Xướng
ca vô loài
Sách
vở thường nói rằng xã hội Việt Nam ngày xưa có "Sĩ,
nông, công, thương". Như vậy là còn thiếu.
Người ta đã cố ý không kể một hạng người là bọn
xướng ca vô loài vì không biết sắp xếp bọn này vào
đâu cho ổn.
Xướng ca bị coi là vô loài, bị khinh rẻ không thua
gì thằng mõ.
Bị
khinh từ năm xửa năm xưa, từ thời vua Lê Nhân Tôn
(1447) xa tít.
"Dân
Thanh Hóa thấy vua đến, trai gái đem nhau hát rí
ren ở hành tại. Tục hát rí ren một bên con trai,
một bên con gái, dắt tay nhau hát, hoặc tréo chân
tréo cổ nhau, gọi là cắm hoa kết hoa, thói rất là
xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với thái uý Khả
rằng: "Lối hát ấy là thói dâm tục xấu, không
nên cho người hát nhảm ở trước xa giá". Khả
liền sai cấm hẳn." (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử
kí toàn thư, tập 3, Khoa Học Xã Hội,1968, tr. 139).
Trai
gái bá vai bá cổ nhau ca hát là thói dâm tục rất
xấu, cấm không được nhảm nhí trước kiệu vua. Muốn
tốt đẹp, trang nghiêm thì... vào cung vua mà múa
với hát!
Năm
1462, vua Lê Thánh Tôn quy định rằng "Nhà phường
chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan,
có tiếng xấu, bản thân và con cháu đều không được
đi thi, nếu mang sách hay mượn người làm hộ, thì
trị tội theo luật." (Đại Việt sử kí toàn thư,
sđd, tr.183).
Phường
chèo, con hát được bỏ cùng một rọ với đám phản nghịch,
ngụy quan, có tiếng xấu. Cứ đà này thì có ngày mất
mạng như chơi chứ chẳng đùa. Luật lệ nghiêm khắc
và vô lí của Lê Thánh Tôn đã đẩy một số người trở
về làng cũ học cày cho xong, học chữ thánh hiền
chỉ tổ toi cơm tốn gạo.
Phường
chèo, con hát bị vùi dập có lẽ chỉ vì:
"Xã
hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một
tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải
vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải
là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi
xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con
có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bày
tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng,
và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha
con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường
đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình
diễn." (Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai
Trí, 1969, tr. 429).
Mặc
dù bị vua quan và nhà nho khinh ghét, mặc dù không
được đi thi để ra làm quan lớn, bọn phường chèo,
con hát vẫn tiếp tục hành nghề và vẫn được nhiều
người dân thường ưa thích.
"Khoảng
năm Cảnh Hưng, phường hát chèo bội mới pha thêm
lối tuồng, cũng đóng vai trò vẽ mặt ra múa hát đùa
cợt, không khác gì ở hí trường. Các nhà tang gia
hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe
khoang.Các quan chính phủ ghét hung lễ lại dùng
lẫn lộn cả cát lễ, bèn nghiêm cấm, đã hơn mười năm.
Đến năm Canh Tuất (1790) lại thấy dân gian bày trò
hát bội ấy. Các con nhà lương gia tử đệ có người
bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát, khăn áo dáng
bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao
tập hát chèo, trước mặt khách cũng không thẹn thò
gì cả. Lại còn trò đánh bạc chọi gà sinh ra nhan
nhản. Tập tục đến thế thật đáng buồn!" (Phạm
Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, Văn Học, 1972, tr. 57).
May
thay... cơ trời vần xoay, rồi cũng đến một ngày
mai sáng sủa hơn.
