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 2
Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant
ARISTOTE
( 384 – 322 tTL )
ARISTOTE
( 384 – 322 tTL )
1. MỘT CHÚT LỊCH SỬ:
Aristote
sinh tại Stagira tại tiểu quốc Macédoine cách Athènes 200 dặm, vào năm
384 tTL. Cha của ông làm nghề thầy thuốc, bạn thân của quốc vương
Macédoine Amyntas. Ông này là tổ phụ của Alexandre đại đế. Hình như
Aristote là đoàn viên của một y sĩ đoàn danh tiếng thời ấy, ông có tất
cả những cơ hội thuận tiện để học hỏi và phát triển tri thức.
Có
hai giả thuyết về thời kỳ niên thiếu của Aristote. Một giả thuyết cho
rằng ông là một thiếu niên thích ăn chơi, phung phí tiền của đến nỗi trở
nên nghèo nàn đói rách, không có nghề sinh nhai phải vào lính trong một
thời gian. Mãi đến năm 30 tuổi mới đến xin học và
trở thành môn đệ của Platon (427 – 348 tTL) . Giả thuyết thứ hai không
chấp nhận thời kỳ ăn chơi và phung phí tiền của. Theo giả thuyết này
Aristote đến Athènes từ lúc 18 tuổi và trở thành môn đệ của Platon bắt
đầu từ đó.
Ông học với
Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu ta
xét ảnh hưởng của Platon trong các tác phẩm của Aristote. Người ta có
thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kỳ lý tưởng
trong cuộc đời Aristote. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một
giáo sư toàn năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không
phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristote gần 50 tuổi (43 tuổi –
chú thích của người đánh máy !), chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ
dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng Aristote là một môn đệ thông
minh xuất chúng, hiếu học vì
Aristote là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết
sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện.
Nhà của Aristote được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là
một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến
tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristote. Một sự bất hoà khác
quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristote có vẻ chống lại tư
tưởng của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm
Platon rất bất bình coi Aristote như một đứa con vô ơn. Một vài học giả
cho rằng Aristote lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có
Hermias sau này thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ
ơn thầy cũ, Hermias mời Aristote về sống tại triều đình và năm 344 tTL,
Hermias giới thiệu người chị của mình làm vợ Aristote. Cuộc hôn nhân là
một sự thành công mỹ mãn. Sau đó một năm quốc vương Macédoine là
Philippe mời Aristote về triều đình để dạy cho thái tử Alexandre. Đó là
một vinh dự rất lớn cho Aristote, vì Philippe cũng như Alexandre là
những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại.
Philipe chinh phục Thrace năm 356 tTL để chiếm những mỏ vàng vô cùng
phong phú gấp 10 lần số vàng của Athènes. Thần dân của Philippe là những
nông dân khoẻ mạnh, những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ.
Nhờ những yếu tố ấy Philippe và Alexandre đã thôn tính hàng trăm tiểu
quốc và thực hiện được sự thống nhất Hy lạp. Philippe không ưa chủ nghĩa
cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có kết quả tốt đẹp đối với nghệ
thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp. Philippe cho rằng chủ nghĩa
cá nhân là nguồn gốc của sự đồi truỵ kinh tế cũng như chính trị. Chính
dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể lơi dụng sự
tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường
gây nên bè phái, giai cấp, âm mưu chống đối nhau. Philippe quyết chấm
dứt tình trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống nhất và hùng mạnh
xứng đáng là trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời
niên thiếu Philippe đã học quân
sự tại Thèbes. Năm 338 tTL ông chiến thắng tại Athènes và thực hiện
được sự thống nhất của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là
Alexandre tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng giấc mộng của ông bị
tan vỡ vì ông bị ám sát.
Khi
Aristote đến nhận việc thì Alexandre là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và
ốm yếu, ưa cưỡi ngựa và tập ngựa. Những cố gắng của Aristote để làm dịu
sự bồng bột của Alexandre hình như không đem lại nhiều kết quả. Theo một
vài sử gia Alexandre coi Aristote như cha ruột của mình và về phần
Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi
và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là
những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là
một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristote,
Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của
Alexandre có lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristote và người ta
thường so sánh thiên tài của Aristote trong lãnh vực triết lý
với thiên tài của Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân
này đều có công với nhân loại: một bên thống nhất thế giới, một bên
thống nhất triết lý.
Sau
khi cất quân chinh phục Á châu, Alexandre để lại ở Hy Lạp những chính
phủ trung thành với ông nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống
dân chủ của người Hy Lạp không thể một sớm một chiều bị lu mờ trước sức
mạnh của đội quân Alexandre. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm
quyền được mệnh danh là đảng Macédoine hay là đảng thân Alexandre. Năm
334 tTL Aristote trở về Athènes sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên
không dấu cảm tình đối với đảng Macédoine tại đó. Công trình khảo cứu
khoa học, triết lý,
chính trị của Athènes tuy rất bao la nhưng không phải là hoàn toàn theo
đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố chính trị luôn luôn đe doạ
Aristote và nhóm cộng sự viên, công trình này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự
thành công của Alexandre trên lãnh vực chính trị. Những nhận xét trên
đây còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristote.
2. CÔNG VIỆC CỦA ARISTOTE:
Mặc dù ở trong một tiểu quốc đang sôi sục vì những biến cố chính trị, Aristote đã thành công trong việc lập nên một trường học lấy
tên là Lyceum. Rất nhiều môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt
ra những phép tắc luật lệ để giữ gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử
một uỷ ban để cai quản các công việc của trường. Họ thường ở lại và ăn
uống ngay trong trường, các buổi học thường được tổ chức ngoài đồng trống. Trước kia Platon cũng đã thành lập một trường lấy tên là Academy chuyên nghiên cứu về toán học và chính trị. Lyceum của Aristote chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học.
Alexandre ra lệnh cho các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho
Aristote tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả thảy một đội
quân 1000 người rải rác khắp Hy Lạp và Á châu để sưu tầm những giống vật
mới lạ, Aristote là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách
thú trên toàn thế giới. Ngoài sự ủng hộ của Alexandre Aristote còn bỏ
vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới
vợ giàu và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristote một số tiền
tương đương với 4 triệu Mỹ kim theo thời giá hiện nay để dùng vào việc
nghiên cứu khoa học.
Có người cho rằng chính Aristote đã khuyến cáo Alexandre chinh phục Ai
cập với mục đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nil để biết rõ nguyên
nhân những trận lụt xảy ra ở Ai cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158
bản hiến pháp.
Tuy nhiên
chúng ta phải nhớ rằng những phương tiện nghiên cứu của Aristote vô cùng
thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu tối tân của chúng ta ngày
nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ
mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có viễn vọng kính, đoán
thời tiết mà không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà
Aristote đã sử dụng là một cái thước và một cái compas. Sức hút của trái
đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt
lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh.
Những
tác phẩm của Aristote lên đến hàng trăm cuốn. Có người bảo 400 cuốn, có
người bảo 1000 cuốn. Những cuốn còn lại đến dời nay chỉ là một số nhỏ
nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. Trước hết là những tác phẩm về
luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác
phẩm khoa học như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học,
những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về linh hồn, về cơ thể sinh
vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách
viết văn và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học.
Toàn
thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác
với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công
trình của Aristote xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre.
Văn chương của Aristote không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là
một loại văn chương chính xác và khoa học.
Aristote phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng.
Những từ ngữ Âu Mỹ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristote như
"faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, end,
priciple, form ...". Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây
dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng
đời sau. Aristote còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã
thất truyền.
Có người cho
rằng những tác phẩm của Aristote không phải do chính Aristote soạn thảo
mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristote.
Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristote qua đời. Chỉ
có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi
Aristote còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và
chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristote để lại. Có người cho
rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristote chúng ta có thể tìm thấy một
lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristote
thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay
Aristote soạn thảo ra các tác phảm của mình thì các tư tưởng trình bày
chắc chắn là của Aristote.
3. NỀN TẢNG CỦA LUẬN LÝ HỌC
Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới,
hoàn toàn không dựa vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của
người Hy Lạp trước thời Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã
chấn chỉnh tình trạng này bằng cách đặt ra những quy luật cho sự suy
luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng vấp phải lỗi lầm suy luận không chính
xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi Aristote qua đời người ta
còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó mà hướng dẫn tư
tưởng.
Luận lý có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là phương pháp của tất cả các khoa học , tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Luận lý học là một khoa học vì nó có thể được trình bày dưới nhiều định luật giống như các định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư tưởng quen với lối suy nghĩ chính xác.
Socrate rất chú trọng đến những định nghĩa, đó là bước đầu của luận lý học. Platon luôn luôn tìm cách làm sáng tỏ các ý niệm của mình. Voltaire thường nói: "Nếu anh muốn nói chuyện với
tôi, trước hết hãy định nghĩa các danh từ của anh !". Rất nhiều cuộc
tranh luận vô ích, rườm rà, tốn nhiều giấy mực và xương máu có thể tránh
khỏi nếu các phe liên hệ định nghĩa rõ ràng những danh từ của mình. Đó
là nền tảng của luận lý học,
tất cả các ý niệm, các danh từ đều phải được cân nhắc kỹ càng, đó là
một công việc khó khăn, nhưng một khi đã làm xong thì mọi khó khăn đã
bớt đi được một nửa.
Làm
thế nào để định nghĩa một vật hoặc một danh từ ? Aristote trả lời rằng
trong mọi định nghĩa chính xác cần phải có 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ
vật ấy thuộc loại nào, phần thứ hai chỉ rõ trong loại ấy, vật ấy có
những gì đặc biệt ? Ví dụ người là một con vật có lý trí. Định nghĩa này
nêu rõ 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ người là một con vật, phần thứ hai
chỉ rõ người khác những con vật khác ở chỗ nào: ở lý trí.
Có
một vấn đề đã làm cho Aristote bất đồng với Platon và gây ra nhiều cuộc
tranh luận sôi nổi. Theo Aristote thì những danh từ như: người, sách,
cây ... chỉ những vật tổng quát và trừu tượng không có trên thực tế.
Những vật có thật phải được xác định bằng những tên gọi như ông Athènes,
ông B.
Theo Platon thì những vật
tổng quát có thực chất và tồn tại lâu dài hơn những vật đã được xác
định. Vì lẽ ấy mà Platon đã cho rằng Quốc gia có trước cá nhân. Sự cách
biệt này có ảnh hưởng rộng lớn trong tư tưởng của hai triết gia.
Aristote thì thực tế, luôn luôn chú trọng đến hiện tại và có một thái
độ khách quan. Trong khi Platon thì mơ mộng, luôn luôn nghĩ đến tương
lai và có một thái độ chủ quan. Một trong các phát minh của Aristote
trong lãnh vực luận lý là tam đoạn luận. Đó là một lối suy luận theo 3
phần, phần thứ ba hay là phần kết luận theo sau phần thứ nhất và phần
thứ hai. Thí dụ người là con vật có lý trí, Socrate là người, vậy
Socrate là một con vật có lý trí. Tam đoạn luận có thể được áp dụng
trong toán học theo
các công thức sau đây: A = B, B = C vậy C = A. Điều khó khăn cần phải
giải quyết trong một tam đoạn luận là nếu phần thứ nhất không được chính
xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên, người ta thường
chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn luận
không đem đến những kết quả tốt. Với sự trình bày các phương pháp luận
lý Aristote đã có công lớn với nhân loại là đặt nền tảng cho phương pháp
suy luận chính xác mặc dù môn luận lý học gặp những chông gai và được coi như một môn học khó hiểu.
4. HỆ THỐNG KHOA HỌC :
4.1. Khoa học Hy Lạp trước thời Aristote:
Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem khoa học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristote cũng có khoa học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có nhiều cuộc nghiên cứu của người Hy Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày nay không thể xem là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học.
Nói một cách khác, dân Cổ Hy Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả
những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi của các thần linh.
Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL) được coi là cha đẻ của triết lý
xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công kích thói mê tín, xem các
tinh tú trên trời như những thần linh. Môn đệ của Thalès là Anaximandre
có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết táo bạo rằng
vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh từ
trong khối ấy mà ra. Vũ trụ xoay vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan
rồi hợp. Trái đất nằm trên không trung nhờ sức hút, tất cả các hành tinh
đều có chất lỏng, dần dần chất lỏng ấy bốc hơi do ảnh hưởng của mặt
trời. Đời sống bắt đầu ở dưới biển và lần lần xuất hiện trên mặt đất vì
biển bị bốc hơi. Những con vật không còn nước để sống dần dần tập thở
không khí, đó là thuỷ tổ của những giống vật sống trên đất. Ngay cả loài
người cũng phải có một hình dáng khác bây giờ. Vì nếu loài người quá
yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá nhiều thời gian để trưởng thành như
ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày nay.
Một triết gia
khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng. Khối
ấy dần dần cô đọng lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái
của vật là trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của sự cô đọng.
Động đất là do sự cô đọng chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn
là một sức mạnh tiềm tàng có mặt khắp nơi.
Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của
danh tướng Periclès. Ông khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông
đưa ra giả thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn súc vật là nhờ
biết đi 2 chân trong khi dành 2 tay để làm những việc khác.
Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự nghiên cứu khoa học. Ông tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá xoay vần theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của vạn vật. Một học giả
khác đã đưa ra thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể
của muôn loài đều thay đổi theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp
ứng với nhu cầu và thích hợp với hoàn cảnh sẽ được tồn tại trong khi
những bộ phận khác không thích hợp sẽ bị đào thãi. Một vài học giả
khác đã đi gần đến thuyết nguyên tử dù một cách rất thô sơ. Họ cho rằng
ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới khác. Các hành tinh trong
vũ trụ thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới. Trên đây là
những điều mà các học giả
Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần phải công nhận mặc dù với
những dụng cụ thô sơ, công trình phát minh của họ không phải nhỏ. Mặt
khác, chính chế độ nô lệ làm trì hoãn các phát minh khoa học giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm tất cả những công việc nặng nhọc thì không ai nghĩ đến việc phát minh máy móc làm gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã hội trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó triết lý và khoa học chính trị có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác.
4.2 Aristote một nhà nghiên cứu thiên nhiên:
Nếu chúng ta bắt đầu bằng cách khảo sát một tác phẩm của Aristote nhan đề là Vật lý học, chúng ta sẽ bị thất vọng. Sự thật là trong cuốn vật lý học ấy
chỉ trình bày những khái niệm siêu hình về vật chất, sự chuyển động,
không gian, thời gian, nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Một đoạn
đặc sắc trong tác phẩm trên là đoạn công kích khái niệm chân không của
một học giả đương thời. Aristote cho rằng trong vũ trụ không làm gì có chân không. Ngày nay thuyết của Aristote đã bị khoa học chứng minh là sai, nhưng chính nhờ sự công kích mà chúng ta biết được một thuyết khoa học có giá trị. Về khoa thiên văn Aristote không tiến bộ hơn các học giả
đương thời là bao. Ông công kích thuyết của Pythagore cho rằng mặt trời
là trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành vinh dự ấy cho trái
đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều nhận xét giá trị về sức nóng của mặt
trời làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành mây và
rơi xuống thành mưa. Ông cho rằng xứ Ai cập là công trình của xông Nil:
chính phù sa của nước sông này trong hàng ngàn thế kỷ đã đem lại cho xứ
Ai cập những vùng đất phì nhiêu. Aristote cũng đã giảng giải một cách
thoả đáng sự thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho rằng các lục
địa được nảy sinh và dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả
những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay đổi tuần hoàn. Con người
đi từ trạng thái sơ khai đến trạng thái văn minh cực độ rồi sẽ trở về
trạng thái sơ khai do những biến cố vĩ đại của tạo hoá.
4.3 Nền tảng của khoa sinh vật học:
Trong
khi Aristote quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng lớn
của ông, tự nhiên ông nhận thấy rằng những loại sinh vật có thể được
xếp hạng và giữa những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết trong
nhiều phương diện khác nhau chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách
sinh sống, sự thụ thai, sự cảm xúc... Những mối liên hệ này nối liền
những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé nhất đến những loại sinh vật phức tạp
nhất. Trong lĩnh vực những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé người ta rất khó
lòng phân biệt một sinh vật và một khoáng chất. Aristote cho rằng ranh
giới giữa một sinh vật và một khoáng chất trong lãnh vực này rất mơ hồ
và đáng nghi ngờ. Mặt khác, người ta không thể phân biệt động vật và
thực vật. Đối với một vài loại có thể xem là thực vật cũng được mà xem
là động vật cũng được. Trong nhiều trường hợp khác rất khó phân biệt một
loại này với một loại khác. Người ta có thể kết luận rằng đời sống trên
trái đất phát triển một cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến
trạng thái phức tạp nhất. Trí thông minh cùng phát triển theo với trạng
thái, nói cách khác: trạng thái càng phức tạp, trí thông minh càng phát
triển. Đồng thời các cơ quan kiểm soát càng ngày càng tập trung, thần
kinh hệ được phát triển cùng với sự tập trung này.
Mặc
dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương thuyết
tiến hoá. Ông đả kích thuyết cho rằng các sinh vật đấu tranh để sống và
chỉ những sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại. Ông cũng phủ
nhận thuyết cho rằng con người trở nên thông minh nhờ dùng 2 tay để làm
việc thay vì để di chuyển. Ông nói rằng cần phải suy nghĩ ngược lại
nghiã là con người biết dùng 2 tay để làm việc vì đã trở nên thông minh.
Vì các phương tiện nghiên cứu và quan
sát trong lãnh vực này còn thiếu sót nên Aristote có nhiều lầm lẫn: Ông
không biết gì về sự hiện hữu của các bắp thịt trong cơ thể, ông không
phân biệt động mạch và tĩnh mạch, ông tưởng rằng khối óc dùng để làm cho
máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có nhiều mảnh xương sọ hơn đàn
bà, ông tin rằng người ta chỉ có 8 cặp xương sườn và đàn bà có ít răng
hơn đàn ông.
Đó là những sự nhầm lẫn tuy rõ ràng nhưng không quan trọng so với sự đóng góp của Aristote vào nền sinh vật học.
Ví dụ ông biết rằng loài chim và loài bò sát có cơ thể rất giống nhau,
loài khỉ là một loài trung gian giữa người và vật 4 chân. Ông nhận xét
rằng linh hồn của trẻ sơ sinh cũng giống như linh hồn của súc vật. Các
món ăn quyết định cách sinh sống: có những con thú sống theo đàn, có
những con thú sống cô độc, miễn làm sao chúng có thể kiếm ăn một cách dễ
dàng. Ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết của Von Baer về các
đặc tính của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan của các
giống vật và sự phát triển của chúng. Nói một cách khác, một giống vật
càng phát triển thì sự sinh đẻ càng ít. Ông nhận xét khuynh hướng bình
đẳng của các giống vật nghĩa là những phần tử xuất chúng, do sự giao cấu
với các phần tử thấp kém hơn dần dần sẽ mất các đặc tính của mình. Sau
hết Aristote tạo nên một khoa học về
sự phát triển của bào thai. Ông nói rằng muốn quan sát sự vật một cách
chính xác không gì bằng quan sát ngay trong thời kỳ thai nghén.
Hyppocrate cũng đã áp dụng phương pháp này bằng cách quan sát trứng gà
lộn trong những thời kỳ khác nhau và đã viết cuốn sách nhan đề là Nguồn
gốc của đứa trẻ. Aristote cũng nghiên cứu hiện tượng này và những nhận
xét của ông còn làm cho các nhà khoa học ngày
nay phải ngạc nhiên. Chắc ông đã làm nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản
vì ông phủ nhận thuyết cho rằng nam tính hoặc nữ tính của bào thai phụ
thuộc vào vị trí của ngọc hành. Ông còn đưa ra nhiều vấn đề thời sự về
nhân chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét một cuộc hôn nhân giữa người
đàn bà da trắng và người đàn ông da đen. Tất cả những đứa con sinh ra
đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen xuất
hiện. Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân
chủng học mệnh danh là định luật Mendel. Nói tóm lại mặc dù những sai lầm trong các tác phẩm về sinh lý học của ông, Aristote cũng đã đặt nền móng cho khoa học này.
Nếu chúng ta để ý rằng các phương pháp sưu tầm và nghiên cứu thời ấy
rất thô sơ, chúng ta phải công nhận thiên tài vĩ đại của Aristote.
5. SIÊU HÌNH HỌC VÀ THỰC CHẤT CỦA THIÊN CHÚA:
Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristote là sự tiếp tục của sinh lý học.
Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi
một thực thể có thể được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát
sinh ra. Ví dụ con người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát
sinh. Đứa trẻ là hình thể do bào thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai
là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát sinh. Nếu chúng ta đi lần
mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy một ý niệm về
nguyên thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Tất cả mọi vật
trong vũ trụ đều tiến triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối cùng mới là
quan trọng. Những sự nhầm lẫn của tạo hoá là nguyên do của những quái
thai. Sự phát triển không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được
hướng dẫn từ bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo để thành một con
gà chứ không phải một con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một cây
bồ đề chứ không phải một cây lau. Do đó theo quan niệm của Aristote thì
quyền lực của Thiên chúa được thể hiện trong các hiện tượng thiên nhiên.
Aristote quan niệm
rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong vũ trụ: mọi
vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy
là ở đâu ? Aristote cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị chúa
tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ
hơn được xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa
tể này không có hình thể, không thể phân chia, không thể thay đổi, không
thể bị huỷ diệt. Theo Aristote thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ,
ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật,
là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn thể những diễn tiến sinh
lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể so sánh
được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại.
Aristote
còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài
không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành
động. Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì
không ước muốn nên không bao giờ ngài hành động.
6. TÂM LÝ HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT :
Tâm lý học của
Aristote cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác phẩm có
nhiều đoạn đáng để ý, chẳng hạn Aristote là người đầu tiên biết đến mãnh
lực của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai của con người. Đối
với vấn đề tự do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của
Aristote không được đồng nhất, khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh
nghĩa là con người không thể làm khác hơn cái gì định mệnh đã an bài.
Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt số phận của mình bằng
cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng ta có thể tự tạo
nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và
các trò giải trí. Aristote không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết
định mệnh sẽ cãi lại ông ta bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng
ta ảnh hưởng đến sự chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và trò giải
trí của chúng ta. Aristote còn cho rằng con người muốn được khen và sợ
bị chỉ trích, chính yếu tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng chứng
minh sự tự do chọn lựa của con người. Lý luận này cũng không đứng vững
vì chính sự khen chê định đọat hành vi của con người chứ không phải sự
tự do lựa chọn.
Aristote còn đưa
ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống của mọi
sinh vật. Trong cỏ cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh
sản, trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển và cảm xúc,
trong loài người linh hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả
năng, linh hồn không thể tồn tại ngoài thể chất. Tuy nhiên trong một
đoạn khác bằng một lối lý luận dông dài, Aristote lại cho rằng linh hồn
có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối
nghĩa.
Trong một tác phẩm khác, Aristote
bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng nghệ thuật phát minh do nhu
cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm giác của mình. Trong
bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh thiên nhiên giống
như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi người đều
có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy
nhiên mục đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật
mà chính là diễn tả ý nghĩa ở bên trong.
Nghệ
thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên
một khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật
phải hướng về sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng
nhất, nghĩa là không được có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng
nhiệm vụ của nghệ thuật là sự thanh lọc: những cảm giác chất chứa trong
con người do đời sống xã hội tạo nên có thể tìm thấy ở nghệ thuật một
lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý nghĩ trên đây ngày
nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về sức mạnh của
nghệ thuật.
7. ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC:
Số môn đồ đến xin học với Aristote càng ngày càng đông, môn học càng ngày càng mở rộng từ vấn đề khoa học đến các vấn đề đạo đức. Những câu hỏi
sau đây được đặt ra: cuộc đời lý tưởng phải thế nào ? Cái gì là mục
đích tối thượng của cuộc đời ? Đạo đức là gì ? Làm sao có thể tìm thấy
hạnh phúc ?
Thái độ của
Aristote rất thực tế trước những vấn đề này. Ông không khuyên bảo môn đệ
phải theo những lý tưởng quá cao xa. Quan niệm về bản chất con người
của Aristote là một quan niệm rất lành mạnh: tất cả những lý tưởng đều
có một căn bản thiên nhiên và tất cả những cái gì thiên nhiên đều có thể
nẩy nở thành lý tưởng. Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục
đích trực tiếp của cuộc đời không phải là cái hay cái đẹp mà chính là
hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta tìm kiếm tiền tài, danh vọng,
khoái lạc vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem đến hạnh phúc. Tuy
nhiên cần phải biết rõ hạnh phúc thật sự là gì và con đường nào đưa đến
hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi
này bằng cách tìm những đặc điểm phân biệt loài người và những loài vật
khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức
tính của con người. Đức tính nổi bật nhất của loài người là khả năng suy
luận, chính nhờ đức tính này mà loài người đứng trên tất cả loài vật
khác. Chính vì vậy mà khả năng suy luận một khi được phát triển hoàn
toàn đầy đủ sự đem đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Điều
kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo
đức tuỳ thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân
bình của lòng ham muốn. đó không phải là những đức tính của những người
thường mà là kết quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người
hoàn toàn trưởng thành. Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung
dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp thành 3 loại: loại đầu và loại chót là
những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa mới là đạo đức . Ví dụ sự nhút
nhát và tánh liều lĩnh thuộc về loại đầu và loại chót, nghĩa là những
đặc tính quá khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển lận và phung phí.
Tánh khiêm nhượng nằm giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm giữa
tánh cau có và tánh ba hoa sống sượng ...
Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc theo toán học.
Điểm trung dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm
thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói quen quy luận đưa người
ta đến chỗ thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý
do họ là một người có đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do
sự huấn luyện suy tư công phu mà họ hành động chính đáng. Con người có
thể được đánh giá bằng những hành động của họ. Do đó sự thánh thiện
không phải là một hành động đơn độc mà chính là một thói quen. Người ta
còn nhớ câu nói
bất hủ của Aristote về vấn đề này: "Một con én không làm nổi một mùa
xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá khích: nếu một thiếu niên lầm lỗi thì
chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ
là làm sao không đi từ thái cực này đến thái cực khác vì người ta thường
có khuynh hướng sửa sai một cách quá đáng. Những người ở một thái cực
có khuynh hướng cho rằng đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung mà nằm
ở thái cực kia.
Họ có khuynh
hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm khúc tre
thẳng họ phải uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ
quá khích xem điểm trung dung như một lỗi lầm lớn, người can đảm bị kẻ
nhút nhát xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem
những người can đảm như là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ
ôn hoà bị kẻ quá khích xem là bảo thủ và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích.
Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những của Aristote mà còn của nền triết lý
Hy Lạp. Platon xem đạo đức là những hành động điều hoà không quá khích,
Socrate xem đạo đức là do sự suy luận mà có, trong đền thờ Apollon
người ta có khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá
trớn. Người Hy Lạp cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu,
nó là nguyên liệu tạo nên điều xấu hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng
có chừng mực hoặc không có chừng mực.
Tuy
nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc.
Aristote cho rằng những nhu cầu vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng
quá độ làm cho con người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải đem đến
cho con người một đời sống tự do không tham lam giành giựt quá đáng, đó
cũng là một đặc điểm của chế độ quý tộc. Một yếu tố khác rất cần thiết
cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn. Càng được san sẻ, hạnh phúc càng
tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan trọng trong tình bằng
hữu, khi đã là bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng so đo tính toán
trong việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân thật không thể có nhiều:
kẻ nào có quá nhiều bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất
cả mọi người là một điều không thể thực hiện được. Tình bạn chân thật
phải được thử thách với thời gian, nó đòi hỏi sự ổn định trong tánh
tình. Một khi tánh tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên cũng bị
ảnh hưởng. Bình đẳng là một yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự
biết ơn không làm cho sự giao thiệp được lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn
luôn muốn người khác chịu ơn mình mãi mãi trong khi những kẻ chịu ơn
luôn luôn muốn xa lánh kẻ thi ơn càng sớm càng tốt. Do đó, sự giao thiệp
không thể nào được vững bền.
Mặc dù các
tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là sự
sáng suốt của tâm hồn. Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá
của hạnh phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ một quốc gia hoặc
một đảng phái không thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị
phải chiều theo sở thích của quần chúng mà không có gì thay đổi bấp
bênh bằng sở thích quần chúng. Hạnh phúc phải là sự khoái lạc của tâm
trí.
Con người lý tưởng của Aristote
không làm việc nguy hiểm một cách vô ích nhưng gặp trường hợp cần thiết
họ có thể hy sinh tánh mạng vì có nhiều lúc đời sống thật không còn đáng
sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác nhưng nhận sự giúp đỡ một cách rất dè
dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói lên những điều ưa
và ghét, hành động một cách chân thật.
Họ
không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự
không có cái gì đáng khen cả. Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì
tánh a dua là đặc tính của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm hại ai và
sẵn lòng tha thứ tất cả những lỗi lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều,
cũng không muốn được người khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ
không nói xấu người khác dù đó là kẻ thù của họ. Họ đi đứng khoan thai,
nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp tấp vì tâm trí họ không bị bận rộn
bởi những điều phức tạp. Họ không bao giờ hăng hái quá độ vì họ biết
rằng trên đời này không có cái gì quan trọng. Họ chịu đựng những sự bất
trắc ở đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng lãnh giỏi
cầm quân ngoài mặt trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống
một mình và không sợ sự cô đơn. Đó là con người lý tưởng của Aristote.
8. KHOA HỌC - CHÍNH TRỊ
8.1. Cộng sản và bảo thủ:
Tư
tưởng chính trị của Aristote lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của những
tư tưởng về đạo đức kể trên. Nói cách khác Aristote thiên về chế độ quí
tộc. Mặt khác, với tư cách là thầy học của
một vị hoàng đế và chồng của một vị công chúa, Aristote không có lý do
để thiên về thuyết dân chủ hoặc có cảm tình với giai cấp thương gia: Túi
tiền của chúng ta nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm ở đó.
Thêm
vào đó tư tưởng ôn hoà của Aristote có thể xem là hậu quả của những tệ
đoan do một nền dân chủ quá bê bối. Ông ước mong tìm lại nền an ninh
trật tự và hoà bình. Ông cho rằng cần phải chấm dứt những cuộc phiêu lưu
chính trị. Chỉ trong những tình thế ổn định con người mới có quyền quá
khích. Aristote nói rằng :"người ta có thói quen thay đổi luật lệ quá dễ
dàng, làm như vậy lợi bất cập hại. Chúng ta cần phải chịu đựng những
điểm thiếu sót nhỏ nhặt của nhà làm luật hơn là đòi thay đổi luật pháp.
Quốc gia sẽ không có lợi gì một khi dân chúng làm quen với thái độ bất
phục tùng và luôn luôn đòi thay đổi luật pháp. Sự tuân hành luật pháp
(rất cần thiết cho sự ổn cố chính trị ) thường bắt nguồn ở tập tục. Thay
đổi luật pháp khác gì phá vỡ nguồn gốc của sự tuân hành luật pháp.
Aristote
chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là một chế độ không tưởng.
Ông không đồng ý với cuộc sống tập thể của giai cấp thống trị theo kiểu
Platon; ông thích những đức tính cá nhân, sự tự do, sự hữu hiệu và trật
tự xã hội. Ông không muốn xem tất cả người xung quanh là anh chị, xem
tất cả người có tuổi là cha mẹ. Nếu tất cả đều là anh chị, lẽ tất nhiên
không có người nào thực sự là anh chị. Thà rằng có một người bà con xa,
song thật sự là bà con còn hơn có những người bà con theo kiểu Platon.
Trong một xã hội mà tất cả phụ nữ và nhi đồng đều là của chung, tình yêu
thương sẽ phai nhạt. Chỉ những cái gì thực sự của ta mới được chiều
chuộng và gắn bó.
Rất có thể rằng trong
quá khứ xa xôi có một xã hội sống theo chế độ cộng sản. Trong xã hội đó
một gia đình được coi như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh tế tập
trung vào việc cày ruộng và nuôi súc vật. Đối với một xã hội phát triển
hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn, khả năng của con người không thể
đồng nhất như xưa và do đó không thể áp dụng chế độ cộng sản được. Cần
phải có sự thúc đẩy tâm lý con người mới chịu tự rèn luyện để đảm nhận
những công việc chuyên môn, cần phải có phần thưởng của tư sản con người
mới chịu hăng hái phát triển kỹ nghệ và chăn nuôi. Khi tất cả tài sản
là của chung, thì không một ai chịu lo lắng giữ gìn tài sản ấy, người ta
có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng mình và hoàn toàn lơ là
trước các vấn đề chung. Cuộc sống tập thể theo kiểu cộng sản tạo nhiều
vấn đề nan giải, không chóng thì chầy các cá nhân sẽ tìm cách gây gổ
nhau để phân chia của cải.
Người ta
thường chỉ trích chế độ tư sản, cho đó là nguyên do của tất cả các tệ
đoan xã hội. Sự thật thì nguyên do của các tệ đoan ấy không phải ở chế
độ tư sản mà ở bản tánh con người. Khoa học chính
trị không đủ sức để làm nên những con người mới mà phải quan tâm đến
đặc tánh hiện hữu của con người. Nói một cách tổng quát, con người gần
con thú hơn là gần các thiên thần. Phần đông đều u mê và lười biếng. Dù ở
trong chế độ nào đi chăng nữa những người ấy cũng nằm vào hạng chót.
Chủ trương giúp đữ họ không khác gì chủ trương đổ nước vào một cái thùng
bể. Họ phải được cai trị trên phương diện chính trị và sai bảo trên
phương diện kinh tế, sự đồng ý của họ hoàn toàn không cần thiết. Từ lúc
ra đời đã có những người sinh ra để bị sai khiến và những người khác
sinh ra để sai khiến. Những người có khả năng suy nghĩ và tiên liệu là
những người sinh ra để làm chủ, những người chỉ có thể làm việc bằng
chân tay là những người sinh ra để bị sai khiến. Sự phân công trong xã
hội không khác gì sự phân công trong cơ thể: những người chỉ huy không
khác gì bộ óc, những người thi hành không khác gì chân tay, chân tay
phải phụ thuộc vào bộ óc cũng như người thừa hành phụ thuộc vào người
chỉ huy. Người thừa hành là một dụng cụ có đời sống và dụng cụ là một
người thừa hành không có đời sống. Aristote tiên liệu sự tiến triển của
xã hội đến một đời sống máy móc khi ông viết những dòng sau đây: "Nếu
tất cả các dụng cụ đều tự động làm việc, nếu máy dệt tự dệt lấy quần áo,
nếu cái đàn tự phát ra những âm thanh... thì lúc đó người ta không cần
đến những kẻ thừa hành hoặc những nô lệ nữa".
Lối
suy nghĩ trên chứng tỏ thái độ khinh nghề lao động chân tay của người
Hy Lạp. Nguyên do là đời sống lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao
động chân tay không đòi hỏi nhiều khả năng như bây giờ. Aristote xem
những người lao động chân tay như những người hoàn toàn không biết suy
nghĩ. Những công việc ấy chỉ thích hợp với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô
lệ hoá con người. Aristote cho rằng công việc lao động chân tay làm cho
trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng lực để suy nghĩ về chính trị.
Do đó Aristote cho rằng chỉ những người rảnh rang mới được quyền tham
gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất quyền công dân. Ở
Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong chính
phủ nếu họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong
thời hạn 10 năm trở về trước. Những kẻ cho vay, đổi tiền, được Aristote
xếp vào hạng nô lệ. Ông coi việc buôn bán như một hành động bất chính và
sự cho vay nặng lãi như một hành động đáng ghét. Tiền bạc dùng để giao
hoán, không phải để sinh lợi. Sự nghiên cứu tài chánh là những việc đáng
làm đối với một triết gia, nhưng các hoạt động tài chánh là những việc không xứng đáng với một công dân.
8.2. Hôn nhân và giáo dục :
Đàn
bà là nô lệ, đàn ông là chủ. Sự tương quan giữa đàn bà và đàn ông không
khác gì sự tương quan giữa những kẻ trí thức và những kẻ lao động chân
tay hoặc giữa những kẻ man rợ và những công dân Hy Lạp. Aristote cho
rằng đàn bà chỉ có thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí,
do đó không thể tự lập. Việc làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi
sóc nhà cửa. Không nên làm cho phụ nữ được ngang quyền với nam giới như
Platon đã chủ trương. Trái lại sự cách biệt cần phải được tăng thêm vì
chính sự cách biệt ấy khuyến khích gần gũi giữa nam giới và nữ giới. Sự
can đảm của nam giới không giống như sự can đảm của nữ giới như Socrate
đã chủ trương. Aristote cho rằng sự can đảm của nam giới thể hiện trong
việc chỉ huy, sự can đảm của nữ giới thể hiện trong sự phục tòng. Giữ im
lặng là sự vinh quang của nữ giới.
Trên
thực tế Aristote cũng nhận rằng sự phân chia khả năng trên ít khi được
thực hiện. Thường thường trong gia đình chiến thắng không phải về tay kẻ
có sức mạnh vật chất mà về tay kẻ biết nói nhiều và nói dai. Để cứu vãn
nam giới khỏi thiệt thòi, Aristote khuyên nam giới chỉ nên lập gia đình
vào lúc 37 tuổi và chỉ nên cưới những người vợ vào khoảng 20 tuổi. Một
thiếu nữ vào khoảng 20 đủ sức đương đầu với một nam nhi vào khoảng 30,
do đó cần phải lấy người chồng vào khoảng 37 thì trật tự gia đình mới
bảo toàn. Mặt khác, Aristote bênh vực cho thuyết của mình với nhận xét
rằng với số tuổi chênh lệch ấy, khả năng sinh sản của hai vợ chồng mới
có thể chấm dứt vào một lúc. Nếu người chồng còn khả năng này hoặc ngược
lại thi đời sống gia đình sẽ khó khăn. Đối với nam giới tuổi chấm dứt
sinh sản là 70, đối với nữ giới tuổi chấm dứt sinh sản là 50, do đó tuổi
cưới hỏi cần phải phù hợp.
Nếu 2 vợ
chồng trẻ quá thì sức khoẻ của con cái sẽ bị tổn thương. Những cặp vợ
chồng trẻ thường sinh con gái nhiều hơn con trai. Sức khoẻ quan trọng
hơn tình yêu giữa vợ chồng. Những phụ nữ lập gia đình quá sớm thường dễ
hư hỏng, những thanh niên lập gia đình quá sớm thường không phát triển
được tất cả những khả năng vật chất và tinh thần của mình. Vấn đề hôn
nhân là một vấn đề tối quan trọng đối với quốc gia xã hội, vì vậy cần
phải được hướng dẫn và kiểm soát bởi chính phủ: chính phủ phải ấn định
tuổi tối thiểu và tuổi tối đa để kết hôn cho mọi công dân nam nữ, những
thời kỳ nào được phép sanh sản và mức độ gia tăng của dân số. Nếu mức độ
này quá lớn cần phải áp dụng phương pháp phá thai. Dân số trong mỗi
quốc gia tuỳ thuộc vào các nguồn lợi và vị trí của quốc gia ấy. Nếu dân
số quá ít quốc gia không thể tự túc, nếu dân số quá nhiều các nguyên tắc
dân chủ sẽ khó áp dụng. Dân số một quốc gia không nên quá 10 000 người.
Chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo
dục. Muốn chính thể được lâu dài, nền giáo dục phải thích hợp. Những kẻ
xuất chúng phải được huấn luyện để trở nên những nhà cai trị. Họ sẽ sống
một cuộc đời hoàn toàn vì quyền lợi chung, không đếm xỉa đến của cải
riêng. Toàn dân phải được huấn luyện để biết tuân theo pháp luật. Những
công dân tốt trước khi trở thành người chỉ huy giỏi phải là người thừa
hành giỏi. Nền giáo dục còn có tác dụng thống nhất quốc gia, vượt lên
trên những vấn đề chia rẽ địa phương. Các thanh thiếu niên cần phải thấm
nhuần các điều lợi ích do cuộc sống tập thể đưa lại. Một con người có
giáo dục là một con vật (người ?) tốt nhất, những kẻ sống cô độc làm
những kẻ tệ hại nhất. Nếu sự bất công được sử dụng võ khí thì tệ hại
càng lớn hơn. Những kẻ có giáo dục không biết hoà mình vào đời sống xã
hội cũng đáng sợ hơn, chúng là những con vật tham lam, chỉ sự kiểm soát
của xã hội mới đem chúng về con đường đạo đức.Nhờ lời nói con người họp
thành một xã hội, nhờ xã hội con người phát triển trí thông minh, nhờ
trí thông minh con người sống trong trật tự, nhờ trật tự con người đi
đến văn minh. Chính trong xã hội con người mới có những cơ hội để phát
triển. Chỉ những thú vật hoặc những thánh hiền mới sống cô độc.
Những
cuộc cách mạng bao giờ cũng đáng trách. Chúng có thể đem lại một vài
cải cách, nhưng con người phải trả giá quá đắt. Khuyết điểm lớn nhất là
tình trạng hỗn độn có thể đưa đến sự phá huỷ trật tự xã hội và cơ cấu
quốc gia. Những sự cải cách đôi khi có thể thấy được hoặc tính toán được
nhưng các điều bất tiện thì thường thường không thể ngừa trước được mà
có khi lại rất quan trọng. Sở dĩ người ta phê phán một cách dễ dàng là
vì người ta chỉ nhìn sự vật một cách hời hợt. Những người trẻ tuổi
thường dễ bị lừa gạt vì họ tin một cách quá dễ dàng. Huỷ bỏ những tập
tục cổ xưa là một việc làm rất nguy hiểm có thể đe doạ sự ổn cố của
chính thể. Mặc dù được chính thức huỷ bỏ các tập tục cổ xưa vẫn còn sống
trong dân chúng. Nếu một hiến pháp muốn được tồn tại lâu dài, hiến pháp
đó phải được đại đa số dân chúng tán thành. Một nhà cai trị muốn tránh
các cuộc nổi dậy cần phải làm thế nào để xã hội không có những người quá
giàu hoặc quá nghèo. Họ phải khuyến khích dân chúng ra khai khẩn đất
đai ở nước ngoài để sự cạnh tranh ở trong nước có lối thoát; họ phải
khuyến khích và thực hành tôn giáo. Một lãnh tụ "cần phải tỏ ra ngoan
đạo. Nếu dân chúng thấy rằng lãnh tụ của mình ngoan đạo họ sẽ tin tưởng
vào vị lãnh tụ nhiều hơn. Do sự tin tưởng ấy họ sẽ không tìm cách lật đổ
vị lãnh tụ, những kẻ yếu bóng vía còn tưởng rằng vị lãnh tụ của mình
thế nào cũng được các thần thánh giúp đỡ".
8.3. Dân chủ và quý tộc:
Với
những bảo đảm về phương diện tôn giáo, giáo dục và nền tảng gia đình,
cơ cấu chính trị mới có thể vững chắc. Trong tất cả mọi chính thể đều có
những ưu điểm và những khuyết điểm. Trên lý thuyết, chính thể lý tưởng
là sự tập trung tất cả quyền hành chính trị vào người khôn ngoan nhất.
Thi sĩ Homère có nói rằng : "để cho đám đông cai trị là không tốt, việc
cai trị chỉ nên giao cho một người". Đối với một người như vậy, luật
pháp chỉ là một phương tiện hơn là một giới hạn. Đối với người xuất
chúng không thể có luật pháp nào ràng buộc được : chính họ là luật pháp.
Trên thực tế, chế độ quân chủ thường là chế độ dở nhất. Sức mạnh và đạo
đức thường không đi đôi với nhau. Do đó chế độ tạm dùng được là chế độ
quý tộc trong đó một số người xuất chúng nắm giữ guồng máy của quốc gia.
Việc cai trị là một việc quá chuyên môn không thể giao cho dân chúng
ngu dốt đảm nhiệm được. Trong ngành y khoa, chỉ những bác sĩ mới được
hỏi ý kiến, tại sao không áp dụng nguyên tắc này trong lãnh vực chính
trị. Một nhà toán học có thể chọn lựa những nhà toán học, một thuyền trưởng có thể chọn lựa những thuyền trưởng, do đó sự chọn lựa những nhà cai trị phải giao cho những nhà cai trị.
Sự
khó khăn của một chế độ quý tộc cha truyền con nối là sự thiếu một căn
bản kinh tế. Trong xã hội luôn luôn có những người đột nhiên trở nên
giàu và do đó đòi quyền được tham dự vào công cuộc chính trị . Họ sẽ bỏ
tiền ra để mua bất cứ cái gì kể cả chức tước. Đó là tình trạng đáng
tránh vì khả năng chính trị và khả năng làm giàu là 2 lãnh vực hoàn toàn
trái ngược. Để cho kẻ làm giàu lên nắm chính quyền tức là khuyến khích
dân chúng có những thủ đoạn của kẻ gian thương vì dân chúng luôn luôn có
khuynh hướng nghĩ theo và làm theo người lãnh đạo. Một chế độ quý tộc
không căn cứ trên khả năng chính trị không phải là một chế độ quý tộc
thực sự.
Chế độ dân chủ thường thường là
kết quả của một cuộc cách mạng chống giai cấp giàu sang. Aristote đã có
một tư tưởng gần như Karl Marx khi ông nhận xét rằng : Sự cạnh tranh để
làm giàu khiến cho giai cấp trọc phú càng ngày càng bị thu hẹp, đám dân
chúng vô sản càng ngày càng đông đảo. Những phần tử này sẽ làm cách mạng
để lật đổ giai cấp thống trị." Sự chấp chính của giai cấp vô sản có một
vài ưu điểm. Xét theo từng cá nhân thì giai cấp này không ra gì nhưng
xét theo ý chí chung thì giai cấp này cũng tạm gọi là được. Dân chúng là
những người thừa hưởng và trực tiếp chịu ảnh hưởng những chế độ chính
trị, với tư cách đó họ có nhiều kinh nghiệm quý giá mà giai cấp lãnh đạo
không có. Những kẻ hưởng dụng những tiện nghi của một toà nhà có thể
phê bình toà nhà ấy xác đáng hơn là những kiến trúc sư. Những thực khách
trong một bữa tiệc có thể phê bình những món ăn xác đáng hơn là những
người nấu bếp. Mặt khác, một ưu điểm khác của chế độ dân chủ mà Aristote
đã nêu ra là khi đại đa số dân chúng được tham dự chính quyền, sự kiểm
soát lẫn nhau sẽ làm khó khăn cho các hành vi tham nhũng. Người ta có
thể làm dơ bẩn một ly nước dễ dàng hơn làm dơ bẩn một hồ nước. Hơn nữa,
cá nhân dễ bị chi phối vì tham sân si và dễ có những xét đoán sai lầm
trong khi đoàn thể khó bị rơi vào tình trạng trên.
