Đi tìm Cổ NGuyệt đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du (Kỳ cuối)
- Phạm Trọng Chánh
IV·Độc Tiểu Thanh ký - bài thơ Nguyễn Du gửi Hồ Xuân Hương.
Nhờ ba năm lưu lạc (1786-1799) thành nhà sư
Chí Hiên đi muôn dậm chu du Trung Quốc, Nguyễn Du nói thạo tiếng Trung
Quốc, nên khi ra làm quan được mấy tháng từ Tri huyện Phù Dung, Nguyễn
Du được thăng lên Tri phủ Trường Tín đặc trách tiếp sứ Thanh sang phong
vương vua Gia Long. (Nguyễn Án được bổ làm tri huyện thay Nguyễn Du ở
Phù Dung)..
Đường công danh thăng tiến, nhưng người vợ họ Đoàn qua bốn lần sanh, chỉ
để lại một con Nguyễn Tứ và qua đời.Mùa thu năm 1804, Nguyễn Du xin
nghĩ bệnh một tháng. Từ Thường Tín, Nguyễn Du về thăm lại Cổ Nguyệt
đường bên Hồ Tây, đến nơi thì vườn cảnh đã hoang vu thiếu bàn tay chăm
sóc của Hồ Phi Mai.
Từ
khi lấy anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, chẳng bao lâu anh thầy
Lang mất, nàng lại trở về với mẹ, Cổ Nguyệt đường dạy học, rồi yêu Mai Sơn
Phủ, mối tình để lại những bài thơ nồng nàn thắm thiết, thề thốt..
trong Lưu Hương ký. Mai Sơn Phủ cũng người ở Vinh (Vịnh Phố) trở về quê
để cậy cha mẹ cưới hỏi, chàng về quê thì biệt tăm trong chiến tranh,
trong trận đánh cuối cùng vua Gia Long và Tây Sơn. Hồ Xuân Hương lánh
nạn lên Vĩnh Phú thì gặp một học trò cũ của cha, là Tổng Cóc Nguyễn Công
Hoà., Xuân Hương nhận làm lẽ, nhưng vợ cả ghen tuông, nàng đang đau ốm,
có thai 6 tháng, thân phận như nàng Tiểu Thanh.
Bên
song cửa Cổ Nguyệt đường, Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh ký gửi Xuân
Hương Hồ Phi Mai.. Vườn cảnh Cổ Nguyệt đường nơi Tây Hồ đã hoang vu vì
thiếu bàn tay chăm sóc của nàng, Son phấn có thần dù chôn vẫn còn hận.
Văn chương vô mệnh dù đốt cháy vẫn còn dư
âm. Mối hờn xưa nay chỉ có biết hỏi trời, vì đâu những người phong lưu
tài sắc lại có cái án oan nghiệt như thế. Ba trăm năm lẽ nữa, kể từ nàng
Tiểu Thanh đến nay, ba trăm năm lẽ sao ai sẽ khóc nàng Xuân Hương Hồ
Phi Mai. Hai chữ tố như trong bài này tra tự điển Thiều Chửu: Tố là tơ
trắng, nghĩa bóng là người có phẩm hạnh cao khiết, như là như cũ, như
vậy, giống như. Nghĩa hai câu cuối là: không biết rồi đây ba trăm năm lẽ
nữa, ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.
Đọc Tiểu Thanh ký Độc Tiểu Thanh ký
Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu, Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Bên cửa viếng nàng một áng thư. Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Son phấn có thần chôn vẫn hận, Chi phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương vô mệnh cháy còn dư. Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Cái án phong lưu khách lụy sầu. Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Ba trăm năm nữa trong thiên hạ, Bách tri tam bách dư niên hậu,
Còn Nàng ai khóc một niềm đau. Thiên hạ hà nhân khấp tố như ?