"Lệ
cũ, cứ con nhà hát xướng không được vào nhà học
hiệu, thi đỗ ra làm quan. Tiếc rằng không mở rộng
đường cho kẻ tuấn dị tiến thân, để thu lấy nhân
tài xuất chúng. Từ khi Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ)
là con nhà hát xướng, vì không được ra thi, mới
lẻn vào giúp nhà Nguyễn ở trong Nam, bấy giờ những
kẻ đương sự mới hối rằng cái cách tìm kiếm nhân
tài như thế là không rộng. Nhưng cũng chưa công
nhiên bãi bỏ lệ cũ. Từ khi bà Trương quốc mẫu, người
Như Kinh, là kẻ hát xướng được tuyển vào cung hầu
Tần Quang Vương, sinh ra Trịnh Nhân Vương (Trịnh
Cương), Biện trưởng cung, người Á Lữ, sau lại đắc
sủng với Nhân Vương, nên các họ về giáo phường mới
được kể bằng hàng với các họ nhà lương gia. Sau
này các họ nhà đại khoa hiển hoạn cũng thường có
người do giòng họ hát xướng mà phát đạt lên, nên
những kẻ sĩ phu cũng cùng họ giao du tự nhiên, và
rồi những nhà hát xướng cũng quên hẳn thế hệ nhà
mình tự đâu mà ra. Xem đó thì biết thế vận phong
tục mỗi ngày một khác." (Vũ trung tuỳ bút,
sđd, tr. 79-80).
Phải
công nhận là... mê gái cũng có cái hay! Bên trên
mê gái thì bên dưới cũng được nhờ! Vua chúa một
khi quen hơi đào hát thì bao nhiêu cái nhảm nhí
ngày xưa bỗng chốc được dẹp qua một bên. Luật lệ
được tẩy xóa. Xin cảm ơn và tuyên dương cô đào hát
họ Trương! Giọng ca tiếng hát và có lẽ cả thân hình
của cô đã cảm hóa được lòng người, phá bỏ được bất
công. Nhờ cô mà con cháu mở mày mở mặt.
Nhưng
thói đời, bia miệng thì cứ trơ trơ. Mặc dù vua chúa
đã thôi lấy thịt đè người, đè con hát từ lâu rồi,
nhưng thành kiến xướng ca vô loài vẫn cứ bám rễ
trong đầu nhiều người đến tận đầu thế kỉ 20. Mẹ
và em gái Tản Đà bất đắc dĩ phải "đắp đổi tháng
ngày bằng điệu phách câu ca", bị "người
ta hùa cả nhau vào bài xích việc xướng ca là việc
giăng hoa đĩ bợm." (Nguyễn Mạnh Bổng, 1944).
Bỗng
dưng xướng ca lại được tặng thêm hỗn danh đĩ bợm.
Tại sao vậy? Xướng ca có liên hệ gì với đĩ à?
Vậy
đĩ là gì, là ai?
Trong văn học, người Tàu gọi các cô làm nghề xướng
ca là kĩ nữ. Kĩ nữ nguyên nghĩa chỉ là người con
gái làm nghề ca xướng, múa hát. Chữ kĩ (bộ nữ) của
tiếng Hán được ta đọc Nôm thành đĩ. Kĩ nữ của Tàu
trở thành Con đĩ của ta. Kĩ nữ và con đĩ là hai
chị em ruột. Con đĩ ngày xưa chỉ có nghĩa là người
con gái làm nghề hát xướng chứ không phải là con
đĩ làm nghề mại dâm như ngày nay!
Thật
hay đùa vậy?
Xưa
kia, trước khi làng mở hội cho mọi người vui chơi
thì các vị chức sắc phải tổ chức tế lễ ngoài đình.
Có rước phụng nghênh hồi đình (rước long kiệu từ
miếu về đình) rất long trọng. Nghi trượng gồm nào
cờ quạt, voi ngựa, nào bát bửu, cờ biển. Rồi đến
phường đồng văn đánh trống, gõ thanh la, theo sau
là mấy người con gái, đôi khi là con trai giả gái,
vừa vỗ trống vừa múa hát gọi là con đĩ đánh bồng.
Theo sau con đĩ đánh bồng là cờ vía, lọng vàng,
lệnh kiếm, phường bát âm, long đình, kiệu thánh...
và sau cùng là bô lão, chức sắc của làng. (theo
Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng
Tháp, 1990, tr. 96-100).
Xem
vậy thì vai trò của con đĩ ngày xưa cũng không có
gì là tệ lắm, được múa hát diễn hành trước cả long
đình, kiệu thánh, các bô lão, chức sắc của làng.
Nếu
chỉ múa hát thôi thì chẳng có gì là xấu. Có xấu
chăng là kể từ ngày các con đĩ bị giới trưởng giả,
mấy ông trí thức mời về nhà hát. Chính những vị
tai mắt, khoa bảng, đã mở đường hoặc tiếp tay làm
biến chất, làm hư các con đĩ.