Tuy
nhiên, Aristote vẫn cho rằng chế độ dân chủ không bằng chế độ quý tộc.
Ông không chấp nhận nguyên tắc bình đẳng trong chế độ dân chủ . Ông cho
rằng mọi người có thể bình đẳng trên một vài phương diện nhưng không thể
bình đẳng trên tất cả mọi phương diện. Ông sợ rằng trong chế độ dân chủ
các phần tử sáng suốt sẽ bị hy sinh cho quyền lợi của đa số. Ông còn sợ
rằng một thiểu số sẽ nấp sau đa số mà thao túng chính trường. Vì lẽ đó,
ông vẫn chủ trương rằng chỉ nên trao quyền đầu phiếu cho những kẻ sáng
suốt. Ông muốn có một sự dung hoà giữa 2 chế độ dân chủ và quý tộc.
Một nền cai trị theo hiến pháp hình như là câu trả
lời cho giải pháp dung hoà nói trên. Chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào
là một hiến pháp tốt đẹp nhất cho hầu hết các quốc gia, thế nào là đời
sống lý tưởng nhất cho hầu hết các công dân. Chúng ta không nên đặt
những tiêu chuẩn quá cao hoặc chủ trương một nền giáo dục quá lý tưởng ,
chỉ một số ít người theo kịp. Trái lại cần phải đặt những tiêu chuẩn
trung bình khiến cho đại đa số dân chúng có thể đạt được dễ dàng. Cần
dựa vào những lực lượng muốn duy trì hiến pháp. Lực lượng này không thể
gồm toàn dân chúng, hoặc những kẻ có của cải, hoặc những quân nhân, hoặc
những công chức mà phải bao gồm tất cả những thành phần kể trên. Lực
lượng nòng cốt phải được tìm thấy ở giai cấp trung lưu.
Nếu
tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia chính phủ thì chế độ dân chủ
được bảo đảm. Tuy nhiên Aristote thấy rằng việc chọn lựa người tham gia
chính phủ phải được cân nhắc kỹ lưỡng chỉ những người có đầy đủ điều
kiện mới được vào, đó là nguyên tắc của chế độ quý tộc. Mặc dù nhìn công
việc chính trị dưới khía cạnh nào đi nữa người ta cũng sẽ cùng đi đến
một kết luận chung: đó là dân chúng phải có quyền ấn định mục tiêu của
quốc gia trong khi đó chỉ những người chuyên môn mới có thể thực hiện
mục tiêu đó.
9. PHÊ BÌNH:
Đối
với Aristote chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng
nhiệt vì chính Aristote cũng chủ trương rằng không có cái gì làm chúng
ta hăng hái quá đáng, không có cái gì đáng khen. Aristote không hăng hái
như Platon cũng không có những tư tưởng độc đáo, trí tưởng tượng cao
siêu của Platon. Tuy nhiên, sau khi thưởng thức những tư tưởng động trời
của Platon chúng ta thấy rằng những tư tưởng của Aristote không khác gì
một cơn gió mát thổi vào một buổi trưa hè.
Chúng
ta có thể bất đồng ý kiến với Aristote về một vài điểm chẳng hạn như
Aristote cho rằng tam đoạn luận là một lối suy luận thông thường và
chính xác trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng tam đoạn
luận cũng chỉ là một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư
tưởng con người đi từ các nguyên đề để tìm đến kết luận trong khi trên
thực tế có rất nhiều trường hợp con người đi tìm kết luận trước rồi mới
cố đặt ra những nguyên đề để chứng minh kết luận của mình.
Những
nhận xét của Aristote về thiên nhiên chứa rất nhiều sai lầm quan trọng.
Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét
khoa học. Đây cũng là một đặc điểm của nền văn hoá Hy Lạp : Các học giả
thời ấy thường đi đến kết luận một cách quá hấp tấp. Trong thế giới
hiện nay chúng ta lại gặp một trường hợp trái ngược : chúng ta có quá
nhiều nhận xét đến nỗi chúng ta cảm thấy vô cùng bối rối khi phải đi đến
một kết luận vì các sự kiện, các con số, các nhận xét không ăn khớp với
nhau.
Công trình nghiên cứu của Aristote về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của luận lý học.
Kết quả là một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy con người
tự cải thiện. Lý tưởng của Aristote thiên về một đời sống quá bình thản,
quá ôn hoà, một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu
ở Anh-cát-lợi. Một điểm đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristote được 2 trường đại học danh
tiếng tại Anh-cát-lợi là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo khoa.
Nhiều thế hệ sinh viên Anh-cát-lợi xem tác phẩm của Aristote như kinh
nhật tụng. Tác phẩm nhan đề là "chính trị" đã góp phần xây dựng tư tưởng
của người Anh để đem lại một nền chính trị ôn hoà và hữu hiệu. Nếu thay
vì mến chuộng những tác phẩm của Aristote, người Anh lại ham mê và áp
dụng những tư tưởng của Platon thì bộ mặt của thế giới có lẽ đã đổi
khác.
Chúng ta cần phải để ý rằng
tư tưởng của Aristote thuộc về một loại riêng biệt và không có những đặc
tính của những tư tưởng thuần tuý Hy Lạp. Khi ông đến thành Athènes,
một thành phố Hy Lạp thì ông đã là một người trưởng thành. Vì lẽ đó ông
không bị ảnh hưởng bởi đặc tính bồng bột của người Hy Lạp, luôn luôn tìm
sự mới lạ trong lãnh vực chính trị, đi từ cải cách này đến cải cách
khác cho đến khi sát nhập vào một chính quyền trung ương. Trái lại
Aristote luôn luôn tìm cách tránh sự quá khích. Đặc tính ôn hoà của ông
làm cho tư tưởng ông một đôi khi có vẻ quá tầm thường. Ông rất sợ những
tình trạng hỗn loạn trong xã hội đến nỗi đã lên tiếng bênh vực chế độ nô
lệ. Ông sợ những sự thay đổi và chủ trương một xã hội trung thành với
các tập tục cổ xưa. Ông quên rằng chế độ cộng sản của Platon chỉ áp dụng
đối với giai cấp thống trị, một giai cấp lý tưởng mà Platon đã coi như
hoàn toàn giác ngộ, không còn tham lam vị kỷ. Mặc dù đả kích Platon,
Aristote cũng đi đến kết luận gần giống như Platon khi ông chủ trương
rằng các tài sản trong xã hội cần phải đem ra sử dụng chung. Ông bênh
vực quyền sở hữu những ông không thấy rằng quyền sở hữu chỉ có ích đối
với xã hội khi vật sở hữu là những món đồ dùng cá nhân không quan trọng .
Trái lại khi quyền sở hữu cá nhân liên quan đến các phương tiện sản
xuất rộng lớn nó sẽ đưa đến sự tập trung quyền hành quá mạnh và sự bất
bình đẳng quá lớn trong xã hội.
Tuy
nhiên những nhận xét kể trên thật ra hoàn toàn không cần thiết đối với
một hệ thống tư tưởng đã ra đời cách đây 2500 năm. Dù sao đi nữa
Aristote đã nêu cao ngọn đuốc văn minh cho nhân loại đồng soi chung. Ông
đã đặt nền móng cho một hệ thống tư tưởng vững chắc và giúp cho các thế
hệ tương lai dựa vào đó để phát triển sự nghiên cứu sưu tầm hầu mạnh
tiến trên con đường tìm chân lý. Những nền văn minh kế tiếp đều mang một
món nợ tinh thần đối với Aristote. Những tác phẩm của ông lần lượt được
phiên dịch trong suốt quá trình tiến triển của nhân loại nhất là vào
thế kỷ thứ 5, thế kỷ thứ 10, thứ 13 và thứ 15. Đạo quân thánh chiến đã
đem về Âu châu nhiều tác phẩm của Aristote và các học giả
thành Constantinople đã mang theo những tác phẩm của Aristote như những
bảo vật khi họ phải tản cư khỏi thành phố này trước những đội quân xâm
lăng Thổ-nhĩ-kỳ. Các tác phẩm của Aristote được mến chuộng nhiều cho đến
nỗi các cấp lãnh đạo giáo hội Thiên chúa giáo đem lòng ganh ghét vì sợ
làm lu mờ các điều truyền dạy trong thánh kinh. Năm 1215 việc giảng dạy
các tác phẩm của Aristote bị giáo hoàng cấm, năm 1231 đức giáo hoàng
Gregory IX thành lập một uỷ ban để khai trừ Aristote, tuy nhiên đến 1260
thì thái độ của giáo hội thiên chúa giáo đối với Aristote hoàn toàn
thay đổi. Việc giảng dạy các tác phẩm của ông chẳng những không bị cấm
mà còn bị bắt buộc trong các trường thiên chúa giáo. Những thi sĩ như
Chaucer và Dante không tiếc lời ca tụng Aristote. Một số tư tưởng của
ông đã ngự trị trong lịch sử văn minh nhân loại hàng chục thế kỷ trước
khi bị lu mờ bởi những chứng minh khoa học.
10. TUỔI GIÀ VÀ CHẾT :
Cuộc
đời của Aristote có rất nhiều nỗi truân chuyên. Ông có sự bất bình với
vua Alexandre vì nhà vua đã xử tử một người cháu của ông. Nguyên do vụ
án này là vì cháu của Aristote không chịu phục tòng Alexandre. Trong lúc
đó, Aristote lên tiếng bênh vực Alexandre trước những chỉ trích của phe
chống đối tại Athènes. Ông binh vực cho sự thống nhất các tiểu quốc
người Hy Lạp và muốn thấy tình trạng chia rẽ chấm dứt càng sớm càng tốt.
Ông muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Hy Lạp cho Alexandre cũng
như sau này văn hào Goethe muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Âu
châu cho Napoléon. Trong khi đó các nhóm chia rẽ tại Athènes càng ngày
càng bành trướng, họ cương quyết phản đối việc Alexandre cho đúc một bức
tượng của Aristote và đặt ở Athènes. Trước tình thế này Aristote rất
khó lòng giữ được vẻ lạnh lùng và bình tĩnh trước cuộc đời như ông
thường cổ võ trong tác phẩm „Đạo đức học“. Những môn đệ của Platon phụ họa với các nhóm chính trị khác vận động để kết tội Aristote.
Năm
323 tTL vua Alexandre chết. Dân chúng thành Athènes thừa dịp đó tuyên
bố ly khai và đánh đổ đảng Macédoine là đảng đã ủng hộ Alexandre. Một
nhà lãnh đạo tôn giáo cầm đầu phong trào chống đối Aristote vì cho rằng
Aristote đã phản lại tôn giáo bằng cách cổ võ dân chúng không nên cầu
nguyện và cúng tế. Aristote biết trước thế nào ông cũng bị đem ra xử
trước một đám dân chúng cuồng tín và có nhiều ác cảm. Ông bèn rời bỏ
thành phố Athènes để đi nơi khác. Cử chỉ này không phải là một cử chỉ
ươn hèn vì theo tục lệ thời ấy, nếu một chính trị gia không muốn bị dân
chúng xét xử họ có quyền bỏ thành phố để đi nơi khác. Đến Chalcis
Aristote nhuốm bịnh và chết. Có người cho rằng ông đã uống thuốc độc tự
tử vì quá ngao ngán cho nhân tình thế thái.
Cũng
trong năm ấy và cũng trong lứa tuổi 62, một vĩ nhân Hy-lạp khác là
Démosthène cũng uống thuốc độc tự tử. Thế là trong vòng một năm dân
Hy-lạp đã mất một nhà lãnh đạo tài ba nhất, một nhà hùng biện hùng hồn
nhất và một triết gia
thông thái nhất. Ngôi sao của Hy-lạp mờ dần trước sự tiến triển vượt
bực của người La-mã. Tuy nhiên sự lộng lẫy của La-mã căn cứ vào sức mạnh
hơn là vào nền văn hoá. Sau đó nền văn minh La-mã cũng tàn rụi. Dân
chúng Âu châu phải trải qua 1000 năm đen tối trong khi chờ đợi sự tái
sinh của triết học./.
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 3
FRANCIS BACON
( 1561 – 1626 )
( 1561 – 1626 )
1. TỪ ARISTOTE ĐẾN THỜI PHỤC HƯNG:
Khi bị dân thành Sparte bao vây và đánh bại vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, Athènes, bà mẹ của triết học và
nghệ thuật Hy Lạp, bị mất hết ưu thế chính trị, và hùng khí cùng nền
độc lập của tâm thức Athènes cũng suy tàn. Khi vào năm 399 tTL Socrate
bị kết án tử hình, thì linh hồn của Athènes cũng chết theo ông, chỉ còn
lảng vảng nơi Platon, người môn đệ kiêu hãnh. Và khi vua Philippe xứ
Macédoine đánh bại quân Athènes ở Charonea vào năm 388 tTL và 3 năm sau,
khi Alexandre phóng hoả san bằng đô thị Thèbes rộng lớn, chỉ ngạo nghễ
chừa lại ngôi nhà của Pindare, thì rõ ràng là nền độc lập của Athènes về
chính trị và tư tưởng đã bị phá huỷ vô phương phục hồi. Sự thống trị triết học Hy
Lạp do người ở thành Macédoine là Aristote phản ánh sự thuần thục chính
trị của Hy Lạp đối với những dân tộc trẻ trung, hùng tính hơn đến từ
phương Bắc.
Cái chết
của Alexandre (năm 323 tTL) đã thúc nhanh quá trình này. Vị hoàng tử con
trai vẫn còn bán khai sau mọi sự giáo huấn của Aristote, cũng đã học được
sự kính trọng nền văn hoá giàu có của Hy Lạp, và đã có mộng ước lan
truyền nền văn hoá ấy khắp phương đông theo dấu những đội quân đắc thắng
của mình. Sự phát triển thương mãi Hy Lạp và sự tăng bội những trạm
thương mãi Hy Lạp suốt miền Á châu nhược tiểu, đã cung cấp một căn bản
kinh tế cho sự thống nhất miền nầy như phần tử của một đế quốc Hy Lạp;
và Alexandre hy vọng rằng từ những trạm rộn rịp nầy, tư tưởng Hy Lạp,
cũng như hàng hoá Hy Lạp, sẽ toả ra để chinh phục. Nhưng ông đã đánh giá
quá thấp sự trơ lì và sức chống kháng của tâm thức Đông phương, cũng
như chiều sâu và khối lớn của văn hoá Đông phương. Chung quy, đấy chỉ là
một tưởng tượng của tuổi trẻ, khi giả thuyết rằng một nền văn minh
thiếu trưởng thành và không bền vững như văn minh Hy Lạp có thể đè đầu
một nền văn minh vô cùng lan rộng hơn và có gốc rễ trong những truyền
thống cổ kính nhất. Số lượng của Á châu rõ ràng là quá nhiều đối với
phẩm chất của Hy Lạp. Ngay chính Alexandre, vào giờ phút chiến thắng,
cũng đã bị chinh phục bởi linh hồn của phương Đông; ông cưới (trong số
nhiều bà) con gái của Darius, ông du nhập vào Âu châu quan niệm đông
phương về uy quyền thiêng liêng của vua chúa; và cuối cùng ông đã làm
cho một Hy Lạp hoài nghi phải ngạc nhiên khi công bố, theo kiểu long
trọng đông phương, rằng ông là một vị trời. Hy Lạp đã phì cười; và
Alexandre đã uống rượu cho tới chết.
Sự
tan hoà tinh tế nầy của một linh hồn Á châu vào trong thể xác mỏi mệt
của một vị chúa tể Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn sóng thờ phụng
và tín ngưỡng đông phương vào Hy Lạp được tiếp nối mau chóng bởi làn
sóng thờ phụng và tín ngưỡng Đông phương vào Hy Lạp dọc theo chính những
con đường giao thông mà vị vua chiến thắng trẻ tuổi đã mở ra; những con
đê vỡ mở lối cho đại dương tư tưởng Đông phương du nhập vào những đồng
bằng của tâm thức Á châu còn niên thiếu. Những đức tin thần bí dị đoan
cắm rễ trong những người nghèo của xứ Hy Lạp cổ xưa bấy giờ được tăng
cường và lan khắp; tinh thần thản nhiên chịu đựng của Đông phương cũng
đã tìm được một mảnh đất sẵn sàng trong xứ Hy Lạp tuyệt vọng. Sự du nhập
nền triết học khắc
kỷ vào Athènes do thương gia người Phoenicia là Zénon (khoảng năm 310
tTL) chỉ là một trong nhiều sự xâm nhập của Đông phương. Cả hai thuyết
khắc kỷ và hưởng lạc - sự thản nhiên chấp nhận thất bại và nỗ lực để
quên thất bại trong vòng tay của lạc thú - là những lý thuyết về cách
thức làm sao có thể hạnh phúc trong khi vẫn bị phục tòng hay nô lệ; hệt
như thuyết khắc kỷ kiểu Đông phương bi quan của Schopenhauer và thuyết
hưởng lạc tuyệt vọng của Renan vào thế kỷ 19, đã là những biểu tượng của
một nền cách mạng tan rã và một nước Pháp điêu linh.
Không
phải những phản đề tự nhiên nầy của lý thuyết đạo đức hoàn toàn mới mẻ
đối với Hy Lạp. Người ta gặp chúng trong một Héraclite buồn thảm và "triết gia
cười" Démocrite; và người ta thấy những môn đệ của Socrate chia phân
thành ra hai phái dưới sự lãnh đạo của Anthisthènes và Aristippel, một
bên tán dương sự thản nhiên chịu đựng, một bên ca tụng hạnh phúc. Tuy
nhiên ngay cả vào thời ấy, đây cũng là những hình thái tư tưởng hầu như
xa lạ: đô thị Athènes vương giả không quen thuộc với chúng. Nhưng khi Hy
Lạp đã thấy Chaeronea trong máu và Thèbes thành tro, nó mới lắng nghe
Diogène, và khi vinh quang đã rời bỏ Athènes thì đô thị nầy thuần thục
sẵn sàng đón Zénon và Epicure. Zénon xây dựng triết học ông
về tánh thản nhiên trên một thuyết tất mệnh mà một nhà khắc kỷ sau này,
Chrysippus, nhận thấy rất khó phân biệt với thuyết định mệnh của Đông
phương. Khi Zénon, người không tin chủ nghĩa nô lệ, đánh đập người nô lệ
mình vì một lỗi nào đó, người nô lệ đã bình thản biện hộ rằng, theo triết học của
chủ, y đã bị số phận từ vô thỉ phải phạm lỗi ấy; Zénon đã trả lời rằng
ông cũng thế, đã có phần số phải đánh y vì lỗi kia. Cũng như
Schopenhauer cho rằng ý chí cá nhân chống lại ý chí phổ quát là việc vô
ích, nhà khắc kỷ cũng lý luận rằng thái độ lãnh đạm triết lý
là thái độ hợp lý duy nhất trong một đời sống mà sự tranh đấu sống còn
phải chịu số phận oan uổng là luôn luôn đưa đến thất bại tất yếu. Nếu sự
chiến thắng là hoàn toàn bất khả thì đáng nên khinh bỉ nó. Bí quyết của
sự bình an không phải là thực hiện cho kỳ được những ham muốn, mà ham
muốn thật ít để có thể thực hiện. Seneca, nhà khắc kỷ La Mã (mất năm 65)
bảo: "Nếu những gì bạn có dường như không đủ cho bạn, thì dù bạn sở hữu
cả thế giới bạn cũng vẫn còn khổ sở".
Một
nguyên tắc như thế kêu lên thấu trời để đòi hỏi nguyên tắc đối lập nó,
và Epicure -mặc dù chính ông là một người khắc kỷ trong cuộc sống như
Zénon- đã cung cấp đối lập ấy. Theo Fénelon, Epicure "đã mua một khu
vườn xinh đẹp, mà tự ông chăm bón, ở đấy ông lập trường học và
sống một đời êm đềm dễ chịu với các môn đệ trong khi ông đi dạo và làm
việc... Ông cho rằng không gì cao quý hơn áp dụng chính bản thân mình
vào triết học".
Khởi điểm của ông là một niềm xác tín rằng sự buồn thảm không thể có và
khoái lạc - mặc dù không nhất thiết là khoái lạc giác quan - là cứu
cánh duy nhất có thể quan niệm và hoàn toàn chính đáng của đời sống và
hoạt động. "Thiên nhiên hướng dẫn mọi cơ thể để ưa thích tiện nghi cho
riêng nó hơn mọi sự tốt đẹp khác"; ngay cả người khắc kỷ cũng tìm thấy
niềm vui tế nhị trong sự khước từ. "Ta không được tránh lạc thú, nhưng
phải tuyển chọn chúng". Như vậy, Epicure không phải là kẻ hưởng lạc; ông
ca tụng những nguồn vui của trí thức hơn là của giác quan; ông cảnh cáo
chống lại những khoái lạc kích động và quấy rối linh hồn mà đáng lẽ
chúng phải làm cho an tĩnh và lắng dịu. Cuối cùng ông đề nghị tìm kiếm
không phải khoái lạc trong nghĩa thông thường, mà ataraxia -sự an tĩnh,
bình lặng, yên nghỉ của tâm hồn, tất cả điều ấy đều rất gần với nỗi thản
nhiên chịu đựng kiểu Zénon.
Những người La Mã đến cướp phá Hy Lạp vào năm 146 tTL, tìm thấy những học thuyết thù nghịch này đang phân chia chiến trường triết học và không có sự nhàn rỗi cũng như tế nhị để tự mình tư duy, đã mang những triết học ấy
theo cùng với những của cải lượm được chở về La mã. Những nhà tổ chức
vĩ đại, cũng như những kẻ nô lệ tất yếu, đều hướng về tư thái lạnh lùng
thản nhiên, thật khó mà làm chủ hay tớ nếu người ta quá nhạy cảm. Bởi
thế nền triết học La Mã phần lớn thuộc học phái
Zénon, dù nơi Marc Aurele vị đế vương hay nơi Épictète kẻ nô lệ; và
ngay cả Lucrèce cũng nói về chủ nghĩa khoái lạc một cách khắc kỷ (như
người Anh của Heine buồn bã hưởng lạc), và kết thúc Phúc âm khắc khổ về
khoái lạc bằng cách tự tử. Bản trường ca cao thượng của ông nhan đề "Về
bản chất của sự vật" mô phỏng Epicure trong việc ca ngợi khoái lạc để mà
chỉ trích nó. Hầu như đồng thời cới César và Pompey, ông sống ở giữa sự
náo động và hỗn loạn; ngòi bút bất an của ông luôn luôn viết những lời
nguyện cầu cho an lạc hoà bình. Người ta hình dung ông như một linh hồn
rụt rè mà tuổi trẻ đã bị những nỗi sợ hãi tôn giáo làm cho đen tối; vì
ông không bao giờ chán bảo độc giả rằng không có địa ngục, trừ ở đây, và
không có những vị thiên thần trừ những thiên thần cốt cách sống trong
một khu vườn của Epicure trong những đám mây, và không bao giờ xen vào
những công việc của người. Đối lập sự thờ phụng thiên đường và địa ngục
đang thịnh hành trong dân chúng La Mã, ông đưa ra một thuyết duy vật tàn
bạo. Linh hồn và tâm trí đều cùng tiến triển với thể xác, lớn lên với
sự lớn lên của thể xác, đau với sự đau của thể xác, và chết với cái chết
của xác. Không gì hiện hữu ngoài ra nguyên tử, không trung và định
luật; và định luật của những định luật là định luật thành hoại lan khắp.
Không một vật gì dừng trụ, mọi sự đều tuôn chảy.
Mảnh này bám lấy mảnh kia; vạn vật cứ thế lớn dần.
Cho đến khi ta biết và đặt tên chúng.
Dần dần chúng tan rã, và không còn là những vật ta biết.
Được kết thành hình cầu từ những nguyên tử rơi nhanh hay chậm
Tôi thấy những mặt trời và những thái dương hệ thành hình;
Và ngay những thái dương hệ cùng những mặt trời ấy
Sẽ từ từ trở về chu kỳ vần xoay bất tận
Ngươi nữa, hỡi quả đất - đế quốc ngươi, đất, biển và những ngôi sao nhỏ nhất trong ngân hà,
Cũng như chúng, ngươi thành hình từ cơn xoay vần và cũng như chúng,
Ngươi sẽ đi. Ngươi đang đi, từng giờ một
Không vật gì dừng trụ: Biển của ngươi từ từ biến mất.
Những bãi cát trăng soi rời bỏ chỗ chúng;
Và nơi hoàng sa kia sẽ có những biển khác đến xoá tan bờ vịnh bằng những lưỡi hái trắng ngần
(Lucretius on life and death. pp.15-16 -Mallock diễn ra Anh ngữ- !)
Cộng thêm vào sự thành hoại của các tinh tú là sự khởi nguyên và tận diệt của các loài:
Ngày
xưa quả đất cũng đã sản xuất nhiều quái vật, những con vật này có mặt
mày chân tay kỳ dị...; có những con không chân, có những con không tay,
có những con không mồm, có những con không mắt,... Mọi quái vật thuộc
loài ấy quả đất đã sản xuất, nhưng vô hiệu; vì thiên nhiên không để
chúng tăng trưởng, chúng không thể đạt đến tuổi hoa niên mong mỏi, cũng
không kiếm ăn được, cũng không phối hợp được trong hôn nhân; ... và
nhiều loài chắc đã phải diệt dần như thế và không thể sinh con hay tiếp
tục sinh sống. Vì trong trường hợp mọi sinh vật mà ta thấy hô hấp hơi
thở của sự sống, từ khởi thuỷ mỗi loài đều có hoặc tài năng hoặc can
đảm, hoặc vận tốc đã che chở và bảo tồn cho nó... Những loài mà thiên
nhiên không cho một đặc tình nào kể trên đều sẽ bị phó mặc làm mồi cho
những loài khác, cho đến khi thiên nhiên đưa chúng đến chỗ tận diệt (p.
830ff, Munro dịch).
Các quốc gia cũng như
cá nhân, từ từ lớn lên và chắc chắn phải chết: "một vài quốc gia trổi
lên, vài quốc gia khác tàn tạ, và trong một khoảng ngắn thời gian, những
sinh vật bị biến đổi, và cũng như những kẻ chạy đua, chuyền lại ngọn
đèn của sự sống". Trước chiến tranh và cái chết không thể tránh, không
có sự khôn ngoan nào ngoài ra trong thái độ an nhiên ataraxia, - "nhìn
mọi sự với cõi lòng bình an". Ở đây, rất rõ, niềm vui vô thần cũ về cuộc
đời đã mất, và một tinh thần hầu như xa lạ đang chạm một chiếc đàn cầm
đã gãy vỡ. Lịch sử, vốn chỉ là một trò khôi hài, chưa bao giờ đùa dai
cho bằng khi nó tặng danh từ "hưởng lạc" cho con người yếm thế bi tráng
và tiết độ nầy.
Và nếu đây là
tinh thần của môn đồ Epicure, thì ta hãy tưởng tượng niềm lạc quan phấn
khởi của những nhà khắc kỷ rõ rệt như Aurèle, hay Épictète. Không có gì
trong mọi nền văn học lại
buồn thảm bằng những bài "nghị luận" của người nô lệ, trừ phi những bài
"Trầm tư" của vị hoàng đế. "Đừng tìm cách làm cho sự vật xảy ra như
ngươi muốn, mà tốt hơn chúng xảy ra thế nào thì hãy lựa chọn thế ấy; như
vậy ngươi sẽ sống phong phú" (Enchiridion and Dissertations of
Epictetus, de Rolleston, p. 81). Dĩ nhiên bằng cách ấy ta có thể làm chủ
tương lai và cũ trụ. Chuyện kể
rằng người chủ Epictète thường xuyên đối xử tàn nhẫn với ông, một ngày
kia khởi sự vặn bẻ một ống chân Epictète để tiêu khiển. Epictète bảo:
"Nếu ngài tiếp tục, ngài sẽ làm gãy chân tôi". Người chủ cứ tiếp tục và
cái chân gãy thật. Epictète ôn tồn nhận xét: "Đấy, há tôi đã chẳng bảo
ngài sẽ làm gãy chân tôi đấy sao ?. Tuy nhiên có một vẻ gì cao thượng
huyền bí trong triết lý
này, như trong sự can đảm yên lặng của một người chủ hoà kiểu
Dostoevski. "Đừng bao giờ bảo rằng : tôi đã mất vật nọ vật kia; mà phải
nói : tôi đã trả nó về. Con của bạn chết chăng ? - nó được trả về. Vợ
bạn chết chăng ? - nàng được trả về. Bạn bị tước mất hết tài sản chăng ?
- há chẳng phải nó cũng được trả về đấy hay sao ?" Trong những đoạn văn
như thế ta thấy gần giống với Kitô giáo và những thánh tử đạo anh dũng
của tôn giáo này; quả thế, há chẳng phải nền đạo đức Kitô giáo về sự
quên mình, lý tưởng chính trị Kitô về tình huynh đệ - gần như kiểu cộng
sản - giữa người với người và thuyết mạt thế Kitô giáo về sự thiêu huỷ
cuối cùng của toàn thế giới - chính là những mảnh vụn của chủ thuyết
khắc kỷ đang trôi nổi trên dòng tư tưởng. Trong Epictète, linh hồn Hy
Lạp - La Mã đã mất tính cách vô thần của nó, và sẵn sàng cho một niềm
tin mới. Sách của ông có hân hạnh đặc biệt là được giáo đường Kitô sơ
thuỷ áp dụng như một cuốn yếu lược tôn giáo. Từ những "Nghị luận" này và
những "Trầm tư" của Aurèle đến "Sự mô phỏng đấng Kitô" chỉ cách nhau
một bước.
Trong lúc ấy bối
cảnh lịch sử đang hoà vào trong những cảnh tượng mới hơn. Có một đoạn
văn đặc sắc trong Lucrèce tả sự suy tàn của nông nghiệp trong cuốn La
Mã, và quy sự suy tàn ấy cho lý do đất đã kiệt lực. Dù nguyên nhân nào
đi nữa, sự giàu có của La mã cũng đã nhường bước cho cảnh nghèo nàn, tổ
chức trở thành phân hoá, quyền lực và niềm kiêu hãnh trở thành sự suy vi
và nỗi thản nhiên chịu đựng. Các đô thị rơi vào tình trạng những miền
nội địa không có gì đặc sắc; đường xá rơi vào tình trạng thiếu sửa chữa
và không còn tấp nập việc mậu dịch thương mãi; những gia đình nhỏ của
người La mã có giáo dục bị lấn lướt bởi những giòng giống Đức mạnh mẽ vô
giáo dục hằng năm len lỏi qua biên giới; văn hoá vô thần nhường bước
cho tín ngưỡng Á đông; và dần dà, một cách tinh vi, đế quốc trở thành
Giáo quốc của nhà thờ Công giáo La mã.
Giáo
đường, vào những thế kỷ đầu tiên, được ủng hộ bởi những vị vua dần dần
bị lấn quyền, phát triển nhanh chóng về số lượng, tài sản và tầm ảnh
hưởng. Vào thế kỷ 13, nó đã chiếm một phần ba đất Âu châu (Robinson và
Beard: Outlines of European History, Boston, 1914, I, 443) và những tủ
sắt của nó đầy nhóc những tặng dữ (?) từ người giàu và kẻ nghèo. Trong
một nghìn năm, với bùa phép của một tín điều không thay đổi, nó đã thống
nhất phần lớn dân tộc của một lục địa; chưa bao giờ trước đấy, và từ
đấy đến nay, có một tổ chức nào lan rộng đến thế hay hoà bình đến thế.
Nhưng sự thống nhất này, theo giáo đường nghĩ, đòi hỏi một đức tin chung
được tăng cường bằng những hình phạt siêu nhiên ở bên ngoài chuyển biến
và sự ăn mòn của thời gian; bởi thế những giáo điều cố định và được
giải thích kỹ càng được đúc nên như một cái vỏ cứng trên tâm thức mới
lớn của Âu châu thời trung cổ. Chính trong giới hạn lớp vỏ này nền triết học kinh
viện đã di chuyển hạn hẹp từ đức tin đến lý trí và trở lại, mắc kẹt
quanh quẩn trong một vòng tròn gồm những giả thuyết không được phê phán
và những kết luận có trước. Vào thế kỷ mười ba, tất cả tín đồ Kitô giáo
phải giật mình và kích động trong bản dịch tác phẩm Aristote ra tiếng
Ả-rập và Do thái; những uy lực của giáo đường vẫn còn có đủ qua thánh
Thomas d' Aquin và những người khác để biến hoá Aristote thành một nhà
thần học trung cổ. Kết quả đấy là sự khôn khéo tinh ranh, chứ không phải minh triết.
"Trí khôn và tâm thức con người - Bacon bảo- nếu tác động trên vật
chất, nó sẽ tuỳ thuộc vào nguyên liệu mà tác động, và do đó bị nguyên
liệu hạn chế. Nhưng nếu nó tác động trên chính nó như nhện giăng tơ, tằm
làm kén, thì nó thành ra vô tận, và quả thế mang lại những mạng nhện
của sự uyên bác, đáng phục vì công trình tinh vi song lại không thực
chất vì vô bổ". Sớm muộn gì tri thức Âu châu cũng sẽ nhảy ra khỏi lớp vỏ
này.
Sau một ngàn năm
chăm bón, đất nở hoa trở lại; hàng hoá được tăng bội thành một số thặng
dư buộc phải có mậu dịch; và việc mậu dịch ở những con đường chéo của
nó lại dựng lên những đô thị mới, nơi đó người ta có thể cộng tác để bồi
dưỡng văn hoá và dựng lại văn minh. Những cuộc thánh chiến mở những con
đườmg đến Âu châu, và để tràn vào một dòng xa xỉ phẩm và tà thuyết làm
tiêu ma chủ nghĩa khắc khổ và giáo điều. Bấy giờ giấy du nhập rất rẻ từ
Ai-cập, thay thế loại da thuộc đắt đỏ đã làm cho việc học trở
thành độc quyền của giới tu sĩ; sự ấn loát, từ lâu chờ đợi một phương
tiện ít tốn kém, bây giờ bừng lên như một chất nổ được châm ngòi, và lan
rộng khắp nơi ảnh hưởng phá hoại và soi sáng của nó. Bấy giờ những thủy
thủ gan dạ lại được trang bị địa bàn, dám phiêu lưu vào biển cả hoang
vu và chinh phục sự ngu dốt của con người về trái đất; những nhà quan
sát kiên nhẫn với những ống viễn vọng kính, phiêu lưu ra ngoài giới hạn
của giáo điều, và chinh phục được sự ngu dốt của con người về bầu trời.
Khắp nơi, trong những đại hoc đường, trong các chủng viện và những nơi
ẩn dật xa xôi, người ta thôi tranh luận và bắt đầu tìm tòi. Từ nỗ lực
biến kim khí loại thấp thành vàng, thuật luyện kim dò dẫm chuyển thành
hoá học; từ khoa chiêm tinh con người dò đường vừa táo bạo vừa rụt rè, đến khoa thiên văn học; và từ những chuyện ngụ ngôn về loài vật biết nói, khoa động vật học ra
đời. Sự bừng tỉnh ấy bắt đầu với Roger Bacon (chết năm 1294); phát
triển với Leonardo da Vinci (1452 - 1519); và viên mãn với nền thiên văn
của Copernic (1473 - 1543) và Galilée (1564 - 1642), với những nghiên
cứu của Gilbert (1544 - 1603) về nam châm và điện, của Vesalius (1514 -
1564) về giải phẫu học,
và của Harvey (1578 - 1657) về sự tuần hoàn của máu. Khi hiểu biết
tăng, nỗi sợ hãi giảm; con người bớt nghĩ đến việc thờ phụng cái vô
hình, và nghĩ nhiều hơn đến việc thắng lướt nó. Mọi sinh lực được nâng
cao với một niềm tin tưởng mới; những hàng rào bị phá huỷ; bấy giờ không
còn giới hạn nào cho những gì con người có thể làm. "Nhưng sự kiện
những chiếc tàu nhỏ, như những thiên thể, được dong buồm quanh khắp địa
cầu, chính là niềm hạnh phúc của thời đại chúng ta. Bây giờ chính là lúc
ta sử dụng từ ngữ plus ultra - xa thêm nữa- "nơi mà những người xưa
dùng từ ngữ non plus ultra" (Bacon; The Advancement of Learning; P.II,
chương 10. Một châm ngôn trung cổ báo cho tàu quay lui ở Gibraltar vào
Địa trung hải, với hàng ghi: Non plus ultra - Đừng đi xa hơn). Đấy là
thời đại của những công trình, của hy vọng và sự hùng mạnh, của những
bắt đầu và những khởi công mới trong mọi địa hạt; một thời đại đang chờ
đợi một tiếng nói, một linh hồn tổng hợp có thể nói trọn một cách vắn
tắt tinh thần và quyết định của nó. Chính Francis Bacon, "tâm thức hùng
mạnh nhất của thời đại tân tiến" (Epicure.J. Payne trong The Cambridge
Modern History, I, 65) là người đã "rung chuông triệu tập những đại trí
lại cùng nhau", và công bố Âu châu đã đến tuổi trưởng thành.
2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA BACON:
Bacon
sinh ngày 22 tháng giêng năm 1561, ở York House London, tư dinh của
thân phụ ông là Sir Nicholas Bacon, viên quan giữ ấn trong 20 năm đầu
của nữ hoàng Elizabeth. Theo Macaulay, "danh tiếng của người cha đã bị
khuất vào bóng tối trước danh tiếng của người con. Nhưng Sir Nicholas
không phải là người tầm thường". Đấy là điều ta không lạ, vì thiên tài
là một tuyệt đỉnh mà một gia tộc đào luyện được qua nhân tài, rồi qua
nhân tài nơi hậu duệ của thiên tài, gia tộc lại chìm vào sự tầm thường
của con người như cũ. Thân mẫu Bacon là Lady Anne Cooke, em dâu của Sir William
Cecil, quan giữ kho của nữ hoàng Elizabeth, vừa là một trong những
người thế lực nhất ở Anh quốc. Thân phụ bà đã từng làm quan phụ đạo
chính thức của vua Edward đệ lục; và chính bà là một nhà ngữ học và thần học,
không nghĩ đến việc gì ngoài việc giao dịch thư từ bằng tiếng Hy Lạp
với những vị giám mục. Bà tự làm thầy dạy dỗ con trai và không từ một
việc khó nhọc nào
trong việc giáo huấn cậu. Nhưng vú nuôi thực thụ của thiên tài Bacon
chính là Anh quốc vào thời nữ hoàng Elizabeth, thời đại huy hoàng nhất
của quốc gia hùng mạnh nhất trong các quốc gia tân tiến. Sự tìm ra Mỹ
châu đã chuyển hướng việc mậu dịch từ biển Địa trung hải sang Đại tây
dương, đã nâng những quốc gia vùng Đại tây dương -Tây ban nha, Pháp, Hoà
lan, Anh- lên ngôi chúa tể về thương mãi và tài chánh mà trước đấy là
của Ý khi một phân nửa Âu châu đã biến Ý thành hải cảng xuất nhập trong
việc mậu dịch ở Đông phương; và với cuộc biến đổi này, sự phục hưng đã
đi từ Florence, La mã, Milan, Venice đến Madrid, Paris, Amsterdam và
London. Sau trận phá huỷ hải lực của Tây Ban Nha vào năm 1588, nền
thương mãi Anh bành trướng khắp mọi hải phận, những thị thành Anh quốc
phồn thịnh với kỷ nghệ, những thuỷ thủ Anh lái tàu quanh địa cầu, và
những thuyền trưởng của Anh đã chiếm được Mỹ châu. Nền văn chương Anh nở
thành thơ của Spencer và tản văn của Sidney; sân khấu Anh quốc rộn rịp
với những vở kịch của Shakespeare, Marlowe và Ben Johnson cùng một trăm
ngòi bút vững mạnh khác. Không ai không phát triển được trong một thời
đại và xứ sở như thế, nếu trong họ có sẵn hạt mầm.
Năm
hai mươi tuổi, Bacon được gởi đến Trinity College ở Cambridge. Ông ở
đấy 3 năm, rồi rời trường với một mối thù ghét mãnh liệt đối với những
bài học và phương pháp của nó, một mối thù nghịch sâu xa đối với sự tôn thờ Aristote và một ý chí cương quyết đặt triết học vào
một con đường phì nhiêu hơn, chuyển nó từ sự tranh luận kinh viện đến
việc soi sáng và tăng gia lợi ích nhân sinh. Mặc dù còn là một cậu bé
mười sáu, Bacon đã được mời làm một nhân viên của toà đại sứ Anh tại
Pháp; và sau khi tính kỹ lợi hại, ông nhận lời. Trong lời Tự ngôn cho
cuốn Giải thích thiên nhiên ông đã bàn đến quyết định có tính cách định
mệnh đã chuyển hướng ông từ triết học đến chính trị. Đấy là một đoạn văn quan trọng :
Trong
khi tôi tin rằng tôi được sinh ra để phụng sự nhân loại, và xem việc lo
lắng đến lợi ích chung là một trong những nhiệm vụ chung, mở ra cho tất
cả không phân biệt, chẳng khác nào nước và không khí, tôi tự hỏi điều
gì có thể làm lợi ích cho nhân loại nhất, và thiên nhiên đã uốn nắn tôi
để làm việc gì ?
Nhưng khi cố tìm, tôi
vẫn không thấy công việc nào xứng đáng bằng sự tìm tòi và phát triển
những nghệ thuật và phát minh đưa đến sự văn minh hoá sinh hoạt con
người ...
Nhất là nếu một người có thể
thành công, không những trong việc đưa ra ánh sáng một sự phát minh đặc
biệt nào dù lợi ích đến đâu mà còn trong việc nhen nhúm lên trong thiên
nhiên một ánh sáng có thể, khi vừa bừng lên, đã chiếu rọi một ít ánh
sáng vào những giới hạn hiện tại trong những khám phá của con người, rồi
sau đó, khi vươn cao, sẽ làm hiển lộ cho thấy rõ mọi ngõ ngách của bóng
tối; đối với tôi, một nhà phát minh như thế sẽ xứng đáng được gọi là
Người Triển Khai đích thực Vương quốc con người ra ngoài vũ trụ. Nhà vô
địch về tự do con người, Kẻ Tiêu diệt những lẽ tất yếu hiện giam giữ
người ta trong vòng nô lệ. Hơn nữa, tôi nhận thấy trong bản chất riêng
tôi một sự thích ứng đặc biệt để suy ngẫm chân lý. Vì tôi có một trí óc
vừa uyên bác đủ cho mục đích quan trọng nhất ấy, nghĩa là sự trung thực
nhận những điểm tương đồng vừa khá vững chãi và tập trung để quan sát
những mức độ vi tế của sự dị biệt. Tôi có một đam mê tìm tòi, một năng
lực dừng nghỉ sự phán đoán một cách kiên nhẫn, một năng lực để trầm tư
trong hân hoan, để chấp nhận với dè dặt, để sẵn sàng sửa chữa những cảm
tưởng sai lạc, và để chịu khó xếp đặt tư tưởng cẩn thận. Tôi không khát
vọng cái mới, không thán phục mù quáng cái cổ. Tôi hoàn toàn ghét sự giả
mạo dưới mọi hình thức. Bởi tất cả những lý lẽ ấy, tôi xét thấy rằng
thiên tư và bản chất tôi, dường như có một thứ liên lạc bà con với chân
lý.
Nhưng dòng dõi, sự giáo huấn của tôi, tất cả đều đã hướng không về triết lý
mà về chính trị : tôi hầu như được thấm nhuần về chính trị từ thuở ấu
thơ. Và cũng như trường hợp thường thấy ở các thanh niên, đôi khi tôi bị
lung lay bởi những quan niệm. Tôi cũng nghĩ rằng nhiệm vụ đối với xứ sở
có những đòi hỏi đặc biệt nơi tôi, những đòi hỏi mà những nhiệm vụ khác
của đời không thể lấn áp. Cuối cùng tôi nuôi hy vọng rằng, nếu tôi giữ
một chức vụ danh dự nào trong quốc gia, tôi có thể có những trợ giúp bảo
đảm cho công việc tôi, với ý hướng hoàn thành nhiệm vụ được dành cho
tôi. Với những động lực ấy, tôi bước vào chính trị ( Do Abott dịch từ La
ngữ sang Anh ngữ trong cuốn Francis Bacon, London, 1885, tr.37) .
Năm
1570 Sir Nicholas Bacon chết bất ngờ. Ông đã định cấp cho Francis một
gia tài, nhưng cái chết đã cướp kế hoạch ông, và nhà ngoại giao trẻ
tuổi, khi được gọi gấp về London, đã bừng con mắt dậy thấy mình không
cha, không tiền lúc mười tám tuổi. Ông đã quen với phần lớn những xa hoa
của thời đại, nên bây giờ thấy rất khó khăn để an phận với nếp sống đạm
bạc bất đắc dĩ . Ông bắt đầu hành nghề luật, trong khi khẩn cầu những
thân quyến có ảnh hưởng tiến cử ông vào một chức vụ chính trị nào để có
thể giải thoát ông khỏi mối lo về kinh tế. Nhưng bức thư hầu như van xin
của ông đã không được kết quả bao nhiêu so với lời văn tráng lệ hùng
hồn và tài nghệ rõ rệt của tác giả. Có lẽ chính vì Bacon không đánh giá
thấp tài nghệ này, và xem địa vị như điều ông dĩ nhiên phải có, cho nên
Lord Burghley đã không đem lại sự đáp ứng mong mỏi; và cũng có lẽ vì
những bức thư kia quá long trọng thề nguyền trung thành với vị Lord
trong quá khứ, hiện tại cũng như vị lai: trong chính trị, cũng như trong
tình yêu, không nên tự hiến mình toàn vẹn; người ta nên cho luôn luôn,
nhưng không bao giờ nên cho tất cả. Lòng biết ơn được nuôi dưỡng bằng sự
mong chờ.
