Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát - Hai thân phận trí thức - nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn
- Phong Lê
Năm 2008 là chẵn 230 năm sinh và 150 năm mất Nguyễn Công Trứ (1778-1858), và chẵn 200 năm sinh Cao Bá Quát (1808-1855)(1). Cả hai có hành trạng gắn với 4 vị vua mở đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức.
Đọc, tìm hiểu Nguyễn Công Trứ khó
mà không gợi nghĩ và liên tưởng tới Cao Bá Quát, dẫu với rất nhiều khác
biệt giữa họ. Bởi cả hai là sản phẩm của một thời đại, và là tiếng nói
tiêu biểu cho giới trí thức Nho học trọn nửa đầu thế kỉ XIX, với những
thử thách và bi kịch đặt ra không còn giống với thế kỉ XVIII trước đó;
và cũng không giống nửa sau thế kỉ XIX khi đất nước phải trực tiếp đối
đầu rồi mất vào tay chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Thuộc thế hệ tiền bối, Nguyễn hơn Cao 30 tuổi. Khi Cao ra đời, dẫu đã có sớ Thái bình thập sách
dâng Gia Long trước đó 4 năm (1804) Nguyễn vẫn còn là hàn sĩ. Khi Cao
mất ở tuổi 47 và bị bêu đầu, Nguyễn vẫn còn tiếp 3 năm tuổi già ở chốn
quê nhà. Không biết thái độ của Nguyễn đối với Cao ra sao; còn về Cao
thì ít nhất 2 lần có quan hệ với Nguyễn. Lần đầu, Cao có thơ họa tặng
Nguyễn ở tuổi 70 cáo lão về hưu, khi cả hai cùng ở Kinh. Lần hai, khi
Nguyễn ở quê được dân khẩn hoang Tiền Hải - Kim Sơn nồng nhiệt đón rước trong một dịp ra thăm, khiến triều đình lo lắng, dị nghị...
Hãy thử lược kể một số điểm giống và khác giữa hai người.
Cả hai đều ngông, tất nhiên sắc thái ngông là có khác nhau, bởi cả hai đều là người có tài, và thị tài.
Cả hai đã để lại 2 bài phú Nôm về cái nghèo, cái bần cùng chung cho các bậc hàn sĩ thuộc loại hay nhất trong thể phú ở thế kỉ XIX và rộng ra là nền phú Nôm trung đại. Một là Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ vào đầu đời, khi đang còn là một trang công tử xác gắng thu xếp “cung kiếm cầm thư vào một gánh”... Một là Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát cũng vào đầu đời, trong cảnh “đa cùng”, “tóc xanh” đang nuôi chí “gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú”.
Cả hai đều hăm hở trên con đường
công danh, qua con đường cử nghiệp, nhưng đều lận đận. Nguyễn, đến 1819
mới giành được cái Giải nguyên; năm sau - ở tuổi 42 mới được nhận Hành
tẩu bộ Lễ.
Cao giành được Cử nhân năm 1831, ở
tuổi 23, suýt được Á nguyên, nhưng bị soi mói nên phải rơi xuống áp
chót. Ba lần trẩy kinh thi Hội đều hỏng; nhưng văn tài thì lẫy lừng sớm,
giới trí thức và quan trường không ai không biết - để có các truyền
ngôn và giai thoại: “Thần Siêu - Thánh Quát”. “Thiên hạ có ba bồ chữ thì
ông chiếm một”... Có lẽ vì thế nên vào đầu triều Thiệu Trị, Cao được
gọi vào Kinh, ở tuổi 33, cũng được nhận chức Hành tẩu bộ Lễ.
Nguyễn - quan lộ tuy muộn, với rất nhiều trồi sụt, thăng giáng, “lên voi xuống chó”, nhưng trong ngót
30 năm Nguyễn cũng có nhiều lúc hanh thông; ở đỉnh cao danh vọng - đó
là lúc nhận ấn Binh bộ Thượng thư kiêm Thự Tổng đốc Quảng An năm 1836, ở
tuổi 58...
Cao 12 năm quan lộ, tủi cực đủ điều; ở nha môn thì ít, bị đầy đọa thì nhiều, vì nạn nọ đến nạn kia. Vừa mới nhận Hành tẩu bộ Lễ,
được cử giám khảo thi Hương, do cùng Phan Nhạ chữa bài cho 24 học trò
mà bị hạ ngục, tra tấn, bị ghép vào tội tử hình, được hạ xuống trảm giam
hậu, rồi phải lên tàu thuyền đi công vụ “hiệu lực” ở mấy nước láng
giềng thuộc Biển Đông trong mấy
tháng, cuối cùng bị thải hồi về quê ở tuổi 35. Mùi lộc quan nha chưa hề
được nếm đã phải nếm đòn roi. Năm 1847 lại được vời về Kinh, lo việc
giấy tờ, biên tập thơ ca ở Viện Hàn lâm. Chán nghề - nhưng giao du rộng
với giới trí thức, trong đó
có những người nổi tiếng như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Nguyễn Văn
Siêu, Nguyễn Hàm Ninh... Lại trở về quê, rồi được cử Giáo thụ phủ Quốc
Oai năm 1850. Những chức quan mọn, cái tài tuyệt không được sử dụng,
luôn sống trong nghèo túng, dằn vặt vì trách nhiệm với gia đình, vì nghĩa vụ với đất nước, với nhân dân. Ở chức quan cuối cùng này, chính Cao đã ghi lại cảnh sống của mình:
Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng
Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng
Nhà trống ba gian - một thầy, một cô, một chó cái
Học trò dăm đứa - nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Nguyễn, đời quan cũng nhiều bầm
dập, thăng giáng liên tục; thăng là do công lớn, như dẹp Phan Bá Vành,
như làm Dinh điền sứ; nhưng giáng thì rất chóng, bởi những nguyên cớ
không có gì to - chẳng hạn một tên tù sổng mà hạ 4 bậc; có lúc bị vu cáo
có thuộc hạ buôn lậu mà bị hạ xuống làm lính thú - biên phòng. Từ Tổng
đốc, Binh Bộ Thượng thư đến lính thú - đó là hai cực vinh-nhục của đời
người; ứng phó với tình cảnh ấy, Nguyễn an nhiên trong một
thái độ: Nếu chức Tổng đốc không xem là vinh, thì làm lính thú không có
gì là nhục. Một đời tận hiến cho vua - trọn vẹn cả hai triều Minh Mạng
và Thiệu Trị, rút lại chỉ còn được cái hàm Thừa Thiên Phủ doãn để về
hưu, dẫu mấy lần dâng sớ xin hưu nhưng Thiệu Trị không cho.