Buổi
hát ban đầu rất lịch thiệp. Các quan ăn uống vui
chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các
quan yêu cầu.
Hồng
Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu (...)
(Dương Khuê, Hồng Tuyết)
Những chầu hát cô đầu dần dần bị những người thiếu
tư cách biến thành nơi cợt nhả, bá vai gối đùi.
Nhân sinh quý thích chí
Còn gì hơn hú hí với cô đầu
(...)
Chơi cho thủng trống tầm bông.
(Trần Tế Xương, Chơi ả đào)
Rồi chẳng bao lâu, buổi hát chỉ còn là cái cớ cho
những trận trác táng, tằng tịu, dâm loàn.
Cũng ra đĩ rạc
Bấy lâu nay đã toác toạc toàng toang
Chán chê rồi về đến đầu làng
Toan tấp tểnh những đường tu lý (...)
(Trần Tế Xương, Đĩ rạc đi tu)
Con đĩ vốn chuyên nghề hát xướng dần dần trở thành
gái làng chơi.
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
(...)
Mai sau này giỗ có văn nôm
Cha đời con đĩ cầu Nôm.
(Nguyễn Khuyến, Đĩ cầu Nôm)
Các
nhà hát tư mọc lên, lập thành xóm cô đầu. Vàng thau
lẫn lộn, khó mà phân biệt được con hát thật với
con gái làng chơi. Từ đây trở đi người ta đồng hóa
đĩ với gái làng chơi, gọi gái làng chơi là đĩ.
Sự biến chất này cũng tương tự như ý nghĩa của từ
Thanh lâu (lầu xanh) và Hồng lâu (lầu hồng). Lầu
xanh lúc đầu dùng để chỉ nhà sang trọng. Đến khoảng
đời Đường thì được dùng để chỉ nơi ở của kĩ nữ.
"Như vậy thì ngày nay Thanh Lâu không còn có
nghĩa là nhà cao cửa đẹp mà chỉ có nghĩa là nhà
kĩ nữ." (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương
Lai, 1954), và cuối cùng trở thành:
Lầu
xanh có mụ Tú bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên (Nguyễn Du, Kiều)
Lầu xanh rõ ràng đã trở thành nơi chứa gái làng
chơi, gái giang hồ.
Ngảnh mặt lại lầu xanh thương những kẻ
Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan
(Tôn Thọ Tường, Đĩ già đi tu)
Từ điển Génibrel (1898) và Gustave Hue (1937) cũng
chép lầu xanh là maison de prostitution (nhà đĩ,
nhà thổ).
Lầu hồng xưa kia là chỗ ở của con gái nhà giàu:
Đêm ngày lòng những giận lòng
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên (Kiều)
Sau này lầu hồng cũng bị trở thành maison des chanteuses
(nhà chứa con hát), và sau cùng là nhà chứa đĩ.
Giang hồ từ thủa mười lăm,
Đến năm mười chín còn nằm trông xuân,
Xuân kia còn độ mấy lần,
Tấm thân phơi chốn bụi trần mà thương (...)
(Hoàng Ngọc Phách, Giọt lệ hồng lâu)
Nhà chứa đĩ thời Tây được gọi là nhà đỏ, nhà thổ.
Chữ thổ không phải là chữ Hán, cũng không phải là
chữ Việt. Thổ là âm của tiếng Pháp tolérance (cũng
như thổ mộ là âm của tombereau). Nhà thổ tức là
maison de tolérance (nhà chứa đĩ) của Pháp. Xã hội
ta thích ứng thật nhanh chóng với mọi hoàn cảnh!
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.
Tú Xương đã nắm bắt được chuyển biến của xã hội
đương thời, đưa một dịch vụ ăn khách là thổ đĩ vào
văn học.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) định nghĩa "nhà
chứa" là nơi nuôi gái mãi dâm, tổ chức cho
gái mãi dâm hành nghề, trong xã hội cũ. Đúng ra
thì phải gọi là gái mại dâm (gái bán dâm), các ông
đi chơi gái thì gọi là khách mãi dâm (khách mua
dâm). Nhầm lẫn người mua với người bán âu cũng là
thói quen đã có từ lâu. Nhưng nếu phân biệt được
chủ với khách, người cho với kẻ nhận thì vẫn hơn.
Nhất là trong thời buổi nhiễu nhương có cả các cậu,
các ông bán dâm cho người cùng phái.