Cuối cùng, Bacon đã leo
lên được mà không cần sự nâng đỡ từ bên trên; nhưng mỗi bước phải làm
ông hao tổn nhiều năm. Năm 1583 ông được bầu vào Nghị viện đại diện cho
tỉnh Taunton, và những cử tri thích ông đến nỗi họ tái cử cho ông nhiều
lần. Ông có một tài hùng biện mạnh mẽ trong cuộc tranh luận, và là một
nhà hùng biện không rườm lời. "Không có một người nào đã từng ăn nói rõ
ràng, chặt chẽ, hùng hồn hơn -Ben Johnson bảo- hoặc từng ít bị trống
rỗng, vô duyên hơn trong những gì mình nói. Không một chữ, một câu nào
trong lời nói ông lại không có những duyên dáng riêng của nó. Những
người nghe không thể ho hay nhìn sang phía khác mà không bị mất mát điều
gì. Ông điều khiển mỗi khi ông nói ... Không ai được nhiều quý chuộng
của thính giả hơn ông trong mãnh lực thu hút ấy. Nỗi sợ hãi của mọi
người nghe ông là sợ rằng ông sẽ chấm dứt (Nichol; Francis Bacon,
Edingburg, 1907; p. 37). Nhà hùng biện đáng thèm !
Ông
có một người bạn thế lực rất giàu lòng với ông -quận công Essex đẹp
trai mà nữ hoàng Elizabeth đã yêu không được nên đâm ra thù. Năm 1595
Essex, để bù lại sự thất bại của mình trong việc bảo đảm một địa vị
chính trị cho Bacon, đã tặng Bacon một cơ sở đẹp ở Twickenham. Đấy là
một món quà vĩ đại mà người ta những tưởng nó có thể ràng buộc Bacon với
Essex suốt đời, nhưng té ra không. Vài năm sau Essex tổ chức một âm mưu
hạ ngục Elizabeth và chọn người kế vị bà lên ngôi. Bacon viết thư liên
tiếp cho ân nhân mình, phản đối sự bội phản này, và khi Essex vẫn khăng
khăng một mực, Bacon cảnh cáo ông ta rằng sẽ đặt sự tận trung với nữ
hoàng lên trên cả lòng biết ơn bạn. Essex đã cố gắng thực hiện âm mưu,
bị thất bại và bị bắt. Bacon năn nỉ với nữ hoàng cho bạn mình một cách
dai dẳng đến nỗi cuối cùng nữ hoàng bảo ông "nói chuyện gì
khác". Khi Essex, được tự do tạm, tụ tập quân lực lại, diễn hành vào
London và cố xách động dân chúng làm cách mạng, Bacon giận giữ chống lại
ông. Trong lúc ấy Bacon đã được một ghế xử án trong triều đình, và khi
Essex bị bắt lại, bị xử vì phản nghịch, Bacon đã dự phần tích cực trong
vụ xử người đã là người bạn rất hào phóng đối với ông.
Essex
bị xử có tội và bị tử hình. Sự tham dự của Bacon vào việc xử án đã làm
cho ông mất thanh danh một thời gian; và từ đấy trở đi ông sống giữa
những kẻ thù đợi dịp để trả thù ông. Tham vọng không biết chán của ông
khiến ông không nghỉ ngơi được; ông luôn luôn bất mãn và luôn luôn ông
tiêu trước lợi tức của ông khoảng một năm. Ông tiêu xài phung phí; sự
chưng bày đối với ông là một phần của chính sách. Khi, vào năm bốn mươi
tuổi, ông cưới vợ, đám tiệc kênh kiệu và đắt đỏ đã để lại một lỗ thủng
lớn trong của hồi môn vốn là một trong những sự quyến rũ của vị phu
nhân. Năm 1598 ông bị bắt vì nợ nần. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục tiến.
Tài năng đa diện và kiến thức hầu như bất tận của ông khiến ông là một
hội viên đáng giá cho mọi hội đồng quan trọng, dần dần nhiều chức vị cao
được mở ra cho ông: năm 1606 ông được làm Solicitor-General; năm 1613
trở thành Attorney-General; năm 1618, vào năm năm mươi bảy tuổi, cuối
cùng ông trở thành Lord Chancellor.
3. NHỮNG BÀI TIỂU LUẬN:
Sự tiến thân của ông dường như đã thực hiện giấc mộng Platon về một thánh vương (vị vua vừa là triết gia). Vì song song bước một với sự trèo lên thế lực chính trị, Bacon đã lên đến đỉnh cao của triết học. Thật hầu như không thể tin được rằng tài bác học và
những công nghiệp văn chương của con người này lại chỉ là những biến cố
và những chuyển hướng của một sự nghiệp chính trị đầy sóng gió. Châm
ngôn của ông là: người ta sống hay nhất với một đời ẩn dật - Bene vixit
qui bene latuit. Ông không thể biết rõ ông thích đời sống trầm mặc hơn
hay đời sống hoạt động hơn. Hy vọng của ông là vừa làm triết gia
vừa làm chính khách như Seneca, mặc dù ông e ngại rằng hướng đi song
đôi của đời ông như vậy sẽ làm ngắn tầm mục tiêu và giảm thiểu mức thu
nhập của ông . "Thật khó nói - ông viết (Valerius Terminus, đoạn cuối)-
xem sự pha lẫn suy tư với một đời sống hoạt động, hay sự rút lui hoàn
toàn vào việc suy tư, có làm mất khả năng của tâm trí hơn hay cản trở nó
hơn không?". Ông cảm thấy rằng sự học tự nó không thể là cứu cánh hay minh triết, và một tri thức không được áp dụng trong hành động chỉ là một tri thức thiếu máu. "Dùng quá nhiều thì giờ vào việc học là lừ đừ; dùng quá nhiều sự học để trang hoàng là làm bộ; phán đoán hoàn toàn theo quy luật sách vở là tính khí của một học giả. Người tài lên án sự học, người ngu thán phục nó, người minh triết sử dụng chính nó; bởi vì sự học không dạy sử dụng chính nó; nhưng đây là một sự minh triết ở bên ngoài và bên trên sự học đạt được nhờ quan sát ("Về sự học"). Đây là một điểm mới, đánh dấu sự chấm dứt cái học hàn lâm -nghĩa là ly khai giữa tri thức với thực dụng và quan sát- và đặt nặng khía cạnh kinh nghiệm và kết quả , làm nổi bật triết lý
Anh và lên đến tột đỉnh của nó trong thuyết duy dụng. Không phải Bacon
có lúc thôi yêu mến sách và suy tư; bằng những lời khiến ta nhớ đến
Socrate, ông đã viết: "nếu không có triết học tôi
không thiết sống ("Đề tặng cuốn Wisdom of the Ancients); và ông tự mô
tả mình, cuối cùng là "một người có thiên tính thích hợp cho văn học hơn
cho bất cứ việc gì khác, và đã bị một định mệnh nào đó đưa đẩy vào đời
sống hoạt động phản lại khuynh hướng của tính khí mình" (Tăng tiến Tri
thức). Ấn phẩm hầu như đầu tay của ông gọi là "Ca tụng tri thức" (1592);
tính cách nồng nhiệt của nó đối với triết học khiến ta phải trích dẫn mới được :
"Lời
ca ngợi của tôi sẽ dành cho chính tâm trí. Tâm trí là con người, và
kiến thức là tâm trí, một người chỉ là những gì mà y biết ... Há chẳng
phải lạc thú của tình yêu lớn hơn lạc thú của giác quan, và há chẳng
phải lạc thú của tri thức lớn hơn lạc thú của ái tình ? Há chẳng phải
lạc thú tự nhiên chân thật là thứ lạc thú mà người ta không bao giờ ngấy
chán ? Há chẳng phải chỉ có tri thức mới giải toả tâm trí khỏi mọi vọng
động ? Biết bao nhiêu điều chúng ta tưởng tượng song không có thật ?
Biết bao nhiêu điều ta đánh giá và xem trọng hơn chính thực bản chất
chúng ? Những tưởng tượng vô lối này, chính là những đám mây lầm lỗi đã
chuyển thành những cơn bão tố của vọng động. Thế thì có một hạnh phúc
nào cho tâm thức con người, một hạnh phúc có thể nâng tâm thức ấy lên
trên những hỗn mang của sự vật, ở đấy y có thể kính trọng trật tự của
thiên nhiên và lầm lỗi của con người ? Há chỉ có độc một niềm hoan lạc
mà không có sự phát minh ? Chỉ có sự hài lòng mà không có lợi lộc ? Há
chúng ta không đồng thời thấy rõ những báu vật của kho tàng thiên nhiên
cũng như vẻ đẹp của nó ? Chân lý có thực khô cằn chăng ? Há chúng ta sẽ
không nhờ đấy mà có thể sản ra những hậu quả đáng giá, và đem lại cho
nhân sinh những tiện nghi vô hạn ?
Sản
phẩm văn chương tinh luyện nhất của ông, cuốn "Tiểu luận" (1597 -
1623), chứng tỏ ông vẫn còn bị dằn xé giữa hai tình yêu, yêu chính trị
và yêu triết học .
Trong bài "Tiểu luận về danh dự và tiếng tăm", ông gán tất cả mức độ
danh dự cho những công trình quân sự và chính trị , không một mức độ nào
được quy cho công trình văn chương hay triết học.
Nhưng trong bài tiểu luận "Bàn về chân lý", ông viết: "Sự tìm tòi chân
lý - sự bắt tình với nó; tri thức về chân lý - sự ca ngợi nó, niềm tin
vào chân lý - sự thưởng thức nó, là điều kiện tối cao của thiên tính con
người". Trong những cuốn sách "chúng ta nói chuyện với thánh hiền, cũng như trong hành động ta nói chuyện với
người ngu". Nghĩa là nếu chúng ta biết lựa chọn sách để đọc. " Một số
sách chỉ đáng nếm qua" - để trích một đoạn thời danh- "một số khác đáng
nuốt chửng, và một số ít đáng được nhai nghiền và tiêu hoá"; tất cả
những nhóm này, chắc hẳn, đã họp thành một phần rất nhỏ của những đại
dương và những thác mực trong đó hằng ngày thế giới được tắm rửa, bị đầu
độc và chết đuối.
Dĩ nhiên
"Tiểu luận" phải được kể trong số ít sách đáng được nhai nghiền và tiêu
hoá. Hiếm khi ta tìm thấy nhiều hào thiện được gia vị và gia hương một
cách tuyệt diệu như thế trong một đĩa ăn bé nhỏ. Bacon ghét rườm rà, và
không ưa phung phí một tiếng nào; ông cho ta vô vàn của cải trong một câu ngắn;
mỗi bài tiểu luận trong đó, với khoảng một, hai trang, đem lại sự tinh
tế được chưng lọc, của một tâm trí bực thầy về một vấn đề chính yếu của
đời sống. Thật khó nói xem bên hình thức, bên nội dung, bên nào tuyệt
hơn; vì ở đây ngôn ngữ đã đến chỗ tuyệt xảo về tản văn cũng như ngôn ngữ
Shakespeare đã tuyệt xảo về văn vần. Đấy là một lối văn giống như văn
của Tacite, hùng mạnh, cô đọng nhưng gọt giũa; và quả vậy một phần sự
sáng sủa khúc triết của
nó là nhờ ở sự mô phỏng khéo léo những từ ngữ La Tinh. Nhưng kho tàng
ẩn dụ của nó đặc biệt có tính cách của thời đại Elizabeth, và phản ảnh
sự dồi dào của thời Phục hưng; không người nào trong văn chương Anh lại
sung túc về lối so sánh hàm súc và ý nhị như thế. Sự chưng bày phung phí
những so sánh này là khuyết điểm độc nhất trong lối văn của Bacon :
những ẩn dụ bóng gió tượng trưng bất tận đổ xuống như những nhát roi
quất trên thần kinh của ta và cuối cùng làm cho ta chán mệt. Cuốn "Tiểu
luận" giống như món ăn nặng nề nhiều gia vị, không thể tiêu hoá nhiều
trong một lúc, nhưng nếu đọc mỗi lần bốn hay năm bài, thì chúng là dưỡng
chất tinh thần bổ khoẻ nhất bằng Anh ngữ.
Ta có thể rút ra được gì từ sự minh triết đã được rút tỉa này ? Có lẽ khởi điểm tốt nhất, và sự chuyển hướng đáng chú ý nhất từ những thời thượng của triết học trung cổ chính là sự chấp nhận hẳn nhiên của ông đối với đạo đức của Epicure. Quan điểm triết học "đừng
sử dụng để khỏi mong muốn, đừng mong muốn để khỏi sợ hãi, có vẻ là một
dấu hiệu của một tâm thức yếu đuối rụt rè. Và quả thế phần lớn những học thuyết của các triết gia
dường như quá hoài nghi, và lo cho nhân loại quá mức cần thiết. Họ làm
tăng thêm nỗi sợ chết khi đưa ra những phương pháp chống lại nó; bởi vì
khi họ xem cuộc sống của con người chỉ là một kỷ luật chuẩn bị cho cái
chết, thì dĩ nhiên kẻ thù ấy phải là ghê gớm, sự tự vệ chống lại nó được
đặt ra triền miên" (Tăng tiến tri thức, VII, 2). Không gì tai hại cho
sức khoẻ bằng sự tiết chế dục vọng theo thuyết khắc kỷ; kéo dài một đời
sống ra làm gì khi sự an phận thản nhiên đã biến nó thành ra sự chết
trước kỳ ? Ngoài ra, đấy là một nền triết học bất
khả; vì bản năng sẽ vọt ra. "Bản năng thường bị che dấu, một đôi khi bị
thắng lướt, nhưng hiếm khi chết hẳn. Sức mạnh bản năng còn dữ dội hơn
khi quay trở lại; lý thuyết và sự giáo dục làm nó bớt cấp bách, nhưng
tập tục chỉ biến đổi, hàng phục bản năng. Người ta chớ nên quá tin vào
sự đắc thắng của mình đối với bản năng, vì nó sẽ nằm chôn vùi một thời
gian lâu, nhưng sẽ sống dậy khi có dịp hay có sự cám dỗ. Bản năng cũng
như cô gái của Aesop, biến từ một con mèo thành một người đàn bà, ngồi
rất đoan trang ở đầu tấm phản, cho đến khi một con chuột chạy ngang
trước mặt. Bởi thế, một người hãy tránh hẳn cơ hội, hoặc đặt mình thường
xuyên tiếp xúc với cơ hội để có thể ít bị xúc động vì nó *" (*Về bản
năng trong người ). Quả thế, Bacon nghĩ rằng thân xác cần được tập quen
với sự quá độ cũng như sự tiết chế: nếu không, ngay chỉ một lúc không
tiết chế cũng đủ phá hoại nó. - Bởi thế một người quen ăn những thức ăn
thuần khiết và dễ tiêu hoá nhất sẽ dễ dàng bị đau bụng khi vì quên hay
vì hoàn cảnh bắt buộc, phải bỏ lệ -. Tuy nhiên "sự thay đổi nhiều lạc
thú tốt hơn là sự quá đà"; vì "sức mạnh của bản năng nơi tuổi trẻ đã vi
phạm nhiều sự quá độ khiến một người đến tuổi già phải trả giá chúng".
Sự trưởng thành của một người thường phải trả giá bằng tuổi trẻ y. Một
đường lối hay hoặc để đạt đến sức khoẻ là một mẫu vườn; Bacon đã đồng ý
với tác giả của Sáng thế ký rằng : "Đức Chúa trời lúc đầu dựng một khu
vườn" và với Voltaire rằng chúng ta nên trồng tỉa khoảnh sân sau của
mình.
Triết lý
đạo đức trong cuốn "Tiểu luận" có mùi vị của Michiavel hơn là của Kitô
giáo, mà Bacon thường chỉ trích gay gắt "Chúng ta mắc nợ của Machiavel
và những nhà văn tương tự, những người tuyên bố một cách cởi mở không
che đậy những gì con người làm thực sự, chứ không phải những gì y làm;
bởi vì không thể nào nối liền sự khôn ngoan của một con rắn và sự ngây
thơ của con bồ câu,
nếu trước hết không có một tri thức về bản chất của sự ác; không có tri
thức này thì đức hạnh bị phơi ra không được phòng vệ" (Tăng tiến tri
thức, XII, 2). "Những người Ý có một câu cách
ngôn khiếm nhã : Tanto buon che val niente, - tốt quá đến nỗi không ích
vào việc gì" (Về sự tốt đẹp). Bacon phối hợp lý thuyết của ông với thực
hành, và khuyên nên có một hoà hợp giữa sự gian lận và lương thiện,
giống như một hợp kim sẽ khiến cho chất kim loại kém tinh ròng nhưng mềm
hơn, có thể sống dai hơn. Ông muốn có một sự nghiệp trọn vẹn và nhiều
màu sắc, để quen với mọi thứ có thể mở rộng, đào sâu, tăng cường, làm
sắc bén tâm trí. Ông không thán phục đời sống thuần tư tưởng ; như
Goethe, ông khinh bỉ thứ tri thức không đưa đến hành động: "người ta
phải biết rằng trên sân khấu nhân sinh chỉ có những Thượng đế và thiên
thần mới làm khán giả" (Tăng tiến tri thức, VII, 1) .
Về tôn giáo, mặc dù đã hơn một lần bị lên án là vô thần và toàn bộ khuynh hướng triết học ông
có tính cách thế tục và thuần lý, Bacon tỏ ra là một người đả kích sự
bất tín rất hùng hồn và nghe ra có chiều thành thật. "Tôi chẳng thà tin
mọi bài ngụ ngôn trong truyện hoang đường, và kinh Talmud và Alcoran,
còn hơn tin rằng cái khung vũ trụ này lại không có một tâm thức ... Với
một ít triết lý rởm đời, tâm thức con người ngả về vô thần; nhưng sự uyên thâm về triết học đem
tâm thức người lại gần tôn giáo. Vì khi tâm thức con người nhìn vào
những nguyên nhân phụ bị phân tán, đôi khi nó có thể an nghỉ trong chúng
và không đi xa hơn; nhưng khi nó nhìn chuỗi dây xích của chúng, liên
minh kết nối với nhau, nó phải bay đến Thượng đế và thần tính. Sự thờ ơ
đối với tôn giáo là do rất nhiều yếu tố. "Những nguyên nhân của sự vô
thần là sự phân chia nhiều tôn giáo ; vì khi chỉ chia đôi, mỗi ngành tôn
giáo sẽ gia tăng sự hăng hái cho cả đôi bên; nhưng nhiều ngành tôn giáo
sẽ đưa đến vô thần... Và cuối cùng, nguyên nhân ấy là những thời đại
của học giả,
nhất là khi có hoà bình thịnh vượng; vì những lúc rối loạn và ngang
trái, quả có làm cho tâm thức con người thiên về tôn giáo ". Nhưng giá
trị của Bacon nằm ở tâm lý học nhiều hơn ở thần học và
đạo đức. Ông là một nhà phân tích xác đáng bản tính con người, sự quan
sát tinh tế của ông rọi vào mọi tâm hồn. Ông độc đáo một cách mới mẻ về
một đề tài nhạt nhẽo nhất thế giới. "Một người cưới vợ già thêm bảy tuổi
trong tư tưởng ngay hôm đầu tiên". "Người ta thường thấy những ông
chồng xấu lại có vợ tốt" (Bacon là một ngoại lệ !). "Một đời độc thân
tốt cho những giáo sĩ, vì lòng bác ái không thể nào tưới được xuống đất
khi nó phải đổ đầy một cái ao trước đã ... Người nào có vợ con tức đã
đưa con tin cho vận số; vì gia đình là chướng ngại cho những công việc
lớn, dù công việc ấy có tính chất thiện hay ác". Bacon dường như bận
việc quá nhiều không có thì giờ để yêu đương, và có lẽ ông không bao giờ
cảm thức tình yêu một cách sâu xa. "Thật lạ lùng khi ta chú ý đến sự
thái quá của thứ đam mê này ... Không một người đàn ông kiêu hãnh nào
lại có thể nghĩ tốt về mình một cách phi lý như người đang yêu nghĩ về
người mình yêu... Ta có thể thấy rằng trong số tất cả những người vĩ đại
và xứng đáng không một người nào đã bị mê man điên dại vì yêu đương,
điều ấy chứng tỏ những tâm hồn lớn và những công việc lớn vẫn thường
tránh xa cái đam mê yếu đuối ấy" ("Về ái tình").
Bacon
đánh giá tình bằng hữu hơn tình yêu, mặc dù ngay cả tình bằng hữu ông
cũng có thể có thái độ hoài nghi. "Có rất ít tình bằng hữu trên thế
giới, và hiếm nhất là tình bằng hữu giữa những người ngang nhau, mối
tình này thường hay được phóng đại. Tình bạn có thật là giữa người trên
và người dưới, những người vì cảnh ngộ có thể hiểu nhau... Một hậu quả
chính của tình bạn là niềm thoải mái và sự trút sạch nỗi đầy ứ của trái
tim, mà đam mê đủ loại đã gây ra". Một người bạn là một lỗ tai. "Những
người cần bạn để thố lộ can tràng chính là những kẻ ăn thịt chính trái
tim mình ... Kẻ nào có tâm sự đầy những ý tưởng, thì trí tuệ và hiểu
biết của y sẽ sáng tỏ và tuôn ra trong khi bàn luận cảm giao với một
người khác; ý tưởng của y tuôn ra dễ dàng hơn; y sắp đặt chúng một cách
thứ tự hơn; y thấy rõ chúng sẽ ra thế nào khi biến thành lời; cuối cùng y
trở nên minh triết hơn trước; và đó là nhờ một giờ đàm luận hơn là qua một ngày trầm tư. ("Về tình bằng hữu").
Trong
bài tiểu luận "Về tuổi trẻ và sự già nua" Bacon đã thu gọn một cuốn
sách vào trong một đoạn văn. "Thanh niên thích hợp cho việc phát minh
hơn là cho sự phán đoán, thích hợp cho sự thi hành hơn cho việc làm cố
vấn, và thích hợp cho những kế hoạch mới hơn là cho công việc đã an bài;
bởi vì cái kinh nghiệm của tuổi tác về những việc đã qua hướng dẫn họ,
song về những việc mới lại lừa dối họ... Thanh niên, trong sự điều hành
những hoạt động, thường ham hố ôm vào thật nhiều nhưng nắm được rất ít,
có thể quấy động nhiều hơn trấn an; lao vào mục đích mà không biết xét
đến phương tiện thứ lớp, theo đuổi một cách phi lý một vài nguyên tắc họ
tình cờ bắt gặp, không biết biến chế, và điều này đã mang lại cho họ
nhiều khó chịu bất ngờ... Những người tuổi tác thì cản ngăn quá nhiều,
cân nhắc quá lâu, không mấy khi chịu làm liều, thối lui quá sớm, và ít
khi đẩy công việc đi đến giai đoạn toàn mãn nhất mà chỉ bằng lòng với
một thành công tàm tạm. Dĩ nhiên cần dùng cả hai... Bởi vì những đức
tính nơi hạng người này có thể sửa chữa những khuyết điểm nơi hạng người
kia". Tuy nhiên Bacon nghĩ rằng tuổi thanh và thiếu niên có lẽ được
dành quá nhiều tự do, bởi thế đâm ra lêu lổng vô trật tự. "Các bậc cha
mẹ nên chọn đúng lúc năng khiếu và con đường họ muốn con cái phải theo,
bởi vì vào giai đoạn ấy trẻ dễ uốn nắn nhất; họ không nên quá chú tâm
đến thiên tư của con cái đến độ tưởng rằng tốt hơn hết chúng nên theo
những gì chúng ham thích. Quả có đúng khi bảo rằng nếu một đứa trẻ có
những ham thích hay năng khiếu phi thường vào một việc gì, thì không nên
làm trái năng khiếu ấy; nhưng phần nhiều lời khuyên sau đây của
Pythagore rất hợp lý: "Optimum lege suave et facile illud faciet ..."
"Hãy chọn việc tốt nhất, thói quen sẽ làm cho nó thú vị và dễ dàng" ("Về
cha mẹ và con cái"). Vì "thói quen là vị thẩm phán chính trong đời
người ta" ("Về thói quen").
Về chính trị,
những bài tiểu luận đưa ra một thuyết bảo thủ tự nhiên nơi người có
khát vọng thống trị. Bacon muốn có một quyền hành trung ương mạnh. Chính
thể quân chủ là hình thức cai trị tốt nhất; và thường hiệu năng một
quốc gia thay đổi tuỳ sự tập trung quyền hành. "Có ba giai đoạn trong
việc chính sự: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thảo luận hay cứu xét và
giai đoạn thi hành. Bởi thế, nếu muốn nhanh chóng, chỉ giai đoạn giữa
nên để cho nhiều người làm, còn đầu và cuối cho số ít" ("Về sự thi hành
nhanh chóng"). Bacon là một nhà quân sự rõ rệt; ông phàn nàn sự phát
triển kỹ nghệ, coi như không thích hợp cho chiến tranh và than phiền hoà
bình kéo dài có thể ru ngủ con người chiến đấu trong ta. Tuy nhiên ông
công nhận tầm quan trọng của nguyên liệu: "Khi Croesus khoe với Solon
chỗ vàng của mình, Solon nói không ngoa rằng nếu kẻ nào khác có sắt tốt
hơn, kẻ ấy sẽ làm chủ tất cả số vàng ấy" ("Về sự vĩ đại đích thực của
các vương quốc").
Cũng như
Aristote, Bacon khuyên nên tránh các cuộc cách mạng. "Cách thức chắc
chắn nhất để đề phòng nổi loạn; ... là dẹp hết chất liệu cho những cuộc
nổi loạn; vì khi nhiên liệu đã sẵn sàng, thật khó biết khi nào tàn lửa
sẽ châm đốt... Điều ấy không có nghĩa là muốn trừ loạn phải ráo riết dẹp
tắt những cuộc hội thảo, trái lại, khinh thường những cuộc hội thảo ấy
đôi khi là cách hay nhất để ngăn chận chúng; còn cứ lo đi quanh dẹp hội
thảo thì chỉ làm cho chúng sống dai thêm ... Chất liệu cho biến loạn có
hai: nghèo túng và bất mãn. Những nguyên nhân và động lực thúc đẩy các
cuộc bạo động là sự canh tân tôn giáo; chính sách thuế khoá; thay đổi
luật lệ; tước đặc quyền; sự đàn áp chung; sự tiến cử những người không
xứng đáng, những người lạ; sự đói kém; lính giải ngũ; các đảng phái đâm
ra tuyệt vọng; và bất cứ gì làm mếch lòng dân đều đoàn kết họ lại trong
một chính nghĩa chung". Mánh lới của nhà lãnh tụ dĩ nhiên là phải chia
rẽ kẻ thù ra và đoàn kết bạn hữu lại". Nói chung, sự chia rẽ và dập tắt
mọi đảng phái ... nghịch với chính quyền và đặt họ ở xa nhau hay ít nhất
làm cho họ nghi kỵ lẫn nhau, không phải là một trường hợp tuyệt vọng
khi những người cầm giềng mối quốc gia thì có đầy yếu tố bất hoà và phe
đảng, còn những người chống lại quốc gia thì toàn vẹn nhất khối ("Về
những cuộc bạo động và bất an"). Một phương sách tốt hơn để tránh cách
mạng là phân chia tài sản cho quân bình: "Tiền giống như phân bón, không
tốt nếu không rải phân" (ibid.). Song điều này không có nghĩa chủ
trương xã hội hay dân chủ. Bacon không tin vào dân chúng mà vào thời ông
rất ít được giáo dục; sự nịnh bợ là mị dân"; và "Phocion, khi được dân
chúng hoan hô, đã hỏi một câu đầy
ý vị: "Ta có làm gì sai quấy đâu ?" ("Tăng tiến tri thức"). Điều Bacon
muốn trước tiên là một chế độ tiểu điền chủ gồm những tá điền sở hữu
ruộng đất; rồi một giai cấp quý tộc để cầm quyền hành chánh, và trên hết
là một vị quốc vương vừa là triết gia".
Hầu như không có trường hợp nào trong đó một nền cai trị không được
phồn thịnh dưới những nhà cầm quyền uyên bác" (ibid). Bacon kể đến
Seneca, Antonius Pius và Aurelius; hy vọng của ông là hậu thế sẽ cộng
thêm tên mình vào số đó.
4. CUỘC TÁI TẠO VĨ ĐẠI:
Vô tình, giữa lúc đang vênh vang chiến thắng, tâm hồn Bacon quay về với triết học. Triết học đã
là vú nuôi của ông vào thời niên thiếu, đang là người bạn của ông ở văn
phòng và sẽ là nguồn an ủi cho ông trong cảnh ngục tù thất thế. Ông
than cho triết học, theo ông nghĩ, đã bị mang tiếng xấu, và quy lỗi cho nền học kinh
viện cằn cỗi. "Người ta rất dễ khinh miệt chân lý vì những cuộc tranh
luận nêu lên về nó, và có khuynh hướng nghĩ rằng những người không bao
giờ gặp nhau đều đi lầm đường" (Ibid). "Những ngành khoa học ...gần như bị ngưng trệ không tăng thêm kiến thức nào xứng đáng với giống người;... và mọi truyền thống kế tục của các trường học vẫn còn là một chuỗi kế tục những học giả mà không có nhà phát minh... Hiện nay những gì được thực hiện về khoa học chỉ
là sự thảo luận xoay tròn bất tuyệt". Suốt những năm đời ông đang lên
hương, Bacon luôn trầm tư về việc phục hưng hay tái tạo triết học;
"Meditor Instaurationan philosophiae" (trong Redargutio
Philosophiarum). Ông dự định tập trung mọi nghiên cứu vào công việc này.
Trước tiên, ông bảo chúng ta trong bài tiểu luận "Chương trình công
việc", ông sẽ viết một vài bài Luận thuyết dẫn nhập, giải thích sự ngưng
trệ của triết học vì
đã cố chấp vào những phương pháp xưa cũ, chết cóng, và vạch sơ lược
những đề nghị một khởi công mới mẻ. Thứ hai, ông sẽ cố gắng phân loại
các ngành khoa học lại,
định cho chúng những nguyên liệu của chúng, và kê ra những vấn đề chưa
được giải quyết trong mỗi ngành. Thứ ba, ông sẽ mô tả phương pháp mới
của ông để Giải thích thiên nhiên. Thứ tư, ông sẽ cố bắt tay vào môn vạn
vật học thực
thụ, tìm hiểu những Hiện tượng thiên nhiên. Thứ năm, ông sẽ chỉ rõ
Chiếc thang tri thức nhờ nó các nhà trứ tác trong quá khứ đã leo lên
những chân lý mà bây giờ đang ra khỏi bối cảnh rườm rà của thời trung cổ
để dần dần thành hình. Thứ sáu, ông sẽ cố Tiên đoán những kết quả khoa học mà ông tin sẽ có nhờ sử dụng phương pháp của ông: Và cuối cùng, như một ngành Triết học thứ
yếu (hay ứng dụng), ông sẽ vẽ ra một xã hội lý tưởng bừng nở từ tất cả
nền tri thức đang đâm chồi này mà ông hy vọng mình sẽ là người báo
trước. Tất cả các điều nói trên lập thành tác phẩm Magna Instauratio, sự
tái tạo vĩ đại của triết học *)
[* Bảy tác phẩm trên của Bacon mang nhan đề như sau:
1.
De Interpretatione Naturae Proemium - Dẫn nhập việc giải thích thiên
nhiên, 1603 -; Redargutio Philosophiarum -Phê bình các ngành triết học, 1609-.
2. The Advancement of Learning, 1603 -được dịch ra La-tinh dưới nhan đề De Augmentis Scientiarum, 1622)
3.
Cogitata et Visa (Những điều nghĩ và thấy, 1607); Filum Labỷinthi (Sợi
chỉ và mê lộ, 1606); Novum Organum (Dụng cụ mới, 1608-20).
4. Historia Naturalis (Vạn vật học, 1622); Descriptio Globi Interlectualis (Mô tả quả cầu tri thức; 1612).
5. Sylva Sylvarum (Rừng của rừng, 1624)
6. De Principils (Về căn nguyên, 1621).
7. The New Atlantis (Đảo thần thoại mới, 1624).
Tất
cả, trừ The Advancement of Learning và The New Atlantis, đều được viết
bằng tiếng La-tinh, 2 quyển này Bacon và người cộng sự dịch ra La ngữ để
người Âu châu đọc.]
Thật là một công trình vĩ đại, và trừ Aristote, chưa ai từng làm trong lịch sử tư tưởng. Nó sẽ khác mọi nền triết học khác
ở chỗ nhắm thực hành hơn lý thuyết, ở những vật liệu cụ thể đặc thù hơn
là ở tính cách cân đối trừu tượng. Tri thức là năng lực chớ không chỉ
là lý luận suông hay vật để trang hoàng; "Đấy không phải là một quan
niệm để giữ... mà là một công việc để làm, và tôi ... ra công đặt nền
móng không phải cho một học phái
hay chủ thuyết nào, mà cho sự ích dụng và năng lực" (Tựa cuốn Tái tạo
vĩ đại). Lần đầu tiên đấy là tiếng nói và giọng điệu của khoa học tân thời.
4.1. Tăng tiến tri thức:
Muốn
tạo ra những công trình, người ta phải có tri thức. "Không thể điều
khiển được thiên nhiên nếu không làm cho nó vâng phục" (Chương trình
công việc). Chúng ta cứ học những định luật của thiên nhiên thì tự khắc sẽ làm chủ được nó. Khoa học là
con đường đưa đến xã hội vàng son. Nhưng chao ôi là con đường này mới
tệ làm sao - ngoằn ngoèo, tối tăm, đôi khi quay trở lại mất hút vào
trong những nẻo phụ vô ích, không đưa đến ánh sáng mà đến sự hỗn độn.
Bởi thế chúng ta hãy khởi sự bằng cách xét qua tình trạng của các khoa học và vạch ra cho chúng những địa hạt riêng biệt thích đáng, ta hãy "định vị trí chính xác cho những khoa học đúng
chỗ của chúng" ; cứu xét những khuyết điểm của chúng; chỉ rõ những vấn
đề mới đang chờ đợi ánh sáng của chúng và nói chung "mở ra và khuấy động
trái đất một chút".
Đấy là
công việc Bacon tự đặt cho mình trong Tăng tiến tri thức. "Như một vị
vua đi vào cung điện, ông tuyên bố: "Ý định của tôi là đi một vòng quanh
địa hạt tri thức, xem những phần nào bị bỏ hoang không được sự vun
trồng chăm bón của con người; với mục đích sử dụng năng lực của những
người công và tư để cải thiện chúng, sau khi vạch cho họ thấy những
khoảng trống tri thức kia" Bacon sẽ làm vị chúa tể xem xét mảnh đất ngập
cỏ sửa lại đường sá cho ngay thẳng và chia những mảnh đồng cho những
người làm lụng. Đấy là một kế hoạch táo bạo đến độ trân tráo; song Bacon
vẫn còn trẻ (tuổi 42 nơi một triết gia
vẫn còn xuân lắm) để vạch chương trình cho những cuộc du hành vĩ đại.
Ông viết cho Bunghley năm 1592: "Tôi xem tất cả lãnh vực tri thức đều là
địa hạt của tôi", không có nghĩa ông sẽ trở thành một ấn bản sớm của bộ
Bách Khoa Anh, mà chỉ ngụ ý rằng công việc ông ta làm sẽ đưa ông vào
trong mọi ngành với tư cách phê bình gia và người phối hợp công việc tái
tạo xã hội; chính sự vĩ đại của ý định ấy khiến lời văn ông nghe thật
nguy nga đường bệ, và thỉnh thoảng đưa ông đến tột đỉnh của tản văn Anh.
Thế là Bacon đi quan sát
khắp bãi chiến trường rộng lớn trong đó cuộc nghiên tầm của con người
tranh đấu với trở ngại thiên nhiên và sự ngu dốt của loài người; trong
mọi lãnh vực ông đều gieo rắc ánh sáng. Ông xem sinh lý học và y học có tầm quan trọng lớn lao; ông tán dương y học là
sửa chữa được "một nhạc cụ tuyệt xảo, tinh vi song quá dễ dàng lạc
điệu. Ông phản đối cách chữa trị cổ truyền nhu nhược của những y sĩ
đương thời, và khuynh hướng chữa mọi bệnh thống bằng cùng một phái thuốc
thường là y dược. Họ ỷ lại quá nhiều vào kinh nghiệm cá nhân tình cờ,
không hệ thống. Họ cần phải thí nghiệm rộng rãi hơn, phải dùng tỉ giảo
giải phẫu để làm sáng tỏ sự giải phẫu sinh thể, và trên tất cả, họ phải
ghi lại một cách dễ hiểu thành tích những cuộc thí nghiệm và kết quả để
người ta có thể đến xem được. Bacon tin rằng nên cho phép y sĩ giúp
người bệnh chết một cách dễ dàng mau chóng (đánh thuốc mê khi hấp hối)
khi mạng sống chỉ kéo dài một vài ngày mà con bệnh phải vô cùng đau đớn;
nhưng ông cũng khuyên các y sĩ nên để tâm nghiên cứu nhiều hơn về cách
kéo dài đời sống. "Đây là nhiệm vụ mới mẻ mà y khoa còn thiếu sót, mặc
dù đấy là nhiệm vụ cao quý nhất. Vì nếu y học có
thể làm việc ấy, nó sẽ không còn hoàn toàn chỉ chuyên về những lối chữa
trị hạ cấp và những y sĩ cũng không còn chỉ được người ta trọng vọng
khi cần đến, mà sẽ là những người ban bố những hạnh phúc trần gian lớn
nhất cho nhân loại". Ở đây một đồ đệ Schopenhauer có thể cãi lại giả
thuyết cho rằng sự sống dai là một hạnh phúc, và nghĩ trái lại rằng sự
chấm dứt mau lẹ những cơn bệnh hoạn là một công trình đáng ca ngợi nơi
các y sĩ. Nhưng Bacon, mặc dù có đầy những lo âu, có vợ và bị phiền hà,
vẫn không bao giờ nghi ngờ rằng cuộc đời chung quy vẫn là một cái gì rất
tốt đẹp.
Về tâm lý học,
Bacon hầu như theo thuyết "tâm cử": ông đòi hỏi phải có sự quan sát kỹ
nhân và quả trong hành động con người, và muốn loại bỏ danh từ tình cờ
ra khỏi ngữ vựng khoa học.
"Tình cờ là tên của một vật không hiện hữu". Và "cái mà trong vũ trụ
gọi là tình cờ thì ở nơi con người chính là ý chí" (Giải thích thiên
nhiên). Đây trong một dòng chữ nhỏ có cả một vũ trụ ý nghĩa, và một
thách thức chiến tranh: lý thuyết kinh viện về ý chí tự do bị gạt ra
ngoài xem như không đáng bàn tới; và giả định chung về một "ý chí" phân
biệt với "tri thức" cũng bị bác bỏ. Đây là những dây dọi mà Bacon không
theo; và trường hợp này không phải duy nhất trong đó ông đặt cả một cuốn
sách vào một câu rồi vui vẻ cho qua.
Lại trong một vài tiếng khác, Bacon phát minh một khoa học mới -tâm lý xã hội- "Những triết gia
cần khảo sát sâu xa những sức mạnh và năng lực của thói quen, sự tập
luyện giáo dục, gương mẫu, sự mô phỏng, sự cạnh tranh, tình bằng hữu,
lời khen, sự chỉ trích, sự cổ võ, tiếng tăm, luật lệ, sách vở, những sự học hỏi
v.v.; vì đấy là những gì ngự trị trong tinh thần con người; tâm thức
được thành hình và khắc phục bởi những yếu tố này*" (* Những yếu tố được
Spinoza khai triển trong cuốn Đạo đức học !). Những nét đại cương này đã được một ngành khoa học mới,
khoa tâm lý xã hội, tuân theo chặt chẽ đến nỗi nó gần như một bảng mục
lục cho các tác phẩm của Tarde, Le Bon, Ross, Walias và Durkheim.
Không có gì ở dưới khoa học,
cũng không có gì ở trên nó, thuật phù thuỷ, mộng mị, bói toán, thần
giao cách cảm, những "hiện tượng tâm linh" nói chung, đều phải được cứu
xét một cách khoa học;
"vì ta không biết được trong trường hợp nào và đến mức độ nào, những
hậu quả ta cho là mê tín thật sự có những nguyên nhân tự nhiên" (Tăng
tiến tri thức). Mặc dù có khuynh hướng tự nhiên học mạnh
mẽ, Bacon vẫn cảm thấy sức cám dỗ của những vấn đề này; không có gì
thuộc con người lại xa lạ với ông . Biết đâu không có chân lý bất ngờ,
khoa học mới mẻ phát sinh từ những cuộc tìm kiếm này, như hoá học đã
nẩy mầm từ thuật luyện kim (giả kim ?). "Thuật luyện (giả) kim có thể
ví với người đàn ông bảo con trai mình rằng ông ta đã để lại vàng, chôn ở
một nơi nào đó trong vườn nho; ở đây khi những người con đào lên thì
chẳng thấy vàng đâu cả, song khi lật mô đất quanh những gốc nho nên họ
đã được một mùa nho sung mãn. Cũng thế, cuộc tìm kiếm và những nỗ lực để
chế tạo vàng ròng đã đưa ra ánh sáng nhiều phát minh ích lợi và nhiều
kinh nghiệm quý báu". (TTTT).
Lại một ngành khoa học khác thành hình trong cuốn VIII: khoa học về
thành công trong đời sống. Khi quyền lực chưa xuống, Bacon đưa ra vài
chỉ dẫn mở đầu dạy cách làm thế nào để tiến thân trong đời. Điều kiện
trước tiên là tri thức: biết mình và biết người, Gnothe seauton chỉ mới
là một nửa; tự biết mình có giá trị chính yếu ở chỗ nó là một phương
tiện để biết người. Chúng ta cần "nỗ lực tìm hiểu về những người mà ta
phải tiếp xúc - tính tình, ước muốn quan niệm, tập tục, thói quen của
họ; những sự giúp đỡ, những bảo đảm mà họ thường nương vào nhiều nhất,
tìm hiểu do đâu họ có uy quyền; những khuyết điềm và chỗ yếu của họ, chỗ
mà họ dễ thổ lộ can tràng nhất và làm ta dễ đến gần họ nhất; tìm hiểu
bạn hữu họ, những đảng phái, những người bảo trợ của họ, người người tuỳ
thuộc vào họ, những kẻ thù, những kẻ ganh tị họ, những kình địch của
họ; tìm hiểu những lúc nào có thể gần họ và cách nào... Song chìa khoá
bảo đảm nhất để mở lòng kẻ khác vẫn là tìm tòi nghiên cứu kỹ lưỡng hoặc
tính khí bản chất họ hoặc mục tiêu dự định của họ... Cách ngắn nhất để
đạt đến toàn thể sự truy tầm này dựa trên 3 đặc điểm: 1. Kết bạn thật
nhiều, 2. Giữ một trung đạo dè dặt, một sự điều độ giữa nói năng tha hồ
và im lặng. Nhưng trên tất cả, không gì giúp cho sự biểu lộ bản ngã con
người và bảo đảm quyền lợi của mình hơn là đừng tự "tước khí giới" bằng
sự dịu ngọt và vui tính quá độ, một điều dễ làm cho ta gặp nhiều tổn
thương và trách cứ; tốt hơn ... thỉnh thoảng nên loé ra một vài tia
sáng, biểu lộ một tâm thức phóng khoáng tự do, những tia sáng có lẫn nọc
châm cũng như mật ngọt".
Bạn
hữu đối với Bacon chính yếu là một phương tiện để tiến thân; ông chia
sẻ với Mathiavel một quan niệm mà ta dễ dàng gán cho thời Phục hưng nếu
không nghĩ đến tình bạn vô vị lợi tốt đẹp giữa Michaelangelo và
Cavalleri Montaigne và La Boetie, Sir Philip Sidney và Hubert Languec.
Có lẽ chính sự đánh giá tình bạn một cách quá thực tế này đã giúp người
ta dễ giải chích sự hết thời của Bacon, cũng như quan điểm tương tự giúp
người ta dễ giải thích sự suy tàn của Napoléon; vì bạn bè của một người
- trong mối tương giao với người ấy - không mấy khi thực hành một triết lý cao siêu hơn cái triết lý mà y theo trong khi cư xử với họ. Bacon tiếp tục trích dẫn Bias, một trong bảy hiền triết cổ
Hy Lạp : "Hãy yêu mến bạn anh như thể y sẽ trở thành kẻ thù, và yêu mến
kẻ thù như thể y sẽ thành bạn" (TTTT, VIII, 2). Đừng thổ lộ ngay cả với
bạn hữu biết quá nhiều ý định và tư tưởng đích thực của mình, trong khi
đàm thoại, nên hỏi nhiều hơn trình bày quan niệm; và khi nói thì nên
đưa ra những dữ kiện và tin tức hơn là những tin tưởng và phán đoán
(Tiểu luận "Về sự giả vờ" và "Về cách nói năng"). Tính kiêu hãnh lộ liễu
giúp cho sự tiến thân; và "thói vênh vang tự đắc là một lỗi lầm thuộc
lãnh vực đạo đức hơn là chính trị " (TTTT, VIII, 2). Ở đây cũng nhắc
chúng ta nhớ đến Napoléon; cũng như Napoléon, Bacon là một con người ở
trong nhà thì khá bình dị, song ra ngoài lại làm ra một bộ điệu trịnh
trọng phô trương mà ông ta nghĩ rất cần cho uy tín đối với công chúng.
Cứ thế Bacon đi từ địa hạt này sang địa hạt khác, gieo hạt giống tư tưởng ông vào trong mọi ngành khoa học . Ở chặng cuối cuộc khảo sát ông đi đến kết luận rằng khoa học chỉ mình nó không đủ: phải có một sức mạnh, một kỹ luật ngoài địa hạt các khoa học để phối hợp chúng và chỉ chúng đến mục đích. "Có một nguyên nhân lớn và mạnh khác cho ta biết tại sao các ngành khoa học chỉ
bước những bước tiến nhỏ nhoi, và nguyên nhân ấy là thế này. Không thể
nào chạy một đường đua thực sự khi chính đích đến chưa được định sẵn".