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
Chú thích:
Hoa uyển, có bản chép mai uyển theo thơ
Tốn Phong trước nhà Xuân Hương có trồng nhiều mai trắng. Tốn Phong còn
gọi nhà nàng là Mai đình. Tại Tây Hồ Hàng Châu trước nhà Tiểu Thanh cũng
có rừng mai rộng bát ngát, thi sĩ Lâm Bô đời Tống vào rừng mai thưởng
hoa đi lạc không biết đường về.
Bài
Độc Tiểu Thanh Ký trong các văn bản đều đặt cuối Thanh Hiên Thi tập
thời điểm sáng tác năm 1804., không ai hiểu làm sao, cụ Đào Duy Anh có
đem qua Bắc Hành Tạp lục, nhưng
Nguyễn Du khi đi sứ không ghé đến Hàng Châu.. Nếu Nguyễn Du viết năm
1799 trong thời gian lưu lạc Trung Quốc thì bài này phải nằm kế 5 bài
thơ Vịnh Miếu Nhạc Phi, Tần Cối, Vương Thị. Cách cắt nghĩa của tôi duy
nhất đáp ứng được thời điểm sáng tác. Ý nghĩa hai chữ tố như, tên tự hay
bút hiệu thường lấy từ một điển tích, hay có ý nghĩa, tố như không có
nghĩa nào khác và cũng không điển tích. Tôi cắt nghĩa và tìm ra mối liên
hệ bài này với bài Giả từ Tổng Cóc (khóc Tổng Cóc) và bài Chơi Tây Hồ
nhớ bạn của Hồ Xuân Hương viết năm 1805.
·2. Sau khi nhận được bài thơ
Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương dứt khoát dứt tình với
Tổng Cóc. Bài thơ làm nàng thức tỉnh, nàng không thể nào tủi buồn, uất
hận vì phận làm lẽ mà chết như nàng Tiểu Thanh. Không thể kéo dài cuộc
sống: Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Chịu đấm ăn xôi, xôi lại hẩm vì Tổng Cóc làm tình như chuộc vọc: Tiếc dĩa hồng ngâm cho chuộc vọc, Một tháng đôi lần có cũng không.
Chàng Cóc ơi, Chàng Cóc ơi, thiếp bén duyên với chàng thế là đủ rồi.
Thiếp xin dứt tình với chàng từ đây như nòng nọc đứt đuôi. Dù chàng có
cho thiếp nghìn vàng, thiếp cũng như con cóc bị bôi vôi không bao giờ
trở lại với chàng. . Cóc hay vào nhà trốn vào xó bếp hay gầm giường,
đuổi đi, hay bắt bỏ ra xa cũng quay đầu trở lại, chỉ có bôi vôi vào đầu
là đi biệt luôn không dám trở lại nữa.
Giả từ Tổng Cóc
Chàng Cóc ơi ! Chàng cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng chỉ thế thôi,
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé !
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Hồ Xuân Hương,
trở về Cổ Nguyệt đường, dù mang thai 6 tháng, sợ dư luãn dị nghị, nàng
ra phố Nam, mở tiệm bán sách, bút giấy mực, cạnh trường ông nghè Phạm
Quý Thích gần đền Lý Quốc Sư. Mượn tiền Phạm Đình Hổ và bè bạn, Xuân
Hương đã mở quán sách này. Tốn Phong đến thăm Xuân Hương sau hai lần
hỏng thi khoa 1806 và 1813. Tốn Phong đến gặp Xuân Hương tại hiệu sách,
sau khi nàng đã sinh con: Mai lạnh vẫn thường than nỗi khổ, Chốn dời Mai mới nở thêm cành.(bài
15) Tiếc thay đứa con gái mất sớm, nàng không nuôi được. Năm ấy nàng 35
tuổi, sắc đẹp mặn mà làm tốn phong ca tụng tít trời xanh. Quán sách
nàng là nơi các học trò ông nghè Phạm Quý Thích lui tới, để ngắm bà chị.
Trong đám học trò thường đến hiệu sách của nàng có cậu bé lên tám bị mắng là: Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa, có lẽ là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu về sau sẽ cùng Cao Bá Quát nổi tiếng: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán.
IV. 3. Xuân Hương
trở lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, Nguyễn Du về quê một tháng, sau đó
được lệnh vào Phú Xuân thăng Đông Các học sĩ hàm ngũ phẩm, tước Du Đức
Hầu, chức vụ dâng sách cho vua đọc mỗi ngày, và soạn thảo chiếu biểu cho
vua. Gia Long
Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết: Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu. (Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư).
Xuân Hương trả lời: Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa. Em đã trở về, em
không chết như nàng Tiểu Thanh đâu ? Vườn cảnh có tay em chăm sóc đã trở
lại như xưa. Người đồng châu, cùng quê Nghệ Tĩnh với em biết bao giờ
trở lại. Nhật Tân đê lở, như duyên em dù lỡ làng cũng còn lối vào. Chùa
Trấn Quốc rêu phong vẫn còn lưu lại bài thơ em viết ngày nào đề thơ cùng
chàng. Nơi vực Trâu vàng trăng lặng bóng. Kìa non Phượng đất khói tuôn
mờ những kỷ niệm đôi ta; Hồ kia thăm thẳm sâu bao nhiêu cũng không bằng
lòng em nhớ chàng.
Chơi Tây Hồ nhớ bạn
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng châu trước biết bao giờ.
Nhật Tân đê lỡ nhưng còn lối,
Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ,
Nọ vực Trâu vàng trăng lặng bóng,
Kìa non Phương đất khói tuôn mờ.
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài nhân dễ chưa vừa.
Chú thích:
Vực Trâu vàng: tích Sư
Minh Không quốc sư Triều Lý xin đồng nhà Tống về đúc chuông, tiếng
chuông ngân xa, con trâu vàng trong cung nhà Tống ngỡ tiếng mẹ kêu, chạy
sang Hồ Tây và biến mất trong khu vực này. Phủ Tây Hồ có đền thờ Trâu
Vàng và đền bà Chúa Liễu Hạnh.
Non Phượng đất: hay mõ phượng, gò đất nhô ra ở Hồ Tây, nay thuộc khu vực Trường Bưởi, Chu Văn An.
Nguyễn Du cưới và vợ họ Võ sanh một con, để cai quản gia trang Tiên Điền, và có ba vợ thứ ba theo hầu bên cạnh nên sanh luôn một chục đứa con., nuôi mệt nhỉ.
·Hồ Xuân Hương gặp Nguyễn Du trên đường đi sứ năm 1813..
V.
1 Tháng 2 năm Quí Dậu 1813 Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Học Sĩ tước
Du Đức Hầu, được chọn làm Chánh Sứ đi tuế cống triều nhà Thanh.Thiêm sự
Bộ Lại Trần Văn Đại, Thiêm sự Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm Phó Sứ. Cống
phẩm gồm: 200 lạng vàng, 1000 lạng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai
bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế; Sứ đoàn gồm 27 người,
đi đến mỗi địa phương đều có bàn hương án và quan quân hộ tống. Đoàn đi
từ Phú Xuân đến Vị Hoàng bằng thuyền và từ đó đi đường bộ. Theo gia phả
con đầu là Nguyễn Tứ, 12 tuổi, có theo cha đi sứ.
Tin này ra đến Thăng Long, Hồ Xuân Hương đã gửi đến Nguyễn Du bài thơ:
Cảm cưụ kiêm trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền
nhân). Bài thơ này là một chứng cớ rõ ràng, không thể chối cải, nhưng
thoạt đầu chẳng mấy ai tin. Ngay cả Xuân Diệu đọc bao nhiêu lần cứ viết:
Xuân Hương phục người có tài hơn mình. Chẳng ai tin việc này,
vì là thật nó kéo theo sự sụp đổ của một Hồ Xuân Hương dâm tục cả thế kỷ
đã bàn tán và viết về nàng. Toàn bộ sách giáo khoa viết về Hồ Xuân
Hương và Nguyễn Du phải viết lại.
Chàng đi sứ hoàng hoa, xa quê hương,
nơi đất khách ngàn dậm lòng em muôn nghìn nỗi nhớ nhung. Mượn ai tới đó
để gửi thơ cho chàng, nói rõ tấm lòng em. Chữ tình đôi ta ba năm trọn
vẹn (1790-1793), nhưng rồi tình như mộng như bài thơ Ký Mộng chàng đã
gửi cho em, tan mộng rồi chẳng còn thấy nhau. Em trộm mừng cho chàng từ
ngày ra làm quan, xe ngựa đưa đón, có nhiều thê thiếp, nhiều mối duyên
tình. Riêng phận em làm gái, phấn son càng tủi cho mình phận long đong.
Biết chàng có bịn rịn vấn vương đến mối tình em, nơi Cổ Nguyệt đường năm
canh em vẫn một mình phòng không thao thức.
Cảm cựu kiêm trình
Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu
(Hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký.
Chú thích:
Sương
siu theo GS Hoàng Xuân Hãn có nghĩa là bịn rịn. Sách Thiên Nam ngữ lục:
Quốc Tuấn nhớ lời cha truyền, gặp cơn khổng tổng lòng bèn sương siu.
Tuồng Thù Thế Tân Thanh: Sương siu vì một chữ tình.. Ông Trần Thanh Mại
âm là : Sương đeo mái, Hồ Tuấn Niêm chữa đeo ra treo hai cách đều vô
nghĩa.
V.2. Sứ đoàn từ Phú Xuân đến Thạch Đình sông Hoàng Giang, một cuộc tiếp rước
long trọng của quan Tổng Trấn Bắc Thành bấy giờ là Nguyễn Huỳnh Đức và
quan Tổng Hiệp Trấn (Phó) Lê Chất. Xe ngựa, lính hầu đi chật đường đưa
từ Thạch Đình về dinh Tuyên Vũ. Qua mỗi địa phương đều có bàn hương án
quan huyện, trấn tiếp rước.. Thời gian Nguyễn Du đi sứ là 12 tháng
rưỡi.. Từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, các quan địa phương Trung Quốc chu cấp
nơi ăn ở, tiếp rước. Qua cửa Nam Quang đi Quế Lâm đến Võ Xương rồi đến
Bắc Kinh. Tôi đã đi lại cuộc hành trình này năm 2009 để dịch toàn bộ các
thơ Nguyễn Du trên đường đi sứ, so sánh thời nay và những điều Nguyễn
Du mô tả;
Hồ Xuân Hương
đã đến sông Hoàng Giang chờ đợi từ nhiều ngày đầu tháng 4 năm Quý Dậu,
gặp lại Nguyễn Du sau hai mươi năm từ biệt cũng bến sông này, nơi Thạch
Đình từ biệt năm xưa.. Nhưng than ôi, Hồ Xuân Hương chỉ trông
thấy Nguyễn Du từ xa, nào dám lại cầm tay tâm tình, vì chàng đường đường
là một vị Chánh Sứ, quan trên trông xuống, người ta dòm vào, muôn cặp
mắt phủ, huyện, lính lệ. Hồ Xuân Hương về nhà viết bài Hoàng giang ngộ
hữu hỉ phú; Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang: Từ độ em biết yêu lần
đầu, như người con gái tuổi xuân vừa biết mùa xuân đầu tiên, mỗi khắc
thời gian như vàng em lấy làm quí trọng. Đã hò hẹn nhau, lòng em nhớ cả
kiếp sống mình. Tình đôi ta rất nặng em không quên dù hóa kiếp cả trăm
thân. Dòng Tô Lịch chưa cạn, đôi ta vẫn còn duyên nợ.Sông Vị Hoàng còn
đầy những giọt nước mắt ái ân em tiễn đưa chàng ngày nào, nhưng hôm nay
chàng là quan Chánh Sứ, bao cặp mắt từ quan đến dân trông vào, em dù
nồng ấm hay phai nhạt nào có dám thổ lộ. Nhưng lòng son em vẫn thương
chàng, mười phân vẹn mười.
Mừng gặp bạn ở sông Hoàng.
Nhà xuân từ được bén hơi xuân,
Nửa khắc vàng xem trọng mấy cân.
Trót hẹn nhớ cho đành một kiếp,
Nặng nề quên cả đến trăm thân.
Cạn dòng Tô Thủy còn duyên nợ,
Đầy giọt Hoàng giang những ái ân.
Nồng nhạt mặc dù đâu nhẽ dám,
Tất son này vẫn thắm mười phân.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký.
.
·3 Các bài thơ
này cất kỷ trong Lưu Hương Ký, Nguyễn Du nào đọc được.. Năm đó nàng 41
tuổi, đã trải qua những mối tình:sau mối tình với Nguyễn Du, Thầy Lang
xóm Tây làng Nghi Tàm, Mai Sơn Phủ rồi Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, Quan
Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh, quan Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần
Ngọc Quán, và giờ đây người cuối cùng Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần
Phúc Hiển sẽ được thăng lên chức Tham Hiệp Trấn Yên Quảng..
Các mối tình này được người bạn Phạm Đình Hổ chứng kiến, và Tốn Phong
Nham Giác Phu họ Phan Huy. viết tựa cho Lưu Hưong ký.Bài Hoài cựu là bài
thơ tự than trách phận mình: Chữ tình ngang ngữa biết bao nhiêu, tình
em đã trái ngang cùng chàng.Một chút duyên xưa lắm điều dang dỡ. Phận
mình như bèo lạc hoa trôi, không trẻ lại như ngày xưa. Mối tình trăng
hoa thêm tủi cái già đã đến. Vì ta tài tình mà mang nợ nên phải trả..
Nhìn phong cảnh nào vui đâu lòng đã gửi nhiều thơ vịnh Đưa đón gặp nhau
mới biết tỏ tường bàn tay đấng tạo hóa. Đời mình như cánh hoa trôi trên
dòng, mới thắm thía khi tin nước thủy triều đưa đẩy ngược dòng.
Hoài cựu
Nhớ bạn cũ
Chữ tình ngang ngữa biết bao nhiêu,
Một chút duyên xưa dỡ lắm điều.
Bèo lạc không kinh còn trẻ lại.
Trăm hoa thêm tủi cái gì theo.
Tài tình nợ ấy vay nên trả,
Phong cảnh vui đâu đã gửi nhiều.
Đưa đón biết tường tay đại tạo,
Cánh hoa trên nước thắm tin triều.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Lưu Hương ký.
Biết rằng mối tình ngang trái, không còn gì nữa. Hồ Xuân Hương dứt khoát để yêu Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sau được thăng làm Tham Hiệp Trấn Yên Quảng.
Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi; Xuân Hương góp thơ thành tập cuối cùng
Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập.. Tập này bị phân tán thành nhiều mãnh. Tôi
sẽ sắp xếp lại toàn bộ tập thơ vịnh cảnh này..
Một biến cố làm chấn động Tao đàn thời bấy giờ. Vì một bài thơ
Nguyễn Văn Thuyên bị khép tội mưu phản, án chém. Cha nguyên Tổng Trấn
Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, người nổi tiếng với bài Văn Tế Trận Vong
Chiến Sĩ, phải tự tử năm 1816. Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, một
tay cự phách trong làng văn thơ, người từng đánh chết Ngô Thời Nhiệm,
đánh Phan Huy Ích trước Văn Miếu, bị bắt tội ẩn lậu ao đầm tội phải thắt
cổ. Tiến Sĩ Vũ Trinh, anh rễ Nguyễn Du thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên bị
đày vào Quảng
Nam 12 năm. Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, bạn thi ca của Hồ
Xuân Hương, thi tướng tao đàn Cổ Nguyễ đường và cũng là bạn của Thuyên
chết bất ngờ năm 1818, có lẽ tự tử.Tham Hiệp Yên Quảng
Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương, con người bạn Nguyễn Văn Thành đã
chết trận, được ông xem như con nuôi che chỡ, bị bắt tội tham nhũng 700
quan tiền hối lộ, vì bắt buộc dân không được bỏ nghề đồng ruộng. Các vụ
án xảy ra trên cùng một địa bàn cùng thời điểm có quan hệ chồng chéo với
nhau, khiến cho mọi người sợ hải, cất dấu thơ văn. Đó là lý do thơ Hồ
Xuân Hương bị cất dấu, gần như biến mất, nhưng danh tiếng nàng, một nhà
thơ trữ tình, lãng mạn đã làm các bậc mày râu làm thơ gán ghép để thỏa
lòng dâm dục.
Tam Nguyên Vị Xuyên, Trần Bích San bốn mươi
hai năm sau, trong Xuân Đường đàm thoại, làm hai bài phú viếng Hồ Xuân
Hương thay cho Nguyễn Du và Phạm Quý Thích, đã tiết lộ tình Hồ Xuân
Hương và Nguyễn Du có thể viết nên thiên tình sử.
Sau khi chồng bị tử hình, nàng có mặt trong buổi hành hình khóc cười
điên dại.: Giọt sương dưới chiếu chau mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm
miệng cười.. Hồ Xuân Hương đi tu núi Yên Tử, rồi trở về Cổ Nguyệt đường
vài năm sau cũng mất, bên cạnh nàng có gia đình Tử Minh: không ruột
nhưng mà thương quá ruột, có hai người con trai, và học trò nàng có cô
Nguyễn Thị Hinh sau trở thành Bà huyện Thanh Quan. Mộ Hồ Xuân Hương nằm
bên hồ sen trước chùa Kim Liên, Năm 1842 Tùng Thiện Vương theo anh là
Vua Thiệu Trị ra Bắc, đến cúng dường chùa Kim Liên, dặn cô hầu gái đi
hái sen Chớ trèo qua mộ Xuân Hương, Suối vàng còn hận tơ duyên lỡ làng.. Mực nước Hồ Tây đầu thế kỷ 20 vì đắp đê nên đã dâng cao một thước, ngôi mộ nàng nằm trong lòng nước.
Tôi đến đến đây, trước chùa Kim Liên, ngồi trong mưa,
nghe tiếng sóng Hồ Tây thét gọi: những người yêu văn chương Việt nam ở
đâu, mà để nàng còn nằm trong lòng nước lạnh. Tôi mơ ước một ngày nào đó
ngôi Cổ Nguyệt đường sẽ được dựng lại bên cạnh chùa Kim Liên, cho khách
du lịch văn hóa đến thăm.
Còn Nguyễn Du, tình yêu với nàng như
tơ trong cuống sen vấn vương hoài không đứt. Trước khi nhắm mắt năm
1820 vì trận dịch (cả nước hàng trăm ngàn người chết) nếu Nguyễn Du có
ngâm câu: Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như.
Không phải Nguyễn Du muốn ai khóc mình đâu, mà Nguyễn Du tiếc thương
người con gái tên Hồ Phi Mai, hồng nhan như bạc mệnh, mong manh như một
cành mai trước gió xuân.
Bệnh viện Đa khoa Phương Nam được xây dựng trên tiêu chí chuẩn Quốc tế, chuyên khoa Nội tổng quát thực hiện các chức năng quan trọng thăm khám – Chẩn đoán – Điều trị các bệnh lý liên quan: Tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, nội tiết, miễn dịch. >>> Địa chỉ thăm khám các bệnh lý hiệu quả tại Đa khoa Phương Nam
Trả lờiXóaVới những ưu thế nổi bật, khoa Sản – Phụ khoa tại Đa khoa Phương Nam cam kết sẽ là địa chỉ đáng tin cậy cho chị em phụ nữ. Đúng theo tiêu chí “Phụ nữ là để yêu thương và trân trọng!”>>>>Dịch vụ khám phụ khoa tại Đa khoa Phương Nam
Trả lờiXóaNội dung này rất hay, tôi rất thích
Trả lờiXóa