Người
Hà Nội gọi các cô gái điếm thời Tây là đượi. Có
người cho rằng đượi là nói trại của đười (con đười
ươi, cùng họ với khỉ, tườu) vì các cô điếm đầu tóc
bù xù, nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Giải thích
này nghe không xuôi tai vì phần đông các cô đượi
đều ăn mặc hấp dẫn, son phấn, đầu tóc chải chuốt,
phi dê (frisés). Có như vậy mới mong câu được khách
chứ. Đầu bù tóc rối như đười ươi (mà đã có ai được
thấy đầu tóc đười ươi chưa nhỉ?), thì đến tượng
đồng đen, cột nhà cháy nó cũng chê, thì làm sao
mà bán trôn nuôi miệng được? Có lẽ đượi chỉ là biến
âm của đĩ mà thôi. Đọc trại với ý khinh bỉ và phân
biệt. Đượi là me tây, đĩ là me ta. Đượi và đĩ còn
có tên là gái ăn sương. Tên nghe khá lãng mạn, nói
lên được nỗi vất vả lúc đêm khuya thanh vắng.
Kiếm
ăn chung với các cô đượi là bọn ma cô (maquereau),
bọn bồi xăm (chambre). Thời Pháp còn có nhà Lục
xì. Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết Làm đĩ (1936)
và phóng sự Lục xì (1937) nhưng tiếc rằng Tuyển
tập Vũ Trọng Phụng (Văn học, 1987) không đăng những
truyện này nên rốt cuộc vẫn không biết Lục xì là
gì. Cái phiền của tuyển tập là vậy! Người khác chọn
giùm mình. Cho đọc cái gì thì đọc cái ấy! Tra tìm
trong từ điển Hán, Nôm thì không thấy Lục xì. Từ
điển Gustave Hue có từ Lục xì nhưng lại không giải
thích, chỉ cho biết Lục xì là một từ phon. (tôi
đoán phon. là viết tắt chữ phonétique, nghĩa là
đọc theo âm). Nếu vậy thì Lục xì có thể là âm cuối
của chữ syphilis (bệnh hoa liễu, còn gọi là giang
mai, nôm na là bệnh lậu hay tim la). Nhà Lục xì
là nơi khám bệnh hoa liễu cho các cô điếm thời Tây.
Thực
dân Pháp đem vào nước ta một loại kĩ nữ mới là vũ
nữ, các cô gái nhảy, ca ve (cavalière). Gái nhảy
phải biết... nhảy đầm, không cần biết hát. Các cô
hành nghề tại các đăng xinh (dancing). Ông nào chồn
chân muốn nhảy thì mua vé, chọn gái nhảy. Nhiều
cô... làm thêm giờ phụ trội, nhảy cả tại phòng riêng.
Trở
lại với các nàng kĩ nữ.
Chữ
kĩ ban đầu còn có nghĩa, còn được dịch là ả đào,
đào hát, con nữ phường chèo. Sau này được dịch thẳng
là đĩ, con gái mại dâm (Đào Duy Anh), con đĩ nhà
thổ (Thiều Chửu).
Kĩ
nữ và con đĩ, tuy là đồng hội đồng thuyền, cùng
là xướng ca vô loài nhưng cũng được phân biệt đối
xử. Những lúc hứng bốc lên dạt dào thì thi sĩ gọi
bọn này là kĩ nữ nghe cho thanh tao, lãng mạn! Nói
đến kĩ nữ là người ta liên tưởng đến những số phận
long đong, lỡ làng. Một kĩ nữ gảy khúc tì bà đã
làm xúc động ông tư mã Giang Châu. Một kĩ nữ lênh
đênh trên sông Hương ngợp ánh trăng đã làm mềm lòng
nhiều thế hệ:
Khách
ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi!
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say,
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
...
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi.
-Du khách đã đi rồi!
(Xuân Diệu, Lời kỹ nữ)
Người ta dễ thông cảm, xót thương cho số phận các
nàng kĩ nữ và dửng dưng thậm chí khinh bỉ các nàng
kĩ nữ nhập tịch Việt Nam, trở thành con đĩ bình
dân!
Thành ngữ, ca dao của ta có rất nhiều câu ám chỉ
bọn gái đĩ già mồm. Sau những trận chơi cho thủng
trống tầm bông, cho toác toạc toàng toang, các ông
không quên núp sau lưng vợ, lên mặt đạo đức khuyên
các cô làm đĩ chín phương, để một phương lấy chồng.
Kẻ
ít học cũng a dua nói leo vài câu vô nghĩa:
Đĩ
xơ đĩ xác, đĩ xạc đĩ xờ
Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống ao
Cũng có người thành thực hơn, ra mặt chê nhưng đúng
hơn là ganh tị với đĩ :
Làm đĩ có tàn, có tán, có hương án thờ vua, có chuông
chùa niệm Phật.
Toàn là chê, chửi, trách đĩ. Tha hồ cho sướng miệng!
Ngày xưa người ta gọi trẻ con là thằng cu, cái đĩ.
Cu là dương vật. Đĩ là gái làng chơi. Cu và đĩ mang
nghĩa xấu, được mê tín ngày xưa dùng với mục đích
để ma quỷ chê đứa bé, không ám hại nó.
Ngôn ngữ hiện đại có từ kép đĩ điếm. Điếm nghĩa
là cái kho, cái nhà chứa đồ. Đĩ điếm là từ kép nửa
Việt nửa Hán, có nghĩa là nhà chứa đĩ hay là ổ mại
dâm. Gái làng chơi có thêm tên gọi tắt là gái điếm.
Cuộc
đời ba chìm bảy nổi đã hóa thân nàng kĩ nữ thành
con đĩ, con điếm.
Người
xưa đồng hóa con hát với đĩ điếm và gọi bọn này
là xướng ca vô loài.
Năm
1945, bộ trưởng bộ Giáo Dục-Mĩ Thuật Hoàng Xuân
Hãn đã làm một cuộc cách mạng văn hóa, đưa hát xướng
vào chương trình bậc trung học. Hát xướng trở thành
môn học bắt buộc. Xướng ca chính thức thoát khỏi
cái nhục vô loài.
Ngày
nay nước ta có trường dạy âm nhạc, kịch, tuồng,
chèo, cải lương. Đủ các bộ môn xướng ca. Nghệ sĩ
xuất sắc được tặng danh hiệu, gắn huân chương. Ai
dại mồm dại miệng tuyên bố xướng ca vô loài chắc
sẽ bị cả triệu người tát cho vỡ mặt.
Như
vậy là nước ta hết đĩ rồi chăng?
Hết
làm sao được! Ngày nào còn các cậu, các ông lang
bang, thèm của lạ thì ngày đó còn các cô, các bà
làm cái nghề xưa nhất trên mặt trái đất này! Xướng
ca vừa được phục hồi danh dự, được tôn vinh thì
xã hội lại đẻ ra các nàng sờ nách ba (snack bar),
bia ôm, mát xa (massage)... Có người mua thì có
kẻ bán, còn người bán thì còn kẻ mua. Ngoạn mục
thay cái đèn cù của kinh tế thị trường!
Có
điều lạ và bất công là phường chèo, gánh hát có
cả kép hát nhưng ngôn ngữ bình dân gần như bỏ quên
bọn này. Sách vở của ta chỉ đả động đến con đĩ chứ
không nói đến thằng đĩ. Không biết xã hội phong
kiến ngày xưa có kĩ nam không? Ngày nay thì nhiều
nước có. Không những có kĩ nam mà còn có cả kĩ sư
! Ấy chết, xin đừng vội hiểu lầm là các ông các
bà kĩ sư là... bậc thầy của đĩ ! Chữ kĩ (bộ thủ)
của kĩ sư viết khác chữ kĩ (bộ nữ) của kĩ nữ. Kĩ
sư là người có tài năng, chuyên về một kĩ thuật
gì.
Các
cô kĩ nữ, các ông kĩ nam tân thời có tên gọi đáng
yêu là ca sĩ. Sĩ này được trọng vọng hơn cả sĩ của
"Sĩ, nông, công, thương". Thần tượng của
vô số người. Dưới ánh đèn mờ, khói thuốc âm u, nhạc
dìu dặt, mơ màng nghe các cô hát, các cô ca, các
cô la, thỉnh thoảng được ngắm một cái ngoáy, một
cái ưỡn thì chao ôi...xướng ca quả là sướng quá!
Rất nhiều người nghe nói về "Xướng ca vô loài"; nhưng không phải ai cũng biết xuất xứ và nguyên nhân có câu này
Trả lờiXóa