Cái mà khoa học cần chính là triết học, sự phân tích phương pháp khoa học, và phối hợp những mục đích và kết quả của khoa học, thiếu điều này thì mọi ngành khoa học phải
thành ra nông cạn. "Vì cũng như ta không thể nào có một cái nhìn toàn
miền khi đứng trên đất bằng , ta cũng không thể khám phá những phần sâu
xa nhất của bất cứ khoa học nào nếu chỉ đứng ngang mức độ của khoa học ấy,
không tiến lên cao hơn". Bacon lên án thói quen nhìn vào những dữ kiện
riêng rẽ tách khỏi toàn khối, không xét đến sự nhất thể; ông bảo việc ấy
chẳng khác nào mang một cây đèn nhỏ đi khắp các góc phòng rạng rỡ ánh
sáng.
Triết học chứ không phải khoa học, cuối cùng vẫn là mục đích yêu dấu của Bacon . Chỉ có triết học mới có thể đem lại cho một cuộc đời đầy sóng gió đau thương cái niềm bình an tráng lệ phát sinh từ tri thức. "Sự học khuất phục được hay ít nhất giảm bớt nỗi sợ hãi về cái chết và số phận ngang trái". Ông trích dẫn những dòng thơ của Virgil:
Felix qui potuit rerum cognosere causas,
Quique metus omnes, et inexorabile fatum
Subjecit pedibus, strepitumque Acherontis avari.
"Sung sướng thay con người đã học được
nguyên nhân mọi sự, và đã để dướichân mình mọi sợ hãi, định mệnh tàn
khốc và cuộc cạnh tranh huyên náo của địa ngục tham lam".
Có lẽ kết quả tốt đẹp nhất của triết học là nhờ nó mà chúng ta trút bỏ được bài học về sự tạo mãi liên miên mà bối cảnh kỹ nghệ không ngừng nhồi vào đầu ta. "Triết học hướng
dẫn chúng ta trước hết là để tìm của cải của tâm thức, kỳ dư hoặc chúng
ta sẽ được cung cấp, hoặc chúng ta không cần đến chúng bao nhiêu". Một
chút minh triết bao giờ cũng là một niềm vui vĩnh cửu.
Chính trị hệt như khoa học, cũng khổ vì thiếu triết lý. Triết học đối với khoa học cũng
có cùng mối liên hệ như chính khách với chính trị: hoạt động được hướng
dẫn bởi sự biết và thấy toàn diện ngược hẳn với sự tìm tòi riêng rẽ
không mục đích. Cũng như sự theo đuổi tri thức sẽ trở thành lối học kinh
viện nếu tách rời những nhu cầu thực tiễn của con người và cuộc sống,
sự theo đuổi chính trị cũng sẽ trở thành điên rồ phá hoại nếu tách khỏi
khoa học và triết lý.
"Thật sai lầm khi giao phó thân thể cho những lang băm thông thường chỉ
dựa vào một ít toa thuốc có sẵn, mà không biết gì về nguyên nhân bệnh,
cũng không biết cơ thể của bệnh nhân, hay mối nguy của những triệu chứng
tình cờ, lại cũng chẳng biết phương pháp chữa trị đích thực ra sao.
Cũng như vậy nhất định sẽ nguy hiểm khi giao việc điều hành cơ thể quốc
gia cho một bọn chính khách "gia truyền", trừ phi có xen lẫn với những
người căn bản học thức
vững vàng ... Mặc dù nghe ra có vẻ bênh vực nghề mình khi có người bảo:
"Các quốc gia sẽ có hạnh phúc nếu những vị vua ấy đều là triết gia hoặc các triết gia
được làm vua", tuy nhiên kinh nghiệm đã chứng minh điều này quá rõ, là
những thời đại vàng son nhất thường đã ở dưới sự cai trị của những vị
quân vương minh triết uyên thâm". Và ông nhắc ta nhớ đến những vị đại đế trị vì La Mã sau Domitian và trước Comodus.
Cứ
thế, Bacon, như Platon và tất cả chúng ta, tán dương sở trường của
mình, và đề nghị hãy xem nó là phương cứu nhân độ thế. Nhưng ông cũng
công nhận, minh bạch hơn Platon nhiều ( và sự khác biệt này báo hiệu
thời đại tân tiến), cái cần thiết của khoa học chuyên
môn, và của đạo binh sưu tầm về các ngành chuyên biệt. Không một tri
thức nào kể cả tri thức của Bacon , đủ sức bao quát toàn lãnh vực, dù
cho ông ta có nhìn từ đỉnh núi Olymp đi nữa. Ông biết ông cần sự giúp
đỡ, và cảm thấy thấm thía nỗi cô đơn của mình trong bầu không khí đỉnh
núi của một công cuộc khó khăn không người giúp sức. Ông hỏi một người
bạn: " Anh có những bạn bè nào giúp anh trong công việc ? Về phần tôi,
tôi hoàn toàn cô đơn" (Trong Nichol, ii, 4). Ông mơ ước đến việc phối
trí các nhà khoa học trong
việc chuyên môn hoá, thường xuyên hợp tác liên lạc với nhau và phối hợp
họ lại trong một mục đích chung bằng một tổ chức vĩ đại. "Hãy xét xem
những gì ta có thể chờ đợi từ nơi những người vô cùng nhàn rỗi, từ hiệp
hội thợ thuyền, từ những thời đại tiếp nối nhau; nhất là khi đấy không
phải là một con đường trên đó mỗi lần chỉ có thể cho một người đi qua
(như trường hợp con đường lý luận), mà là một con đường trong đó những
nhân công và kỹ nghệ của con người (nhất là về việc thu thập kinh nghiệm
) có thể, nếu cố gắng, tập trung và phân phối rồi kết hợp. Vì chỉ có
khi ấy con người mới bắt đầu biết được sức mạnh của họ khi thay vì số
đông cùng làm một việc, mỗi người sẽ phụ trách một việc khác nhau" (New
Organon, i, 123). Khoa học, vốn là sự tổ chức tri thức thành hệ thống, chính nó cũng cần được tổ chức.
Và
sự tổ chức ấy phải có tính cách quốc tế, cứ để cho nó tự do vượt các
biên giới thì không bao giờ nó sẽ làm Âu châu trở thành một khối trên
phương diện tri thức. "Điểm thiếu sót thứ hai tôi tìm thấy là liên hệ
quá ít ỏi và không mấy tốt đẹp giữa các trường đại học khắp Âu châu, cũng như ở trong cùng một tiểu bang và vương quốc". Hãy để cho tất cả những đại học này
chia nhau những đề tài và vấn đề, rồi hợp tác trong việc sưu tầm và
xuất bản. Khi được tổ chức và liên kết như vậy, những đại học có thể được sự nâng đỡ của vua chúa để trở thành như vai trò của chúng trong xã hội lý tưởng - những trung tâm học giả vô tư điều khiển thế giới. Bacon chú ý đến "lương bổng kém cỏi dành cho những người giảng dạy, trong ngành khoa học cũng
như trong mỹ nghệ" (TTTT); và ông có cảm tưởng tình trạng này sẽ cứ
tiếp tục nếu chính quyền không chịu đảm trách công việc giáo dục lớn
lao. Những nhà minh triết vào
những thời đại vàng son xa xưa thường phàn nàn rằng chính quyền luôn
bận rộn với luật pháp mà quá sơ xuất về việc giáo dục". Giấc mộng lớn
của Bacon là sự xã-hội-hoá khoa học để chinh phục thiên nhiên và mở rộng quyền năng con người.
Bởi thế ông kêu lên vua James I, dốc hết những lời ca ngợi mà ông biết đức vua rất khoái thưởng thức. James vừa là một học giả
vừa là một vị đế vương kiêu hãnh về ngòi bút của ông hơn về cây quyền
trượng và chuôi gươm; ta có thể hy vọng từ nơi một vì vua uyên bác văn
tài như thế. Bacon bảo vua James rằng những kế hoạch ông vừa phát họa
"rõ là công việc của đế vương mà những nỗ lực của một người không thể
làm gì hơn một cái bóng trên ngả ba đường, chỉ có thể chỉ lối đi chứ
không thể đi được". Dĩ nhiên những công trình đế vương này sẽ tốn nhiều
tiền; nhưng "cũng như những thư ký và gián điệp của các quân vương và
các quốc gia đệ lên những phiếu trả tiền cho các tin tức thâu lượm được,
thì Ngài cũng phải cho phép những gián điệp và kẻ săn tin về thiên
nhiên đệ lên Ngài những biên lai của họ nếu Ngài không muốn bỏ qua nhiều
điều đáng được biết đến. Và nếu Alexandre đã dành một kho tàng lớn theo
lệnh Aristote để nâng đỡ những người săn thú, bắt chim, câu cá
v.v. ... thì những kẻ mở ra những mê lộ của thiên nhiên lại còn cần đến
lòng từ thiện ấy biết bao nhiêu nữa". Với sự viện trợ của hoàng đế như
vậy, công việc Tái tạo vĩ đại chẳng bao lâu sẽ được hoàn tất; nếu không
nó phải đợi đến hằng mấy thế hệ mới xong.
Cái
điều mới mẻ trong Bacon là, với sự đoan quyết hoàn toàn, ông đoán trước
việc con người sẽ chinh phục thiên nhiên : "Tôi dám cá tất cả rằng nghệ
thuật sẽ thắng thiên nhiên trong cuộc chạy đua". Những gì con người đã
làm "chỉ là một sự báo trước những gì họ sẽ hoàn tất". Nhưng tại sao có
niềm hy vọng lớn lao đó ? Há người ta đã chẳng đi tìm chân lý và thám
hiểm các con đường của khoa học từ
hai ngàn năm nay rồi sao ? Tại sao bây giờ ta lại hy vọng đến một thành
công lớn lao như vậy trong khi khoảng thời gian dài lâu ấy chỉ đem lại
một kết quả nhỏ nhoi ? - Vâng, Bacon trả lời; nhưng nếu những phương
pháp con người đã sử dụng đều sai lạc vô ích thì sao ? Nếu họ đã đi lạc
đường, và cuộc nghiên tầm đã rơi vào những nẻo phụ không đưa đến đâu ?
Chúng ta cần một cuộc cách mạng tàn bạo trong các phương pháp nghiên cứu
và suy tư, trong hệ thống khoa học và luận lý; chúng ta cần một khí cụ mới tốt hơn của Aristote thích hợp cho thế giới lớn rộng này.
Và Bacon cống hiến cho ta cuốn sách vĩ đại của ông .
4.2. Khí cụ mới
Macaulay,
người phê bình ông gắt gao nhất, bảo: "Sự hoàn thành vĩ đại nhất của
Bacon là cuốn đầu tiên của Novum Organum". Chưa ai từng làm cho luận lý
linh động bằng ông biến sự quy nạp trở thành một cuộc phiêu lưu tráng
lệ, một cuộc chinh phục. Ai muốn nghiên cứu luận lý, hãy khởi sự bằng
cuốn sách này. "Cái gì rất khó chịu đối với thị hiếu của nhiều người
không khác gì một cái lưới, cái bẫy đầy những mánh lới gai gốc ...".
Song nếu ta định đúng giá trị mọi sự, thì khoa học thuần lý là chìa khoá cho mọi khoa học khác (TTTT, v.I).
Mảnh đất triết học đã hết mầu mỡ từ lâu, Bacon bảo, bởi vì nó cần một phương pháp mới để phì nhiêu trở lại. Lỗi lầm trọng đại của những triết gia
Hy Lạp là đã dùng quá nhiều thì giờ vào lý thuyết mà quá ít vào sự quan
sát. Nhưng tư tưởng phải giúp cho việc quan sát chứ không thể thay thế
nó. "Con người, với tư cách là kẻ điều khiển và giải thích thiên nhiên,
hành động và hiểu biết tuỳ theo sự quan sát của y về trật tự thiên nhiên
... cho phép y; y không biết gì hơn và cũng không thể làm gì hơn. Những
người đi trước Socrate sáng suốt hơn hậu bối của ông về vấn đề này; đặc
biệt Démocrite có một lỗ mũi rất thính để đánh hơi những dữ kiện hơn là
một con mắt để mơ màng những đám mây. Thảo nào mà triết học đã
tiến rất ít từ sau Aristote; vì đã sử dụng phương pháp của Aristote.
"Dùng ánh sáng của Aristote để đi xa hơn Aristote chẳng khác nào nghĩ
rằng một ánh lửa thắp nhờ có thể làm tăng ánh sáng từ đấy nó được rút
ra". (Valerium Terminus). Bây giờ, sau hai ngàn năm chẻ tách luận lý
bằng cái máy do Aristote phát minh , triết học đã
rơi xuống quá thấp đến độ không còn ai muốn nghiêng mình kính trọng.
Tất cả những lý thuyết trung cổ này, những định lý và tranh luận, cần
phải loại bỏ và quên đi; muốn đổi mới triết học, ta cần bắt đầu lại với một bảng đá sạch sẽ và một khối óc đã gột sạch.
Bởi
thế, bước đầu tiên là việc san trừ của tri thức. Chúng ta phải trở
thành như những trẻ nhỏ không biết gì đến "isme" và những thói trừu
tượng, gột rửa hết thành kiến và tiền niệm. Chúng ta phải phá huỷ những
Thần tượng của tri thức.
Một thần tượng,
theo Bacon dùng danh từ này (có lẽ phản ảnh sự chối bỏ của Thệ phản giáo
đối với việc thờ phụng hình ảnh) là một hình ảnh bị lầm cho là thật,
một ý tưởng bị lầm là sự vật. Những lỗi lầm ấy đều từ ấy mà phát sinh;
và vấn đề trước tiên của luận lý là theo dấu để ngăn chận những ngọn
nguồn của những lỗi lầm ấy. Bacon tiến đến một sự phân tích thời danh về
những sai lầm. Condillac bảo: " không ai biết rõ hơn Bacon về những
nguyên nhân của lỗi lầm con người".
Những
lầm lỗi trước hết là những Thần tượng của Bộ tộc - những sai lầm tự
nhiên của nhân loại nói chung. "Vì cảm thức của con người đã được xác
quyết một cách sai lầm rằng nó là mẫu mực của mọi sự (do câu của
Protagoras: "Con người là thước đo vạn vật"), nhưng trái lại, mọi nhận
thức của giác quan cũng như tâm ý đều cho ta biết về con người chứ không
phải về vũ trụ; và tâm thức con người giống như những tấm gương méo mó
san sẻ những đặc tính của chúng cho đối vật, làm cho nó cong quẹo và xấu
xí" (Novum Organum, I., 41). Những tư tưởng của chúng ta là những hình
ảnh của chính chúng ta hơn là của đối tượng tư tưởng. Chẳng hạn, "tri
thức con người, tự bản chất lạ lùng của nó, dễ dàng gán cho sự vật một
mức độ trật tự, và đều đặn lớn hơn mức độ nó thực sự nhìn thấy ... Đó là
nguyên nhân cái ảo tưởng rằng mọi thiên thể chuyển động theo những vòng
tròn hoàn toàn (Ibid., p. 45) và "tri thức con người, mỗi khi một mệnh
đề nào đó đã được đặt ra (hoặc do mọi người chấp nhận và tin tưởng hoặc
vì thích đặt) thì nó luôn luôn cố cưỡng bức mọi sự việc khác gia tăng
bênh vực và xác định cho nó, mặc dù có thể có nhiều ví dụ mạnh mẽ dồi
dào để chứng minh ngược lại, song tri thức ấy cứ vẫn, hoặc là không quan
sát, hoặc khinh thường chúng, hoặc xua đuổi loại trừ chúng bằng cách
nêu lên một sự phân biệt với thành kiến tai hại, còn hơn là chịu cho
những kết luận ban đầu của mình là sai. Macédoine người được chỉ cho xem
trong nhà thờ những bảng tạ ơn được treo lên bởi những người đã thoát
khỏi nạn đắm tàu, và khi người ta hỏi dồn y đã chịu công nhận quyền năng
của thần linh chưa, thì y trả lời rất hợp lý như sau: Những đâu là chân
dung những người đã chết mặc dù vẫn cầu nguyện ?". Mọi sự mê tín đều
như vậy, dù là thiên văn, mộng mị, điềm triệu, những lời trù rủi, hay
tương tự, trong tất cả những điều ấy, những người tin tưởng bị đánh lừa
quan sát những biến cố đã nghiệm đúng, nhưng đã bỏ quên, lướt qua những
gì không nghiệm đúng mặc dù thông thường hơn" (Ibid., 1, 63).
"Sau
khi đã xác định vấn đề tuỳ theo ý muốn của y, con người mới nhờ đến
kinh nghiệm và uốn cong nó cho phù hợp với ý muốn ấy lôi nó đi khắp như
một kẻ bị bắt đưa đi bêu" (Ibid., p. 63). Tóm lại, tri thức con người
không phải là một ánh sáng khô khan mà có sự pha chế của ý chí và tình
cảm từ đấy mới phát sinh khoa học mà ta có thể gọi là "khoa học như
người ta muốn...". Bởi vì cái gì một người muốn cho nó đúng, thì y sẵn
sàng tin nó hơn" (Ibid., 1, 49). Không phải thế sao ?
Ở
điểm này, Bacon đưa ra một lời khuyên vàng ngọc "Tựu trung mọi người
khảo sát thiên nhiên cần dùng lời sau đây làm định luật, ấy là bất cứ gì
tâm thức y nắm được mà đeo đẳng với sự hài lòng kỳ lạ, thì đều phải nên
nghi ngờ; và càng nên cẩn thận trong lúc xét những vấn đề ấy để giữ trí
tuệ thăng bằng và sáng suốt". (Ibid., 1, 58). "Không nên để cho tri
thức nhảy lên và bay cao khỏi những chi tiết đến những định lý xa xôi và
có tính cách quy nạp gần cao độ;... Không nên chắp cho nó những đôi
cánh, mà nên treo vào nó những sức nặng để giữ cho nó khỏi nhảy và bay
(Ibid., 1, 104). Trí tưởng tượng có lẽ là kẻ thù lớn nhất của tri thức,
trong khi đáng lẽ nó chỉ là một cuộc thí nghiệm dò thử cho tri thức.
Một
loại lầm lạc thứ hai, -Bacon gọi là Thần tượng của cái hang- những lầm
lạc đặc biệt cho cá nhân. "Vì mọi người ... đều có một cái hang, sào
huyệt riêng, phản xạ và làm phai màu ánh sáng tự nhiên; đấy là tính khí
của y theo như thiên nhiên và sự nuôi dạy đã un đúc, tùy thuộc vào trạng
thái hay điều kiện của cơ thể và tinh thần của y. Một vài tâm thức,
chẳng hạn, tự cơ cấu đã có khuynh hướng phân tích, đâu đâu cũng thấy sự
sai biệt, một vài tâm thức khác lại có cơ cấu tổng hợp và chỉ thấy sự
giống nhau; bởi thế một đằng chúng ta có nhà khoa học và hoạ sĩ, một đằng nhà thơ và triết gia.
Lại nữa, "một vài thiên tính biểu lộ một lòng hâm mộ vô bờ đối với
những gì cổ kính, trong khi những thiên tính khác lại hăm hở theo mới;
chỉ có một ít người có thể giữ trung đạo, không bỏ những gi người thời
xưa đã thiết lập đúng, cũng không khinh miệt những phát minh chính đáng
của người thời nay" (Ibid., 1, 56). Chân lý vốn không bè phái.
Thứ ba là Thần tượng của thị trường, phát sinh "từ sự mậu dịch và liên kết giữa người với người. Bởi vì người ta nói chuyện với
nhau nhờ ngôn ngữ, nhưng những danh từ được đặt ra tuỳ theo sự hiểu
biết của đám đông; và từ sự tạo lập danh từ bừa bãi không thích đáng đã
phát minh ra một cuộc ngăn cản tâm thức một cách lạ lùng" (Ibid., i,
43). Như triết gia
"cho ra" những khái niệm về vô hạn với một sự đoan quyết cẩu thả; không
ai biết cái vô hạn ấy là gì, nó có hiện hữu hay không ? Các triết gia
nói về "nguyên nhân đầu tiên không nguyên nhân" hay "cái chuyển động
đầu tiên bất động"; song há chẳng phải đây cũng lại là những chiếc lá đa
dùng để che đậy sự ngu dốt trần truồng, và có lẽ chứng tỏ một ý thức
tội lỗi trong người sử dụng nó ? Bất cứ cái đầu minh mẫn lương thiện nào
cũng biết rằng không một nguyên nhân nào lại có thể không do nhân sinh,
hay một chuyển động nào lại bất động. Có lẽ sự tái tạo vĩ đại nhất
trong triết học chỉ giản dị có thế này: là ta phải tốp nói láo đi.
"Sau cùng, còn có những thần tượng đã di cư vào tâm thức con người từ những giáo điều của các triết gia,
và từ những định luật sai lầm trong việc chứng minh. Tôi gọi những thứ
này là Thần tượng của sân khấu, vì theo tôi, tất cả các hệ thống triết học sẵn có chẳng khác nào những vở tuồng sân khấu diễn tả những thế giới phát sinh từ tưởng tượng của các triết gia ... Và trong những vở tuồng của sân khấu triết học này ta có thể thấy cùng một cảnh tượng như trong sân khấu của các thi sĩ, cảnh tượng theo đó những chuyện đặt
cho sân khấu có vẻ mạch lạc, thanh lịch hơn sự thật lịch sử, vì chúng
ta thích vậy hơn" (Ibid., i, 44). Cái thế giới mà Platon mô tả chỉ là
một thế giới do ông tạo nên, nó là hình ảnh của Platon đúng hơn là của
thế giới.
Chúng ta sẽ không
bao giờ tiến xa trên đường đi đến chân lý nếu những thần tượng ấy cứ
theo giật chân chúng ta lại luôn luôn. Chúng ta cần những kiểu suy luận
mới, dụng cụ mới cho trí tuệ. "Cũng như những vùng bao la của Tây Ấn sẽ
không bao giờ được khám phá khi ta chưa biết sử dụng địa bàn, thì cũng
không lạ gì khi những phát minh và tiến bộ của mỹ nghệ đã không đi bước
nào xa hơn. Vì nghệ thuật phát minh, khám phá của khoa học cho
đến bây giờ vẫn chưa được biết đến" (TTTT,v.2). "Và dĩ nhiên thật sỉ
nhục nếu trong khi những vùng địa cầu vật chất... vào thời đại chúng ta
đã được mở rộng và vén màn, địa cầu tri thức lại cứ im ỉm trong bốn vách
tường chật hẹp của những khám phá từ xưa" (Nov. org., p., 84).
Cuối
cùng chúng ta kẹt vì giáo điều và diễn dịch; không tìm được chân lý mới
vì xem một số mệnh đề khả kính nhưng khả nghi là khởi điểm chắc thật,
và không bao giờ nghĩ đến chuyện đặt
những ức đoán ấy được sự kiểm chứng của quan sát hay thí nghiệm. Bây
giờ, "nếu một người bắt đầu với những xác tín, y sẽ kết thúc trong hoài
nghi; song nếu y chịu khó bắt đầu bằng hoài nghi y sẽ kết thúc trong
niềm xác tín" (than ôi điều này không hoàn toàn chắc chắn phải xảy ra).
Đây là một ghi nhận chung trong thời son trẻ của triết học hiện
đại, một phần tuyên ngôn độc lập của nó; Descartes cũng nói về nhu yếu
của "hoài nghi có phương pháp" xem như điều kiện tiên quyết cho tư tưởng
xác thực.
Bacon tiếp tục mô tả phương pháp nghiên tầm có khoa học:
"chỉ còn lại những kinh nghiệm đơn thuần; mà ta sẽ gọi là ngẫu nhĩ nếu
ta tìm kiếm nó ...Phương pháp thí nghiệm chân chính là trước hết thắp
ngọn nến (giả thiết) rồi nhờ ngọn nến mà chỉ ra con đường" (xếp đặt và
định giới hạn cho cuộc thí nghiệm); khởi đầu với kinh nghiệm được sắp
xếp và sử dụng đúng hợp, rồi từ đó rút ra định lý, rồi từ định lý lập ra
những thí nghiệm mới khác" (Ibid., i, 82). Chúng ta phải đi thẳng vào
thiên nhiên thay vì theo sách vở, truyền thuyết và thẩm quyền tri thức;
chúng ta phải "tra hỏi thiên nhiên và bắt thiên nhiên phải làm chứng"
ngay cả để chống lại chính nó, để chúng ta có thể điều khiển nó phục vụ
cho cứu cánh của ta.
Chúng ta phải thâu nhận từ khắp mọi nơi một "khoa vạn vật học" của thế giới, dựng nên bởi sự hợp tác của các nhà khoa học Âu
châu. Chúng ta phải dùng phương pháp quy nạp. Nhưng quy nạp không có
nghĩa chỉ có việc kể ra tất cả những dữ kiện; điều này rõ là bất khả và
vô ích; không một khối vật chất nào tự nó mà thôi có thể trở thành khoa học.
Việc này không khác nào việc "đuổi một con thú giữa cánh đồng trống";
ta phải thu hẹp và rào mảnh đất lại để bắt con mồi. Phương pháp quy nạp
phải gồm cả một kỹ thuật phân loại dữ kiện và loại trừ giả thuyết làm
sao cho sau khi gạt bỏ lần lần những giải thích khả hữu, cuối cùng chỉ
còn lại một. Có lẽ phần hữu dụng nhất trong kỹ thuật này là cái bảng
"tăng hay giảm", kê khai những trường hợp trong đó hai đặc tính hay điều
kiện tăng giảm cùng nhau, và bởi thế chứng tỏ một liên hệ nhân quả giữa
những hiện tượng thay đổi đồng thời. Ví dụ khi hỏi hơi nóng là gì ?
Bacon tìm một yếu tố nào tăng giảm theo với mức tăng giảm của hơi nóng;
ông tìm ra, sau một cuộc phân tích lâu dài, một tương quan chính xác
giữa hơi nóng và chuyển động, và kết luận của ông theo đó "hơi nóng là
một hình thức chuyển động" đã là một trong vài đóng góp đặc biệt của ông
cho vạn vật học.
Nhờ
sự tích luỹ và phân tích những dữ kiện chúng ta đi đến "hình thức" của
hiện tượng ta khảo sát, đến bản chất bí mật và tinh thể sâu xa của nó.
Thuyết về hình thức ở Bacon rất giống thuyết về ý tưởng trong Platon :
ấy là một thuyết siêu hình về khoa học.
"Khi chúng ta nói đến hình thức ta không muốn nói gì khác hơn là những
định luật và sự điều hành của hoạt động đơn thuần đang sắp đặt và hợp
thành bất cứ một bản chất đơn thuần nào ... Hình thức của hơi nóng hay
của ánh sáng, bởi thế, không có nghĩa gì khác hơn là định luật về hơi
nóng và ánh sáng" (Ibid., ii, 13, 17) (Cũng với kiểu tương tự, Spinoza
sẽ nói rằng định luật về hình tròn là thực chất của nó). "Bởi vì mặc dù
trong thiên nhiên không có gì tồn tại ngoài những cá thể phô bày những
hậu quả cá biệt rõ rệt tuỳ theo những luật riêng biệt; tuy thế trong mỗi
ngành học,
chính những định luật này -sự sưu tầm, phát minh và khai triển chúng-
là nền tảng vừa của lý thuyết vừa của thực hành" (Ibid., ii.,2). Của cả
lý thuyết lẫn thực hành, cái này thiếu cái kia sẽ vô ích và nguy hiểm;
tri thức mà không đẻ ra được thực hành là một vật xanh xao vàng vọt
không có máu, không xứng với con người. Chúng ta nỗ lực học về
những hình thức của sự vật không phải chỉ để biết hình thức mà chính vì
nhờ biết hình thức, những định luật ta có thể làm lại sự vật theo hình
ảnh chúng ta muốn. Bởi thế chúng ta học toán để tính lượng và xây cầu; học tâm lý để tìm đường đi trong rừng xã hội. Khi khoa học đã
săn tìm ra những hình thể của mọi sự vật, vũ trụ sẽ trở thành nguyên
liệu cho con người muốn xây dựng bất cứ một xã hội lý tưởng nào.
4.3 Xã hội lý tưởng
Kiện toàn khoa học và kiện toàn trật tự xã hội bằng cách điều khiển khoa học,
đó có lẽ đã là một lý tưởng rồi. Đó là cái thế giới mà Bacon mô tả
trong đoạn văn ngắn và tác phẩm cuối cùng của ông, "Đảo thần thoại mới"
(The New Atlantis) xuất bản hai năm trước khi ông mất. H .G. Wells cho
sự phục vụ vĩ đại nhất của Bacon đối với khoa học (Outlines
of History, XXXV, sect. 6) là đã vạch ra cho chúng ta thấy, dù rất sơ
sài, bức tranh của một xã hội trong đó cuối cùng khoa học có
được địa vị xứng đáng của nó là chúa tể vạn vật; đấy là một tưởng tượng
vĩ đại mà suốt trong ba thế kỷ đạo quân khổng lồ trong lãnh vực tri
thức và phát minh đã nhắm thực hiện để phá tan nghèo khổ và ngu dốt. Ở
đây, trong vài trang ngắn ngủi, Bacon trình bày cho chúng ta lý thuyết
về bản chất và hình thức của ông, định luật của đời sống và con người
ông, ước vọng thầm kín triền miên của tâm hồn ông.
Platon
trong tác phẩm Timaeus (đoạn 25) có nói về thần thọai Atlantis xưa, đại
lục bị chìm trong biển Tây, Bacon và những người khác đã cho Tân Mỹ
Châu của Columbus với lục địa này là một; tựu trung đại lục ấy vẫn không
chìm, mà chỉ có con người không đủ can đảm để vượt biển. Vì đại lục
Atlantis cũ không ai biết đến, và dường như dân ở đấy khá mạnh, song
không hoàn toàn giống như những người thông tuệ trong xã hội lý tưởng mà
Bacon tưởng tượng, nên ông ta nghĩ ra một Atlantis mới, một hòn đảo
trong Thái bình dương xa xôi, nơi chỉ có Drake và Magellan đã đi qua,
một hòn đảo cách Âu châu và cách tầm hiểu biết của con người khá xa, đủ
để tha hồ tưởng tượng về xã hội lý tưởng ở đấy.
Câu chuyện khởi
đầu một cách vụng về đầy nghệ thuật, như những truyện kể danh tiếng của
Defoe và Swift. "Chúng tôi đi tàu thủy từ Peru (ở đấy chúng tôi đã đi
suốt một năm tròn) để đi Trung Hoa và Nhật Bản bằng đường Nam Hải". Gió
êm sóng lặng hoàn toàn, những con tàu nằm yên lặng hằng tuần trên đại
dương giống như những chấm nhỏ trên một tấm gương, trong khi lương thực
của những nhà mạo hiểm cứ cạn dần. Đoạn những luồng gió mãnh liệt đẩy
những con tàu mãi về phương bắc ra khỏi miền nam nhấp nhô hải đảo để đi
vào một vùng biển hoang vu bất tận. Những khẩu phần bị giảm xuống, giảm
và giảm nữa, và một người thuỷ thủ nhuốm bệnh. Cuối cùng, khi đoàn thuỷ
thủ đã đành chịu chết, họ bỗng thấy, hầu như không thể tin được, một hòn
đảo xinh đẹp lờ mờ hiện ra dưới bầu trời. Trên bờ khi con tàu đến gần,
họ thấy không phải là những con người man dã, mà là những người ăn mặc
tráng lệ, sạch sẽ, và rõ ràng là có trí thông minh rất phát triển. Họ
cho phép tàu ghé chơi, nhưng bảo rằng luật của đảo không cho kẻ lạ ở
lại. Tuy nhiên, vì vài thủy thủ bị bệnh, họ được ở lại tất cả cho đến
khi mạnh.
Trong thời gian
dưỡng bệnh, những người thám hiểm ấy dần dần khám phá bí mật của xứ thần
thoại mới. Một người dân trên đảo kể cho họ nghe rằng "Cách 1900 năm về
trước, đảo này ở dưới quyền cai trị của một vị vua mà chúng tôi đều
tưởng nhớ... Tên người là Salomon, và chúng tôi kính trọng ông như người
ban luật lệ cho quốc gia này. Vị vua ấy có một lòng quảng đại ... và
hoàn toàn nghĩ đến việc đem lại hạnh phúc cho dân chúng ở vương quốc
ông" (Xứ thần thoại mới, Cambridge Univ. Press, 1900; tr. 20) "Trong số
những hành vi tuyệt hảo của vị vua ấy, hành vi tuyệt hảo nhất là sự tạo
lập trật tự hay xã hội, gọi là Ngôi Nhà Salomon; đấy là sự xây dựng cao
quý nhất trên mặt đất này, ngọn đèn cho vương quốc này" (Ibid., p. 22)
Tiếp
đến là đoạn tả Ngôi nhà Salomon, quá phức tạp, không thể trích dẫn tóm
tắt, song của đủ hùng hồn để Marcaulay phẩm bình rằng "trong văn thể của
loài người không có một đoạn nào nổi bật hơn thế về sự sâu sắc và minh triết"
(Ibid., p. XXV). Ngôi nhà Salomon trong xứ thần thoại là Lưỡng viện ở
London; đấy là ngôi nhà của chính phủ trên đảo. Nhưng ở đấy không có
chính trị gia, không có những "người được đắc cử", không có "cuộc nói
nhảm trong toàn quốc" như Carlyle bảo, không có đảng phái, ủy ban chánh
đảng, hội nghị, vận động, các bài xã thuyết, diễn văn, những cuộc nói
láo và bầu cử; những người dân đảo thần thoại ấy không bao giờ có ý
tưởng đưa vào các công sở họ, những phương pháp đặc tính chất kịch
trường như thế. Nhưng con đường đưa đến cao độ của danh tiếng về khoa học thì
được mở ra cho tất cả, và chỉ những người đi trong con đường ấy mới
được ngồi trong hội đồng quốc gia. Đấy là một chính phủ của dân, cho dân
và do số người ưu tú nhất (được chọn trong dân chúng) lãnh đạo; một
chính phủ được lãnh đạo bởi những kỹ thuật gia, kiến trúc sư, nhà thiên
văn, nhà địa dư, nhà sinh vật học, vật lý gia, hoá học gia, kinh tế gia, các nhà xã hội học, tâm lý học và các triết gia. Thế cũng đủ phức tạp rồi. Nhưng chúng ta hãy thử tưởng tượng một chính phủ không có chính trị gia !
Quả
thế, không có hay có rất ít sự cai trị trong Đảo Thần Thoại Mới; những
nhà cai trị ở đó bận rộn trong việc điều khiển thiên nhiên hơn là cai
trị con người. "Cứu cánh của cơ quan chúng tôi là tri thức về các nguyên
nhân và những chuyển động bí mật của mọi sự; và sự nới rộng biên giới
lãnh vực của con người, để làm tất cả những gì có thể làm" (Ibid., p.
34). Đây là then chốt của tác phẩm và của Bacon. Chúng ta gặp những nhà
cai trị bận rộn, trong những công việc không xứng chức vị mình như là
quan sát những vì sao, tìm cách sử dụng vào kỹ nghệ năng lực của thác
nước, phát triển những chất hơi để trị các chứng bệnh thống, thí nghiệm
loài vật để thu thập kiến thức về giải phẫu học,
nuôi các loại cây và thú v.v.. "Chúng tôi bắt chước chim bay, chúng tôi
có thể đạt đến phần nào việc bay trong không gian. Chúng tôi có tàu để
đi dưới mặt nước". Có mậu dịch quốc ngoại, song một thứ mậu dịch lạ
lùng; đảo ấy sản xuất những gì mình tiêu thụ, và tiêu thụ những gì sản
xuất, không đi đến chiến tranh để giành thị trường. "Chúng tôi có mậu
dịch, không phải về vàng bạc, nữ trang, lụa là, hương liệu, hay bất cứ
phẩm vật gì khác mà chỉ mậu dịch về thứ mà Thượng đế đã tạo ra đầu tiên,
ấy là ánh sáng; để biết về tất cả các vùng trên thế giới" (Xứ Thần
Thoại, p. 24). Những "Thương gia buôn Ánh Sáng" này là những người trong
Ngôi Nhà Salomon được gửi đi ngoại quốc 12 năm một lần để sống với
những dân tộc nước khác trên khắp địa cầu văn minh, học ngôn ngữ họ, khoa học, kỹ nghệ, văn học của họ; và trở về sau 12 năm để tường trình những tìm tòi của họ cho các lãnh tụ Ngôi Nhà Salomon; trong khi một nhóm khoa học gia khác được gửi đi thay thế họ. Với cách đó những tinh hoa của toàn thế giới chẳng bao lâu sẽ đến với xứ này.
Mặc dầu bức tranh có vẻ sơ lược, ta cũng thấy trong đó những nét đại cương lý tưởng của mọi triết gia - một dân tộc sống trong hoà bình, sung túc, khiêm tốn, được lãnh đạo bởi những người minh triết nhất. Giấc mộng của mọi nhà tư tưởng là thay chính trị bằng khoa học; song tại sao sau bao nhiêu lần tái sinh trong vòng luân hồi qua các bộ óc triết gia,
lý tưởng ấy vẫn còn là giấc mộng ? Phải chăng bởi vì nhà tư tưởng quá
mơ mộng tri thức không thể đi vào trường sinh hoạt để xây dựng ý niệm
của mình thành sự thật ? Phải chăng vì cái tham vọng thô bỉ của tâm hồn
hẹp hòi ưa tích luỹ của cải, cái tham vọng vốn dĩ luôn luôn có số phần
lấn lướt những ước vọng nhẹ nhàng tế nhị của các triết gia và những bậc thánh triết ? Hay phải chăng vì khoa học chưa đạt đến chỗ trưởng thành và đến một năng lực đầy ý thức ? Phải chăng chỉ vào thời đại chúng ta các vật lý gia, hoá học gia và kỹ thuật gia mới bắt đầu thấy rằng nhiệm vụ mới của khoa học trong
kỹ nghệ và chiến tranh đem lại cho họ một vị trí quan trọng trong sách
lược xã hội, và chỉ cho chúng ta thấy trước một thời mà sức mạnh có tổ
chức của họ phải làm cho thế giới phải mời họ lên hàng lãnh đạo ? Có lẽ
khoa học chưa xứng đáng địa vị chúa tể vũ trụ, và có lẽ không bao lâu nó sẽ xứng đáng.
5. PHÊ BÌNH
Chúng ta phải phê phán làm sao cái triết lý ấy của Bacon ? Có gì mới lạ trong đó ? Macaulay nghĩ rằng phép quy nạp theo Bacon mô tả là một chuyện có
từ khuya, không có gì phải ồn ào về nó, lại càng không nên xây đài kỉ
niệm cho nó. "Phép quy nạp vốn dĩ mọi con người đều sử dụng từ sáng đến
tối kể từ thuở khai thiên lập địa. Khi một người bảo rằng chả lụa không
hạp với y bởi vì y bị đau bụng khi ăn nó vào, không đau nữa nếu không
ăn, đau nhiều nhất nếu ăn nhiều, và đau ít nhất nếu ăn ít, thì y đã sử
dụng vô ý thức song rất đầy đủ, tất cả những mục của cuốn Novum Organum"
(op cit., p. 471). Nhưng người ấy không sử dụng bảng "tăng hay giảm"
đúng cách, và rất có thể cứ tiếp tục ăn chả lụa mặc dù bị sôi bụng. Và
dù cho người ấy có khôn ngoan, điều ấy cũng không làm giảm bớt giá trị
Bacon; vì luận lý học là
gì nếu không phải là lập thành công thức những kinh nghiệm và phương
pháp của những người khôn ngoan ? - một kỷ luật là gì nếu không phải là
sự chuyển nghệ thuật của một số ít người trở thành định luật khoa học để giảng dạy cho tất cả ?
Nhưng việc lập thành công thức có phải của riêng Bacon ? Phương pháp của Socrate không quy nạp sao ? Sinh vật học của
Aristote không quy nạp sao ? Há Roger Bacon đã không thực hiện phương
pháp quy nạp mà Francis Bacon chỉ có giảng diễn ? Galilée há đã không
lập thành công thức rõ ràng phương pháp mà khoa học đã
thực sự sử dụng ? Điều này đúng trong trường hợp Roger Bacon, ít đúng
hơn với Galilée, lại ít đúng hơn nữa với Aristote và đúng ít nhất với
Socrate. Galilée phát họa mục tiêu hơn là phương pháp của khoa học, đưa ra trước những tín đồ khoa học cái đích của sự lập thành công thức toán học và
đo lường mọi thí nghiệm và mọi tương quan. Aristote thực hành pháp quy
nạp khi không có việc gì khác để làm và khi tài liệu không cho phép ông
tự do quen thói diễn dịch ra những kết luận đặc trưng từ những giả
thuyết quá tổng quát; còn Socrate thì không phải dùng quy nạp - tức gom
góp dữ kiện - mà là dùng phân tích, nghĩa là định nghĩa và phân biệt
những danh từ và ý tưởng.
Bacon
không tự hào mình hoàn toàn độc sáng; giống như Shakespeare ông làm cho
những gì ông để tay đến đều trở nên rực rỡ. Mọi người đều có nguồn gốc,
cũng như mọi cơ thể phải có thức ăn; phần thuộc về của ông chính là
phương pháp ông tiêu hoá thức ăn và biến nó thành ra máu và thịt. Như
Rawley nói, "Bacon không bao giờ coi thường những quan sát của một người
nào, ông mượn nến của bất cứ ai để thắp ngọn đuốc của ông*" (* J.M.
Robertson trích dẫn trong lời tựa cuốn Tác phẩm Triết học của
F. Bacon, tr. 7). Nhưng Bacon ghi nhận những món nợ này: Ông nói đến
"phương pháp tiện lợi của Hyppocrate" (TTTT, IV, 2) đưa chúng ta ngay
đến nguồn thực của luận lý quy nạp trong người Hy lạp; và Platon "đã đưa
ra một tấm gương sáng của sự nghiên tầm bằng phép quy nạp và xét những
điểm đặc thù; mặc dù bằng một lối bấp bênh có vẻ không lợi ích gì"
(Filum Labyrinthi, đoạn cuối). Có lẽ ông đã không màng nhắc đến nợ ông
đối với những người tiền bối ấy; và chúng ta cũng đừng nên phóng đại món
nợ kia.
Nhưng còn một điều khác: phương pháp của Bacon đúng chăng ? Đó có phải là phương pháp được sử dụng hữu hiệu nhất trong khoa học tiên tiến ? Không, thông thường khoa học đã sử dụng với hiệu quả tốt đẹp nhất, không phải là sự tích chứa những dữ kiện (Vạn vật học)
và sử dụng chúng bằng những bảng phức tạp trong Novum Organum mà phương
pháp giản dị hơn với giả thuyết, diễn dịch và thí nghiệm. Như Darwin
khi đọc cuốn Luận về dân số của Malthus liền có ý nghĩ áp dụng cho mọi
cơ thể giả thuyết của Malthus, theo đó dân số có khuynh hướng tăng nhanh
hơn phương tiện sống; và diễn dịch từ giả thuyết này kết luận có thể
rằng áp lực của dân số trên sự cung cấp thực phẩm có hậu quả là một cuộc
cạnh tranh sinh tồn trong đó kẻ khéo thích nghi nhất sẽ sống sót, và
qua cuộc cạnh tranh ấy trong mỗi thời đại mỗi loài trở nên thích ứng với
hoàn cảnh hơn ; và cuối cùng (sau khi đã giới hạn vấn đề và lãnh vực
quan sát của ông bằng giả thuyết và diễn dịch) quay về "bộ mặt không héo
tàn của thiên nhiên" và trong 20 năm đã làm một cuộc xenm xét kiên nhẫn
những sự kiện để đi đến quy nạp. Lại nữa, Einstein nghĩ ra, hay mượn
của Newton, giả thuyết rằng ánh sáng đi theo đường cong chứ không thẳng;
rồi diễn dịch ra hết kết luận rằng một ngôi sao mà ta xem có vẻ như
đang ở một vị trí nào đó trên trời thì kỳ thật hơi thiên về một bên của
vị trí ấy; và ông thí nghiệm, quan sát để kiểm chứng lại. Rõ ràng là vai
trò của giả thuyết và trí tưởng tượng thật quan trọng hơn Bacon nghĩ;
và phương pháp của khoa học thật
ra trực tiếp và có giới hạn hơn trong kế hoạch của Bacon. Chính Bacon
cũng thấy trước sự lỗi thời của phương pháp ông; việc thực hành khoa học sẽ
tìm ra những nghiên tầm hữu hiệu hơn là những phương pháp được nghĩ ra
bởi chính khách trong lúc trà dư tửu hậu. "Những việc này cần vài thế kỷ
để trưởng thành".
Ngay cả một người yêu mến tinh thần Bacon cũng phải công nhận rằng ông quan lớn ấy trong khi đặt ra định luật cho khoa học, đã không theo dõi trào lưu khoa học của
thời ông. Ông phủ nhận Copernic và không biết đến Kepler và Tycho
Brahe; ông chê Gilbert và dường như không biết có Harvey. Quả thế, ông
thích bàn luận hơn nghiên tầm; hoặc có lẽ ông không có thì giờ cho việc
tra cứu công phu. Những tác phẩm viết trong lãnh vực triết học và khoa học là
những đoạn thiếu mạch lạc, lộn xộn, để lại sau khi ông chết, đầy những
trùng lập, mâu thuẫn, ước vọng và giới thiệu. Ars longa, vita brevis,
nghệ thuật thì lâu dài, mà đời người quá ngắn: đấy là thảm kịch của mọi
thiên tài.
Bắt một người quá bận rộn như Bacon, mà công việc tái tạo triết học phải
nhét vào những khe hở của một sự nghiệp chính trị nặng nề đầy sóng gió,
sáng tạo dồi dào phức tạp như Shakespeare, thì thật là phí thời giờ học giả
với những tranh luận phòng trà của những người lý thuyết rởm.