Còn Cao, tài không những không được dụng
mà còn bị rẻ rúng, lăng nhục. Bị tra tấn, bị đày ải, bị bỏ rơi... Nhưng
rút lại Cao không chịu làm một hạt bụi vô danh, mà dấn thân vào một lối
khác, để làm một cuộc bùng nổ, ở tuổi 47 và để lại cho hậu thế bao giai
thoại, thơ văn gắn với hành trạng, tính cách một con người nổi loạn:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương
...
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời.
Trong khi Nguyễn lui về cảnh yên hàn với những lạc thú trong bầu rượu, túi thơ, đàn sáo, ca kĩ... ở quê nhà.
Nguyễn dẫu có bị những đối xử bất
công, nhưng cũng đã có lúc được gần vua. Khi đang ở chức Bố chánh Hải
Dương (1832) Minh Mạng đã sai người gửi cho ông 20 gói trà, trong mỗi
gói giấu 1 nén bạc; bởi Minh Mạng biết Nguyễn thanh liêm, nên có dặn
lúc nào túng thiếu thì mật báo cho vua. Như thế là thân tình lắm! Còn
Cao, làm gì có được cái ơn ấy ở Tự Đức - người rất biết văn tài Cao, trong câu
đối: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh
Đường”, nhưng quyết không dùng, vì có lần bị Cao chơi xược.
Cả hai giống nhau ở ý thức dấn thân, nhưng một người đến cuối đời vẫn là trung thần, còn một người là nghịch tử.
Hai thái độ sống của người trí thức trong nửa đầu thế kỉ XIX nằm trọn vẹn trong phần đầu thời Nguyễn - từ Gia Long đến Tự Đức. Hai thái độ cần tìm đến sự giải thích trong bối cảnh thời đại và tư chất cá nhân của Kẻ Sỹ.
*
* *
* *
Cần mở rộng cái nhìn ra khung cảnh
thời đại, gắn với các triều đại phong kiến các thế kỉ trước để hiểu
cách hành xử và thân phận của Kẻ Sỹ, qua hai đại diện tiêu biểu trong số ít các trí thức có nhân cách lớn vào nửa đầu thế kỉ XIX là Nguyễn và Cao.
Các vương triều phong kiến lên
ngôi bao giờ cũng bằng những thủ đoạn tàn bạo, để thanh toán triều đại
trước. Nhà Trần thay nhà Lí, bởi kế sách của quân sư Trần Thủ Độ, cho
Trần Cảnh lấy Lí Chiêu Hoàng, và lời khuyên Lí Huệ Tông, ông vua cuối
cùng của triều Lí đang nhổ cỏ ở sân chùa: “Nhổ cỏ thì phải nhổ hết cả
rễ”. Nhưng Trần có được uy tín nhờ vào ba cuộc chiến thắng Mông Cổ, ghi
một dấu son đỏ trong lịch sử trị vì 175 năm. Nhà Lê tiếp quản một cơ đồ Trần suy thoái, đưa tới sự thoán đạt của Hồ Quý Li, rồi nạn mất nước trong 20 năm. Cuộc chiến chống Minh vĩ đại của Lê Lợi trong 10
năm, đem lại vinh quang rực rỡ cho dân tộc. Nhà Lê, tính từ thời Lê Sơ,
với người khởi nghiệp là Lê Lợi cho đến thời Lê Trung hưng với kết thúc
là Lê Chiêu Thống là 361 năm, trong đó mất vào tay nhà Mạc 65 năm, và cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 162 năm.
Tây Sơn là một cuộc khởi nghĩa nông dân, rất hiếm hoi, và có lẽ là duy nhất trong lịch
sử, nhờ cơ hội và nhờ tài ba thao lược của Nguyễn Huệ mà thực hiện được
một sứ mệnh lịch sử lớn là đánh tan 29 vạn quân Thanh, trong một
cuộc tiến quân thần tốc ra Bắc, sau khi tiêu diệt tất cả các tập đoàn
phong kiến Lê Trịnh ở phía Bắc và Nguyễn ở phía Nam, mà tạo lập nên một
vương triều chỉ trong 14 năm, trong đó
Quang Trung chỉ ở ngôi được 4 năm (1788-1792) rồi mất ở tuổi 40. Sự qua
đời quá sớm của Quang Trung với những người kế nghiệp sức yểu tài hèn
đã khiến cho cơ đồ của Tây Sơn dễ dàng rơi vào tay Nguyễn Phúc Ánh vào
năm 1802, kết thúc tình trạng rời rã, phân tranh suốt gần ba thế kỉ - kể
từ khi Mạc Đăng Dung tiếm quyền nhà Lê vào năm 1527. Ba thế kỉ tao
loạn, đến bây giờ mới có cơ yên bình, nhất thống. Một nhất thống được ao
ước từ Ngô gia văn phái trong Hoàng Lê nhất thống chí,
nhưng phải đến nhà Nguyễn mới thực hiện được, với một lãnh thổ rộng
nhất, từ Lạng Sơn đến Hà Tiên, với số thần dân đông nhất so với tất cả
mọi vương triều trước đó.
Nhà Nguyễn bắt đầu từ ngôi Gia
Long (1802-1820) và kéo dài sự trị vì của vương triều suốt 143 năm, qua
13 đời vua, cho đến 1945. Ngược về trước, nếu tính từ thời Nguyễn Hoàng
nghe lời Trạng Trình xin vào lập nghiệp ở Thuận Hóa từ năm 1558 để tránh
mưu mô trừ diệt của người anh rể Trịnh Kiểm, qua 10 đời chúa, thì lịch
sử trị vì của vua-chúa Nguyễn ở Đằng Trong -
bên kia “Hoành Sơn nhất đái...” là 387 năm, dài hơn thời Lê. Thế nhưng
công tích mà nó đóng góp cho đời lại không phải là một vinh quang mở
nước, hoặc dẹp ngoại xâm mà nên. Công tích của nó cũng không phải ở
những chiến công dẹp tập đoàn Lê-Trịnh; việc đó phong trào Tây Sơn đã
làm gọn, sau 2 lần Nguyễn Huệ hành quân ra Bắc. Công tích của triều
Nguyễn chỉ là ở việc tiêu diệt phong trào Tây Sơn, khi những người kế
nghiệp Nguyễn Huệ, non yểu và bất lực, đã hết cả vượng khí và chẳng còn
được lòng dân...
Cần nhớ: sau khi lên ngôi,
việc đầu tiên của Gia Long là tận diệt Tây Sơn - “vì 9 đời mà trả thù”,
bằng tất cả các thủ đoạn tàn bạo trung cổ. Diệt cho không còn rễ; diệt
tất cả đám quần thần, bề tôi, bất kể là phụ nữ hoặc trẻ con... Và thường
trực trong lo
lắng nhằm tập trung mọi quyền lực để giữ ngôi. Là việc lập bộ luật Gia
Long để củng cố chính quyền, ngăn chặn mọi hiểm họa đến từ nhiều phía.
Là thần phục nhà Thanh, để có một mô hình chuyên chính, nhằm bảo vệ ngai
vàng cho dòng họ và cho mỗi ngôi vị. Chống nông dân khởi nghĩa, hàng trăm cuộc. Thời Gia Long là 50 cuộc, Minh Mệnh là 200 cuộc, Thiệu Trị là 50 cuộc... Thời Tự Đức, đó là giặc Chìa Vôi và khởi nghĩa Đoàn Trưng - “Vạn niên là Vạn niên nào. Thành xây xương lính, hào đào máu dân”... Nếu không có nạn Tây dương xâm lược thì hẳn chắc làn sóng khởi nghĩa nông
dân còn tiếp tục dâng cao và chưa chừng sẽ đưa đất nước vào một thời kì
mới. Gây ra những vụ án lớn để trấn áp mọi sự phản kháng như vụ án các
công thần Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt. Nghị kỵ, không tin cậy người
tài trong các giới trí thức - nhất là Bắc Hà. Nghi kỵ ngay cả người trong dòng
họ, đưa tới những vụ giết hại bi thảm giữa anh em ruột thịt. Sợ giặc
Tây dương, nhưng lại tự kiêu vô lối, không chấp nhận bất cứ ánh sáng văn
minh nào, trong chủ trương bế quan tỏa cảng và khẩu hiệu: Bình Tây sát tả...
Đến hết đời Tự Đức,
với Hiệp ước Patenôtre năm Giáp Thân 1884 thì Việt Nam hết quyền tự
chủ, chuyển dần sự cai trị sang chính quyền thực dân, theo hai phương
thức: trực trị ở Nam Kì, và bảo hộ ở Bắc Kì, Trung Kì. 35 năm triều Tự Đức đó
là tình thế lùi bước và thất bại từng phần, rồi toàn bộ trước sức ép
của Tây dương; là mất 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ; là 2
lần Hà Nội thất thủ; là 2 phe chủ chiến và chủ hòa đánh nhau ở trong triều; là cả nước trong phong
trào Văn thân nổi lên ở khắp nơi, cuộc này gọi cuộc kia, nhưng “súng
hỏa mai” và “rơm con cúi” thì làm sao mà địch được với thuốc súng và
chiến thuyền. Kể từ Dục Đức,
Hiệp Hòa, rồi Hàm Nghi, Đồng Khánh... vua chỉ còn là con rối, là bù
nhìn, chịu sự cai quản của Phủ Toàn quyền, chịu sự giám sát của Tòa Khâm
sứ. Triều thần năm bè bảy mối, đục nước béo cò, tranh nhau trục lợi và
giết hại lẫn nhau. Ai còn chút lòng yêu nước thì đến với dân trong các cuộc khởi nghĩa, và ái quốc lúc này là ngược nghĩa với
trung quân. Sau 82 năm ở ngôi, nhà Nguyễn đã chấm hết vai trò lịch sử
từ 1884. Cuối cùng, sau thất bại của phong trào Cần vương Phan Đình
Phùng, năm 1887, thực dân Pháp căn bản đặt được ách thống trị của chúng
lên toàn cõi Đông Dương, và Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang
bán phong kiến - thuộc địa...
Một trang sử bi thảm của đất nước,
sau ngót 900 năm giữ được quyền tự chủ, và không khuất phục trước họa
xâm lược phía Bắc. Ai chịu trách nhiệm trước thảm họa này? Về phía chủ
quan không thể không thấy trách nhiệm chính là vương triều Nguyễn với
những tội lỗi mà nó gây ra cho khối đoàn kết toàn dân; với sự thiển cận
chính trị, và sự phản động trong phép trị nước của nó.
Xét cả công và tội, thì theo
tôi, tội là nặng hơn. Tất nhiên đó là điều vẫn nên tiếp tục bàn luận;
bởi nhà Nguyễn ở giai đoạn đầu, từ Gia Long đến Tự Đức,
dẫu có chịu ơn thực dân Pháp, cả 4 triều vua đều có ý thức rứt ra khỏi
những hệ lụy với chúng, để có tinh thần phản kháng ít nhiều. Và giai
đoạn sau khi nước mất, còn có được 3 ông vua yêu nước - là Hàm Nghi 13
tuổi, ở ngôi 2 năm (1884-1885), Thành Thái 8 tuổi, ở ngôi 8 năm
(1889-1907) và Duy Tân 8 tuổi, ở ngôi 9 năm (1907-1916), tất cả đều chỉ
mới trưởng thành ở tuổi 15 đến 17; cả ba rồi bị thực dân bắt đày biệt
xứ. Nhưng đây là tình yêu nước gắn với lợi ích của một vương triều, và trong dẫy dụa của những con chim trong lồng. Nhìn tổng thể, sự trị vì của nhà Nguyễn trong 143 năm, kể cả trước và sau Tự Đức, là không tránh được cái tội làm mất nước, nếu xét trong bối
cảnh phương Đông đương thời, Nhật Bản đã có cách thức tự cường mà đuổi
kịp phương Tây. Và nhiều nước ở Đông Á và Đông Nam Á có số phận khác ta.
Điều đáng lưu ý là mặc dầu sự bối rối, bạc nhược của vua quan triều Nguyễn, nhân dân ta đã nổi dậy, với vai trò lãnh đạo của các Nho sĩ yêu nước, mà tiến hành một cuộc chiến dài gần nửa thế kỉ; một cuộc chiến dẫu thất bại là khó tránh, nhưng trong hào khí và danh dự.
Thế kỉ XIX trong “nhất thống” của vương triều Nguyễn như vậy là được chia ra hai phần, trước và sau 1858, cho đến 1884, khi triều Tự Đức kết thúc vào năm 1883, để chuyển sang triều Dục Đức chỉ ở ngôi 3 ngày rồi bị giết, và chuyển sang Hiệp Hòa, chỉ ở ngôi trong 6
tháng, lại bị giết... Nhưng đó là chuyện của nửa sau thế kỉ XIX khi
nước đã mất, chứ không còn là chuyện của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát -
người của nửa đầu thế kỉ XIX, khi vương triều Nguyễn mới lên ngôi.
*
* *
* *
Cả Nguyễn và Cao đều vào đường cử nghiệp và lập công danh trong khởi
đầu của triều Nguyễn. Những rối loạn thời Lê-Mạc và Lê-Trịnh, cuộc phân
tranh Trịnh-Nguyễn, rồi phong trào Tây Sơn với cuộc chiến lừng lẫy đánh
tan đại quân Thanh, rồi sự truy diệt tàn bạo của Gia Long đối với Quang
Toản và đám quần thần của Quang Trung đã trở thành quá khứ. Bây giờ là
một sự “nhất thống” mới với một chính quyền khôi phục triệt để mô hình
phong kiến Trung Hoa; với bộ luật Gia Long và sự thần phục nhà Thanh;
với sự xóa bỏ các trấn-thành để thay bằng tỉnh, phủ, huyện; với việc tổ
chức và khôi phục lại hệ thống thi cử, để cứ 3 năm một kì thi Hương,
chọn Giải nguyên; rồi có tiếp thi Hội, thi Đình nhằm xây dựng bộ máy nhà
nước quan liêu...
Đất nước sau bao rối ren, tao loạn
đang mong một cuộc sống yên bình, khỏi nạn binh đao. Một triều đại mới,
tuy giành được thế thắng tuyệt đối, nhưng luôn lo lắng vì sự bất an của
nó, sự đe dọa của rất nhiều hiểm họa. Đó là các cuộc nông dân khởi nghĩa lớn
nhỏ đến hàng trăm, vì đời sống nông dân quá khổ do nạn mất đất, thuế
khóa, cường hào; do thiên tai, đê vỡ, dịch bệnh. Là không thu phục được
nhân tâm nên nuôi lòng nghi kị Kẻ Sĩ. Là xây dựng quyền uy tuyệt đối cho
nhà vua bằng chủ trương 4 không: không Tể tướng, không Trạng nguyên,
không Hoàng hậu, không tước Vương cho người ngoại tộc... Là sự đối phó
với ngay cả trong hoàng tộc, không cần nghĩ gì đến tình anh em máu mủ. Là lo sợ nạn Tây dương...
Nhưng dẫu sao thì đất nước
cũng đã có hòa bình, các thế hệ Kẻ Sĩ đã có thể nuôi hi vọng lập thân.
Và con đường lập thân - chỉ có một, như độc đạo -
đó là việc dùi mài kinh sử, qua cho được các kì thi, để có thể lọt vào
thế giới quan trường, để “tiến vi quan”; và nếu không được, hoặc chưa
được, thì “thối vi sư”. “Quan” hoặc “sư” - là để thoát kiếp nông dân, là
để vượt lên một đẳng cấp khác, được gọi chung là Kẻ Sĩ. Mà muốn lọt vào
thế giới quan trường là phải dấn vào con đường văn chương - cử nghiệp;
là phải khởi nghiệp bằng văn chương. Ở đây văn chương không phải là một trong nhiều
nghề như cách hiểu của chúng ta bây giờ, có khởi đầu từ Tản Đà, và vẫn
còn xa lạ với Tú Xương. Bởi văn chương là tất cả. Nó là kinh điển Nho gia(2). Nó là cái dạy người ta tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nó là đạo - đạo làm người, đạo làm
quan. Nó là chí - chí lập thân, lập nghiệp. Văn chương không chỉ là học
vấn, thậm chí không phải là học vấn; bởi nó là một thứ cẩm nang để chỉ
dẫn mọi suy nghĩ, ứng xử, hành động của con người. “Tích chứa lại thì
thành đạo đức, phát huy ra thành văn chương, đạo đạt lên thì thành chính sự”.
Trở lại với Nguyễn và Cao, cả hai đều có một khởi nghiệp là chức Hành tẩu bộ Lễ;
Nguyễn thì ngay sau khi giành được cái Giải nguyên; còn Cao thì phải
chờ 10 năm sau kết quả thi Hương rồi mới được nhậm, sau 3 lần hỏng Hội
thí.
Nhưng từ khởi nghiệp đó - một
người phải vào tù, bị tra tấn, bị án trảm giam hậu, bị đi “hiệu lực”,
rồi thải về quê... Một người trầy trật trong thăng giáng, nhưng cho đến tuổi 70 chưa bao giờ phải rời bỏ chốn nha môn.
Từ là Hành tẩu bộ Lễ bị thải hồi, trở lại Viện Hàn lâm làm việc biên soạn, ghi chép thơ văn, rồi nhận chức Giáo thụ Quốc Oai, trong các
chức quan bé mọn đó, Cao luôn có hoàn cảnh sống gần dân, chịu cùng nỗi
túng đói, hiểu và thông cảm những ước ao, tâm nguyện của nông dân. Thơ
ông do vậy là bức tranh đời, với “những điều trông thấy”, như về người
vác hòm (Phụ tương tử), về người ăn xin (Cái tử), về người đói gặp trên đường (Đạo phùng ngạ phu), về ông già ở Phúc Lâm (Phúc Lâm lão), về xem phát chẩn (Quan chẩn)...
Cao là người rất nặng tình với gia đình, quê hương. Ông từng viết về
tuổi già của bố mẹ, về tình cảnh vợ con, về đứa con gái không may mất
sớm. Và quê hương, qua hình ảnh cây gạo đầu làng trở đi trở lại nhiều
lần trong thơ...
Đây là khu vực tình cảm ít thấy ở những người khác, kể cả Nguyễn Công
Trứ. Ông còn viết về cái roi, sau những lần bị tra tấn (Đăng tiên ca); và ao ước một cuộc bùng nổ, qua một lời hỏi ễnh ương (Văn hà mô)... Gần với Đỗ Phủ, thơ Cao là tiếng thơ của hiện thực; và ta càng hiểu thêm điều này khi được đọc lời bình của Cao trong một bài viết Tựa cho truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự trong đối chiếu với Truyện Kiều: “Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời. Hoa tiên
là tiếng nói răn đời”... Với Cao, cho thấy sự phân biệt giữa hiểu và
răn, giữa yêu cầu nhận thức và giáo dục luân lí, Cao đã là người gần với
chúng ta hơn. Cao còn có thêm mấy tháng xuất dương, để có cơ hội nhìn
về đất nước trong đối
sánh với những gì được thấy ở xứ người mà ngán cho cảnh “nhai văn nhá
chữ”. Thói quen suy nghĩ, tâm hồn giàu xúc cảm ở Cao đều được dồn hết
vào thơ, như một phương tiện giải thoát, khiến cho - so với tất cả mọi
người cùng thời, có lẽ Cao là người có vốn thơ dồi dào nhất - đến 1350
bài thơ và 21 bài văn xuôi chữ Hán(3), cùng một số thơ và phú Nôm còn giữ lại được trong một
cuộc đời quá ngắn ngủi và sau nạn tru di tam tộc. Đây quả là một điều
lạ, đến kì diệu. Bởi sau một cuộc tru di, dẫu đến ba họ, mà người đời
vẫn giữ gìn được di sản của Cao; một di sản không phải chỉ bằng truyền
miệng, với thơ hoặc ca trù Nôm dễ thuộc, mà bằng các văn bản chữ Hán
không dễ giữ và dễ nhớ chút nào. Với số lượng thơ văn như thế, Cao quả
là một tài thơ đương thời ít ai mà không nể phục, không chỉ trong giới các bạn đồng liêu, mà còn đến cả các bậc đại thần và đức vua.
Nếu cuộc đời quan chức của Cao là ngắn ngủi và thấp bé thì hành trang
thơ của Cao là cả một kho đồ sộ, chỉ có điều cái tài thơ ấy lúc sinh
thời thường làm hại ông, chứ không giúp được ông trong việc tiến thân để lập nghiệp với đời. Một tài thơ mà thể chế nhà Nguyễn, qua hai triều Thiệu Trị và Tự Đức đã không thể dung, bởi nó ngược với sự vô cảm, vô luân, vô đạo lí thống ngự trong mọi
phương thức xử sự của giới đương quyền, từ thấp lên cao. Một sự nghiệp
thơ, chỉ sau khi Cao lĩnh trọn bi kịch và đi hết cuộc đời mình, mới được
người đời chấp nhận, để từ đó rút ra những mâu thuẫn, đối nghịch giữa
cá nhân và hoàn cảnh trong một
xã hội ở vào thời tận cuối - tàn cuộc, đang chờ một đổi thay, lột xác
để chuyển sang một hình thái mới, nếu không phải là do một giai cấp mới
đại diện cho một lực lượng sản xuất mới, thì cũng phải là một áp lực từ
bên ngoài - đó là chủ nghĩa thực dân phương Tây, không sao tránh được, không sao khác được.
Một nhà Nho thuộc thế hệ hậu sinh như Phan Khôi (1887-1960), người thường vạch những chỗ chưa hay trong thơ
văn chữ Hán của cha ông, kể cả các bậc đại gia, thế nhưng vẫn phải có
sự cân nhắc khi nói về Cao Bá Quát, nhân 2 câu thơ của Tự Đức khen
các bề tôi: “Tôi thì tôi tin quyết rằng Hán Đường là kẻ sáng tạo, Siêu
Quát Tùng Tuy là kẻ học đòi, không bao giờ kẻ học đòi lại vượt qua kẻ
sáng tạo cho được. Nói cho công bằng ra thì trong ngần
ấy tác giả, duy có Cao Bá Quát là cả thi lẫn văn đều đáng sắp ngang
hàng với đệ nhất lưu tác giả ở Trung Quốc mà không hổ mà thôi. Rủi cho
ông, vì mang tội “đại nghịch” nên tập không được in, tên họ bị vùi dập
đi hơn nửa thế kỉ đến gần nay mới có người nhắc tới”(4).
Một sự nghiệp thơ ở một con người
luôn muốn dấn thân, nhập cuộc để có ích cho đời, nhưng không được đời
chấp nhận; chính cái bi kịch đó đã là nguyên cớ cho Cao dồn hết mọi nỗi
niềm, tâm sự vào thơ; và nhờ vào đó mà hậu thế là chúng ta đã có thể qua
thơ Cao mà hiểu được chân dung tinh thần một thế hệ Kẻ Sỹ bất đắc chí, trong số
đó người phải chịu một số phận bi thảm nhất là Cao Bá Quát. Và đó là
bằng chứng cho ta nhận ra tính phản động của một triều đại đã hết vai
trò lịch sử, và giúp ta phân biệt nó với các vương triều trước như Trần,
Lê sơ, dẫu không triều nào tránh được những âm mưu thoán đoạt, trừ diệt
người có công và có tài, nhưng vẫn là thời nhờ vào sự nghiệp cứu nước
mà tạo được một hào khí lớn, cho một cuộc chấn hưng dân khí dân tộc ngay
sau đó.
So với Cao, Nguyễn là một số phận
khác. Lọt được vào cửa quan trường, Nguyễn có điều kiện thi thố chí kinh
bang tế thế của mình, qua các chức trách được đảm nhiệm. Chưa cần hoặc
không cần khẳng định vị thế bằng văn chương, Nguyễn có hoàn cảnh thực
thi tài thao lược của mình qua các vụ chống đánh và tiêu diệt hai phong
trào khởi nghĩa nông
dân lớn là Phan Bá Vành (1827), ở tuổi 49, Nùng Văn Vân (1833), ở tuổi
55, rồi đánh dẹp thành Trấn Tây (1840) ở tuổi 62... Và khả năng kinh
bang tế thế của mình ở chức Doanh điền sứ từ năm 1829, nhờ đó mà được
nhân dân Tiền Hải, Kim Sơn lập miếu thờ với đôi câu đối chữ Hán, qua lời
dịch:
Trên đất dựng sinh từ, làng Đông ấp trăm năm kỉ niệm
Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thuở sáng cao.
Đã 6 lần dâng sớ, mong củng cố uy thế
triều đình bằng phép nghiêm trừ giặc cướp; nghiêm trị tệ cường hào; tổ
chức chính sự ở Tiền Hải; lập chế độ quân dịch; hợp nhất Thái Nguyên,
Tuyên Quang; rút quân khỏi Trấn Tây. “Trời đất cho ta một cái tài”
- cái tài đó ở Nguyễn ít nhiều đã được sử dụng, chứ không phải là để
“giắt lưng”. Nguyễn cũng đã có lúc nhận ơn riêng Minh Mệnh. Vậy là cái
khao khát dấn thân và cái chí nam nhi của Nguyễn đã có hoàn cảnh thi
thố. Và tất nhiên đã là người tiêu diệt Phan Bá Vành và Nùng Văn Vân; là
người ở tuổi 80 vẫn có ý nguyện dâng sớ xin đi đánh Tây: “Dù tôi như
cái màn, cái lọng rách cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào
xin lên đường ngay” thì cuộc nổi loạn của giặc Châu chấu mà lãnh tụ họ
Cao của nó đã hai lần có thơ cho Nguyễn hẳn chắc khó được Nguyễn đồng
tình. Đáng tiếc là ở sự kiện này không có gì ghi lại thái độ của Nguyễn.
Nguyễn - người đã khẳng định chí
nam nhi của mình ở một sự nghiệp không nhỏ, và được lòng triều đình ở cả
hai phương diện xem ra là không cùng chiều: đánh dẹp khởi nghĩa nông dân và khai khẩn đất hoang cho dân. Ở hai sự trạng đó, cố nhiên Nguyễn không thể thấy là trái ngược, bởi “nghĩa quân thân”... Bởi cái ý chí đã được nuôi từ rất sớm: “Ba vạn anh hùng đè xuống dưới. Chín lần thiên tử đội lên trên”. Bởi cái quan niệm như đinh đóng cột: “Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người”(5).
Một người đa tài, một đời dấn
thân, bị kìm nén, lên xuống mà đã làm được thế! Vậy nếu không bị ức chế,
nếu tất cả đều hanh thông, thì sự nghiệp Nguyễn còn cao tới đâu? Nguyễn
sẽ là con người như thế nào trong con
mắt hậu thế? Tấm gương Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt - những đại công
thần triều Nguyễn còn treo đấy. Có lẽ cứ lận đận như thế lại là hay, là
may cho Nguyễn. Bởi cuối cùng, nhìn vào những thăng giáng liên tục mà
ông vẫn còn là ông, chứ không thành một con người khác. Để không bị đẩy
vào tình cảnh của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt. Cũng không phải ở một
cực khác là Cao Bá Quát.
Để cuối cùng Nguyễn được trở về với chính bản thân trong một tổng kết bùi ngùi:
Ôi! Nhân sinh là thế ấy
Như bóng đèn, như mây nổi,
như gió thổi, như chiêm bao
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào
Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín.
hoặc chua chát:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc lộn cười.
Để vào những năm cuối đời mới thật sự tìm thấy chính hạnh phúc đích thực của mình:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc, tùng, phong, nguyệt mới vui sao!
...
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say.
với mơ ước, nếu được chọn kiếp sau, đó sẽ là:
... xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Ngày về hưu, chia tay với những người
đưa tiễn, ông cưỡi một con bò vàng, và cho treo vào đuôi nó một chiếc mo
cau, ghi 4 câu thơ:
Ngựa ngựa xe xe đã tưởng nhàn
Lợm mùi giáng chức với thăng quan
Điền viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn tấm mo che miệng thế gian.
Giai thoại này có thể là sáng tạo của dân, nhưng đúng là phù hợp với tính cách Nguyễn Công Trứ.
Khác với Cao, Nguyễn không có một sự nghiệp thơ chữ Hán với chỉ 1 bài được lưu lại(6).
Tất cả, gồm vài chục bài thơ Nôm Đường luật, và trên 60 bài là hát nói,
là ca trù. Với thơ Nôm, thỉnh thoảng Nguyễn có giọng bất bình, bi phẫn:
“Đéo mẹ, nhân tình - đã biết rồi. Nhạt như nước ốc, bạc như vôi”. “Tiền tài hai chữ son khuyên ngược. Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”. “Nghe như chọc giận tai làm điếc. Giận đã căm gan mỉm miệng cười”...
Nhưng đó chỉ là một tỉ lệ nhỏ, so với thơ nói về chí trai và khát vọng
lập công danh. Có chán đời, nhưng vẫn bám mà không bỏ đời. Bởi với chí
lập thân dẻo dai ở tuổi tráng niên, và ngót 30 năm dấn thân, Nguyễn đã
có cơ hội hành động, và dồn hết tâm, sinh lực vào hành động, trong khi
Cao đã phải rời cuộc sống buồn chán, vô vị của mình ở tuổi 47. Một sự
nghiệp văn chương, đó là điều không thể không có, đối với bất cứ ai là
Kẻ Sĩ; nhưng với Nguyễn Công Trứ, sự nghiệp đó lại đi theo một ngả rẽ
khác với Cao Bá Quát, chủ yếu thuộc vào những năm cuối đời sau một hành
trình ngót 30 năm hăm hở bỗng bất chợt nhận ra cái vô nghĩa, hư vô của một cuộc dấn thân. Vậy là còn lại được những gì cho Nguyễn, khi đã hết hoặc đã chán con đường công danh, “như bóng đèn, như mây nổi”?
Một mẫu hình mới của nhà Nho - hành lạc, hưởng lạc đã xuất hiện qua
chân dung Nguyễn Công Trứ, ứng với một thời rạn vỡ các quan niệm chính
danh, chính thống của Nho giáo lấy tu thân, tề gia... làm căn bản. Con
người với những lạc thú cá nhân đã xuất hiện, và tìm đến sự thể hiện
mình trong thơ,
không phải thơ Đường luật Trung Hoa, mà là thơ Nôm dân tộc; và không
chỉ là Nôm để ngâm mà còn là ca, là ca trù, là hát nói, như là một thú
chơi, với rượu, với thơ, với đàn sáo, với thanh và sắc, với ca kĩ, người
hầu. “Chơi cho lịch mới là chơi. Chơi cho đài các, cho người biết tay...”.
Cái thú chơi từ thuở thiếu niên đã từng là niềm đam mê của Nguyễn, chơi
nhưng vẫn không ngừng theo đuổi ráo riết mộng công hầu, lẽ tự nhiên đến
tuổi già, ngoài 70 nó mới biểu lộ như một thăng hoa, trong cái cảnh:
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Cả trong sự hoan lạc thật là dẻo dai, nồng nàn ở tuổi 73 trong chốn buồng the:
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ tơ đào còn mảnh mảnh
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất toạ lê hoa áp hải đường
...
Tân nhân lục vấn lang niên kỉ
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
(Vợ hỏi chồng (năm nay) bao nhiêu tuổi
- Năm mươi năm trước đây ta hai mươi ba).
Nó làm rạng rỡ một chân dung
Nguyễn, như một biểu trưng cực kì đột xuất và độc đáo cho một thái độ
sống, rồi sẽ làm nên một khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật trong văn
chương dân tộc, vốn đã hình thành từ cuối thế kỉ trước với Phạm Thái,
và nối về sau với Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, rồi tiếp đó Tản Đà - người
mở đường cho văn học hiện đại.
Ở tuổi 70 vẫn còn có thời gian gần
10 năm cho Nguyễn làm một cuộc đổi mới mình thật là ngoạn mục, ở tư
cách con người hành lạc, con người hưởng thụ, thay cho con người dấn
thân vì một vương triều mà ông rất mơ hồ trong đánh giá vai trò đại diện của nó: “Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy. Nếu không chơi thiệt ấy ai bù”. “Nhân sinh bất hành lạc. Thiên tuế diệc vi thương” (Đời người không hành lạc, sống hàng ngàn năm cũng như chết non). “Ba
vạn sáu nghìn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Thôi
công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu khiển một vài chung lếu láo”...
Bộ phận thơ viết về con
người hành lạc và các thú chơi này ở Nguyễn Công Trứ tôi nghĩ số lớn là
được viết vào phần cuối đời. Đoán vậy bởi thơ văn Nguyễn không để lại
năm tháng viết. Đương nhiên là thời hàn vi và làm quan cũng không thiếu,
đối với một người ham chơi như Nguyễn. Nhưng hẳn phải vào cuối đời, khi
đã chấm hết mọi phận sự và công danh, khi đã ngấm mọi vinh nhục “khóc
lộn cười”, trong cõi
“trần ai”, Nguyễn mới có dịp tổng kết để đến với một triết lí mang ý vị
thế giới quan và nhân sinh quan nghiêm chỉnh: Đời rút lại chỉ là một
cuộc chơi lớn; một cuộc chơi trong cõi nhân sinh “ba vạn sáu nghìn ngày”, như một “miếng da lừa” bị co kéo giữa hai phía của bậc thầy chủ nghĩa hiện thực phương Tây Balzac - người cùng thời với Nguyễn, khiến con người chớ dại mà “tiêu nhăng” (“Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày. Vạn sáu tiêu nhăng hết cả rồi”), con người phải khôn ngoan mở “rộng đất chơi” (“Nhắn con Tạo hóa xoay thời lại. Để khách tang bồng rộng đất chơi”).
Triết lí ấy ứng vào cái thời ấy, cái thời đất nước đang âm thầm tích tụ
cho một cuộc thay đổi, khi cái cũ đã không còn lí do để tồn tại, và cái
mới chỉ vừa hé lộ trong các nền móng vật chất và tinh thần của xã hội.
Nếu Cao Bá Quát - người từng nuôi ý
nghĩ: đã là hoa thì phải là sen, đã là cây thì phải là lan - với cái
chết của mình làm một kết thúc bi kịch của cá nhân và đánh dấu sự tàn
ngược của một thể chế chính trị đã hết tư cách đại diện cho dân tộc, thì
Nguyễn Công Trứ với cái sống “ngoài vòng cương toả” của mình lại là sự
khai mở cho một nhân sinh quan mới, cũng đã có mầm mống khai sinh trong chính thời đại.
Cái thời hình thành nền kinh
tế hàng hoá; mở rộng sự giao lưu, buôn bán; xuất hiện những trung tâm
kinh tế mới như Hội An, Kinh Kì, Phố Hiến... Cái thời đồng tiền đã có
thể làm lung lay mọi nền tảng đạo lí cũ và cái cá nhân với yêu cầu giải phóng đã hiện diện với sức công phá tiềm tàng của nó.
Một người sống gần gũi với dân, rồi làm lãnh tụ của nông dân trong một cuộc khởi nghĩa với
độ chênh lực lượng rất lớn, hẳn biết chắc là thất bại mà vẫn dấn vào.
Ông đã chọn một bế tắc để giải quyết một bế tắc. Nói theo Phan Khôi:
“Con người ấy (CBQ) mà ở vào thời đại ấy trong đất nước này, nếu chẳng phải thi đỗ làm quan cho tột bậc đi thì còn làm gì nữa mà không làm giặc!”(7).
Một người đi với triều đình, tưởng là trọn vẹn “nghĩa quân thân”, cuối cùng ở tuổi ngoài 70, bỗng thức nhận ra sự vô nghĩa của những gì mình theo đuổi.
Vậy là tuổi trẻ của Nguyễn và Cao
đều có chí, và đều có tài. Tài trên nhiều phương diện đã được Nguyễn thi
thố, dẫu còn lâu mới hết công suất. Tài của Cao chưa có cơ hội thực
hiện, vì bị bóp chết từ trong ý
nguyện, bởi những va vấp, xung đột do tính cách bất tuân hoàn cảnh và
người trên. Tài của Nguyễn dồn vào chí kinh bang tế thế, có cái là vì
vua, có cái là vì dân, mà sự đối nghịch của nó ông chưa từng phân biệt;
cho đến cuối đời, hoặc những lúc ở “ngoài vòng cương tỏa” mới tìm đến
thơ văn như một giải thoát; và với khối thơ văn đó, ông tạo được cho
mình một gương mặt mới. Còn Cao, thiếu hoàn cảnh dấn thân, Cao dồn nội
lực tâm nguyện vào văn chương; và nhờ thế kho tàng văn học dân tộc có
được một di sản quý giá; còn cuộc đời riêng của ông thì bị ngắt cụt giữa
chừng.
Tài và tình. Nguyễn đã là người góp phần khơi rộng rồi đóng vai trò chủ chốt trong việc duy trì và khẳng định một thể văn mới trong sinh
hoạt văn chương và nghệ thuật dân tộc. Nguyễn đã tạo một lối rẽ cho con
người được trở về với chính cá nhân mình, chính cái tôi riêng của mình trong khát vọng hưởng thụ mà hệ tư tưởng chính thống Nho giáo đã bóp nghẹt và vắt kiệt trong một xã hội phong kiến kéo quá dài trong lịch sử. Cao - hậu sinh, nhưng vẫn là người cùng thời với Nguyễn, lại hướng theo một con đường khác - đó là cái tình trong khuôn
khổ thế giới nhân sinh quen thuộc: gia đình, đất nước, quê hương, bè
bạn, đồng liêu và thế giới những người nghèo khổ luôn là môi trường sống
quen thuộc vây bọc quanh ông. Còn nữa. Khác và hơn Nguyễn, ông còn có
được mấy tháng đi “Dương trình hiệu lực”, nhờ vậy mà tầm mắt được mở
rộng, qua những gì được thấy trong chuyến
viễn dương mà có dịp đối sánh với quê nhà, và nhận ra cái vô vị của văn
chương cử tử. Chính vì chống lại nó mà ông đã không vào được chốn công
môn; rồi còn bị hại vì nó. Nhưng văn chương vẫn cứ phải là phương tiện
cho ông giãi bày con người mình, bởi ông là Kẻ Sĩ. Và sự bất lực của nó
rồi sẽ được ông cho thay bằng gươm khi ông quyết liệt làm giặc. Tìm
nguyên nhân dồn ông vào tình thế ấy đã có vài ba giả thuyết; nay vẫn cần
tiếp tục đi tìm. Nhưng dẫu nguyên nhân là gì thì cuộc đời Cao Bá Quát
cũng đã được khẳng định từ hai phương diện: đứng cùng nhân dân trong một cuộc khởi nghĩa thất bại với cái chết bi thảm ba họ của mình. Và một sự nghiệp thơ sáng rõ con người tư tưởng, con người đạo đức, con người nhân cách của ông trong bi kịch một kẻ sinh bất phùng thời.
Còn Nguyễn Công Trứ là sự dấn thân trong những
được - mất của một đời hành động, có được có mất; và cái được lớn là
những bài học nhân sinh rút ra từ bối cảnh một thời đại đối nghịch và
thù địch triệt để đối với tài năng, phẩm giá và lương tâm con người. Một
thời đại khó sống. Cuối cùng, cả hai - hai gương mặt Kẻ Sỹ, dẫu với tất
cả mọi khác biệt, vẫn cứ là hai khối bi kịch, hai nạn nhân của một thời
tối tăm, bế tắc. Cái thời giả định nếu không có sự xâm lược của phương
Tây thì cũng đã chín muồi cho một nhu cầu khẩn thiết phải thay đổi, đang
nung nấu một giải pháp hẳn chắc không khác mấy với phong trào Tây Sơn
mà nó đã tận diệt. Lịch sử nếu đã có một bất ngờ kì diệu với Quang Trung
cuối thế kỉ XVIII, thì biết đâu lại không có một bất ngờ còn lớn hơn
vào cuối thế kỉ XIX nếu không có cuộc xâm lược chóng vánh của chủ nghĩa thực dân phương Tây!
*
* *
* *
Văn học trung đại Việt Nam đã đến
được đỉnh cao vào nửa sau thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Lịch sử văn
học thường ghép hai nửa thế kỉ này vào cùng một thời kì. Đó là một cách
chia. Cũng có thể có những cách chia khác, bởi hai nửa thế kỉ vừa là sự
tiếp tục nhau, vừa có những đặc điểm riêng do quy định của lịch sử. Năm
1820 khi Nguyễn Du mất là khi Nguyễn Công Trứ nhận chức quan đầu tiên
để vào triều. Cả hai là đồng hương và có cùng một thời để sống với nhau.
