Thái độ của Nguyễn Công Trứ đối với Vương triều Nguyễn qua các sáng tác văn học của ông
- NGuyễn Phạm Hùng
Ðọc
các nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Công Trứ, dễ dàng bắt gặp nhiều nhận
định, đánh giá không khỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ lại một cách
nghiêm túc. Ví như một nhận xét sau đây khi cho rằng Nguyễn Công Trứ
“ghê tởm cái xã hội phong kiến đầy gian dối, lọc lừa, đổi trắng thay
đen; biết mình đi nhầm đường mà không tìm được lối thoát, đành tỏ ra
bằng một thái độ khinh bạc ngạo mạn, thách thức công nhiên mọi thứ dư
luận!”[ 1].
Phải chăng cái xã hội phong kiến triều Nguyễn lúc đó, trong thời kỳ được
xem là “vàng son” nhất của nó, là một xã hội “đầy gian dối, lọc lừa,
đổi trắng thay đen”? Phải chăng nhà Nho phong kiến Nguyễn Công Trứ “đi
nhầm đường”? Mà nếu “đi đúng đường” thì ông sẽ đi đâu? Hay cho rằng: “Do
quá trình tham gia hoạt động xã hội, Nguyễn Công Trứ nhận thức ra được
triều đại ông tôn thờ không phải tốt đẹp như ông tưởng và những thiện
chí của ông không phải dễ thực hiện.... Ông từ bỏ dần những đề tài có tính chất ngợi ca, khẳng định, để viết những đề tài có màu sắc tố cáo, đả kích xã hội...”[2].
Vậy cái triều đại tốt đẹp mà ông nhẽ ra tôn thờ là cái triều đại như
thế nào nếu không phải là cái triều đại ông đã gắn bó với nó tới 40 năm?
Vì sao ông lại có thể “nhầm lẫn” một cách “dai dẳng” như thế? “Và những
thiện chí” nào “của ông không phải dễ thực hiện”? Hoặc cho rằng “đi
đánh giặc, lên ở chùa, ông cũng mang ả đào đi theo.... Ông vui với ả
đào cũng chính để cho các vị thiên tử nhà Nguyễn thấy rõ ông đã chán
ghét chế độ của họ đối với kẻ sĩ như thế nào rồi...” “...Hay nhất và
cũng làm cho triều đình nhà Nguyễn sợ ông nhiều nhất là các bài ông nói
lên niềm chán chường và khinh ghét cái tâm địa phản phúc, xấu xa của
chúng...”[ 3]... Nếu “vui với ả đào” là để thể hiện sự khinh ghét chế độ
thì có lẽ triều Nguyễn không hẳn đã là một triều đại đáng ghét nhất
(!!!).Càng dễ quy chụp bao nhiêu thì cũng càng khó chứng minh bấy nhiêu
cho sự “chán ghét chế độ” của ông, hay sự “khinh ghét cái tâm địa xấu xa
phản phúc” của triều Nguyễn. Có thể kể ra đây nhiều nhận định tương tự
như thế về thái độ của Nguyễn Công Trứ đối với chế độ phong kiến triều
Nguyễn trong các sách vở hiện nay như: “Ông vạch tội bọn triều Nguyễn từ
vua đến đại thần đều hôn ám, hèn nhát không khác chi vua quan nước Sở
xa xưa tận bên Trung Quốc”[4]. “Trước kia hăng hái nhiệt tình vì Nguyễn
Công Trứ tưởng chính quyền đương thời là một chính quyền lý tưởng để
mình tôn thờ. Bây giờ thực chất phản động của nó không che giấu được
ai... Ông thấy triều đình thối nát, quan lại xấu xa...”[ 5]. “Thế nhưng
bằng những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ... ông đã nhằm thẳng vào triều
đình nhà Nguyễn mà chỉ trích hàng ngũ quan lại bất tài, vô dụng và nhà
vua dùng người mù quáng...”[ 6].v.v... Dường như đấy không phải là những
phát ngôn của chính Nguyễn Công Trứ mà chỉ là những phát ngôn của chúng
ta được gán cho Nguyễn Công Trứ. Chúng ta không phủ nhận những thất
vọng nhất định của Nguyễn Công Trứ đối với xã hội đương thời, nhưng có
lẽ chúng ta cũng rất cần được nghe đúng “tiếng nói” của ông, để hiểu
đúng tình cảm, tâm trạng, thái độ của ông đối với triều Nguyễn, từ đó
mới có thể nhìn nhận triều Nguyễn bớt khắc nghiệt hơn, nhất là phải
trung thực và khách quan hơn.
Những
nhận định trên rõ ràng khẳng định rằng thái độ của Nguyễn Công Trứ là
hoàn toàn đối lập, là mang tính phủ định quyết liệt đối với chế độ phong
kiến nói chung, đối với triều Nguyễn nói riêng. Phải chăng trong con
mắt của Nguyễn Công Trứ, triều Nguyễn xấu xa, tráo trở và độc ác đến
thế? Phải chăng chế độ phong kiến thời kỳ này đen tối đến thế, khiến ông
phải quyết tâm rời bỏ nó, phải quay lưng lại với nó, phải phủ nhận nó?
Phải chăng tất cả những biểu hiện bằng nghệ thuật cái thế giới quan và
thái độ của Nguyễn Công Trứ đối với triều đình, từ thái độ phụng sự
nhiệt thành chế độ, đến thái độ “lánh đời”, hay cả những thói kiêu
ngông, ngất ngưởng lẫn thú hưởng lạc cùng những “thói trăng hoa” của ông
đều xuất phát từ sự phản ứng lại những xấu xa của chế độ phong kiến và
triều đình nhà Nguyễn?
Nếu
nhìn vào thực tế lịch sử, nhìn vào chính cuộc đời của Nguyễn Công Trứ
và nhìn vào thơ văn của ông, thì những điều nhận xét, đánh giá nói trên
là hoàn toàn không chính xác. Hãy theo dõi một đoạn rất ngắn “niên biểu”
Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy rõ, Nguyễn Công Trứ chính là con
đẻ, là sản phẩm của chế độ đó, của vương triều đó, và gắn bó máu thịt
với nó. Sự thành công hay thất bại của cuộc đời ông đều gắn bó máu thịt
với thời kỳ sung mãn nhất của vương triều Nguyễn, nếu tính từ khi ông
thi đỗ Tú tài năm 1813, nhất là 40 năm kể từ năm 1819 ông đậu giải
nguyên cho đến khi ông mất chính vào năm thực dân Pháp nổ súng xâm lược
nước ta 1858. Ðúng là cuộc đời ông có “lên voi xuống chó”. Nhưng “lên
voi” là chính: Năm 1819, đỗ giải nguyên, năm 1820 được bổ dụng chức hành
tẩu ở Quốc sử quán; năm 1821 làm Sơ khảo trường Thừa Thiên, phúc khảo
trường Sơn Nam; năm 1823 làm Tri huyện Ðường hào (Hải Dương); năm 1824
thăng Lang trung bộ Lại, bổ Tư nghiệp quốc tử giám; năm 1827 thăng Thị
lang bộ Hình; năm 1828 thăng Hữu tham tri bộ Hình; năm 1932 thăng Lang
trung bộ Hộ; năm 1840 thăng Tả đô Ngự sử Viện Ðô sát; năm 1843 thăng
Tham tri bộ Binh; năm 1845 thăng Chủ sự bộ Hình; năm 1847 thăng Phủ doãn
Thừa Thiên... Còn việc “xuống chó” của ông đâu phải chỉ là do chế độ
phong kiến, do triều đình nhà Nguyễn xấu xa ghét bỏ người tài, mà chủ
yếu là do sự tỵ hiềm, ganh ghét, hãm hại của người đời, do “thói đời”
đen bạc, và một phần quan trọng là do chính ông gây nên. Thiết tưởng, đó
cũng là một điều dễ hiểu đối với một con người có tài năng, khí chất và
tính cách như Nguyễn Công Trứ, mà chưa chắc triều Nguyễn đã là một
vương triều xử “nặng tay” nhất. “Niên biểu” Nguyễn Công Trứ cho chúng ta
thấy rất rõ điều này: Năm 1831 ông bị buộc tội vượt quyền vì đề cử một
viên đội trưởng làm huyện thừa huyện Tiền Hải; năm 1834 bị khiển trách
vì hành quân chậm; năm 1836 ông bị giáng cấp vì để tù vượt ngục trốn
mất; năm 1841 ông bị giam và giáng cấp vì không thi hành chỉ dụ của
triều đình; năm 1843 ông bị cách chức do bị vụ cáo là cho thuyền đi buôn
lậu; năm 1852 ông bị triều đình đòi về kinh xét hỏi vì bị vu cáo cầm
đầu nhân dân hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải làm phản.... Việc “xuống chó”
của Nguyễn Công Trứ chẳng những khó có thể dùng để kết tội triều Nguyễn
mà có khi lại còn giúp cho chúng ta biết thêm được một số “ưu điểm” của
triều Nguyễn như tính chất nghiêm minh và phân minh trong việc xét công
định tội, có cả thái độ ít nhiều “thương người tiếc tài” khi cất nhắc cả
những người có “vấn đề lý lịch” hay “tiền án, tiền sự” nhưng thực tài
và thành tâm như Nguyễn Công Trứ... điều mà ngay cho đến hôm nay trong
xã hội chúng ta vẫn không ít nhà cầm quyền cấn cái. Về mặt này, rõ ràng
chẳng những khó phê phán, mà lại có khi còn phải khen ngợi triều Nguyễn.
Nhìn vào con đường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ, thấy việc thưởng phạt
của triều Nguyễn hoàn toàn không phải vì “nhà vua dùng người mù quáng”,
“hôn ám, hèn nhát”, “tâm địa phản phúc, xấu xa”, mà trái lại, rất có căn
cứ, có lý có tình, không cố chấp, khiến cho chính Nguyễn Công Trứ cũng
phải “tâm phục, khẩu phục”, nên càng tận lực với triều đình. Vì vậy, ông
không oán trách triều đình nhà Nguyễn mà chỉ oán trách những kẻ ghen
ghét, vu oan giá hoạ cho ông.
Những
điều nói trên chúng ta có thể dễ dàng thấy được bằng những chứng cớ
lịch sử, bằng những xuy xét lý tính. Nhưng để thấy rõ hơn vấn đề này,
chúng tôi muốn tìm hiểu thái độ thẩm mĩ của Nguyễn Công Trứ đối với chế
độ phong kiến nói chung, đối với triều Nguyễn nói riêng, thông qua các
sáng tác văn học của ông. Bởi vì, tác phẩm văn học bao giờ cũng là sự
thể hiện sinh động và chân thực nhất các cung bậc tâm trạng, tình cảm
của nhà văn đối với hiện thực cuộc sống. Nó giúp cho chúng ta có thể
thấy được cái tình cảm chân thực của ông đối với triều Nguyễn, đối với
chế độ phong kiến như thế nào.
Sự
nghiệp văn học của Nguyễn Công Trứ chủ yếu diễn ra trong hai thời kỳ,
thứ nhất là thời kỳ chưa đỗ đạt với giấc mộng công danh cháy bỏng, và
thứ hai là thời kỳ làm quan dưới triều Nguyễn với rất nhiều thăng trầm,
sướng khổ, được thể hiện ra bằng hai nguồn cảm hứng sáng tác chủ đạo
sau:
1. Những khát vọng công danh, ý thức phụng sự triều đình vô điều kiện của chàng “bạch diện thư sinh”
Ðọc thơ văn của Nguyễn Công Trứ làm trong thời kỳ “bạch diện thư sinh”,
ta thấy, cảm hứng chính là sự tự tin vào khả năng và chí hướng của
mình, là khao khát cháy bỏng được thi đỗ, được làm quan, được thoả chí “tang bồng hồ thỉ”,
được phụng sự nhà vua và triều đình, được cống hiến tài năng, sức lực
cho dân cho nước. Trong cảnh nghèo của nhà nho chưa thành đạt, ông vẫn
rất ung dung, tự tin rồi một ngày kia sẽ thay đổi, và triều đình không
phụ công ông. Trong bài Hàn nho phong vị phú, ông viết:
Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”...
Tiếc tài cả phải phản ngưu bạn trúc, dầu xưa ông Phó ông Huề
Cần nghiệp nho khi tác bích tụ huynh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ
Nơi thành hạ gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ...
Trong bài Vô cầu, ông tự an ủi mình phải vững tin vào tài năng của mình, phải lạc quan chờ đợi thành công:
Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang
Ðường khoa mục xa nhau đà mấy bước
Sóng Vũ lớp sau như lớp trước
Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu
Trần ai ai biết công hầu là ai
Bao giờ rõ mặt mới hay
Cũng
có lúc ông cảm thấy hoang mang, dao động, bởi những cố gắng chưa thành.
Nhưng vượt lên trên tất cả, vẫn là một tinh thần lạc quan tin tưởng,
một ý chí vươn lên không ngừng. Những lời thơ tự động viên của ông cho
ta thấy cái quyết tâm rất cao, cái lòng tin rất lớn vào triều đình và
nhà vua của người học trò nghèo này:
Ðã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
Hãy quyết phen này xem thử đã
Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay
(Tự thuật II)
Ðây
là thời kỳ ông làm nhiều thơ về đề tài công danh, thi cử, ngầm bày tỏ
chí nam nhi dù trong cảnh khốn cùng vẫn không nguôi khát vọng được đền
ơn vua, trả nợ nước. Chữ công danh được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần,
như một điệp khúc giúp giải toả ẩn ức đè nặng lòng ông. Nó khiến ông trở
thành một nhà thơ nói nhiều nhất đến nợ công danh, đến chữ công danh
trong văn học cổ Việt Nam. Vì thế, nói đến thơ ông, người ta thường nhắc
đến những câu thơ hay nhất về nợ CÔNG DANH của người trí thức phong
kiến:
Ðã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng
(Ði thi tự vịnh)
Phải có danh mà đối với non sông
Ði không chẳng lẽ về không?
(Chí nam nhi)
Ðã sinh ra ở trong phù thế
Nợ trần ai đành cũng tính xong
(Ðường công danh)
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong
Dồi dào thiên tứ vạn chung
Khanh hầu xa mã tướng công lâu dài
Trần ai ai dễ biết ai
(Nợ công danh)
Ðó
là những tâm sự thường trực trong lòng Nguyễn Công Trứ. Dường như ông
không nghĩ gì nhiều ngoài việc phải làm sao thoả được nguyện ước công
danh. Những bài thơ mang tâm sự khác, ví dụ như bài thơ Vịnh thế thái
nhân tình được làm trong thời kỳ này, nhưng cũng chỉ như một nét buồn
thoáng qua không che lấp được cái tinh thần phơi phới của chàng “bạch
diện thư sinh” rất hăng hái trên đường sĩ hoạn:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không đều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền, dở cũng hay
Khôn khéo, chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi, không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây
Ðúng
là một nét buồn chán, nhưng của một Nguyễn Công Trứ tràn trề nhiệt
huyết trên đường lập công danh. Ðó cũng là điều dễ hiểu. Cái thói đời
ấy, cái nhân tình thế thái ấy đâu chỉ là điều thường thấy dưới chế độ
phong kiến, dưới triều Nguyễn. Có điều, đó không phải là sự quan tâm
chính của chàng trai Nguyễn Công Trứ. Và nó cũng chưa có tác động gì
đáng kể tới một con người “tay trắng” như ông.
2. Những thăng trầm trong “hoạn hải ba đào” và một lòng trung quân không hề thay đổi
Những
tác phẩm làm trong thời kỳ Nguyễn Công Trứ đỗ đạt, làm quan được xem là
bộ phận mang nhiều ý nghĩa nhất trong sáng tác của ông. Nhìn diễn tiến
của dòng tâm trạng trữ tình trong thơ ông thời kỳ này, chúng ta thấy có
một tinh thần QUYẾT TÂM rất cao:
Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác
Không công danh thời nát với cỏ cây
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây
Phải hăm hở ra tài kinh tế
(Gánh trung hiếu)
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung
Hết hai chữ trung trinh báo quốc...
(Nợ nam nhi)
Chúng ta cũng thấy có một tâm trạng THOẢ MÃN tột độ:
Miền hương đảng đã khen là hiếu đễ
Ðạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất
(Luận kẻ sĩ)
Thậm chí chúng ta thấy có cả sự TỰ MÃN không hề giấu giếm:
Ðường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thi thập rượu bầu.
(Chí khí anh hùng)
Nhưng
như một quy luật, một tất yếu, con đường hoạn lộ đầy rẫy chông gai
không phải lúc nào cũng chiều chuộng bất kỳ kẻ sĩ nào, đâu chỉ riêng
ông. Và dần dần chúng ta bắt đầu thấy ngày một lộ rõ thái độ BẤT MÃN,
chán nản trong thơ ông:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc lộn cười
(Tình cảnh làm quan)
Cũng
giống như nhiều Nho sĩ trí thức nổi tiếng trước đây và đương thời về lẽ
“xuất xử”, khi bất lực trước thế cuộc thường theo phương châm sống “độc
thiện kì thân”, “nhàn ẩn”, thơ ông càng về sau càng hướng về chữ NHÀN
cố hữu như bao người rơi vào hoàn cảnh thất cơ lỡ vận. Ðó là một điều
dường như là tất yếu đã từng xảy ra cũng đâu chỉ với riêng ông:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
Ðám phồn hoa trót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết
(Thoát vòng danh lợi)
Nhưng
nguyên nhân của tâm trạng, của thái độ, của tình cảm đó hoàn toàn không
phải là vì Nguyễn Công Trứ “ghê tởm cái xã hội phong kiến đầy gian dối,
lọc lừa, đổi trắng thay đen; biết mình đi nhầm đường mà không tìm được
lối thoát”, hay do “Nguyễn Công Trứ nhận thức ra được triều đại ông tôn
thờ không phải tốt đẹp như ông tưởng”, do “ông đã chán ghét chế độ của
họ đối với kẻ sĩ...”, “...ông nói lên niềm chán chường và khinh ghét cái tâm địa phản phúc, xấu xa của chúng...”.... như đã nói ở trên.
Cũng giống như Nguyễn Trãi xưa kia:
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay
(Quốc âm thi tập, bài 26)
Cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa:
Thế gian biến cải vũng nên doi
Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi...
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 71)
Nguyễn
Công Trứ cũng nói tới một “thói đời” có sức mạnh tàn huỷ con người của
mọi thời đại một cách ghê gớm. Ông nói tới cái “sự đời”, “thói đời”,
“nhân tình thế thái” đổi trắng thay đen của lòng người, chứ không phải
của chế độ phong kiến, của vua chúa nhà Nguyễn đối với ông:
Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi
(Cách ở đời)
Những nghĩ xa gần khéo gớm thay
Sự đời tráo trở giống bàn tay
(Vịnh sự đời)
Chẳng ưa, thoắt chốc ra hờn mát
Không luỵ, càng nhiều tiếng nói xăm...
(Trách đời)
Những điều tráo trở đã xem từng
Song rút dây kia sợ động rừng
Người thế, những tuồng trông trước mắt
Ở đời, mấy kẻ ngắm sau lưng...
(Trách người đời)
Quản bao miệng thế lời khôn dại
Dại trước khôn thời để lại sau
(Cảnh ở đời)
Vì chữ “thời” nên phải chịu luồn
Những xem nông nỗi khéo mà buồn
(Thói đời)
Gớm chết nhân tình thế thái
Lạt nồng coi chiếc túi đầy vơi
(Nhân tình thế thái)
Ông
chẳng những ghê sợ, mà còn căm ghét những “thế tình” ấy đến mức phải
chửi đổng, phải văng tục, thì ta biết lòng ông đau đớn, tức tối đến mức
nào:
Ðéo mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc, bạc như vôi
(Thế tình bạc bẽo)
Ðấy
quyết không thể là lời chửi rủa chế độ và triều đình. Những dòng tâm
trạng trữ tình này chỉ có thể dẫn chúng ta liên hệ tới những “sự cố”
trong cuộc đời làm quan của ông, nhất là đến những chuyện “thị phi”,
chuyện ông bị “vu oan giá hoạ”, bị dèm pha, ghen ghét để đến nỗi phải
chịu bao cảnh “lên voi xuống chó”. Cái tình cảnh đau thương mà ông phải
gánh chịu phần lớn là do thói đời bạc bẽo, do nhân tình thế thái đen
bạc, nhưng một phần là do chính những cái “tật” của kẻ lắm “tài” như
ông, do thói ngông nghênh kiêu bạc của ông.
Nguyễn
Công Trứ nổi tiếng là người tự mãn, kiêu ngông, ngất ngưởng... Nhưng
ông là một trong những người khao khát làm quan nhất trong chế độ phong
kiến Việt Nam. Cuối cùng chỉ vì tuổi già sức yếu chứ không hẳn là vì ông
không thắng nổi cái “thói đời” của chốn quan trường ông mới chịu lui về
sau gần 30 năm “hoạn hải ba đào”. Một sự kiên trì gắn bó hiếm có như
thế không thể có cách giải thích nào khác hơn ngoài sự trung thành tuyệt
đối với triều đình nhà Nguyễn, với chế độ phong kiến. Cuối cùng, dù rất
muộn, ông cũng “thoát vòng danh lợi”. Nhưng ngay cả khi đã “cáo lão hồi
hưu”, lòng trung thành với triều đình của ông không hề thuyên giảm, dù
một vài giai thoại mang “tính nhân dân” thêu dệt ông như một kẻ bất mãn
với triều đình, cũng không xoá bỏ được sự thật ấy. Chứng cớ là khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858, khi ông đã 80 tuổi, “các quan trong
triều dâng sớ xin cử ông ra cầm quân chống cự. Ông trả lời: “Dù tôi như
cái màn, cái lọng rách cũng không dám từ nan. Còn hơi thở nào xin lên
đường ngay”[7]. Tiếc rằng chưa kịp thực hiện chí anh hùng ấy, ông đã vội
ra đi vào cuối năm này. Một sự trung thành, tận lực hiếm có như thế
không thể có cách giải thích nào khác hơn ngoài sự gắn bó máu thịt của
ông với triều đình nhà Nguyễn, với chế độ phong kiến. Nếu không vì tuổi
già sức yếu, chứ không hẳn vì những “thói đời” dù rất đáng căm ghét mà
ông cũng đã nhiều lần vượt qua ấy, chưa biết chừng ông còn phụng sự
triều Nguyễn bao nhiêu năm nữa?
Chúng
ta thấy có lúc ông hô hào hưởng lạc, phó mặc trời đất. Có lúc ông mang
tư tưởng hư vô... Nhưng không thể nói cuộc đời ông là thất bại. Dù đã
trải đủ ngọt bùi cay đắng của “hoạn hải ba đào”, nhưng ta thấy, cả cuộc
đời ông, suốt trên 40 năm gắn bó với nợ công danh, là một cuộc đời sôi
nổi hiếm thấy, một cuộc đời thành công hiếm thấy của người trí thức xuất
thân bình dân và nghèo khó dưới chế độ phong kiến. Hầu như ông đã được
thi thố hết các tài năng của mình. Hầu như ông đã được sống hết mình và
theo ý mình một cách tối đa trong những điều kiện cho phép. Hiếm có
người trí thức bình dân nào được thoả mãn bằng ông trong cả nghìn năm
phong kiến.
Vì
thế mà khó có thể nói rằng ông là người mang tư tưởng phủ nhận chế độ
phong kiến, phủ nhận triều Nguyễn. Bằng cả cuộc đời mình, ông đã tận lực
với triều đình. Dù có thể có khi nào đó ông bất lực trong hành đạo,
nhưng nhìn chung lý tưởng của ông đã được thực hiện. Nhà thơ sống cùng
thời với ông là Phạm Văn Nghị (1805 – 1880) từng ca ngợi Nguyễn Công
Trứ, cũng là ngầm ca tụng cái sự “gặp thời” đó của ông:
Ðỏ xanh dấu cũ, mũ lọng triều xưa,
Bút cự nho xông thẳng trường văn, ba nghìn sĩ tử chịu co tay, tên đỏ chói đứng đầu bảng hổ;
Cớ đại tướng trổ ngang ngọn giáo, trăm vạn hùng cừ đều khiếp tiếng, bể trong veo lặng ngắt tăm kình.
Phá toang bãi cỏ lập làng dân, chẳng quản chân tay bùn lấm;
Tát sạch đồng chua làm ruộng tốt, khác nào trời đất chuyển vần.
Hoàn danh hoàn phúc gồm hai, công đức rỡ ràng bốn cõi,
Danh tướng danh thần làm một, linh thanh sực nức nghìn thu[10]
Có
thể còn nhiều điều Nguyễn Công Trứ chưa làm được. Có thể còn những hoài
bão của Nguyễn Công Trứ chưa thành hiện thực. Nhưng về cơ bản, ông đã
thoả mãn khát vọng của mình. Cuộc đời ông, sự nghiệp ông có thể được xem
là viên mãn. Vì thế mà ta thấy thơ văn ông về cuối đời nghe có vẻ ngông
nghênh bất cần đời, nhưng âm điệu lại hết sức du dương, trong trẻo, đầy
bỡn cợt và tự tin của tâm hồn một con người thoả mãn và luôn làm chủ
được hoàn cảnh. Một người viết câu đối tự tổng kết cuộc đời mình với
giọng trào tiếu như sau thì chỉ có thể là một người rất thoả mãn mà
thôi:
Cũng
may thay, công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên,
quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào
mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình
trong hội kiếm cung, khắp trời nam bể bắc cũng tung hoành, mùi thế trải
qua ngần ấy đủ.
Thôi
quyết hẳn, cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng
tục, hầu gái một vài cô, hầu trai dăm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu
này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược
ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít
nữa ấy là hơn.
Một
người đã vượt lên trên mọi thói thường, mọi sự đàm tiếu, mọi dư luận,
tự nhận mình là “ông ngất ngưởng” như Nguyễn Công Trứ, quyết không thể
là người hận triều đình hay cay cú với chế độ:
Ðược mất đương dương người tái thượng
Khen chê phới phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục...
Với
ông, trước sau ông hết lòng phụng sự chế độ phong kiến, phụng sự triều
đình nhà Nguyễn. Ðó là niềm vui, là lẽ sống, là lý tưởng của ông. Và chỉ
với triều Nguyễn, ông mới thực là ông, một kẻ được thoả chí “tang bồng,
hồ thỉ”. Thử hỏi trong thời đại nào mà một người trí thức bình dân,
nghèo khó, dù đỗ đạt rất muộn vẫn có thể “hoàn danh hoàn phúc gồm hai”,
“danh tướng danh thần làm một” được như ông, mà vẫn kiêu ngông ngất
ngưởng bậc nhất trên đời? Chỉ với triều Nguyễn, ông mới có được những
thành công như ông mong muốn. Và chỉ có triều Nguyễn mới có thể dung nạp
được một con người như ông. Không trọng tài năng của ông, sao triều
Nguyễn có thể “chiều chuộng” ông như thế, sao có thể cho một kẻ đã từng
bao lần “xuống chó” lại có được lắm cơ hội “lên voi” như ông, sao có thể
khiến ông, một người rất mực ngông nghênh kiêu bạc, mà lại vẫn rất mực
chung thuỷ với nhà vua, với triều đình, như chính ông hằng tự nhủ trong
một bài ca được xem là hay nhất của ông:
Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung (Bài ca ngất ngưởng)[9]
Qua
cuộc đời Nguyễn Công Trứ, đặc biệt qua tâm trạng trữ tình trong thơ văn
Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy thái độ thẩm mĩ của ông đối với
vương triều Nguyễn không phải là một thái độ phủ nhận cực đoan như lâu
nay nhiều người nhầm tưởng, lại càng không thể là sự “chán ghét chế độ”,
sự “khinh ghét cái tâm địa xấu xa phản phúc” của vua chúa triều Nguyễn,
mà trái lại, hết mực gắn bó, tận tuỵ, trân trọng, trung thành. Thái độ
thẩm mĩ của Nguyễn Công Trứ đối với vương triều Nguyễn thiên về khẳng
định chứ không phải phủ định. Hiểu đúng tâm trạng của một người trong
cuộc như Nguyễn Công Trứ, chúng ta chẳng những hiểu đúng thơ văn của ông
hơn, mà còn có thể hiểu đúng triều Nguyễn hơn, để có một thái độ đánh
giá khách quan hơn, bớt áp đặt hơn đối với triều Nguyễn. Với những gì
Nguyễn Công Trứ thể hiện, triều Nguyễn chẳng những không chỉ toàn những
xấu xa, đen tối, mà còn có nhiều mặt tích cực rất đáng được nhìn nhận,
được nghiên cứu nghiêm túc, như ở cách dùng người, kể cả đối với những
người “lắm tài nhiều tật” như Nguyễn Công Trứ mà không phải ở thời nào
cũng được trọng dụng như thế, cũng được thoả mãn chí hướng, khát vọng,
lý tưởng của mình như thế.
Nguyễn Phạm Hùng
Ðại học Quốc gia Hà Nội
Nội dung bài viết rất hay, xin cảm ơn
Trả lờiXóaĐúng đó bạn
Xóa