Shakespeare thiếu chính cái yếu tố tạo nên con người của vị quý tộc quan
lớn kia - sự bác học và óc triết lý-. Shakespeare biết chút ít về mọi khoa học; nhưng không nắm vững khoa nào; trong mọi ngành khoa học ông
đều phát ngôn với sự hùng hồn của một người tài tử. Ông công nhận khoa
chiêm tinh "Quốc gia lớn lao nầy ...(Sonnet, XV), ông luôn luôn có những
lỗi mà học giả
Bacon không bao giờ có; nhân vật Hectoz của ông trích dẫn Aristote và
nhân vật Coriolanus nói đến Cato; ông cho Lupercalia là một ngọn đồi và
ông hiểu César có lẽ cũng sâu sắc như H.G. Wells đã hiểu. Ông không
ngừng nói đến thời niên thiếu của ông và những đau buồn trong đời hôn
phối. Ông có những cái tầm thường, thô tục, những trò đùa khác hẳn với
nhà triết học lạnh
lùng bình thản, Carlyle gọi Shakespeare là con người có trí năng vĩ đại
nhất, nhưng đúng hơn phải nói Shakespeare có trí tưởng tượng vĩ đại
nhất, con mắt tinh anh nhất, ông không cố ý thống nhất tư tưởng cho cuộc
đời mình và cho nhân loại. Ông đắm mình trong tình yêu và chỉ nghĩ đến triết lý khi trái tim tan vỡ. Khi nó chưa vỡ thì ông cũng khá yêu đời, ông không thèm bận tâm đến viễn tượng tái tạo triết học đã nâng cao Platon, Nietzsche hay Bacon.
Ưu
điểm và cũng là nhược điểm của Bacon nằm ở chính lòng yêu chuộng sự
thống nhất của ông, ước vọng của ông muốn phối hợp hằng trăm khoa học lại.
Ông muốn như Platon "một người có thiên tài cao cả nhìn khắp mọi sự như
đứng từ một mỏm đá cao". Ông ngã quỵ dưới gánh nặng của công việc ông
đã tự vạch cho mình; ông đã thất bại, nhưng điều đó khả thứ, vì ông đã
quá ôm đồm. Ông đã không thể đi vào mảnh đất hứa của khoa học,
song ít ra ông cũng đã đứng ở biên giới, và chỉ cho thấy những nét
phong quang của nó từ xa. Tuy nhiên công trình của Bacon không vì thế mà
kém phần to tát. Tác phẩm triết học của
ông, mặc dù ngày nay không mấy ai đọc đến, "đã đánh động các tri thức
điều động thế giới" (Macaulay). Ông đã trở thành tiếng nói hùng hồn của
lạc quan và quyết định của thời Phục Hưng. Chưa ai đã là nguồn hứng khởi
quan trọng cho các tư tưởng gia khác như thế. Đã đành vua James từ chối
đề nghị của ông về việc bảo trợ khoa học,
và nói về tác phẩm Dụng cụ mới rằng : "Tác phẩm này giống như sự bình
an của Thiên chúa, vượt quá mọi tầm hiểu biết ". Nhưng những người khá
hơn, vào năm 1662 sáng lập ra Hội Hoàng Gia sau này sẽ trở thành hội
đoàn các khoa học gia
lớn nhất của thế giới, đã xem Bacon là gương mẫu và nguồn cảm hứng cho
họ; họ hy vọng rằng tổ chức này của Anh quốc sẽ đưa đến một hiệp hội của
toàn Âu châu như cuốn Tăng tiến tri thức đã chủ trương. Khi những bộ óc
vĩ đại của phái Tôn Sùng Lý Trí ở Pháp khởi thảo kiệt tác của tri thức,
Bộ Bách Khoa Từ điển, họ đã đề tặng Francis Bacon. Diderot đã nói trong
chương trình: "Nếu chúng tôi thành công trong việc này, đây là nhờ phần
lớn vào vị Tể tướng Bacon, người đã đưa ra kế hoạch một bộ tự điển phổ
quát khoa học và mỹ nghệ vào một thời, ta có thể nói, chưa từng có khoa học hay
mỹ nghệ. Thiên tài phi thường ấy, khi ông không thể nào viết một cuốn
lịch sử về những gì biết được, đã viết một cuốn sách để nói về những gì
cần phải biết". D´Alembert gọi Bacon là :" triết gia vĩ đại nhất, phổ quát nhất, hùng hồn nhất trong các triết gia ". Hội nghị đã xuất bản tác phẩm của Bacon do quốc gia ra vốn. Tất cả sự nghiệp tư tưởng Anh quốc đã theo đường hướng triết học Bacon.
Hobbes thừa hưởng quan điểm của ông để khởi xướng một thuyết duy-vật,
Locke theo phương pháp quy nạp của ông để lập một nền tâm lý học thực nghiệm, nhấn mạnh sự quan sát và loại bỏ khía cạnh thần học và
siêu hình; và Bentham cũng ảnh hưởng Bacon khi đồng hoá cái hữu ích và
cái thiện. Bất cứ ở đâu có tinh thần khắc phục thay vì tinh thần cam
chịu, ở đó có ảnh hưởng Bacon. Ông là tiếng nói của những người Âu châu
đã biến đổi một lục địa từ một cánh rừng hoang trở thành một mảnh đất
của kho tàng mỹ nghệ và khoa học,
đã biến bán đảo nhỏ của họ thành trung tâm thế giới. "Con người không
phải là những con vật đứng thẳng, nhưng chính là những thần linh bất
diệt". Bacon bảo "Thượng đế đã ban cho chúng ta những linh hồn bằng cả
vũ trụ, nhưng chúng ta vẫn chưa thoả mãn dù chiếm được cả vũ trụ". Mọi
sự đều khả hữu đối với con người. Thời gian còn ít, hãy cho chúng ta vài
thế kỷ, chúng ta sẽ chế phục và tái tạo tất cả. Có lẽ ít nhất chúng ta
sẽ học được bài học cao
quý hơn cả, đấy chính là con người không phải cần đánh giặc với người
mà chỉ cần tuyên chiến cùng những chướng ngại mà thiên nhiên đã đặt để
cản ngăn chiến thắng của mình". Ta có thể nói không ngoa rằng có ba loại
hay bực tham vọng trong con người. Loại thứ nhất là tham vọng của những
người muốn bành trướng quyền hạn mình trong xứ sở mình; điều ấy tầm
thường và thoái hoá. Loại thứ hai là tham vọng của những người nỗ lực
bành trướng quyền lực xứ sở mình và thống trị nhân loại, điều này dĩ
nhiên có tư cách hơn song cũng không kém tham tàn. Nhưng nếu một người
nỗ lực xây dựng và bành trướng quyền lực và sự thống trị của loài người
trong vũ trụ thì loại tham vọng ấy rõ ràng là vừa lành mạnh hơn, vừa cao
quý hơn hai loại kia" (Dụng cụ mới, 129). Định mệnh quả đã khiến Bacon
phải bị dằn vặt giữa những khuynh hướng ấy xâu xé nhau để chiếm đoạt
linh hồn ông ta.
6. KẾT LUẬN
"Những
người có địa vị cao thường phải chịu nô lệ ba lần: nô lệ cho vương vị
hay tổ quốc, nô lệ cho danh tiếng, nô lệ cho công việc, đến nỗi hoặc
không có tự do dù trong hành động, trong con người họ hay trong thì
giờ... Bước lên địa vị cao là việc khổ nhọc và
từ sự gian khổ này người ta đi đến sự gian khổ lớn hơn; nó lại thường
hèn hạ, người ta nhờ vào luồn ra cúi mà bước lên địa vị công hầu. Chỗ
đứng ấy lại trơn trượt, bước thụt lùi thường khi không ngã quỵ thì cũng
xiểng liểng" (Luận "Về địa vị cao"). Đấy cũng là tóm lược rất xác đáng
kết cuộc của chính Bacon một cách không ngờ. "Những lỗi lầm nơi một
người thường là sản phẩm thời đại; đức hạnh và tài hoa nơi y mới chính
thật của y", Goethe bảo. Điều ấy hình như không đúng hẳn trong trường
hợp Goethe, tinh thần của thời đại, song lại đặc biệt đúng trong trường
hợp Bacon. Abbot (trong Francis Bacon, ch. 1) sau một cuộc nghiên cứu
công phu về tinh thần đạo đức thịnh hành dưới triều Elizabeth, đã kết
luận rằng tất cả những nhân vật quan trọng ở đấy, đàn ông cũng như đàn
bà, đều là đồ đệ của Machiavel. Roger Ascham mô tả bằng một bài vè bốn
đức tính cốt yếu cần thiết trong triều nữ hoàng:
Gian, dối, nịnh hót, dạn dày,
Ấy là bốn cách để được ân sủng ở triều đình.
Nếu bạn không chịu theo bất cứ cách nào trong đó,
Thì bạn nên trở về làng cũ học cày.
Vào thời buổi vui nhộn ấy, các quan toà có tục
lệ nhận "quà" nơi những người đi kiện ở pháp đình. Bacon cũng không hơn
gì thời đại về vấn đề ấy; và sự ăn tiêu xa xỉ của ông - không cho phép
ông thận trọng-. Song mọi sự có lẽ sẽ qua êm nếu ông đã không gây quá
nhiều oán cừu trong vụ Essex và trong những bài diễn văn của ông. Một
người bạn đã báo cho ông biết rằng "Trong triều mọi người đều bảo rằng
vì ngọn lưỡi của anh đã là một lưỡi dao bén cho nhiều người, nên họ cũng
sẽ dùng lưỡi dao họ để hại lại anh" (Ibid., p. 13, phần ghi chú). Song
ông đã không để ý đến lời báo trước ấy. Ông dường như được vua yêu
chuộng; đã được làm quận công ở Verulam năm 1618, tử tước (Viscount) ở
St Albans 1621, và làm Chancellor trong 3 năm.
Nhưng
đùng một cái tai họa xảy đến. Năm 1621 một người thua kiện đã tố cáo
ông nhận tiền trong vụ xử kiện ấy; đấy là một việc không lạ gì, song
Bacon biết nếu những kẻ thù ông muốn khơi vụ này ra, họ có thể làm cho
ông đoạ. Ông rút lui về chờ đợi kết quả cuộc diễn biến. Khi hay tin rằng
tất cả những kẻ thù ông đều đòi ông giải nhiệm, ông gửi đến vua James
"lời thú tội và xin phục tùng ý nhà vua". Vua James nhượng bộ trước áp
lực của quốc hội đang thắng thế - quốc hội mà bấy lâu Bacon đã cương
quyết phò vua chống lại - và hạ lệnh tống giam ông. Nhưng sau hai ngày
ông được thả; và số tiền phạt nặng nề đã được vua thanh toán. Lòng kiêu
hãnh của ông chưa hoàn toàn sụp đổ, ông nói : "Tôi là vị thẩm phán công
chính nhất ở Anh quốc từ 50 năm nay, song sự phán quyết ấy là sự phán
quyết công bình nhất trong quốc hội từ 200 năm nay".
Ông
sống 5 năm còn lại trong bóng tối và sự bình an của gia đình, bị ray
rứt bởi một cảnh nghèo túng không quen, song được an ủi bằng việc tích
cực nghiên cứu triết lý
. Trong 5 năm ấy ông viết tác phẩm bằng La ngữ vĩ đại nhất của ông : De
Augmentis Suntiarum (Tăng tiến tri thức), xuất bản một quyển Tiểu luận
dầy hơn, một tập nhỏ nhan đề Sylva Sylvarum, và một cuốn Lịch sử Henry
VII. Ông tiếc đã không từ bỏ chính trị sớm hơn để dành hết thì giờ cho
văn chương và khoa học.
Cho đến phút cuối cùng ông cũng bận rộn công việc ấy và có thể nói ông
đã chết "tại trận tiền". Trong bài tiểu luận "Về cái chết" ông đã nói
đến ước ao được chết "trong khi đang hăm hở theo đuổi, giống như một
người chết tươi máu còn nóng hổi không cảm thấy đau đớn của vết thương".
Như César, ông đã được như lời.
Vào
tháng ba 1626, trong khi cưỡi ngựa từ London đến Highgate và suy nghĩ
vấn đề làm sao, đến mức độ nào tuyết có thể giữ cho thịt tươi khỏi thối,
ông quyết định thí nghiệm ngay. Ông dừng lại ở một nhà lá bên đường,
mua một con gà, giết và độn tuyết vào. Trong khi đang làm thế thì ông bị
lên cơn rét, và cảm thấy không thể đi ngựa trở về thành, ông bảo người
ta đưa ông đến nhà Lord Arundel ở gần đấy để nằm. Ông chưa thoái từ sự
sống, ông vui vẻ viết rằng "Cuộc thí nghiệm ... đã thành công mỹ mãn".
Nhưng đấy là phút chót đời ông. Cơn sốt của cuộc đời đa diện đã đốt cháy
ông hoàn toàn, bây giờ người ông nóng ran, không thể chống lại cơn bệnh
lan dần lên tim. Ông chết vào ngày 9 tháng 4, 1626, năm ông 65 tuổi.
Ông
viết trong di chúc những lời kiêu hãnh điển hình của ông như sau: "Tôi
hiến dâng linh hồn tôi cho Thượng đế ... Xác tôi nên chôn cất trong lặng
lẽ. Tên tôi tặng cho những thế hệ về sau và các quốc gia xa lạ". Các
thế hệ và các quốc gia đã đón nhận ông./.
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 4
SPINOZA
(1632 - 1677)
(1632 - 1677)
I. TIỂU SỬ
1. Trang sử oai hùng của người Do-thái
Trang
sử của người Do-thái là một trong những trang sử hùng tráng của Âu
châu. Họ bị đuổi ra khỏi nước khi người La Mã chiếm thành Jérusalem năm
70 trước TL. Từ đó đi khắp thế giới để buôn bán. Họ thường bị kỳ thị và
chém giết bởi những người khác tôn giáo như những người theo Thiên chúa
giáo hoặc Hồi giáo, mặc dù giáo lý của các giáo phái này một phần lớn
rút từ các kinh sách của người Do-thái. Họ không được các chính phủ cho
phép mua đất đai và làm kỹ nghệ. Họ bị tập trung vào những xóm nghèo
khổ, bị dân chúng hiềm khích và các vua chúa bóc lột. Tuy nhiên với sự
nhẫn nại hiếm có, họ vẫn xây dựng được những thành phố làm vẻ vang cho
nền văn minh nhân loại. Mặc dù bị xua đuổi và nguyền rủa khắp nơi, không
được đoàn kết thống nhất bởi một cơ cấu chính trị, không có một ngôn
ngữ riêng biệt, dân tộc kỳ diệu này đã giữ được thống nhất trong tâm
hồn, trong giòng giống, trong văn hoá, trong tôn giáo, trong tập tục và
nhẫn nại chờ đợi ngày giải
thoát. Dân số của họ càng ngày càng tăng và họ đã trở thành những
chuyên viên danh tiếng trong tất cả mọi lĩnh vực. Sau 2000 năm đi lang
thang khắp thế giới, dân tộc này đã tìm lại được quê hương. Còn trang sử
nào oai hùng bằng những trang lịch sử kể trên, còn sự vinh quang nào
sáng lạn và đẹp đẽ bằng sự vinh quang kể trên ? Sự tưởng tượng của con
người cũng không thể đẹp bằng câu chuyện thực tế của người Do thái.
Sự
phân tán của người Do-thái đã bắt đầu mấy trăm năm trước khi thành
Jérusalem thất thủ. Do các hải cảng Tyre và Sidon, người Do-thái đã phân
tán đi khắp các vùng Địa trung hải từ Athènes đến Antioche, từ
Alexandre đến Carthage, từ Rome đến Marseilles và đến cả xứ Y-pha-nho
(Spain / Espagne) xa xôi. Sau khi thành Jérusalem bị tàn phá, cuộc di cư
trở nên vĩ đại. Có hai đường chính: một đường theo sông Danuble và sông
Rhin để đi vào Ba-lan và Nga-sô, một đường đi đến Y-pha-nho và
Bồ-đào-nha (Portugal). Tại Trung âu, người Do-thái đã tỏ ra là những
thương gia và tài chánh gia lỗi lạc. Tại những nơi khác họ hấp thụ văn
minh Ả rập về phương diện toán học, y học và triết học để
bồi bổ cho văn hoá Do thái trong những trường danh tiếng ở Cordova
Barcelone và Séville. Tại đây trong thế kỷ thứ XII và XIII, người
Do-thái đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá văn minh đông
phương và Âu tây. Tại Cordova một bác sĩ Do thái tên là Moses Maimonides
(1135-1204) đã viết một cuốn sách danh tiếng nhan đề Sách chỉ đường cho
những người lưỡng lự. Ở Barcelone một tác giả Do-thái khác đã góp phần rất lớn trong việc làm sáng tỏ các giáo lý của họ.
Những
người Do thái ở Y-pha-nho làm ăn rất thịnh vượng cho đến năm 1492 khi
vua Ferdinand chiếm Granada và trục xuất họ ra khỏi nước. Từ đó những
người Do thái sống chật vật và bị theo dõi. Sau đó họ bị đàn áp thật sự
và bị bắt phải theo Thiên chúa giáo nếu không họ sẽ bị đày và bị tịch
biên gia sản. Cuộc đàn áp tôn giáo này không phải hoàn toàn vì lý do tôn
giáo mà chính vì nhà cầm quyền Y-pha-nho muốn cướp đoạt tài sản của
những người Do Thái. Vua Ferdinand tìm được người Do-thái cũng như
Columbus tìm ra Mỹ châu.
Đa số người
Do-thái không chịu theo tôn giáo mới. Nhiều người di cư qua Ý, ở đây họ
cũng bị xua đuổi, họ chạy qua Phi châu, ở đó một số lớn bị mổ bụng vì
thổ dân tin rằng trong bụng người Do thái có ngọc ngà châu báu. Một số
đân Do-thái đến Vevise và đã làm cho thành phố này có tầm quan trọng vào
bậc nhất. Chính những người Do-thái đã bỏ ra nhiều tiền để Columbus đi
tìm Tân thế giới vì họ hy vọng rằng nhà thám hiểm này sẽ tìm cho họ một
nơi để sinh sống tự do. Hình như Columbus cũng là một người Do-thái. Một
số đông dân Do thái đã dùng đường biển để đến Hoà-lan, nơi đây tương
đối họ được chấp nhận. Trong số những người Do thái di cư qua Hoà-lan có
một gia đình tên là Spinoza.
Từ
khi người Do-thái bỏ đi, xứ Y-pha-nho trở nên điêu tàn. Trong lúc đó,
nhờ tiếp đón người Do-thái, Hoà-lan đâm ra thịnh vượng. Người Do-thái
xây cất thánh đường đầu tiên tại Amsterdam năm 1598 và 75 năm sau họ xây
cất thánh đường thứ hai, một thánh đường nổi tiếng khắp Âu châu. Có lẽ
từ đó hạnh phúc đã đến với người Do-thái nếu ta bằng vào các hoạ phẩm
của Rembrandt trình bày những thương gia và giáo sĩ Do-thái mày râu nhẵn
nhụi áo quần bảnh bao. Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ XVII có một
cuộc tranh chấp giữa những người Do-thái. Một thanh niên Do-thái bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng của thời đại phục hưng đã viết sách công kích
thuyết tái sinh lên thiên đường. Cuốn sách này không nhất thiết phản lại
giáo lý Do-thái, nhưng giáo quyền bắt buộc tác giả phải
phản tỉnh vì họ sợ rằng những tư tưởng của thanh niên này động chạm đến
tín ngưỡng của dân Hoà-lan, vì thuyết tái sinh lên thiên đàng là một
trong những tín điều nòng cốt của Thiên-chúa-giáo. Thủ tục phản tỉnh bắt
buộc tác giả cuốn
sách nói trên phải nằm trước ngưỡng cửa thánh đường và để cho các tín
đồ khác đạp lên mình để vào thánh đường. Vì quá tủi nhục tác giả viết
một bài công kích thái độ của giáo hội Do-thái trước khi tự sát. Biến
cố này xảy ra năm 1640, lúc này Spinoza được 8 tuổi, đang theo học trường của thánh đường.
2. Sự giáo dục của Spinoza
Những
biến cố của dân Do-thái un đúc tâm hồn Spinoza và làm ông ta có nhiều
đặc tính Do-thái mặc dù bị giáo hội Do-thái khai trừ. Mặc dù thân phụ là
một nhà buôn giàu có, ông không muốn nối tiếp cha mà chỉ muốn nghiên
cứu giáo lý tại thánh đường. Ông là một học giả có tài và các giáo sĩ Do-thái rất tin tưởng vào tương lai ông. Ông học hết thánh kinh rất nhanh và học qua
kinh Talmud, một cuốn kinh rất khó của người Do-thái. Dần dần tất cả
những kinh sách Do-thái đều được ông nghiên cứ tường tận thông suốt.
Ông
say mê lý thuyết nhất thể giữa vũ trụ và Thiên chúa, tuy nhiên ông
không mấy thích thú khi đọc cuốn sách nhan đề Sách chỉ đường cho những
người lưỡng lự vì ông tìm ở trong sách nhiều sự lưỡng lự hơn là sự chỉ
đường. Ông nghiên cứu Cựu ước và cũng không mấy thoả mãn. Chính những kẻ
binh vực giáo lý đã làm hại cho giáo lý ấy nhiều nhất vì càng bênh vực
họ càng gieo mầm nghi ngờ cho người khác và kích thích sự chỉ trích của
người khác. Càng nghiên cứu giáo lý Do-thái tâm hồn Spinoza càng xao
động và ông đâm ra hoài nghi tất cả.
Ông muốn tìm hiểu những tác giả đời trước đã viết gì về sự tương quan giữa Thiên chúa và thân phận con người. Để mở rộng tầm kiến thức ông đã học tiếng La-tinh với một học giả người Hoà-lan. Học giả này
là một người thuộc phái đối lập và bị xử tử năm 1674, để lại một đứa
con gái đẹp làm rung động trái tim của Spinoza. Cuộc tình duyên này bất
thành vì người đẹp của Spinoza ôm cầm sang thuyền khác. Từ đó Spinoza
trở thành một triết gia.
Tuy nhiên ông vẫn cố gắng học tiếng La-tinh và nghiên cứu tư tưởng của những tác giả thời Trung cổ. Ông học Socrate, Platon và Aristote, nhưng ông thích đọc Démocrites, Epicure, Lucrèce và những triết gia trong phái Socrate cũng đã ảnh hưởng sâu đậm đến ông. Ông bị ảnh hưởng của những tác giả này
đến nỗi ông dùng lại những danh từ của họ, những lối lý luận qua các
định nghĩa, định đề, kết luận, chứng minh, nguyên lý v.v... Ông nghiên
cứu tác giả Bruno,
một thanh niên cuồng tín đã đi khắp Âu châu và sau cùng đã bị thiêu
sống bởi phong trào chấn chỉnh tôn giáo. Bruno là người Ý, ông chủ
trương thuyết nhất thể. Theo ông thì vạn vật đều nhất thể trong nguồn
gốc, vật chất và tinh thần cũng là nhất thể. Vậy mục đích của triết lý là đi tìm sự nhất thể, đi tìm tinh thần trong vật chất và vật chất trong tinh thần, đi tìm sự tổng hợp để hoà giải
những mâu thuẫn, đi tìm nhất thể của vũ trụ. Chính những điểm ấy đem
người ta đến chỗ hiểu biết Thiên chúa. Những tư tưởng này có thể được
xem là nòng cốt của tư tưởng Spinoza.
Sau cùng và trên hết, Spinoza chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của Descartes, một triết gia
thiên về duy tâm chủ quan. Tư tưởng nòng cốt của Descartes là sự ưu thế
của ý thức, ông cho rằng chính tâm thức tự tìm kiếm để tự thấy vượt
trên tất cả những thực thể nào khác. Tâm thức ý thức được ngoại cảnh nhờ
tác động của ngoại cảnh vào tâm thức và tất cả triết học phải
bắt đầu và bắt nguồn từ tâm thức cá nhân. Do đó Descartes kết luận
rằng: "Tôi hiện hữu vì tôi đang suy nghĩ". Chủ nghĩa cá nhân của thời
phục hưng sống lại trong tư tưởng của Descartes và chính tư tưởng này sẽ
đem lại nhiều hậu quả trọng đại. Đây là khởi điểm của một ngành triết học nghiên cứu khả năng hiểu biết của con người mà những triết gia có tên tuổi như Leibnitz, Locke, Hume Berkeley và Kant đã tranh luận suốt ba thế kỷ.
Nhưng khía cạnh của triết học Descartes
trình bày trên đây không làm bận rộn Spinoza. Ông từ chối tranh luận về
khả năng hiểu biết của con người. Ông chú ý đến quan niệm Descartes về
sự đồng nhất của thể chất và tâm thức. Chính những quan niệm này kích
thích dòng tư tưởng của Spinoza. Điều làm Spinoza ưa thích trong tư
tưởng Descartes chính là sự cố gắng giảng giải vũ trụ bằng những định luật toán học và
cơ khí, sáng kiến này cũng là sáng kiến của Léonard và Galilée và là
cha đẻ của sự phát triển cơ khí kỹ nghệ trong các thành phố của Ý.
Descartes quan niệm rằng Thiên chúa đem lại sự sống và hoạt động của
toàn thể vũ trụ từ các tinh tú cho đến các sinh vật, tất cả những cử
động của tất cả sinh vật đều có thể được giảng giải
bằng những định luật cơ khí. Toàn thể vũ trụ cũng như toàn thể những
sinh vật, là những bộ máy. Descartes ngừng tại đây trong khi Spinoza đi
xa hơn.
3. Sự khai trừ khỏi giáo hội Do thái
Các giáo sĩ Do-thái bắt Spinoza trả lời những câu hỏi
sau: phải chăng ông tin và chủ trương rằng Thiên chúa có một hình hài,
phải chăng ông chủ trương rằng thiên thần chỉ có trong tình trạng mê
sảng, linh hồn chỉ là đời sống và cựu ước không nói gì đến sự bất tử của
linh hồn ?
Chúng ta không biết Spinoza trả lời như thế nào cho những câu hỏi
trên. Chúng ta chỉ biết giáo hội Do-thái bằng lòng trả cho ông một số
tiền nếu chịu phủ nhận những chủ trương có hại cho chủ trương của giáo
hội. Ông từ chối. Đến ngày 27.7.1656, ông bị khai trừ khỏi giáo hội
Do-thái. Buổi lễ khai trừ thật ảm đạm, vị giáo chủ xướng lên những lời
tố cáo nguyền rủa, tiếng kêu rên siết của cái tù và vang lên từng hồi,
ánh sáng trong giáo đường dần tắt và khi buổi lễ chấm dứt, toàn thể giáo
đường chìm trong bóng tối tượng trưng cho sự ra đi của lý trí trong tâm
hồn người phản đạo.
Sau đây là nguyên văn của những lời tố cáo và nguyền rủa do vị giáo chủ đọc trong buổi lễ khai trừ:
"Các
giáo phẩm long trọng tuyên bố các ngài đã làm đủ mọi cách để lôi kéo
Spinoza về chánh đạo, song tất cả đều vô hiệu. Càng ngày các ngài càng
nhận thấy rằng đương sự đã phổ biến luận điệu sai lại một cách ngạo nghễ
và nhiều nhân chứng đã quả quyết biết rõ những việc làm này. Do đó hội
đồng giáo phẩm quyết định khai trừ Baruch Spinoza khỏi tập thể của những
người Do-thái.
Với sự phán xét của các
thiên thần và các Thánh, trước những Thánh kinh ghi chú 613 điều răn
dạy, chúng tôi nguyền rủa đương sự với tất cả điều nguyền rủa ghi trong
kinh luật. Đương sự sẽ bị nguyền rủa ban ngày cũng như ban đêm, khi ngồi
khi đứng cũng như khi nằm, khi đi cũng như khi lại. Xin Thượng đế đừng
bao giờ tha thứ và chấp nhận đương sự. Xin Thượng đế ra uy với đương sự,
bắt buộc đương sự phải chịu tất cả những nguyền rủa ghi trong kinh luật
và bôi tên đương sự dưới vòm trời. Xin Thượng đế loại trừ đương sự khỏi
sự che chở của ngài và bắt đương sự phải gánh chịu tất cả những lời
nguyền rủa trong vũ trụ.
Kể từ hôm nay chúng tôi cấm những người Do-thái ngoan đạo nói chuyện với y, giao dịch thư từ với y, giúp y và sống chung với y. Không ai được đến gần y và không ai được đọc những tác phẩm hoặc chữ do y viết ra".
Chúng
ta không nên kết luận một cách vội vã về thái độ của hàng giáo phẩm Do
thái đối với trường hợp Spinoza vì chính họ cũng gặp một tình thế nan giải.
Lẽ cố nhiên ai cũng cho rằng hàng giáo phẩm Do-thái cũng hẹp hòi không
khác gì những kẻ đã trục xuất họ khỏi xứ Y-pha-nho. Tuy nhiên chính hàng
giáo phẩm này bắt buộc phải khai trừ Spinoza vì những tư tưởng ông có
hại đến tín ngưỡng của nhà cầm quyền xứ Hoà-lan, một xứ đã cho dân
Do-thái trú ngụ. Xứ Hoà-lan là một xứ theo giáo phái Tin lành. Vì sự
xung đột ý thức hệ, mỗi phái khư khư giữ chặt những giáo điều của mình
vì họ quan niệm rằng quá nhiều máu đã chảy ra để bênh vực cho các giáo
điều ấy. Chính quyền Hoà-lan sẽ nghĩ thế nào khi họ nhận thấy rằng những
kẻ ăn gởi nằm nhờ trên đất họ đã truyền bá những tư tưởng có hại cho
tín ngưỡng họ ? Mặt khác, sở dĩ nhóm người Do-thái có thể tồn tại là nhờ
họ đã bảo tồn được sự thống nhất của tập thể, nếu người Do-thái có một
lãnh thổ riêng, một bộ luật riêng, một lực lượng riêng, thì có lẽ họ sẽ
phóng khoáng hơn trong tư tưởng. Trên thực tế, người Do-thái xem sự
trung thành với giáo lý tương đương với sự trung thành với tổ quốc, và
các giáo đường là trung tâm của mọi hoạt động xã hội chính trị và tôn
giáo của người Do-thái. Những cuốn thánh kinh đối với người Do-thái là
cả một tổ quốc mà họ mang theo trên khắp cả nẻo đường lang thang, do đó
mọi việc phản kháng lại thánh kinh được xem là một sự tự sát của dân tộc
Do-thái. Chúng ta có thể nghĩ rằng giáo hội Do-thái nên xét xử Spinoza
một cách khoan hồng hơn, họ có thể kết tội Spinoza với những lời lẽ nhẹ
nhàng hơn để cho ông một hy vọng trở lại hoặc một hy vọng sống chung
trong cộng đồng Do-thái. Tuy nhiên, giáo chủ Do-thái vắng mặt trong lúc
giáo hội kết án Spinoza và định mệnh đã đẩy Spinoza khỏi cộng đồng
Do-thái-giáo.
4. Những ngày cuối cùng
Spinoza
chấp nhận sự khai trừ một cách can đảm, nhưng kể từ đây chàng trai
thanh niên này cảm thấy vô cùng cô đơn. Không có gì đáng sợ cho bằng cô
đơn, nhất là sự cô đơn của một người Do-thái bị bắt buộc phải tách rời
tập thể họ. Spinoza đã chịu mất tín ngưỡng mình và việc này đã để lại
nhiều vết thương trong tâm hồn ông. Nếu Spinoza sau khi bị khai trừ khỏi
giáo hội Do-thái, lại xin gia nhập một cộng đồng tôn giáo nào đó thì có
lẽ ông tìm lại được sự ổn định tâm hồn như một con cừu chen lấn giữa
một bầy cừu để sưởi ấm cho nhau, song Spinoza không gia nhập cộng đồng
nào khác mà cam chịu sự cô đơn. Thân phụ ông không nhìn nhận ông, người
chị của ông toan đoạt hết gia tài và bạn bè ông xa lánh ông. Do đó chúng
ta không lạ gì khi tìm thấy một Spinoza ê chề cay đắng. Ông viết như
sau:
"Những kẻ muốn tìm hiểu các hiện
tượng và chân lý, những kẻ không chịu nhìn đời với cặp mắt ngơ ngáo sẽ
bị xem là những kẻ thiếu đạo đức và bị kết án bởi những giáo chủ được
dân chúng tôn sùng. Những giáo chủ này biết rằng một khi vô minh đã được
dẹp tắt và sự ngơ ngáo đã bị loại trừ thì uy quyền họ chẳng còn gì nữa"
Một đêm, khi Spinoza đang đi
ngoài đường, ông bị một kẻ du đãng tấn công. Spinoza chạy thoát sau khi
nhận một nhát dao ở cổ. Nhận thấy rằng đời sống trong thành phố quá
nguy hiểm, ông dọn ra ngoại ô và sống trên lầu tại một căn nhà yên tĩnh.
Ông đổi tên là Benedict thay vì Baruch. Ông tiếp những bạn thân Thiên
chúa giáo thuộc phái Mnémonite. Những người này thích bộ mặt hiền hậu và
buồn bã của ông và rất hoan hỉ đàm đạo với ông trong những buổi chiều
nhàn rỗi. Spinoza kiếm tiền bằng cách dạy học và sau đó bằng cách mài kiếng. Ông đã học nghệ
thuật mài kiếng khi còn ở trong cộng đồng Do-thái vì giáo hội chủ
trương mỗi người nên biết một nghề tay chân. Chẳng những số lợi tức của
một văn nhân hay triết gia không đủ nuôi sống, mà sự hành nghề tay chân còn làm cho con người trở nên đạo đức. Những kẻ chuyên chú vào văn chương hoặc triết lý mà không có một nghề tay chân không chóng thì chầy, sẽ trở nên những kẻ mất bình thường, đó là quan niệm của triết gia Gamaliel.
Năm
1660 chủ nhà của Spinoza đổi đi nơi khác gần Leiden và Spinoza cuốn gói
theo ông ta. Căn nhà ấy hiện vẫn còn và con đường trước mặt nay là
đường Spinoza. Ở đó ông sống yên tĩnh và suy tư rất nhiều. Nhiều khi ông
ở lại luôn trong phòng hai hoặc ba ngày liên tiếp không tiếp ai và dùng
bữa ngay tại phòng. Mặc dù ông mài kiếng rất giỏi, ông vẫn dành hết thì
giờ vào sự nghiên cứu triết lý.
Một kẻ đã chứng kiến đời sống của ông đã viết lại như sau: "Ông tính
toán sổ sách rất kỹ lưỡng, để làm sao chi tiêu không quá mức lợi tức
kiếm được". Ông thường ví mình như con rắn tự cắn cái đuôi nghĩa là cốt
làm sao vừa đủ sống. Mặc dù sống thanh đạm, đời sống ông vẫn hạnh phúc.
Nhiều người bạn khuyên ông nên từ bỏ sự tìm chân lý, ông trả lời: "Tôi
tìm chân lý cũng như người hái trái cây, dù cho những trái cây tôi hái
được không có giá trị gì, tôi vẫn cảm thấy sung sướng và sống những ngày
vui vẻ yên tĩnh". Người ta cho rằng: "Nếu Napoléon cũng thông minh như
Spinoza, có lẽ ông sẽ ở nhà viết sách hơn là dấn thân vào vòng danh
lợi".
Người ta mô tả hình
dáng Spinoza như sau: "Ông là người tầm thước, mặt mày hiền lành, da
ngăm đen, tóc sẫm và quăn, lông mày dài và đen. Mới xem qua ai cũng biết
ông thuộc dòng dõi những người Do thái gốc Bồ-đào-nha. Ông không để ý
đến áo quần và trông như một người nghèo khổ. Một công chức đến gặp ông,
lúc ấy ông đang mặc bộ đồ buổi sáng nhàu nát. Công chức này trách ông
không ăn mặc chỉnh tề và biếu ông một bộ quần áo mới. Spinoza trả lời
rằng, những vật vô giá trị dù được gói trong gấm vóc quí giá cũng không
ích gì. Tuy nhiên cũng có lúc Spinoza viết: "Một lối ăn ở bê bối không
đủ để làm cho chúng ta trở thành triết gia, trái lại nó chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn không xứng đáng là nơi chứa đựng chân lý. Khoa học không thể đi đôi với sự bê bối".
Trong
5 năm ở Rhynsburg, Spinoza viết một cuốn sách nhỏ nhan đề Sự tiến triển
của tri thức (De Intellectus Emendatione) và một cuốn sách khác nhan đề
Sự chứng minh đạo đức bằng phương pháp hình học, cuốn sau được hoàn thành vào năm 1665 nhưng Spinoza để 10 năm không chịu xuất bản. Năm 1668 một tác giả khác
là Koerbagh bị kết án 10 năm cấm cố vì đã công bố những tư tưởng giống
tư tưởng Spinoza. Sau khi ở tù được 18 tháng ông chết trong ngục. Năm
1675 Spinoza đi Amsterdam và định xuất bản tác phẩm ông. Người ta đồn
rằng, chủ ý ông là muốn chứng minh rằng không có thượng đế. Nhiều giáo
sĩ nhân cơ hội này đã đệ đơn kiện Spinoza với nhà vua. Những tin đồn này
khiến Spinoza không dám xuất bản quyển sách.
Năm 1677 nghĩa là khi Spinoza qua đời, cuốn Đạo đức học mới
được xuất bản cùng với một tác phẩm về chính trị. Tất cả những tác phẩm
đều viết bằng tiếng La-tinh. Năm 1852 người ta tìm thấy một bản thảo
nhan đề Luận về Thiên chúa và người, viết bằng tiếng Hoà-lan. Lúc sinh
tiền, Spinoza chỉ xuất bản được hai cuốn sách, đó là cuốn Căn bản của triết học Descartes
xuất bản năm 1663 và Luận về tôn giáo và quốc gia xuất bản năm 1670.
Cuốn này bị giáo hội cấm nhưng nó vẫn được phổ biến một cách lén lút
dưới những đầu đề nguỵ trang. Người ta viết rất nhiều sách khác để chống
Spinoza, nhiều người cho rằng Spinoza là một kẻ vô thần nguy hiểm.
Những cuốn sách chống lại Spinoza được ca tụng như những tác phẩm bất
hủ. Thêm vào đó nhiều bạn cũ của Spinoza viết thư khuyên ông nên phản
tỉnh. Họ viết như sau: "Ông cho rằng ông đã tìm ra nền triết học đích thực, làm sao ông biết được nền triết học của ông là hơn tất cả các loại triết học từ xưa đến nay và trong tương lai ? Ông đã đọc hết tất cả các nền triết học của cả thế giới từ cổ chí kim chưa ? Và giả sử ông đọc rồi đi nữa, làm sao ông lựa chọn được nền triết học trung thực nhất ? Làm sao ông dám tự cho mình đứng trên tất cả các giáo chủ, các thánh tử đạo, các học giả uyên thâm của giáo hội ? Ông chỉ là một sâu bọ trên quả đất, chỉ là cát bụi, làm sao ông dám đương đầu với những học thuyết
bất diệt ? Ông căn cứ vào đâu mà dám tung ra một lý thuyết mơ hồ và
thiếu lành mạnh như vậy ? Tại sao ông dám phê phán những sự huyền bí mà
chính giáo hội Thiên chúa giáo cũng xem là không thể giải
thích ?" Spinoza trả lời như sau: "Những kẻ tự cho mình đã tìm thấy tôn
giáo tốt nhất và tin tưởng vào những giáo chủ mà họ cho là vô địch, làm
sao những kẻ ấy có thể biết rằng những giáo chủ ấy là vô địch trong quá
khứ, trong hiện tại cũng như trong tương lai ? Họ đã nghiên cứu tất cả
các tôn giáo trên tất cả các nước, trong tất cả các thời đại chưa ? Và
dù cho họ đã nghiên cứu tất cả, làm sao họ biết rằng mình đã chọn được
tôn giáo tốt nhất ? ". Chúng ta thấy rằng con người có vẻ hiền lành như
Spinoza cũng dám trả lời một cách dứt khoát khi cần. Bên cạnh những lá
thư nguyền rủa cũng có nhiều lá thư khuyến khích, những lá thư khuyến
khích đáng chú ý nhất là của Henry Oldenburg, bí thư của một nhóm văn học nổi tiếng tại Anh quốc; Von Tschirnhaus, một nhà sáng chế thuộc dòng quý tộc người Đức; Huygens một nhà khoa học Hoà-lan;
Leibnitz một danh nhân đã đến thăm Spinoza vào năm 1676; Louis Meyer
một bác sĩ Hoà-lan và Simon de Vries một thương gia giàu có ở Amsterdam.
Ông này hâm mộ Spinoza đến nỗi xin Spinoza nhận một số tiền lớn.
Spinoza từ chối. De Vries viết một tờ di chúc nguyện hiến dâng tất cả
gia tài cho Spinoza, Spinoza từ chối một lần nữa và khuyên De Vries nên
để gia tài lại cho người anh. Khi De Vries chết, ông còn cấp cho Spinoza
một số tiền hàng năm. Spinoza không thể từ chối nhưng ông chỉ nhận một
số ít. Ông nói: "Nếu sống theo thiên nhiên nhu cầu con người rất ít ỏi".
Một người bạn khác có nhiều thế lực cũng đã cung cấp cho Spinoza những
món tiền hàng năm. Sau cùng vua Louis 14 của nước Pháp cũng định cấp cho
Spinoza một số tiền hàng năm với điều kiện rằng ông phải viết tặng nhà
vua một cuốn sách. Spinoza từ chối một cách nhã nhặn.
Để
làm vừa lòng các bạn bè và những người ái mộ, Spinoza dọn đến ở ngoại ô
La Hague năm 1665 và đến năm 1670 ông dọn vào châu thành. Trong những
năm này ông kết bạn rất thân với Jan de Witt. Khi anh em De Witt bị dân
chúng sát hại ngoài đường vì bị nghi oan là đã gây nên sự thảm bại của
quân đội Hoà-lan trong trận chiến tranh Hoà-Pháp năm 1672, Spinoza rất
đau đớn và ông đã mạnh dạn tố cáo những kẻ sát nhân bất chấp những nguy
hiểm đang đe doạ. Sau đó công tước De Condé tổng tư lệnh đội viễn chinh
Pháp đã mời Spinoza đến tổng hành dinh. Spinoza đã nhận lời mời. Việc
này bị xem là một sự phản bội, người ta đã cho rằng Spinoza đã kết thân
với quân xâm lược Pháp. Chính người bạn Spinoza cũng sợ rằng dân chúng
sẽ đến phá nhà để hỏi tội. Spinoza nói rằng: "Nếu dân chúng đến đây và
đe doạ căn nhà này, tôi sẽ đến trước mặt họ và nhận lãnh tất cả các
trách nhiệm, nếu có bị giết tôi vẫn cam lòng". Sau khi dân chúng hiểu
rằng Spinoza đến gặp De Condé chỉ vì một lý do văn chương triết học, họ không còn làm dữ nữa.
Những
biến cố trên cho chúng ta thấy rằng cuộc đời của Spinoza không phải là
một cuộc đời hẩm hiu cô độc như nhiều người lầm tưởng. Ông có đủ tiền để
tiêu xài, ông có những người bạn quyền thế và tận tâm, ông tham gia
những vấn đề chính trị đương thời và nhiều khi đã suýt chết. Ông đã
thành công, mặc dù bị khai trừ và cấm đoán. Năm 1673 ông được mời dạy ở
Đại học Heidelberg. Người ta hứa với ông rằng ông sẽ được dành một sự tự do rộng rãi trong việc dạy triết học, chỉ xin ông đừng động chạm đến những vấn đề tôn giáo. Spinoza trả lời như sau: "Thưa Ngài, nếu ý nguyện của tôi là giảng dạy trong một viện đại học,
thì lẽ tất nhiên tôi sẽ rất hân hạnh để nhận chức vụ giao phó. Hơn nữa
Ngài còn có nhã ý cho tôi được hoàn toàn tự do trong việc giảng dạy triết học.
Nhưng tôi không hiểu tôi phải làm thế nào để khỏi động chạm đến những
giáo điều của quốc gia. Do đó xin Ngài biết cho rằng tôi thực tình không
tham muốn gì hơn là thân phận hiện tại của tôi và muốn có sự thanh tịnh
như hiện nay, tôi nhận thấy cần phải từ chối chức vụ một giáo sư đại học".
Đến
năm 1677 Spinoza mới được 44 tuổi nhưng sức khoẻ của ông có phần sút
kém. Ông không được cha mẹ để lại một sức khoẻ dồi dào và nếp sống suốt
ngày trong phòng đọc sách không giúp cho ông bồi bổ sức khoẻ. Ông thường
cảm thấy khó thở và hai lá phổi của ông càng ngày càng suy yếu. Ông
chấp nhận số mệnh một cách can đảm nhưng chỉ sợ rằng ông không còn đủ
thì giờ để hoàn thành những tác phẩm hoặc người ta sẽ thiêu huỷ những
tác phẩm mà ông đã hoàn thành sau khi ông chết. Ông cất những bản thảo
vào một cái rương nhỏ, giao chìa khoá rương cho người chủ nhà và dặn
rằng nếu ông chết bất ngờ thì phải giao rương này cho một nhà xuất bản
tín cẩn ở Amsterdam.
Một buổi
sáng chủ nhật ngày 20.02.1677 người chủ nhà cùng gia đình đi xem lễ,
Spinoza cảm thấy khó chịu nhưng ông tin rằng sẽ không đến nỗi nguy hiểm.
Chỉ có một người bạn ngồi ở nhà cùng Spinoza. Khi gia đình người chủ
nhà trở về thì Spinoza đã chết trong tay người bạn. Rất nhiều người
thương tiếc ông, những người tầm thường thương tiếc ông vì tính tình giản dị của ông, những học giả thương
tiếc ông vì sự thông thái của ông. Giới trí thức, công chức và dân
chúng đi đưa đám ông rất đông, trong đó gồm nhiều người có nhiều tín
ngưỡng khác nhau.
II. LUẬN VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
Chúng
tôi sẽ trình bày những ý chính trong các tác phẩm của Spinoza theo thứ
tự thời gian soạn thảo. Cuốn Luận về tôn giáo và chính trị đối với chúng
ta ngày nay có vẻ không có gì đặc sắc chính vì những ý kiến táo bạo mà
Spinoza đưa ra đã được đáp ứng trên toàn thế giới. Và cho đến ngày nay
chúng đã thành sự thật hiển nhiên. Dây cũng là một nhận xét chung cho
tất cả các triết gia
đã trình bày một lập trường quá dứt khoát và quá rõ ràng minh bạch.
Chẳng bao lâu, những lập trường ấy trở thành tài sản chung của nhân loại
và trở nên gần như những sự thật hiển nhiên. Đây cũng là trường hợp của
Voltaire.