Nguyễn Du (1766-1820), người sống trọn vẹn và đến tận cùng bi kịch lịch
sử nửa sau thế kỉ XVIII hỗn loạn, rối ren, thay vua đổi chúa, khiến cho
mọi tầng lớp trí thức Nho học không biết chọn ai để mà thờ, kể cả chọn
nhầm hoặc chọn đúng đều ngầm chứa biết bao tai họa. Thế kỉ XIX trong hai
thập niên mở đầu của nó, với Nguyễn Du, xem ra cũng không phải là những
năm thanh thản mà chứa đầy tâm sự. Và như vậy, với thơ chữ Hán gồm 3
tập, với Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du đã là người có sứ mệnh kết thúc thế kỉ XVIII và mở đầu thế kỉ XIX trong sự
nhất quán của một thế giới nghệ thuật mà “những điều trông thấy” là kết
đọng trăm nghìn kiếp sống nhân sinh qua một tấm lòng nghĩ suốt và xuyên
thấu nghìn đời. Với Nguyễn Du văn học Việt Nam thời trung đại đã đạt
đến trình độ cổ điển, mà trước ông, kể từ thế kỉ XVIII trở về trước còn
chưa ai vươn tới, và sau ông vẫn không ai sánh bằng.
Cũng ở tư cách là những
người mở đầu thế kỉ XIX, hậu sinh và tiếp bước Nguyễn Du, cả Nguyễn Công
Trứ và Cao Bá Quát sẽ có một lối khác, gần như là độc đạo cho sự lập thân, trong đối diện với một chính quyền chuyên chế, có khác với Nguyễn Du là những chìm nổi, trôi dạt, bấp bênh, trong tan rã của một thời đại, mà không một triều đại nào khiến cho ông tin cậy, gửi gắm, gồm Lê - Trịnh (quá rối ren trong vận
mạt của nó), Nguyễn Tây Sơn (quá ngắn ngủi mà ông chưa kịp hiểu) và
Nguyễn Gia Long (dường như chưa báo hiệu một triển vọng gì tốt lành).
Còn với Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, cả hai sống trọn trong mở đầu một vương triều, nên chỉ một lựa chọn, hoặc thuận theo nó, hoặc bị nó bóp chết. Những dằn vặt, đấu tranh trong tư
tưởng, tình cảm của Nguyễn và Cao, do thế là đơn giản hơn. Cả hai sẽ là
đại diện cho thân phận trí thức Nho sĩ, nung nấu bộc lộ chí hướng của
mình trong một bối cảnh tưởng có thể xem là phút lóe sáng cuối cùng của thời đại phong kiến trước khi chuyển sang xã hội thuộc địa. Cả hai, trong bối
cảnh ấy, và với chí hướng ấy, khó đủ điều kiện cho họ vươn đến tầm một
nghệ sĩ lớn như bậc tiền bối Nguyễn Du - để nói lên tiếng nói lớn, khẩn
thiết, thẳm sâu của thời đại, chứ không phải một triều đại.
Nửa sau thế kỉ XIX, kể từ 1858 đến 1884, và sau 1884, khi đất nước mất dần vào tay chủ nghĩa thực
dân, văn học trở lại chủ đề yêu nước quen thuộc, có lịch sử hàng nghìn
năm, trên những lập trường khác nhau, hoặc đứng về phía triều đình, hoặc
đứng về phía nhân dân, hoặc phân vân giữa hai phía, trong đó
không thiếu những tấm gương khẳng khái tìm đến cái chết như Nguyễn
Trung Trực, Nguyễn Cao, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Phan Đình
Phùng... Trong tăm
tối và bi thương của lịch sử, một số ít Nho sĩ đã có hoàn cảnh nhận rõ
tình thế bất lợi của cuộc chiến, mà khao khát đi tìm một con đường khác,
con đường mở mang công nghệ và buôn bán, tiếp nhận văn minh phương Tây,
tránh đối đầu về sức mạnh quân sự với thực dân như Phan Thanh Giản
(1796-1867), Phạm Phú Thứ (1821-1882), Đặng Huy Trứ (1825-1874), Nguyễn
Lộ Trạch (1853-1898)... Đặc biệt là sự xuất hiện Nguyễn Trường Tộ
(1828-1871), người do có hoàn cảnh tiếp xúc sớm mà có sự trải biết,
“thực mục sở thị” văn minh phương Tây nên đã trở thành gương mặt tiêu
biểu nhất cho sự thức nhận tình trạng lạc hậu, thấp kém và bất lực của
xã hội phong kiến phương Đông, trong một thế giới đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa đế
quốc. Ánh sáng được Nguyễn Trường Tộ tiếp cận và tiếp nhận rồi sẽ tỏa
sáng vào 30 năm sau, qua một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ trong phong trào Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục
như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Lương Văn
Can (1854-1927)..., những người tuy vẫn với gốc gác và cốt cách nhà Nho
nhưng lại có sứ mệnh kết thúc lịch sử và lịch sử văn học trung đại, và
mở đầu thời kì hiện đại. Bên cạnh những tên tuổi không quay lưng mà dấn
thân với thời cuộc là một phân số rời bỏ quan trường, sớm hoặc muộn, về ở
ẩn, tìm thú vui trong văn
thơ thoát tục, hưởng lạc, học theo cách sống cuối đời của Nguyễn Công
Trứ như Dương Khuê (1839-1902), Chu Mạnh Trinh (1862-1905); hoặc chọn
thái độ trào phúng làm vũ khí trong tâm thế bất lực, không chấp nhận thực trạng Á Âu xáo trộn, như Nguyễn Khuyến (1835-1909), Tú Xương (1871-1907).
Năm 1802 - năm Gia Long lên ngôi
đến 1902 - năm Toàn quyền Paul Doumer khánh thành chiếc cầu mang tên
mình bắc qua sông Nhị Hà (nay là cầu Long Biên) như một biểu trưng, để
quảng cáo cho Văn minh Đại Pháp - chẵn một thế kỉ với mở đầu là sự ra đi
của Nguyễn Du, cùng con đường vào đời của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,
và với sự tiếp tục trong nối
dài của mấy thế hệ Kẻ Sĩ đứng trước họa mất nước, đó là chặng cuối cùng
đầy giông bão chất chứa một cuộc chuyển mình, để có một sinh thể khác,
sau chín trăm năm trong cùng một mô hình ổn định của văn hóa - văn minh Đại Việt.
PL.
Bài viết rất hấp dẫn bạn đọc
Trả lờiXóaĐúng đó bạn
XóaNội dung rất hấp dẫn
Trả lờiXóa