Trong tác
phẩm kể trên, Spinoza viết rằng các thánh tông đồ đã dùng một lối văn
gồm có nhiều điển tích, một là để có cơ hội trình bày các chân lý một
cách hoa mỹ, hai là để khỏi động trí tưởng tượng. Họ phải điều chỉnh tư
tưởng cho đúng với trình độ và căn cơ của dân chúng. Thánh kinh được
soạn thảo cho toàn thể nhân loại, do đó phải thích hợp với trình độ của
quảng đại quần chúng. Các tác giả không đưa ra những lý thuyết mà chỉ kể lại những câu chuyện khả dĩ ảnh hưởng đến trí tưởng tượng của những người ít học.
Ít khi người ta kêu gọi đến lý trí, người ta chỉ kêu gọi đến trí tưởng
tượng. Vì những lẽ trên, có rất nhiều phép lạ và rất nhiều lần Thiên
chúa xuất hiện trong thánh kinh. Quần chúng tưởng rằng quyền lực của
Thiên chúa và lòng quảng đại của ngài được thể hiện một cách hùng hồn
nhất trong những biến cố phi thường hoàn toàn khác với những điều tai
nghe mắt thấy hàng ngày. Quần chúng tưởng rằng Thiên chúa không hoạt
động khi mọi việc xảy ra một cách bình thường. Họ quan niệm hai quyền
lực hoàn toàn khác nhau: quyền lực của Thiên chúa và quyền lực của thiên
nhiên. Sự thật thì hai quyền lực ấy chỉ là một. Người ta thích tưởng
tượng rằng Thiên chúa phá vỡ những định luật thiên nhiên để giúp đỡ họ,
người Do-thái tin rằng Thiên chúa đã làm cho ngày dài hơn để nâng đỡ dân
Do-thái. Tất cả những dân tộc khác đều có những tín ngưỡng như vậy.
Những lời nói giản
dị không lôi kéo tâm hồn. Nếu người ta nói rằng ngọn gió phía tây đã
làm cho nước biển Hồng hải rút lui và cho phép đoàn quân của Moise đi
qua, dân chúng sẽ không mấy cảm động. Họ sẽ cảm động hơn khi nói rằng
chính Thiên chúa đã làm khô nước biển và giúp cho Moise và đoàn quân của
ông đi qua. Do đó những phép mầu rất cần thiết để ảnh hưởng đến sự hiểu
biết của dân chúng. Những người sáng lập tôn giáo dùng những lối hành
văn bóng bẩy có thể làm cho dân chúng tin tưởng hơn tin tưởng những triết gia hoặc những nhà khoa học.
Nếu
hiểu như vậy thì Thánh kinh không đi ngược với lẽ phải. Nếu hiểu một
cách chặt chẽ hơn thì Thánh kinh đầy rẫy những sự mâu thuẫn, mê tín, dị
đoan. Sau này, khi tìm cách diễn giảng những điển tích trong Thánh kinh người ta mới đoán được một phần nào những chân lý. Chính nhờ những sự diễn giảng
ấy mà các chân lý trong Thánh kinh càng ngày càng phong phú. Dân chúng
luôn luôn đòi hỏi một giáo lý được trình bày trong một văn thể hoa mỹ
đầy rẫy những phép lạ. Họ sẽ tạo nên những huyền thoại nếu trong giáo lý
chưa có những huyền thoại ấy. Đối với triết gia thì Thiên chúa và Thiên nhiên chỉ là một, tất cả những định luật bất di bất dịch của
thiên nhiên đều là những định luật của Thiên chúa. Nếu trong Thánh
kinh, người ta hình dung Thiên chúa như một đấng Toàn năng đầy vị tha
bác ái, đó là vì người ta muốn khêu gợi tưởng tượng của dân chúng; sự
thật thì tất cả những chân lý, tất cả những định luật thiên nhiên, đều
là những định luật của Thiên chúa.
Spinoza
không phân biệt Tân ước và Cựu ước. Ông xem Thiên chúa giáo và Do thái
giáo là một. Khi người ta gạt ra ngoài những sự hiềm khích, những sự
hiểu lầm để tìm căn bản của hai tín ngưỡng đối lập ấy, người ta sẽ thấy
rằng trong căn bản, hai tín ngưỡng ấy không khác nhau là bao. Những kẻ
tự cho mình là những người theo Thiên chúa giáo, một tôn giáo đã đề cao
tình thương, lòng nhân từ, sự hoà bình, tính tiết độ mà lại tỏ ra hiềm
khích, ganh ghét, hiếu chiến đối với những tôn giáo khác là một sự mâu
thuẫn. Tập thể Do thái đã tồn tại vì những người Thiên chúa giáo thù
ghét họ. Càng bị kỳ thị, họ càng đoàn kết. Nếu không có sự kỳ thị, có lẽ
họ đã kết hôn với những dân tộc khác và dân dần hoà mình trong cộng
đồng xã hội. Trên bình diện triết lý, không có gì ngăn trở những người Do thái và những người theo Thiên chúa giáo sống chung hoà bình với nhau.
Bước đầu tiên để đi đến sự hoà giải
ấy là tìm hiểu Chúa cứu thế một cách rõ ràng hơn. Nếu loại bỏ những lý
do hiềm khích, người Do thái sẽ nhận thấy rằng Chúa cứu thế là một đấng
tiên tri cao cả nhất. Spinoza không công nhận nguồn gốc thiêng liêng của
Chúa cứu thế. Ông công nhận rằng Chúa cứu thế chỉ là một người, nhưng
là một người cao cả nhất trong những người khác. Sự toàn thiện toàn mỹ
của Thiên chúa được thể hiện trong tất cả mọi vật, trong tất cả mọi
người và nhất là trong Chúa cứu thế Giê-su chẳng những dạy cho người Do
thái mà còn dạy cho toàn thể nhân loại. Do đó ông dùng những lời lẽ giản
dị, bóng bẩy để tất cả mọi người đều hiểu. Ông dùng nhiều nhất là các
điển tích. Spinoza cho rằng đạo giáo của chúa Giê-su phù hợp với những
khôn ngoan thông thường. Khi suy tôn Chúa Giê-su tức là người ta đã suy
tôn Thiên chúa. Nếu không có những giáo điều chật hẹp, thiển cận gây nên
những sự hiềm khích thì toàn thể nhân loại có lẽ đã theo về với Giê-su
và chấm dứt những cuộc chiến tranh trên bình diện ý thức cũng như trên
bình diện vũ khí. Có lẽ nhân loại đã tìm lại sự thống nhất trong tín
ngưỡng và trong tình huynh đệ.
III. SỰ CẢI TIẾN TRÍ NĂNG
Đây là đầu đề của tác phẩm thứ hai của Spinoza. Tác giả giảng giải vì sao ông đã từ bỏ tất cả để chuyên nghiên cứu triết lý:
Kinh
nghiệm cho ta thấy rằng tất cả những sự vật trên cõi đời này đều vô
thường. Khi tôi thấy rằng tất cả những sự vật không có gì tốt hoặc xấu
tự bản chất chúng, tôi muốn tìm hiểu thử xem trên đời này có cái gì được
xem là thật sự tốt và có thể truyền đạt đức tính ấy cho mọi người, làm
cho tâm trí say mê đến nỗi loại bỏ tất cả những sự vật khác, tôi quyết
tâm tìm xem có thể nào đạt được một trạng thái hạnh phúc hoàn toàn và
lâu bền. Tôi có thể thấy những điều lợi do tiền bạc và danh vọng mang
lại, nhưng càng có nhiều tiền bạc và danh vọng, người ta càng vui thích
và do đó con người luôn luôn tìm cách kiếm thêm tiền bạc và danh vọng.
Nếu vì một lẽ gì công cuộc ấy không thành tựu con người sẽ đau khổ ê
chề. Danh vọng cũng có nhiều sự bất tiện. Con người đeo đuổi danh vọng
phải luôn luôn làm vừa lòng mọi người và tuyệt đối tránh những cử chỉ
không phù hợp với nhãn quan của người khác. Chỉ có sự yêu thích những
cái gì vô tận mới đem đến cho tâm trí những khoái cảm hoàn toàn trong
sạch nghĩa là không nhuốm khổ đau. Không có gì quan trọng bằng tìm hiểu
mối liên hệ giữa tâm trí con người và toàn thể vũ trụ. Càng tìm hiểu con
người càng nhận thức được những năng lực của chính mình và trật tự của
thiên nhiên. Càng nhận thức được những năng lực của chính mình, con
người càng có thể kiếm ra những định luật cho chính mình. Càng nhận thức
được trật tự của thiên nhiên, con người càng tự giải thoát khỏi những công việc vô ích, đó là toàn thể phương pháp của tôi.
Chính sự hiểu biết tạo nên quyền lực và giải thoát. Và hạnh phúc trường cửu chính là sự hiểu biết. Tuy nhiên, triết gia
phải hoà mình trong cuộc sống với người khác. Họ phải sống thế nào
trong khi đi tìm chân lý ? Spinoza đã đặt ra những lề lối cư xử và ông
đã tuân theo những lề lối ấy trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của ông:
1. Phải nói chuyện với người khác một cách giản dị dễ hiểu và giúp đỡ họ trong mọi điều không làm hại đến chí hướng của ta.
2. Chỉ đi tìm những khoái lạc cần cho sự giữ gìn sức khoẻ.
3.
Chỉ kiếm tiền vừa phải để sinh sống và giữ gìn sức khoẻ, đồng thời tuân
theo tất cả những tập tục không trái ngược với chí hướng của ta.
Trong khi đi tìm chân lý triết gia có thể tự đặt câu hỏi:
làm sao biết chân lý của tôi đích thực là chân lý ? làm sao tin tưởng
được những tín hiệu của giác quan ? Tâm trí của con người không khác gì
chiếc xe, trước khi lên xe để nó chở mình đi, cần phải xem lại chiếc xe
như thế nào và phải làm đủ mọi cách để sửa sang chiếc xe cho hoàn toàn.
Nói một cách khác chúng ta cần phải phân biệt những sự hiểu biết khác
nhau và chỉ đi tìm sự hiểu biết chân chính.
Trước
hết, chúng ta có những sự hiểu biết bằng cách nghe những người khác kể
lại, ví dụ: tôi biết ngày sinh của tôi. Thứ hai là những sự hiểu biết mơ
hồ căn cứ trên một vài kinh nghiệm, ví dụ : một y sĩ biết một thứ thuốc
có thể trị được một loại bệnh. Thứ ba, sự hiểu biết bằng suy luận, ví
dụ: tôi hiểu biết mặt trời rất lớn bằng cách suy luận dựa theo khoảng
cách giữa mặt trời và trái đất hoặc sức nóng của mặt trời trên trái đất.
Loại hiểu biết thứ ba này hơn hẳn hai loại trước, nhưng một đôi khi
cũng dễ nhầm lẫn. Do đó loại biết tốt nhất là loại biết trực tiếp, ví
dụ: toàn thể lớn hơn một phần. Spinoza tin tưởng rằng sự hiểu biết về
toán học là một sự hiểu biết trực tiếp và ông còn cho rằng những sự hiểu biết trực tiếp rất ít so với những hiểu biết khác.
Trong cuốn Đạo đức học,
Spinoza gom loại hiểu biết số (1) và (2) thành một loại duy nhất và xem
sự hiểu biết bằng trực giác như là một sự hiểu biết có tính cách trường
cửu. Ông cho rằng triết học là một khoa học căn
cứ trên trực giác. Ông phân biệt thế giới của các sự vật và các sự
kiện, thế giới này không có tính cách trường tồn trong khi thế giới của
các dịnh luật có tính trường tồn.
IV. ĐẠO ĐỨC HỌC
Đây là một tác phẩm vô cùng quí giá, trong đó Spinoza lần đầu tiên đem phương pháp toán học để nghiên cứu và giảng giải các vấn đề thuộc lãnh vực đạo đức. Sự cố gắng của Spinoza thật đáng khen. Tuy nhiên cần công nhận cuốn Đạo đức học rất khó hiểu. Trước Spinoza, Descartes cũng đã tin tưởng phương pháp toán học có thể áp dụng trong lãnh vực triết học nhưng Descartes chưa bao giờ thực hiện ý định này. Việc áp dụng phương pháp toán học vào khoa học đã được các khoa học gia như Copernic, Képler và Galilée, những công trình của các vị này khuyến khích Spinoza áp dụng phương pháp toán học trong triết học.
Spinoza đã dùng những định đề, định luật, nguyên lý chứng minh... rất
nhiều trong tác phẩm ông và người đọc có cảm tưởng như mình đang đánh
một ván cờ với các tướng sĩ tượng xe pháo mã tốt. Có lẽ rằng trong những
ngày dài cô đơn trong phòng đọc sách Spinoza đã sáng chế ra trò chơi
này để giết thì giờ. Đối với phần đông chúng ta, vấn đề nghiên cứu triết học cần
nhiều tưởng tượng hơn là lý luận, kết quả là một mớ kiến thức lộn xộn
không ăn khớp với nhau. Spinoza muốn đi ngược lại khuynh hướng này, hệ
thống hoá và thống nhất hoá tất cả các tư tưởng. Ông muốn đi tìm một
chân lý minh bạch khô khan hơn là tìm những tư tưởng bóng bẩy dưới một
văn thể hoa mỹ. Tác phẩm của ông là một tác phẩm của một kiến trúc sư cổ
điển với những đường thẳng song song cân đối. Tác phẩm được viết bằng
tiếng La tinh, do đó việc dịch thuật
gặp nhiều trở ngại vì có những ý niệm rất minh bạch khi diễn tả bằng
tiếng La tinh mà lại không rõ ràng khi phải diễn tả bằng một thứ tiếng
khác. Nói tóm lại, tác phẩm của Spinoza không phải để đọc mà để nghiên
cứu học hỏi. Phải đọc nó như khi ta đọc một cuốn sách toán học và
đừng quên rằng tác phẩm với 200 trang ngắn ngủi đó là kết quả của một
đời suy tư. Chúng ta cần phải đi từng bước một, không một chi tiết nào
có thể bỏ qua vì chúng ta sẽ không thể hiểu những ý niệm trình bày ở sau
nếu chưa thông suốt được những ý niệm đã trình bày ở trước. Một vài ý
niệm có vẻ không quan trọng lại có thể là những ý niệm then chốt. Mặt
khác, chúng ta sẽ không thể thưởng thức những ý niệm lẻ loi trước khi
chúng ta đã thông suốt toàn bộ tác phẩm. Chính Spinoza cũng khuyên các
độc giả nên
đọc tác phẩm của ông một cách thận trọng, không nên đọc suốt một lần mà
chỉ nên tiến theo từng giai đoạn nhỏ. Khi đã đọc xong toàn thể tác
phẩm, chúng ta sẽ có cảm giác thích thú là chúng ta vừa mới bắt đầu hiểu
tác phẩm. Ngoài ra, các bạn nên đọc một vài bài bình luận trứ danh viết
về Spinoza rồi trở lại đọc tác phẩm Spinoza một lần nữa. Các bạn sẽ
thấy rằng tác phẩm ấy sẽ đem lại cho các bạn nhiều nguồn ánh sáng mới,
và sau đó các bạn sẽ trở thành một người say mê triết học.
1. Bản thể của Thiên chúa
Bắt
đầu tác phẩm là một thiên trường luận siêu hình. Phần đông chúng ta rất
sợ những vấn đề siêu hình nhưng nghĩ cho cùng thì, như William James đã
nói, siêu hình học chỉ
là một cố gắng tìm hiểu sự vật trong bản thể tối hậu của chúng và do
đó, thống nhất hoá các tư tưởng để đi đến một chân lý toàn vẹn nhất.
Ngay cả khoa học, mới xem qua có vẻ không dính dấp gì đến các vấn đề sieu hình, nhưng nếu nghiên cứu tường tận hơn thì khoa học cũng bắt nguồn từ những vấn đề siêu hình.
Spinoza
cho rằng tất cả hiện tượng hoặc các sự vật đều do một bản thể. Bản thể ở
đây phải hiểu theo một nghĩa rộng, đó là cái bản thể trường cửu và bất
biến. Nếu chưa đạt được bản thể trường cửu và bất biến ấy chúng ta chỉ
mới đề cập đến các hiện tượng mà thôi. Hình như Spinoza dùng chữ bản thể
để nói đến cái nguyên lý trường cửu của vũ trụ. Cũng có đoạn Spinoza
gom góp ba ý niệm: bản thể, thiên thể và Thiên chúa là một. Spinoza quan
niệm thiên nhiên là mầm sống và quan niệm này đã được Bergson khai
triển. Cũng có lúc Spinoza dùng tiếng "thiên nhiên" để chỉ những cái gì
đã được tạo thành như rừng cây, sông núi, đồng ruộng v.v... Khi Spinoza
viết rằng thiên nhiên là Thiên chúa, ông muốn nói đến cái quan niệm
thiên nhiên sinh thành vạn vật chứ không phải là cái thiên nhiên đã được
tạo thành. Quan niệm bản thể của Spinoza chính là một quan niệm siêu
hình, nó không phải là vật chất, nó tạo ra vật chất.
Spinoza
nói rằng bản thể của vũ trụ là Thiên chúa. Danh từ bản thể này không
nên hiểu là thế giới vật chất. Những định luật bất biến của vũ trụ và
những ý muốn của Thiên chúa chỉ là một. Những định luật này tuyệt đối
bất biến trong không gian và thời gian, không khác gì những định luật
toán học.
Vũ trụ không khác gì một công trình kiến trúc vĩ đại. Sở dĩ công trình
này đứng vững là nhờ những định luật quy định sự tương quan giữa những
phần này và phần khác. Một cái cầu bắc qua một con sông dài sẽ không thể
đứng vững nếu không theo những định luật căn bản về kiến trúc. Vũ trụ
cũng đứng vững không khác gì cái cầu kia nhờ những định luật của Thiên
chúa. Tất cả những hiện tượng chỉ là những diễn biến theo một quá trình
đã ấn định. Sự hiện diện của Thiên chúa thật rõ ràng qua những hiện
trạng ấy. Chúng ta không nên quan niệm Thiên chúa là một kẻ độc tài muốn
thay đổi ý định lúc nào cũng được. Descartes xem cuộc sống chỉ là những
tác động máy móc, Spinoza xem Thiên chúa và tâm linh cũng chỉ là những
tác động máy móc. Vũ trụ của Spinoza là một vũ trụ xác định. Chúng ta
thường có những thói quen suy nghĩ rằng tất cả những hành động của chúng
ta đều do một mục đích hoặc một ý định nào đó. Chúng ta đem ý tưởng này
gán cho vũ trụ và tạo nên một Thiên chúa theo hình ảnh của chúng ta. Do
đó chúng ta gặp phải một trở ngại không thể giải quyết khi muốn giảng giải
sự có mặt của điều ác trên trái đất này. Chúng ta không thể quan niệm
một Thiên chúa toàn thiện tòan năng lại để cho các điều ác tồn tại. Sự
thật thì Thiên chúa đứng trên các điều thiện và điều ác của chúng ta.
Thiện hay ác chỉ là những quan niệm của những cá nhân nhỏ bé, nó hoàn
toàn không có một ý nghĩa gì trong vũ trụ khách quan. Đối với vũ trụ ấy
thì lịch sử của loài người không khác gì những chữ viết trên mặt nước.
Có những sự việc mà chúng ta cho là ác, sự thật thì không có gì là ác
với vũ trụ. Mặt khác có những sự việc lúc thì thiện lúc thì ác, lúc thì
không thiện không ác tuỳ theo trường hợp. Một bản nhạc có thể là thiện
đối với người này, ác đối với người khác và không thiện không ác đối với
người đã chết.
Quan niệm
về đẹp và xấu cũng không khác gì quan niệm thiện ác kể trên. Đó chỉ là
những quan niện chủ quan: Cái gì hợp với chúng ta, chúng ta cho là đẹp,
thiện. Cái gì không hợp với chúng ta chúng ta cho là xấu, ác. Spinoza đã
đi xa hơn Platon còn tin tưởng rằng cái đẹp là cái gì phù hợp với định
luật của Thiên chúa. Spinoza còn chỉ trích ý niệm cho rằng Thiên chúa là
một người. Ông tự hỏi tại sao lại nói rằng Thiên chúa là một người đàn
ông mà không nói Thiên chúa là một người đàn bà ? Ngay trong quan niệm
này, chúng ta đã thấy sự suy diễn cái ý niệm trọng nam khinh nữ của con
người vào lãnh vực siêu hình. Nếu cho rằng Thiên chúa là một người,
chẳng bao lâu chúng ta sẽ quan niệm rằng Thiên chúa sẽ có thể thấy được,
nghe được, quan sát được, mong muốn được vân vân. Spinoza kết luận rằng
một hình tam giác sẽ nói rằng Thiên chúa là một hình tam giác và một
vòng tròn sẽ bảo rằng Thiên chúa là một vòng tròn.
Spinoza
quan niệm rằng không thể gán cho Thiên chúa một ý chí như ý chí của con
người mà phải xem rằng ý chí của Thiên chúa là tất cả các nguyên lý và
định luật trong vũ trụ, do đó lý trí của Thiên chúa là tất cả lý trí
trong vũ trụ. Spinoza tin rằng tất cả các sự vật đều có một linh hồn.
Linh hồn và thể chất chỉ là hai khía cạnh của một vấn đề.
2. Vật chất và tâm thức.
Vật
chất là gì ? Tâm thức có phải là vật chất không, hoặc ngược lại thân
xác phải chăng chỉ là một hình ảnh của tâm thức ? Sự suy nghĩ là nguyên
do hay là kết quả của những diễn tiến trong bộ óc ? Phải chăng sự suy
nghĩ và những diễn tiến ấy hoàn toàn độc lập với nhau ? Spinoza trả lời
rằng tâm thức không phải là vật chất và vật chất cũng không phải là một
hình ảnh do tâm thức tạo nên. Các diễn tiến trong óc não không phải là
nguyên do mà cũng không phải là kết quả của sự suy nghĩ, các diễn tiến
ấy và sự suy nghĩ cũng không phải hoàn toàn độc lập đối với nhau. Diễn
tiến và suy nghĩ chỉ là một hiện tượng được nhìn dưới hai khía cạnh khác
nhau. Nếu ở trong nhìn ra, thì chúng ta cho đó là suy nghĩ, nếu ở ngoài
nhìn vào thì chúng ta cho đó là sự di chuyển của các dòng điện. Spinoza
còn đi xa hơn và cho rằng tâm thức và vật chất chỉ là một hiện tượng
nhìn dưới hai khía cạnh khác nhau. Tâm thức không thể ảnh hưởng đến tâm
thức vì cả hai chỉ là một. Thân xác không thể bắt tâm thức suy nghĩ, tâm
thức không thể bắt thân xác cử động hoặc nằm yên vì lẽ rất giản
dị rằng quyết định của tâm thức và sự cử động của thân xác chỉ là một.
Các hiện tượng khác của vũ trụ cũng đều có hai khía cạnh như vậy: một
khía cạnh ngoài mặt và một khía cạnh bên trong. Quan niệm này đã được
nhiều người Do thái tán đồng khi họ nói rằng trí năng Thiên chúa và
những sự vật do trí năng ấy tạo ra chỉ là một. Nếu tâm trí được hiểu
theo nghĩa rộng và được đồng hoá với toàn thể thần kinh hệ thì tất cả
những sự thay đổi trong thể xác đều phải kèm theo những sự thay đổi
trong tâm trí. Nếu ý nghĩ và những hiện tượng trong trí óc đều có liên
quan chặt chẽ với nhau thì tất cả những gì xảy đến cho thể xác đều được
trực nhận bởi tâm trí. Do đó những cảm xúc chỉ là hậu quả của những sự
thay đổi trong cơ thể, trong bộ máy tuần hoàn, bộ máy hô hấp hoặc bộ máy
tiêu hoá. Một môn phái tâm lý học ngày nay tin tưởng rằng ý nghĩ của con người có thể được phát hiện do những sự rung chuyển trong yết hầu.
Sau khi giải
thích sự tương quan giữa tâm trí và thể xác, Spinoza đề cập đến sự
tương quan giữa ý chí và lý trí. Ông cho rằng rất khó mà phân biệt thế
nào là ý chí, thế nào là lý trí, thế nào là sự tưởng tượng, thế nào là
trí nhớ. Tâm trí không phải là một bộ phận để sản xuất ra những ý nghĩ,
tâm trí và ý nghĩ chỉ là một. Nhiều ý nghĩ họp lại và người ta cho đó là
tâm trí, nhiều sự ham muốn họp lại và người ta cho đó là ý chí. Spinoza
kết luận rằng ý chí và tâm trí chỉ là một, vì ý chí chỉ là một ý nghĩ
có một mãnh lực đặc biệt và có thể biến thành hành động. Tất cả các ý
nghĩ đều có thể biến thành hành động nếu không bị ngăn trở bởi những ý
nghĩ khác. Ý nghĩ chỉ là bước đầu của một quá trình tư tưởng hành động.
Những ý chí chỉ là những sự tham muốn và tham muốn là đặc tính căn bản
của con người. Tham muốn có thể xem như là một bản năng. Chúng ta có thể
nhận thức được sự tham muốn trong khi chúng ta rất ít khi nhận thức
được bản năng. Spinoza cho rằng trong thế giới loài người, cũng như
trong thế giới loài vật, bản năng tự tồn có một sức mạnh vô biên.
Schopenhauer và Nietzsche cũng thấy rằng bản năng tự tồn và bản năng
bành trướng thế lực là hai bản năng cơ bản của con người. Tất cả những
bản năng đều nhằm mục đích kéo dài sự tồn tại của cá nhân hoặc của giòng
giống. Khoái lạc và đau khổ là hậu quả của sự thoả mãn hoặc không thoả
mãn của bản năng. Khoái lạc và đau khổ không phải là nguyên nhân của
lòng tham muốn, chúng nó là kết quả của lòng tham muốn. Chúng ta không
tham muốn những sự vật vì những sự vật ấy đem lại cho chúng ta nhiều
khoái cảm. Phải nói rằng những sự vật đem lại cho chúng ta nhiều khoái
cảm chỉ vì chúng ta tham muốn những sự vật ấy. Tại sao chúng ta tham
muốn ? Vì đó là bản năng của chúng ta.
Do
đó, tự do ý chí là một điều không thể có. Bản năng tự tồn quy định sự
tham muốn và sự tham muốn quy định sự suy luận, sự suy luận quy định
hành động. Các quyết định của con người chỉ là sự hiện diện của lòng ham
muốn. Trong tâm trí con người không có một ý chí nào có thể gọi là tự
do. Một ý chí xuất hiện là do một ý chí khác thúc đẩy và cứ như thế cho
đến khi con người trở về với bản năng. Người ta tưởng rằng họ có tự do
chỉ vì họ nhận thức được những ý chí và những sự thèm muốn của họ, nhưng
họ hoàn toàn mù tịt về những cái gì thúc đẩy những ý chí và những sự
thèm muốn ấy. Con người cho rằng mình có tự do không khác gì cục đá cho
rằng nó có tự do khi nó bị ném đi đến một nơi xa. Sau khi đả kích quan
niệm tự do trong ý chí và tư tưởng, Spinoza kết luận rằng thái độ của
con người có thể được xác định bằng những định luật tâm lý minh bạch và
khách quan không khác gì những định luật về hình học. Ông ước mong sẽ tìm được những định luật ấy hầu nghiên cứu tâm thức một cách khoa học không
khác gì các kỹ sư nghiên cứ các đường thẳng và các mặt phẳng. Mục đích
của Spinoza là tạo nên một khoa tâm lý hoàn toàn khách quan, không tìm
cách phê bình chê bai những hành vi của con người mà trái lại chỉ tìm
hiểu các hành vi ấy. Ông muốn nghiên cứu các sự đam mê, các tật xấu như
những hiện tượng hoàn toàn khách quan, với thái độ của một nhà khoa học khi nghiên cứu các hiện tượng nóng lạnh mưa gió sấm chớp của vũ trụ. Sự cố gắng của Spinoza đã khích lệ rất nhiều triết gia.
3. Lý trí và đạo đức.
Có
ba hệ thống tư tưởng về đạo đức. Hệ thống thứ nhất là hệ thống của Phật
giáo và Thiên chúa giáo. Hệ thống này đề cao những đức tính từ bi mà
Spinoza gọi là đức tính đàn bà. Theo hệ thống này thì nên yêu thương và
quý trọng tất cả mọi người, đem ân trả oán, xem tình thương là đức tính
cao cả nhất, và trên trên bình diện chính trị thì thiên về chế độ dân
chủ. Hệ thống thứ hai là hệ thống của Machiavel và Nietzsche. Hai ông
này đề cao những đức tính hùng tráng mà Spinoza gọi là những đức tính
của đàn ông. Hệ thống đạo đức thứ hai chấp nhận sự bất bình đẳng giữa
loài người, đề cao sự đấu tranh, chinh phục và thống trị, đồng hoá đạo
đức với sức mạnh, trên bình diện chính trị thì cổ võ một chế độ quí tộc,
huyết thống. Hệ thống thứ ba là hệ thống của Socrate, Platon và
Aristote. Ba ông này muốn dung hoà những đức tính từ bi và hùng tráng.
Họ cho rằng phải tuỳ thời mà hành động, không thể luôn luôn nghiêng về
một phía nào, chỉ những lý trí sáng suốt và trưởng thành mới xét đoán
được từng trường hợp và tìm kiếm những giải
pháp. Trên bình diện chính trị họ chủ trương một chế độ vừa dân chủ vừa
quý tộc. Bằng sự phân tích kể trên, Spinoza đã dung hoà những nguồn tư
tưởng từ trước đến nay được coi như khác biệt.
Spinoza
cho rằng hạnh phúc là mục đích của mọi hành động. Hạnh phúc là sự có
mặt của khoái cảm và sự vắng mặt của khổ đau. Tuy nhiên khoái cảm cũng
như khổ đau chỉ là những cảm giác tương đối. Chúng nó không phải là
những tình trạng mà là những sự thay đổi. Ví dụ khoái cảm là sự thay đổi
từ một trạng thái thấp đến một trạng thái cao hơn. Trong sự vui sướng,
nghị lực của con người được tăng thêm. Đau khổ là sự đi từ một trạng
thái cao đến một trạng thái thấp. Nếu không có sự thay đổi, nếu không có
sự xê dịch thì
con người sẽ không cảm thấy khoái lạc cũng như đau khổ. Một người vừa
mới lọt lòng đã được thụ hưởng đầy đủ các tiện nghi sẽ mất khoái cảm đối
với các tiện nghi ấy. Chữ passion có liên quan với chữ passage, nói một
cách khác, cảm xúc là một sự xê dịch, chữ émotion có liên quan đến chữ motion, nói một cách khác sự xúc động là hậu quả của sự cử động.
Xúc động là một sự thay đổi trong tâm thức khiến cho khả năng của con người được tăng thêm hoặc bị giảm
bớt, được hỗ trợ hoặc bị ngăn cản. Con người cảm xúc mỗi khi họ ý thức
được những sự thay đổi ấy. Một cảm xúc tự nó không tốt cũng như không
xấu. Tuy nhiên đối với chúng ta thì một cảm xúc tốt là một cảm xúc do sự
tăng trưởng của các khả năng mà ra. Một cảm xúc xấu là một cảm xúc do
sự giảm
bớt của các khă năng mà có. Spinoza đồng hoá hai quan niệm đạo đức và
nghị lực. Con người có đạo đức là con người có nghị lực để tranh thủ
những cái gì ích lợi đối với mình. Sự ích kỷ chỉ là kết quả của bản năng
tự tồn. Sự ích kỷ hợp với thiên nhiên vì bản năng tự tồn hợp với thiên
nhiên. Spinoza xây dựng tư tưởng đạo đức của ông không phải trên sự vị
tha, cũng không phải trên sự đấu tranh một mất một còn. Ý niệm ích kỷ
của Spinoza có thể xem như là sự dung hoà giữa hai cực đoan ấy. Một nền
đạo đức bắt buộc con người phải chịu đựng một cách yếu hèn là một nền
đạo đức vô giá trị. Spinoza không tán thành sự nhún nhường, ông cho là
một sự giả dối.
Ông cũng không tán thành sự ăn năn hối hận. Những kẻ ăn năn hối hận là
những kẻ yếu hèn, tự làm khổ mình một cách vô ích. Spinoza cho rằng tánh
nhún nhường thật ra rất hiếm có. Ngay cả những tác giả viết
sách đề cao tánh nhún nhường cũng không quên ghi bút hiệu của mình
ngoài bìa sách. Những kẻ tự hạ mình có thể là để che dấu tánh kiêu căng
của họ. Spinoza cũng lên án tánh tự phụ vì nó thường gây mâu thuẫn giữa
người này và người khác. Họ chỉ thích làm bạn với những người thua kém
họ, và thường bị sa vào cạm bẫy của những kẻ nịnh hót.
Spinoza
cảm thấy rằng phần đông con người đều tội ác và khốn khổ, họ bo bo gìn
giữ của cải và luôn luôn lo sợ các thứ ấy mất đi. Thế giới loài người
đầy dẫy những sự ganh ghét dèm pha, hận thù. Ông muốn tìm một phương
pháp để xoá bỏ những cảm xúc ấy, ông nhận thấy rằng hận thù là một loại
phản ứng dây chuyền và chỉ có thể được chấm dứt bằng tình thương. Người
ta thù hận vì cảm thấy bất lực. Nếu ta có toàn quyền đối với một kẻ khác
thì ta không có lý do gì để thù hận kẻ ấy. Những kẻ hận thù luôn luôn
sống trong khổ đau tủi nhục. Những kẻ không thù hận thường sống trong sự
tin tưởng và hạnh phúc, do đó họ gặp được nhiều sự may mắn. Con người
không thể bị chinh phục bằng vũ khí mà chỉ có thể bị chinh phục bằng đạo
đức.
Spinoza bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của các triết gia
Hi Lạp khi ông đề cao sự hiểu biết. Những kẻ đam mê tưởng tượng rằng họ
đang điều khiển vận mệnh của mình trong khi chính những lúc ấy là lúc
họ bị điều khiển nhiều nhất. Sự đam mê chỉ là một tình trạng thiếu lý
trí. Những hành động có suy nghĩ là những hành động đã được trì hoãn lại
cho đến khi nào tất cả các khía cạnh đã được lý trí soi sáng. Những bản
năng có nhiều sức mạnh lôi cuốn nhưng sẽ trở nên nguy hiểm khi được
dùng làm hướng dẫn. Mỗi bản năng khuynh hướng hoạt động riêng rẽ, không
đếm xỉa gì đến những bản năng khác. Nếu con người tuân theo tất cả các
bản năng cùng một lúc, họ sẽ bị lôi kéo bởi những khuynh hướng tương
phản. Trong đờì sống hàng ngày, con người chỉ tuân theo và thoả mãn
những cảm xúc nào mạnh nhất. Sự thoả mãn ấy cũng chỉ có giá trị cục bộ
nghĩa là không phải luôn luôn phù hợp với quyền lợi tổng quát của cơ
thể.
Tất cả những ý kiến trên làm
chúng ta liên tưởng sự phân biệt giữa lý trí và tình cảm dã được Socrate
và các môn đệ của ông dề cập đến. Spinoza biết rằng tình cảm mà không
có lý trí thì chỉ là một sự mù quáng, lý trí mà không có tình cảm thì
chỉ là sự khô khan cằn cỗi. Mặt khác, người ta chỉ có thể đem tình cảm
để phản ứng với tình cảm. Hai lãnh vực lý trí và tình cảm có thể bổ túc
cho nhau. Sự suy tư có thể được sưởi ấm bằng lòng ham muốn, lòng ham
muốn có thể được soi sáng bằng sự suy tư. Khi chúng ta biết rõ sự đam mê
của chúng ta thì cái đam mê ấy không còn nữa. Tất cả những sự ham soi
sáng bằng lý trí. Những sự ham muốn được soi sáng bằng lý trí có thể trở
thành những đức tính.
Quan niệm về đạo
đức của Spinoza bắt nguồn từ những tư tưởng siêu hình của ông. Các định
luật thiên nhiên thể hiện cho ý muốn của Thiên chúa, và do đó lập thành
một nền trật tự hoàn hảo trong vũ trụ. Về phương diện đạo đức, chính lý
trí đóng vai trò điều hợp để lập nên một nền trật tự trong tất cả hành
vi của con người. Sự nhận thức ý muốn của Thiên chúa và định luật thiên
nhiên là ý niệm căn bản về siêu hình của Spinoza. Sự hành động theo
hướng dẫn của lý trí là ý niệm căn bản về đạo đức. Trí tưởng tượng giúp
đỡ người ta hình dung được những hậu quả tương lai và khuyến cáo người
ta trong các hành động hiện tại. Người ta có khuynh hướng bị những cảm
giác hiện tại thúc đẩy cho đến nỗi người ta quên những hậu quả tương
lai. Sự suy luận chính là một phương pháp để chúng ta kiểm điểm tất cả
các hậu quả và có một cái nhìn bao quát về quá khứ, hiện tại và tương
lai. Sự suy luận cho chúng ta biến kinh nghiệm thành sự khôn ngoan, nắm
vững được tương lai và không bị quá khứ chi phối. Do đó chúng ta mới tìm
được tự do. Đó là sự thoát khỏi vòng kềm toả của đam mê. Nói một cách
khác chúng ta không để cho cái sức mạnh vô trật tự của đam mê sai khiến
chúng ta. Tự do đi đôi với hiểu biết vậy. Con người hoàn toàn tự do
không phải là con người đã thoát khỏi những vòng kềm toả của đam mê. Do
đó, con người trở nên tự tại vô ngại. Đó là hình ảnh con người lý tưởng
của Spinoza. Đây không phải là một con người tự mãn theo quan niệm của
Aistote hoặc một con người tự kiêu theo quan niệm của Nietzsche nhưng mà
là một con người bình thản và trầm tĩnh. Những người tốt không bao giờ
ham muốn cái gì có lợi cho mình mà có hại cho nhân loại. Nói một cách
khác, họ muốn tất cả nhân loại đều có thể như họ. Một người thượng lưu
không phải là một người đứng trên kẻ khác để cai quản kẻ khác mà chính
là người đã thoát khỏi những ham muốn riêng rẽ, vị kỷ và đã tự kiềm chế
được mình. Sự tự do kể trên thật vô cùng cao cả hơn quan niệm tự do
thông thường. Người ta thường nói đến tự do ý chí nhưng quan niệm về ý
chí đã bị Spinoza bác bỏ. Con người vẫn chịu trách nhiệm về các hành vi
của mình mặc dù không hoàn toàn tự do. Nhiệm vụ của xã hội là phải vận
dụng những cảm giác sợ sệt hoặc ước muốn của con người để duy trì trật
tự và sự hợp tác giữa mọi người. Tất cả những nền giáo dục đều căn cứ
trên quan niệm rằng tâm trí con người có thể uốn nắn. Dù cho các hành vi
của con người đều là những hành vi cần thiết do một định mệnh khắt khe
những yếu tố thúc đẩy con người vẫn là sự sợ hãi và nguồn hi vọng. Xã
hội có thể vận dụng hai yếu tố này để hướng dẫn hành vi của cá nhân. Mặt
khác thuyết định mệnh có thể cho chúng ta một quan niệm về đạo đức cao
cả hơn. Nó làm cho chúng ta dễ tha thứ những kẻ khác vì những việc làm
của họ chẳng qua cũng chỉ là những thôi thúc của định mệnh. Xã hội có
thể trừng phạt những kẻ lầm lỗi nhưng sự trừng phạt ấy không đi đôi với
sự thù ghét. Mặt khác, ý niệm về định mệnh cho chúng ta đủ sức mạnh để
chịu đựng những thăng trầm của cuộc đời bằng một tâm hồn trầm tĩnh. Nó
có thể giúp chúng ta tìm thấy sự yêu thương Thiên chúa bằng cách vui
lòng làm theo đúng những ý định của Ngài. Chấp nhận định mệnh là chấp
nhận định luật thiên nhiên để nhận thức rằng mỗi biến cố đều nằm trong
một chương trình của vũ trụ. Nhận thức được như vậy con người sẽ thoát
khỏi những sự vui buồn nhất thời và trở nên trầm tĩnh vắng lặng, họ biết
chấp nhận những gì không thể tránh khỏi với nụ cười trên môi. Họ biết
rằng Thiên chúa nắm giữ trật tự của vũ trụ chứ không phải chỉ là một
người sẵn sàng thay đổi các định luật thiên nhiên để làm lợi cho một vài
cá nhân nhỏ bé. Quan niệm này cũng được Phaton diễn tả trong cuốn "Nền
Cọng Hoà". Những kẻ nắm giữ bộ máy vũ trụ không có thì giờ để xen vào
những việc cỏn con của người đời. Tạo hoá không có lý do gì để ghen ghét
hoặc đấu tranh với những cá nhân. Nietzsche cũng cho rằng: "Những cái
gì bắt buộc phải có không làm cho tôi bất bình, bản tính tôi là chiều
theo định mệnh". Thi sĩ Keats cũng diễn tả ý nghĩ này khi ông bảo: "Con
người xuất chúng là con người biết chấp nhận tất cả những sự thật và
đương đầu với tất cả mọi trường hợp một cách bình tĩnh". Spinoza còn nói
thêm rằng trong định mệnh, lẽ cố nhiên có cái chết và chấp nhận định
mệnh có nghĩa là không băn khoăn về cái chết. Con người tự do là con
người biết hướng tư tưởng của mình về cuộc sống thay vì về cái chết.
4. Tôn giáo và sự bất diệt.
Chúng ta thấy rằng triết lý
của Spinoza là một cố gắng yêu thương một thế giới đã từ bỏ ông. Ông
còn tự hỏi tại sao một dân tộc xuất chúng như dân tộc Do thái lại có thể
bị xua đuổi khắp mọi nơi. Ông tìm nguồn an ủi trong quan niệm rằng
những sự đau khổ của con người không có nghĩa lý gì đối với vũ trụ. Ông
cố gắng hoà hợp ước vọng của mình với định luật thiên nhiên, cố gắng hoà
mình với vũ trụ. Ông cho rằng hạnh phúc tối thượng là tìm ra mối tương
quan giữa tâm trí cá nhân và vũ trụ. Chúng ta lầm tưởng rằng chúng ta là
những thực thể cách biệt với vũ trụ. Sự thật thì chúng ta là những phần
tử của vũ trụ như những tế bào trong một cơ thể. Tế bào trong cơ thể
chết đi nhưng cơ thể vẫn tồn tại. Chúng ta là những tế bào trong cơ thể
của giống nòi. Giống nòi của chúng ta là những tế bào trong cơ thể của
chúng sinh. Tâm trí của chúng ta là những tia sáng trong nguồn sáng bất
diệt. Tâm trí của chúng ta là một phần tử trong một thực thể rộng lớn
hơn. Thực thể ấy cũng chỉ là một phần tử trong một cái gì bao quát hơn
và cứ như thế cho đến khi chúng ta tìm lại nguồn gốc của tâm trí ở Thiên
chúa. Tư tưởng của Spinoza làm chúng ta liên tưởng đến tư tưởng của các triết gia đông phương.
Chúng
ta bất diệt, vì chúng ta là những phần tử của một thực thể bất diệt.
Tâm trí con người không thể mai một cùng lúc với thân thể của nó. Tâm
trí con người trở nên bất diệt khi nó được gắn liền với những tư tưởng
bất diệt. Chúng ta thấy rằng với lối lý luận của Spinoza kể trên không
được rõ ràng trong sáng cho lắm và mỗi người có thể hiểu một cách. Có
người cho rằng Spinoza muốn đề cập đến sự tồn tại của thanh danh khi ông
nói đến sự bất diệt của tâm trí. Có người cho rằng Spinoza muốn chủ
trương một sự bất diệt cụ thể hơn là sự bất diệt của thanh danh. Có thể
nói rằng ông đề cập đến sự bất diệt khi cái chết ám ảnh ông. Một điểm
đáng để ý là quan niệm bất diệt của Spinoza muốn vượt lên trên thời
gian. Giống như Aristote, Spinoza cho rằng trí nhớ của con người không
thể tồn tại ngoài cơ thể của nó. Ông cũng không tin tưởng vào những sự
thưởng phạt sau cái chết. Những kẻ sống một cuộc đời đạo đức không nên
hy vọng rằng Thiên chúa sẽ tưởng thưởng cho họ. Cần phải quan niệm rằng
cuộc đời đạo đức chính là phần thưởng của Thiên chúa và chính là hạnh
phúc tối thượng, sự tự do tối thượng. Hạnh phúc không phải là phần
thưởng của đạo đức. Hạnh phúc và đạo đức chỉ là một. Do đó sự bất diệt
không phải là phần thưởng của chính tư duy (suy nghĩ chân chính), sự bất
diệt và chính tư duy chỉ là một. Chính tư duy đem con người từ quá khứ
qua hiện tại đến tương lai và vượt qua những giới hạn của thời gian,
những giới hạn của vô thường. Chính tư duy cũng bất diệt như chân lý và
trở nên một phần tử trong gia tài tư tưởng của nhân loại.
Cuốn "Đạo đức học"
kết thúc kết thúc bằng những tư tưởng trong sáng kể trên. Thật là một
tác phẩm chứa đựng nhiều ý nghĩ và đã từng làm đề tài cho nhiều cuộc
tranh luận sôi nổi trên khắp thế giới. Chúng ta có thể không đồng ý với
Spinoza trên phương diện siêu hình tâm lý, hoặc giáo lý, nhưng các tư
tưởng trình bày vẫn có đủ mãnh lực lôi cuốn chúng ta. Spinoza kết luận
như sau:
"Tôi đã nói tất cả những
gì đáng nói về vai trò tâm trí trong việc chế ngự tình cảm. Con người lý
trí luôn luôn mạnh hơn con người tình cảm. Những kẻ không biết đến lý
trí thường sống một cuộc đời tối tăm, không tự hiểu mình, không biết đến
Thiên chúa và luôn luôn bị tình cảm chi phối. Con người khôn ngoan ít
khi vọng động và luôn luôn tâm trí được thoả mãn. Con đường đi đến sự
thoả mãn của tâm trí là một con đường khó khăn do đó ít người sử dụng
được con đường này. Tất cả những gì quý giá đều khó khăn và hiếm hoi".
V. CHÍNH TRỊ LUẬN
Đây
là tác phẩm cuối cùng và dang dở của Spinoza. Tác phẩm này được soạn
thảo khi tư tưởng của Spinoza đến độ trưởng thành nhất. Chúng ta cảm
thấy thương tiếc một thiên tài bị mai một quá sớm. Trong khi Hobbes cổ
võ một chế độ quân chủ chuyên chế thì Spinoza lại cổ võ một chế độ dân
chủ tự do. Chính những tư tưởng này khởi nguồn cho những tư tưởng của
Rousseau và đưa đến cuộc cách mạng Pháp.
Spinoza nói rằng tất cả những triết lý
chính trị cần phải dựa trên sự phân biệt giữa trật tự thiên nhiên và
trật tự xã hội. Trật tự thiên nhiên là trật tự giữa loài người trước khi
xã hội được tổ chức. Spinoza cho rằng con người nguyên thuỷ sống trong
sự cô lập, họ không biết phân biệt phải và trái, công bằng và bất công.
Công lý và sức mạnh đối với họ chỉ là một. Con người nguyên thuỷ không
bao giờ bận tâm đến sự phân biệt phải và trái. Họ chỉ biết đến quyền lợi
của mỗi người và tuỳ theo chiều hướng của quyền lợi ấy mà phân biệt cái
gì phải, cái gì trái. Con người nguyên thuỷ không chịu trách nhiệm với
bất cứ ai và do đó họ không thể có ý niệm về tội lỗi. Ý niệm về tội lỗi
chỉ có thể phát sinh trong một xã hội có tổ chức. Trong xã hội này, mọi
người đều đồng ý về một số vấn đề. Mỗi một người tự nhận trách nhiệm của
mình trước quốc gia và luật pháp. Trong trạng thái thiên nhiên con
người không bị ngăn cấm, họ có thể làm bất cứ điều gì họ đủ sức làm.
Luật thiên nhiên không ngăn cấm sự giành giựt, thù oán; lường gạt v.v.
Chúng ta tìm lại luật thiên nhiên khi chúng ta quan sát lối cư xử giữa
những quốc gia với nhau. Chỉ khi nào có một tổ chức được công nhận thì
các nguyên tắc về đạo đức mới có thể được thực thi. Quyền lực của các
quốc gia ngày nay không khác gì quyền lực của những con người nguyên
thuỷ, nghĩa là nó đồng hoá với sức mạnh. Chữ "Power" ngày nay được dùng
vừa để chỉ một quốc gia, vừa để chỉ một quyền lực. Sự tương quan giữa
các giống vật của vậy. Không có một đạo đức nào hoặc một luật lệ nào quy
định sự tương quan giữa một giống này và một giống khác. Mỗi giống vật
có toàn quyền trên những giống vật khác.
Đối
với loài người, những nhu cầu chung lôi kéo con người lại gần nhau và
trật tự thiên nhiên dần dần được thay thế bằng trật tự xã hội. Trong mỗi
con người ai cũng ghê sợ sự cô đơn vì con người cô độc không đủ sức
mạnh để chống chọi với thiên nhiên, đó là động lực thúc đẩy con người
họp thành xã hội. Tuy nhiên bản tánh của con người không phải là hướng
thiện, họ sống thành xã hội chỉ vì họ phải là hướng thiện, họ sống thành
xã hội chỉ vì họ bắt buộc phải làm như vậy để tránh những nguy cơ to
lớn hơn. Con người có khuynh hướng theo chủ nghĩa cá nhân và chống lại
các luật lệ cũng như các tập tục. Khuynh hướng cá nhân. Do đó khuynh
hướng xã hội luôn luôn cần phải được bồi đắp. Spinoza cho rằng bản tính
con người không phải là thiện như Rousseau đã lầm tưởng. Con người trở
nên thiện nhờ ảnh hưởng của xã hội, bắt đầu là ảnh hưởng của gia đình.
Chúng ta thích cái gì hợp với chúng ta. Do đó tinh thần tập thể dần dần
nảy nở, con người bắt đầu có một lương tâm. Vậy lương tâm không phải tự
nhiên mà có mà chính là do tập tục xã hội . Lương tâm thay đổi tuỳ theo
không gian và thời gian. Có thể nói rằng lương tâm cá nhân là kết tinh
của những tập tục xã hội. Dần dần lương tâm cá nhân trở thành một động
lực giúp cho xã hội tồn tại chống lại các khuynh hướng vị kỷ.
Dần
dần luật thiên nhiên được thay thế bằng luật xã hội. Sức mạnh vẫn còn
đồng hoá với quyền hạn, tuy nhiên sức mạnh của tập thể hạn chế sức mạnh
của cá nhân và chỉ để lại cho mỗi cá nhân một số tự do nhất định làm thế
nào để khỏi xâm phạm đến sự tự do của kẻ khác. Một phần quyền lực của
cá nhân được chuyển sang cho tập thể để làm lợi cho tất cả. Ví dụ cá
nhân từ bỏ quyền hành động trong sự giận dữ và do đó khỏi bị làm nạn
nhân cho sự giận dữ của kẻ khác. Luật pháp rất cần thiết vì con người
thường bị tình cảm chi phối. Nếu tất cả con người đều có đầy đủ lý trí
thì luật pháp đối với cá nhân cũng giống như ảnh hưởng của lý trí đối
với tình cảm: Đó là sự phối hợp những khuynh hướng tương phản để tránh
đổ vỡ và thu hoạch hiệu năng tối đa. Trên bình diện siêu hình, lẽ phải
là sự nhận thức nền trật tự trong vạn vật, trên bình diện đạo đức, lẽ
phải là sự nhận thức nền trật tự trong sự tham muốn, trên bình diện
chính trị, lẽ phải là sự nhận thức nền trật tự giữa những cá nhân. Quốc
gia lý tưởng chỉ hạn chế tự do khi những sự tự do của những cá nhân
tương phản nhau. Nói một cách khác, quốc gia chỉ hạn chế tự do với mục
đích bảo vệ một nền tự do cao hơn. Mục đích của quốc gia không phải là
đàn áp cá nhân hoặc đe doạ cá nhân mà là mưu cầu cho mỗi cá nhân một đời
sống an ninh, không bị những kẻ khác đe doạ. Mục đích của quốc gia
không phải là biến những cá nhân thành những nô lệ mà là đem lại cho cá
nhân những điều kiện hoạt động hoàn hảo, cho mỗi cá nhân được toàn quyền
suy nghĩ và lý luận. Nói tóm lại mục đích của quốc gia là tự do của mỗi
cá nhân.
Nhiệm vụ của quốc gia là phát
triển cá nhân. Nếu quốc gia trở thành một bộ máy đàn áp thì phải làm thế
nào ? Spinoza khuyên chúng ta nên tuân theo ngay cả những luật lệ bất
công nếu chúng ta có tự do phát biểu ý kiến với hy vọng rằng một ngày
kia các luật lệ ấy sẽ được thay đổi trong sự ôn hoà. Do đó những luật lệ
chống lại quyền tự do ngôn luận là những luật lệ đáng ghét nhất. Chính
phủ càng cố gắng xoá bỏ tự do ngôn luận, dân chúng càng cố gắng chống
đối. Những kẻ chống đối phần đông là những kẻ có ý thức và đạo đức cao.
Con người không thể chịu đựng nổi những luật lệ kết tội những tín ngưỡng
của họ. Họ sẽ xem như một vinh dự khi chống lại những luật lệ ấy. Nếu
con người vi phạm luật lệ mà tuyệt nhiên không làm hại đến bất cứ một ai
thì luật lệ ấy cần phải được xét lại, nếu không dân chúng sẽ tìm thấy
thú vui trong sự vi phạm luật lệ cũng như trẻ con tìm thấy thú vui khi
làm những việc bị cấm đoán. Nói tóm lại, chỉ nên trừng phạt những hành
vi phạm pháp và nên dành nhiều tự do trong vấn đề ngôn luận. Được như
vậy chính phủ sẽ tránh được nhiều cuộc nổi loạn võ trang do sự tức nước
vỡ bờ mà ra.
Chính phủ không
nên tìm cách kiểm soát tư tưởng dân chúng. Do đó chính phủ không nên kềm
hãm sự giáo dục nhất là sự giáo dục tại các viện đại học. Nên dành cho mọi cá nhân quyền tự do mở trường và giảng dạy. Dưới thời Spinoza chưa có những viện đại học tư
nên vấn đề kiểm soát sự giáo dục chưa gây ra những trường hợp khó khăn
như ngày nay. Hình như Spinoza muốn cổ võ một nền giáo dục do các triết gia đảm nhận như dưới thời Socrate, Platon và Aristote.
Spinoza
không mấy quan tâm đến hình thức của chế độ mặc dù ông thiên về một chế
độ dân chủ. Ông cho rằng chế độ quân chủ cũng có thể hữu hiệu mặc dù nó
có tính cách đàn áp. Kinh nghiệm cho ta thấy rằng hoà bình và trật tự
có thể giữ vững khi tất cả quyền hành trong quốc gia được gom vào tay
một người. Không một chính thể nào có vẻ đứng vững bằng chính thể quân
chủ chuyên chế của người Thổ-nhĩ-kỳ . Mặt khác những chính thể dân chủ
quá trớn thường là miếng mồi ngon cho những cuộc nổi loạn. Tuy nhiên cần
phải phân biệt thế nào là hoà bình trong trật tự, thế nào là hoà bình
trong nô lệ. Trong một gia đình con cái thường cãi vả với cha mẹ, sự
chống đối này không thể xảy ra giữa nô lệ và chủ nhân ông. Tuy vậy chúng
ta không nên biến con cái trong nhà thành những nô lệ chỉ vì muốn có
hoà bình và trật tự trong gia đình. Do đó nếu tất cả quyền hành trong
quốc gia đều tập trung vào một người, dân chúng dễ bị sa vào một nền hoà
bình trong nô lệ.
Spinoza không đồng ý
đối với những cuộc thương thuyết mật giữa các quốc gia. Ông cho rằng
những cuộc thương thuyết mật là bước đầu của sự độc tài. Trong những
cuộc thương thuyết mật ấy, những kẻ độc tài có toàn quyền làm hại đến
các quốc gia khác và rất có thể họ đã đem quyền lợi của toàn dân để đặt
vào ván bài quốc tế.
Chế độ dân chủ
là chế độ hợp lý nhất. Chính phủ có quyền trừng phạt hành vi của các
công dân nhưng không có quyền trừng phạt tư tưởng của họ. Ý kiến của đa
số là những điều luật mà tất cả phải tuân theo. Nhiệm vụ quân dịch phải
là nhiệm vụ của toàn dân. Người dân có quyền cất giữ vũ khí sau khi
chiến tranh đã chấm dứt. Về phương diện thuế vụ, chỉ nên đánh một loại
thuế duy nhất. Một nhược điểm của chế độ dân chủ là những kẻ xảo ngôn
thường được giao phó quyền hành. Để tránh tệ đoan này, chỉ nên giao
quyền hành cho những người đã được huấn luyện đầy đủ. Ý kiến của số đông
không nhất quyết là ý kiến hay nhất. Đám đông thường bị tình cảm chi
phối và dễ mắc mưu những kẻ xảo ngôn. Những người xuất chúng không muốn
để cho đám đông bình phẩm và lựa chọn. Những người này sẽ đứng về phe
chống đối và khi phe này thắng thì chế độ dân chủ sẽ không đem lại trật
tự và an ninh cho xã hội, dân chúng sẽ dễ dàng chọn lựa một nền độc tài
vì dù sao độc tài vẫn còn hơn hỗn độn. Sự bình đẳng giữa mọi người là
một điều không thể thực hiện được vì con người sinh ra đã bất bình đẳng.
Spinoza qua đời trong khi ông
chưa viết hết về chế độ dân chủ. Nếu ông còn sống thêm vài năm nữa có lẽ
những vấn đề trọng đại của nền dân chủ ngày nay đã được soi sáng rất
nhiều.
VI. ẢNH HƯỞNG CỦA SPINOZA
Sau
khi Spinoza qua đời, ảnh hưởng đầu tiên mà ông để lại cho nhân loại là
một sự sợ sệt. Người ta không dám nói đến tên ông cũng như không dám đọc
tác phẩm của ông. Dần dần thái độ của giới trí thức đối với ông trở nên
bớt khắt khe. Năm 1780 một tác giả danh
tiếng tự nhận mình là môn đệ của Spinoza, từ đó người ta tìm hiểu ông
nhiều hơn. Đại văn hào Goethe cũng nhận mình là một môn đệ và đề cao ảnh
hưởng của cuốn Đạo đức học trong các thi phẩm của ông.
Tư tưởng về thần học của Spinoza ảnh hưởng đến rất nhiều các triết gia
như Fichte, Schelling, Hegel. Thuyết về bản năng tự tồn được Fichte,
Schopenhauer, Nietzsche và Bergson lập lại dưới những quan niệm về "cái
tôi" của Fichte, "ý chí muốn sống" của Schopenhauer, "ý chí cường lực"
của Nietzsche và "đà sống" của Bergson, Hegel thường chỉ trích tư tưởng
của Spinoza thiếu mềm dẻo và sống động, nhưng người ta có thể tìm thấy
trong quan niệm về "chân lý tuyệt đối" của Hegel những tư tưởng của
Spinoza về Thiên chúa và các định luật thiên nhiên.
Tại
Anh quốc, ảnh hưởng của Spinoza cũng rất lớn qua trung gian của những
văn hào trứ danh như Coleridge, Wordsworthm, Shelley và Byron. Bà George
Eliot dịch cuốn Đạo đức học sang tiếng Anh nhưng bản thảo không được xuất bản. Belfort Bax cho rằng những mầm mống của tư tưởng triết học hiện
đại đều nằm trong các tác phẩm của Spinoza. Nói tóm lại tư tưởng của
Spinoza là một nguồn suy luận vô cùng phong phú cho nhiều thế hệ về sau.
Để kỷ niệm năm thứ 200 sau ngày Spinoza từ trần, một cuộc lạc quyên
quốc tế đã được tổ chức để dựng tượng ông tại thủ đô Hoà Lan. Nhiều món
tiền được gởi về từ khắp nơi trên thế giới. Năm 1882 bức tượng Spinoza
được khánh thành trong một buổi lễ long trọng. Ernest Renam đọc diễn văn
khai mạc với những lời lẽ thật chân tình và cảm động./.
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 5
VOLTAIRE
( 1694 – 1777 )
( 1694 – 1777 )
Sự sáng lạng của nước Pháp
I. PARIS : OEDIPE
Ở
Paris năm 1742, Voltaire hướng dẫn nghệ sĩ Dumesnil trình diễn vở kịch
Mérope. Nghệ sĩ nầy than phiền rằng cô ta bị ám ảnh bởi quỉ sứ mới có
thể đóng vai trò của mình. Voltaire trả lời rằng :"Thật đúng như vậy,
muốn thành công trong bất cứ ngành nào cần phải bị ám ảnh". Chính những
người phê bình Voltaire và những kẻ thù của ông cũng công nhận rằng ông
hội đủ điều kiện trên. Sainte Beuve và De Maistre đều cảm thấy điều đó.
Xấu
xa, vô liêm sỉ, đôi khi thiếu thật thà, đó là những tật xấu của thời
đại mà Voltaire đã giữ lấy không sót một món nào. Thêm vào đó, và cùng
trong lúc đó, Voltaire tỏ ra vô cùng nhân từ, không tiếc thời giờ, năng
lực và tiền bạc trong những việc nghĩa hoặc công kích những kẻ thù. Ông
vừa mãnh liệt trong sự công kích nhưng lại trở nên hiền từ sau khi mối
bất đồng chấm dứt, tất cả những mâu thuẫn của con người đều chứa đựng
trong văn hào đó.
Tuy nhiên, tất cả
những đức tính chủ chốt của Voltaire. Đặc tính nổi bật nhất của ông là
trí thông minh vô cùng phong phú và sáng lạn. Ông sáng tác 99 pho sách,
trong đó mỗi trang giấy đều chứa đựng những ý nghĩ bổ ích. Tất cả những
vấn đề trên thế giới đều được bàn đến không khác gì trong một cuốn bách
khoa. Voltaire thường nói: "Nghề của tôi là nói lên những cái gì tôi suy
nghĩ". Và tất cả những cái gì ông suy nghĩ đều đáng được nói lên. Hơn
nữa, tất cả những cái gì ông nói lên đều đẹp. Nếu phần lớn tác phẩm của
Voltaire không được chúng ta chú ý đến ngày nay là vì những vấn đề thuộc
lãnh vực tôn giáo và siêu hình ghi dấu sự tranh đấu của Voltaire không
còn là những vấn đề thời sự của thế hệ chúng ta. Ngày nay, sự tranh đấu
trên lãnh vực tư tưởng thường hướng về khía cạnh kinh tế hơn là khía
cạnh siêu hình. Mặt khác, chính sự tranh đấu dũng mãnh của Voltaire đã
làm biến mất những thành kiến có tính cách mê tín độc tôn của thời ông .
Một yếu tố làm Voltaire trở nên danh tiếng là lối nói chuyện vô
cùng hấp dẫn và xác đáng của ông. Rất tiếc là ngày nay chúng ta chỉ còn
giữ lại phần thể xác tức là những tác phẩm của Voltaire, còn phần tinh
anh, tức là những cuộc đối thoại của ông thì đã mai một cùng một lúc với
tác giả.
Voltaire có biệt tài biến đổi sự giận dữ thành những nét khôi hài trào
lộng, biến đổi lửa thành ánh sáng. Một con người luôn luôn hùng hồn, một
bộ óc vô cùng tinh vi, phải chăng Voltaire là một con người với nhiều
óc sáng tạo nhất trong lịch sử loài người ?
Chắc
chắn rằng ông làm việc rất nhiều và chiếm được nhiều thành tích hơn tất
cả những người khác trong thế hệ ông. Voltaire thường nói: "Không có
việc gì để làm, hoặc không có đời sống chỉ là một". Theo ông thì tất cả
mọi người đều tốt trừ những người ăn không ngồi rồi. Người thư ký của
Voltaire nói rằng ông rất hà tiện thì giờ. Ông rất ưa thích công việc để
cải thiện đời sống. Càng lớn tuổi ông càng ưa làm việc và ông cho rằng
đó là niềm vui cao cả nhất có thể cho ta thoát khỏi những ảo tưởng của
cuộc đời. Voltaire nói rằng : "Nếu anh không muốn tự tử, thì hãy tìm một
việc gì để làm".
Câu nói
trên có thể làm cho chúng ta nghi rằng Voltaire luôn luôn bị ám ảnh bởi
ý định quyên sinh vì ông luôn luôn tìm việc để làm. Thế kỷ của ông là
một thế kỷ sáng lạn và ông là linh hồn của thế kỷ ấy. Victor Hugo nói
rằng : "Nhắc đến Voltaire tức là nhắc đến toàn thể thế kỷ thứ 18". Nước Ý
có thời kỳ phục hưng làm rạng rỡ cho văn hoá Ý, nước Đức có thời kỳ cải
cách và nước Pháp có Voltaire. Thật vậy, ông vừa là thời kỳ phục hưng,
thời kỳ cải cách và một nửa thời kỳ cách mạng. Ông mang trong mình tánh
đa nghi của một Montaigne, tánh trào lộng của một Rabelais. Ông tranh
đấu chống mê tín và thối nát, một cách dũng cảm và hữu hiệu hơn cả
Luther, Erasmus, Calvin hoặc Knox. Ông góp phần vào việc chế tạo thuốc
súng để sau nầy các tay như Mirabeau, Morot Danton, Robespierre làm nổ
tung chế độ phong kiến lỗi thời. Lamartine nói rằng: "Nếu đem so sánh
thành tích thì Voltaire là văn hào cao cả nhất của Âu châu. Ông sống đến
83 tuổi và đã dùng thời gian ấy để chấm dứt sự thối nát của một thời
đại.
Không một nhà văn
nào có nhiều ảnh hưởng như vậy. Mặc dù bị tù đày và cấm xuất bản sách,
ông vẫn anh dũng đấu tranh bênh vực chân lý làm cho vua chúa cuối cùng
phải kính phục ông và nể vì ông. Một nửa thế giới chăm chú ghi nhận ý
kiến của ông. Voltaire và Rousseau là tiêu biểu cho sự tiến triển của
thế giới từ một chế độ quý tộc phong kiến đến chế độ trung lưu. Khi một
giai cấp đang lên bị cản trở bởi phong tục và luật lệ hiện hữu, họ phải
nhờ đến lý trí để phá vỡ lớp vỏ ấy. Chính vì thế mà giai cấp trung lưu
đã ủng hộ Voltaire và Rousseau. Cần phải giải
thoát con người khỏi những tập tục cổ xưa, mở rộng những chân trời mới
cho tư tưởng và dọn đường cho cuộc cách mạng sắp đến. Nói rằng Voltaire
và Rousseau là nguyên nhân của cuộc cách mạng có lẽ không đúng hẳn. Họ
là tiêu biểu những lực lượng cải cách đang tiềm tàng trong xã hội Pháp
thời ấy, họ là những ánh lửa phát ra từ một hoả diệm sơn đang sôi sục.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên phủ nhận vai trò của triết lý
đối với các biến cố xã hội. Phế đế Louis 16 khi bị giam cầm ở ngục thất
đã nói rằng: "Chính Voltaire và Rousseau đã phá hoại nước Pháp",
Napoléon nói rằng: "Giòng Bourbon có thể thoát được tai hoạ nếu họ biết
kiểm soát sự ấn loát. Súng thần công phá tan thành quách, tác phẩm phá
tan xã hội". Voltaire cũng nói rằng :"Chính những tác phẩm cai trị thế
giới, không có cái gì thoát khỏi con người bằng một nền giáo dục thích
hợp, khi một quốc gia bắt đầu biết suy nghĩ, không một lực lượng nào có
thể ngăn cản được". Với Voltaire nước Pháp bắt đầu suy nghĩ.
Tên
thật của Voltaire là François Marie Arouet sinh tại Paris năm 1694
trong một gia đình chưởng khế giàu có. Ông thụ hưởng ở người cha bẩm
tính thông minh và hào hiệp, hưởng thụ ở người mẹ tánh trào lộng. Khi
ông ra đời thì mẹ chết, ông là một đứa trẻ ốm yếu cho đến nỗi người ta
tưởng rằng không thể sống lâu quá 2 ngày. Sự thật thì ông đã sống đến 83
tuổi, nhưng suốt đời ông vẫn mang một thể chất yếu đuối và đa bệnh. Ông
có một người anh tên Armand theo giáo phái Janséniste và suýt bị chính
quyền bắt bớ vì Armand có một tâm hồn cao thượng cương quyết phản đối
những tập tục tôn giáo độc tài của thời ấy. Cả hai anh em đều rất thích
văn chương, Voltaire biết làm thơ từ khi mới biết viết và cái đó làm cho
người cha rất lo âu. Tuy nhiên một người bà con thấy ở đó rất nhiều hứa
hẹn trong tương lai của Voltaire. Khi bà này chết có để lại cho
Voltaire 21000 quan để mua sách. Sự giáo dục của Voltaire còn bị ảnh
hưởng bởi một tưởng sĩ có đầu óc phóng khoáng đã dạy cho ông tánh hoài
nghi và suy luận. Những thầy giáo của Voltaire thuộc giáo phái Jésuite
đã dạy cho Voltaire nghệ thuật tranh luận và do đó, đã gieo mầm hoài
nghi vào đầu óc ông. Lúc 12 tuổi Voltaire đã biết tranh luận về các đề
tài sâu xa như giáo lý và thần học với
những nhân vật danh tiếng đương thời. Đến lúc cần phải tìm một nghề để
sinh nhai Voltaire cương quyết chọn nghề viết văn. Người cha cương quyết
phản đối nói rằng : "Nghề viết văn là nghề của những kẻ ăn bám xã hội,
ăn bám vào bà con và chết trong sự đói khổ". Voltaire vẫn chọn nghề viết
văn.
Voltaire thường thức
khuya để đàm đạo với những tay giang hồ trong tỉnh làm người cha rất bất
bình phải gởi ông ta đến thành phố Caen sau khi nhắn nhủ người bà con ở
đó phải giữ Voltaire ở trong nhà không cho đi đâu. Nhưng chẳng bao lâu
Voltaire thuyết phục được người bà con và tìm được tự do. Người cha tức
giận gởi Voltaire ra ngoại quốc sống với sứ thần Pháp ở La Haye và cũng
không quên nhắn nhủ phải coi chừng Voltaire rất kỹ. Tại đây Voltaire
phải lòng một thiếu nữ và hai người trao cho nhau nhiều bức thư tình
nồng cháy. Công chuyện bị tiết lộ, Voltaire bị cha gọi về.
Năm
1715 Voltaire vừa đúng 21 tuổi, ông đến Paris vừa lúc hoàng đế Louis 14
băng hà, hoàng tử kế vị quá trẻ để cai trị nước Pháp đừng nói gì đến
việc cai trị thành phố Paris. Quyền hành được gom vào tay một phụ chính
đại thần. Trong thời gian này nhiều cuộc nổi loạn xẩy ra ở Paris và
Voltaire hớn hở tham dự. Ông có tiếng là một thanh niên hào hoa phong
nhã và trào lộng. Khi quan phụ chính đại thần, để tiết kiệm công quỹ,
cho bán đấu giá một nửa số ngựa của nhà vua, Voltaire nhận xét rằng giá
cho về vườn một nửa số lừa của triều đình thì có lợi hơn. Những lời châm
biếm ranh mãnh của Voltaire được truyền miệng từ người này đến người
khác khắp thủ đô Paris hoa lệ. Trong những lời châm biếm ấy có 2 bài thơ
tố cáo quan phụ chính đại thần âm mưu cướp ngôi vua. Quan phụ chính nổi
trận lôi đình, nói với Voltaire :
- Nầy ông Arouet, tôi sẽ chỉ cho ông thấy một nơi mà ông chưa bao giờ thấy.
- Thưa quan phụ chính đó là nơi nào ?
- Đó là phía trong ngục thất Bastille.
Và ngày hôm sau, 16.4.1717 Voltaire vào ngục thất Bastille.
Chính
trong thời gian ở ngục thất Bastille, Voltaire đã tự đặt cho mình cái
tên Voltaire. Hồi trong ngục thất ông trở thành thi sĩ và sáng tác tập
thơ lấy tên là Henriade. Sau một thời gian quan phụ chính nguôi giận ra
lệnh phóng thích Voltaire và cấp cho ông một món tiền hàng tháng.
Voltaire viết một lá thơ cám ơn đại ý nói rằng ông rất vui lòng nhận món
tiền phụ cấp để ăn còn vấn đề chỗ ở thì xin phép được tự lo liệu.
Ra
khỏi ngục thất ông bắt đầu hoạt động kịch nghệ. Vở kịch Oedipe xuất bản
năm 1718 được toàn thể Paris hâm mộ và được trình diễn liên tiếp 45
đêm. Chính người cha đau khổ cũng đến xem kịch và vô cùng xúc động trước
sự thành công của Voltaire. Vở kịch đem lại cho Voltaire 4000 quan. Ông
dùng số tiền nầy để đầu tư một cách rất khôn ngoan. Trong cuộc đời sóng
gió của ông chẳng những Voltaire biết để dành tiền mà còn biết làm cho
tiền sinh lợi. Ông rất chú trọng đến câu "Một triết gia trước hết phải đủ sống rồi mới nghĩ đến triết lý
sau". Năm 1729 nhờ đầu cơ vé số của chính phủ ông được lời một số tiền
lớn. Càng giàu ông càng độ lượng, bỏ tiền ra giúp ích và nâng đỡ một số
rất nhiều người thất cơ lỡ vận.
Vở
kịch thứ hai của Voltaire hoàn toàn thất bại và Voltaire cảm thấy buồn
phiền. Ông luôn luôn bị ám ảnh bởi dư luận và thường ao ước được sống
như loài vật vì chúng nó không đếm xỉa gì đến dư luận. Sau vụ vở kịch
thất bại Voltaire nhuốm bệnh đậu mùa. Sau khi lành bệnh Voltaire được
tiếp đón khắp nơi nhờ tài ăn nói và thái độ hào hoa phong nhã của ông.
Trong 8 năm trời ông được đón tiếp ở những nơi thanh lịch nhất, nhưng
sau đó một việc đáng tiếc xảy ra. Giai cấp quý tộc thời bấy giờ có thói
quen khi dễ những người không phải là quý tộc mà Voltaire thuộc về loại
nầy. Trong một bữa tiệc, quan khách đang chăm chú nghe Voltaire nói thao
thao bất tuyệt thì một nhà quý phái tên là De Rohan cất tiếng hỏi:
- Thằng nào nói lớn tiếng như vậy ?
- Thưa ngài, Voltaire trả lời, nó là một thằng không mang danh quý tộc.
Câu trả
lời nầy làm cho De Rohan nổi giận. Ông mướn một lũ du đãng chận
Voltaire giữa đường và đánh có thương tích. Ngày hôm sau, trong nhà hát
Voltaire đầu băng vải trắng, chân đi khập khiễng đến trước mặt De Rohan
đang ngồi xem hát và thách ông nầy đấu gươm. Sau đó, Voltaire về nhà
xách gươm ra sân để tập dượt một vài đường. Nhưng De Rohan từ chối thách
đấu lại còn nhờ người anh làm tổng trưởng an ninh bảo vệ cho mình.
Voltaire bị bắt và bị nhốt vào ngục Bastille. Sau một thời gian ông được
phóng thích với điều kiện là phải qua sống tại Anh. Có một lần Voltaire
trốn về Pháp để tìm cách trả thù, nhưng những bạn thân cho biết là sự
hiện diện của ông trên đất Pháp đã bị bại lộ, nếu không chuồn sớm sẽ bị
vào tù một lần thứ ba. Voltaire nghe lời bạn và chuồn về Anh quốc.
II. LONDON: NHỮNG LÁ THƠ TỪ ANH QUỐC
Tại London, Voltaire tìm cách học tiếng
Anh để có thể hiểu biết về văn hoá của nước ấy. Lúc đầu ông rất bực
mình vì cách đọc tiếng Anh, ví dụ chữ Plague chỉ có một vần, trong khi
chữ Ague lại có 2 vần. Nhưng cuối cùng sau một năm học tập
ông đủ kiến thức để đọc những tác phẩm. Ông được giới thiệu với nhiều
giới văn nhân nghệ sĩ và có dịp đàm đạo với họ trong tất cả mọi vấn đề.
Voltaire
rất ngạc nhiên vì không khí tự do tại Anh. Các văn nhân nghệ sĩ ở đây
có thể viết lên bất cứ cái gì họ muốn viết. Voltaire nói rằng: dân tộc
Anh có một quan niệm riêng. Họ tự tạo một tôn giáo riêng, xử tử vua của
họ và xây dựng một quốc hội có quyền hành rộng lớn hơn tất cả các vua
chúa. Ở đây không có những ngục thất Bastille, không có những lịnh giam
cứu do các nhà quý tộc phát ra để giam giữ địch thủ mà không cần xét xử.
Voltaire rất khâm phục các định chế xã hội và tôn giáo ở Anh quốc. Ông
hoạt động rất mạnh trong một xã hội có rất nhiều văn nhân nghệ sĩ như
ông. Những nhà văn tên tuổi như Bacon, Hobbes, Locke đã làm cho Voltaire
vô cùng kính phục. Nơi đây Voltaire đã dự đám táng Newton, nhà vật lý
nổi tiếng thời bấy giờ, và ông rất ngạc nhiên về danh dự mà người dân
Anh quốc dành cho nhà bác học ở
nước họ. Ông có cảm tưởng rằng đối với người Anh thì Newton còn danh
tiếng hơn cả những hoàng đế. Một bên dùng chân lý để thuyết phục người
khác, một bên dùng sức mạnh. Voltaire nghiên cứu công trình sáng tác của
Newton và sau nầy truyền bá tư tưởng của Newton ở Pháp.
Voltaire bị ảnh hưởng sâu rộng bởi văn hoá Anh trong lãnh vực văn chương, khoa học và triết lý.
Những cảm tưởng của Voltaire được ghi vào những lá thơ mà ông gởi về
Pháp cho các bạn bè thân thích. Trong những lá thư nầy, Voltaire cố ý đề
cao không khí tự do ở Anh quốc và cố ý mạt sát nền đế chế độc tài của
Pháp, những người quý tộc ăn không ngồi rồi và những giáo sĩ bóc lột tín
đồ, khai thác mê tín dị đoan. Ông kêu gọi giai cấp trung lưu ở Pháp hãy
nổi lên làm cách mạng để giành lại những quyền tự do. Những lá thư ấy
được gởi đi một cách lén lút và có thể được xem là mầm mống của cách
mạng.
III. CUỘC SỐNG Ở CIREY
Quan
phụ chính đại thần không biết gì về những hoạt động chống chánh phủ của
Voltaire ở Anh quốc, nên hạ lệnh cho phép ông được trở về Pháp năm
1729. Voltaire lại có cơ hội sống vui vẻ ở Paris trong năm năm. Bất ngờ
một nhà sách ở Pháp, sưu tập được những lá thơ của Voltaire viết từ Anh
quốc và đem xuất bản mà không có sự đồng ý của tác giả.
Quốc hội lập tức ra lệnh hoả thiêu tất cả những cuốn sách ấy nhân danh
tôn giáo, luân lý và luật pháp. Voltaire biết thế nào cũng bị bắt bèn bỏ
trốn khỏi Paris với một thiếu phụ vợ của bá tước Chatelet. Bà nầy vừa
28 tuổi trong khi Voltaire đã 40 tuổi. Bà rất say mê văn hoá và đã chịu
khó nghiên cứu toán pháp với những giáo sư trứ danh, bà còn dịch cuốn
"Nguyên lý" của Newton. Bà đã đệ trình Hàn lâm viện Pháp nhiều luận án
giá trị về vật lý. Nói tóm lại bà có đủ tất cả những điều kiện để say mê
nhà trí thức thông minh sáng láng như Voltaire. Trong thời gian trốn
chính quyền, Voltaire ngụ tại lâu đài người yêu ở Cirey, trong những
ngày đầm ấm yêu đương, tâm đầu ý hiệp. Bá tước Chatelet, người chồng
chính thức thì luôn luôn bị bận rộn bởi việc quân. Những cuộc tình duyên
như vậy không có gì lạ đối với thượng lưu trí thức tại Paris trong thế
kỷ thứ 18.
Trong lâu đài Cirey, cả hai người mặc sức theo đuổi công việc lý tưởng của mình là nghiên cứu và học hỏi. Voltaire cho dọn sẵn tại đó một phòng thí nghiệm rất đầy đủ. Thường ngày họ đàm đạo với nhiều giới văn nhân bác học và
ban đêm thì tham dự những buổi trình diễn văn nghệ, một đôi khi chính
Voltaire thủ vai đọc thi văn và truyện ngắn của mình cho cử toạ đồng
nghe. Dần dần, lâu đài Cirey trở nên trung tâm văn hoá của Pháp quốc,
nơi gặp gỡ của giới văn nhân nghệ sĩ hâm mộ tài ăn nói và tính trào lộng
của Voltaire. Ngay cả các vua chúa ở nước ngoài đều biết đến danh tiếng
của lâu đài Cirey.
Chính
tại nơi đây, Voltaire đã viết những tác phẩm bất hủ như Zadig, Candide,
Micromégas, L' Ingénu, Le monde comme il va v.v. Đó là những tác phẩm
tiêu biểu nhất cho Voltaire trong số 99 tác phẩm của ông. Đó không hẳn
là những truyện dài mà là những truyện ngắn chép lại, vai chính không
phải là những người bằng xương bằng thịt mà là những ý niệm, những vai
xấu trong truyện tiêu biểu cho những thành kiến, mê tín, dị đoan v.v. Và
cốt truyện là một dòng tư tưởng. Một vài truyện như L' Ingénu đã đi
trước Rousseau trong lãnh vực văn chương lãng mạn. Voltaire kể lại câu chuyện một
người dân Huron, một bộ lạc hoàn toàn bán khai, vì một sự tình cờ, được
du lịch nước Pháp. Người ta tìm cách làm cho y theo Thiên chúa giáo.
Một cuốn tân ước được giao cho y để dùng làm tài liệu nghiên cứu. Việc
khó khăn đầu tiên là bắt người Huron phải xưng tội. Y nhứt định bắt buộc
rằng việc xưng tội phải song phương, nghĩa là linh mục phải xưng tội
với y, cũng như y đã xưng tội với linh mục. Y phải lòng cô Saint Yves
nhưng nhứt định không chịu cưới cô ta vì trong buổi lễ rửa tội cô St
Yves làm mẹ đỡ đầu cho y. Cuối cùng y được phép cưới cô St Yves nhưng
lại vô cùng ngạc nhiên thấy rằng một đám cưới đáng lẽ là chuyện riêng
của hai người lại đòi hỏi vô số thủ tục và quan khách, giới chức. Nào
là chưởng khế, linh mục, nhân chứng, giấy tờ, thánh lễ v.v. Người Huron
thốt ra nhận xét sau: "Xã hội các người có lẽ chỉ gồm toàn bọn lưu manh
nên mới cần nhiều sự bảo đảm như thế". Và cứ như vậy từ biến cố này đến
biến cố khác, Voltaire nêu ra lần lượt những điều phi lý của tập tục xã
hội dưới con mắt của một người xa lạ.
Micromégas được phỏng theo sáng kiến của tác giả Swift nhưng có phần hơn. Voltaire kể chuyện viếng
thăm địa cầu bởi người dân của ngôi sao Sirius. Ông nầy cao 500.000 bộ.
Trên con đường đi đến địa cầu ông rủ thêm một người bạn ở hành tinh
Saturne, chiều cao có vài ngàn bộ. Khi bước qua Địa trung hải, người dân
Sirius bị ướt gót giày. Ông hỏi người bạn từ hành tinh Saturne con
người ở trên ấy có bao nhiêu giác quan và được trả lời: 72 giác quan.
- Họ sống bao nhiêu năm ?
- Than ôi, chỉ vào khoảng 15 ngàn năm. Chúng tôi lìa đời quá sớm, cuộc đời không khác gì vó câu qua cửa sổ, thế giới của chúng tôi chỉ là một nguyên tử nhỏ.
Trong khi hai người đứng nói chuyện ở
giữa lòng Địa trung hải họ lượm được một chiếc tàu và đặt lên đầu móng
tay. Tất cả nhân viên trên tàu đều hoảng hồn, các linh mục kêu gọi tất
cả phải cầu nguyện còn các bác học và các triết gia tìm cách giảng giải
hiện tượng hãi hùng. Người dân Sirius cúi xuống, đầu ông toả ra như một
đám mây và bắt đầu kêu gọi những con siêu vi trùng đang nhốn nháo trên
chiếc tàu:
"Hỡi
những con siêu vi trùng, tạo hoá sinh ra chúng bây quá nhỏ, chắc là đời
sống chúng bây ở trên địa cầu nầy phải trong lành và hạnh phúc lắm.
Chúng bây phải dùng thì giờ để suy tư trong hạnh phúc chân thực, nhưng
có lẽ hôm nay ta đã tìm thấy hạnh phúc ấy đang ở giữa chúng bây".
Một trong những triết gia
trả lời rằng : "Chúng tôi có đầy đủ lý do để khổ sở. Chắc ngài cũng
biết rằng chính trong lúc này 100.000 con vật siêu vi trùng như chúng
tôi , đầu đội nón, đang chém giết 100 000 con vật khác cũng như chúng
tôi nhưng đội khăn. Tấn tuồng nầy diễn tiến từ ngàn xưa tới nay, và mãi
đến ngàn sau".
Người dân Sirius
tức giận la lên rằng : Đồ dốt nát, tao chỉ cần bước một vài bước là có
thể nghiền nát tất cả chúng bây dưới bàn chân của tao".
Triết gia
trả lời rằng: "Ngài không cần phải làm như vậy, bọn siêu vi trùng chúng
tôi tự hủy hoại nhau cũng đủ chết. Hơn nữa, ngài không nên trừng phạt
những kẻ khốn khổ đang chém giết nhau mà chỉ nên trừng phạt những tên
lưu manh đang ngồi trong nhà cao cửa lớn đưa hàng triệu người đến chỗ
chết“.
Một trong những tác phẩm khác nhan đề là Zadig. Đấy là tên của một triết gia
thành Babilone, người rất khôn ngoan, tài cán. Ông phải lòng một tiểu
thư đài các tên Semira. Trong khi bảo vệ Semira chống lại các kẻ cướp,
ông bị hư con mắt bên trái. Ông cho người qua Mephis để rước danh y
Hermes. Sau khi khám vết thương Hermes tuyên bố rằng Zadig sẽ mù con mắt
bên trái, ông còn cho biết rõ rằng ngày nào giờ nào sẽ mù. Ông nói rằng
: „Nếu là con mắt bên phải thì tôi có thể cứu được, còn con mắt bên
trái thì tôi chịu“. Tất cả thành Babilone thương tiếc cho số phận của
Zadig và trầm trồ khâm phục tài của danh y Hermes. Sau 2 ngày vết thương
tự nhiên lành, Hermes tức giận viết một cuốn sách để chứng tỏ rằng vết
thương không thể lành được.
Sau
khi lành vết thương Zadig đi tìm Semira nhưng cô nầy sau khi biết lời
tiên đoán của Hermes đã ôm cầm sang thuyền khác vì cô ta rất sợ phải lấy
người một con mắt. Zadig thất vọng cưới một thiếu nữ thôn quê. Để thử
lòng người vợ, Zadig bày mưu giả chết
và mượn một người bạn tỏ tình với vợ mình. Sau khi Zadig chết được một
giờ, người vợ này không chống nổi những lời đường mật của người bạn.
Zadig thất vọng giỏ nắp hòm đứng dậy và chạy trốn vào rừng xa lánh trần
gian.
Nhưng vì là người có tài,
Zadig được nhà vua để ý đến và cho làm tể tướng. Zadig đem lại hoà bình
và thịnh vượng cho quốc gia, nhưng khốn nỗi hoàng hậu phải lòng Zadig và
quốc vương lấy làm bực tức. Nhà vua nhận thấy chiếc giày của hoàng hậu
màu xanh thì giày của Zadig cũng xanh. Khăn trùm đầu của hoàng hậu màu
vàng thì cái nón của Zadig cũng màu vàng. Nhà vua quyết định đầu độc cả
hai. Hoàng hậu biết được ý định ấy báo tin cho Zadig và Zadig chạy trốn
vào rừng. Từ đó ông thấu hiểu được thực chất của con người, thật không
khác gì những giống côn trùng vô nghĩa cấu xé nhau trên một miếng đất
sét. Sau khi nhận thức được như vậy, các nỗi băn khoăn của ông hình như
tiêu tan. Tâm hồn của ông hướng về vũ trụ vô tận và không còn bận rộn về
những việc vô nghĩa.
Ra khỏi thành
Babilone ông thấy một người đàn ông đang đánh một người đàn bà, ông nhảy
vào cứu và trong cơn hăng say lỡ tay đánh chết người đàn ông. Ông hỏi
người đàn bà:
- Bây giờ tôi phải làm sao ?
- Đồ chó đẻ, mày đã giết chết người yêu của tao, tội mày đáng xé xác.
Sau đó Zadig bị bắt làm nô lệ. Ông dạy cho chủ môn triết lý
và được chủ trọng dụng. Lúc ấy trong nước có tục lệ mỗi khi người chồng
chết, người vợ phải tự đốt mà chết theo. Zadig đề nghị thêm vào đó một
thủ tục khác là trước khi tự đốt người vợ phải ngồi một mình trong một
giờ với một người đàn ông hào hoa phong nhã. Sau những cuộc tiếp xúc
nầy, đa số những người vợ từ chối tự thiêu.
Khi
đi công tác tại triều đình vua Serendib, Zadig giúp nhà vua chọn lựa
người thực thà để ra làm quan. Ông cho bày tất cả ngọc ngà châu báu
trong một phòng nhỏ và kín đáo rồi mời tất cả những người muốn ra làm
quan phải vào trong đó từng người một. Sau khi tất cả mọi người có dịp
vào phòng chất đầy của quý, Zadig mời tất cả dự cuộc khiêu vũ. Không
người nào nhảy đẹp và nhẹ nhàng, tất cả đều cúi đầu cong lưng hai tay
giữ chặt túi tiền. Đại khái những câu chuyện của Voltaire đều như vậy và đã làm vui vẻ được biết bao người tại lâu đài Cirey.
IV. Ở POTSDAM VỚI HOÀNG ĐẾ FRÉDÉRIQUE
Năm 1736, Voltaire bắt đầu nhận được thư của đông cung thái tử Frédérique, một người phóng khoáng và hiếu học.
Trong thư thái tử tỏ lòng ngưỡng mộ thiên tài của Voltaire và muốn xin
thụ giáo. Thái tử cho rằng Voltaire là một vĩ nhân của nước Pháp và tự
xem mình có được hân hạnh tối cao là sinh cùng thời với Voltaire. Ngoài
ra, thái tử còn gởi cho Voltaire tác phẩm Anti Michiavel lên án chiến
tranh và ca ngợi hoà bình do chính thái tử soạn thảo. Voltaire cảm động
muốn chảy nước mắt trước ý chí hoà bình của người sắp cầm quyền một nước
hùng mạnh. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, Frédérique nối ngôi vua cha và
việc đầu tiên của ông là cất quân đánh nước Schlesien (Silésie), lôi kéo
toàn thể Âu châu vào chiến tranh !
Năm
1745, Voltaire đến Paris và ứng cử vào Hàn lâm viện Pháp. Lần đầu ông
bị thất cử, lần sao ông thành công. Bài diễn văn đầu tiên của ông tại
Hàn lâm viện là một tác phẩm văn chương bất hủ. Ông ở tại Paris một thời
gian, kết bạn với nhiều văn nhân nghệ sĩ và sáng tác nhiều vở kịch. Năm
1730, vở Brutus ra đời, năm 1732 vở Eriphyle ra đời, cả hai vở kịch đều
thất bại. Nhiều người bạn khuyên Voltaire nên bỏ sáng tác kịch, nhưng
cuối năm 1732, vở kịch Zaire thâu lượm được nhiều kết quả khả quan.
Sau
15 năm chung sống, tình của ông đối với bà bá tước Chatelet vẫn không
phai nhạt. Năm 1748 bà Chatelet phải lòng bá tước Saint Lambert, việc
nầy làm ông rất buồn phiền nhưng cuối cùng, hai tình địch giảng
hoà. Năm 1749, bà bá tước Chatelet chết, chồng bà cùng hai người nhân
tình của bà là Voltaire và bá tước Saint Lambert đều có mặt lúc bà hấp
hối, thật là một tập tục kỳ lạ của giới thượng lưu Pháp trong thế kỷ thứ
18 !
Voltaire cố quên nỗi buồn
trong công việc sáng tác. Ông dự định hoàn thành tác phẩm Thế kỷ vua
Louis XIV, nhưng sau đó, ông được thư của hoàng đế Frédérique mời đến
Potsdam. Kèm theo lá thư là một ngân phiếu 3000 quan. Voltaire nhận lời
và lên đường đi Potsdam năm 1750.
Ông
được đón tiếp long trọng tại lâu đài của hoàng đế Frédérique. Ông gởi
thơ về nhà và không tiếc lời tán thưởng những tiện nghi của hoàng cung.
Tuy nhiên sau ít lâu Voltaire cảm thấy những bất tiện của hoàn cảnh. Dù
là thượng khách, Voltaire cũng chỉ là một trong bá quan văn võ của hoàng
đế. Ông cảm thấy khó chịu khi phải tiếp xúc với các tướng lãnh trong
các buổi đại yến. Ông chỉ thoải mái khi được nói chuyện riêng với hoàng đế, cùng một ít văn nhân thi sĩ. Trong những cuộc nói chuyện ấy, hoàng đế cùng đám văn nhân dùng tiếng Pháp để đàm đạo về tất cả mọi vấn đề văn chương, triết lý,
chính trị theo giòng tư tưởng. Frédérique tỏ ra có nhiều cảm tình đối
với Voltaire và trong thời gian này Voltaire không tiếc lời ca ngợi
Frédérique.
Một việc đáng tiếc xảy ra làm cho uy tín Voltaire bị giảm
sút. Ông có một số tiền đầu tư vào các chứng phiếu Saxon mặc dù
Frédérique cấm không cho mua các loại chứng phiếu ấy. Giá thị trường
chứng phiếu vọt lên và Voltaire kiếm được một số lời. Nhưng người buôn
chứng phiếu muốn chia lời cùng ông bằng cách dọa sẽ tiết lộ câu chuyện cho
Frédérique. Một cuộc cải vả xảy ra và nội vụ đến tai Frédérique. Hoàng
đế nổi giận tuyên bố rằng :"Tôi chỉ cần nó thêm một năm nữa, vắt chanh
xong tôi sẽ bỏ vỏ". Voltaire được tin nầy hết sức buồn phiền và không
còn lạc quan như xưa nữa.
Từ đó một cuộc đổ vỡ không thể tránh được. Năm 1752 hai nhà toán học của
Frédérique là Maupertuis và Koenig hục hặc nhau. Frédérique bênh vực
Maupertuis trong khi Voltaire bênh vực Koenig. Sự bạo gan của Voltaire
làm Frédérique nổi trận lôi đình. Ông viết như sau: Bọn văn nghệ của tôi
thật không biết điều, chúng nó hoàn toàn thiếu thông minh, đôi khi còn
thua cả thú vật". Voltaire viết một bài công kích Maupertuis và đọc cho
Frédérique nghe, hoàng đế không bằng lòng lắm nhưng không nói gì, chỉ
yêu cầu Voltaire đừng cho xuất bản. Mặc dù bị cấm đoán, Voltaire vẫn cho
xuất bản bài văn ấy. Frédérique nổi giận. Biết rằng sự đổ vỡ không thể
hàn gắn được, Voltaire bỏ trốn đi đến Frankfurt, mặc dù thành phố này
không nằm trong lãnh thổ của Frédérique, Voltaire lại bị nhân viên của
Frédérique chận lại, lục soát hành lý và tịch thu một số tác phẩm.
Khi
về đến biên giới nước Pháp, Voltaire được tin là chánh phủ Pháp từ chối
chiếu khán nhập nội, ông hoàn toàn tuyệt vọng, định sang Mỹ châu để
nương náu. Trong khi chờ đợi ông tạm nương náu ở ngoại ô Genève. Tại đây
ông mua lại mảnh đất, đặt tên là Les Délices. Ông quyết định làm nghề
nông để sống những ngày còn lại nhưng chính trong thời gian này những
tác phẩm vĩ đại nhất đã được sáng tác.
V. LES DÉLICES: "LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC"
Voltaire
xuất bản ở Berlin một tác phẩm vĩ đại nhan đề là: "Luận về phong tục và
tinh thần của các quốc gia, cùng những biến cố của lịch sử từ
Charlemagne đến Louis XIII". Ông bắt đầu tác phẩm này lúc còn ở Cirey
với bà Chatelet.
Chính bà
Chatelet đã hối thúc Voltaire viết lịch sử theo một quan niệm mới. Bà
thường nói rằng : "đối với một phụ nữ Pháp như tôi thì việc vua Egli kế
vị vua Haquin hoặc hoàng tử Ottomann là con của quốc vương Ortogrul
không có nghĩa lý gì hết. Tôi chưa bao giờ có đủ nhẫn nại đọc hết những
cuốn sử ký. Tôi chỉ tìm thấy ở trong đó những sự kiện lộn xộn không bổ
ích, hàng ngàn trận đánh không đem lại kết quả nào. Vì lý do đó tôi chán
ghét học lịch
sử vì nó làm bận rộn tâm trí mà không soi sáng tinh thần. Voltaire cũng
cho rằng : "Lịch sử không gì khác hơn là mục kê khai những tội ác và
tai hoạ, đọc lịch sử một vài quốc gia thật chẳng khác gì đọc chuyện của
những kẻ cướp đường cướp chợ". Do đó Voltaire thấy cần phải viết lại
lịch sử theo một quan niệm mới, cố gắng tìm thấy khuynh hướng chung nằm
sau những biến cố. Ông nói rằng : "Chỉ những triết gia mới có thể viết lịch sử. Trong hầu hết các quốc gia, lịch sử bị bóp méo bởi những chuyện bịa
đặt, tâm trí con người bị đen tối bởi nhiều thế kỷ lầm lẫn, nhiều sự
kiện, nhiều chứng tích, nhiều nghi lễ được tom góp lại để yểm trợ cho sự
dối trá. Lịch sử không gì khác hơn là những trò chơi xấu mà người chết
là nạn nhân. Chúng ta thay đổi quá khứ để thích hợp với ý muốn của chúng
ta. Người ta dùng lịch sử để chứng minh bất cứ cái gì".
Voltaire
cố gắng tìm trong đống sự kiện của quá khứ những chân lý của lịch sử.
Ông bắt đầu xét những sự kiện và soạn thảo một số tác phẩm như: Lịch sử
Nga, Lịch sử Charles XII, Thời đại Louis XIV, Thời đại Louis XIII.
Voltaire đọc tất cả những tài liệu, hằng trăm tác phẩm, hằng trăm hồi
ký, ông viết thơ riêng để hỏi lại các nhân chứng và sau khi xuất bản
sách ông vẫn tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi trong các lần tái bản. Gom
góp sự kiện chưa phải là công việc chính, điều cốt yếu là phải biết lựa
chọn và sắp đặt. Voltaire nói rằng :"Những chi tiết trong lịch sử không
khác gì những hành lý trong quân đội, nghĩa là một loại chướng ngại vật.
Tâm trí con người quá yếu ớt, nó sẽ bị chìm xuống nếu mang nặng quá
nhiều chi tiết. Tốt hơn hết là nên sắp đặt các chi tiết vào một mục
riêng để ai muốn biết rõ thì tìm ở đó". Công việc chính của Voltaire là
tìm một nguyên lý khả dĩ cho chúng ta hiểu được lịch sử của nền văn minh
Âu châu và ông tin tưởng rằng nguyên lý ấy là sự phát triển của văn
hoá. Ông kết luận rằng :"Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của
các vua chúa mà phải đề cập đến trào lưu tiến hoá của dân tộc, không nên
đề cập đến các quốc gia riêng rẽ mà phải đề cập đến toàn thể nhân loại,
không nên đề cập đến chiến tranh mà phải đề cập đến sự tiến triển của ý
thức. Những trận đánh, những bộ đội chiến thắng hoặc chiến bại, những
thành phố bị chiếm đi hoặc chiếm lại là những sự kiện quá tầm thường của
lịch sử, không nói lên điều quan trọng. Tôi muốn viết lịch sử của xã
hội thay vì của chiến tranh, tôi muốn tìm hiểu con người sống và suy
nghĩ như thế nào qua các thời đại. Mục đích của tôi là lịch sử của ý
thức con người, tôi không bận tâm đến những việc riêng của các vua chúa.
Điều tôi muốn biết là qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng
thái man rợ đến trạng thái văn minh".
Trung
thành với quan niệm trên, Voltaire viết những tác phẩm lịch sử đầu tiên
đề cập đến sự tiến triển của văn minh. Có thể nói rằng ông đã đặt nền
móng cho khoa học lịch sử hiện đại. Nhiều học giả muốn
bắt chước ông nhưng không một ai hoàn toàn theo kịp ông. Lối viết lịch
sử của Voltaire đã làm cho nhiều nhà quyền thế phải thất vọng, nhất là
giáo hội thời bấy giờ. Chẳng hạn Voltaire cho rằng chính vì ảnh hưởng
của Thiên chúa giáo mà nền văn minh La Mã bị đồi trụy nhanh chóng để đi
đến chỗ suy sụp làm mồi cho những đạo quân xâm lăng. Voltaire lại còn
làm xúc động tự ái của người Âu châu trong khi đề cập đến các tôn giáo
của Trung hoa, Ấn độ, Ba tư ngang hàng với Thiên chúa giáo. Một thế giới
mới, thế giới đông phương, xuất hiện trong tác phẩm của Voltaire. Âu
châu bị đặt trước một sự thật rộng lớn khiến cho các quan niệm độc tôn
của dân tộc Âu châu bị lung lay đến cội rễ. Chính vì thấy Voltaire quá
đề cao các dân tộc và văn hoá xa lạ mà hoàng đế nước Pháp ra lịnh không
cấp chiếu khán cho Voltaire trở về Pháp.
VI. FERNEY: CANDIDE
Tạm
ở Les Délices đến năm 1758, Voltaire dời qua Ferney, một làng nằm giữa
biên giới Thuỵ sĩ và Pháp. Ở đây ông cũng có thể tránh được vòng kiềm
toả của chính quyền Pháp. Thế mà mãi đến lúc 64 tuổi ông mới được ở yên
một chỗ. Ông có một khu vườn rộng trồng rất nhiều cây ăn trái, mặc dù
không hy vọng gì thu được hoa lợi vì tuổi ông đã già. Khi một kẻ ái mộ
khen ngợi Voltaire về công việc ông đã làm cho hậu thế, Voltaire trả
lời:"Phải, tôi đã trồng được 4000 cây". Trong một dịp khác có một người
đến thăm Voltaire, tự xưng là người nhà của ông Haller, Voltaire nói:
- Tôi biết rõ ông Haller, đó là một thi sĩ, văn sĩ, triết gia, một nhân tài hiếm có.
- Ông khen ông Haller như vậy, nhưng trái lại, theo chỗ tôi biết, thì ông Haller coi ông như một người tầm thường.
- Có lẽ rằng cả ông Haller và tôi đều nhầm lẫn.
Ferney
trở thành thủ đô của giới trí thức. Các văn nhân nghệ sĩ danh tiếng và
các bậc vua chúa thường liên lạc với Ferney hoặc đích thân đến đó. Trong
số các quan khách, có nhiều tu sĩ, nhà quý phái, mệnh phụ phu nhân. Các
nhân vật như Gibbon, Boswell ở Anh quốc, d´Alembert và Helvétius ở Pháp
đều đã từng có mặt ở Ferney. Sự có mặt của quá đông quan khách danh
tiếng gây rất nhiều tốn kém cho Voltaire. Ông thường ví mình như người
chủ khách sạn cho giới trí thức Âu châu. Một hôm, một danh nhân đến
Ferney và tỏ ý muốn ở lại đó 6 tuần, Voltaire nói rằng: "Ông chẳng khác
gì Don Quichotte, ông nầy lầm tưởng khách sạn là lâu đài, còn ông lầm
tưởng lâu đài nầy là khách sạn". Voltaire kết luận: Xin Chúa giữ gìn tôi
khỏi bạn bè, vì tôi biết cách tự giữ gìn đối với kẻ thù.
Rất
nhiều người gởi thơ để hỏi ý kiến Voltaire. Một ông thị trưởng ở Đức
nhờ Voltaire cho biết Thượng đế có hay là không. Vua Thụy điển Gustav
III lấy làm hãnh diện vì có lần Voltaire nhắc đến ông. Vua Đan mạch
Christian VII xin lỗi Voltaire vì đã không thi hành các cải cách xã hội
sớm hơn. Nữ hoàng Catherine II ở Nga gởi Voltaire nhiều tặng phẩm quý
giá. Sau cùng, chính Frédérique sau một năm hờn dỗi cũng gởi thơ cho
Voltaire tỏ lòng ngưỡng mộ.
Mặc
dù được toàn thể thế giới ca tụng, Voltaire là một người rất bi quan.
Ông chống lại thuyết lạc quan của Leibnitz từ khi ông còn là một thanh
niên vui chơi trong các quán rượu ở Paris. Thuyết bi quan của ông bị
nhiều người chỉ trích, ông trả lời như sau:"Nếu tất cả nhân loại đều
sung sướng tại sao có nhiều người quyên sinh ?". Kinh nghiệm bản thân
làm cho ông bi quan. Tai nạn lịch sử xảy ra tháng 11 năm 1755, trong đó
30 000 người bị chôn vùi sau một trận động đất ở Lisbonne làm Voltaire
bi quan thêm. Tai nạn xảy ra nhằm ngày lễ Các Thánh, rất nhiều tín đồ bị
chôn vùi trong khi đang cầu nguyện tại các thánh đường. Voltaire rất
buồn phiền cho số phận con người và rất bất bình khi nghe các tu sĩ ở
Pháp giảng giải
rằng tai nạn ở Lisbonne là một hình phạt mà Chúa dành cho những người
có quá nhiều tội ác. Ông nói rằng : "Hoặc là Chúa có thể cứu nhân loại
mà Chúa không cứu, hoặc là Chúa muốn cứu nhân loại mà Chúa không làm
được". Voltaire cũng không đồng ý với Spinoza rằng hạnh phúc và bất hạnh
của loài người không có nghĩa lý gì trong vũ trụ. Vài tháng sau, Âu
châu trải qua một cuộc chiến tranh khốc hại kéo dài 7 năm, nguyên do là
sự giành giựt đất đai giữa Pháp và Anh. Voltaire coi đó là một cuộc tự
sát tập thể. Để trả lời Rousseau, một triết gia theo phái lạc quan, Voltaire viết một quyển sách nhỏ nhan đề Candide.
Chưa
bao giờ thuyết bi quan được trình bày một cách ý nhị và trào lộng như
vậy. Các biến cố trong truyện xảy ra rất nhanh, không có những đoạn tả
cảnh rườm rà, chỉ toàn là những cuộc đối thoại và những lời kể chuyện,
thật đúng như lời Anatole France đã nói: "Dưới bàn tay Voltaire ngòi
bút chạy nhảy và cười". Candide là một thiếu niên tánh tình bình dị và
thật thà, con nhà quý phái, được giao cho giáo sư Pangloss trông nom.
Pangloss là một người thông kim bác cổ và vô cùng lạc quan. Theo
Pangloss thì cuộc sống được tổ chức vô cùng hoàn hảo để con người sung
sướng tối đa. Mũi dùng để mang kiếng, chân dùng để mang tất, đá dùng để
xây lâu đài, heo được sinh ra để người có thịt ăn suốt năm...
Trong khi Pangloss đang giảng giải
thì giặc kéo đến, Candide bị bắt làm tù binh. Nó phải làm việc suốt
ngày. Một ngày kia nó muốn đi dạo chơi vì Pangloss có dạy rằng con người
có tự do dùng đôi chân của mình. Nó đi được vài dặm thì bị bốn người
lực lưỡng bắt trói và kéo vào một toà lâu đài. Người ta bảo nó phải lựa
một trong hai hình phạt: một là bị toàn thể quân lính trong lâu đài đánh
36 lần, hai là bị bắn 2 phát vào đầu. Nó cãi lại rằng trí óc của con
người có tự do và từ chối cả hai hình phạt. Nhóm người kia không nghe,
bắt buộc nó phải lựa, cuối cùng nó xin bị đánh 36 lần.
Candide
trốn khỏi những người giam giữ nó và chạy về Lisbonne. Giữa đường nó
gặp giáo sư Pangloss và được biết rằng cha mẹ nó đã chết, lâu đài đã bị
tàn phá. Pangloss nói thêm: "Tất cả những tai nạn ấy đều là cần thiết,
cá nhân phải chịu trách nhiệm để tập thể được sung sướng. Khổ của cá
nhân càng nhiều, sướng của tập thể càng lớn". Hai người đến Lisbonne thì
vừa gặp trận động đất lịch sử nhưng cả hai đều thoát nạn. Hết trận động
đất, đến vụ đàn áp tôn giáo khiến cho Candide phải chạy trốn qua
Paraguay. Đến một đồn điền của người Hoà Lan, nó gặp một người mọi chỉ
còn một tay và một chân. Người ấy kể chuyện như
sau: "Tôi làm việc tại nhà máy đường lỡ bị kẹt ngón tay vào máy, người
ta chặt luôn cả cánh tay của tôi. Sợ quá tôi chạy trốn, người ta chặt
bớt của tôi một chân. Đó là cái giá mà tôi phải trả để các ông có đường
ăn ở Âu châu". Tình cờ Candide tìm được một bãi cát có vàng, nó lượm
được vô số vàng và thuê một chiếc tàu định trở về Pháp. Bất ngờ bọn thuỷ
thủ trên tàu cướp hết vàng và để Candide một mình bơ vơ trên bờ. Sau
nhiều nỗi gian truân, Candide xin được một chỗ ngồi trên chuyến tàu về
Bordeaux. Trên tàu nó gặp một triết gia tên là Martin. Candide hỏi:
-
Ông có tin rằng từ xưa đến nay loài người vẫn giết nhau, ông có tin
rằng giống người là một giống nói láo, ăn cắp, phản phúc, vô ơn, biển
lận, ganh tị, khát vọng, khát máu, vu khoát, dâm ô, cuồng tín, giả dối và điên đảo không ?
- Mầy có tin rằng diều hâu luôn ăn thịt bồ câu từ khi có giống diều hâu trên trái đất không ?
- Chắc chắn như vậy.
- Nếu diều hâu không đổi tánh của nó thì làm sao giống người lại đổi tánh được ?
Qua những câu chuyện đại
loại như trên, Voltaire đả kích thuyết lạc quan. Sau khi chịu nhiều đau
khổ và rủi ro trong xã hội loài người, Candide mua một mảnh vườn ở Thổ
nhĩ kỳ và gặp lại giáo sư Pangloss. Hai thầy trò nhắc lại câu chuyện xưa,
Pangloss nói: „Các biến cố trên cõi đời này hợp lại với nhau để làm
cuộc đời thêm tươi đẹp, nếu mầy không bị tan nát gia đình nhà cửa, nếu
mầy không bị đàn áp vì lý do tôn giáo, nếu mầy không đi Mỹ, nếu mầy
không bị mất hết của cải thì có lẽ bây giờ mầy không được ngồi đây để ăn
chanh muối với tao“. Candide trả lời: „Thầy nói rất đúng, thôi chúng ta
ra làm vườn“.
Voltaire chấm dứt câu chuyện bằng câu nói lửng lơ nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa.
VII. BÁCH KHOA TỰ ĐIỂN VÀ TRIẾT LÝ TỰ ĐIỂN
Cuốn
Candide rất được các giới hâm mộ chứng tỏ rằng trình độ trí thức của
dân chúng hồi đó rất cao. Mặc dù những giáo điều và những sự ép buộc của
các giới giáo sĩ, dân chúng vẫn hân hoan chào đón tác phẩm Candide như
một luồng gió mới. Phong trào cải cách tôn giáo phát xuất từ Đức không
được hưởng ứng tại nước Pháp, khiến cho ảnh hưởng của các giáo lý thủ
cựu vẫn còn rất mạnh. Ở Anh quốc, sự thay đổi từ chế độ tôn giáo độc tài
đến chế độ tự do, diễn tiến rất êm thấm. Tại Pháp, sự thay đổi rất đột
ngột.
Một bác sĩ quân y tên là La
Mettrie bị sa thải vì viết một cuốn sách động chạm đến các giáo điều.
Ông phải chạy trốn sang Đức và được vua Fréderique che chở. Cũng như
Descartes, La Mettrie có khuynh hướng giảng giải
các hiện tượng sinh lý bằng các hiện tượng vật lý. Lý thuyết này đi
ngược lại với các giáo điều xem đời sống có tính cách thiêng liêng. La
Mettrie còn cho rằng trí thông minh phát xuất do nhu cầu. Trí thông minh
của loài người cao hơn của loài vật. La Mettrie kết luận:“Không có nhu
cầu nghĩa là không có ý thức“.
Helvétius
lập lại những luận điệu của La Mettrie, ông cho rằng tất cả các hoạt
động đều do vị kỷ mà ra, chính những người anh hùng vị tha thật ra cũng
hoạt động theo lòng vị kỷ. Lương tâm không phải là tiếng nói của Chúa mà
là tiếng nói của sợ hãi. Nó được thành hình trong mỗi cá nhân do sự sợ
hãi lưu truyền từ đời nầy sang đời khác. Đạo đức không thể tìm thấy
trong giáo lý mà phải tìm thấy trong khoa học xã hội, chính sự thay đổi trong các nhu cầu của xã hội quyết định lương tâm của cá nhân.
Một tác giả khác,
Diderot cùng với Holbach cho rằng thần linh được tạo nên do sự sợ sệt
và ngu si của loài người, sự yếu đuối của loài người thờ phượng các thần
linh, sự dại dột lưu giữ họ và nền độc tài ủng hộ để mưu cầu lợi riêng.
Sự tin tưởng vào Chúa được gắn liền với sự phục tùng vua, cả hai khuynh
hướng cùng lên và cùng xuống với nhau. Con người chỉ trở nên thật sự tự
do khi bộ ruột của ông giáo sĩ cuối cùng được đem dùng để treo cổ ông
vua cuối cùng. Thuyết duy vật có lẽ quá thô sơ nhưng nó là một lợi khí
để chống lại ảnh hưởng của các giáo điều và cần phải được xử dụng khi
chưa tìm được một lợi khí sắc bén hơn. Đó là những ý tưởng là Diderot và
d' Alembert trình bày trong cuốn Bách khoa tự điển được xuất bản từ
1752 đến 1772. Giáo hội vận động để cấm xuất bản, một vài cộng sự viên
của Diderot sợ bị liên lụy đều bỏ dở công việc, nhưng Diderot vẫn cương
quyết tiến hành. Ông nói rằng các giáo sĩ không thể nào chống với lẽ
phải mãi mãi.
Trong cao trào tranh đấu giải
phóng ý thức con người, Voltaire đóng một vai trò lãnh đạo. Ông đóng
góp nhiều bài có giá trị trong cuốn Bách khoa tự điển và sáng tác thêm
một cuốn nhan đề là Triết lý
tự điển. Ông bày tỏ quan niệm một cách rất táo bạo và không kém phần
lưu loát. Mặc dù viết rất nhiều, văn chương của Voltaire không bao giờ
cẩu thả. Người ta có thể nói quá nhiều trong một cuốn sách. Voltaire vẫn
nói quá tóm tắt trong một trăm cuốn. Ông bắt đầu bằng cách hoài nghi và
đả phá tất cả những hệ thống tư tưởng đã có từ trước. Ông nói rằng :
„Càng nghiên cứu tôi càng nhận thức rằng những hệ thống siêu hình đối
với triết gia
không khác gì tiểu thuyết đối với phụ nữ. Chỉ những kẻ lưu manh mới dám
cho là quan niệm của mình hoàn toàn xác thực. Thực là một sự điên rồ
của con người, khi muốn định nghĩa Thiên Chúa, thiên thần và ý thức, khi
muốn biết đích xác Chúa đã tạo lập thế giới như thế nào, trong khi
người ta không biết tại sao cánh tay con người có thể cử động được. Ông
kể chuyện sau đây giữa một triết gia Ấn độ và ông.
Triết gia Ấn độ nói:
- Tôi đã học hỏi
trong 40 năm nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng tôi bỏ phí thì giờ. Tôi tin
rằng con người do vật chất mà có, nhưng tôi chưa bao giờ thoả mãn trong
sự tìm hiểu cái gì tạo nên ý nghĩ. Tôi nói rất nhiều nhưng khi hết nói
tôi trở nên lúng túng và hổ thẹn vì những điều tôi đã nói ra. Tôi vừa
nói chuyện với bà già hàng xóm, tôi hỏi bà ta có đau khổ vì không biết rõ linh hồn không ? Câu hỏi
tôi làm bà ngạc nhiên, suốt cả đời bà chưa bao giờ băn khoăn về vấn đề
ấy. Bà tin tưởng vào thần Vishnu và khi được tắm bằng nước sông Hằng để
rửa sạch tất cả các tội lỗi thì bà hoàn toàn mãn nguyện.
- Ông có hổ thẹn chăng khi cách ông không đầy 50 thước có một người sống hạnh phúc mà không cần phải suy nghĩ như ông ?
-
Ông nói phải, tôi đã nhiều lần tự nhủ, nếu tôi hoàn toàn ngu dốt như bà
già hàng xóm thì tôi sẽ có hạnh phúc nhiều hơn nhưng đó là một thứ hạnh
phúc mà tôi không muốn.
Dù cho triết lý
đưa con người đến chỗ hoài nghi tất cả, nó vẫn là một công cuộc cao cả
và đẹp đẽ nhất của con người. Chúng ta nên bằng lòng với những tiến
triển khiêm nhường hơn là thêu dệt những hệ thống siêu hình hoàn toàn
bằng trí tưởng tượng.
VIII. CHỐNG ĐỘC TÀI ÁP BỨC
Voltaire
được mọi người kính nể và thưởng thức tài nghệ của ông. Ngay các giáo
sĩ cũng không chống lại ông. Trong tình trạng ấy có lẽ, ông không cần
phải tranh đấu nhiều. Khốn thay một vài lạm dụng tôn giáo đã khiến cho
Voltaire bất bình và quyết tâm tranh đấu chống áp bức.
Ở
Toulouse, cách Ferney không xa, các giáo sĩ Cơ đốc giáo có quyền hành
rất lớn và có khuynh hướng độc tài. Họ cương quyết chống lại những người
theo đạo Tin lành. Đến ngày kỷ niệm bãi bỏ hiến chương Nantes tức là
hiến chương của vua nước Pháp cho người theo đại Tin lành được tự do
hành đạo, dân chúng ở Toulouse cùng với các giáo sĩ Cơ đốc giáo tổ chức
để ăn mừng. Ngoài ra, họ còn kỷ niệm ăn mừng ngày St. Bartholomy tức là
ngày mà giáo phái Tin lành bị giáo phái Cơ đốc sát hại. Không một người
Tin lành nào ở Toulouse được quyền hành nghề luật sư, bác sĩ, dược sĩ,
bán tạp hoá, bán sách, mở nhà in. Những tín đồ Cơ đốc giáo không được
mướn nhân viên hoặc người giúp việc theo phái Tin lành. Năm 1748 một
người đàn bà bị phạt 3000 quan vì đã mướn một nữ hộ sinh theo giáo phái
Tin lành.
Một người Tin lành tên là
Jean Calas có một đứa con gái theo đạo Cơ đốc và một đứa con trai vì
buôn bán lỗ lã nên treo cổ tự sát. Ở Toulouse có một đạo luật quy định
rằng tất cả những người tự sát vì đi ngược lại giáo điều của Cơ đốc giáo
nên phải bị nhục hình trong khi chôn cất. Họ bị lột hết quần áo đặt
trên tấm ván, mặt úp xuống đất, thây của họ bị kéo đi khắp đường phố và
cuối cùng bị treo lên tại nơi hành hình các tử tội. Chàng thanh niên con
của Jean Calas đáng lẽ phải bị đối xử như thế nhưng Jean Calas tìm cách
chạy chữa. Ông nhờ bà con hàng xóm chứng nhận rằng con ông chết vì bịnh
chớ không phải chết vì tự sát. Ý định của Jean Calas bị hiểu lầm, thay
vì giúp đỡ ông ta, người ta lại tố cáo ông đã giết con là vì không muốn
con theo Cơ đốc giáo. Calas bị bắt, bị tra tấn và chết trong ngục năm
1761. Gia đình ông bị sạt nghiệp phải chạy qua Ferney ở nhờ Voltaire. Do
đó câu chuyện áp
bức nầy đến tai Voltaire. Năm 1765, một thanh niên 16 tuổi tên là La
Barre bị bắt vì tội phá hoại thánh giá. Y bị tra tấn và phải nhận tội.
Hình phạt dành cho y là bị chặt đầu và vất vào đống lửa trước sự hoan hô
của đám giáo dân cuồng tín.
Trước những cảnh áp bức như vậy, Voltaire không còn giữ được sự bình tĩnh. Ông chỉ trích gắt gao những văn sĩ, ký giả không
biết dùng thiên chức của mình để chống áp bức. Ông nói rằng: „Đây không
phải là lúc để trào phúng, văn chương trào phúng không đi đôi với sự
giết người. Phải chăng đất nước nầy là đất nước của triết lý
và của sự hưởng thụ ? Không, đất nước nầy là đất nước của sự tàn sát
Saint Bartholomy“. Những sự bất công tàn bạo làm nổi dậy sự bất bình của
Voltaire, ông không còn là một văn nhân, ông trở nên một người đấu
tranh tích cực. Ông nêu lên khẩu hiệu „Tất cả phải chống áp bức“ và lôi
kéo dân chúng nước Pháp chống lại những tệ trạng do giáo hội gây nên.
Ông gởi thơ cho các văn hữu và tất cả các người hâm mộ ông kêi gọi họ
đánh đổ bọn cuồng tín gieo rắc mê tín dị đoan với chính sách ngu dân.
Không nên để những kẻ tàn bạo cầm quyền.
Giáo
hội bắt đầu lo ngại về những hành động của Voltaire. Người ta định mua
chuộc ông để khỏi bị ông chỉ trích. Do sự trung gian của bà Pompadour
giáo hội muốn phong cho Voltaire làm hồng y nếu ông chịu chấm dứt chiến dịch tuyên
truyền chống giáo hội. Lẽ dĩ nhiên Voltaire từ chối vì chức hồng y
không nghĩa lý gì đối với một người mà danh vọng tràn khắp Âu châu.Trong
tác phẩm nhan đề Luận về sự ôn hoà trong tôn giáo Voltaire chỉ trích
gắt gao những vụ tranh chấp đổ máu vì những điểm hoàn toàn vô nghĩa. Lời
khuyên tầm thường: "Hãy tin tưởng như tôi nếu không Chúa sẽ phạt anh"
dễ biến thành một lời đe doạ "Phải tin tưởng như tôi, nếu không tôi sẽ
giết anh". Voltaire hỏi:" Làm sao có thể bắt một người khác phải tin
tưởng như mình ? Sự cuồng tín hợp lực với mê tín dị đoan và dốt nát là
căn bịnh trầm trọng của thế kỷ". Nếu con người không biết sống chung mặc
dù bất đồng ý kiến về các vấn đề tôn giáo, chính trị, triết lý
thì không bao giờ tìm được nền hoà bình vĩnh cửu trên trái đất này.
Công việc đầu tiên là chống tổ chức đàn áp do những kẻ dựa vào thế lực
tôn giáo và chính trị.
Tác
phẩm Luận về sự ôn hoà trong tôn giáo được nối tiếp bằng nhiều bài báo,
văn thư, truyện ngắn, thơ ngụ ngôn, tiểu luận dưới bút hiệu Voltaire
hoặc nhiều bút hiệu khác để đả kích các tệ đoan do sự cuồng tín gây nên.
Các nhà phê bình đời sau cho rằng trong lịch sử chưa bao giờ có một cá
nhân làm nổi công việc sáng tác phong phú để đả kích một tệ đoan xã hội
như Voltaire đã làm. Mặc dù viết rất nhiều, văn chương của Voltaire luôn
luôn trong sáng, bình dị, thích hợp với tất cả mọi giới. 300.000 cuốn
sách của Voltaire đả kích giáo hội đã được bán ra. So với số đọc giả ít oi của thời đại ấy thì con số trên là một kỷ lục hiếm có.
Voltaire
cho rằng những nghi lễ và giáo điều của Thiên chúa giáo không khác gì
những nghi lễ hoặc những giáo điều dưới thời cổ Hy Lạp, Ai cập hoặc Ấn
độ. Voltaire phê bình một cách hóm hỉnh rằng :" Thiên chúa giáo phải là
một tôn giáo thiêng liêng vì nó đã sống nổi 1700 năm mặc dù tất cả những
sự xấu xa và vô lý của nó". Ông còn chứng minh rằng hầu hết các dân tộc
khác cũng có những lối tín ngưỡng na ná giống như Thiên chúa giáo. Ông
không đả kích tôn giáo mà chỉ đả kích mê tín dị đoan. Ông nói rằng :"
Không phải dân chúng đã tạo nên giáo phái nầy hoặc giáo phái khác mà
chính những kẻ ăn không ngồi rồi cố tạo nên chia rẽ để hưởng lợi, những
kẻ ấy muốn dân chúng phải sợ thần linh và họ núp bóng thần linh để tác
oai tác quái".
Mặt khác Voltaire cũng đả
kích rất nặng nề những kẻ theo thuyết vô thần. Ông nói rằng : "Tôi phải
công nhận có một đấng tối cao, nhưng con người không làm sao hiểu nổi
đấng tối cao là ai và ý định của đấng tối cao là gì ? Phủ nhận đấng tối
cao cũng là một hành động điên rồ, không khác gì quả quyết hiểu rõ cá
nhân và ý định của đấng tối cao". Voltaire chỉ trích lối tin tưởng có
tính cách cá nhân cho rằng Thiên chúa có thể can thiệp vào những việc
riêng của những cá nhân. Ông nói rằng: "Tôi tin vào một đấng tối cao
tổng quát đã tạo nên những định luật muôn đời chi phối toàn thể vũ trụ
nhưng tôi không tin vào một Thiên chúa riêng biệt sẵn sàng thay đổi định
luật của vũ trụ để làm vừa lòng một cá nhân. Sự cầu nguyện chân chính
không phải là xin thay đổi định luật thiên nhiên để có lợi cho mình mà
là chấp nhận định luật ấy, coi đó như là ý muốn của Thiên chúa".
Voltaire
không tin sự hiện hữu của linh hồn. Ông nói rằng :"Dù có viết 4000 cuốn
sách về siêu hình người ta cũng không làm sao biết rằng linh hồn là gì ?
Không ai gán một linh hồn bất diệt cho con ruồi, con voi hoặc con khỉ.
Tại sao lại gán một linh hồn cho con người ? Cái đó chắc chắn là do ở
tánh kiêu căng mà ra. Tôi tin tưởng rằng nếu con công biết nói nó sẽ
khoe khoang rằng nó cũng có một linh hồn và đoan chắc rằng linh hồn ấy
nằm sau cái đuôi lộng lẫy của nó".
Mặc
dù không tin linh hồn bất diệt, Voltaire cho rằng cần phải để cho dân
chúng tin tưởng vào sự thưởng phạt của thần linh. Voltaire nói rằng:"Một
xã hội vô thần chỉ có thể tồn tại nếu tất cả đều là triết gia.
Tôi muốn ông luật sư của tôi, ông thợ may của tôi hoặc vợ tôi (sự thật
là Voltaire không có vợ !) tin tưởng vào Thiên chúa, có như vậy họ mới
không lường gạt tôi. Nếu Thiên chúa không có, cần phải tạo ra một Thiên
chúa. Tôi bắt đầu chú trọng đến hạnh phúc gần gũi nhiều hơn đến chân lý
xa vời. Trong một bức thư gởi cho Holbach, Voltaire nói rằng :"Sự tin
tưởng vào Thiên chúa làm cho con người không dám phạm tội. Chỉ một lý do
ấy cũng rất đầy đủ. Nếu một tín ngưỡng có thể bớt được cho nhân loại
mười vụ ám sát, mười vụ vu cáo, tôi tưởng rằng mọi người nên theo tín
ngưỡng ấy. Những tệ đoan do tôn giáo tạo nên, sự thật là do mê tín chứ
không phải là tôn giáo. Mê tín quấn lấy tôn giáo không khác gì con rắn
độc, cần phải giết con rắn độc mà không làm phương hại đến tôn giáo.
IX. VOLTAIRE VÀ ROUSSEAU
Voltaire
bận rộn tranh đấu chống áp bức trên lãnh vực tôn giáo nhiều hơn là trên
lãnh vực chính trị. Tuy nhiên những ý tưởng của ông về chính trị cũng
đáng cho ta nghiên cứu. Trước hết Voltaire cho rằng chính trị là một
việc vô cùng phức tạp không bao giờ có thể giải quyết dứt khoát bằng một vài quan niệm giản
dị. Chân lý không nằm trong các đảng phái, người ta có quyền chọn đảng
phái, nhưng không có quyền loại bỏ đảng phái đối nghịch ra khỏi lãnh vực
chính trị. Là một người giàu có, Voltaire có khuynh hướng bảo thủ. Ông
chủ trương tư sản hoá vì chế độ tư sản tăng trưởng nhân cách. Tinh thần
tư sản tăng thêm lòng hăng hái của con người. Một người làm ruộng sẽ
hăng hái cày cấy nhiều hơn nếu mảnh ruộng đó là của mình. Voltaire từ
chối không đề cao một chánh thể nào. Trên nguyên tắc ông chọn lựa chánh
thể cộng hoà, nhưng theo ông chánh thể này cũng có nhiều khuyết điểm, vì
nó có khuynh hướng phát sinh các bè phái khiến cho sự thống nhất quốc
gia bị tổn thương và nội chiến có cơ hội phát triển. Do đó, chế độ cộng
hoà chỉ thích hợp với những nước nhỏ. Đó là loại chế độ sơ khai của loài
người phát sinh từ sự kết hợp của nhiều gia đình trong các bộ lạc bán
khai ở Mỹ châu và Phi châu. Đối với chế độ quân chủ, Voltaire cho rằng
chỉ có những ông vua mới thích chế độ nầy.
Ngoài
các vấn đề ái quốc, Voltaire còn chủ trương cần phải thân thiện với tất
cả các quốc gia khác. Trong khi nước Pháp đang lâm vào chiến tranh với
hai nước Anh và Đức, Voltaire vẫn khen ngợi các chế độ chính trị tại hai
nước này. Đối với chiến tranh Voltaire coi đó là một tội ác lớn nhất,
ông nói rằng: "Cần phải năm mới nuôi dưỡng được một con người từ trong
lòng mẹ đến khi trưởng thành, cần phải 30 thế kỷ mới hiểu rõ đôi chút về
cơ thể con người, cần phải một thời gian vô tận mới hiểu rõ đôi chút về
linh hồn con người, nhưng chỉ cần một khoảnh khắc là đủ giết chết con
người".
Voltaire có chủ trương cách mạng bạo động không ?
-
Không, vì trước hết ông không tin tưởng vào dân chúng, đa số quần chúng
không bao giờ biết tự kềm chế. Họ chỉ đi từ lầm lẫn nầy đến lầm lẫn
khác. Voltaire cũng không tin vào sự bình đẳng. Ông cho rằng sự bất bình
đẳng đã được khắc vào cơ cấu xã hội. Người ta có thể quan niệm bình
đẳng trước pháp luật nhưng không thể quan niệm bình đẳng trong việc phân
chia quyền hành và của cải. Đó cũng là quan niệm của những phần tử ôn
hoà như Turgot, Condorcet, Mirabeau muốn làm một cuộc cách mạng ôn hoà.
Đa số quần chúng lại nghĩ khác, họ muốn được bình đẳng hơn là tự do. Đại
diện cho khuynh hướng nầy có Rousseau và các nhà cách mạng quá khích
Marat và Robespierre.
Voltaire
không tin tưởng vào những chính thể lý thuyết. Ông cho rằng xã hội phát
triển theo với thời gian và mang nặng quá khứ, không thể hoàn toàn xoá
bỏ quá khứ để tạo nên một xã hội hoàn toàn theo đúng lý thuyết. Nếu
người ta ném quá khứ qua cửa sổ nó sẽ trở lại bằng cửa lớn. Sự cách biệt
giữa Voltaire và Rousseau là sự cách biệt giữa lý trí và bản năng.
Voltaire tin rằng con người có thể được cải thiện bằng lý trí trong khi
Rousseau không tin vào lý trí, và không sợ một cuộc bạo động, ông muốn
phá vỡ tất cả, đem con người trở lại đời sống thiên nhiên trong sự bình
đẳng tuyệt đối. Những ý nghĩa nầy được trình bầy trong tác phẩm Luận về
nguyên do của sự bất bình đẳng mà Rousseau đã gởi tặng cho Voltaire. Các
luận điệu của Rousseau làm cho Voltaire bất bình, ông nói rằng:"Sau khi
đọc tác phẩm trên, người ta muốn trở lại trạng thái sơ khai và đi bằng
bốn chân". Mặc dù không đồng ý với Rousseau, Voltaire cũng phản đối nhà
cầm quyền Thụy sĩ ra lệnh đốt sách Rousseau. Ông nói. "Tôi hoàn toàn
không đồng ý với anh, nhưng tôi sẵn sàng hy sinh tánh mạng để bênh vực
quyền tự do phát biểu ý kiến của anh". Voltaire tin tưởng rằng mặc dù
tất cả các tệ đoan, con người trong xã hội hơn hẳn con người trong trạng
thái thiên nhiên. Trong tác phẩm „Le monde comme il va“ Voltaire kể lại câu chuyện sau: "Thành Persepolis sống trong sự sa đoạ, câu chuyện lên
đến tai Ngọc hoàng, ngài bèn sai một thiên thần xuống điều tra trước
khi ra lệnh tận diệt thành phố ấy. Thiên thần lúc đầu rất bất bình về
những tệ đoan mà ông tìm thấy, nhưng dần dần ông đâm ra ưa thích lối
sống của những người dân Persepolis, một lối sống lễ độ, vui vẻ, ôn hoà
mặc dù tất cả những tật xấu khác. Để bênh vực cho thành Persepolis khỏi
bị Ngọc hoàng tận diệt, thiên thần làm một cái tượng rất đẹp gồm châu
báu ngọc ngà, trộn lẫn với đất sét. Thiên thần đem tượng đến trước Ngọc
hoàng và tâu rằng :"Cái tượng nầy không phải hoàn toàn bằng ngọc ngà,
vậy có nên đập phá chăng ? Ngọc hoàng thấy tượng đẹp không muốn phá và
đồng thời cũng bỏ ý định trừng phạt thành Persepolis. Voltaire kết luận
rằng :"Muốn đổi mới chế độ mà không đổi mới con người không chóng thì
chầy, người cũ sẽ làm sống lại chế độ cũ".
X. ĐOẠN KẾT
Lúc
ở Ferney, chẳng những Voltaire sáng tác nhiều tác phẩm giá trị, bênh
vực những kẻ bị áp bức mà còn giúp đỡ nhiều người khỏi cơn túng thiếu.
Những ai có điều thắc mắc thường muốn tìm đến ông để hỏi ý kiến, những
ai có điều oan ức thường tìm đến ông để xin can thiệp, có khi ông còn
giúp đỡ cho việc làm và sẵn sàng tha thứ những kẻ có lỗi đối với ông.
Một việc điển hình là ông đã nuôi nấng dạy dỗ và giúp đỡ một số tiền làm
của hồi môn cho đứa cháu gái của văn hào Corneille. Năm 1770 các người
hâm mộ Voltaire tổ chức một cuộc lạc quyên rộng lớn để lấy tiền đúc
tượng cho ông. Hàng ngàn người hưởng ứng cuộc lạc quyên, vì số người
hưởng ứng quá đông, ban tổ chức đành phải hạn chế phần đóng góp của mỗi
người. Hoàng đế Frédérique cũng muốn biết Ngài có thể đóng góp bao
nhiêu. Ban tổ chức trả lời:"Tối đa là một đồng tiền".
Năm
83 tuổi, Voltaire muốn trở về Paris trước khi chết. Các bác sĩ khuyên
ông không nên đi vì lý do sức khoẻ, nhưng Voltaire vẫn cứ đi. Đến Paris
ông phải tiếp 300 người khách. Trong số những người khách nầy có cả
Benjamin Franklin, chính trị gia và triết gia
Hoa kỳ. Franklin còn mang theo người cháu nhỏ để xin Voltaire đỡ đầu.
Mặc dù sức khoẻ rất kém, Voltaire vẫn đến thăm Hàn lâm viện. Chiếc xe
của Voltaire phải chen qua đám đông đứng chật đường để hoan hô ông. Tấm
màn nhung lót trên xe do nữ hoàng Nga Catherine tặng bị dân chúng xé
từng mảnh để làm kỷ niệm. Đến Hàn lâm viện ông được hoan hô nhiệt liệt
sau khi đề nghị viết lại cuốn tự điển Pháp, ông còn đi xem vở kịch Irène
do chính ông sáng tác. Buổi trình diễn hôm đó ồn ào náo nhiệt không thể
tả, toàn thể khán giả đều
nô nức vì sự có mặt của Voltaire. Khi ông trở về thì đã kiệt lực, cái
chết đã gần kề nhưng Voltaire cương quyết từ chối việc xưng tội và nhận
phép bí tích. Sau khi ông chết, các thánh đường ở Paris từ chối không
chịu làm lễ và cấp đất để chôn cất, các bạn hữu phải đem xác chết của
ông để lên xe ra khỏi thành phố Paris như một người còn sống. Đến
Scellières, một linh mục bằng lòng cho chôn cất Voltaire tại đất thánh.
Mãi đến 1791 quốc hội Pháp mới cho phép đem thi hài Voltaire về
Panthéon, nơi chôn cất các danh nhân nước Pháp. Lễ rước cốt có 100 000
người tham dự trong khi 600 000 đứng hai bên lề đường chào đón./.
Bài viết này rất hấp dẫn bạn đọc, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa