Jung Chang, Jon Halliday
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Chương 1-30
Chương 1:
Trong
cuốn Mao tuyển, Mao Trạch Ðông viết là chủ nghiã cộng sản (CS) ở Trung
Quốc (TQ) phải bắt đầu với sự nổi dậy của giới nông dân, thay vì công
nhân như Marx và Lenin vận động, và tự cho đây là 1 khám phá đặc thù của
ông ta khi áp dụng chủ nghiã CS vào TQ vì rằng ông ta là người xuât
thân nông dân và hồi còn trẻ ông ta đã rất xúc động khi chứng kiến sự
nổi dậy và bị đàn áp của giới nông dân nơi ông ta sinh trưởng. Thực ra
đây là chuyện ba xạo, vì tất cả các bản báo cáo của Mao cho Đảng CS Liên
Xô (ĐCSLX) trong năm năm sau khi Mao gia nhập đảng không có 1 dòng nào
về giới nông dân. Tất cả các cuôc nổi dậy và bị đàn áp của nông dân
trong những năm này không hề làm Mao xúc động như ông ta viết sau này.
Các báo cáo của ông cho Quốc tế Cộng sản đệ tam về con số nông dân chết
vì đói lên đến hàng trăm người mỗi ngày không bày tỏ một sự xúc động nào
về những thảm kịch này, thế nhưng lại chứa đựng đầy sự hưng phấn khi
ông ta viết về giới sinh viên. Sau này Mao viết sách tự cho mình là
người gốc nông dân, nhưng thực ra khi còn trẻ ông ta luôn tìm cách chối
bỏ nguồn gốc nông dân của ông.
Mao bắt
đầu được đi học năm 8 tuổi, nhưng chỉ là học với thầy đồ dậy tại nhà.
Vốn là một đứa trẻ ngỗ nghịch Mao bị đuổi học nhiều lần. Mao không bao
giờ tỏ ra thích thú làm ruộng. Khi bị cha ép ra làm ruộng, Mao bỏ nhà
trốn đi và chính thức ghi danh học ở một ngôi trường cách quê ông 25 km,
khi đó Mao mới 16 tuổi và vừa mới chết vợ (Mao bị ép lấy vợ năm 14
tuổi, người vợ này hơn Mao 4 tuổi). Chính ở ngôi trường này Mao được
nghe tới châu Âu, châu Mỹ lần đầu tiên và được học về Napoleon,
Washington, vân vân. Thế nhưng Mao chỉ ở đây có 6 tháng. Mùa xuân 1911,
Mao lại khăn gói đi Trường sa. Trường Sa là một thành phố lớn với rất
nhiều trường học, nhưng không có trường nào giữ Mao được lâu. Bị cha đe
dọa cắt trợ cấp Mao ghi danh vào một trường sư phạm năm 1913, lúc đó Mao
mới 19 tuổi. Năm 1918 Mao ra trường nhưng không kiếm được việc làm, ông
bỏ đi Bắc kinh một năm mà cũng không kiếm được việc, nên lại trở về
Trường sa, đúng lúc một giáo sư cũ của ông đang cần người.
Chương 2:
Ðảng
CSTQ được thành lập theo lệnh của Liên Xô: Tháng 4 năm 1920 Cộng sản
Quốc tế đệ tam gởi một đại biểu, Grigori Voitinsky, sang Trường Sa gặp
giáo sư Trần Ðộc Tú để thành lập đảng CSTQ với lời hứa hẹn sẽ được Liên
Xô giúp đỡ 100% về mặt tài chính, nhân sự cũng như vũ khí. Ðảng được
thành lập vào tháng 8 năm đó. Dù Mao chẳng phải là đảng viên lúc đó, ông
đã được Trần Ðộc-Tú giao nhiệm vụ trông coi tiệm sách của đảng ở Trường
sa. Sau vài tháng làm việc, Mao đã nhờ một người bạn trông coi cửa
tiệm, còn Mao thì dựa vào uy tín của giáo sư Trần Ðộc-Tú để làm các dịch
vụ khác như liên lạc với các nhà xuất bản sách, thư viện, đại học khắp
nước. Nhờ thế khi có chút uy tín, Mao được tuyển chọn làm Hiệu trưởng
một trường tiểu học.
Không ai được biết
Mao gia nhập đảng năm nào, nhưng chắc chắn Mao không phải là một trong
những người thành lập đảng, như tài liệu hiện thời tuyên truyền. Sự kiện
ĐCSTQ được thành lập vào tháng 8 năm 1920, chứ không phải 1921 như tài
liệu sau này của đảng, được in rõ ràng trong những sách báo xuất bản bởi
Cộng sản Quốc tế đệ tam khi đó. Lý do của sự sửa đổi này có lẽ là để
ghép Mao vào thành phần thành lập đảng.
Chương 3:
Ngay
sau khi thành lập ĐCSTQ, Liên Xô đã bí mật xây dựng một trại huấn luyện
lính Trung quốc ở Siberia. Liên Xô cũng bí mật thành lập một tổ chức
tình báo với rất nhiều nhân viên của họ, theo kiểu KGB (Komitet
Gosudarstvennoĭ Bezopasnosti)và GRU (Glavnoye Razvedovatel'noye
Upravlenie, Main Intelligence Directorate), ở Quảng đông, Thượng hải và
Bắc kinh. Ngày 3 tháng 6 năm 1921, hai nhân viên tình báo thuộc Ban Viễn
Ðông của Cộng sản Quốc tế đệ tam, Nikolsky và Maring, tới Thượng hải
yêu cầu ĐCSTQ tổ chức đại hội đảng lần thứ nhất. Khi đó ĐCSTQ đã thành
lập được 7 cơ sở, mỗi cơ sở được gởi hai đại biểu tham dự đại hội, và
được cung cấp 200 quan chi phí di chuyển. Số tiền 200 quan thời đó là
rất lớn, bằng hai năm lương của Mao. Ðại diện Trường Sa là Mao Trạch
đông và một người bạn thân của ông tên Ho Shu-heng. Ðây là bằng cớ đầu
tiên Mao nhận tiền của Liên Xô. Ðại hội ĐCSTQ lần đầu này chỉ có 13 đại
biểu, đại diện cho 57 đảng viên, gồm toàn ký giả, sinh viên và thầy
giáo. Không có ai là công nhân. Ở đại hội này Mao hoàn toàn chìm lỉm,
hầu như ông không có phát biểu gì. Khi đại hội chấm dứt, mỗi đại biểu
được phát 50 quan nữa để đi về và Mao đã dùng số tiền này để đi thăm
cảnh ở Hàng châu và người bạn gái Si-Yung ở Nam kinh, dù lúc đó Mao vừa
lấy người vợ thứ hai.
Người vợ thứ hai này tên là Dương Khai
Tuệ, con gái của một người thầy cũ của Mao. Dựa vào những bài thơ Mao
viết khi tán tỉnh Dương Khai Tuệ, ta có thể đoán biết là Mao thật lòng
yêu Dương Khai Tuệ dù rằng tình yêu này chắc hẳn đã kết thúc sau ngày
cưới. Dương Khai Tuệ để lại một cuốn nhật ký trong đó bà bày tỏ tình yêu
với Mao một cách sâu sắc. Bà có 3 con với Mao. Sau khi bị Mao bỏ rơi bà
bị quân Tưởng bắt, và được đề nghị nếu chấp thuận công khai tuyên bố ly
dị Mao thì sẽ được tha bằng không thì sẽ bị xử tử. Bà từ chối và bị xử
tử ngày 14 tháng 11 năm 1930 cùng với đứa con lớn, lúc đó mới 8 tuổi.
Cũng cần biết là dù yêu Mao sâu sắc, Dương Khai Tuệ lại rất khinh bỉ chủ
nghiã CS.
Sau đại hội, Mao được trả lương
60 quan một tháng, và sau này tăng lên đến 100 rồi có lúc lên tới 170
quan. Việc nhận tiền Liên Xô đã làm nhiều đảng viên bức xức, nhưng Mao
thì không. Trong một lá thư gởi cho bạn, ông viết năm 1920, khi đang làm
hiệu trưởng một trường tiểu học: “Ðời sống thật là thê thảm. Mỗi ngày
tôi phải liên tục làm việc từ ba tới bốn tiếng không được nghỉ”, và sau
khi đi dự hội nghị về ông viết: “Bây giờ tôi sống rất hạnh phúc. Thời
gian trong ngày tôi chỉ dùng để ăn và chăm sóc sức khoẻ. Thiệt đã.”
Tháng
1 năm 1923 với ý đồ xâm nhập Quốc dân đảng TQ Liên Xô ra lịnh cho tất
cả đảng viên ĐCSTQ phải gia nhập Quốc dân đảng. Rất nhiều đảng viên
ĐCSTQ chống lại lịnh này, nhưng Mao thì tóm ngay lấy cơ hội này mà gia
nhập Quốc dân đảng. Mao thủ đắc hai điều lợi: phía Liên Xô thì coi Mao
là kẻ biết vâng lời, do đó đã thăng chức cho Mao làm phụ tá cho Tổng bí
thư đảng lúc ấy là giáo sư Trần Ðộc-Tú ; Phiá Quốc dân đảng thì cũng bổ
nhiệm Mao vào 1 trong 16 người dự khuyết của Ủy ban Thường vụ Quốc dân
đảng. Chỉ trong vòng một năm cái đảng cộng sản TQ nhỏ xíu đã giành được
những vị trí béo bở trong Quốc dân đảng, thế nhưng sự tận tụy của Mao
với Quốc dân đảng đã có phản ứng ngược: Mao bị tố cáo là “cơ hội” và
“hữu khuynh”, vì thế Mao bị thanh trừng khỏi Ủy ban Trung ương ĐCSTQ, và
cũng không được mời tham dự hội nghị đảng vào năm sau, 1925.
Chương 4:
Bị
đá văng ra khỏi vị trí lãnh đạo ở DCS, Mao bèn thử thời vận ở Quốc dân
đảng . Ông rời Trường Sa mà đi Quảng đông. Chỉ trong hai tuần ông được
giao cho quản lý bộ tuyên truyền, và làm chủ bút tờ Chính trị Tuần báo.
Tháng 2 năm 1926, 32 tuổi, Mao được QDÐ phong làm thành viên sáng lập Ủy
ban Vận động Nông dân Quốc gia và đồng thời làm Hiệu trưởng trường đào
tạo cán bộ cho tổ chức này. Những cán bộ này có nhiệm vụ đi về nông thôn
xách động nông dân nổi lên lập thành phong trào nông dân chống kẻ giàu.
Khi Quốc dân đảng bắt đầu chiến dịch bắc tiến để lật đổ chính phủ Viên
thế Khải thì phong trào này đang lập được nhiều thành tích, và dĩ nhiên
hậu quả là xã hội bị xáo trộn, bạo loạn nổi lên khắp nơi. Mao được QDÐ
điều về Hồ Nam để chỉ đạo phong trào.
Chính
nơi đây Mao tận mắt chứng kiến phong trào đã biến những người nông dân
hiền lành thành những kẻ bạo động. Họ đội cho nạn nhân một cái mũ giấy
ghi tội và lôi kéo các nạn nhân đi khắp phố, theo sau là một đám đông.
Nhiều nạn nhân bị đánh đập tới chết, trong khi những người đứng coi la
lớn: “giết nó đi”. Sự kiện này đã kích thích Mao. Ông viết trong bản báo
cáo tháng 3 năm 1927: “Sự dã man nơi đây đã bơm vào người tôi một kích
thích tố mới. Thật tuyệt vời”. Theo Mao, trật tự xã hội cần phải được
đập nát trước khi xây dựng một xã hội mới, và điều này lọt vào mắt xanh
của những người Cộng sản Liên Xô. Vì thế, Mao được chọn cho trở lại Ủy
ban Trung ương đảng, dù chỉ là dự khuyết.
Trong
khi đó, càng ngày càng có nhiều đảng viên Quốc dân đảng lên tiếng chống
đối sự bạo loạn đang gia tăng này. Ngày 6 tháng 4 năm 1927 trong một
cuộc kiểm tra đột xuất tại một cơ sở của Liên Xô, chính phủ Bắc kinh đã
khám phá những tài liệu chứng tỏ Liên Xô đã móc nối và gài gián điệp với
mục đích lật đổ chính phủ dân quốc. Những tài liệu này cũng tiết lộ
liên hệ giữa Liên Xô và ĐCSTQ. Ngày 12 tháng 4, tư lệnh quân đội Tưởng
Giới Thạch ban lệnh thanh trừng ĐCSTQ. Ông ra lệnh cho quân đội tấn công
vào những cơ sở của ĐCSTQ, bắn thẳng vào những đám biểu tình chống đối,
và giam giữ nhiều thành viên lãnh đạo Công đoàn, một số bị tra tán và
giết chết. Một danh sách 197 đảng viên ĐCSTQ cần bắt được công bố, Mao
có tên trong đó. Một điều trớ trêu là phụ tá đắc lực của Chủ tịch Quốc
dân đảng Uông Tinh Vệ chính là Mao trạch Ðông. Uông Tinh Vệ bàn giao
chức Chủ tịch đảng lại cho Tưởng Giới Thạch.
Trong khi đó, phía ĐCSTQ Trần Ðộc Tú cũng đã bị Lominadze thay thế bởi Chu Ch’iu pai, và Mao được thăng thưởng vào Bộ chính trị.
Chương 5:
Phản
ứng lại lệnh săn bắt của Tưởng, Stalin ban lệnh cho ĐCSTQ cấp tốc rút
quân đội ra khỏi quân đội của Tưởng mà lập quân đội riêng và rút về bờ
biển phía nam để nhận súng đạn do Liên Xô chuyển đến. Tháng 7 năm 1927
trong một cuộc họp khẩn của đảng Mao tuyên bố một câu sau này được nổi
tiếng khắp thế giới: “Sức mạnh đến từ nòng súng”. Thế nhưng với Mao thì
súng thôi chưa đủ, để đạt được những gì mình muốn Mao phải có cả súng và
đảng. Một kế hoạch được thành hình.
Khi
đó 20 ngàn quân CS đã kịp thời rút ra khỏi quân đội Tưởng và kéo về tụ
tập ở Nam xương, thủ đô của Quảng tây. Ðoàn quân này được lệnh tiến về
Shantow để nhận quân viện do Liên Xô gởi tới bằng đường tàu. Mao biết
rằng họ phải đi ngang Trường Sa nên Mao xin Trung ương ĐCSTQ cho phép
ông tổ chức một cuộc nổi dậy cho nông dân ở Trường Sa để tạo nơi đây
thành một căn cứ cho đảng. Không biết gì về ngụy kế của Mao, Trung ương
ĐCSTQ cho phép. Các tay lãnh đạo cuộc nổi dậy họp nhau tại tòa lãnh sự
Liên Xô ở Hồ Nam từ ngày 15 tháng 8 để bàn biện pháp tổ chức cuộc nổi
dậy nhưng tới ngày 18 tháng 8 Mao mới xuất hiện với lời xin lỗi là ông
ta bận đi điều nghiên thực tế. Lý do chính là Mao câu giờ để chờ coi 20
ngàn hồng quân có đi tới Trường Sa không. Khi biết chắc là đoàn quân này
đã bị tan rã, một phần chết vì uống nước dơ, một phần đào ngũ, chỉ còn
một số nhỏ chừng 1 ngàn người tới được biên giới Trường sa, Mao xuất
hiện và đề nghị tấn công Trường sa. Lúc đó lực lượng cộng sản ở giáp
giới Trường Sa có 3 nhóm: nông dân, thợ thuyền thất nghiệp, và toán quân
vừa tan vỡ còn sót lại. Lý do của đề nghị này là nếu ở trên chấp thuận,
Mao sẽ đương nhiên được cử lãnh đạo 3 nhóm này. Mưu kế của Mao thành
công, Mao được cử làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận.
Thế
nhưng vốn không có một căn bản quân sự, Mao phải nghĩ ra một kế khác để
bảo toàn lực lượng của mình. Cái kế đó là Mao không có mặt cùng quân sĩ
ngày dự định tấn công vào Trường sa. Ba ngày sau trước khi đoàn quân
này bị chính phủ tấn công Mao xuất hiện, tuyên bố là đã mất thiên thời
nên đề nghị rút lui để bảo toàn quân đội. Trung ương ĐCSTQ phải đồng ý,
mà không biết đây là âm mưu ngay từ đầu của Mao. Cuộc tấn công Trường Sa
này được sử sách TQ gọi là cuộc khởi nghiã mùa thu Trường Sa do Mao
lãnh đạo, thực ra đây không phải là một cuộc khởi nghiã, vì chính Mao đã
giết nó từ trứng nước. Kết quả thì như ý muốn của Mao: bây giờ Mao đã
có trong tay một đạo quân khoảng 1500 người.
Chuyện
kế tiếp là Mao phải di chuyển đám quân này tới một nơi khác để xây dựng
cơ sở cho mình. Mao kiếm được một số binh sĩ ủng hộ ông, và dùng họ làm
bồi pha nước trước khi mời các sĩ quan của toán quân này tới họp. Vì
Mao là cán bộ Cộng sản duy nhất ở đây nên cuộc họp tuy có căng thẳng mà
cuối cùng các sĩ quan phải tuân lịnh Mao để dời tới một căn cứ nằm sâu
trong núi thuộc huyện Ninh Cương, tỉnh Cường Sơn, cách đó 170 km. Tuy
thế khi tới nơi Mao chỉ còn khoảng 600 người. Tại đây Mao sống nương nhờ
một băng cướp khoảng 500 người, do Viên Văn Tài và Vương Tặc (biệt danh
Hổ Vương) cầm đầu, vốn có quen biết Mao từ trước. Băng cướp này ban đầu
cũng nghi ngờ Mao tới để chiếm đất mình, thế nhưng chỉ bốn tháng sau,
khi thấy Mao và đồng bọn tấn công vào thành Ninh Cương, và thẳng tay tàn
sát sĩ quan và địa chủ một cách quá ư man rợ thì họ thấy mình thua xa
Mao, nên đã tự nguyện phục tùng Mao. Thế là Mao đã cướp được đất và quân
của kẻ cướp.
Khi những chuyện của Mao đã
làm tới tai Trung ương đảng đặt tại Thượng hải thì Mao bị triệu hồi,
nhưng Mao đã phớt lờ lệnh này. Trung ương đảng bèn quyết định trục xuất
Mao ra khỏi đảng, thế nhưng vì Mao đã ẩn sâu trong núi, phương tiện đi
lại khó khăn, quân sĩ Mao không biết chuyện này.
Tháng
4 năm 1928, một lực lượng gần 4 ngàn người của hồng quân bị thất bại
sau cuộc tấn công Hồ Nam đã chạy tới nương nhờ Mao sau khi bị phe chính
phủ ráo riết truy đuổi. Ðứng đầu nhóm này là một tướng cộng sản tên Chu
Ðức (Chu Đức). Chu Ðức đã từng đi Ðức, và gia nhập đảng cộng sản trước
khi sang Nga thụ huấn về quân sự. Một liên minh Chu Ðức-Mao được thành
hình, Chu Ðức lãnh đạo về quân sự, Mao lãnh đạo về đảng. Ðơn xin phép
được hợp thức hoá vai trò của Mao tới tay Stalin ngày 26 tháng 6 năm
1928 và mọi đòi hỏi của Mao được Stalin chấp thuận hoàn toàn. Theo
Stalin Mao có đầy đủ đức tính của một lãnh tụ cộng sản, và bây giờ với
quân đội trong tay Mao hơn hẳn các nhóm cộng sản khác. Mao được Stalin
đánh giá có khả năng cao nhất thành công thiết lập chế độ CS ở TQ.
Cũng trong năm 1928 tại căn cứ này Mao
lấy vợ lần thứ ba. Hà Tử Trân lấy Mao vì cần bảo vệ tại một nơi mà đàn
ông nhiều hơn đàn bà, thế nhưng chỉ sau một năm bà cương quyết đòi bỏ
Mao nhưng Mao không cho phép. Bà có 6 con với Mao sau 10 năm sống chung,
sang Moscow chữa bệnh tháng 10 năm 1937 và sống luôn ở đó cho tới khi
chết trong một nhà thương tâm thần.
Chương 6:
Ngày
14 tháng 1 năm 1929 lực lượng Chu Ðức-Mao xuống núi, chỉ vài ngày trước
khi căn cứ của họ bị Tưởng tấn công. Khi tin tức căn cứ của họ bị tấn
công, và vợ Chu Ðức bị chặt đầu tới tai Chu Ðức thì ông này mất hết tinh
thần. Ðây là cơ hội bằng vàng cho Mao lật Chu Ðức mà nắm gọn luôn vừa
đảng vừa quân sự. Chu Ðức cũng không chống đối gì.
Tháng
3 năm đó Mao tấn công và thành công chiếm được Tinh Châu, một thành phố
khá lớn và giàu có. Quân đội Mao lần đầu tiên được phát quân trang.
Tháng
6 cùng năm Thượng hải gởi tới một nhân viên tên Liu An-gong để nắm vị
trí thứ 3, sau Mao và Chu Ðức. Thế nhưng với An-gong bên cạnh, Chu Ðức
đã thách thức vai trò lãnh đạo của Mao. Vì hầu hết quân sĩ đều theo Chu
Ðức, Mao bị loại ra khỏi ban lãnh đạo một lần nữa trong một cuộc bỏ
phiếu.
Phải giã từ bộ chỉ huy, nhưng không
chiụ thua, Mao chờ đợi cơ hội. Ngày 10 tháng 7, khi đại hội đảng vừa
bắt đầu khai mạc thì Mao tung tin là quân chính phủ đang tới đánh. Các
đại biểu nhanh chóng giải tán, thế là Mao cho người điền vào các chỗ
trống và bỏ phiếu bầu người của Mao vào các chức vụ quan trọng. Ðể trả
thù Chu Ðức, Mao bí mật liên minh với một sĩ quan của Chu Ðức là Lâm
Bưu, và cuối tháng 7 năm 1929 khi quân Tưởng tới đánh thì lực lượng của
Lâm Bưu thay vì tới họp mặt với Chu Ðức theo kế hoạch để chống Tưởng, đã
rút đi theo Mao. Chỉ còn lại với một nửa quân đội, Chu Ðức chỉ đành nhờ
Trung ương đảng tìm biện pháp giải quyết. Vận may một lần nữa lại đến
với Mao vì lúc đó Stalin đang sợ hãi phong trào Trotsky mà giáo sư Trần
Ðộc-Tú , sáng lap vien ĐCSTQ, là một thành viên đắc lực. Trần Ðộc-Tú một
thời là người đỡ đầu của Mao, nên Stalin quyết định ra mặt ủng hộ Mao,
vì sợ nếu không thì Mao sẽ theo Trần Ðộc-Tú mà gia nhập phe Trotsky. Chu
Ðức đành viết thư mời Mao trở lại ghế lãnh đạo, và dĩ nhiên một người
như Mao thì phải để Chu Ðức khẩn khoản năn nỉ nhiều lần trước khi cho
phép Chu Ðức được gởi quân tới đón về.
Chương 7:
Sau
khi Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ dân quốc ở Nam kinh năm 1930,
việc làm đầu tiên của ông là càn quét đám lãnh chuá. Nhiều trận chiến
đẫm máu xảy ra. Liên Xô thấy đây là cơ hội để họ bành trướng thế lực của
đảng, nên Chu Ân Lai được gọi sang Moscow báo cáo về tình hình ĐCSTQ
lúc đó. Chu khi đó đã nắm nhiều chức vụ quan trọng trong đảng như lãnh
tụ tổ chức guồng máy gián điệp và ám sát, cũng như đã từng nắm chức vụ
bí thư đảng tại Thượng hải từ năm 1928. Chu báo cáo hiện có 62700 quân,
chia thành 13 quân đoàn, trong đó quân đòan Mao-Chu Ðức là lớn nhất với
15 ngàn người.
Trong khi Chu Ân Lai đi
vắng, người thay thế Chu là Lý Lập Tam quyết định phát triển thế lực
bằng cách chiếm lấy mấy thành phố lớn như Nam xương và Trường sa. Mao
được phân công tác đánh Nam xương, nhưng vốn là một người thực tế Mao
không nghĩ là hồng quân có thể chiếm được những thành phố này. Thế nhưng
Mao thấy đây lại là một cơ hội cho Mao lãnh đạo luôn quân đoàn lớn thứ
hai của ĐCSTQ, lúc đó dưới quyền Bành Ðức Hoài, nên sốt sắng nhận lời.
Mao dẫn quân đòan của mình đi theo hướng bắc tiến về Nam xương, thế
nhưng khi tới địa đầu Nam xương thì Mao lại dẫn quân quay về Trường Sa
mà Bành đã vừa chiếm được ngày 25 tháng 7, nhưng đang bị chính quyền Nam
kinh (có sự trợ giúp của Mỹ) cố giành lại. Mao cho người báo về Thượng
hải là quân đòan Bành đang bị thiệt hại nặng, thế nhưng lại báo với Bành
là cần Bành tới giúp. Khi Bành tới gặp Mao thì Mao giành ngay lấy quyền
chỉ huy và ép Bành làm phụ tá, và ra lệnh đánh chiếm lại Trường sa. Mao
lý luận là với hai quân đòan hiệp lực họ dư sức đánh chiếm Trường sa,
thế nhưng trong khi Bành ra sức tấn công thì Mao chỉ đứng ngó (theo báo
cáo của GRU cho Moscow). Sau ba tuần tấn công với nhiều tổn thất, dĩ
nhiên quân đòan Bành tổn thất nhiều hơn, Mao đề nghị hưu chiến và rút
ra. Khi các sĩ quan dưới quyền Bành không chiụ tuân lệnh rút lui, Mao ra
lệnh thanh trừng họ. Mao đổ lỗi sự thất bại trong cuộc hành quân này
cho Lý Lập Tam vì Lý Lập Tam ban lệnh tấn công, và ông này bị triệu hồi
về Moscow sau đó bị thất chức. Sách sử TQ sau này cũng đổ lỗi cho Lý Lập
Tam nhưng chính ra Mao mới là người gây ra sự thất bại này. Trong khi
đó, Mao thành lập một ủy ban cách mạng toàn quốc, Mao làm chủ tịch, để
nắm trọn quyền lãnh đạo về quân đội, chính quyền cũng như đảng.
Chương 8:
Theo
lệnh của Moscow, Giang Tây được chọn làm căn cứ hồng quân TQ. Một lần
nữa Mao phải bày kế để giựt quyền lãnh đạo ở đây, từ tay một cán bộ cộng
sản tên là Li Wenlin. Mao đề nghị triệu tập một hội nghị gồm tất cả các
đại diện đảng ở Giang Tây tại Pitou. Hội nghị dự trù bắt đầu ngày 10
tháng 2, thế nhưng Mao đột nhiên đổi lại là ngày 6, vì thế Li Wenlin
không đến kịp. Mao và tay chân chia nhau tóm gọn quyền hành. Những kẻ
chống đối bị thanh trừng một cách dã man. Trung ương đảng đóng ở Thượng
hải dĩ nhiên không chấp nhận, nên gởi một đại biểu, Cai Shenxi, tới nắm
quyền lãnh đạo thay Mao và đòi Mao trở về trình diện. Biết được chuyện
này Mao bàn giao quyền lãnh đạo cho người em rể, Liu Shiqi, và để không
còn phải gởi báo cáo về Thượng hải nữa cũng như để đặt Trung ương đảng
vào sự kiện là đã có người thay Mao rồi, Mao liền giả chết.
Hai
tuần sau đó khi Thượng hải biết được Mao vẫn còn sống, một văn kiện
được gởi đi khắp các cơ sở của đảng loan báo là mọi đảng viên chỉ nhận
lệnh từ Trung ương đảng bộ ở Thượng hải mà thôi. Dù văn kiện không nêu
tên Mao, nhưng đã khơi dậy một cuộc nổi loạn chống Mao ở Giang Tây. Mao
và Liu thẳng tay đàn áp. Trong vòng một tháng cả ngàn người bị giết.
Cuộc tàn sát chỉ chấm dứt khi Mao kẹt đánh nhau ở Trường Sa giành quyền
với Bành, quân đội Giang Tây nổi dậy và đuổi Liu ra khỏi Giang Tây. Liu
trở về Thượng hải nhận lệnh mới, còn Mao trên đường trở về Giang Tây, hy
vọng giành lại được quyền lãnh đạo, thì nhận được tin Cộng sản Quốc tế
đệ tam đã thăng chức cho Mao thành nhân vật số 1 của ĐCSTQ. Với quyền
sinh sát trong tay, Mao ra lệnh mở một cuộc thanh trừng quy mô, tàn sát
tất cả những ai chống đối ông ta. Chỉ trong một tháng số người chết lên
tới 4 ngàn người. Không chiụ đựng được sự tàn ác của Mao, binh sĩ và dân
chúng nổi dậy chống Mao, thì may mắn thay cho Mao lúc đó có mặt một
phái đòan của đảng bộ Thượng hải. Phái đoàn khuyên họ giải tán vì Mao có
sự ủng hộ của quốc tế, và đề nghị với họ là gởi bằng cớ dã man của Mao
về cho Trung ương ở Thượng hải. Dù với đầy đủ bằng cớ, Mao vẫn được
Stalin hết lòng tin tưởng. Ðược sự ủng hộ từ Moscow và sự đồng loã từ
Thượng hải, Mao lần này mở rộng cuộc thanh trừng, hậu quả hàng chục ngàn
người nữa, đa số là đảng viên và quân sĩ, chết ở Giang Tây. Trang sách
bi thảm này của ĐCSTQ cho tới ngày hôm nay vẫn bị che giấu.
Tuy
nhiên chính sách khủng bố của Mao đã dẫn tới một hiệu quả không ngờ
trong cuộc chiến với quân Tưởng giới Thạch sau đó. Khi quân Tưởng mở
chiến dịch càn quét hồng quân thì chiến lược của Mao là rút vào vùng an
toàn, dụ quân Tưởng đi sâu vào và khi thuận tiện thì bất ngờ đổ ra đánh.
Mao ra lệnh tất cả nhà cửa nơi quân Tưởng sắp đi tới đều phải bị thiêu
hủy, thực phẩm phải được chôn giấu kỹ, và mọi người dân đều phải di tản.
Vì khiếp sợ sự tàn bạo của Mao, ai nấy đều tuân lệnh răm rắp. Chiến
lược này của Mao thành công không ngờ, tuy thế sự thành công của Mao còn
tùy thuộc thêm một yếu tố nữa mà khi đó không ai biết: Liên Xô đã thiết
lập được một mạng lưới tình báo ở Trung quốc, và đã chia xẻ các tin tức
tình báo này cho ĐCSTQ. Ngày 30 tháng 12 năm 1930, nắm được chính xác
số lượng quân đội Tưởng và ngày giờ hành quân Mao dùng một quân số hơn
gấp năm lần mà bao vây tiêu diệt toàn bộ quân đội Tưởng. Viên tướng tư
lệnh bị bắt, bị chặt đầu và thả trôi sông. Tháng 4 năm 1931 lại một lần
nữa Mao đẩy lui được đợt tấn công lần thứ hai của quân Tưởng. Tức giận
trước sự thất bại này, đầu tháng 7 năm 1931 Tưởng giới Thạch đích thân
dẫn theo 300 ngàn quân đi đánh, quân số của Tưởng gấp 10 lần hơn Mao.
Chỉ trong hai tháng quân Mao liên tục tháo lui, căn cứ điạ hồng quân
càng ngày càng rút nhỏ lại và quân đội Mao đứng trước cơ nguy sụp đổ.
Khi đó một cứu tinh của Mao xuất hiện: Nhật bản. Nhật bản vừa chính thức
phát động cuộc chiến xâm lăng Mãn châu.
Ngày
18 tháng 9 năm 1931 Tưởng giới Thạch lên tàu ở Nam kinh đi Giang Tây
chuẩn bị tấn công căn cứ điạ cuối cùng của Mao ở đó thì lúc 10 giờ tối
cùng ngày quân Nhật tấn công Shenyang, thủ đô của Mãn châu và một số
thành phố lớn. Viên tướng trấn thủ Mãn châu là Trương Học Lương rút quân
bỏ chạy mà không bắn một phát súng. Ngày 19 tháng 9 Tưởng tới Giang Tây
thì được tin Mãn châu thất thủ, ông liền rút quân về lại Nam kinh.
Tưởng Giới Thạch, cũng như Trương Học Lương, tự biết quân đội mình thua
xa Nhật về mọi mặt nên ông không chính thức tuyên chiến với Nhật, mà chỉ
hy vọng sẽ thắng Nhật nhờ vào điạ thế rộng lớn của TQ. Ông cũng hy vọng
vào sự can thiệp của Hội Quốc liên, và nhờ đó có đủ thời gian để hiện
đại hoá quân đội.
Ðể có đủ tiềm lực đánh
Nhật, Tưởng phải ngưng chiến dịch tiêu diệt Mao và kêu gọi Mao hợp tác
đánh Nhật. Thế nhưng trong con mắt chiến lược của Mao thì Tưởng nguy
hiểm hơn Nhật nhiều, nên Mao cương quyết tẩy chay chuyện hợp tác, và khi
quân Tưởng rút ra khỏi Giang Tây quân Mao nhanh chóng chiếm lại những
đất đã mất. Sự kiện này đã được các sách giáo khoa ĐCSTQ viết ngược lại
là chính Tưởng đã không chiụ hợp tác chống Nhật. Thực ra thì chính sách
của Mao không bao giờ là chống Nhật. Sau này chính Mao xác nhận: “Nếu
không có Nhật, giờ này chúng tôi còn ở trên rừng”.
Ngày
7 tháng 11 năm 1931 Mao tuyên bố thành lập chính phủ cách mạng ở Giang
Tây, lấy Thụy Kim làm thủ đô, dù không một quốc gia nào thừa nhận kể cả
Liên Xô. Một ủy ban nhân dân ra đời và Mao là thủ tướng kiêm luôn Chủ
tịch nước. Danh từ Chairman Mao (Mao chủ tịch) có từ đó.
Chương 9:
Mặc
dù Moscow đã phong Mao làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, nhưng cũng đã
phong Chu Ân-Lai làm tổng bí thư đảng, và Chu Ðức làm tư lệnh quân đội.
Tổng Bí thư đảng CSTQ trước đó là Hướng Trung Phát đã bị QDÐ bắt giết
dựa vào một nguồn tin mật, mà có khả năng là đến từ ĐCSTQ. Chu Ân-Lai,
chứ không phải Mao, là người giữ nhiệm vụ liên lạc và báo cáo với Liên
Xô. Mục đích của Liên Xô rõ ràng là không muốn Mao tự biên tự diễn.
Người
dân ở đây ngay từ 6 tuổi phải gia nhập đoàn thiếu niên, tới 15 tuổi thì
có đoàn thanh niên, người lớn nếu không vào quân đội thì cũng phải gia
nhập đủ loại ủy ban, đoàn thể. Mục đích là để kiểm soát lẫn nhau, và để
chính quyền dễ kiểm soát.
Tháng 3 năm 1933
Mao bắt đầu chiến dịch cải cách ruộng đất. Ðịa chủ bị đấu tố, nếu không
bị giết thì cũng bị phạt đóng thuế, hoặc bắt đi dân công. Hàng chục
ngàn người bị bắt đi dân công, mà kết quả kinh tế càng ngày càng tụt
giốc. Dân chúng nhiều người bỏ trốn. Có nơi nổi dậy chống lại chính phủ,
và bị đàn áp dã man.
Trong 5 năm DCS nắm
quyền (1931 - 1935) chỉ ở Thụy Kim thôi đã có ít nhất 700 ngàn người
chết, mà hơn phân nửa có liên hệ tới “AB đoàn” (Anti-Bolshevik).
Chương 10:
Ngày
28 tháng 1 năm 1932 Nhật bản tấn công Thượng hải. Quân đội TQ (Tưởng)
chống lại kịch liệt và chịu nhiều thiệt hại. Qua sự can thiệp của Hội
Quốc liên, một hiệp ước ngừng bắn tạm thời được ký kết. Trong thời gian
hai bên đánh nhau ĐCSTQ không bỏ lỡ cơ hội bành trướng đất đai, nên sau
khi ký ngừng bắn với Nhật, Tưởng giới Thạch cương quyết phải “ổn định
nội bộ” trước. Tháng 5 năm 1932 Tưởng bắt đầu chiến dịch tiêu diệt CS
lần thứ tư.
Trong khi đó tại Thụy Kim, Mao
đã giành được quyền lãnh đạo quân đội từ tay Chu Ðức sau khi được sự
hậu thuẩn của Chu Ân-Lai. (Ðể đạt được sự hậu thuẩn này Mao cho rải
truyền đơn khắp nơi ký tên Chu Ân-Lai lên án chế độ Cộng sản dã man và
trong khi đảng cố gắng thanh minh với công chúng cũng như với Moscow
rằng đây chỉ là thư giả mạo, Mao ép Chu Ân-Lai phải liên hiệp với ông.)
Khi Tưởng mở đợt tấn công vào Giang Tây, Liên Xô ban lệnh cho quân cộng
sản trực diện đối kháng, thì Mao một lần nữa chống lại lệnh đó mà ra
lệnh rút quân, chiến lược của Mao là wait and see. Các tướng lãnh hồng
quân nhất định chống lại lệnh của Mao, tình hình chỉ tạm thời lắng dịu
khi Moscow rút lại lệnh tấn công mà tuyên bố ủng hộ Mao.
Tháng
1 năm 1933 Bạc Cổ, một cán bộ cộng sản trung ương được cử tới Thụy Kim
(Bạc Cổ là người luôn luôn xúi giục đảng hất cẳng Mao). Bạc Cổ, nhỏ hơn
Mao 14 tuổi, được sự ủng hộ của tập thể thay thế Chu (Chu Ân Lai không
tham quyền cố vị như Mao) làm tổng bí thư đảng. Bạc Cổ và Chu đánh thắng
quân Tưởng nhiều trận và buộc Tưởng phải rút quân vào tháng 3 năm 1933,
chấm dứt chiến dịch diệt Cộng lần thứ tư của Tưởng. Trong cuộc chiến
này, quân Tưởng không những phải chiến đấu chống Cộng, mà còn phải đối
phó với quân Nhật đang up hiếp Bắc kinh, sau khi họ đã dựng lên một
chính phủ TQ thân Nhật. Liên Xô cũng góp phần không nhỏ trong cuộc chiến
này bằng cách cung cấp những tin tức tình báo họ thu lượm được cho hồng
quân TQ.
Chương 11:
Tháng
9 năm 1933 Tưởng Giới-Thạch đem theo nửa triệu quân tấn công vào Thụy
Kim, mở đầu chiến dịch diệt Cộng lần thứ năm. Lần này Tưởng đã có nhiều
chuẩn bị hơn qua việc ký hiệp ước hưu chiến với Nhật (tháng 5) và mở
mang thêm nhiều đường xá. Trước một lực lượng quá hùng mạnh mà lại đông
gấp 10 lần, quân Cộng sản co cụm lại. Tháng 10 năm 1934, Mao không còn
sự lựa chọn nào ngoài đường di tản. Những người không được tin tưởng đều
bị hành quyết, con số lên tới hàng ngàn người. Cuộc hành quyết diễn ra ở
một ngọn đồi hoang vắng, cả ngàn người bị giết và chôn chung trong một
hố. Khi cái hố quá đầy thì nạn nhân phải tự đào cho mình một lỗ và sau
đó họ bị buộc phải nhảy xuống hố rồi bị đâm chết. Có người bị chôn sống.
Chế
độ Cộng sản dã man ở Giang Tây chấm dứt khi Mao rời bộ tổng tham mưu
leo lên tàu bắt đầu một cuộc phiêu lưu chứa đầy huyền thoại, lịch sử gọi
là “Trường chinh”.
Chương 12:
Khoảng
80 ngàn người chia thành ba đạo quân rút lui. Mao cầm đầu một đạo quân,
còn hai đạo quân kia do Lâm Bưu và Bành Ðức Hoài cầm đầu. Ðoàn người,
kéo dài cả mười cây số, hiển nhiên là một mục tiêu dễ dàng cho quân
Tưởng truy kích, thế nhưng chính Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho quân đội
chỉ theo dõi chứ không được tấn công.
Kế
hoạch của Tưởng là mong muốn Mao đi ngang hai tỉnh Quý Châu và Tứ Xuyên.
Ðây là hai tỉnh lớn của TQ, nằm trên lộ trình của Mao. Hai tỉnh này
không chịu sự cai quản của Tưởng, mà Tưởng thì không muốn gây thêm một
cuộc chiến tranh nữa với đám lãnh chúa ở đó. Theo tính toán của Tưởng,
khi đám quân của Mao đi ngang qua đó chắc chắn sẽ làm đám lãnh chúa ở đó
sẽ sợ hãi mà cầu cứu Tưởng, đây là cơ hội cho Tưởng giành lại quyền
kiểm soát hai tỉnh này.
Một lý do thứ hai
nữa mà Tưởng cho phép Mao an toàn rút quân di tản là vì Tưởng đang muốn
lấy lòng Liên Xô, trong khi một cuộc chiến tranh với Nhật có thể bùng
nổ bất cứ lúc nào.
Lý do thứ ba là Tưởng
đang vận động với Moscow để cho phép con trai ông, Tưởng Kinh Quốc, được
trở về TQ. Tưởng Kinh Quốc qua Liên Xô du học khi Quốc dân đảng còn
đang được bảo trợ bởi Liên Xô vào những năm đầu của thập niên 1920.
Trong thời gian này Liên Xô đã gài rất nhiều gián điệp vào bộ máy hành
chánh của TQ và Quốc dân đảng. Sau này khi Tưởng tuyên chiến với ĐCSTQ,
nhiều gián điệp được lệnh nằm yên chờ lệnh. Nhiều kẻ leo lên tới những
vị trí chóp bu trong chính quyền Tưởng, mà Tưởng không hề hay biết.
Người dẫn Tưởng Kinh Quốc sang Liên Xô du học để bị giữ ở đó làm con tin
là Thiệu Lực Từ, hiển nhiên là một con cờ của Liên Xô thế nhưng trong
suốt 22 năm Tưởng cầm quyền Thiệu Lực Từ được Tưỏng giao nắm những vai
trò quan trọng trong Quốc dân đảng cho tới ngày chiến thắng của ĐCSTQ.
Bộ mặt thật của Shao vẫn được giữ kín ngay cả dưới chế độ CS, tới nay
nhiều người vẫn cứ tưởng Shao chỉ là một cảm tình viên, mà không biết
hắn chính là một trong những thành phần nồng cốt thành lập ĐCSTQ.
Tưởng
Giới Thạch chỉ biết con mình đã bị giữ làm con tin qua vợ Tôn Dật tiên,
bà Tống Khánh Linh. Bà là chị của Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch và
cũng là một gián điệp của Liên Xô. Sự thật bà là gián điệp của Liên Xô
được tiết lộ qua bức thư bà viết cho Vương Minh ngày 26 tháng 1 năm
1937: “Tôi phải báo cho đồng chí hay là những diễn biến hiện tại có thể
gây nguy hiểm cho vai trò của tôi ở TQ trong những ngày sắp tới”. Ðây là
một sự thật: Vợ của Chủ tịch Quốc dân đảng Tôn Dật tiên là cán bộ cộng
sản.
Chương 13:
Tháng
12 năm 1934 đoàn quân di tản “Trường chinh” tới Quý Châu. Và đúng như
Tưởng dự đoán, Mao đã nhanh chóng biến từ khách thành chủ nhà. Tưởng
liền điều động quân chận các ngã đường khác mà để ngỏ hướng tiến về Tứ
Xuyên. Thế nhưng thực tế đã không diễn ra như Tưởng mong muốn.
Trên
đường đi tới Quý Châu Mao đã lôi kéo được hai người, Wang Jia-xiang và
Lạc Phủ, vào vòng tay mình trong một âm mưu giành quyền lãnh đạo đảng.
Cả ba đi chung với nhau, thông thường là nằm võng. Mao tiết lộ sau này:
“Trong cuộc vạn lý trường chinh, tôi nằm trên võng. Vậy tôi làm gì? tôi
đọc sách”. Tại cuộc họp ngày 15 – 17 tháng 1 năm 1935 để thảo luận tại
sao hồng quân thất bại ở Thụy Kim, Bạc Cổ và Otto Braun (một cán bộ cộng
sản người Ðức do Liên Xô gởi tới làm cố vấn) bị đổ hết mọi lỗi lầm.
Cuộc họp đưa tới quyết nghị sau: Braun bị cách chức, Mao được vào ban bí
thư (lúc đó gồm 7 người: Bạc Cổ, Chu Ân-Lai, Lạc Phủ, Trần Vân (Trần
Thiệu Vũ), Hạng Anh, Vương Minh và Trương Quốc Ðào) và Bạc Cổ vẫn được
tín nhiệm là nhân vật số 1 cuả đảng. Dù chỉ sau đó 3 tuần, cùng với Chu
và Lạc Phủ, Mao thành công ép Bạc Cổ nhường ghế lãnh đạo đảng cho Lạc
Phủ. Ðể lôi kéo sự hợp tác của Chu, Lạc Phủ (xúi bẩy bởi Mao) viết báo
cáo cho Moscow với tựa đề như sau: “Phúc trình về thất bại quân sự của
các đồng chí Bạc Cổ, Chu Ân-Lai và Otto Braun”. Sau khi Chu đồng ý hợp
tác với Lạc Phủ và Mao, tên Chu được rút ra.
17
tháng 1 quyết định là tất cả sẽ đi tới Tứ Xuyên,Cuộc họp ngày 15 để
bắt tay với Trương Quốc Ðào đang đóng quân ở phía bắc Tứ Xuyên và để
nhận viện trợ của Liên Xô vì Tứ Xuyên rất gần với Mông cổ (hiện đang bị
Liên Xô chiếm đóng) và Tân cương. Thế nhưng Mao biết rõ là vị thế của
Lạc Phủ và Mao trong đảng có thể bị nguy hiểm vì Trương Quốc Ðào từng
làm Chủ tịch hội nghị đảng lần thứ nhất năm 1921, Trương Quốc Ðào còn là
thành viên thường trực của Cộng sản Quốc tế đệ tam, và rất có uy tín
với Stalin. Trương Quốc Ðào cũng không “hiền”, chính hắn đã chủ trì và
đích thân tham dự nhiều cuộc thanh trừng tàn khốc.
Thế
là thay vì tiến lên phía bắc bắt tay với Trương Quốc Ðào, Mao lại quay
về nam tấn công quân đội Tưởng đang theo đuôi Mao. Ðây là một chuyện làm
ngu ngốc, vì quân Tưởng không hề có ý định tấn công Mao. Dĩ nhiên thoạt
đầu không ai chịu nghe ý kiến của Mao, nhưng Mao đã có sự dàn xếp sẵn
với Chu và Lạc Phủ. Bốn ngàn quân Mao chết và bị thương trong trận này.
Tàn quân hối hả làm phao chạy trốn sang bên kia sông Hồng hà, bỏ lại các
quân cụ nặng. Trận đánh này gây ra một tổn thất lớn cho hồng quân,
nhưng đã cho Mao một lý do chính đáng để không tiến về Tứ Xuyên: không
còn sức đề kháng nếu gặp quân Tưởng chận đầu ở Tứ Xuyên. Sử sách Trung
quốc viết là trong trận đánh này Mao đã kịp thời rút quân, cứu hồng quân
khỏi bị thiệt hại nặng nề, mà không viết rằng chính Mao là kẻ đã chọn
chiến trường.
Trong hai tháng liền sau đó,
Tưởng liên tục bỏ bom sau lưng quân Mao để ép quân Mao tiến về Tứ
Xuyên, thế nhưng mặc kệ mưa pháo, Mao vẫn cứ dẫn quân tiến về nam, và
khi bị pháo nặng quá thì rút chạy về bắc, nhưng rồi sau đó lại quay vòng
về nam. Hồng quân liên tục hứng chịu nhiều thiệt hại, cho mãi tới ngày
28 tháng 4 thì Mao mới đồng ý tiến về Tứ Xuyên, dưới áp lực của Lâm Bưu,
Bành Ðức Hoài và Lạc Phủ (dù ông này đã bị Mao mua chuộc). Chính Lâm
Bưu đã phải la lên: “Cứ tiếp tục như vầy thì toàn quân sẽ chết hết”.
Thế
nhưng khi hồng quân tới Hiuli, một tỉnh nhỏ cực nam của Tứ Xuyên, Mao
lại ra lệnh đóng quân và vì thế, phải hứng chiụ hai mặt trận: bị Tưởng
thả bom sau lưng, và bị phải giao chiến với quân đội của lãnh chuá vùng
này. Trước sự chống đối mạnh mẽ của Lâm Bưu và Bành, Mao cuối cùng phải
nhượng bộ. Hồng quân lại tiếp tục bắc tiến và ngày 25 tháng 6 thì Mao
gặp mặt Trương Quốc Ðào. Tổng cộng Mao đã dẫn quân đi vòng vòng ở Quý
Châu 4 tháng, làm chết khoảng 30 ngàn quân, tức là hơn phân nửa số quân
đi theo Mao từ Thụy Kim. Ðổi lại, Mao không những đã có chân trong bộ
chính trị đảng mà còn có sự hậu thuẩn của 3 người trong bộ chính trị:
Chu Ân-Lai, Lạc Phủ và Trần Vân.
Sách sử
TQ sau naỳ còn ghi thêm là ngày 31 tháng 5 năm 1935 trước khi gặp được
Trương Quốc Ðào, Mao có đụng một trận oai hùng với quân Tưởng khi băng
cầu qua sông Ðại Ðộ. Những chứng nhân còn sống ở đây thuật lại là không
có một cuộc đụng độ nào xảy ra lúc đó.
Chương 14:
Khi
hai bên gặp mặt nhau, quân Mao còn có 10 ngàn người, tất cả đều rã rời.
Tất cả vũ khí nặng đều mất hết. Vũ khí cá nhân chỉ là súng trường mà
mỗi người chỉ còn chừng 5 viên đạn. Quân đội Trương Quốc Ðào có 80 ngàn,
tất cả đều khoẻ mạnh, được huấn luyện và có trang bị vũ khí tự động.
Trong tình hình đó thì Trương Quốc Ðào đương nhiên phải được giao cho
chức vụ số một của đảng hoặc của quân đội. Thế nhưng với sự trợ giúp của
Lạc Phủ, Chu và Bạc Cổ, Mao nhất định phản đối. Lúc đó Trần Vân đang
trên đường đi qua Moscow báo cáo. Còn Bạc Cổ, vì không muốn bị kết án
bất lực không điều khiển được Mao trong cuộc trường chinh, đã chấp nhận
theo Mao. Mãi tới tháng 7 năm 1935 Mao mới chịu nhượng bộ cho Trương
Quốc Ðào vị trí số 1 trong quân đội, còn Mao thì điều khiển đảng.
Tháng
8 năm đó ban lãnh đạo đảng đồng ý tiến về phía bắc cho gần với Liên Xô
thêm, để dễ tiếp nhận quân viện. Ðịa điểm tới là 1 vùng cộng sản ở phía
bắc Thiểm Tây. Theo kế hoạch, quân đội chia ra hai đoàn, một đoàn do
Trương Quốc Ðào và Chu Ðức chỉ huy, đi về phía tây chiếm Aba rồi mới bắc
tiến, đoàn kia, ít hơn, do Mao chỉ huy đi về phía đông chiếm Banyou rồi
theo ngã đó đi về hướng bắc. Chín ngày sau, Mao đánh điện cho Trương
Quốc Ðào lấy danh nghiã đảng, yêu cầu (và sau đó là ra lệnh) Trương Quốc
Ðào phải quay lại mà đi theo đường Mao đã đi qua. Mục đích của Mao là:
thứ nhất, Mao phải tới Liên Xô trước, và thứ hai, vì con đường đi tới
Banyou phải trèo núi, vượt sông, vất vả hơn con đuờng đi Aba nhiều, nên
quân đội Trương Quốc Ðào phải chịu chung số phận như quân đội Mao, mà
nếu bị tồi tệ hơn thì lại càng tốt hơn. Quả nhiên, quân Trương Quốc Ðào
không những bị thiếu lương (vì phải quay lại đi theo ngả Banyou) mà còn
bị ăn bom của Tưởng (như đã nói ở trên, Tưởng đồng ý cho Mao con đường
sống để đổi lại sự an toàn cho con trai mình, nhưng Tưởng cũng không
muốn quân Mao tới nơi còn mạnh khoẻ, nên khi biết quân Mao đói khát và
rách rưới như một lũ ăn mày thì Tưởng để yên cho qua, còn quân Trương
Quốc Ðào mạnh khỏe hơn thì bị Tưởng cho ăn bom).
Ngày 18 tháng 10 năm 1935 quân Mao tới điểm hẹn trước Trương Quốc Ðào.
Cuộc
trường chinh bắt đầu ở Thụy Kim với 80 ngàn người và kết thúc nơi đây
gần một năm sau, khi quân đội của Mao còn lại không tới 4 ngàn người,
tất cả đều đói khát, rách rưới và mệt lả, sau một đọan đường dài chừng
10 ngàn cây số.
Chương 15:
Sự
có mặt của Mao tại đây đã kịp thời ngăn chặn một cuộc thanh trừng của
Trung ương đảng đối với Liu Chih-tah, một lãnh tụ công sản điạ phương.
Mao đã xuất hiện như một ân nhân cứu mạng của Liu Chih-tah, vì thế
Chih-tah không chống đối gì khi Mao giành quyền làm chủ ở đây.
Tháng
2 năm 1936 Mao quyết định vượt sông Hoàng hà để qua Ngoại Mông nhận
viện trợ của Liên Xô. Vùng này hiện do Liên Xô cai trị. Một cuộc chiến
nhỏ xảy ra giữa quân Mao và Tưởng khi quân Mao đang vượt sông đã gây ra
cái chết cho Liu Chih-tah. Ðiểm đáng nói là (1) Liu bị bắn chết bằng một
viên đạn ngay đầu khi Liu đang ở hậu cứ quan sát trận đánh bằng ống
nhòm, (2) khi Liu bị bắn có hai người bên cạnh, một là người bảo vệ và
một là một sĩ quan của Mao. Sau khi Liu bị bắn thì người sĩ quan này sai
người bảo vệ chạy đi kiếm bác sĩ, và khi bác sĩ tới thì Liu đã chết.
Một sự kiện trùng hợp “ngẫu nhiên” nữa là cả hai sĩ quan thân tín của
Liu đồng thời bị giết trong vòng một tháng sau.
Chương 16:
Ðể
tạo điều kiện cho Mao được an toàn ở đây (Mao ở đây 10 năm), Liên Xô đã
sắp xếp cho Mao liên lạc với viên tướng của Tưởng từng là lãnh chuá Mãn
châu, hiện được Tưởng giao cai quản Thiểm Tây là Trương Học Lương.
Trương đóng bản doanh ở Tây An. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra ngày 20
tháng 1 năm 1936 giữa Trương và người đại diện của Mao. Trong cuộc tiếp
xúc này, Trương được cho biết là ĐCSTQ và Liên Xô ủng hộ Trương lên thay
Tưởng. Trương Học-Lương bày tỏ muốn sự ủng hộ của Liên Xô phải được cụ
thể hơn. Thực tế đây chỉ là một cái bẫy của Mao vì Mao thì chỉ có một
mục đích là chiếm trọn TQ cho Mao, còn Stalin thì đang lo sợ Nhật sẽ tấn
công Liên Xô, nên muốn Nhật tấn công TQ trước, và sẽ bị sa lầy ở đó. Vì
thế Stalin ủng hộ Tưởng ở vị trí quốc trưởng.
Trong
khi đó Stalin vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Mao qua ngã Ngoại Mông.
Tưởng cương quyết ngăn chận chuyện này, nên đích thân bay lên Tây An,
tổng hành dinh của Trưong Học Lương. Nhận thấy đây là cơ hội cho mình
lấy điểm với Mao và Stalin, Trương nẩy ra ý định bắt cóc Tưởng. Khi được
hỏi ý kiến Mao hết sức hả hê, nhưng Mao biết Stalin sẽ hết sức chống
đối nên Mao quyết định giấu không cho Stalin biết, trong khi vẫn nói với
Trương là kế hoạch đã được Stalin duyệt và chấp thuận.
Tưởng
tới Tây An ngày 4 tháng 12. Ngoại trừ vài chục sĩ quan phụ tá và mấy
người hầu cận, Tưởng vẫn giao việc gìn giữ an ninh cho Trương Học Lương.
Sáng sớm ngày 12 tháng 12, Tưởng vừa tập thể dục xong, thì nghe súng
nổ. Tưởng thoát ra ngã sau nhưng bị bắt lại sau mấy tiếng đồng hồ trốn
trong một hang đá. Khi đó Tưởng còn mặc quần áo ngủ và chưa kịp xỏ giầy.
Chương 17:
Khi
nhận được tin Tưởng đã bị bắt cóc, Mao lăn bò trên mặt đất mà cười,
trong khi Stalin giận dữ điên cuồng. Stalin gửi Mao một điện tín lên án
vụ bắt cóc. Làm như không nhận được bức điện, Mao vừa dụ dỗ vừa ép buộc
Trương giết Tưởng cho nhanh. Thế nhưng khi khám phá là mình không được
ban phép lành bởi Stalin, Trương Học Lương tới gặp Tưởng lúc đó đang là
con tin của mình mà khóc lóc và xác nhận là mình làm chuyện tầm bậy, và
hứa sẽ thả Tưởng nếu Tuởng can thiệp để chính phủ Nam kinh đừng dẫn quân
tới đánh. Trương Học Lương cũng đề nghị là để cho Tưởng bắt mình lại
bằng cách theo Tưởng đi Nam kinh. Tưởng nhận lời.
Trong
khi đó Moscow vận động để Tưởng gặp Chu Ân Lai, lúc đó đang làm sứ giả
cho Mao ở tư dinh của Trương Học Lương. Tưởng không chiụ, vì không thừa
nhận đảng cướp cộng sản là một thế lực chính trị. Nhưng cuối cùng ông
chiụ gặp Chu khi Stalin đưa ra lá bài tẩy: Liên Xô đồng ý trao trả Tưởng
Kinh Quốc lại cho ông.
Chiều 25 tháng 12
Tưởng bay về Nam kinh cùng với Trương Học-Lương. Dân chúng đổ ra đầy
đường phố Nam kinh hoan nghênh ông trở về như là một kẻ chiến thắng.
Nhưng Tưởng biết mình đã thua khi thừa nhận đảng cướp cộng sản là một
đảng đối lập chính trị.
Trương Học Lương sau đó được cho qua Hawaii tỵ nạn, và ông này mất ở đây năm 2001, hưởng thọ 100 tuổi.
Chương 18:
Cuộc
thương lượng giữa Mao và Tưởng đem đến những kết quả ngoài dự đoán của
Mao: Mao được giao cho quản lý một diện tích rộng 130 ngàn cây số vuông,
với dân số 2 triệu và thủ đô là Diên An. Mao còn được chính phủ Nam
kinh trang bị vũ khí và trả lương cho 46 ngàn quân (Tưởng chỉ chấp nhận
quân số này thôi). Sự hào phóng này cuối cùng đạt được mục tiêu: Tưởng
Kinh Quốc được trao trả ngày 19 tháng 4 năm 1937.
Không
biết vì vô tình hay cố ý mà vào tháng 2 năm 1937, Tưởng Giới Thạch
phong một gián điệp Liên Xô, Thiệu Lực Từ, làm bộ trưởng tuyên truyền.
Ông này đã đánh bóng Mao Trạch Ðông thành một anh hùng của Trung quốc,
và xoá bỏ hết tội ác của Mao. Một ký giả người Mỹ, Edgar Snow, cũng bị
Mao cho vào tròng mà không biết, cứ phom phom viết trên Saturday Evening
Post và New York Herald Tribune những bài báo tự cho là “tối mật”, thực
ra tòan là biạ đặt theo lời kể của chính Mao, về cuộc đời đầy huyền
thoại của Mao.
Ðối với Mao, một người vốn
sinh ra từ một vùng quê nghèo khó, Diên An đã đem đến cho ông một đời
sống thật sự trưởng giả. Mao đã nhanh chóng thích nghi với đời sống mới,
ông học nhảy, ham đi coi hát, và say mê đàn bà. Một trong số những
người đàn bà hớp được hồn Mao là Giang Thanh mà sau này ông cưới làm vợ
thứ tư.
Giang Thanh là con gái của vợ hờ
của một chủ khách sạn. Bà bỏ nhà ra đi gia nhập đòan hát từ năm 14 tuổi
vì không chiụ nổi phải chứng kiến cảnh đấm đá nhau hoài của cha mẹ.
Trước khi gặp Mao, Giang Thanh đã có bốn đời chồng, không kể những kẻ
qua đường. Người ta còn đồn là có một lần bị bắt vì tình nghi là cộng
sản, bà đã phải ngủ với lính gác để được thả. Tin Mao muốn cưới Giang
Thanh đã tạo ra một làn sóng chống đối, cả Tổng bí thư đảng Lạc Phủ cũng
viết thư ngăn cản, nhưng Mao bất cần. Một đám cưới rình rang được tổ
chức mà Lạc Phủ không nhận được thiệp mời.
Chương 19:
Ngày
7 tháng 7 năm 1937 một cuộc chạm súng giữa hai toán quân TQ và Nhật xảy
ra tại cầu Marco Polo. Ðến cuối tháng đó, hai tỉnh lớn của TQ bị chiếm:
Bắc kinh và Thiên tân. Dẫu thế, TQ và Nhật vẫn chưa chính thức tuyên
chiến. Tưởng Giới Thạch cần thêm thời gian chuẩn bị. Nhưng Stalin muốn
cuộc chiến TQ-Nhật phải được xẩy ra càng sớm càng tốt, để buộc chân
Nhật.
Vì thế một gián điệp của Nga được ủy
thác. Người gián điệp này là một tướng của Tưởng, tên Trương Trị Trung,
một quân đoàn trưởng của quân Nam kinh. Ngày 9 tháng 8, Trương Trị
Trung bắn chết 1đoàn Thượng hải sĩ quan và 1 hạ sĩ quan Nhật, và đổ
thừa là 2 người này giết chết 1 lính TQ. Sau đó ông xin lệnh tấn công,
nhưng Tưởng vẫn từ chối. Ngày 14, Trương Trị Trung cho thả bom tàu Izumo
của Nhật và ban lệnh tổng tấn công. Nhưng một lần nữa, Tưởng cản ngăn
lại. Ngày 15, Trương Trị Trung ra tuyên cáo báo chí là Thượng hải bị
Nhật tấn công và tạo lên một phong trào chống Nhật khắp nước. Tưởng lầm
là Thượng hải đã bị tấn công, Tưởng Giới Thạch ban lệnh tổng tấn công.
Ngày 18, khi biết mình bị gạt, Tưởng cách chức Trương Trị Trung và ra
lệnh ngưng chiến. Thế nhưng cuộc chiến đã lan rộng tới mức không thể
dừng được.
Khi cuộc chiến Trung-Nhật bùng
nổ, Mao là người thủ lợi nhiều nhất: Ðể cùng đánh Nhật, Tưởng Giới
Thạch phải đồng ý cho Mao được quyền tự quản quân đội. Ðảng CS không còn
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đảng viên đang bị giam giữ được thả ra,
và quan trọng hơn nữa, DCS được có trụ sở khắp nước, được công khai vận
động tuyên truyền, và được tuyển quân. Sau 8 năm chiến tranh Trung
Nhật, TQ tổn thất cỡ 20 triệu người, chính phủ dân quốc và Quốc dân đảng
bị suy yếu, trong khi quân đội cộng sản tăng vọt lên 1.3 triệu, gấp 20
lần lớn hơn trước chiến tranh. Căn cứ Jinchaji của DCS chỉ cách Bắc kinh
có 80 km, với hơn 25 triệu dân.
Sau khi
thành công châm ngòi nổ cuộc chiến, Stalin ra lệnh cho ĐCSTQ phải hợp
tác với Quốc dân đảng để đánh Nhật, “không vì một lý do gì mà từ chối”.
Khi
đó hồng quân có 46 ngàn quân đóng ở Diên An, được lập thành quân đòan 8
dưới quyền điều khiển của Chu Ðức và Bành Ðức Hoài, và 10 ngàn quân
đóng ở đông bộ đồng bằng sông Dương tử, được lập thành quân đoàn 4 do
Hạng Anh điều khiển. Các cấp chỉ huy và binh sĩ hồng quân đều sẵn sàng
chiến đấu chống Nhật. Nhưng Mao thì không. Ông ta ban lệnh cho các cấp
chỉ huy phải “mở rộng căn cứ điạ Cộng sản chứ không phải chiến đấu với
Nhật”. Chiến lược này gặp sức chống đối mãnh liệt từ Trung ương đảng.
Tháng 12 năm 1937 tại cuộc hội nghị của bộ chính trị ĐCSTQ, dù có sự
chống đối của Mao, bộ chính trị, đứng đầu là Vương Minh, có sự ủng hộ
của Hạng Anh, Trương Quốc Ðào, Bạc Cổ và Chu Ân Lai chủ trương đánh
Nhật, đã thông qua một nghị quyết là hồng quân phải nhận lệnh từ bộ chỉ
huy quân sự quốc gia (tức là chấp nhận sự lãnh đạo của Tưởng để đánh
Nhật). Vương Minh cũng được sự ủng hộ bởi đa số để đọc bản báo cáo tại
đại hội đảng được dự trù tổ chức vào năm sau (người đọc báo cáo thường
là người số 1 trong đảng).
Chương 20:
Người cương quyết lật đổ Mao nhất là
Trương Quốc Ðào. Không hận thù sao được khi chỉ trong mấy tháng Mao tiêu
diệt toàn bộ lực lượng 80 ngàn quân của Trương. Lần đầu tiên ông gặp
Mao tháng 6 năm 1935 ông có 80 ngàn quân dưới tay, vậy mà khi cuộc
Trường Chinh kết thúc ông chỉ còn phân nửa; Qua năm sau, vào tháng 10
năm 1936 Mao chỉ định cho quân đội Trương mở đường tới Ngoại Mông để
nhận vũ khí viện trợ của Liên Xô, kết quả 20 ngàn quân của Trương bị
đánh tan. Liên Xô bèn đề nghị chuyển giao vũ khí ở Tín Giang, và Mao sai
Trương dẫn 20 ngàn đám tàn quân còn lại mở đường. Ðây là con đường tử
thần, dài 1500 km, xuyên qua sa mạc và một lãnh điạ kiểm soát bởi một
đạo quân hồi giáo, rất cuồng tín và rất hận thù cộng sản. Kết quả 20
ngàn quân chỉ còn lại 400 người tới được Tín Giang.
Thế
nhưng Trương Quốc Ðào không thuyết phục được Vương Minh hất Mao ra khỏi
bộ chính trị. Lý do là khi đó Vương Minh hoàn toàn tự tin mình đã nắm
được vị trí số 1 của ĐCSTQ, ông không thấy cần thiết để làm rạn nứt tính
thống nhất của đảng. Trương quyết định rời bỏ hàng ngũ CS mà sang đầu
thú Quốc dân đảng. Tuy thế trong suốt phần đời còn lại ông đã không tiết
lộ một bí mật gì của ĐCSTQ cho Quốc dân đảng.
Trở
lại chuyện của Mao. Mao có một con cờ rất lợi hại, đó là đặc sứ của
ĐCSTQ ở Liên Xô từ tháng 6 năm 1936, thay thế Vương Minh. Người này là
Vương Gia Tường. Vương Gia Tường trở về mang theo một mệnh lệnh của Cộng
sản Quốc tế đệ tam: ĐCSTQ phải được thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Mao. Vương Minh không (dám) chống đối.
Ngày
29 tháng 9 ĐCSTQ mở đại hội, Mao kéo dài cuộc đại hội tới 2 tháng,
không cho các tướng hồng quân trở về căn cứ tham gia đánh Nhật. Ngày 28
tháng 10 sau khi Vương Minh phải đi Trùng Khánh tham dự Nghị hội Quốc
gia, Mao lôi kéo được sự ủng hộ của Lưu thiếu Kỳ, Bành Ðức Hoài và Chu
Ðức. Mao ra lệnh cho các tướng bắt đầu từ bây giờ hồng quân phải sẵn
sàng tấn công bất cứ ai cản đường giành chính quyền của DCS. Ðây là một
bước ngoặc lịch sử: ĐCSTQ được lệnh tấn công vào quân đội chính phủ dân
quốc.
Thế nhưng khi báo cáo với Liên Xô, Mao luôn luôn nói là ĐCSTQ chỉ tự vệ. Các sách giáo khoa TQ bây giờ cũng viết y như thế.
Chương 21:
Ngày
23 tháng 8 năm 1939 Liên xô ký hiệp ước bất tương xâm với Ðức quốc xã,
và tháng sau hai nước xâm lăng Ba Lan. Rất nhiều người TQ bất bình trước
chuyện này và lên án “quỷ dữ” Liên xô, trong số đó có giáo sư Trần Ðộc
Tú, người sáng lập ĐCSTQ. Trong khi Tưởng Giới Thạch lo ngại Liên xô sẽ
ký một hiệp ước tương tự với Nhật, và sẽ cùng với Nhật xâm lăng TQ thì
ngược lại Mao rất mừng rỡ, cho rằng nếu Liên xô xâm lăng TQ, chắc chắn
Mao sẽ được đưa lên cầm quyền chính phủ sô viết do Nga thành lập.
Ðối
nội Mao tiếp tục chính sách đánh Tưởng thay vì đánh Nhật. Không những
thế, Mao còn mượn tay Nhật đánh Tưởng bằng cách cung cấp tin tức tình
báo của quân đội Tưởng cho Nhật qua một nhân viên làm ở lãnh sự quán
Nhật ở Thượng hải, tên Pan Hannian. Mao cũng không ngần ngại ký một hiệp
ước với Nhật, theo đó quân Nhật được toàn quyền xử dụng đường xe lửa
đông bộ TQ, đổi lại Nhật không được tấn công vào quân đội Mao.
Mùa
xuân năm 1940 ở mặt trận phiá bắc TQ, hồng quân dưới quyền điều khiển
của Chu Ðức và Bành Ðức Hoài đang chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô vào
quân Nhật. Tưởng Giới Thạch, khi đó là tổng tư lệnh quân đội liên quân
Quốc-Cộng, mời Chu Ðức về bàn kế hoạch. Trên đường về, Chu Ðức ghé Diên
An và bị Mao giữ lại ở đây cho tới hết chiến tranh. Người thay thế Chu
Ðức là Chu Ân Lai. Theo chiến lược của Mao kẻ thù mà hồng quân nên đánh
phải là Tưởng chứ không phải Nhật. Trong thời gian này, Mao đã rất nhiều
lần đánh điện yêu cầu Stalin đưa quân sang giúp ông đánh Tưởng, nhưng
Stalin chỉ giúp tiền bạc và vũ khí.
Tháng
5 năm 1940 cuộc chiến Trung-Nhật càng ngày càng tồi tệ. Nhật bản bắt
đầu leo thang chiến tranh bằng cách thả bom thủ đô Trùng khánh. Tư lệnh
quân đòan 8 của hồng quân, Bành Ðức Hoài ban lệnh hành quân, dù không có
sự đồng ý của Mao, phá hủy các đường rầy xe lửa vùng bắc bộ TQ, nhằm
ngăn cản bước tiến của quân Nhật về Trùng khánh. Báo chí TQ ca ngợi sự
tấn công này là một đòn đánh vào tin đồn là quân đội TQ rạn nứt. Chu Ân
Lai vuốt ve Mao là cuộc tấn công này gây tiếng vang tốt cho DCS về mặt
tuyên truyền. Nhưng Mao thì nổi điên, không phải vì 90 ngàn hồng quân bị
thiệt hại khi Nhật phản công mà vì Bành Ðức Hoài bất tuân lệnh của ông.
Mối hận này Mao để trong lòng cho mãi tới năm 1945 Mao mới đòi. Dù sau
đó khi thấy trận đánh quả nhiên mang lại tiếng tốt cho ĐCSTQ, thanh niên
thi nhau đăng ký quân dịch với DCS, thì Mao lại kể công là trận đánh
này do lệnh của Mao.
Ngày 16 tháng 7 năm
1940 Tưởng Giới Thạch ban lệnh cho quân đoàn 4 (hồng quân) rút ra khỏi
vùng Dương tử mà kéo về phía bắc, đóng quân chung với quân đòan 8. Mục
đích của Tưởng là tách rời hai lực lượng Quốc-Cộng, phiá bắc thuộc Cộng
sản, phiá nam thuộc dân quốc. Như thế sẽ tránh được sự tương tàn giữa
hai bên cùng người TQ. Nhưng Mao khước từ. Ông ban lệnh cho quân đòan 4
tấn công vào quân đội Tưởng đầu tháng 8 năm 1940, giết chết 11 ngàn quân
cùng hai viên tướng của Tưởng. Theo sự tính toán của Mao, nếu Tưởng trả
thù thì sẽ gây ra một cuộc nội chiến, và Liên xô sẽ có đủ lý do để kéo
quân vào TQ. Tưởng hoàn toàn không có phản ứng gì. Biết được yếu điểm
của Tưởng là e sợ một cuộc nội chiến lan rộng, ngày 7 tháng 11 năm 1940
Mao đánh điện cho Quốc tế Cộng sản đệ tam xin 150 ngàn quân viện để
chính thức phát động cuộc chiến với Tưởng. Thế nhưng khi đó trong một
cuộc tiếp xúc ngầm giữa Liên xô và Nhật để chia đất TQ, Nhật chỉ muốn
giao cho Liên xô quản lý vùng Tân cương và Ngoại Mông, và ba tỉnh phía
bắc TQ mà Cộng sản đã chiếm được. Ðiều kiện này không thỏa mãn Stalin,
nên Stalin ra lệnh cho Mao án binh bất động, “chỉ được tấn công nếu
Tưởng tấn công trước”.
Mao chỉ còn có cách ép buộc Tưởng phải bóp cò trước.
Chương 22:
Phương
cách Mao chọn để buộc Tưởng bóp cò là “thí quân”, dùng đó làm lý do yêu
cầu Liên xô can thiệp. Con bài thí là Chính ủy quân đòan 4 Hạng Anh,
vốn đã nhiều lần ra mặt chống đối Mao. Ðây là dịp để Mao mượn tay Tưởng
trừ khử.
Tháng 12 năm 1940 Mao ban lệnh
cho Hạng Anh dời quân khỏi Dương tử, rút về bắc. Có hai ngã rút: bắc lộ
và đông lộ. Mao báo cho Tưởng biết là mình thỏa thuận rút quân theo yêu
cầu của Tưởng hồi tháng 7, và xin mở đường. Khi nhận được tin Tưởng cho
phép quân đoàn 4 được an toàn rút ra theo bắc lộ, Mao điện cho Hạng Anh
là Tưởng cho lệnh rút qua ngã đông lộ. Ngày 6 tháng 1 năm 1941, quân
Hạng Anh đụng đầu một lực lượng lớn hơn nhiều của Tưởng, ông đánh điện
về cầu cứu với Mao nhưng Mao không trả lời. (Sau này Mao trả lời với
điện Cẩm linh là máy liên lạc bị hư từ ngày 6 tới ngày 9 tháng 1.) Tối
ngày 11 tháng 1 Chu Ân Lai thông báo với báo chí là quân đòan 4 bị quân
Tưởng bao vây và tấn công. Chỉ là thông báo mà thôi, chứ không xin Tưởng
ban lệnh ngừng tấn công. Ngày 12 tháng 1, Tưởng tự ý ban lệnh ngừng
đánh, và không những thế, ông còn cho phép quân đoàn 4 được đóng quân
tại chỗ, để dưỡng quân. Hạng Anh thoát chết vì quân Tưởng, nhưng bị
người tùy phái của mình giết hai tháng sau trong khi đang ngủ.
Hiện tại Hạng Anh vẫn bị sử sách hiện thời của TQ phê bình là làm tiêu hao quân đòan 4 vì đi lầm đường.
Mao
liên tục đánh điện cho Moscow, “hết cái này tới cái khác”, theo một
nguồn tin tình báo Liên xô,: “kế hoạch của Tưởng là tiêu diệt lần mòn
quân đội của tôi, trước là quân đoàn 4, sau đó sẽ là quân đoàn 8. Nếu
không được phản công thì chỉ có đường chết”.
Moscow
tung tin là quân đòan 4 của ĐCSTQ thiệt hại cả chục ngàn người, thực tế
chỉ cỡ hai, ba ngàn, vì một bộ phận lớn của quân đoàn 4 đã được rút ra
trước, do Lưu Thiếu Kỳ chỉ huy. Vì ngu ngốc chính phủ Tưởng loan báo là
quân đoàn 4 đã bị đánh tan. Ðiều này khiến thế giới phương tây cho rằng
chính Tưởng đạo diễn cuộc tấn công. Nhật báo New York Herald Tribune
ngày 22 tháng 1 năm 1940 đăng một bài báo của Edgar Snow bắt đầu như
sau: “Theo một nguồn tin đáng tin cậy về cuộc đụng độ gần đây ...”. Thực
ra tin tức của Snow do một cán bộ cộng sản ở Hồng kông cung cấp. Do
những tin tức sai lầm, cả Roosevelt và Churchill cùng đánh giá Tưởng là
kẻ hiếu chiến. Ðại sứ Anh quốc ở TQ, Clark Kerr, công khai tuyên bố là
Chu Ân Lai đáng giá bằng hết tất cả các lãnh tụ Quốc dân đảng gộp lại.
Chương 23:
Ngày
22 tháng 6 năm 1941 Ðức quốc xã xâm lăng Liên xô. Ðây là một diễn biến
ra ngoài suy đoán của Mao và làm Mao mất ngủ nhiều ngày. Vốn lệ thuộc
vào Liên xô quá nhiều, Mao biết rằng một Liên xô suy yếu sẽ không thể
nào giúp Mao đạt được mục đích của mình. Mao ban lệnh cho hồng quân:
Ngưng ngay chiến dịch chống Tưởng.
Tháng 7
năm đó Stalin yêu cầu Mao xuất quân đánh Nhật (để ngăn chận Nhật hợp
tác với Ðức quốc xã tấn công Liên xô), Mao đòi chi tiền. Dimitrov (Chủ
tịch Quốc tế Cộng sản đệ tam) chi ngay 1 triệu Mỹ kim. Ấy thế mà tại
cuộc họp Trung ương đảng Mao đưa ra kế hoạch: Nếu Nhật đánh Liên xô,
hồng quân không được can thiệp, vì “quân ta không đủ sức đánh Nhật, mọi
sự can thiệp đều đưa tới những thiệt hại to lớn không thể sửa chữa được.
Tuy thế bề ngoài vẫn phải giả bộ là đang hết lòng giúp Liên xô.” Dĩ
nhiên không phải Stalin không biết chuyện đó, nhưng vì quyền lợi lâu dài
Liên xô vẫn tiếp tục giúp Mao.
Trong khi
không phải đánh nhau với Nhật và Tưởng, Mao quay về củng cố quyền hành
và xây dựng một chế độ cộng sản dựa vào khủng bố và tẩy não tại Diên an.
Lúc này hồng quân có khoảng 700 ngàn người, đa số là mới gia nhập khi
phong trào chống Nhật lên cao. Những hăng say ngày mới gia nhập hồng
quân đã nhanh chóng đổi thành bất mãn, khi chứng kiến sự bất công ở đây:
Chế độ ăn uống chia làm ba loại: tiểu táo, trung táo và đại táo. Tiểu
táo chỉ ăn bằng nửa của trung táo, còn đại táo thì muốn gì được nấy.
Lãnh đạo có nhà thương riêng, con cái của họ thì có người hầu, còn dân
chúng không có gì ăn, bệnh hoạn không được cứu chữa, thuốc men cũng
không có. Cán bộ đảng giải thích sự bất bình đẳng này là do yêu cầu của
đảng: “Mao chủ tịch phải ăn một ngày một con gà do yêu cầu của đảng”.
Mao chủ tịch còn trưng dụng luôn chiếc xe duy nhất ở Diên an lúc đó làm
xe riêng. Chiếc xe này do Công đoàn giặt TQ ở New York gởi tặng để chở
thương binh, nhưng Mao đã tư hữu nó.
Dưới
bàn tay phù thủy của Mao, Diên an biến thành một nhà tù khổng lồ. Những
kẻ bỏ trốn bị xử tử công khai khi bị bắt lại. Mao phát động chiến dịch
“Chỉnh huấn”, theo đó bất cứ ai cũng có thể là gián điệp do Tuởng gài
lại nên tất cả đều phải trải qua thanh lọc và học tập. Hàng trăm ngàn
người bị ép phải tố giác lẫn nhau qua phong trào phê và tự phê. Mọi
người bị buộc phải viết nhật ký và phải nộp cho đảng kiểm soát. Họ bị
buộc phải tố cáo nhau là gián điệp để đạt được yêu cầu của Mao (Mao ra
lệnh cho các vùng cộng sản khác cũng phải tổ chức phong trào “chỉnh
huấn” giống như Diên an, và phải móc ra 10% là gián điệp). Biết bao
nhiêu thanh niên tình nguyện vào đây chỉ vì lòng yêu nước đã bị giết vì
bị nghi ngờ là gián điệp. Một số khác phải tự tử, hoặc phát điên.
Chỉ
sau hai năm chính sách tẩy não và khủng bố của Mao đã biến mấy trăm
ngàn thanh niên thành những bộ máy. Họ nói y hệt như nhau về mọi vấn đề,
kể cả về tình yêu. Không ai dám kể một chuyện cười, Mao không những
chính thức ban lệnh cấm mà bất cứ một lời than phiền hay bất mãn gì đều
bị coi là gián điệp. Mao hoàn toàn thành công: Chính sách khủng bố tàn
bạo của Mao đã không những không để lọt lưới một gián điệp nào của Tưởng
mà còn bẻ cong hết mọi ý chí phản kháng của dân chúng. Ðiển hình là
Vương Thực Vị, một văn sĩ trẻ, chỉ 35 tuổi khi đợt chỉnh huấn đầu tiên
bắt đầu năm 1942, đã viết những bài báo tường sôi nổi về sự bất công ở
Diên an. Năm 1944 khi báo chí được phép vào Diên an, ông được đẩy xe lăn
ra và luôn miệng lắp bắp: “Tôi đã chống Mao chủ tịch. Tội tôi đáng
chết, nhưng Người đã tha tôi sống, tôi muôn ngàn lần cảm ơn”. (Ông bị
cộng sản xử tử khi họ rời bỏ Diên an năm 1947)
Mùa
xuân năm 1945, để chuẩn bị chiến tranh với Tưởng, Mao công khai xin lỗi
những nạn nhân của mình bằng những lời nói giả dối trơ trẽn, kiểu như:
“Thay mặt Trung ương đảng tôi xin lỗi”, “Chúng ta đánh kẻ thù trong đêm
tối, chẳng may làm tổn thương người mình” hoặc đạo đức giả “Cũng giống
như cha đánh con mà, đừng buồn bực nữa”. Mặc dù thế, những lời nói giả
dối này đã tỏ ra có hiệu quả: Những nạn nhân còn sống sót của Mao đã
tiếp tục theo Mao đánh Tưởng, giúp Mao xây dựng thành công chế độ cộng
sản phi nhân tính trên nước TQ và được Mao ban ơn bằng không phải chỉ
một mà nhiều đợt chỉnh huấn khác nữa.
Ngoài
ra trong âm mưu biến Tưởng thành một hình ảnh tàn nhẫn, hòng khơi dậy
lòng căm thù của đảng viên đối với Tưởng, Mao đã lạnh lùng không động
một ngón tay khi em mình, Mao Trạch Dân, vợ và con cùng với hơn 140 đảng
viên cộng sản bị bắt ở Tín giang. Tin này tới tai Liên xô qua ngã Trùng
khánh, và Liên xô đã thông báo cho Chu Ân Lai để báo lại cho Mao. Sở dĩ
Mao không làm gì vì ý đồ Mao là sẽ biến cuộc xử bắn 140 người này thành
một sì-căng-đan, nào ngờ Tưởng cuối cùng chỉ xử tử Mao Trạch Dân và hai
cán bộ cộng sản khác. Những người khác, kể cả vợ và con của Mao Trạch
Dân được thả.
Chương 24:
Cuộc
“Chỉnh huấn 42-45” ở Diên an cũng cải tạo thành công các cán bộ gộc như
Lạc Phủ và Bác Cổ. Hai ông này tuyên thệ trung thành với Mao. Thế nhưng
Vương Minh cương quyết không chiụ khuất phục. Ông này dự trù sẽ đưa vấn
đề ra trước đại hội đảng, và nếu cần, cả Quốc tế Cộng sản đệ tam. Thế
nhưng tháng 10 năm 1941 ông ngã bịnh và được đưa vào nhà thương. Một bác
sĩ của bệnh viện, Bác sĩ Jin Mao-yue, được lệnh của Mao đầu độc Vương
Minh cho đến chết. Vương Minh không chết vì đã không uống thuốc, và cũng
vì đã có sự can thiệp kịp thời của Liên xô. Nhưng ông không còn có thể
đứng dậy được nữa. Ông được đưa đi Moscow trị bệnh ngày 19 tháng 8 năm
1943 và chết ở đó năm 1974. (Bác sĩ Jin sau này bị kết tội là gián điệp
của Quốc dân đảng)
Khi đó Chu Ân Lai (đang
ở Trùng khánh làm đại diện cho Mao) được gọi về, và ông này hết lời
xiểm nịnh Mao. Dù thế, Mao vẫn bắt Chu phải tự thú trước Bộ Chính Trị và
tại các cuộc đấu tố đảng liên tục trong 5 ngày liền là “tôi đã phạm rất
nhiều tội không thể tha” và “Chính Mao chủ tịch đã cứu tôi”. Chu hoàn
toàn bị khuất phục bởi Mao.
Bành Ðức Hoài
cũng bị gọi về Diên an và ông được để yên cho tới đầu năm 1945 thì cũng
bị đấu tố liên tục 40 ngày với đủ các lời xỉ nhục và tố cáo. Cuộc đấu
tố chỉ chấm dứt khi Nhật đầu hàng. Khi đó Mao cần Bành trong cuộc chiến
với Tưởng sắp xảy ra.
Chương 25:
Dĩ nhiên một kẻ chuyên tạo khủng bố như Mao rất sợ người ta trả thù.
Mao
cho cất một căn nhà ở ngoại ô Diên an, chung quanh có hàng rào cao, và
có lính gác. Ai cũng tưởng Mao sống ở đây, nhưng không phải. Mao còn một
căn nhà khác sâu vào trong núi, có khả năng chống được bom, nối với căn
nhà ở ngoài bằng một con đường đủ rộng cho xe chạy. Con đường được che
kín bởi cây cối, người ngoài khó thấy. Toàn bộ căn nhà được ngụy trang
kín đáo, chỉ khi đến thật gần, bước lên bậc thềm mới thấy nó. Không ai
được tới đây, ngoại trừ những người Mao cho đòi tới. Và cũng chỉ có thể
tới một mình gặp Mao mà thôi. Lính hầu bị giữ lại bên ngoài. Mao sống ở
đây.
Trùm mạng lưới KGB của TQ là hung
thần Khang Sinh. Khang có phải là đảng viên CS không, không ai biết.
Những người bảo lãnh Khang vào đảng, dựa theo hồ sơ của Khang, đều khai
không biết gì về chuyện đó. Khang cũng từng bị tù bởi Quốc dân đảng.
Dimitrov cũng kết tội Khang là không đáng tin cậy. Nhưng Mao đã xử dụng
Khang, như Stalin xử dụng Vyshinsky (gốc Menshevik), cho Khang toàn
quyền tra tấn và kết tội kẻ khác. Trong cương vị này Khang đã bộc lộ hết
bản chất tàn ác cũa y, nhưng với một gốc gác mơ hồ như vậy, Khang lúc
nào cũng thấp thỏm lo sợ, vì thế Khang tuyệt đối trung thành với Mao cho
tới lúc chết. Ðây cũng là một cách dùng người của Mao.
Quyền
uy của Khang lớn tới độ chính Lưu Thiếu Kỳ đã phải nhờ Khang che chở
nhiều lần để khỏi bị thanh trừng trong cuộc chỉnh huấn ở Diên an.
Trong cuộc chỉnh huấn ở Diên an có hai
người đàn bà. Một là Diệp Quần, vợ Lâm Bưu và một là Giang Thanh, vợ
Mao. Một ngày tháng 3 năm 1943, trong khi Lâm Bưu đang ở Trùng khánh,
Diệp Quần bị cột vào ngựa và cho ngựa kéo. Khi về tới, Lâm Bưu đến gặp
mặt Mao và chửi thẳng vào mặt Mao: “Ð.M. mày. Chúng tao chiến đấu ở mặt
trận để ở nhà mày đối xử với vợ tao như vậy hả?” Mao phải trả tự do cho
Diệp Quần, và còn cho bà trắng án. Giang Thanh, ngược lại, không được
Mao che chở như vậy. Bà cũng phải bị kiểm thảo và bị đấu tố, dù không
nặng nề như những người khác, thế nhưng cũng đủ để khiến bà sợ Mao tới
suốt đời.
Sự khủng bố của cuộc chỉnh huấn
Diên an đã xây dựng thành công một ông vua kiểu Tần Thủy Hoàng: không
ai dám trái ý. Mọi người phải học tập các bài nói chuyện của Mao, và
tung hô: Mao Chủ tịch muôn năm. Bài hát “Ðông phương hồng” trở thành phổ
thông khắp mọi nhà. Hình Mao được phổ biến khắp nơi. Mao cũng cho sửa
lại lịch sử theo kiểu “cái gì sai là do kẻ khác làm, cái gì đúng là do
công của Mao”. Vì thế, những trận đánh thua của hồng quân là do làm trái
ý Mao, cuộc chiến phá hủy đường rầy xe lửa chống Nhật đưa đến kết quả
lẫy lừng cho hồng quân là do lệnh của Mao. Thậm chí trận đánh cầu Dadu,
một trận đánh mà tài liệu giáo khoa kể là bên Mao chỉ chết một con ngựa,
không có cũng biến thành có.
Không còn
đối thủ, Mao tổ chức đại hội đảng lần thứ 7 ngày 23 tháng 4 năm 1945
(lần thứ sáu là 17 năm trước) và nghiễm nhiên trở thành Chủ tịch ĐCSTQ
thực sự, với đầy đủ uy quyền của một hoàng đế.
Chương26:
Bí
thư đảng bộ Diên an là Xie Juezai. Tay này đã bí mật viết nhật ký kể
lại đầy đủ những diễn biến tại đây. Những cuốn nhật ký này sở dĩ không
bị tiết lộ, cho tới ngày nay, có lẽ vì Xie là bạn thân của Mao từ thời
niên thiếu nên được Mao tin tưởng.
Theo Xie, đây là số gạo mà người dân Diên an phải đóng thuế cho chính quyền CS:
Năm 1937: 13,859 shi (một shi là 150 kilo).
Năm 1938: 15,972 shi
Năm 1939: 52,250 shi
Năm 1940: 97,354 shi
Năm 1941: 200,000 shi.
Chính
Xie viết trong nhật ký là “người dân chỉ có chết vì thuế mà thôi”
(21/6/1939). Cũng theo Xie, vì quá nghèo, có nơi số tử vong gấp năm lần
số sinh sản. Di dân bị lùa tới những vùng núi non, và bị bỏ mặc ở đây.
Họ chết như ruồi.
Ðó là chưa kể những đóng
góp của Chính phủ Trùng khánh (vào những năm đầu tiên) và Liên xô, mà
chính tay Stalin phê chuẩn cho mỗi tháng 300 ngàn Mỹ kim.
Ấy
vậy mà Mao còn kiếm thêm tiền bằng đường trồng và buôn bán ma túy. Có
khoảng 30 ngàn mẫu đất được trưng dụng để trồng ma túy. Năm 1943 Liên xô
đánh giá là Mao bán được 44,760 kilo ma túy.
Tất
cả tiền lời từ buôn bán ma túy đều vào tay DCS, người dân không những
không được sơ múi chút nào mà còn phải đối phó với sự lạm phát, Xie viết
“Chúng ta đã tạo ra lạm phát vì chúng ta quá giàu” (6/3/1944). Dĩ nhiên
chữ “chúng ta” đây chỉ DCSTQ. Theo Xie, từ năm 1937 tới năm 1944, muối
tăng giá gấp 2131 lần, dầu ăn 2250 lần, tơ sợi 6750 lần, vải vóc 11,250
lần, diêm quẹt 25 ngàn lần.
Chính Mao là
tạo ra lạm phát bằng cách in tiền vô tội vạ và cho phép bộ máy cồng kềnh
của Mao được xử dụng nó không giới hạn. (Bọn VC xài y chang bài bản)
Chương 27:
Tháng
2 năm 1945 tại Hội nghị Thượng đỉnh Yalta, Stalin khẳng định với
Roosevelt và Churchill sẽ tham gia mặt trận Thái bình dương khi Ðức quốc
xã đầu hàng. Hai tay lãnh tụ tây phương này cho Stalin hay sẽ có bồi
thường xứng đáng, mà không biết là Stalin đang rất nóng lòng muốn xâm
lăng TQ, dù có bồi thường hay không. Ðiều này đối với Mao có nghiã là
quân đội sô viết sẽ tiến vào TQ, và Mao sẽ được đưa lên lập chính phủ
cộng sản, như mơ ước Mao đã ấp ủ 22 năm.
Mười
hai giờ 10 phút đêm 9 tháng 8 năm 1945, chỉ 3 ngày sau khi Mỹ thả bom
nguyên tử xuống Hiroshima, một triệu rưỡi quân Liên xô vượt biên giới
Mông cổ tràn vào TQ, mở một mặt trận dài 4600 cây số. Mao ban lệnh cho
hồng quân nhanh chóng bắt tay với quân đội Liên xô, và thành lập chính
phủ CS nơi nào họ đi qua. Theo hiệp định Yalta Stalin phải thông báo cho
Tưởng trước khi đem quân vào TQ, nhưng Stalin chỉ làm chuyện này một
tuần sau.
Nhật đầu hàng ngày 15 tháng 8.
Người dân TQ nhảy múa ăn mừng chiến thắng. Tám năm chiến tranh (nếu tính
luôn thời gian Nhật xâm lăng Mãn châu là 14 năm), ít nhất cả 10 triệu
người chết, chưa kể số thương binh và tỵ nạn. Phải ăn mừng chứ. Theo
hiệp định Yalta, quân Liên xô sẽ dừng quân và bàn giao các đất đai đã
chiếm được của Nhật lại cho Tưởng, thế nhưng thực tế xảy ra khác hẳn.
Quân Liên xô vẫn tiếp tục tiến về Nam, và theo sau là hồng quân TQ. Cuối
tháng 8, quân Liên xô đã giúp Mao phát triển lãnh thổ tới tận tỉnh
Chahar và Jehol, cả hai nơi này chỉ cách Bắc kinh có 150 km. Phần thưởng
lớn nhất cho Mao là Mãn châu, nơi Nhật đã chiếm đóng 14 năm. Không
những quân Liên xô lấy được kho vũ khí của Nhật, lên tới cả trăm ngàn
súng và hàng ngàn vũ khí nặng, và giao lại cho Mao mà còn bàn giao cho
Mao 200 ngàn quân vốn là lính của chính phủ Mãn châu thân Nhật. Khi đó
quân Tưởng còn đang kẹt ở Nam TQ và Miến điện, Tưởng cầu cứu với Mỹ.
Tổng thống Mỹ Harry Truman (lên thay Roosevelt chết ngày 12 tháng 4) đòi
hỏi Tưởng đàm phán với Mao. Tưởng đánh điện mời Mao đến Trùng khánh
họp. Sau nhiều lần từ chối, cuối cùng trước áp lực từ Stalin (và có bảo
đảm an ninh của cả Liên xô và Mỹ) Mao đồng ý gặp Tưởng.
Ngày
28 tháng 8 Mao bay đến Trùng khánh trên một chiếc máy bay của Mỹ. Cuộc
hội nghị diễn ra trong 45 ngày. Mao luôn miệng ca tụng Tưởng, nhưng cả
hai đều biết là họ chỉ đóng kịch. Tưởng cần có một cái hiệp định hòa
bình để chiều lòng Mỹ, và Mao phải chiều lòng Stalin. Trong khi Mao đang
ở Trùng Khánh, quân đội Mỹ chiếm được hai thành phố lớn, Thiên tân và
Bắc kinh, và họ sẵn sàng bàn giao cho quân Tưởng.
Mao
trở về Diên an ngày 11 tháng 10 và ngay lập tức ban lệnh đánh đuổi quân
Tưởng ra khỏi Mãn châu. Thế nhưng quân đội Mao vốn chưa quen đánh giặc
(chiến lược của Mao xưa nay là né tránh đụng độ để bảo toàn lực lượng),
chưa kể về mặt tâm lý là chỉ muốn hưởng thái bình, nên chưa đánh đã
hàng. Trong 10 ngày cuối năm 1945, 40 ngàn hồng quân đầu hàng quân
Tưởng, theo tài liệu của DCSTQ. Lâm Bưu báo cáo với Mao: “Dân chúng nói
là quân đoàn 8 không nên đánh nhau với quân chính phủ nữa. Theo họ, Quốc
dân đảng mới là Chính phủ”. Nhiều cuộc biểu tình nổ lớn đòi quân Liên
xô rút về. Tin tức quân Liên xô hãm hiếp đàn bà TQ và cướp bóc của cải
loan truyền. DCSTQ cũng bị đàm tiếu vì có dính liú tới quân Liên xô. Có
lần trong một cuộc triệt thoái, Lâm Bưu bị chính quân mình hỏi: “Có phải
quân ta rút về xứ bọn tóc đỏ (ý nói Liên xô) không?”.
Ngày
1 tháng 6 năm 1946 Lâm Bưu xin lệnh di tản khỏi Harbin, đây là thành
phố lớn cuối cùng của Mao ở Mãn châu. Mao nhiều lần xin Stalin đưa quân
trở lại giúp nhưng bị từ chối. Stalin chỉ cho phép hồng quân TQ được
phép qua biên giới Liên xô trú quân. Ngày 3 tháng 6 Mao chấp thuận cho
di tản.
Mao chỉ chờ giờ bị treo cổ. Thì lúc đó Mao được cứu. Cứu tinh của Mao là chính phủ Mỹ.
Chương 28:
Tháng
12 năm 1945 Truman gởi tướng George Marshall sang TQ để nghiên cứu tình
hình, và đưa kế hoạch giúp TQ chấm dứt cuộc nội chiến. Tại cuộc họp mặt
đầu tiên với Chu Ân lai, Marshall được Chu cho biết là DCSTQ muốn thành
lập một chính phủ dân chủ thân Mỹ ở TQ. Khi được hỏi là nghe nói Mao
sắp sang thăm Liên xô, Chu cười lớn: “Không có đâu, Mao chủ tịch muốn đi
thăm Mỹ kìa”. Tất cả những bản báo cáo của Marshall về Mỹ đều bày tỏ sự
bất mãn của ông với sự bất hợp tác của phe dân quốc. Sau này, tháng 2
năm 1948 Marshall còn báo cáo cho Quốc hội Mỹ “không có bằng cớ nào là
DCSTQ được sự giúp đõ của các đảng cộng sản nước ngoài”, mặc dù Mỹ và
Anh đã giải mã nhiều bức điện qua lại giữa Moscow và Diên an.
Chính
Marshall đã ép Tưởng phải ngừng ngay những cuộc tấn công vào quân Mao.
Marshall cho biết chính phủ Mỹ sẽ ngưng giúp Tưởng (khi đó Mỹ giúp Tưởng
chuyển quân bằng tàu từ các nơi về Mãn châu) nếu ông không ngừng ngay.
Tưởng đồng ý ngưng bắn 15 ngày, nhưng sau đó dưới áp lực của Marshall và
Tổng thống Mỹ Truman (ông này viết cho Tưởng một lá thư đe doạ là nếu
không tìm được một giải pháp hoà bình thì Mỹ sẽ xét lại sự giúp đỡ của
Mỹ), từ 15 ngày đổi thành 4 tháng. Thời gian này đủ để hồng quân thiết
lập được căn cứ an toàn ở Bắc Mãn châu với hậu phương là Liên xô. Chính
Liên xô đã đóng vai trò quyết định trong trận chiến sắp tới. Về mặt vũ
khí, Liên xô gởi cho Mao 900 máy bay lấy được của Nhật, 700 xe bọc sắt
và vô số súng ống đạn dược. Liên xô cũng sửa lại hệ thống đưòng rầy xe
lửa, và nối nó sang tới biên giới Nga. Về mặt nhân sự, Liên xô gởi hàng
chục ngàn tù nhân chiến tranh Nhật làm huấn luyện viên cho hồng quân TQ.
Liên xô cũng gởi sang 200 ngàn lính Bắc Hàn tham chiến với hồng quân
TQ. Ðể cám ơn hậu tình của Liên xô, Mao đã gởi sang Moscow một triệu tấn
thức ăn mỗi năm, kết quả cả chục ngàn nông dân Diên an bị chết đói vào
năm 1947, và sang năm 1948 con số chết đói ở Mãn châu lên đến cả trăm
ngàn.
Một cộng sự viên của Tưởng, ông
Ch’en Li fu, khuyên Tưởng” Nếu muốn đánh CS, phải đánh tới nơi. Ðánh rồi
nghỉ, rồi mới đánh chỉ có thất bại thôi”. Nhưng Tưởng không thể bỏ qua
sự viện trợ của Mỹ, lúc đó trị giá khoảng 3 tỷ Mỹ kim. Tưởng phải cúi
đầu trước áp lực của Mỹ.
Chương 29:
Tháng
10 năm 1946 bốn tháng sau ngày ký hiệp định ngừng bắn, quân Tưởng bắt
đầu mở lại những cuộc tấn công vào căn cứ điạ Bắc Mãn châu của Mao. Hồng
quân, dưới quyền chỉ huy của Lâm Bưu, lần này đã tỏ ra chiến đấu hữu
hiệu. Cuộc chiến kéo dài dằng dai cả năm. Uy tín Tưởng xuống thấp. Ông
cần một chiến thắng quân sự.
Ngày 1 tháng 3
năm 1947 Tưởng ủy thác cho một tướng tâm phúc của mình, Hu Tsung-man,
thực hiện một kế hoạch táo bạo: đánh chiếm Diên an. Ngày 18 tháng 3 Hu
chiếm được Diên an, nhưng Mao đã trốn thoát. Sau này Hu cho một người
bạn của ông, Hu Kung mien, biết là ông đã điện cho Mao biết kế hoạch của
Tưởng, kịp thời cho Mao di tản toàn bộ ban tham mưu của mình. Thì ra Hu
là một gián điệp nằm vùng của Mao. Hu chiếm đưọc Diên an, nhưng chỉ
đóng quân ở ngay thành phố Diên an. Ngoại ô Diên an vẫn thuộc quyền kiểm
soát của cộng sản. Nhiều lần, Hu gởi quân đi truy sát Mao đều mang thất
bại. Lần nào quân Hu cũng đi thẳng vào ổ phục kích của Mao, kết quả
không ai sống sót trở về. Những trận đánh chỉ có thắng này của Mao đã
đưa tên tuổi Mao lên hàng danh tướng.
Một
bằng chứng khác Hu nằm vùng là ngày 8 tháng 6, hoàn toàn bất ngờ một
toán quân của Hu, do Liu Kan điều khiển, xuất hiện sát chỗ Mao đang đóng
quân. Mao vội vã băng rừng chạy, mọi điện đài đều được tắt hết, ngoại
trừ một đường dây. Mao liên tục gọi cho Hu yêu cầu Hu rút Liu Kan về. Hu
ban lệnh cho Liu Kan: bỏ hết mọi thứ mà kéo quân về Bảo an. Sau này Mao
khoe khoang: “Bốn quân đoàn của Liu Kan diễn hành qua lại ngay trước
mắt chúng tôi, trong khi chúng tôi chỉ đứng ngó”. Liu Kan phải trả giá
bằng cái chết, dàn dựng bởi chính Hu: Tháng 2 năm 1948, Hu ra lệnh cho
Liu Kan đánh chiếm Yichuan, đoàn quân trên đường đi lọt ổ phục kích của
Mao. Liu điện về cho Hu xin rút, nhưng Hu không cho. Liu Kan tự sát. Cái
chết của Liu và sự tan rã của quân đoàn 29 của ông đập tan mọi hy vọng
của Tưởng. Một tháng sau, Hu được lệnh rút khỏi Diên an. Tưởng vẫn đánh
giá Hu là một người đáng tin cậy, và đã dùng quyền của mình che chở cho
Hu không bị kết tội, ông không học gì được từ sự thất bại ở Diên an. Hu
chết ở Ðài loan năm 1962, tung tích vẫn không bị bại lộ.
Gián
điệp đóng một vai quan trọng trong sự thất bại của Tưởng. Năm 1948
Tưởng giao cho một tướng khác Wei Li huang nắm chức tư lệnh vùng Mãn
châu, cầm đầu nửa triệu quân, dù đã nhận được báo cáo là Wei có thể là
một cán bộ cộng sản. Wei cũng hành động y như Hu, rút hết quân đội về
thành phố để ngỏ vùng nông thôn cho Mao tự do phát triển. Lâu lâu, Wei
cử những toán quân lẻ tẻ đi hành quân vào những chỗ đã bị phục kích sẵn.
Khi thấy tình hình tuyệt vọng, Tưởng ra lệnh cho Wei rút quân về Tinh
châu để chuẩn bị rút ra khỏi Mãn châu, thì Wei bỏ lại toàn bộ quân đội
của mình cho Mao tàn sát (theo ý muốn của Mao). Ngày 2 tháng 11 Thẩm
Dương sụp đổ, toàn bộ Mãn châu rơi vào tay Mao. Wei cũng không bị Tưởng
trị tội, ông qua sống ở Hồng kông một thời gian rồi mới về Bắc kinh sống
ở đó cho tới chết năm 1960.
Quân đội Mao
sau khi chiếm Mãn châu tiếp tục tiến về Bắc kinh. Quân số của Mao lúc
này là 1 triệu 3, sẵn sàng đánh Bắc kinh, lúc đó có 6 trăm ngàn quân,
dưới quyền điều khiển của tướng Fu Tso-yi. Fu không phải là cộng sản,
nhưng Fu không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Tưởng nên quyết định
đầu hàng, tránh đổ máu. Nhưng Mao muốn mình trở thành một danh tướng
đánh bại được Fu, một chiến tướng có tên tuổi, nên giữ sứ giả của Fu lại
bàn chuyện thương thuyết cả hai tháng trong khi đó quân đội Mao tiếp
tục tấn chiếm từng thành một. Chỉ khi Mao lấy được Thiên tân ngày 15
tháng 1 năm 1949, Mao mới nhận lời cho Fu đầu hàng. Lịch sử DCSTQ ghi là
Mao thành công ép Fu đầu hàng vì Mao oanh liệt tạo nên hết chiến thắng
này tới chiến thắng khác trên trận điạ. Thực ra cả hàng chục ngàn người
đã chết lãng nhách chỉ vì Mao muốn nổi tiếng.
Trong
khi đó mặt trận Hoài hải, phía bắc Nam kinh, đã xảy ra những trận đánh
kinh hồn từ tháng 11 năm 1948 tới tháng giêng năm 1949. Tư lệnh mặt trận
của chính phủ dân quốc không phải là gián điệp, dù dưới quyền ông có
không ít gián điệp. Thế nhưng, ở bộ Tổng Tư lệnh dưới quyền Tưởng có hai
người là gián điệp cộng sản: Lưu Phi và Kuo Ju kuei, mà Tưởng rất tin
tưởng. Hai người này đã chuyển giao mọi kế hoạch quân sự của Tưởng cho
hồng quân. Chính con trai của Tưởng xác nhận hai người này là gián điệp
mà Tưởng cũng không tin. Sau này Tưởng thuyên chuyển Lưu Phi tới Tứ
xuyên, và ông này dâng Tứ xuyên cho Mao không một phát súng.
Khi
quân Nhật đầu hàng, Tưởng được mọi người coi là một anh hùng dân tộc.
Thế nhưng chỉ sau một thời gian ngắn chính phủ của ông đã để cho tham
nhũng lan tràn, tạo ra lạm phát và khủng hoảng kinh tế. Dưới áp lực của
báo chí, ông cho mở cuộc điều tra, và kết quả cho thấy là Thủ tướng
chính phủ TV Song và gia đình nhà vợ của ông đã ăn cắp công quỹ tới 380
triệu Mỹ kim. Mấy ngày sau, dưới áp lực của vợ, ông ra lệnh cho báo chí
sửa lại là chỉ có 3 triệu Mỹ kim. Sự thất bại của Tưởng trong công cuộc
trong sạch hoá guồng máy chính quyền đã đưa Mao tới thành công.
Chương 30:
Trong
khi Tưởng nhu nhược không dám có những quyết định tàn nhẫn, thì Mao lại
hoàn toàn khác. Năm 1948 khi Mao tấn chiếm Mãn châu, Mao đụng độ với
tướng Cheng Tung-kuo ở Trường xuân. Cheng nhất định không đầu hàng, dù
bị vây hãm tứ phiá. Mao ra lệnh không cho một người dân thường nào được
thoát, “hãy biến Trường xuân thành một thành phố chết”. Lâm Bưu báo cáo
như sau: “Hàng ngàn dân chúng vì quá đói phải bỏ thành chạy trốn, họ quỳ
mọp xuống van khóc, xin chúng tôi tha cho đi. Nhưng quân sĩ đánh đập,
bắt họ quay về thành, kẻ nào không chiụ thì bị trói và đốt chết”. Sau
năm tháng bao vây, con số người chết lên tới 300 ngàn.
Thế
nhưng khi những sự tàn khốc do Mao thực hiện được kể lại thì người nghe
đều cho đây là sự tuyên truyền dối trá của Quốc dân đảng. Càng chán
ghét Quốc dân đảng bao nhiêu, người ta lại càng kỳ vọng Mao sẽ đem đến
cho họ một đời sống tốt đẹp hơn.
Ngày 20
tháng 4 năm 1949 quân đội Mao qua sông Dương tử tiến vào Nam kinh. Ngày
23 Tưởng bay đi Xi kou thăm mộ mẹ, và sau đó lên tàu đi Thượng hải, rồi
Ðài loan. Tưởng đem theo hầu hết máy bay dân sự, rất nhiều mỹ thuật cổ
và một số linh kiện điện tử, nhưng đã để lại hầu như trọn vẹn mọi nhà
máy, không phá huỷ, cho Mao.
Ngày 1 tháng
10 năm 1949 Mao đứng trên cổng Thiên An môn tuyên bố thành lập nước Cộng
hoà Nhân dân Trung hoa. Ðám đông cả trăm ngàn người hô lớn: “Mao chủ
tịch muôn năm”.
Ðiều không ai biết là Mao
cần tới gần 6 tháng để chuẩn bị an ninh tối đa cho mình trong ngày tuyên
bố thành lập nước. Trong thời gian này vợ Lạc Phủ có tới thăm Giang
Thanh và hỏi thăm sức khoẻ Mao, bà này cho biết Mao thường hay run khi
gặp kẻ lạ. Mao sợ bị ám sát. Bất cứ chỗ nào Mao muốn tới đều phải có
chuyên viên Liên xô tới dò mìn trước, đó là chưa kể hàng ngàn lính TQ
được đưa tới đi qua đi lại, vai sát vai: họ được xử dụng làm máy dò mìn
“nhân tạo”.
Jung Chang, Jon Halliday
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Chương 31-35
Chương 31
Cuộc
chuyển đổi quyền hành từ Quốc Dân đảng sang Cộng Sản đảng diễn ra tốt
đẹp. Thương gia, kỹ nghệ gia được tiếp tục kinh doanh và làm việc cho
tới gần cuối năm 1950. Chỉ có luật pháp và báo chí bị thay đổi ngay:
Quan toà được thay thế bằng các đảng viên, còn báo chí bị kiểm duyệt gay
gắt. Nơi nào chống đối bị đàn áp thẳng tay.
Tháng
10 năm 1950 Mao phát động một chiến dịch chống phản cách mạng toàn
quốc. Mao cũng đồng thời phát động cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo
công thương nghiệp ở những vùng
mới chiếm. Mục tiêu của Mao là phân chia xã hội ra nhiều thành phần:
phản cách mạng, kẻ thù giai cấp, gián điệp, tôn giáo, địa chủ, tư sản,
phú nông, cho tới kẻ cướp. Mỗi thành phần bị đối xử khác nhau. Mao hạ
lệnh mỗi tỉnh phải gay gắt hơn nữa, phải tăng con số người bị bắt theo
tiêu chuẩn của Mao. Mao cũng biết người ta ưa thích bạo động, nên Mao
muốn những cuộc
hành quyết phải được thực hiện ở nơi công cộng, càng được nhiều người
chứng kiến la ó càng tốt. Một nhân chứng cho biết ngay giữa Bắc kinh, cô
chứng kiến một đám đông đi theo hò reo la ó bao quanh 200 người bị Công
an lôi đi trên đuờng phố và bị hành quyết ngay trên viả hè. Các xác
chết mặc dù còn nhỏ máu được kéo đi khắp đường phố. Khi chiến dịch kết
thúc một năm sau, Mao tuyên bố có khoảng 700 ngàn bị giết, con số thực
sự phải cỡ 3 triệu.
Những người không bị giết chết thì bị bắt đi lao động cải tạo. Họ bị đưa tới những vùng hẻo lánh và bị bắt làm cho tới khi kiệt lực mà chết, theo kiểu mẫu của những trại tù gulag của Liên Xô. Mức độ dã man của những phương
pháp hành hạ cải tạo viên khiến một nhà ngoại giao Liên Xô phải thốt
lên: “Tụi Quốc Dân đảng cũng không tàn ác tới như thế”. Trong thời gian
Mao cai trị, con số người chết vì lao động khổ sai lên đến 27 triệu.
Mao
còn một biện pháp thứ ba, gọi là quản chế. Dưới thời Mao có hàng chục
triệu người bị quản chế. Người bị quản chế được sống ở thành phố, nhưng
lúc nào cũng bị theo dõi, thường xuyên phập phồng lo sợ, chưa kể những liên lụy đến gia đình và hàng xóm.
Chỉ trong một năm Mao hoàn toàn thành công đè bẹp mọi hình thức đối kháng, dù đó chỉ là những lời
đồn. Cuối năm 1951 Mao lại đề xướng một chiến dịch mới, gọi là “tam
phản”: chống tham nhũng, chống phí phạm và chống tư tưởng phong kiến (lè
phè). Về mặt chống tham nhũng, mục đích là không để sứt mẻ một đồng nào
từ số tiền đảng gom góp được. Quốc Dân đảng thất bại vì để cho tham
nhũng lan tràn, nên trong chiến dịch này bất cứ người nào bỏ túi tiền
của chính phủ trên 10 ngàn quan đều bị xử tử. Mao tổ chức cho các đơn vị
chính phủ và quân đội ở mọi tỉnh thành phải tổ chức thi đua bắt tham
nhũng. Nếu Mao hoàn toàn thành công về mặt chống tham nhũng thì về mặt
chống phí phạm Mao lại thất bại nặng: Mao phí phạm nhân lực vào những cuộc điều tra kéo dài ngày này sang ngày khác, người dân phí phạm thời giờ bởi những cuộc
tra vấn liên tục. Ðã thế Mao còn đưa ra thêm chiến dịch “Ngũ phản”:
chống hối lộ, chống trốn thuế, chống ăn cắp của công, chống ăn gian và
ăn cắp tin tức liên hệ đến kinh tế. Chiến dịch này dẫn tới hàng trăm
ngàn người phải tự tử.
Trong khi
vật giá leo thang, hàng hoá càng ngày càng khan hiếm, kinh tế TQ đi vào
khủng hoảng thì Mao sống như một ông vua. Mao thích ăn ngon, và lạ.
Nhiều món ăn phải chuyên chở cả ngàn cây số tới, thí dụ cá hồ Vũ hán, mà
khi tới nơi phải còn sống Mao mới ăn. Mọi thức ăn, uống của Mao đều có
bác sĩ thử nghiệm. Mao thích bơi, mà nước hồ bơi phải đủ ấm kẻo Mao bị
cảm vì lạnh. Mao không thích tắm, Mao không hề vào bồn tắm hay đứng dưới
vòi sen trong 25 năm. Mỗi ngày Mao đều để cho người hầu lau mình bằng
khăn ấm. Mao thích gái đẹp. Ngày 9 tháng 7 năm 1953 quân đội được lệnh
kiếm gái cho Mao, Tư lệnh quân đội Bành Ðức Hoài chống đối nhưng không
có kết quả. Một đạo quân được thành lập gồm toàn gái trẻ đẹp, được dạy
muá hát và chiêu đãi, mà ai cũng biết là để hầu hạ Mao.
Chương 32
Năm 1947 đắc chí trước những chiến
thắng cận kề, Mao hy vọng sẽ được một ký giả Mỹ, kiểu Edgar Snow, đánh
bóng mình trên diễn đàn quốc tế. Vì Edgar Snow đã bị cấm ở Liên Xô, Mao
tìm tới một ký giả hạng nhì, cô Anna Louise Strong. Theo lời Mao, Strong
viết một bài báo tựa đề: “Tư tưởng Mao Trạch Ðộng” và một cuốn sách
tên: Bình minh ở TQ. Bài báo và cuốn sách có những câu
tự cao tự đại như: Ngay cả Marx và Lenin cũng không thể nằm mơ tới”,
hoặc “Các nước Á châu hãy học hỏi TQ, chứ đừng học Liên Xô”. Quyển sách
này bị cấm ở Liên Xô.
Tháng 11 năm 1947, Mao đề nghị với Stalin cho ông đến thăm Liên Xô. Stalin nhận lời. Mao rất mừng. Thế nhưng 3 tháng sau vẫn chưa có tin gì của Stalin, Mao hỏi lại lần thứ hai ngày 22 tháng 4 năm 1948, và Stalin đồng ý một lần nữa. Thế nhưng khi sắp tới ngày Mao khởi hành thì Stalin thông báo hoãn lại. Ngày 4 tháng 7 Mao thông báo cho Stalin hay
là mình sẵn sàng đi ngày 15 tháng 7, và cũng muốn đi viếng thăm các
nước Ðông Âu luôn. Tới ngày 14, Mao nhận được điện báo hãy hoãn lại
chuyến đi. Rõ ràng Stalin muốn dạy Mao một bài học.
Mao nhượng bộ. Mao cho cạo sửa chữ “Tư tưởng Mao Trạch Ðông” thành “Chủ nghiã Marx-Lenin”, thừa nhận những tư tưởng của mình không có gì mới mẻ, chỉ là những đóng góp cho Chủ nghiã Marx. Trong buổi tiếp tân dành cho đặc sứ Mikoyan của Nga, Mao tuyên bố: “Stalin là ông thầy của nhân dân TQ và nhân dân toàn thế giới”. Và “Là học trò của Stalin, tôi (Mao) sẵn sàng nghe lời chỉ bảo của thầy”. Khi đó Mikoyan mới đưa ra đề nghị của Stalin là muốn Mao lãnh đạo phong trào cộng sản ở Ðông Á, chứ đừng dây dưa tới Âu châu hay Mỹ. Stalin muốn
đẩy Mao ra sân sau. Ðối thủ một thời của Mao là Vương Minh, khi đó đang
chờ được đi Liên Xô chữa bệnh, muốn lấy lòng Mao mới tuyên bố là tư
tưởng Mao không chỉ thích nghi ở Á châu mà rất thích hợp cho các quốc
gia thuộc điạ và bán thuộc điạ. Mao khoái quá. Mao bắt đầu mơ tưởng tới
chia xẻ thế giới với Stalin.
Chương 33
Sau
khi thành lập chính phủ nhân dân Mao biết là mình đã lộ đuôi cáo nên
không còn hy vọng gì vào sự giúp đỡ của người Mỹ, ông bèn hết lời ve vãn Stalin để xin viện trợ. Mặt khác để chứng tỏ lòng trung thành của mình với Stalin, Mao bày tỏ một thái độ hằn học với Anh và Mỹ (khi đó cuộc chiến tranh lạnh đã bắt đầu).
Mao cử Chu Ân Lai tới gặp Ðại sứ Liên Xô xin cho Mao được gặp Stalin vào ngày sinh nhật 70 tuổi sắp tới đây của Stalin, 21 tháng 12 năm 1949. Stalin đồng
ý, nhưng không mời Mao làm quốc khách. Mao đi bằng xe lửa, khởi hành
ngày 6 tháng 12. Ông không mang theo một cán bộ cao cấp nào, lý do là
ông biết chắc chắn mình sẽ bị Stalin “cạo
đầu”. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra trong lần gặp mặt đầu tiên, vì
ngay cả đại sứ TQ ở Liên Xô cũng không có mặt. Chúng ta chỉ biết là sau
đó Mao được đưa tới tư dinh số 2 của Stalin, ở đó liền mấy ngày mà không được tiếp xúc với ai và cũng không ai được tiếp xúc, ngoại trừ những nhân viên mật vụ có nhiệm vụ theo dõi Mao và báo cáo lại cho Stalin. Tại bữa tiệc mừng sinh nhật Stalin, Mao được xếp ngồi ngay cạnh Stalin và là người khách nước ngoài duy nhất được phát biểu. Sau bài phát biểu, Mao hô lớn: “Stalin vĩ đại muôn năm”. “Vinh quang này thuộc về Stalin”.
Hai ngày sau Mao được đưa tới gặp Stalin, nhưng khi được yêu cầu giúp Mao phát triển quân sự, Stalin lạnh
lùng từ chối. Mao được đưa về lại tư dinh số hai và trong nhiều ngày
sau không được gặp mặt ai. Sinh nhật 65 tuổi của Mao, 26 tháng 12, trôi
qua không có tiệc tùng gì. Biết rằng mọi cuộc nói chuyện ở đây đều bị
nghe lén, Mao điện thoại cho Chu Ân Lai hay là ông sẵn sàng bình thường
hoá với các quốc gia tây phương. Ngày 6 tháng 1 năm 1950, báo chí Anh
quốc đăng tin Mao bị giam lỏng ở Moscow. Chính phủ Anh tuyên bố thừa
nhận chính quyền Mao. Lá bài tây phương quả nhiên hiệu nghiệm. Mao được Stalin cho gặp mặt và cuộc thương thuyết giữa Mao và Stalin thực sự bắt đầu.
Ngày 14 tháng 2 năm 1950 Stalin và Mao (có thêm Chu Ân Lai mới tới) ký hiệp ước.
Theo hiệp ước này, Stalin cho TQ vay 300 triệu Mỹ kim trong vòng 5 năm. Stalin chấp
thuận bảo trợ 50 dự án kỹ nghệ hạng nặng, nhỏ hơn con số Mao mong muốn
nhiều. Ðổi lại, Mao đồng ý cho Liên Xô mọi đặc quyền kinh tế, kỹ nghệ và
thương mại ở hai vùng Mãn châu và Tín giang. Ðây là hai vùng có trữ
lượng lớn về quặng mỏ. Sau này Ðặng Tiểu Bình nói với Gorbachev là “Sau
cuộc chiến tranh nha phiến 1842 TQ bị nhiều thế lực ngoại bang xâm lăng,
Nhật là kẻ gây thiệt hại nhiều nhất cho TQ, còn Liên Xô là kẻ hưởng lợi
nhiều nhất”. Hiển nhiên Ðặng ám chỉ hiệp ước này.
Chương 34
Ngày 16 tháng 2 năm 1950 tại bữa tiệc chia tay trước khi Mao về lại TQ, một nhân vật được đưa tới gặp Mao: Hồ Chí Minh. Stalin cho
Hồ biết viện trợ cho VN sẽ là trách nhiệm của Mao Cả hai về lại TQ
chung một xe lửa, Mao cho Hồ biết kế hoạch đầu tiên sẽ là thiết lập một
hệ thống đường xá nối liền hai nước, giống như Liên Xô đã làm cho TQ năm
1945-46. Lịch sử được lập lại ở VN: Nhờ số quân viện khổng lồ của TQ đổ
sang, gồm cả vũ khí và cố vấn người TQ, VN đã lao vào một cuộc chiến
tranh trong 25 năm với Pháp và sau đó là Mỹ. Dưới sự chỉ đạo của cố vấn
TQ, VN đã mở ra một cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo hơn cả chính TQ. Bất
chấp chống đối của dân chúng, Hồ đã nhắm mắt cho Mao biến VN thành một
con rối của TQ.
Tháng 10 năm
1950 Mao nhảy vào một mặt trận thứ hai: Triều Tiên. Sau thế chiến thứ
hai, Triều Tiên chia đôi: miền bắc thuộc phe cộng sản, do Kim Nhật Thành
lãnh đạo, miền nam thuộc phe tự do, do Phác Chánh Hy làm tổng thống.
Tháng 3 năm 1948 Kim viếng thăm Liên Xô và đề nghị Liên Xô giúp Kim
thống nhất đất nước. Stalin không đồng ý vì e ngại sự can thiệp của Mỹ. Kim tìm tới Mao, và được Mao nồng nhiệt hứa hẹn sẽ giúp đỡ. Mao thuyết phục Stalin là
cuộc chiến Triều Tiên sẽ là đất cho Liên Xô thử các vũ khí mới của họ.
Sau nữa, với quân số hùng hậu của TQ gởi sang tham chiến Mao có khả năng
đánh bại quân Mỹ, và thế chiến lược giữa hai siêu cường vì thế sẽ có
thay đổi. Ngày 25 tháng 6 năm 1950 Bắc Hàn xua quân tràn qua vĩ tuyến 38
tấn công Nam Hàn. Liên Hiệp Quốc nhanh chóng thông qua một nghị quyết
sẽ gởi quân sang giúp Nam Hàn. Lý do Liên Xô không phủ quyết chuyện này
vì Liên Xô muốn Mỹ đọ sức với TQ ở chiến trường này. Ai thắng ai thua
Liên Xô đều có lợi.
Ðầu tháng
8 năm 1950 Bắc Hàn đã chiếm được 90% Nam Hàn. Ngày 15 tháng 9 Mỹ bắt
đầu đổ quân vào Nam Hàn và đẩy quân Bắc Hàn trở lui. Ngày 29 tháng 9 Kim
điện cầu cứu Stalin cho phép Mao gởi Chí nguyện quân. Ngày 1 tháng 10 Stalin bật
đèn xanh cho Mao gởi quân. Mao nhảy dựng mừng vui, ra lệnh cho quân đội
đang đóng ở biên giới với Triều Tiên: hãy sẵn sàng. Tại cuộc họp Bộ
chính trị, mọi người đều chống lấy lý do là: quân Mỹ hơn hẳn TQ về mặt
kỹ thuật, chưa kể Mỹ còn có bom nguyên tử, nhưng dưới sự lãnh đạo của
Mao, bộ chính trị không còn khả năng chống đối ý của Mao nữa.
Ngày 2 tháng 10 Mao đánh điện cho Stalin là
quân TQ chưa sẵn sàng. “Chúng tôi còn đang bàn thảo”. Thực ra Mao đã
sẵn sàng mọi thứ, Bành Ðức Hoài đã được cử làm tư lệnh chiến trường,
nhưng Mao đang muốn mặc cả với Liên Xô.
Ngày 5 tháng 10 Stalin đánh điện: “Còn chờ gì nữa”.
Ngày 8 tháng 10 Mao gởi Lâm Bưu và Chu Ân Lai sang Moscow thương lượng với Stalin về
quân dụng. Lý do Lâm Bưu được chọn vì Lâm Bưu chống cuộc chiến này từ
đầu. Mao đánh giá là nếu mình càng làm eo thì sẽ càng có thêm nhiều quân
dụng tốt. Không ngờ Stalin đã
biết tẩy của Mao, ông cho biết là mọi thứ đã sẵn sàng như đề nghị ban
đầu của Mao chỉ trừ một đon vị 124 chiếc máy bay chiến đấu để bảo vệ
trên không cho quân TQ. Stalin cũng
cho hai người biết là TQ không cần phải tham chiến nếu không muốn. Chu
và Lâm điện về TQ tham khảo Mao thì được Mao cho hay: Chúng ta vẫn cứ
tham chiến, dù có hay không có bảo vệ trên không.
Chương 35
Chỉ sau 2 tháng tham chiến, quân TQ đã đẩy bật
quân Liên hiệp quốc ra khỏi Bắc Hàn và lập lại chế độKim Nhật Thành.
Bành Ðức Hoài làm tư lệnh liên quân TQ-Triều Tiên, Kim chỉ là bù nhìn,
vì quân Bắc Hàn chỉ có 75 ngàn người so với 450 ngàn quân TQ.
Bành
Ðức Hoài muốn ngừng lại ở vĩ tuyến 38 như cũ, nhưng Mao ra lệnh phải
tiếp tục tiến về Nam. Ðầu tháng 1 năm 1951, thủ đô Hán thành sụp đổ.
Ngày 25 tháng 1, quân đội Mỹ bắt đầu phản công. Quân TQ thiệt hại vô kể
bởi chiến thuật biển người của họ. Bành bay về TQ gặp Mao, và được biết
kế hoạch của Mao là “Chúng ta sẽ đánh thắng Mỹ bằng nguồn nhân lực dồi
dào của ta. Ðừng nóng lòng thắng liền, mỗi đợt đưa 300 ngàn quân sang,
chết hết lại đưa tiếp.”
Tháng giêng
năm 1952, cuộc chiến kéo dài đã cả năm, Kim yêu cầu Mao chấp nhận đàm
phán, nhưng Mao chống đối. Mao muốn dùng cuộc chiến Triều Tiên để đòi
hỏi Stalin xây dựng nhà máy chế vũ khí cho TQ. Mặc dù muốn TQ đánh Mỹ thay mình, Stalin không muốn giúp TQ thành một cường quốc về quân sự nên Stalin từ chối, nhưng sau nhiều đòi hỏi cuối cùng Stalin đồng ý cất cho TQ vài nhà máy chế súng cỡ nhỏ. Mao không hài lòng.
Tháng
8 năm 1952 quân Mỹ tổn thất khoảng 37 ngàn người ở chiến trường Triều
Tiên. Con số này quá khiêm nhường so với tổn thất của TQ, nhưng sự ủng
hộ của dân chúng Mỹ về sự tham chiến của Mỹ đã tụt xuống chỉ còn 33%.
Nước Mỹ dân chủ không thể nào đương đầu với nước TQ độc tài về chuyện
đếm xác chết. Chu Ân Lai lại được phái sang Liên Xô, lần này ông mang
theo một lý lẽ vững chắc: TQ cuối cùng đã thắng Mỹ. Do đó, ông xin Liên
Xô giúp cho 2 chuyện: “TQ cần được trang bị vũ khí tốt hơn, hiện đại
hơn, nhất là về mặt không và hải quân” và “TQ phải là đầu tàu của phong
trào cộng sản ở Á châu”. Stalin vẫn bác bỏ yêu cầu đầu mà chỉ chấp thuận yêu cầu sau: TQ được phép thành lập và ủng hộ các mầm cộng sản ở các nước Á châu.
Một mặt khác, Stalin cũng
biết ý đồ của Mao muốn cạnh tranh với mình nên đã nhiều lần bày tỏ một
thái độ thân thiện khác thường với Bành Ðức Hoài và Lưu Thiếu Kỳ. Trong
lần Bành Ðức Hoài và Chu Ân Lai công du Liên Xô, Stalin kéo
Bành ra nói chuyện riêng, làm Chu rất tức giận. Một lần khác Lưu Thiếu
Kỳ viếng thăm Liên Xô được báo Pravda gọi Lưu là Tổng bí thư DCSTQ. Lưu
phải đính chính là ở TQ chỉ có Chủ tịch Mao Trạch Ðông mà thôi. Stalin muốn hai người này lật đổ Mao, nhưng cả hai đều không dám làm chuyện đó.
Ngày 5 tháng 3 năm 1953 Stalin chết.
Mao được cho biết nếu sớm giải quyết cuộc chiến ở Triều Tiên thì Liên
Xô sẽ cứu xét xây dựng nhà máy chế tạo vũ khí nặng cho TQ, nhưng lúc đó
Mao đang mong muốn có bom nguyên tử nên từ chối đề nghị này của Liên Xô.
Thêm nữa, để gây căm phẫn Mao còn tố cáo là quân đội Mỹ xử dụng vũ khí
hoá học. Sau này dưới áp lực của Liên Xô, Mao phải rút lại lời tố cáo
này và chấp nhận ngừng chiến.
Ngày
27 tháng 7 năm 1953 hiệp định ngưng bắn diễn ra. TQ gởi sang Triều Tiên
3 triệu lính, theo ước tính của Liên Xô, TQ tổn thất khoảng 1 triệu
quân. Ðặng Tiểu Bình cho rằng TQ tổn thất khoảng 400 ngàn.
Trong số người chết có con trai của Mao, Mao
An-ying. Vợ An-ying là Siqi (Tư Tề), “con nuôi” không chính thức của
Mao. Khi An-ying báo cho Mao biết là An-ying muốn lấy Siqi, Mao lồng lên
tức giận la hét tới độ An-ying té xiủ. Sự tức giận này có lẽ vì Mao
“nuôi” Siqi cho mình hưởng, không ngờ bị con trai mình chiếm lấy.
Khi cuộc chiến kết thúc, 2 phần 3 trong số 20 ngàn tù binh TQ chọn xin tỵ nạn ở Ðài loan. Những người
chọn quay trở về TQ bị Mao gọi là phản quốc vì đã đầu hàng kẻ địch và
bị trừng phạt. Một chuyện ít người biết nữa là Bắc Hàn còn giữ 60 ngàn
tù binh Nam Hàn, và đã không giao trả, theo lời xúi bẩy của Mao. Những kẻ bất hạnh này bị giam giữ ở những xó kẹt hẻo lánh ở Bắc Hàn cho tới chết.
---------
1. Bạn đọc Feng Nguyễn giúp
phần phiên âm Việt ngữ các nhân danh và địa danh từ tiếng Trung Quốc và
thông này: Mao Anqing hay Mao Ngạn Thanh và Ngạn Anh là con của Mao với
bà Dương Khai Tuệ. Ngoài ra Mao còn có 1 con gái tên Lý Mẫn với bà Hạ Tử
Trân và 1 người con gái khác tên Lý Nạp với Giang Thanh. Mao Ngạn
Thanh, Lý Mẫn và Lý Nạp hiện nay vẫn còn sống.
Jung Chang, Jon Halliday
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Chương 36-39
Chương 36
Với
91 công trình sản xuất vũ khí nặng được Liên Xô chấp thuận xây cất lần
này, Mao hăng hái đưa ra một kế hoạch biến TQ thành một cường quốc quân
sự trong vòng 15 năm. Kế hoạch ngũ niên 1953–57 sử dụng 61% ngân sách để
xây dựng ước mơ này của Mao (trong khi giáo dục, văn hoá và y tế chỉ
được 8%). Dân chúng bị đảng dối gạt là những công trình này do Liên Xô
trợ cấp trong khi thực ra nó nằm trong chương trình trao đổi giữa hai
nước: TQ đổi thực phẩm lấy viện trợ quân sự. Mao xuất cảng cả gạo, vốn
là thứ mà TQ luôn phải nhập cảng, mặc kệ dân chúng chết đói. Mao là tác
giả câu nói bất hủ: “Nếu chỉ còn lá cây mà ăn thì cứ để chúng ăn lá cây”.
Mao
cũng không quên ước mơ được dẫn đầu khối cộng sản, nên ngoài chương
trình xuất cảng thực phẩm đổi lấy viện trợ quân sự, Mao còn viện trợ và
cho vay không điều kiện cho một số quốc gia khác, như Bắc Việt, Bắc Hàn
và thậm chí ngay cả Ðông Ðức khi xảy ra cuộc nổi loạn giữa dân chúng và
chính quyền tháng 6 năm 1953. Bức tường Bá Linh được xây nên theo ý kiến
của Mao, khi Tổng Bí thư đảng Cộng sản Ðông Ðức thăm xã giao TQ năm
1956.
Người chống đối chương trình trao
đổi thực phẩm lấy viện trợ quân sự mạnh nhất là Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật
thứ hai sau Mao ở TQ. Theo Lưu, mức sống người dân phải được đặt trên ý
đồ bánh trướng quân sự. Vì đang còn cần Lưu, Mao cho thanh trừng Cao
Cương (Gao Gang), bí thư Mãn châu, với tội danh là âm mưu chia rẽ cán bộ
đảng. Gao là người ủng hộ chương trình trao đổi thực phẩm lấy viện trợ
của Mao 100%. Khi biết tin Stalin sắp chết, Mao lập tức công bố những
dấu hiệu cho thấy Lưu sắp bị thanh trừng: Không cho Lưu đi theo Mao
trong những lần công du, đòi hỏi Lưu phải đưa cho Mao coi xét mọi công
văn trước khi phổ biến, tố cáo Lưu (dù không nêu đích danh) có những
hành động hữu khuynh, hạ bệ những cộng sự viên thân tín của Lưu. Lưu e
sợ sẽ tới phiên mình bị thanh trừng. Bỗng nhiên, ngày 24 tháng 12 năm
1953, Mao chỉ định Lưu sẽ thay mình làm chủ tịch nước để ông được nghỉ
đi chơi một thời gian, có nghiã là Lưu vẫn được tín nhiệm. Từ đó Lưu
không dám chống đối Mao nữa.
Chuyến đi chơi của Mao đem tới một lạc thú cho Mao: gái đẹp. Bất cứ nơi nào Mao đặt chân tới các cán bộ điạ phương phải sẵn sàng gái tơ, đẹp và còn trinh dâng cho Mao.
Chương 37
Ðể
có đủ thực phẩm trao đổi Mao hô hào cán bộ phải xiết chặt hầu bao người
dân hơn nữa. Từ tiêu chuẩn 200 kg gạo mỗi người một năm, Mao rút xuống
còn 140 kg, có nơi chỉ còn 110 kg. Có nơi cán bộ xông vào nhà dân, trói
chủ nhà, lục xét đồ đạc để tìm kiếm thực phẩm. Nhiều người tự tử. Có
người làm đơn khiếu nại gởi Mao, cứ tưởng là cấp dưới làm sai, chứ không
biết đây hoàn toàn là kế hoạch của Mao. Mao vận động nông dân tham gia
hợp tác xã để cho cán bộ đảng dễ dàng kiểm soát. Một chiến dịch thanh
trừng khổng lồ được Mao dựng ra với chỉ tiêu: “5% phản động”. Chiến dịch
lan rộng đến mọi lãnh vực: phim ảnh bị cấm đoán, các tác phẩm văn nghệ
được viết bởi các tác giả không cộng sản bị phê phán, các tác giả còn
sống ở TQ bị trù dập. Một nhà văn nổi tiếng của TQ là Hồ Phong bị công
kích công khai trên báo chí và bị bỏ tù. Mục đích của Mao là tạo khủng
bố để mọi người không ai còn dám có ý kiến khác, và như thế, chỉ lo làm
ăn, tạo ra thực phẩm cho Mao thu góp. Mao phác hoạ chiến lược của Mao
cho nhóm đầu não của mình vào đầu năm 1956 như sau:
“Nửa
năm đầu 1955 chỉ toàn đen tối: Ði đến đâu cũng nghe chửi. Dân chúng
chửi chúng ta vì lấy đi một ít gạo của họ. Nửa năm sau, không còn ai
chửi nữa. Ai cũng lo làm lụng. Kết quả là một mùa gặt hái thắng lợi. Sau
mùa gặt đó chúng ta lại phải tổ chức chống phản động nếu muốn có thêm
một mùa gặt thắng lợi nữa.”
Chúng ta chắc
còn nhớ năm 1953 Mao phải gác chuyện đòi hỏi Liên Xô giúp chế tạo bom
nguyên tử. Tháng 7 năm 1954 Mao cử Chu Ân Lai sang Moscow thông báo cho
Liên Xô hay là Mao sắp tấn công “giải phóng” Ðài loan. Ngày 3 tháng 9
Mao cho nổ súng thị uy vào đảo Kim Môn (Quemoy), đảo này chỉ cách Ðài
loan vài cây số. Ngày 1 tháng 10 nhân ngày quốc khánh TQ, một phái đòan
hùng hậu do Khrushchev dẫn đầu sang thăm TQ. Mao xin Khrushchev giúp chế
tạo bom nguyên tử, nhưng vẫn bị từ chối. Sau khi Khrushchev về, Mao gia
tăng thả bom và bắn súng vào những hòn đảo quanh Ðài loan. Tổng thống
Mỹ Eisenhower phản ứng bằng một hiệp định phòng thủ với Ðài loan. Mao
vẫn tiếp tục tấn công, và còn làm như sắp đổ bộ. Eisenhower đe doạ sẽ
dùng bom nguyên tử nếu TQ không dừng lại. Ðây là điều Mao mong muốn: TQ
có thể sẽ lâm vào một cuộc chiến tranh nguyên tử với Mỹ. Dĩ nhiên không
muốn một cuộc chiến tranh nguyên tử xảy ra ở Liên Xô, Khrushchev nhận
lời viện trợ kỹ thuật cho TQ chế bom nguyên tử.
Chương 38
Chỉ vài tháng sau khi chiến dịch hạ bệ Stalin
do Khrushchev đưa ra thì ở Ðông Âu một loạt các cuộc nổi loạn xảy ra.
Thoạt đầu là Ba Lan, sau đó lây lan sang Hung và Nam Tư. Mao đánh giá
đây là cơ hội để giành vị trí lãnh đạo với Liên Xô, nên thoạt đầu ông
dứt khoát chống Liên Xô gởi quân sang dẹp loạn, thế nhưng sau những cuộc
đi đêm bất thành với các lãnh tụ Ðông Âu tìm kiếm sự ủng hộ cho một
kiểu mẫu TQ ở Ðông Âu, Mao quay sang ủng hộ Liên Xô đưa quân sang dẹp
loạn. Mao thất vọng khi các lãnh tụ cộng sản Ðông Âu đều bày tỏ lòng
khao khát cho người dân của họ có thêm tự do, chứ không phải thêm độc
tài kiểu Stalin và thêm nghèo đói.
Mao
cũng ve vãn Ai Cập trong vụ kinh đào Suez bằng cách tổ chức những cuộc
biểu tình ủng hộ Ai Cập lên tới cả trăm ngàn người. Mao gởi ngay cho
Nasser 20 triệu đồng tiền Pháp, không cần trả, và hứa hẹn với Nasser sẽ
gởi 250 ngàn chí nguyện quân sang đánh nhau với Do Thái, nếu Nasser
muốn. Nhưng Nasser không cần người, ông chỉ cần vũ khí hiện đại là thứ
mà Mao chưa có.
Khi nhận tin Liên Xô mời
tham dự cuộc họp thượng đỉnh khối cộng sản ngày 7 tháng 11 năm 1957, Mao
đặt điều kiện: giúp Mao xây dựng chế bom nguyên tử và hoả tiễn. Ba tuần
trước khi họp thượng đỉnh, Liên Xô ký với TQ một hiệp định giúp Mao xây
lò nguyên tử.
Tại phiên họp thượng đỉnh
Mao không che dấu dã tâm muốn lật đổ Khrushchev giành ghế lãnh đạo khối
cộng sản, và ông cũng biết Khurshchev không thể công khai chống đối ông
vì Khrushchev muốn bảo vệ sự thống nhất trong khối cộng sản.
Sau
phiên họp Mao yêu cầu Liên Xô giúp xây dựng tàu ngầm và lại bị từ chối.
Mao lại áp dụng bài bản cũ: tấn công đảo Quemoy. Lại một lần nữa
Washington đánh giá là Mao muốn chiếm Ðài loan. Không ai nghĩ ra mục
đích tối hậu của Mao: dụ
cho Mỹ hăm dọa sẽ trả đũa bằng bom nguyên tử, để dùng đó làm bàn đạp
thương thuyết với đồng minh Liên Xô. Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Ngoại
Trưởng Mỹ John Dulles tuyên bố Mỹ sẽ bảo vệ Ðài loan và Quemoy bằng mọi
giá, nếu cần sẽ thả bom ở TQ. Khrushchev tuyên bố: “tấn công vào TQ là
tấn công vào Liên Xô”, và bí mật phái ngoại trưởng Gromyko sang TQ gặp
Mao. Ông này bị Mao dụ dỗ: hãy giúp chúng tôi xây dựng tàu ngầm, chúng
tôi sẽ chiến đấu chống Mỹ trên đất chúng tôi. Khrushchev đồng ý.
Dĩ nhiên để có tiền đầu tư vào những công trình quân sự tốn kém này, Mao càng cần phải xiết chặt người dân TQ thêm.
Chương 39
Phương
thuốc “khủng bố trước công tác sau” của Mao đã chứng tỏ hết sức hiệu
nghiệm. Thế nhưng sau khi thế giới phương tây đồng loạt lên án xe tăng
Liên Xô tàn sát dân lành ở Ðông Âu, Mao phải thay đổi chiến lược.
Ngày
27 tháng 2 năm 1957 trong một bài nói chuyện trước Quốc hội dài 4 tiếng
đồng hồ, Mao phát động phong trào trăm hoa đua nở, kêu gọi dân chúng,
nhất là các nhà trí thức, hãy thẳng thắn phê bình đảng. Rất ít người
được biết cái bẫy này của Mao, kể cả thành phần trong Trung ương đảng.
Một
phong trào chống đảng cộng sản rầm rộ nổ ra khắp nước. Một trong những
sự chống đối đầu tiên là sự độc quyền lãnh đạo của đảng, mà có người gọi
là “nguồn gốc của mọi tội lỗi”. Chế độ cộng sản bị người ta so sánh với
Hitler, bản hiến pháp của TQ bị coi là giấy đi cầu. Ðâu đâu cũng kêu
gọi dân chủ.
Ngày 6 tháng 6 năm 1957 Mao đặt vấn đề có sự
rạn nứt trong nội bộ Trung ương đảng và kêu gọi dân chúng đứng sau lưng
ông chống lại thành phần bảo thủ trong đảng. Mao làm ra vẻ mình là người
cấp tiến, nhưng lại bí mật ban lệnh cho quân đội và đảng bắt và thủ
tiêu cho được những kẻ “hữu khuynh” trong giới trí thức. Ðể đạt chỉ tiêu
do Mao đề ra, rất nhiều người bị chết oan. Cuộc thanh trừng kéo dài một
năm, với khoảng nửa triệu người bị giết. Mục đích tối hậu là để xiết
bụng người dân cho có đủ tiền theo đuổi kế hoạch bành trướng quân sự của
Mao.
Ngay cả Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai
cũng bị Mao sỉ nhục trước mặt thuộc cấp của họ vì đã nhiều lần ngăn cản
và làm chậm trể kế hoạch phát triển quân sự của Mao. Những cán bộ cấp
thấp này được Mao xúi giục đấu tố thượng cấp của mình. Chu bị bắt phải
viết và đọc tờ kiểm điểm xác nhận mình xém chút đi vào đường hữu khuynh
trước 1360 đại biểu tại đại hội đảng tháng 5 năm 1958. Cũng tại đại hội
này Mao lập Lâm Bưu lên làm Phó Chủ tịch, cùng với Lưu, Chu, Chu Ðức và
Trần Vân. Mao cũng thừa cơ hội đẩy mạnh phong trào sùng bái Mao lên thêm
một tầng nữa: Mọi người phải tuyệt đối tuân lệnh Mao. Bất cứ nơi nào
Mao đi tới phải có chục ngàn, nếu không trăm ngàn, người hô hào “Mao Chủ
tịch muôn năm”. Lời nói của Mao là mệnh lệnh, phải được tuân theo một
cách mù quáng.
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Chương 40-45
Chương 40
Khi
Mao đã hoàn toàn đập nát mọi ý đồ chống Mao từ trong đảng cũng như của
giới trí thức, Mao hãnh diện tuyên bố là kế hoạch kỹ nghệ hoá Trung Quốc
(TQ), đưa TQ lên hàng siêu cường có thể được rút ngắn lại, thay vì 15
năm, nó có thể thành công trong 8 năm, 7 năm, hoặc 5 năm, mà cũng có thể
chỉ 3 năm. Vì thế tháng 5 năm 1958 Mao phát động phong trào “Bước tiến
nhảy vọt”.
Dân TQ được Mao cho biết là
“bước tiến nhảy vọt” này sẽ đưa TQ qua mặt các cường quốc kinh tế tư bản
trong một thời gian ngắn. Mao không che giấu ý đồ muốn thôn tính toàn
thế giới. Người dân TQ vì thế bị động viên làm việc ngày đêm cho mau đạt
được mục đích này. Bộ máy tuyên truyền của Mao không ngớt rầm rộ đưa
tin là hợp tác xã Sputnik ở tỉnh Henan trồng được 1,8 tấn thóc mỗi sào
đất (bằng 1/6 mẫu), gấp 10 lần các nơi khác. Ðây là một con số khó tin.
Ngày 4 tháng 8 Mao công khai tuyên bố đã đến lúc TQ phải nghĩ đến cách
giải quyết số gạo dư thừa. Ðây là một chuyện khó tin thứ hai, vì chỉ mới
6 tháng trước TQ còn bị thiếu gạo. Tháng 9 tờ Nhân Dân nhật báo đưa tin
Quảng tây gặt được 70 tấn thóc trên một mảnh đất nhỏ bằng 1/5 mẫu. Tất
cả những tuyên truyền láo khoét này chỉ nhằm một mục đích là thúc đẩy
dân TQ cật lực làm việc, và cho cán bộ đảng tha hồ vơ vét và bóc lột.
Thừa biết là dân TQ không có gạo mà ăn, nhưng Mao vẫn kiên trì tuyên
truyền bắt cán bộ đảng phải đi tra xét và lục lọi nhà dân cố tìm cho ra
chỗ giấu gạo để tịch thu và trừng phạt họ.
Mao là tác giả của nhiều công trình hoang
tưởng: Trong 4 năm từ 1958 hàng trăm triệu dân công bị khai thác làm
đập, hồ chứa nước và kênh đào, mà dụng cụ chỉ là đồ cá nhân như búa, dùi
và xẻng. Dân công không những phải dùng dụng cụ của mình mà còn phải
mang theo thức ăn, có nơi còn phải tự cất lều lấy mà ở. Dĩ nhiên tai nạn
không tránh khỏi. Công trình càng lớn, số người chết càng nhiều. Công
trình xây đập ở Hà Nam (Henan) chẳng hạn, vừa xây xong thì vỡ làm chết
85 600 người (con số chính thức). Rất nhiều công trình phải bỏ dở vì lý
do không thực tế. (Dịch tới đây người dịch không khỏi không liên tưởng
tới những chuyện xảy ra ở Việt Nam (VN) sau 1975, tôi tự hỏi tại sao
những người cộng sản (CS) VN vẫn còn hoang tưởng về chủ nghiã CS. Thử
hỏi bao nhiêu người dân phải chết oan ức vì chế độ kinh tế mới? Bao
nhiêu tài sản quốc gia bị tàn phá qua những kế hoạch hoang tưởng kiểu
xây nhà máy làm gạch trong rừng ở tỉnh Thái Bình để rồi nhà máy xây
xong, gạch làm xong mà không chuyển ra ngoài được vì không có kế hoạch
làm đường? Gần đây là nhà máy lọc dầu Dung Quất, tốn gần 3 tỷ đồng xây
xong thì để đó ngó chơi).
Mao cũng là tác
giả của một kế hoạch điên khùng: xua đuổi chim két ra khỏi TQ vì chim ăn
thóc. Toàn dân TQ bị trưng dụng ra đồng với gậy gộc và liên tục la ó ồn
ào để chim không dám đậu xuống, rồi khi mệt quá thì sẽ rớt xuống và bị
bắt bởi đám đông. Sau này khi biết rằng chim két ăn thóc nhưng cũng ăn
một số sâu bọ nguy hại cho mùa màng, Mao đánh điện cho Toà đại sứ Liên
Xô ở Bắc kinh: “Tối mật: Xin gởi ngay cho 200 ngàn chim két”.
Một
thất bại to lớn nữa đã hủy diệt hết năng lực của dân TQ là kế hoạch làm
thép. Ðể qua mặt Anh quốc trong vòng 3 năm theo ý muốn của Mao, Mao hỏi
ông bộ trưởng năng lực: “Chúng ta sản xuất 5 triệu tấn thép năm vừa
rồi, chúng ta có khả năng tăng lên gấp đôi năm nay không?”. Dĩ nhiên nói
không là chết, ngài bộ trưởng hăng hái gật đầu: “Dạ, có ngay”. Thế là
thành chỉ tiêu của Mao cho năm 1958. Các nhà máy làm thép phải hoạt động
24 trên 24 cho tới lúc máy móc hư hỏng mà vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn,
Mao liền ra lệnh cho mọi nhà đều phải làm thép: dân chúng phải tình
nguyện đem các vật dụng trong nhà bằng thép ra nộp cho các lò nấu được
xây dựng sơ sài sau vườn, hàng chục triệu người phải bỏ công việc để đi
nấu thép. Kết quả là 6 triệu tấn thép được sản xuất từ những nhà máy
thép vườn mà không xử dụng gì được. Một sự lãng phí nhân lực và vật lực
khủng khiếp.
Trong số 1,639 công trình
quân sự nặng chỉ có 28 công trình hoàn thành. Lần đầu tiên trong lịch sử
lòai người TQ đã sản xuất được máy bay mà không cất cánh được, xe tăng
không chạy đường thẳng (phanh) được, tàu chiến bị chìm trước khi có thể
nổ súng. Mao đem tặng Hồ Chí Minh một chiếc trực thăng mà xưởng sản xuất
chỉ dám chở tới biên giới rồi bỏ đó.
Trong
phong trào “bước tiến nhảy vọt” Mao cũng cho thành lập rất nhiều công
xã mà mục đích chính là để kiểm soát đời tư của người dân. Dân chúng
phải sống theo giờ giấc quy định của cán bộ đảng. Ở Henan và một số thí
điểm khác, Mao còn phát cho mỗi người một con số và người dân phải mặc
áo với con số này trên lưng.
Mao không
ngần ngại phá hủy đền chùa, di tích để xây công xưởng. Ở Bắc kinh có 8
ngàn di tích, Mao chỉ muốn để lại 78 cái. Nhiều bức tường cổ kính bị phá
hủy, một hồ nước bị lấp, nhưng rất may là lệnh của Mao đã không được
thực hiện tới nơi.
Sau 4 năm thực hiện
“bước tiến nhảy vọt”, Lưu Thiếu Kỳ ước tính có tới 38 triệu người chết
đói. Thế nhưng TQ đã xuất cảng 7 triệu tấn gạo chỉ trong hai năm 1958-9.
Mao ban lệnh cho trồng rau cải trên mộ người chết, vì “người chêt cũng
có lợi: xác họ làm thành phân bón”. Người dân không được khóc than cho
kẻ chết. Mao chẳng đã từng nói “Chúng ta sẵn sàng hy sinh 300 triệu dân
TQ (một nửa dân số) để hoàn thành chủ nghiã Cộng sản” đó sao.
Chương 41
Chỉ có một người duy nhất trong Bộ Chính trị
đảng CSTQ dám chống lại Mao trong phong trào “Bước tiến nhảy vọt” là
Bành Ðức Hoài. Ngay từ năm 1930 Bành đã từng phê phán các đối xử dã man
của Mao với các cấp dưới quyền, ông cũng đã thách thức Mao trong vị thế
lãnh đạo quân đội trong cuộc “Trường chinh”. Năm 1950 ông chống Mao khi
Mao xây dinh thự khắp nơi và tuyển gái đẹp phục vụ Mao. Thế nhưng khi
cuộc chiến ở Triều Tiên xảy ra, ông lại là một tay sai đắc lực của Mao
khi được giao quyền Tổng tư lệnh quân đội liên quân.
Khi
“bước tiến nhảy vọt” được phát động, Bành cùng với khoảng 1400 sĩ quan
cao cấp bị Mao bắt phải phê và tự phê liên tục đến độ Bành xin từ chức,
nhưng Mao không cho. Mao lại phong Lâm Bưu làm Phó Chủ tịch, đặt Lâm Bưu
lên trên Bành.
Bành biết mình không có
cách gì ngăn chặn Mao thực hiện bước tiến nhảy vọt nên ông xin đi tham
quan Ðông Âu. Ở Ðông Ðức Tổng bí thư đảng CSÐ Ðức Ulbricht cho ông hay
là Ðông Ðức đã không còn phải ăn theo khẩu phần nữa, nhờ vào số thực
phẩm nhập từ TQ, và ông xin Bành hãy báo lại với Mao cho tăng thêm số
thịt xuất khẩu sang Ðông Ðức. Bành ngậm ngùi tiết lộ là những báo cáo về
thành công nông nghiệp gần đây của TQ chỉ là báo cáo láo, và TQ đang có
nguy cơ chết đói, nhưng những lời nói này không dao động Ulbricht. Các
nơi khác Bành đi tới đều chịu chung một số phận: không ai màng tới
chuyện TQ sắp bị chết đói. Chặng chót ở Albania, đột nhiên Bành được gặp
Khrushchev. Mặc dù không có thông dịch, chắc chắn Bành cũng đã có được
một sự hậu thuẫn nào đó từ Khrushchev.
Bành
trở về Bắc kinh ngày 13 tháng 6 năm 1959, và mệnh lệnh đầu tiên của ông
cho bí thư trưởng quân đội của ông Huang Kecheng là di chuyển một số
quân đội để “chuyển gạo tới cứu đói”. Vì mọi cuộc chuyển quân đều phải
có sự đồng ý của Mao, nên âm mưu này của Bành bị chận lại. Bành không hề
hay rằng mọi hành động của ông ở Ðông Âu đều được theo dõi và báo cáo
cho Mao.
Mao cho triệu tập một cuộc họp
cấp lãnh đạo tại Lư Sơn (Lushan) ngày 2 tháng 7. Ðây là một trung tâm du
lịch do Tây phương xây dựng từ đầu thế kỷ 19. Dưới thời Mao nó được tu
sửa lại thành một pháo đài, cư dân quanh vùng bị ép phải bỏ đi để bảo
đảm an toàn 100% khi Mao cần tới đây nghỉ mát. Bành muốn nhân cơ hội này
tố cáo Mao báo cáo láo về số lượng sản xuất gạo của TQ, và buộc Mao
phải có trách nhiệm về kế hoạch chế tạo thép tại gia. Bành cũng âm mưu
liên kết với Lạc Phủ để lật Mao nhưng Lạc Phủ từ chối. Bành hoàn toàn
không biết là tất cả thành viên trong phiên họp đều một lòng theo Mao.
Kẻ tấn công Bành dữ dội nhất là Lâm Bưu.
Kết
quả phiên họp: Bành và bí thư trưởng Hoàng Khắc Thành (Huang Kecheng)
bị buộc tội chống đảng. Bành bị giam tại gia trong khi thuộc hạ của ông
bị những cách trừng phạt khác nhau.
Sau
khi thành công thanh trừng Bành, Lâm Bưu càng xiểm nịnh Mao thêm. Ông
cho in một quyển sách nhỏ những lời nói chuyện của Mao và phân phát cho
binh sĩ bắt học thuộc lòng.
Quyển sách nhỏ này sau này được in phát khắp nước, trở thành một cuốn sách tùy thân cho mọi người dân TQ.
Chương 42
Mao
quyết định chiếm Tây Tạng từ năm 1950, khi mới chiếm được TQ. Thế nhưng
vì Tây tạng nằm trên núi cao, không thuận tiện cho xe cộ nên Mao phải
hòa hoãn trước. Ông thừa nhận vai trò của đức Ðạt Lai Lạt Ma, và hứa hẹn
cho Tây Tạng được quyền tự trị, trong khi đó ông cho xây hai con đường
dẫn đến Tây Tạng.
Ðầu năm 1956 khi hai con
đường này hoàn tất, Mao tấn công Kham, một vùng kế cận với Tây tạng và
gặp sự chống đối quyết liệt. Quân chống đối lên tới 60 ngàn người, phần
đông là người Tây tạng. Mao biết rằng đây là bài học cho Mao khi chiếm
đóng Tây tạng, nên ông ban lệnh ngừng chiến tháng 9 năm đó.
Năm
1958 Mao ban lệnh gia tăng số thực phẩm thu mua, sự chống đối lan rộng
khắp nước Tây tạng. Mao ra lệnh cho quân đội đàn áp. Mao viết: “Bọn nổi
loạn càng nổ lớn, càng cho ta một lý do chính đáng chiếm đóng Tây tạng”
Ngày
10 tháng 3 năm 1959 phản ứng trước tin đồn Mao dự trù bắt cóc đức Ðạt
Lai Lạt Ma, một cuộc biểu tình nổ lớn ở thủ đô Lhasa. Dân chúng bao vây
kín dinh thự đức Lạt ma, để bảo vệ ngài. Ngày 17, sau nhiều thuyết phục
đức Lạt ma đồng ý bí mật rời bỏ Lhasa và sang tỵ nạn ở Ấn độ sau 15 ngày
đi bộ, phần lớn đi ban đêm dưới thời tiết khắc nghiệt để tránh tai mắt
lính TQ. Không hay biết là đức Lạt ma đã trốn thoát, đám đông vẫn bao
kín dinh thự ngài khi quân đội TQ khai hoả. Ứơc lượng có tới 87 ngàn
người Tây tạng bị giết chết, bắt bớ và lưu đày đến các trại lao động
cưỡng bức. Ngày hôm sau TQ công bố một văn thư ký tên Chu Ân Lai là cuộc
nổi loạn ở Tây tạng đã bị dẹp yên, và chính phủ Tây tạng sẽ do Ban
Thiền Lạt Ma lãnh đạo, nhưng thực ra TQ đã chính thức chiếm đóng Tây
tạng cho tới ngày nay. (Lời Người Dịch: Ðoạn văn này không có trong sách
mà do tôi dịch từ tài liệu phân phát bởi văn phòng đức Ðạt Lai Lạt Ma)
Một
chính sách khắc nghiệt được Mao ban hành vì Mao cho rằng dân Tây tạng
“ngu dốt, dơ bẩn và vô dụng”. Mao cũng phàn nàn là ở Tây tạng có quá
nhiều sư sãi, thiếu người lao động, vì thế Mao ban lệnh đóng cửa tu
viện, bắt sư sãi hoàn tục. Trước đó Tây Tạng có 2500 tu viện, tới năm
1961 chỉ còn 70 cái. Mao đóng thuế và thu mua thực phẩm tới mức dân Tây
tạng không còn gì để sống. Ngay cả dầu để đốt đèn cũng không có. Người
dân Tây tạng chết như rạ, nhiều khi cái chết đến dễ dàng chỉ vì một cơn
cảm cúm. người bị chết sau 3 ngày
Chương 43
Tháng
9 năm 1958 một hỏa tiễn của Mỹ bắn đi từ Ðài loan rớt xuống TQ không
phát nổ. Khrushchev yêu cầu TQ cho người Nga khám xét hỏa tiễn này. TQ
trả lời là họ không tìm được nó. Khrushchev đe doạ sẽ ngưng công trình
làm hoả tiễn R-12, chiếc hoả tiễn được tìm thấy ngay, thế nhưng hệ thống
hướng dẫn hoả tiễn bay đã bị tháo mất. Ðánh giá là TQ chỉ muốn lợi dụng
Liên xô giúp họ chế vũ khí nặng để thống trị thế giới, đích thân
Khrushchev ra lệnh làm chậm lại tiến trình chế bom nguyên tử, và ngày 20
tháng 6 năm 1959 thì ngừng hẳn. (Nhưng khi đó TQ đã học và có được phần
cơ bản của bom).
Tháng 9 năm đó
Khrushchev qua thăm Mỹ. Khrushchev đánh giá là có thể chung sống hoà
bình với phương tây. Mao lại đánh giá sách lược mới của Liên xô sẽ là
một cơ hội cho TQ lãnh đạo khối Cộng sản, thay Liên xô, trong 8 năm. Ông
ban lệnh tiếp tục vắt sữa Liên xô mà đừng cho họ biết ý đồ của mình,
trong khi đó phải tuyên truyền chủ nghiã Mao-ít làm khuôn mẫu cho các
quốc gia khác.
Ðể truyền bá chủ nghiã
Mao-ít Mao phải bưng bít sự thật là dân TQ đang chết đói. Chỉ có cán bộ
ngoại giao TQ mới được xuất ngoại. Khi được hỏi bởi lãnh tụ cánh tả Pháp
Francois Mitterand (sau này thành tổng thống Pháp) là ở TQ có nạn đói
không. Mao lạnh lùng trả lời: “Tôi lập lại một lần nữa, hãy nghe cho rõ:
TQ không có nạn đói”. Mitterand tin thật. Ngay cả Pierre Trudeau (sau
này là thủ tướng Canada) cũng tin thật. Bản báo cáo của CIA Mỹ cũng viết
là “có 1 sự tăng triển rất đáng chú ý về hàng sản xuất của TQ). Con bài
Edgar Snow (cùng với hai văn sĩ khác là Han Suyin và Felix Greene) cũng
được xử dụng lại để đánh bóng chế độ.
Ðối
ngoại, Mao không ngần ngại xử dụng tiền bạc để mua chuộc các chính
quyền Cộng sản khác (như Cuba và Albania), cũng như để giúp thành lập
các phong trào cộng sản theo Mao ở các quốc gia khác. Sau này một cán bộ
tình báo CIA của Mỹ tiết lộ là ông ta khám phá ra một cách rất dễ dàng
để xâm nhập TQ là chỉ cần thành lập một đảng Mao-ít, thì ngay lập tức sẽ
nhận được viện trợ của Mao và sẽ được mời đi thăm TQ.
Một
cuộc hội nghị thượng đỉnh 4 nưóc Mỹ, Anh, Pháp và Nga được triệu tập,
dự trù tổ chức tại Paris ngày 16 tháng 5 năm 1960. Mao không được mời.
Mao tố cáo Liên xô đi theo chủ nghiã xét lại. (Thế nhưng chỉ hai tuần
trước ngày hội nghị, một chiếc máy bay do thám U-2 của Mỹ bị bắn rơi ở
Nga. Khi Tổng thống Mỹ Eisenhower từ chối xin lỗi, Khrushchev tuyên bố
không đi dự hội nghị và vì thế hội nghị tan vỡ.) Ðối lại, Khrushchev hủy
bỏ đồng loạt một số công trình lớn Liên xô đang xây dựng cho TQ, mà Mao
sau này đổ thừa là làm tê liệt nền kinh tế của TQ khiến gây ra nạn đói ở
TQ.
Tháng 10 năm 1962 Khrushchev bí mật
gài hoả tiễn có gắn đầu đạn nguyên tử ở Cuba. Khi đó Mao đang chuẩn bị
một cuộc chiến tranh biên giới với Ấn độ nên cả hai lại quay ra ủng hộ
nhau. Ngày 20 tháng 10 Mao hạ lệnh tấn công. Quân đội TQ tiến sâu vào
lãnh thổ Ấn tới 150 cây số, và sau khi chứng tỏ sức mạnh quân sự của
mình hơn Ấn độ, Mao cho triệt thoái quân về. Ngày 22 tháng 10 Tổng thống
Mỹ Kennedy công bố tối hậu thư đòi Khrushchev rút hoả tiễn về và hạ
lệnh phong toả bờ biển Cuba. Cả thế giới hồi hộp theo dõi hai cường quốc
nguyên tử. Ngày 28 tháng 10 Khrushchev ban lệnh rút hoả tiễn về sau khi
Kennedy đồng ý không xâm lăng Cuba. Tháng 7 năm 1963 Khrushchev ký hiệp
ước chống thử bom nguyên tử với Anh và Mỹ, nới rộng thêm sự rạn nứt
giữa hai quốc gia cộng sản. Mao gia tăng cuộc khẩu chiến: ông mạnh miệng
tố cáo Khrushchev là “đồ xét lại”.
Chương 44
Tháng
4 năm 1961 Lưu Thiếu Kỳ có dịp về quê và mắt thấy tai nghe những sự
thật đang xảy ra cho người dân TQ do chính sách của “bước tiến nhảy vọt”
mà ông góp sức. Ông xin lỗi dân làng, ông nói: “Tôi rất xúc động chứng
kiến bà con của tôi đang sống quá cực khổ. Tôi thấy phải có trách nhiệm
đã làm cho bà con đau khổ, và tôi xin lỗi”. Khi trở về Bắc kinh ông đã
hết sức vận động với Mao để rút chỉ tiêu thu mua gạo của dân xuống, nhờ
thế số nạn nhân chết vì đói năm 1961 chỉ còn phân nửa năm trước (dù vẫn
còn khoảng gần 12 triệu).
Cũng năm này
DCSTQ sẽ có phiên họp đảng nên Mao e sợ sẽ mất phiếu. Mặc dù đã đổ thừa
nạn đói xảy ra do cán bộ cấp dưới làm sai, và Liên xô đã góp phần phá
hủy kinh tế TQ, Mao phải giả bộ là ông sẽ không ăn thịt nữa, dù thực tế
thực đơn của ông vẫn đầy đủ 7 món: hải sản, gà, vịt, heo, cừu, bò và
cháo. Dư biết là những trò giả bộ của mình không thể nào giúp ông giữ
được ghế chủ tịch, Mao bày ra một kế khác: đại hội đảng sẽ không có bỏ
phiếu.
Tháng 1 năm 1962 bảy ngàn
đảng viên kéo về Bắc kinh họp đại hội đảng. Mao sắp xếp cho các đảng
viên có hai tuần để đọc báo cáo mà trước đó đã được thảo luận ở tổ. Tại
cuộc họp tổ, đại biểu nào ương ngạnh muốn đặt vấn đề đều bị đe doạ. Ðại
hội sẽ kết thúc với bài nói chuyện sau cùng của Lưu thiếu Kỳ vào ngày bế
mạc 27 tháng 12. Mao không ngờ Lưu không đọc bản tổng kết mà Mao đã
duyệt trước mà công khai đặt vấn đề dân chúng thiếu ăn, thiếu mặc đều vì
chính sách sai lầm của Mao. Ông nói: “Bước tiến nhảy vọt chỉ là một
bước thụt lùi vĩ đại”. Ông kêu gọi các đại biểu hãy dũng cảm phân tách
bước tiến nhảy vọt, và đặt câu hỏi TQ có nên xóa bỏ công xã và chương trình kỹ nghệ hoá không.
Bài
nói chuyện của Lưu được sự đáp ứng nồng hậu của 7 ngàn đảng viên đại
biểu. Biết rằng có Lưu Thiếu Kỳ chống lưng, cả 7 ngàn cái miệng hùa nhau
kết án chính sách của Mao. Mao hoàn toàn không ngờ sự việc lại xảy ra
như vậy, nhưng Mao biết một mình ông không thể chống lại 7 ngàn người.
Bước đầu tiên Mao phải nhượng bộ: Ông cho kéo dài đại hội để cho các đại
biểu có thêm thì giờ phát biểu, xổ hết tức giận ra, mà sau đó nơi riêng
tư ông gọi là xổ trung tiện ra.
Ngày 29
Lâm Bưu phát biểu. Ông này hết lời bênh vực Mao với luận điệu như “Mao
chủ tịch không hề sai”, và “trong hoàn cảnh khó khăn chúng ta phải gắn
bó với Mao Chủ tịch hơn nữa”. Ngay sau đó, không ai còn dám tố cáo Mao
trực tiếp nữa. Tuy thế, Mao vẫn phải tự nhận lỗi kiểu chung chung và hủy
bỏ chương trình thu mua lúa gạo. Nhờ thế, hàng chục triệu người thoát
chết đói.
Ngay sau khi đại hội đảng kết
thúc, Mao bay đi Thượng hải để Lưu thiếu Kỳ và phe cánh của ông, Chu Ân
Lai, Trần Vân và một ngôi sao đang lên Ðặng Tiểu Bình, đưa ra những thay
đổi to lớn cho chính sách của Mao. Những thay đổi như ngưng lại các kế
hoạch kỹ nghệ tốn kém như chế tàu ngầm nguyên tử, rút bớt kinh phí từ
các cơ xưởng sản xuất vũ khí, tăng gia tài trợ cho các kỹ nghệ thực
phẩm. Bọn Lưu cũng cho phục hồi danh dự cho hàng chục triệu người bị Mao
kết tội “hữu khuynh” những năm trước.
Trong mấy năm tới Lưu và những người đồng chí cố gắng vãn hồi lại nền kinh tế TQ, trong khi Mao hoạch định một kế hoạch trả thù.
Chương 45
Một công trình của Mao không bị cắt xén: công
trình chế bom nguyên tử. Tháng 4 năm 1964 Mao được biết là quả bom có
thể sẽ được hoàn thành vào mùa thu năm ấy, Mao liền thay đổi thái độ với
Liên xô. Mao ve vãn Khrushchev bằng những lời lẽ như “TQ vẫn là một
thành viên của khối cộng sản”, và “hãy để bọn đế quốc run sợ vì sự đòan
kết của chúng ta”. Về mặt an ninh, dù công xưởng chế bom nguyên tử Lop
Nor được xây cất trong sa mạc Gobi, hoàn toàn cô lập với bên ngoài và
mọi nhân viên đều đã phải ở trong đó không được ra ngoài trong nhiều
năm, có người cả 10 năm rồi không được về nhà, Mao vẫn không yên tâm.
Ông bí mật cho dời cơ xưởng này tới một địa điểm khác, được xây cất sâu
trong núi. Ðiạ điểm mới này tốn hơn 200 tỷ nhân dân tệ, và quy tụ công
sức của hơn 4 triệu người.
Vẫn còn một
điểm Mao phải quan tâm: Việt nam ở phiá nam TQ. Vào năm 1963 Mỹ có
khoảng 15 ngàn cố vấn ở Nam VN. Mao lập luận là Mỹ sẽ không dám tấn công
vào lò nguyên tử của TQ nếu Mỹ có quân đông ở VN vì một cuộc tấn công
như thế của Mỹ sẽ khiến quân TQ có lý do tràn sang VN giết quân Mỹ đang
đóng ở VN. Vì thế Mao khuyến khích Bắc Việt mở rộng cuộc chiến với Mỹ
sang Lào và Thái lan, và tăng cường gởi người vào Nam VN. Mao cố vấn Hồ:
“Ðừng sợ Mỹ đưa thêm quân. Ngay cả nếu Mỹ xâm lăng Bắc Việt, quân đội
TQ sẽ lập tức gởi quân sang, lập lại bài học Triều tiên.” Chu Ân Lai
tuyên bố với Tổng thống Nasser của Ai cập: “Nếu Mỹ có thêm quân ở VN
chúng tôi sẽ càng vui thêm, vì chúng tôi sẽ có thêm nhiều con tin” Chu
cũng tuyên bố với Tổng thống Nyerere của Tanzania: “Bắc kinh sẽ đổ quân
vào Bắc Việt ngay khi Mỹ tấn công lò nguyên tử TQ, dù có hay không có sự
đồng ý của chính phủ Hà nội”.
Ngày 16
tháng 10 năm 1964 TQ thử trái bom nguyên tử đầu tiên ở lò nguyên tử Lop
Nor. Không nói tới những tai hoạ ghê gớm gây ra bởi trái bom cho môi
trường chung quanh lò Lop Nor, chỉ kể những chi phí mà TQ đã bỏ ra để
chế tạo quả bom này lên tới 4 tỷ Mỹ kim (tiền năm 1957), một số tiền lớn
đủ để mua gạo cho toàn dân TQ xử dụng trong hai năm. Số tiền này đủ để
cứu sống 38 triệu nhân mạng đã chết vì đói ở TQ. Trái bom của Mao đã gây
thiệt hại về nhân mạng gấp 100 lần hai trái bom Mỹ thả xuống Nhật.
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Chương 46-58
Chương 46
Ngày 14 tháng 10 năm 1964 Khrushchev bị
loại ra khỏi bộ chính trị, và được thay thế. Nhận thấy đây là một cơ hội
để TQ được Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho hoàn thành kế hoạch chế tạo hoả
tiễn, mà vốn đã bị đình trệ từ khi Liên Xô rút cố vấn kỹ thuật về từ
năm 1959, Mao bắn tiếng qua đại sứ Liên Xô là ông mong muốn cải thiện
quan hệ hai nước. Brezhnev cũng muốn vậy, thế nhưng khi biết là
Mao chỉ muốn thủ lợi cho riêng mình, Brezhnev bèn thử dò tìm một cơ hội
lật đổ Mao. Tại bữa tiệc chiêu đãi phái đoàn Chu Ân Lai tại điện Cẩm
Linh (Kremlin) ngày 7 tháng 11, bộ trưởng quốc phòng Liên Xô,
Malinovsky, nói với Chu: “Chúng tôi không muốn cả Mao lẫn Khrushchev đứng giữa quan hệ của hai chúng ta”. Làm như không biết ông này nói gì, Chu bỏ đi chỗ khác. Malinovsky quay sang thống chế Ho Lung, khi đó là quyền Tổng tư lệnh quân đội TQ: “Chúng tôi đã gạt bỏ Khrushchev, các ông hãy gạt bỏ Mao đi rồi ta sẽ có quan hệ tốt hơn”. Ho Lung phản kháng vài câu rồi cũng bỏ đi. Tối hôm đó, Chu điện cho Mao hay mọi chuyện. Ngày hôm sau, Chu chính thức phản đối với Brezhnev khi ông này và bốn cán bộ cao cấp (không có Malinovsky) tới thăm ông ở tư dinh, Brezknev đổ thừa là Malinovsky say, nói bậy, thế nhưng sự kiện là Malinovsky không bị khiển trách gì chứng tỏ ông này chỉ làm theo ý của Brezhnev.
Ý thức rằng Brezhnev đang âm mưu lật đổ ông, Mao không cho
một cán bộ cấp cao nào của TQ được sang thăm Liên Xô nữa. Lệnh này được
tuân thủ cho tới khi Mao chết. Chỉ một người duy nhất được ngừng chân ở
Moscow trên đường đi dự đại hội đảng Romania vào năm 1965 là Ðặng Tiểu
Bình, chứng minh là ông này được Mao hoàn toàn tín nhiệm. Khi Hồ Chí
Minh chết (1969), e ngại sẽ gặp mặt phái đoàn Liên Xô, Chu Ân Lai đã bay
sang Hà nội và sau đó bay về TQ trước khi đám tang bắt đầu. Ðám tang
của Hồ chỉ có sự có mặt của một phái đoàn cấp thấp của TQ. Mao cũng đánh
giá là Bắc kinh chỉ cách Ngoại Mông của Liên Xô chỉ 500 cây số, đa số
là đồng ruộng trống trải và bằng phẳng, nên rất dễ trở thành mục tiêu
tấn công của xe tăng Liên Xô. Ðể đề phòng chuyện này,
Mao cho xây dựng một số đồi núi nhân tạo giống như những pháo đài khổng
lồ ở bắc TQ. Kế hoạch này bị hủy bỏ vài năm sau vì quá tốn kém.
Một
số cán bộ cao cấp có liên hệ với Liên Xô cũng bị thanh trừng. Thống chế
Ho Lung bị bắt và bị đưa đi cải tạo cho tới chết (1969). Thứ trưởng
quốc phòng TQ, Xu Guangda, chỉ vì có mặt ở Liên Xô trong lúc Malinovsky
nói câu đó đã bị thẩm vấn tới 416 lần trong 18 tháng.
Cũng
trong năm 1965 một cuộc họp thượng đỉnh các nước Á châu và Phi châu dự
trù sẽ được tổ chức ở Algeria. Ðể hy vọng kiếm phiếu, Mao ve vãn tổng
thống Sukarno của Indonesia bằng quà cáp và hứa hẹn sẽ giúp Indonesia
chế bom nguyên tử. Mao cũng hứa hẹn y như vậy với Ai cập. (LND: Sao tôi
nhớ tới Nhạc Bất Quần và lời hứa sẽ truyền thụ Tịch Tà kiếm phổ quá).
Mao cũng hứa sẽ xây dựng cho Zambia một hệ thống đường rầy xe lửa dài
tới 2000 cây số, một kế hoạch lên tới 1 tỷ Mỹ kim. Xui cho Mao là tổng
thống Ben Bella của nước chủ nhà Algeria bị lật đổ trong một cuộc chính
biến xảy ra chỉ 10 ngày trước ngày hội nghị khai mạc. Vì thế cuộc hội
nghị thượng đỉnh bị hủy bỏ, dù Mao hết sức vận động cửa hậu. Ước mộng
của Mao được làm chủ một hội nghị quốc tế Á–Phi lại bị tan tành.
Mao cũng bị thất vọng khi không sai
khiến được Pakistan đánh Ấn độ. Tháng 9 năm 1965, Ấn độ và Pakistan xảy
ra chiến tranh biên giới. Mao cũng dàn quân ở biên giới TQ–Ấn, và ra
tối hậu thư cho Ấn độ trong ba ngày phải giải giới một số căn cứ của Ấn
đặt dọc theo biên giới hai nước, ở những chỗ mà Mao cho là thuộc đất TQ.
Ấn độ đề nghị cùng thanh tra, nhưng Mao khước từ. Ý đồ của Mao là Ấn độ không thể
nào đương đầu với hai mặt trận một lúc: Pakistan và TQ. Ý đồ này bị
thất bại vì Pakistan bỗng nhiên chấp nhận đình chiến, theo đề nghị của
Liên hiệp quốc. Pakistan cho Mao hay là một cuộc chiến tranh với Ấn độ
sẽ rất tốn kém. Cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn và TQ vì thế cũng tạm
chấm dứt.
Mao cũng là kẻ đỡ
đầu cho lực lượng cộng sản ở Thái. Ngày 7 tháng 8 năm 1965 đảng cộng sản
Thái đụng độ với lực lượng quân đội của chính phủ theo lời khuyến dụ
của Mao, nhưng không đem lại kết quả như ý.
Thất vọng lớn nhất của Mao về mặt đối ngoại trong năm 1965 phải nói là cuộc đảo chánh ở Indonesia.
Tổng thống Sukarno thân Bắc kinh,
nên đã giao cho đảng cộng sản Indonesia nắm giữ một số cơ quan quan
trọng trong chính quyền và quân đội. Ðây là một đảng cộng sản lớn nhất không nắm
chính quyền vì có tới 35 triệu đảng viên. Ngày 30 tháng 9 đảng cộng sản
tổ chức một cuộc đảo chính để giành chính quyền theo lời khuyên của Mao: “Phải nắm lấy cơ hội mà giành chính quyền”, tổng tư lệnh quân đội và năm viên tướng khác bị bắt giữ và bị giết. Thế nhưng âm mưu này đã bị tiết lộ, và một viên tướng không nằm
trong danh sách phải cần bị bắt của phe đảo chánh đã lật ngược được
tình thế. Tướng Suharto ban lệnh bắt và tàn sát cả trăm ngàn người, đảng
viên đảng cộng sản, cảm tình viên cũng như thường dân. Tất cả thành
viên của bộ chính trị đều bị giết, ngoại trừ một người, Jusuf Adjitorop,
khi đó đang ở TQ.
Về mặt đối nội, lợi dụng uy tín Mao xuống thấp, Lưu Thiếu Kỳ đã tạo cho mình được một vị trí ngang ngửa với Mao. Báo chí TQ không còn
chỉ tôn vinh Mao Chủ tịch, mà luôn luôn Mao Chủ tịch và Lưu Chủ tịch
(Lưu là Chủ tịch nước, Mao là Chủ tịch đảng). Vì là người đã đưa TQ ra
khỏi nạn chết đói, Lưu được rất nhiều người ủng hộ, kể cả từ những kẻ đã
từng ủng hộ Mao trước kia. Thậm chí, có người đề nghị chỉ treo tranh
Lưu (không treo tranh Mao) trên tường Thiên An môn, nhưng Lưu đã bác bỏ ý kiến đó ngay lập tức.
Chương 47
Tháng 11 năm 1965, Mao bố trí một kế hoạch trả thù tàn khốc được gọi là “Cách mạng văn hoá”
với sự tiếp tay của hai người: Lâm Bưu và Giang Thanh. Lâm Bưu được bí
mật mời đến gặp Mao tối ngày 1 tháng 12, Mao cho Lâm hay kế hoạch thanh
trừng của mình và yêu cầu tiếp tay. Lâm chấp nhận với một yêu cầu: cho
Lâm thanh trừng một người bạn rất thân và hoàn toàn tín cẩn của Mao hiện
đang làm tổng tham mưu quân đội, Luo Ruiqing. Lý do Lâm ghét Luo là vì
ông này được Mao tin tưởng hơn Lâm. Mao biết rằng âm mưu thanh trừng lần này của Mao không thể thành công nếu không có sự tiếp tay của Lâm, nên Mao đồng ý với Lâm để thanh trừng Luo.
Ngày 8 tháng 12 vợ Lâm Bưu đọc một bài diễn văn trước bộ chính trị dài 10 tiếng tố cáo Luo có lòng tham vô đáy. Ðây là một chuyện chưa từng xày ra vì vợ Lâm Bưu không phải là thành viên của bộ chính trị. Luo không có mặt tại buổi họp, nhưng khi nghe tin ông không còn đứng vững nổi. Ông bị bắt giam tại gia. Nhưng Lâm Bưu chưa hài lòng, Lâm đòi hỏi Mao kết tội Luo phản đảng. Mao lưỡng lự không muốn làm chuyện này.
Trong
khi Mao nóng lòng chờ đợi trả thù tới độ phải dùng thuốc ngủ gấp 10 lần
một người bình thường mới ngủ được thì thị trưởng Bắc kinh Bành Chân
(Peng Zhen) vốn đoán biết Mao
đang sắp đặt một cuộc thanh trừng quy mô, và với sự đồng ý của Lưu
thiếu Kỳ, đưa ra một số quy định nghiêm cấm xử dụng các chiêu bài chính
trị để đàn áp văn hoá và người làm văn hoá. Ông cũng bay đi Tứ Xuyên, bề
ngoài là thanh tra xưởng vũ khí, mà bí mật gặp Bành Ðức Hoài đang bị
giam lỏng ở đó. Mặc dù Bành Ðức Hoài đã bị tước hết binh quyền, ông vẫn
được rất nhiều người cảm phục.
Bành Chân cũng dùng quyền hành của mình cố ngăn chận một bài báo của Mao phê phán vở nhạc kịch “Hai Rui bị sa thải”,
trong đó một người dân bị vua trừng phạt vì dám nói thay cho nông dân.
Bành Chân công khai phê phán Mao là có ý đồ chính trị vì theo ông vở
kịch chỉ có giá trị lịch sử, không phải là một biến cố chính trị. Mao lại cho là vở nhạc kịch này châm biếm quan hệ giữa Mao và Bành Ðức Hoài.
Trước những diễn biến bất lợi Mao tự biết ông
phải xúc tiến cuộc cách mạng văn hoá ngay, ông cho Lâm Bưu hay là ông
đồng ý kết tội Luo Ruiqing phản đảng. Ngày 18 tháng 3 năm 1966 sau khi
bị Mao kết tội “phản đảng”, Luo nhảy lầu tự tử, nhưng chỉ
bị gãy chân. Ngay ngày hôm sau, Giang Thanh yêu cầu Lâm Bưu phê chuẩn
bản tuyên ngôn cách mạng văn hoá do bà soạn mà chính Mao đã duyệt với
lời phê trên tựa đề: “Ðồng chí Lâm Bưu đã phê chuẩn cho đồng chí Giang Thanh…”. Sự tham gia của Lâm Bưu đã khiến Chu Ân Lai xoay chiều: ông cho Bành Hoài biết là ông ủng hộ Mao.
Ngày
14 tháng 4 Giang Thanh công bố bản tuyên ngôn cách mạng văn hoá. Một
tháng sau bộ chính trị họp (vắng mặt Mao) để thông qua danh sách những
nạn nhân đầu tiên: Bành Chân, Luo Ruiqing, Lu Dingyi (chủ bút báo Nhân
Dân, vì không đăng
bài viết của Mao), Yang Shangkun (vì những liên hệ của ông này với Liên
Xô mà cũng vì ông đã đặt máy nghe lén ở trên xe lửa của Mao và một nhân
viên thu âm đã không khôn ngoan khoe khoang với một người bạn gái của Mao là “tôi nghe hết cô và Mao Chủ tịch nói gì với nhau”).
Lưu Thiếu Kỳ chủ toạ phiên họp, và mặc dù Lưu đã lớn tiếng chống đối,
cuối cùng tất cả mọi người có mặt, cà Lưu và Bành Chân, cũng giơ tay bỏ
phiếu thông qua bản án. (LND: Có phải đây là cách thức họp hành của đảng
cộng sản phải không, tức là ai cũng phải nhất trí hết, ai biết xin chỉ dùm? Giả sử Lưu hoặc Bành chống đối tới cùng thì sao?)
Chương 48
Ðể
bắt đầu chiến dịch cách mạng văn hoá, Mao gia tăng chiến dịch tôn sùng
Mao. Ngày nào báo Nhân Dân cũng đăng hình Mao thiệt lớn trên trang nhất
cùng với lời trích dẫn của Mao. Mọi người bị bắt buộc phải mang trên
mình một cuốn sách đỏ in những lời nói chuyện của Mao và phải thuộc lòng.
Tháng 6 năm 1966 học sinh sinh viên được hướng dẫn để đấu tố thầy giáo “để bảo vệ Mao Chủ tịch”.
Hàng loạt giáo sư và nhân viên của đại học Bắc kinh bị đánh đập, bị bắt
quỳ gối, bị lôi kéo trên đường phố, bị lăng mạ và xỉ nhục. Không một
trường học nào trên khắp đất nuớc TQ thoát khỏi cảnh thầy cô giáo bị
học sinh cột giây vào cổ, bị bắt quỳ giữa đám đông và bị bắt buộc phải
nhận tội và xin được chết.
Tháng 8
năm 1966 cùng đứng với Mao trên Thiên An môn, Lâm Bưu kêu gọi hồng vệ
binh hãy phá hủy cho bằng hết nền văn hoá cổ. Lần này nạn nhân của Mao
là đền thờ Khổng tử, thư viện, nhạc viện và các người có liên quan như
học giả, văn sĩ, ca sĩ. Những người nổi tiếng bị hành hạ trước. Vệ binh
xông vào nhà bắt người, phá huỷ sách vở, tranh ảnh và lấy đi các đồ quý
giá. Những món đồ này sau này được đem ra phân phát hay bán lại với giá
rẻ mạt cho các quan chức cộng sản. Giang Thanh mua được một cái đồng hồ
bằng vàng có gắn kim cương với giá 7 đồng nhân dân tệ.
Tháng 9 năm 1966 Mao và Lâm Bưu xúi giục mọi người hãy tiêu diệt những cán bộ đi theo con đường tư bản. Dân chúng được cho biết là
trong đảng có quá nhiều thành phần xấu, và đây là cơ hội để mọi người
góp phần làm trong sạch đảng. Hàng triệu người bị bắt bớ và tra tấn vì
những tội danh vu vơ. Chính Mao cũng biết là không có cách gì phân biệt được người nào có tội hay vô tội. Những chuyện hành hình xảy ra mỗi ngày. Cơ quan nào cũng có nhà tù để giam người và tra tấn người. Xã hội TQ bị xáo trộn tới tận gốc rễ.
Ðối
với một vài tiếng nói phản đối lẻ loi đến từ các cán bộ cao cấp như bộ
trưởng canh nông Tan Zhenlin, ông này cho rằng đây thực chất chỉ là do
Mao muốn thanh trừng các đồng chí của Mao hay ngoại trưởng Chen Yi, ông
này gọi đây là một lò tra tấn khổng lồ thì Mao chỉ cần làm bộ nóng giận
là những kẻ này im lặng liền. Cần lắm thì đã có Lâm Bưu và Chu ra tay,
và sau đó ông thăng chức cho mấy người này là đâu lại vào đấy. Chỉ có
một người anh hùng duy nhất dám dùng tính mạng mình để chống Mao là một
nữ sinh viên tên Wang Rongfen. Cô viết một lá thư cho Mao kết án Mao
hành động y như Hitler, và tuyên bố rút lui ra khỏi Ðoàn Thanh niên Cộng
sản. Sau đó cô viết một lá thư khác bằng tiếng Ðức rồi mua bốn chai
thuốc độc và uống hết trước toà đại sứ Liên Xô. Cô hy vọng là nhân viên
sứ quán Liên Xô sẽ thấy xác cô và sẽ cho phổ biến lá thư bằng tiếng Ðức
của cô. Thế nhưng cô đã tỉnh dậy ở nhà thương công an và bị kết án tù
chung thân. Hai tay bị cùm sau lưng, cô phải lăn trên đất và dùng miệng
hốt thức ăn quăng giục trên sàn để ăn như vậy trong nhiều tháng.
Trong khi nạn nhân của Mao bị tra tấn thì Mao bình yên hưởng thụ cuộc sống của một ông vua tại Zhongnanhai. Sàn nhảy tại đây không bao giờ thiếu gái và nhạc, kể cả những bản nhạc Mao cấm công chúng không được nghe.
Chương 49
Ngày
25 tháng 12 một đám sinh viên khoảng 5000 người dẫn đầu bởi một sinh
viên vệ binh tên Kuai Dafu biểu tình rầm rộ trên đường phố hò reo “đả đảo Lưu Thiếu Kỳ”.
Ngày 6 tháng 1 nhóm Kuai bắt cóc
con gái của Lưu, Pingping, và điện thoại cho vợ Lưu, Guangmei, tới nhà
thương để ký giấy chấp thuận cho nhà thương cưa chân Pingping. Bọn này không ngờ là cả Lưu và vợ cùng tới. Kuai viết về câu chuyện này như sau: “Chúng tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi gặp Lưu Thiếu Kỳ. Chúng tôi không dám đụng tới ông. Trung ương chưa cho lệnh. Chúng tôi biết đả đảo hôm nay có thể thành hoan hô ngày mai, nên chúng tôi đành yêu cầu ông Lưu Thiếu Kỳ đi về”.
Rõ ràng bọn Kuai chỉ là một bọn hèn nhát và cơ hội. Sau đó, Kuai được
điện thoại của Chu Ân Lai và Giang Thanh thả luôn Guangmei.
Tối ngày 13 tháng 1 Lưu được đưa tới gặp Mao. Trong cuộc nói chuyện, Lưu vẫn cương quyết không cúi
đầu. Ông yêu cầu Mao chỉ trừng phạt một mình ông, và hãy ngưng ngay
cuộc cách mạng văn hoá. Mấy ngày sau, điện thoại của Lưu bị cắt. Kuai tổ
chức một cuộc biểu tình quy tụ tới cả 300 ngàn người để hạ bệ Guangmei.
Nhận lệnh từ Giang Thanh là nhóm Kuai có thể làm gì cũng được, Kuai kể
lại: “Bà ta thật quật cường. Chúng tôi đè bà qùy xuống, nhưng ngay lập tức bà đứng thẳng dậy” Bà trả lời một cách bình tĩnh “tôi không sợ gì hết”. Cả Lưu Thiếu Kỳ và thuộc hạ cũng bị hạ nhục ở những nơi công cộng.
Biết rằng
Lưu rất yêu vợ, và sức mạnh của Lưu được vợ chia xẻ, Mao tách rời hai
vợ chồng Lưu ngày 18 tháng 7. Họ chỉ gặp lại nhau một lần sau đó tại
phiên tòa ngày 5 tháng 8. Ðây là một phiên tòa phường tuồng, vì Lưu không có
quyền biện hộ (chứng tỏ Mao vẫn còn sợ Lưu phát biểu bất lợi cho mình).
Mỗi lần Lưu tính nói gì thì đám đông la ó ồn ào, ông bị đấm và đá, ông
cũng bị nắm tóc giựt ra đằng sau cho ký giả chụp hình và quay phim. Dù
vậy, cả hai ông bà cũng đã có được một phút nắm tay nhau dưới cơn mưa
đấm đá.
Lưu Thiếu Kỳ chết ba năm sau, dù người giữ tù có báo cáo cả năm về trước là ông hoàn toàn không còn biết gì hết. Khi ấy Chu Ân Lai kết án ông là phản bội, và xin Mao cho ông được lãnh án tử hình. Nhưng Mao không chấp nhận cho ông chết chóng vánh.
Chương 50: Cuộc đại thanh trừng mang tên cách mạng văn hóa không những đã loại Lưu Thiếu Kỳ mà luôn cả những kẻ đã từng thách đố Mao: Bành Đức Hoài, Lý Lập Tam (Li Lisan) cùng bà vợ người Nga, Lạc Phủ (Lo Fu). Một chuyện đáng
để ý là khi toán nổi loạn đầu tiên được gởi bắt Bành đã bị Bành thuyết
phục mà quay sang ủng hộ ông. Người này bị Mao bắt bỏ tù, nhưng cho biết là ông không hề hối hận đã bênh vực Bành.
Bành
Đức Hoài bị lôi đi làm mục tiêu cho hàng ngàn cuộc biểu tình hạ bệ uy
tín ông. Có lần ông bị đá gẫy xương sườn, nhiều lần ông bị ngất xỉu. Ông
cũng bị tra vấn về những liên hệ giữa ông và Liên xô. Ông bị hành hạ
như vậy cho tới chết (tháng 11 năm 1974) tám năm sau. Cũng như Lưu, xác
ông bị đốt dưới một cái tên khác và cái chết của ông cũng như Lưu không được công bố khi Mao còn sống.
Tới
giữa năm 1967 Mao đã thanh trừng hàng triệu đảng viên “khuynh hữu” và
thay thế họ bằng sĩ quan quân đội. Thế nhưng quân đội vốn có trật tự, họ không tàn ác như những kẻ nổi loạn và cũng không tin
tưởng là những kẻ nổi loạn lại có thể làm được việc, nên họ đã thuê
mướn lại những người đã bị sa thải trước kia. Tại Vũ hán chẳng hạn, tư
lệnh quân đội là tướng Chen Zaidao đã xử dụng lại một số lớn các nhân
viên đã bị sa thải trước kia, và ông đã giải tán một số băng đảng nổi
loạn và bắt giữ những kẻ chủ mưu. Ông cũng ra mặt bênh vực một tổ chức
quy tụ cả triệu những người trung dung, không theo
phe nổi loạn. Tháng 7 năm 1967 Mao tới Vũ hán thanh tra. Ông nghĩ rằng
sự có mặt của ông ở đây sẽ khiến tướng Chen khiếp sợ, thế nhưng ông không ngờ tướng Chen lại cứng đầu mà cho là mình đang làm đúng.
Ngày hôm sau xảy ra một chuyện chưa
từng nghe tới: hàng ngàn người của nhóm trung dung cùng với cảm tình
viên trong quân đội đổ ra đường biểu tình. Khi họ được cho biết là
Mao kết án nhóm của họ là “bảo thủ” thì cuộc biểu tình nổ lớn. Hàng
chục ngàn người trang bị gậy gộc, cùng với cả ngàn quân sĩ có súng ống,
biểu tình quanh tư dinh Mao. Dù không ai
có can đảm tấn công Mao, họ bắc loa tố cáo Giang Thanh và nhóm của bà
đả lấn quyền. Một nhóm nhỏ đã xông vào trong tư dinh Mao và bắt đi một
thành viên của nhóm Giang Thanh là Wang Li. Đây là lần đầu tiên trong 18
năm Mao thật sự sợ hãi: Ông bắt Chu Ân Lai phải cấp tốc bay lên (từ Bắc
kinh) cùng với 200 hộ vệ quân và hộ tống Mao trốn ra cửa sau vào lúc 2
giờ sáng (ngày 21 tháng 7 năm 1967).
Dĩ nhiên sau đó tướng Chen cùng với thuộc hạ bị bắt và thay thế bởi những người biết nghe lời hơn. Nhưng một chuyện đáng nói tiếp là nhóm Chen bị áp tải tới Bắc kinh, và họ bị trói ké và bị đánh đập dã man không phải ở một nhà tù nào mà ở ngay giữa phiên họp của bộ chính trị ĐCSTQ, cơ quan cao nhất của ĐCS và nhà nước Trung quốc. Đây là chuyện xảy
ra lần đầu tiên trên thế giới, dù đó là thế giới tự do hay thế giới
găng tơ của Mao. (LND: Trùm găng tơ Al Capone dùng gậy côn cầu
(baseball) đập chết thuộc hạ của mình ngay giữa phiên họp. Có lẽ là Mao
bắt chước chăng?)
Cuộc nổi dậy ở Vũ hán đem đến cho Mao một kết luận: 75% sĩ quan quân đội không đáng
tin cậy. Thế nhưng đã vừa thanh trừng giới dân sự xong, nếu bây giờ
thanh trừng luôn quân đội thì (1) sẽ có quá nhiều kẻ thù và (2) dùng ai
để thanh trừng quân đội? Mao phải kiếm một con dê tế thần để xoa dịu
những căm phẫn đang dâng lên trong quân đội, sau cuộc thanh trừng tướng
Chen. Con dê đó là Wang Li, người bị nhóm nổi dậy bắt cóc ngay trong tư
dinh Mao ở Vũ hán. Sau khi tướng Chen bị bắt, Wang Li được Chu Ân Lai
đích thân tới nhà tù thả ra, ôm hôn và đưa về Bắc kinh. Tại phi trường
Bắc kinh anh hùng Wang Li được chào đón bởi một đám đông đến cả mấy chục
ngàn người. Sau đó Wang Li lại được cả triệu người chào mừng ở Thiên An
môn. Một tháng sau, Wang Li bị Mao ra lệnh bắt giam.
Khi thấy sự kiện bắt giam Wang Li không giải
quyết được vấn đề gì, Mao đành chọn một giải pháp thứ hai: Mao giao cho
Lâm Bưu được quyền thành lập thêm một cơ quan mới, đặt tên “Văn phòng
Hành chánh” để điều khiển quân đội. Cơ quan này do vợ Lâm Bưu và một số
sĩ quan thân tín của Lâm Bưu điều khiển. Những sĩ quan này, cũng như
những người lãnh đạo khác trong quân đội đều do Lâm Bưu, chứ không phải Mao, chỉ định. Mao đã có lần cắt cử một viên tướng tâm phúc của mình là Yang Chengwu làm Quyền Tổng Tham mưu nhưng Lâm Bưu không chịu.
Mao chỉ còn giữ lại một quyền hành: Lâm Bưu muốn di chuyển quân phải có
sự đồng ý của Mao. Lâm Bưu bổ nhiệm một viên tướng trẻ măng làm Tổng
Tham mưu quân đội, Huang Yongsheng. Ông này sau này thành tình nhân của
Diệp Quần, vợ Lâm Bưu. Lâm cũng bổ nhiệm đứa con trai 24 tuổi của mình
làm phó cho cục chiến tranh của không quân và ra lệnh cho không quân phải báo cáo mọi chuyện với y cũng như phải nghe lệnh của y.
Cuộc
cách mạng văn hóa của Mao mà mục đích chính là tàn sát cánh hữu (còn
gọi là bảo thủ) do chính phủ bảo trợ đạt đến cao điểm vào năm 1968 đã ra
ngoài tầm kiểm soát của Mao khi ông ra lệnh cho các phe phái “cánh tả”,
“trung dung” và “bảo thủ” ngừng đánh nhau mà không ai
nghe. Nhiều cuộc đánh giết nhau xảy ra giữa các nhóm liên can đến hàng
trăm ngàn người. “Cánh tả” có nhiều ưu thế vì được Mao phát cho súng
đạn, nhưng các nhóm khác cũng có những cách của họ để có được súng. Với
súng trong tay, ai cũng có thể trở thành ăn cướp. Không ai
còn muốn đi làm công nữa. Nền kinh tế TQ có cơ nguy sụp đổ. Mọi công
trình kỹ nghệ, quân sự, ngay cả kế hoạch nguyên tử, cũng bị ảnh hưởng.
Để chấm dứt tình trạng này Mao ban lệnh giải tán các nhóm sinh viên học
sinh và đưa họ đi làm ở các làng mạc và nông trường xa xôi. Mao cũng
dùng quân đội đàn áp các nhóm khác. Tuy thế cũng phải mất cả năm mới ổn
định tình hình.
Đầu
năm 1969 Mao triệu tập đại hội đảng lần thứ 9, khi bộ máy quyền hành của
ông hoạt động trở lại. Các đại biểu được lựa chọn dựa vào lòng trung
thành, mà thước đo lòng trung thành này là sự tàn ác và dã man của họ
đối với kẻ thù trong cuộc cách mạng văn hóa. Khi Mao đọc diễn văn, đám
đại biểu này không ngớt ngắt lời Mao bằng cách tung hô “Mao Chủ tịch muôn năm”, Mao phải cần 20 phút mới đọc xong hai trang giấy. Bực mình vì chuyện này, Mao phải ra lệnh cho thư ký đại hội ra một điều luật cấm hoan hô không có phép.
Thành
phần lãnh đạo mới dưới quyền Mao gồm có Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá
Đạt (Chen Boda), Khang Sinh (Kang Sheng), hai người này được thưởng công
vì vai trò của họ trong cuộc cách mạng văn hóa. Giang Thanh được đưa
vào Bộ Chính trị cùng với Diệp Quần và người tình của bà Huang Yongshen.
Lâm Bưu chính thức thành nhân vật số hai của ĐCSTQ.
Mao
thành công cuộc thanh trừng vĩ đại nhất lịch sử TQ, dù rằng những cuộc
giết chóc vẫn tiếp diễn cả 10 năm sau. Cuộc cách mạng văn hóa đã giết
chết khoảng 3 triệu người. Các nhà lãnh đạo TQ sau Mao xác nhận khoảng
100 triệu người, tức 1/9 dân số TQ, bị thiệt hại cách này hay cách khác
vì cuộc cách mạng văn hóa. Những cuộc giết chóc, tra tấn và khủng bố này
được nhà nước Trung quốc bảo trợ. Chỉ một số rất nhỏ bị giết bởi hồng
vệ binh trong cuộc khủng bố, phần lớn còn lại là công trình trực tiếp có
chỉ đạo của Mao.
Chương 51: Một mục đích
khác của cuộc cách mạng văn hóa là thanh trừng thành phần theo Liên xô
trong đảng CSTQ. Vì thế khi cuộc cách mạng văn hóa kết thúc, ngày 2
tháng 3 năm 1969 Mao chọn một hòn đảo nhỏ, tiếng TQ là Trân Bảo
(Zhenbao), tiếng Nga là Damansky trên sông Ussuri dọc theo biên giới
TQ-Nga mà tổ chức một cuộc phục kích quân đội Nga trú đóng ở đây, lấy cớ
là hòn đảo này thuộc chủ quyền TQ. Mao không ngờ
Liên xô phản ứng lại bằng một trận đánh dữ dội có xe tăng và pháo binh.
Kết quả 800 lính TQ thiệt mạng (bên Liên xô tổn thất 60 lính). Quân
Liên xô cũng bắn pháo vào đất liền TQ xa tới 20 cây số. Điều này làm Mao
lo sợ là Liên xô sẽ xâm lăng TQ. Mao liền ra lệnh ngừng chiến.
Đại
hội ĐCSTQ lần thứ 9 xảy ra như đã kể ở trên trong lúc Mao đang lo sợ
Liên xô xâm lăng. Vì thế 2000 đại biểu về dự đại hội đều bị nhốt trong
khách sạn, không ai được ra ngoài, thậm chí có lệnh không ai được mở màn ngó ra ngoài đường. Đại sảnh tổ chức đại hội cũng thế, được che màn kín để ở ngoài không ai biết là bên trong đang có đại hội.
Sau
đó Mao cho xây dựng một số núi giả, bề ngang 250 tới 400 m, dầy 120 tới
200 m, cao 20 tới 40 m phía bắc Bắc kinh nhằm ngăn chận xe tăng Liên xô
tiến vào Bắc kinh. Đây là một công trình rất tốn kém, và hoàn toàn vô
ích, nên sau này bị hủy bỏ.
Mao
cũng e sợ Liên xô sẽ tấn công căn cứ chế bom nguyên tử của mình, nên đã
nhiều lần cử Chu Ân Lai gặp Thủ tướng Nga Kosygin để yêu cầu đặt căn cứ
chế bom nguyên tử ra ngoài mục tiêu tấn công của Liên xô, nhưng không được Kosygin đồng ý.
Mao
có nhiều cái sợ vô lý. Thí dụ khi phái đoàn Liên xô bay tới Bắc kinh
tham dự cuộc họp giữa hai nước về biên giới, Mao lo sợ là chiếc máy bay
chở phái đoàn Liên xô sẽ mang theo bom nguyên tử, chứ không phải
nhân viên thương thuyết, nên ông rời Bắc kinh đi Vũ hán “lánh nạn”
trước đó mấy ngày. Cả Chu Ân Lai, Giang Thanh và Lâm Bưu cũng đi trốn,
trong khi quân đội TQ nhận được báo động đỏ. Cuộc báo động giả này vậy
mà kéo dài tới 4 tháng, lôi kéo hàng triệu người vào một công trình đào
hầm chống bom nguyên tử cho Mao và cán bộ cấp cao trú ẩn. Một căn hầm ở
Trung nam hải được xây cất nối liền với Thiên An môn, Nhà Đại sảnh Nhân
dân, tư dinh Lâm Bưu và một nhà thương bí mật bằng những đường hầm rộng
lớn đủ cho 4 chiếc xe chạy song song. Căn hầm được xây cất kiên cố đủ
sức chống đỡ bom nguyên tử.
Chương 52:
Ngôi vị chủ tịch nước TQ bị bỏ trống khi Lưu Thiếu Kỳ chết. Lâm Bưu
muốn Mao nắm chức đó để Lâm được chính thức làm Phó Chủ tịch nước, nhưng
Mao lại muốn bãi bỏ chức đó. Mao rất tức giận khi được biết toàn bộ 5 người chóp bu trong bộ chính trị (Mao, Lâm, Chu, Khang Sinh và Trần Bá Đạt), trừ Mao, đều hậu thuẫn Lâm Bưu.
Mao lập tức cho bắt giam Trần Bá Đạt, và sau
đó tại cuộc họp của Bộ Chính trị ở Lư sơn (tháng 8 năm 1970) Mao yêu cầu
Lâm Bưu tự phê là đã bị Trần Bá Đạt lừa gạt. Lâm từ chối. Mao quyết
định phải thanh trừng Lâm, nhưng vì toàn thể nhân viên chính quyền đều
do Lâm lựa chọn Mao phải hành động một cách kín đáo.
Lâm
Bưu họp ban tham mưu của mình. Con trai lớn của Lâm, Liguo (Lập Quả),
vốn quen thuộc với lối sống tây phương nên luôn coi Mao là kẻ độc tài,
quyết định ám sát Mao. Được sự đồng ý của cha, cậu và các bạn cùng tuổi
bán thảo về rất nhiều phương cách để ám sát Mao, dùng hơi ngạt, thả bom,
bắn vào xe lửa của Mao, vân vân, nhưng không ai thấy cậu có hành động cụ thể gì.
Quan hệ Mao-Lâm càng ngày càng tồi tệ, vì cả hai không ai
chịu nhượng bộ ai. Một năm sau cuộc họp Lư Sơn, Mao đã xử dụng thời
gian này đi lại các nơi vận động các quan chức được bổ nhiệm bởi Lâm Bưu
khuyến dụ họ ngã theo Mao, trong khi Lâm Bưu càng ngày càng cô đơn và không biết nên tin ai để thực hiện kế hoạch ám sát Mao của mình. Thậm chí ông cũng không biết có nên còn tin tưởng Tổng Tham mưu quân đội Hoàng Vĩnh Thắng (Huang Yongsheng, người tình của vợ ông) hay không.
Ngày
12 tháng 9 năm 1971 Lâm Bưu quyết định đào thoát vào sáng hôm sau. Ông
cho nhân viên hay là ông và gia đình sẽ bay đi Dalian (Đại Liên), chỉ là
một phi trường gần đó để không ai
nghi ngờ. Khoảng 9 giờ tối Liguo nói thật với chị Doudou (Đậu Đậu, các
gọi thân thiết của con gái Lâm Bưu, tên thật là Lâm Lập Hành) là gia
đình sẽ đào thoát bằng cách bay đi Quảng Đông, sau đó đi Hồng Kông. Đây
là lầm lỗi chí mạng của họ Lâm, vì Doudou vốn coi Mao như thần thánh như
bao nhiêu thanh niên của TQ thời đó, cô không chấp
nhận cho cha mình phản bội Mao. Doudou bí mật thông báo ý định đào tẩu
của gia đình cho lính bảo vệ, và họ điện thoại cho Chu Ân Lai. Chu Ân
Lai tức khắc cho lệnh đòi đem cho ông xem lịch trình bay của các máy
bay, kể cả máy bay riêng của Lâm Bưu. Khi được biết là
Chu đòi xem lịch trình bay, Lâm Bưu quyết định cất cánh ngay, thay vì
chờ tới 6 giờ sáng như kế hoạch. Ông cũng quyết định bay đi Ngoại Mông,
và sau đó đi Liên Xô. Sợ rằng Mao sẽ cho máy bay truy kích, ông cần rút
ngắn thời gian bay trên đất TQ. Không hay biết rằng bí mật của mình bị bại lộ vì Doudou phản bội, Liguo thông báo cho chị là gia đình sẽ đi ra phi trường ngay bây giờ chứ không chờ tới sáng nữa, Doudou trốn ra khỏi nhà và sang tỵ nạn với lính bảo vệ.
Khoảng 11 giờ 50 tối gia đình Lâm Bưu (không có
Doudou), một người bạn của Liguo và người đầu bếp chính của Lâm lên xe
ra phi trường. Khi ra tới cổng thì lính bảo vệ đòi kiểm soát, Lâm cho
lệnh bỏ chạy. Người đầu bếp khi đó nghi ngờ ý định của Lâm Bưu, nên nhảy
khỏi xe và bị Liguo bắn trúng tay. Chiếc xe của Lâm Bưu chạy thoát,
nhưng bị lính bảo vệ đuổi theo. Lâm Bưu tới phi trường, nhưng chỉ đủ thì
giờ để leo lên máy bay và ra lệnh cất cánh ngay lập tức, dù khi đó
chiếc máy bay đang được bơm xăng và kiểm soát máy móc. Chiếc máy bay cất
cánh lúc 0 giờ 32 phút, đem theo Lâm Bưu, vợ, con trai Liguo, một người
bạn của Liguo, người tài xế lái xe và 4 người trong phi hành đoàn gồm
một phi công và ba nhân viên sửa máy. Hai tiếng sau, chiếc máy bay đâm
đầu xuống đất ở biên giới Mông Cổ, phát nổ và giết chết hết chín người,
vì một lý do đơn giản: không đủ xăng bay tiếp.
Ngay khi chiếc máy bay của Lâm Bưu cất cánh, Mao được Chu đánh thức để thông báo tình hình, nhưng khi đó Mao không có bao nhiêu lựa chọn. Ông không tin tưởng không quân hoàn toàn để yêu cầu họ truy kích Lâm Bưu trên không.
Mao chọn giải pháp đi trốn, ông dọn vào ở trong phòng 118 trong tòa nhà
đại sảnh, nơi đó ông đã vừa xây xong một đường hầm chịu được bom nguyên
tử như đã kể ở chương trước. Mao chỉ ra khỏi đó chiều ngày 14 khi có
tin chính thức là máy bay Lâm Bưu đã lâm nạn.
Khi Mao biết Lâm
Bưu có một kế hoạch ám sát ông, có dính dáng tới nhiều người đang nắm
những chức vụ cao cấp, tinh thần ông hoàn toàn suy sụp. Trong nhiều ngày
ông không ngủ được, dù đã uống không biết bao nhiêu thuốc ngủ. Ông bị ho và nóng. Ông cũng không thở được khi nằm xuống. Khi đó bác sĩ cũng cho biết ông bị bịnh tim. Khi đó Mao là một ông già 78 tuổi. Mao không còn lực lượng và sức lực để thanh trừng cho hết phe đảng của Lâm Bưu.
Ngày 6 tháng 2 năm 1972 thống chế Trần Nghị
(Chen Yi) chết vì ung thư. Ban đầu Mao dự trù chỉ cho tổ chức một đám ma
nhỏ vì Trần Nghị là người lớn tiếng chống cuộc cách mạng văn hóa của
Mao. Thế nhưng khi ông thấy có quá nhiều cán bộ cũ đến thăm viếng và
càng ngày càng có nhiều lời ong tiếng ve chống đối ông, ông thay đổi
thái độ: Mao thân hành tới viếng lễ. Tại tang lễ Trần Nghị, Mao đổ thừa
là cuộc cách mạng văn hóa hoàn toàn là ý đồ của Lâm Bưu trong mục đích
gạt bỏ ra ngoài những người già như Trần Nghị và Mao.
Chương 53:
Mao luôn luôn nuôi tham vọng làm bá chủ thế giới. Ông nói với trùm
Mao-ít Úc Edward Hill: “Tôi nghĩ thế giới cần phải được thống nhất.
Trong quá khứ người Mông Cổ, người La Mã, đại đế Alexander, Napoleon và
đế quốc Anh đều muốn thống nhất thế giới. Hitler cũng muốn thống nhất
thế giới, nhưng họ đều thất bại. Ngày nay Mỹ và Liên xô muốn thống nhất
thế giới, nhưng dân số họ quá nhỏ, họ không có đủ nhân lực để phân tán đi các nơi. Ngoài ra, họ còn sợ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Họ không sợ các dân tộc khác chết bớt vì chiến tranh, mà họ sợ chính dân họ sẽ chết bớt.” Ý của Mao quá rõ ràng: ông không sợ dân TQ chết bớt.
Chính
cái tham vọng này đã khiến Mao lao vào các chương trình hiện đại hóa
tốn kém với một tốc độ ghê hồn, bất chấp những nguy hiểm. Chẳng hạn ngày
27 tháng 10 năm 1966 một đầu đạn hỏa tiễn có gắn bom nguyên tử được bắn
thử, đường bay dài 800 cây số đi ngang qua một số tỉnh thành đông dân ở
tây bắc TQ. Những người trong đội bắn thử nghiệm ai nấy đều sợ hãi nếu
chẳng may có vấn đề, nhưng Mao cương quyết cho bắn. Cũng may mà chiếc
hỏa tiễn thử nghiệm lần đầu tiên này lại thành công nên cả đội tai qua
nạn khỏi (dù các cuộc thử nghiệm sau lần này đều thất bại, tất cả đều
bay vòng vèo rồi rớt xuống ngay khi vừa ra khỏi nòng súng, Mao kết tội
là có phá hoại vì thế có biết bao khoa học gia bị tra tấn, xử tử, kể cả xử tử giả).
Khi
TQ thành công chế bom khinh khí năm 1967 Mao lại càng tin tưởng là ông
sẽ lãnh đạo thế giới. Khi ấy bộ máy tuyên truyền của TQ dốc toàn lực vào chuyện truyền
bá “tư tưởng Mao Trạch Đông” ra khắp thế giới. Miến Điện là một điển
hình. Các cộng đồng người Hoa được phân phát cuốn sách đỏ (trích đăng
các lời tuyên bố của Mao), chân dung Mao và các bài hát ca tụng Mao. Mao
đưa về Miến Điện những cán bộ cộng sản Miến đã được huấn luyện ở TQ và
dụ dỗ họ nổi lên cướp chính quyền. Mao hứa hẹn: “Nếu các bạn không thành công và nếu chính quyền Miến tuyệt giao với TQ thì chúng tôi sẽ càng có cơ hội ủng hộ các bạn cụ thể hơn.”
Rất
nhiều căn cứ được thiết lập trên đất TQ để huấn luyện cán bộ cộng sản
của các quốc gia muốn theo gương Mao, bài học bao gồm luôn cách xử dụng
súng ống và chất nổ. (LND: Những căn cứ này là bằng chứng TQ huấn luyện
và đào tạo khủng bố).
Tới cuối thập
kỷ 60 sự tuyên truyền của Mao đạt được một số thắng lợi ở Tây phương.
Mao được đánh giá là một nhà tư tưởng học, được triết gia Pháp Jean Paul
Sartre ca ngợi. Tuy nhiên, thế giới đã không có
thêm được một đảng cộng sản nào khác theo mô hình của Mao. Mao thất bại
ở Phi châu, Trung Đông, châu Mỹ La Tinh (Castro gọi Mao là cục cứt) và
ngay cả Việt nam.
Việt
nam hoàn toàn lệ thuộc vào TQ những năm 1950 và 60. Khi TQ ngưng chiến
với Mỹ ở Triều tiên, Mao đã gởi một số các tướng từng tham chiến ở Triều
tiên sang giúp VN đánh nhau với Pháp. Khi TQ bắt được một bản kế hoạch
Navarre, do tướng Pháp Henri Navarre, đệ trình lên chính phủ Pháp, TQ đã
bắt Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) giao nó tận tay Hồ Chí Minh. Mao cũng
chỉ thị cho Vệ Quốc Thanh phải “dứt điểm Điện biên phủ vào thượng tuần
tháng năm và giải phóng Vientianne (Lào) vào tháng tám hay chín”. Ngày 7
tháng 5 Điện biên phủ thất thủ, ngày 17 tháng 6 chính phủ Pháp sụp đổ.
Đây là cơ hội cho TQ nhảy vào, ngày 23 tháng 6 Chu Ân Lai gặp mặt tân
thủ tướng Pháp Pierre Mendès-France ở Thụy sĩ và đề nghị giải pháp
thương thuyết. Pháp đồng ý, nhưng VN không chịu đàm phán. Chu Ân Lai nói với Hồ Chí Minh: “Nếu các đồng chí không ngồi
vào bàn thương thuyết thì các đồng chí đánh Pháp một mình đi”. Phạm văn
Đồng khóc khi được Hồ cử làm chủ tịch phái đoàn thương thuyết phía VN.
Chu Ân Lai đại diện phía TQ. Đây là lần đầu tiên VN và TQ có chuyện bằng mặt chẳng bằng lòng.
Vào năm 1965, chính phủ Brezhnev bắt đầu gia tăng viện trợ quân sự cho VN bằng cách cung cấp các vũ khí tối tân mà TQ không có như súng bắn máy bay và hỏa tiễn địa-không, một số phải được điều khiển bởi người Nga, thì TQ không còn
cạnh tranh được. Chính phủ VN từ từ ngả sang Liên xô, dù rất nhiều lần
Mao và Chu dụ dỗ họ theo TQ. Chu Ân Lai có lần giải thích với Hồ Chí
Minh là “Liên xô giúp các đồng chí chỉ là để hoàn thiện quan hệ của họ
với Mỹ thôi”, một giải thích mà con nít nghe cũng không lọt
tai. Mao có lần dụ với Hồ là hãy quay về với TQ, Mao sẽ kiếm cho Hồ một
người vợ TQ. (LND: Khi Hồ còn long đong ở Tàu những năm 1920 thì khi
nghe vậy Hồ tuân lệnh Mao liền. Mao có biết đâu lúc này Hồ đã là chủ tịch nước VNDCCH có cả bầy con gái bao quanh, nên đề nghị của Mao đã không còn tác dụng).
Mao
cũng nhận được một cái tát vào mặt khi Lào yêu cầu TQ rút hết các cán
bộ của họ về nước. Chính sách bành trướng chủ nghĩa Mao đã đi vào ngõ
cụt. Mao tìm ra một giải pháp: ông sẽ mời tổng thống Mỹ Nixon đến thăm
TQ. Cuộc viếng thăm này sẽ đưa Mao ra trước ánh đèn sân khấu chính trị.
Chương 54
Ngay từ khi thành lập chính phủ Mao luôn lớn
tiếng chống Mỹ. Thậm chí Mao còn tố cáo chính sách sống chung hòa bình
của điện Cẩm Linh là một nhượng bộ thua thiệt cho Mỹ.
Năm 1969 tổng thống Mỹ Nixon công khai bắn tiếng muốn phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc (TQ), Mao không thèm
trả lời vì khi đó Mao còn nuôi tham vọng trở thành lãnh tụ khối thứ ba,
thiết lập quan hệ với Mỹ sẽ làm hư hỏng hình tượng của Mao trong các
quốc gia của khối này. Chỉ sau đó 1 năm Mao thấy rằng chủ nghĩa Mao không còn hấp dẫn với các quốc gia này, Mao quyết định mời Nixon sang thăm TQ. Nhưng mời như thế nào để không bị mất mặt (nếu chẳng may Nixon từ chối)?
Tháng
11 năm 1970 Mao nhắn lời mời qua người Lỗ Ma Ni (Romania) để thăm dò
phản ứng của Mỹ. Nixon nhận được ngày 11 tháng 1 năm 1971, nhưng ông
được ban tham mưu khuyên không nên nhận lời một cách sốt sắng. Vì thế Kissinger viết thư trả lời Mao là một cuộc thăm viếng như vậy là quá sớm.
Tháng
3 năm 1971 khi đội thể thao bóng bàn của TQ được gởi sang tranh giải ở
Nhật (lần đầu tiên kể từ cuộc cách mạng văn hóa), đội bóng bàn Mỹ yêu
cầu cho phép họ được qua thăm TQ. Đội thể thao bóng bàn TQ phải điện về
Bắc kinh hỏi ý kiến, và Mao thẳng thừng bác bỏ. Thế nhưng chỉ mấy tiếng
đồng hồ sau, Mao đổi thái độ và ra lệnh mời. Cuộc viếng thăm của đội
bóng bàn Mỹ được cả TQ và Mỹ loan tin trên trang nhất như là một sự kiện
lịch sử hy hữu. Nixon nhận thấy đây là cơ hội để ông nhận lời mời viếng
thăm TQ của Mao. Kissinger được bí mật cử sang gặp Mao, và mang theo
rất nhiều quà cáp của Nixon.
Những món quà mà Nixon tin chắc Mao sẽ không thể
từ chối, gồm có (1) TQ sẽ được gia nhập Hội đồng Thường trực Liên hiệp
quốc thế chỗ Đài loan ngay, (2) TQ sẽ được Mỹ cung cấp những tin tức
tình báo Mỹ biết về
Liên Xô, kể cả những hình ảnh vệ tinh Mỹ chụp được về cuộc bố trí quân
sự của Liên Xô ở biên giới Trung-Xô, (3) Mỹ sẽ rút hết quân đội khỏi
Indonesia trong vòng 12 tháng, (4) Mỹ sẽ rút quân từ từ ra khỏi Nam Hàn
(mà không đòi hỏi TQ phải hứa hẹn không giúp Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn), (5) Mỹ sẽ rút quân ra khỏi Nam Việt Nam, dù có đạt được kết quả ở bàn thương thuyết hay không, và hứa sẽ không đem quân trở lại. Sợ Mao không hiểu,
Kissinger còn nói thêm rõ ràng là: “khi đó Mỹ sẽ cách xa VN cả 10 ngàn
dặm, trong khi Hà nội thì vẫn gần ngay đó” (We will be 10000 miles away
and Hanoi will still be there). Khi bị Chu Ân Lai vặn hỏi về những hứa
hẹn này, Kissinger hứa chắc là Mỹ sẽ không đòi hỏi TQ phải ngừng viện trợ cho Bắc Việt và cũng không yêu
cầu TQ cắt giảm giọng điệu chửi Mỹ trên trường quốc tế. Thế nhưng món
quà hấp dẫn nhất của Nixon dành cho TQ là “Mỹ sẽ chính thức bỏ rơi Đài
loan và sẽ chính thức tái lập quan hệ bình thường với TQ vào năm 1975
nếu ông đắc cử Tổng thống năm 1972”.
Rõ ràng Nixon rất nóng lòng muốn thiết lập quan hệ bình thường với TQ tới độ sẵn sàng bán đứng không những người bạn đồng minh của mình (Đài loan, Nam Hàn, Indonesia và Nam Việt Nam) mà cả kẻ cựu thù của mình (Liên Xô), không hay biết rằng Mao còn muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ hơn gấp nhiều lần.
Khi
Mao được Chu báo cáo kết quả cuộc họp giữa Chu và Kissinger, Mao kết
luận ngay là Nixon rất dễ xỏ mũi và TQ có thể lấy lợi rất nhiều mà không cần phải thay đổi thái độ bài Mỹ hay chế độ độc tài của mình.
Ngày
25 tháng 10 năm 1971 Đài loan bị hất ra khỏi 5 quốc gia thành viên hội
đồng thường trực, thay thế bởi TQ. Sự sắp xếp này diễn ra khi Kissinger
trở lại thăm TQ lần thứ hai, chuẩn bị cho chuyến đi của Nixon. Mao không quên
dặn dò phái đoàn TQ trước khi lên đường tới Liên Hiệp Quốc phải tiếp
tục lớn tiếng chửi Mỹ “một cách công khai”, phải coi Mỹ là kẻ thù số 1.
Chín
ngày trước khi Nixon tới, Mao ngất xỉu. Mao đã rất gần ngày chết. Căn
phòng ngay cạnh phòng tiếp tân được tu sửa thành một bệnh viện thu nhỏ.
Ngày Nixon đến TQ, Mao nóng lòng gặp Nixon, ông hỏi thăm từng chi tiết
lộ trình của Nixon mỗi vài phút. Cả Mao và Nixon đều nóng lòng gặp nhau.
Cuộc
gặp mặt cuối cùng cũng diễn ra, nhưng chỉ ngắn ngủi có 65 phút. Ngoài
những lời thăm hỏi xã giao, Nixon muốn thảo luận về Đài Loan, Việt Nam
và Đại Hàn nhưng Mao không muốn người Mỹ có một bản sao về thái độ của TQ với những nước này, ông nói những chuyện này Nixon nên thảo luận trục tiếp với Chu. Mao vẫn muốn thế giới thứ ba coi Mao là lãnh tụ chống Mỹ.
Chương 55
Tháng 5 năm 1972 bác sĩ khám phá Chu Ân Lai bị ung thư bọng đái. Họ báo cáo chuyện này cho Mao, và ông ra lệnh không được cho ai hay, kể cả Chu và vợ. Lý do Mao đưa ra là Chu đã già (74 tuổi) và yếu tim, không chịu được giải phẫu. Thế nhưng Mao còn già hơn thì sao (Mao 78 tuổi) mà có đầy đủ bác sĩ và phẫu thuật túc trực 24 trên 24.
Khi
Chu bắt đầu nghi ngờ là mình bị ung thư là lúc Mao bắt Chu phải tự phê
về những lỗi lầm mình làm trong quá khứ. Và Chu đã ngoan ngoãn làm theo
lệnh Mao nhưng ông vẩn không được
khám bệnh. Mãi tới năm 1973, khi Chu đi tiểu ra máu, Chu mới được đưa
đi bệnh viện khám, nhưng với điều kiện là chỉ được khám thôi, chứ chưa
được chữa. Người bác sĩ khám bệnh nhận thấy là Chu phải mổ ngay, không thể
chờ đợi được nếu muốn cứu sống Chu, nên đã tự ý mổ lấy bứu ra. Mao bị
đặt trong sự đã rồi, nhưng lúc ấy Mao đang vui vì vừa lèo lái Nixon được
theo ý mình, nên đành chấp nhận mà không làm khó dễ người bác sĩ.
Ngày
22 tháng 6 năm 1973 Brezhnev và Nixon ký hiệp ước đề phòng chiến tranh
nguyên tử, Mao bị hất ra rìa. Mao đổ lỗi cho Chu và bắt ông phải tự nhận
là kẻ xét lại. Tồi tệ hơn, những hứa hẹn của Kissinger không được
thực hiện hay thực hiện chậm chạp (Mỹ vẫn chưa bình thường hóa quan hệ
với TQ và cũng chưa có một hành động gì giúp TQ phát triển vũ khí nguyên
tử), Mao cũng đổ lỗi cho Chu, dù thực ra những chuyện này hoàn toàn do hoàn cảnh đang xảy ra ở Mỹ: Nixon đang lúng túng vì vụ Watergate nổ lớn, cuối cùng ông phải từ chức.
Bịnh
tình Chu càng ngày càng tệ hại: mỗi lần đi tiểu ông đều bị ra máu, nên
phải được truyền máu một tuần hai lần. Có lần đang được truyền máu thì
có giấy gởi tới đòi ông trình diện ngay, bác sĩ xin trì hoãn 20 phút mà không được, phải rút ống chích ra. Sau đó, ông bác sĩ này mới biết là chẳng có chi khẩn cấp cả, chỉ là trò mèo giỡn chuột của Mao thôi.
Khi
Chu sắp mù thì Mao đồng ý cho giải phẫu, ông nhận thấy Chu vẫn còn làm
được việc. Khoảng một tháng sau khi được giải phẫu và đã đi làm lại bình
thường, Chu được bác sĩ của Mao báo cáo là Mao mắc một chứng bệnh không chữa được. Ông giữ kín tin này, không cho Mao hay.
Mèo nào cắn mỉu nao?
Chương 56
Giang Thanh là người vợ chót của Mao.
Nhiều người đánh giá bà là một con quỷ hiếu sát, thế nhưng khi Mao còn
sống thì Giang Thanh chỉ làm theo lệnh Mao. Giang Thanh có câu nói nổi tiếng sau khi Mao chết: “Tôi chỉ là con chó của Mao chủ tịch. Nếu Mao Chủ tịch muốn tôi cắn ai là tôi cắn”.
Bà có hai yếu điểm: thứ nhất là quá khứ khi bị Quốc Dân Đảng bắt, và thứ hai là lá thư bà viết cho người chồng cũ khi bà có chuyện xích mích với Mao, nhờ một người bạn làm đạo diễn một hãng phim gởi đi. Những người nào biết về những chuyện này của bà đều bị bà săn bắt, bỏ tù, tra tấn và giết, và càng giết nhiều người bà càng sợ có ngày bà bị trả thù. Mao biết yếu điểm này của vợ, và đã xử dụng nó để khiến Giang Thanh lúc nào cũng nơm nớp lo sợ những bí mật này bị khai quật.
Mao có hai con gái với Giang Thanh là Li Na (Lý Nạp) và Chiao Chiao (1). Cả hai đều không có tham vọng chính trị, và đều này làm Mao thất vọng. Không ai dám đeo đuổi cô, Li Na lấy chồng năm 30 tuổi, vốn là người làm của cô (2). Giang Thanh, hoàn toàn không đồng ý đám cưới này, nên kiếm chuyện tống cổ anh này đi. Li Na sau này gần như bị điên. Chiao Chiao cũng bị Mao từ chối không cho gặp khi cô chứng tỏ mình không có
ích gì cho Mao về mặt chính trị. Mao có hai con trai với người vợ
trước, Dương Khai Tuệ (Yang Kaihui) là Ngạn Anh (An ying), chết ở chiến
tranh Triều tiên và Ngạn Thanh (An ching), bị bệnh tâm thần. Người sống
gần gũi với Mao nhất là người cháu Viễn Tân (Yuanxin), con của em út của
Mao, Mao Trạch Dân (Mao Tse-min). Độc giả còn nhớ Mao đã không ra tay cứu Trạch Dân khi ông này bị Quốc Dân đảng bắt vào năm 1940. Dĩ nhiên Viễn Tân không được biết chuyện này.
Viễn
Tân được Mao cử làm quân ủy vùng Shenyang (Thẩm Dương, Mãn châu) trong
thời cách mạng văn hóa, và sự tàn ác của Viễn Tân ở đó khiến ông nổi
tiếng. Trong một lần tra tấn một nữ cán bộ đảng tên Zhang Zhixin, Viễn
Tân cắt ống thanh quản của người nữ tù nhân để bà này không nói được, trước khi xử bắn. Sau khi Mao chết chỉ một tháng, Viễn Tân bị bắt vì theo nhóm tứ nhân bang của Giang Thanh.
Cái
chết của Giang Thanh (bà tự tử trong tù) cũng do sự sắp đặt của Mao. Để
đổi lại được sống êm thắm cho đến chết, Mao đồng ý với những người
chống đối ông là họ được toàn quyền làm gì thì làm với nhóm của Giang
Thanh sau khi ông qua đời.
Tất cả mọi người trong gia đình của Mao không ai có được một số phần yên ổn.
Chương 57
Trong
hai năm cuối đời Mao một phong trào chống Mao phát triển một cách âm
thầm mà đáng kể, mà trung tâm điểm là Đặng Tiểu Bình. Đặng bị Mao cách
chức năm 1966 ngay trước khi cuộc cách mạng văn hóa nổ ra, ông và gia
đình bị giam tại gia, và bị bắt trải qua nhiều cuộc đấu tố. Con trai và
gái của Đặng bị bắt buộc phải đấu tố cha mẹ của mình ngay tại đại học
Bắc Kinh. Người con trai nhảy lầu tự tử, không chết
nhưng bị bán thân bất toại. Mao cho đón ông về lại Bắc kinh năm 1973 và
giao cho ông làm phó thủ tướng, nhiệm vụ chính là để tiếp khách nước
ngoài. Cuối năm đó, Đặng được giao quyền lãnh đạo quân đội. Giao cho
Đặng nhiều quyền hành như vậy là một canh bài, nhưng Mao đã tính toán
đúng. Đặng hoàn toàn không cho phép bất cứ một cuộc nổi loạn nào được xảy ra khi Mao còn sống, và ngay cả sau khi Mao chết, Đặng cũng không cho phép hạ bệ Mao một cách chính thức.
Ngay
khi nắm được quân đội, ông cho thâu nhận lại làm việc hàng loạt những
người đã bị Mao thanh trừng trong cuộc cách mạng văn hóa. Ông cũng cho
khôi phục lại một số giá trị văn hóa, và nâng cao mức sống người dân,
những chuyện mà ngày trước Lưu Thiếu Kỳ từng làm và bị khép tội “xét lại”.
Mao
luôn coi cuộc cách mạng văn hóa là một thành công vĩ đại của mình, vì
thế ông đã phong cho 4 người có công nhất được vào bộ chính trị và có
rất nhiều quyền hành: Giang Thanh, Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao),
Vương Hồng Văn (Wang Hongwen) và Diệu Văn Nguyên (Yao Wenyuan). Nhóm này
sau này bị gọi là Tứ Nhân Bang. Đối lại, Đặng cũng thành lập một nhóm
người để chống Mao và nhóm tứ nhân bang bao gồm cả Quân ủy Trung ương
Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) và Thủ tướng Chu Ân Lai.
Đặng
là người hiểu rõ Chu Ân Lai, và đã mượn oai của Chu để thanh trừng nhóm
tứ nhân bang. Ngày 9 tháng 4 năm 1974 tại cuộc họp đảng Chu tuyên bố:
“Trương Xuân Kiều đã phản bội đảng, nhưng Chủ tịch không cho
phép chúng tôi điều tra”. Đây là án tử hình cho Trương Xuân Kiều sau
này, mà cũng đồng thời gián tiếp xác nhận Chu bị ép buộc trong cuộc cách
mạng văn hóa.
Biết rằng cái chết của Mao chỉ đếm từng ngày (mà không cho Mao biết),
bộ ba Chu-Diệp-Đặng ép Mao chính thức phong Đặng làm người thừa kế của
Chu. Khi đó Mao cũng đã được Tứ Nhân Bang báo cáo những hoạt động khả
nghi của nhóm Đặng, nhưng Mao không có
sự lựa chọn nào khác là phải phê chuẩn, nếu ông muốn chết êm ả trên
giường bệnh. Ông chọn giải pháp hàng hai: Đặng được phong làm Đệ Nhất
Phó Thủ tướng nhưng cũng phong Trương Xuân Kiều làm người thứ nhì trong
quân đội và chính phủ, chỉ sau Đặng. Thêm nữa, Tứ Nhân Bang được nắm báo
chí và truyền thanh truyền hình.
Ngày
26 tháng 12 Chu thông báo cho Mao hay tại giường bệnh là Chu có bằng cớ
là Giang Thanh và Trương Xuân Kiều bị Quốc Dân Đảng mua chuộc vào năm
1930. Đây là đòn chí tử của Chu đối với Mao, khi cho Mao hay là người vợ
của Mao và người đứng đầu trong nhóm Mao đã lập ra và tin tưởng là gián
điệp cho kẻ thù.
Tháng 3 năm
1975 Mao liên lạc với nhóm Tứ Nhân Bang để họ phát động một chiến dịch
trên báo và đài để chống lại nhóm Đặng, nhưng Đặng tới gặp mặt Mao yêu
cầu ngừng ngay lại. Mao phải đồng ý, đổ thừa là do nhóm này tự ý làm.
Ngày 3 tháng 5, tại hội nghị bộ chính trị, Mao phải ban lệnh cho nhóm Tứ
Nhân Bang ngừng lại, và chính thức xác nhận đây là lỗi của Mao. Đây là
lần cuối cùng Mao xuất hiện tại Bộ Chính trị. Ai cũng thấy khi đó Mao đã
bị mù, rất yếu, và nói không ra hơi. Cũng tại cuộc họp này, Mao khẩn khoản nhiều lần: “Đừng xét lại nữa, đừng chia rẽ nữa, đừng âm mưu nữa” Câu đầu có nghĩa là hãy trung thành với cách mạng văn hóa. Hai câu sau
có nghĩa là đừng chia rẽ đảng, và đừng âm mưu lật đổ tôi, muốn làm gì
hãy chờ tôi chết rồi đã (làm gì với vợ tôi và nhóm của bả cũng được).
Tháng
6 năm 1975 quân đội thách đố Mao bằng cách tổ chức một cuộc tưởng niệm
cho thống chế Hạ Long (Ho Lung), người bị Mao giết vì nghe bộ trưởng
quốc phòng Liên Xô nói câu: “hãy loại bỏ Mao” mười một năm về trước. Chu Ân Lai có mặt hôm đó, ông ôm vợ Hạ Long mà vừa khóc vừa xin lỗi đã không cứu
ông ấy được khi đó. Thực ra Chu là người đã xử chết Hạ Long vì ông là
trưởng ban điều tra, nhưng sự có mặt của ông hôm đó đã đổ hết mọi tội
lỗi lên đầu Mao.
Ngày 23 tháng 7 Mao mổ mắt lấy hạt cườm ra. Ngay khi thấy lại được, việc làm đầu tiên của Mao là phải thanh trừng Chu, ông không muốn
ai đổ lỗi cho mình cả. Hai tuần sau, ông cho phát động một chiến dịch
trên báo tố Chu. Tuy nhiên chiến dịch này đã phải ngừng lại khi Đặng
trực tiếp đối mặt Mao yêu cầu ngừng lại, một lần nữa Mao đổ thừa cho vợ
mình tự ý làm.
Ngày 8
tháng 1 năm 1976, Chu Ân Lai chết, Mao hành động ngay tức khắc. Ông ra
lệnh sa thải Đặng, bắt giam tại gia, đồng thời đình chỉ công tác Diệp.
Mao lập một người ít ai biết đến là Hoa Quốc Phong (Hua Guo-feng) lên thay Đặng. Lý do Mao chọn Hoa chứ không phải một người trong nhóm Tứ Nhân Bang là để tránh những phản đối đến từ trong đảng và quân đội.
Tuy nhiên, bây giờ không còn
là thời của ngày xưa nữa. Đặng Tiểu Bình khi xử dụng lại hầu hết những
cán bộ đã bị Mao thanh trừng trước kia đã tạo được một lực lượng đông
đảo và mạnh mẽ, dám nói dám làm. Họ hiểu được thế nào là dân làm chủ.
Khi xác Chu Ân Lai được đưa từ nhà thương tới nhà quàn, có trên một
triệu người tự ý xắp hàng dọc đường đưa tiễn ông, mà không có
sự sắp đặt sẵn. Sự vắng mặt của Mao ngày tang lễ của Chu được đánh giá
là tàn ác, và khi Mao đốt pháo mừng tết ở Trung Nam Hải, người ta xầm xì
là Mao ăn mừng Chu chết. Càng ngày càng có nhiều người tụ tập về Thiên
An môn đặt hoa và viết thơ tưởng niệm Chu, và kết án cuộc cách mạng văn
hóa. Và khi họ dám đập phá xe công an và đốt cháy các đồn bót được dựng
lên bởi nhóm Tứ Nhân Bang, lòng dân đã bước sang một ngả rẽ mới. Họ công
khai thách đố Mao.
Chính phủ thẳng tay đàn áp. Máu đổ. Nhưng Mao không còn
lực lượng để đàn áp như xưa: Rất nhiều tướng tá trong quân đội đã tìm
tới nhà riêng của Diệp Kiếm Anh vấn kế và nghe lệnh, dù Diệp đã bị cách
chức. Họ kêu gọi Diệp ra tay bắt nhóm Tứ Nhân Bang, nhưng Diệp khuyên
nên chờ sau khi Mao chết. Diệp cũng vận động với Trưởng ban Bảo vệ Trung
ương Uông Đông Hưng (vốn là thuộc cấp của ông) để bảo vệ tính mạng cho
Đặng Tiểu Bình. Dân chúng treo đầy những cái lọ nhỏ (lọ nhỏ = tiểu bình)
trên các cành thông ở Thiên An môn. Đánh giá được tình hình, Đặng viết
thư cho Mao xin được thả tự do, Mao đồng ý, nhưng tới sau cái chết của
Chu Đức (6/7/1976) ông mới được trả tự do. Tổng cộng thời gian Đặng bị
giam giữ chỉ có 3 tháng.
Chương 58
Mao
có một thói quen có từ thời Trường Chinh là viết. Ông viết về những
người đồng chí của ông, mà đã giúp ông gây dựng sự nghiệp (và cũng vì
ông họ phải chết tức tưởi). Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, ông
đem các bài viết đó ra đọc lại. Vương Minh vì tranh chức với ông đã bị
ông bỏ thuốc độc cho tê liệt, được đưa sang Nga trị bệnh và chết ở đó.
Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài là hai nạn nhân của cuộc cách mạng văn hóa
của ông, mà ngay cả cái chết của họ ông vẫn phải giữ kín. Lâm Bưu, kẻ
tiếp tay đắc lực của ông thanh trừng các đồng chí của ông, cuối cùng
cũng bỏ trốn và rớt máy bay mà chết. Ông còn hận là chưa khám phá được
hết những người có liên hệ với Lâm Bưu trong âm mưu ám sát ông. Ông cũng
đọc lại những bài báo chính tay ông đã viết về Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân
Lai, và ông giận dữ bôi xóa đi những đoạn ông đã ca ngợi họ ngày đó.
Đặng
Tiểu Bình là người duy nhất còn sống mà còn sống là còn nguy hiểm,
nhưng làm sao đây? Ông có trong tay bom nguyên tử thật đấy, nhưng làm
sao mà xử dụng nó?
Tham vọng bá chủ
thế giới đã tan tành như mây khói. Ông đã thành công xây dựng một định
nghĩa cho một thế giới thứ ba, để hy vọng được họ coi ông là lãnh tụ.
Thế giới thứ ba thành hình, nhưng họ có nghe lời ông đâu. Ông có lần đau
đớn thú nhận với Kissinger: “Chỉ có hai cường quốc trên thế giới, còn
Trung quốc thì tụt hậu”, đếm ngón tay, ông nói tiếp: “Mỹ, Liên Xô, Châu
Âu, Nhật, rồi mới đến Trung quốc. Chúng tôi đứng chót”. Mao cũng có nhận
xét với Tổng thống Ford: > “Người Trung quốc chỉ còn bắn súng ... không đạn” và “chửi thề”.
Trong khi cay đắng nhìn tham vọng làm bá chủ thế giới không thành tựu, ông không hề
có chút hối tiếc nào đã hy sinh trên 70 triệu người Trung quốc. Ông chỉ
tiếc cho cá nhân ông. Những ngày cuối đời, ông đòi xem lại các cuốn
phim tuyên truyền ông đã cho đóng, và những cận thần kể lại là thấy ông
vừa coi vừa nước mắt chảy dài.
Mao
được đưa đến ở trong một dinh thự mang bí số 202, trong khu Trung Nam
Hải từ tháng 7 năm 1976. Căn biệt thự này được xây cất để chống động
đất. Ngày 8 tháng 9 ông không còn nói ra lời, một người thư ký báo lại là ông nói: “tôi thấy mệt, gọi bác sĩ”. Đây là câu nói cuối cùng của Mao. Ông chết lúc 12 giờ 10 phút đêm hôm đó.
Ông không để lại di chúc cho ai thừa kế, dù ông có rất nhiều thì giờ để làm chuyện đó.
Ông chống đối Lâm Bưu khi Lâm đòi làm người thừa kế của ông. Ông từ
chối xác nhận cho Hoa Quốc Phong thay thế ông, dù Hoa tuyệt đối trung
thành với ông. Ông sợ người ta sẽ đảo chánh ông, nên ông chỉ có một
nguyện vọng: để ông chết an lành trên giường bệnh, sau khi ông chết, chuyện gì xảy ra cho Trung Quốc và ngai vàng của ông, ông mặc kệ.
Hết
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Phụ lục: Mao Chỉ Là Yêu Quái?
Nicholas D. Kristof [1], Nguyễn Ước dịch
Nếu
Chủ tịch Mao thật sự nhìn thấu tương lai, hẳn ông đã định vị được ở
tỉnh Tứ Xuyên có một bé gái tên Jung Chang và đã “mie jiuzu” – giết nó
và diệt tuyệt hết thảy thân nhân của nó theo lối tru di tam tộc.
Nhưng
thay vì thế, bé gái ấy lớn lên, sang Anh ở, và ngày nay viết một cuốn
tiểu sử về Mao [2], góp phần hủy hoại vĩnh viễn tiếng tăm của Mao. Dựa
vào một thập niên với những cuộc phỏng vấn tỉ mỉ và những nghiên cứu các
văn khố, cuốn tiểu sử cự phách này giật sập, một cách có phương pháp
luận, mọi trụ cột của yêu sách đòi đồng cảm hoặc tán thành sự nghiệp của
Mao hoặc chính thống hóa Mao.
Cách đây
gần bảy chục năm, cuốn “Red Star Over China: Sao Đỏ Trên Khắp Trung Hoa”
của Edgar Snow đã góp phần biến Mao thành nhân vật anh hùng đối với
nhiều nơi trên thế giới. Nó từng đánh dấu một khoang trên kệ sách, mở
đầu cho vị trí chói lọi của Mao trong lịch sử – nay thì cuốn sách này
đánh dấu một khoang khác.
Khi
lần đầu mở cuốn sách này ra, tôi có lòng ngờ vực. Chang là tác giả cuốn
“Wild Swans: Những Thiên Nga Hoang Dã”, một bản ghi chép tràng giang và
thành công về ba thế hệ phụ nữ trong gia tộc bà; nó hấp dẫn nhưng không là
một một tác phẩm có tính chất học thuật. Nó xuất hiện khi tôi đang sống
ở Trung Quốc; các bạn người Hoa của tôi và tôi đều ngạc nhiên về sự
thành công của nó vì những trải nghiệm mà Jang kể lại thì buồn nhưng
cũng chẳng khác thường. Riêng cuốn tiểu sử này, viết chung với chồng bà
là Jon Halliday, một sử gia, thì tôi đã kỳ vọng nó cũng phong phú mà nhẹ
nhàng như thế. Cũng vậy, cái nhan đề “The Unknown Story: Câu Chuyện Không Được Biết” - mà nói cho cùng là viết về Mao, làm tôi chùn tay.
oOo
Tuy
thế đây lại là một tác phẩm có thẩm quyền. Thật vậy, trong nhiều năm
vừa qua, phần lớn sự bạo tàn của Mao đã nổi lên rõ nét, nhưng cuốn tiểu
sử này cung cấp những thông tin mới mẻ và có chất lượïng, đồng thời
trình bày chúng hoàn toàn bằng một văn phong khiến người trên khắp thế
giới đặt nó trên bàn cạnh giường ngủ. Chẳng ngạc nhiên việc chính phủ
Trung Quốc không chỉ
cấm cuốn sách này mà còn cấm luôn cả những bài điểm nó trong các tạp
chí, vì qua những trang sách này, Mao xuất hiện như một Hitler khác hoặc
một Stalin khác.
Riêng mặt
đó, tôi có những nghi ngại về các phán xét của cuốn sách, vì theo cảm
quan của tôi, Mao tuy đáng tởm nhưng cũng đã mang lại những thay đổi có
ích cho Trung Hoa. Và thỉnh thoảng cả hai tác giả dường như quá hăm hở
hủy diệt Mao tới độ tôi tự hỏi liệu họ có gạt bỏ bằng chứng vô tội hay không. Nhưng sẽ bàn thêm về điều đó sau.
Mao dĩ nhiên không chỉ
là một nhân vật lịch sử mà còn thuộc về mạng lưới (tả tơi) của sự chính
thống hóa mà Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc dựa trên đó. Ông thuộc phần
của huyền thoại thành lập chính quyền Trung Quốc, nhân vật Romulus và
Remus [3] - của nước “Trung Quốc Nhân Dân”, và đó là lý do chân dung của
ông được treo ở Quảng trường Thiên An Môn. Ngay giữa những người Trung
Quốc bình thường, Mao tiếp tục giữ một vị trí trong trí tưởng tượng bình
dân, và tại những vùng khác nhau ở Trung Quốc, một số dân quê bắt đầu
dựng đền miếu có tính tôn giáo truyền thống để vinh danh ông. Đó là sự
vinh danh tột bậc dành cho một kẻ vô thần – ông trở thành một vị thần.
Các tội lỗi của Mao trong phần sau của đời ông thì tương đối được biết rõ,
thậm chí Trần Vân [Chen Yun], một trong các lãnh tụ chóp bu của Trung
Quốc thập niên 1980, gợi ý rằng có thể tốt nhất nếu Mao chết vào năm
1956. Dù vậy, cuốn tiểu sử này lại cho thấy Mao là một cái gì đó lừa đảo
kể từ Ngày Thứ Nhất.
Thí dụ, cả hai tác giả khẳng định rằng trong thực tế, Mao không là thành viên sáng lập của Đảng Cộng sản Trung Quốc như đã được tin tưởng rộng rãi, và rằng Đảng ấy được thành lập năm 1920 chứ không phải
1921. Thêm nữa, cả hai dựa vào việc nghiên cứu sâu rộng trong các văn
khố của Nga để trình bày rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc hoàn toàn bị
người Nga khống chế. Trong một giai đoạn kéo dài 9 tháng vào năm 1920,
thí dụ 94% tài trợ của Đảng đến từ Nga và chỉ có 6% là do quyên góp ở
địa phương. Mao nổi lên làm thủ lãnh đảng không phải
vì được các đồng chí Trung Quốc ưa thích mà vì Matcơva chọn ông. Và lý
do độc nhất khiến Matcơva chọn ông là vì ông nịnh hót nổi bật hơn cả:
ông từng có lần kể lể với người Nga rằng “Trật tự của Quốc tế Cộng Sản
mới nhất [Đệ Tam] rực rỡ tới độ nó làm tôi hân hoan nhảy đựng lên 300
lần.”
Mao luôn luôn nổi tiếng
là một lãnh tụ nông dân vĩ đại và một nhà chiến lược quân sự vĩ đại,
nhưng cuốn tiểu sử này chế nhạo lời tuyên xưng đó. Huyền thoại ấy bắt
đầu từ “Cuộc Khởi Nghĩa Vụ Gặt Mùa Thu” năm 1927. Thế nhưng theo Chang
và Halliday thì Mao không can dự vào cuộc chiến đấu đó và trên thực tế, Mao phá hoại nó – cho mãi về sau, ông mới cưỡng chiếm uy tín của nó.
Người ta biết rõ
rằng người vợ đầu của Mao (hoặc thứ hai tùy cách bạn tính) là Dương
Khai Huệ [Yang Kaihui], bị giết năm 1930 bởi một sứ quân đối thủ của
Mao. Nhưng chẳng biết thêm gì nhiều về bà ấy. Ngày nay, Chang và Halliday trích dẫn từ các bức thư buốt nhói và không được
gởi đi, tìm thấy trong thời gian tân trang ngôi nhà cũ của bà từ năm
1982 tới 1990. Các bức thư ấy cho thấy tình bà yêu Mao sâu xa cùng với
phản ứng kinh tởm của bà đối với sự tàn bạo thời của bà (và của chồng
bà). “Giết, giết, giết”, bà viết trong một bức thư mà đã trở thành một
loại hồi ký cuộc đời mình. “Tất cả những gì tôi nghe trong tai mình là
âm thanh ấy! Tại sao loài người quá độc dữ? Tại sao quá tàn bạo?” Mao đã
có thể dễ dàng cứu người phụ nữ dịu dàng ấy vì ông đi ngang ngôi nhà mà
ông đã bỏ bà ở lại. Nhưng ông chẳng nhấc ngón tay lên, và bà bị bắn
chết lúc tuổi 29.
Khoảng thời gian
đó, cuốn sách kể lại, nhiều người trong Hồng Quân thiếu tin cậy Mao – vì
thế ông phát động một cuộc thanh trừng tàn bạo các cấp bộ Cộng sản. Ông
viết cho các cơ quan đầu não của đảng rằng ông đã phát hiện 4.400 tên
phá hoại trong đảng, đã tra tấn hết thảy, và đã hành quyết hầu hết bọn
chúng. Một bản báo cáo mật được tìm thấy là vào thời đó, trọn bộ chỉ huy
của toàn thể Hồng Quân dưới quyền Mao đều bị tàn sát, thường là sau khi
đã tra tấn bằng những cách thức như chọc thẳng cây sắt nung đỏ vào trực
tràng.
oOo
Một
trong những yếu tố được trân trọng bảo tàng nhất của Đảng Cộng sản
Trung Quốc là Cuộc Trường Chinh, một cuộc tẩu thoát thần thánh băng
ngang nước Trung Hoa để tới khu an toàn ở Tây Bắc. Nó thường được kỷ
niệm như một cuộc hành trình trong đó Mao và các đồng chí của ông biểu
lộ sự can trường và khôn ngoan cực kỳ khi lẽn qua các phòng tuyến của kẻ
thù và khuất phục mọi gian khổ. Chang và Halliday xói mòn mọi thành tố
của sự am hiểu thông thường ấy.
Thứ nhất,
cả hai tranh cãi rằng Mao với Hồng Quân thoát ra được và bắt đầu Cuộc
Trường Chinh chỉ vì Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch cố ý để cho họ làm như
thế. Chang và Halliday tranh cãi rằng họ Tưởng muốn phái binh sĩ của
ông ta xuống ba tỉnh Tây Nam nhưng e ngại việc gây thù nghịch với các sứ
quân địa phương ở đó. Vì thế, ông tạo một đườøng rãnh cho Hồng Quân
theo Cuộc Trường Chinh mà đi vào các tỉnh ấy, gây hoảng sợ cho các sứ
quân, và ông theo lời mời của họ mà gởi binh sĩ tới để trục xuất Hồng
Quân, và như thế, ông thành công trong việc mang các tỉnh ương ngạnh ấy
nhập vào vùng lãnh thổ của mình.
Sửng sốt hơn nữa là cả hai tác giả tranh cãi rằng suốt hầu hết Cuộc Trường Chinh Mao thậm chí không đi
bộ – ông đi cáng. Họ trích dẫn lời Mao nói nhiều chục năm sau đó:
“Trong cuộc quân hành ấy, tôi nằm trên kiệu. Thế tôi làm gì. Tôi đọc.
Tôi đọc nhiều lắm.” Ngày nay, đó thật là trưởng giả.
Trận
đánh nổi tiếng nhất trong Cuộc Trường Chinh là việc quân Cộng Sản vượt
qua cầu Đại Độ (Dadu), được cho rằng là một cuộc xung phong anh dũng
dưới hỏa lực của quân thù. Cuốn “The Long March: Cuộc Trường Chinh” của
Harrison Salisbury xuất bản năm 1985 mô tả đó là “một cuộc tấn công tự
sát” ào lên chiếc cầu đã gần như bị tháo rời từng mảnh rồi bị tẩm dầu
hỏa và đốt cháy. Nhưng Chang và Halliday viết rằng trận đánh ấy hoàn
toàn là một sự bịa đặt, và trong niềm khải hoàn của học thuật, họ trích
dẫn bằng chứng rằng hết thảy 22 người dẫn đầu vượt qua cầu đều sống sót
và sau đó nhận tặng phẫm mỗi người một bộ quần áo Lê-nin và một cây bút
máy. Chẳng người nào bị thương. Cả hai trích dẫn rằng Chu Ân Lai biểu lộ
sự lo lắng sau đó vì bị mất một con ngựa khi băng qua cầu.
Câu chuyện được
kể tiếp theo một nguồn mạch tương tự như thế: Mao có một địch thủ,
Vương Minh (Wang Ming), bị đánh thuốc độc suýt chết trong khi họ trú ẩn ở
Diên An. Mao hoan nghênh cuộc xâm lược Trung Hoa của người Nhật, vì ông
nghĩ rằng nó sẽ đưa tới cuộc phản công chống xâm lược của người Nga và
là một cơ hội cho ông dẫn đầu một chế độ bù nhìn cho Nga. Chẳng những không lãnh
đạo cuộc chiến đấu chống lại người Nhật. Mao còn ra lệnh cho Hồng Quân
đừng đánh nhau với quân Nhật, và ông nổi khùng khi các thủ lãnh Cộng sản
khác đụng độ lẻ tẻ với Nhật. Quả thật, Mao được nói là đã hợp tác với
tình báo của Nhật để làm tiêu hao các lực lượng của người Trung Hoa theo
chủ nghĩa dân tộc.
oOo
Gần như mọi người đều kinh ngạc. Tôn Dật Tiên phu nhân, cũng được biết với tên Tống Khánh Linh, bị miêu tả là điệp viên của Liên Sô, mặc dù không có
sức thuyết phục lắm. Và Trương Học Lương, vị “Thống Chế Trẻ Tuổi”,
người được tưởng nhớ một cách rộng rãi tại Trung Quốc như một vị anh
hùng vì hành động bắt cóc Tưởng Giới Thạch để buộc ông ta phái đánh nhau
với Nhật, được miêu tả là một kẻ có máu đảo chánh và thèm khát quyền
lực. Tôi quen biết vị
Thống Chế Trẻ Tuổi đó vào cuối cuộc đời của ông, và chữ ông viết theo
thư pháp cái tên Trung Hoa của tôi được dùng để trang trí cho danh thiếp
bản chữ Hoa của tôi, nhưng lúc này tôi đang tự hỏi có nên có bản danh
thiếp mới hay không.
Sau
khi Mao nắm quyền, Chang và Halliday cho thấy ông tiếp tục ác ôn. Đây
là ý kiến đã quá quen thuộc, nhưng về vấn đề đó vẫn có những phát giác
mới. Mao dùng Chiến Tranh Triều Tiên như một cơ hội để tàn sát các bộ
đội từng theo dân tộc chủ nghĩa. Và Mao phát biểu một số điều đáng lưu ý
về dân quê mà ông được cho là người mạnh mẽ bênh vực họ. Vào thập niên
1950, trong khi họ đang chết đói, Mao ra lệnh: “Hãy giáo dục dân quê ăn
ít hơn, và hãy nấu nhão lúa mạch hơn. Nhà nước nên cực kỳ hà khắc... để
ngăn đừng cho dân quê ăn nhiều quá.” Tại Matcơva, ông đề nghị hy sinh
tánh mạng của 300 triệu người Trung Quốc, một nửa dân số thời đó, và vào
năm 1958, ông điềm nhiên tuyên bố về toàn dân đang lao lực: “Lao động
như thế này, với hết thảy các dự án này, một nửa dân Trung Quốc rất có
thể sẽ chết.”
Thỉnh thoảng, Mao có vẻ điên
rồ. Ông đùa nghịch bằng việc gạt bỏ danh tính của nhiều người và thay
chúng bằng các con số. Và trong khi thảo luận về khả năng hủy diệt địa
cầu bằng vũ khí hạt nhân, Mao trầm ngâm nói với mình rằng: “Đây có thể
là một sự cố lớn lao đối với thái dương hệ, nhưng đối với vũ trụ được
quan tâm như một toàn thể, thì nó hẳn chỉ là một việc tầm thường.”
Chang
và Halliday kể lại chi tiết làm thế nào mà Bước Đại Nhảy Vọt dẫn tới
nạn đói tệ hại nhất trong lịch sử vào cuối thập niên 1950 và đầu thập
niên 1960, và làm thế nào vào năm 1966, Mao tái thu tóm quyền lực tối
thượng trong sự hỗn loạn của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Vài tư liệu hấp dẫn
nhất liên quan tới Chu Ân Lai, vị thủ tướng rất lâu năm, kẻ gây ấn
tượng rằng ông là người hoàn toàn sủng nịnh Mao, dù Mao đã hành hạ ông
qua việc buộc ông tự phê và đặt ông ngồi ở chiếc ghế thứ ba trong các
cuộc họp. Vào giữa thập niên 1970, Chu đau đớn vì bệnh ung thư, vậy mà
Mao không chịu
cho ông được điều trị – Mao muốn Chu là kẻ chết trước mình. Vào ngày 9
tháng Năm năm 1974, Mao tuyên bố: “Bỏ ngay việc giải phẩu. Tuyệt đối không được bàn cãi gì cả.” Và thế là đủ đảm bảo cho Chu qua đời vào đầu năm 1976 và Mao chết vào tháng Chín cùng năm.
Đây
là bức chân dung phi thường của một yêu quái, là kẻ mà cả hai tác giả
qui trách nhiệm về hơn 70 triệu cái chết. Nhưng con số ấy làm sao chính
xác? Bản thư mục và các chú thích cuối sách cho ta cảm giác về nguồn tài
liệu, và chúng gây ấn tượng: cả hai tác giả tuyên bố rằng đã trò chuyện với
nhiều người, từ con gái của Mao, Lý Nhẫn (Li Na), đến tình nhân của
Mao, Trương Ngọc Phượng (Zhang Yufeng), tới các tổng thống George
H.W.Bush và Gerald Ford. Nhưng không rõ
ràng rằng những người ấy đã nói ra bao nhiêu. Một trong những người
được liệt kê như một nguồn tin là Trương Hán Chi (Zhang Hanzhi), thầy
dạy tiếng Anh cho Mao và là cận thần; bà cũng là một trong những bạn
người Hoa cao niên nhất của tôi vì thế tôi có kiểm tra bà. Trương Hán
Chi nói với tôi rằng bà quả thật có gặp không chính thức Chang một hoặc hai lần nhưng bà từ chối phỏng vấn và không hề
nói điều gì đáng kể. Tôi hy vọng rằng Chang và Halliday sẽ chia sẻ một
số tư liệu gốc của họ, hoặc qua mạng internet hoặc cho các học giả khác,
để người ta có khả năng phán đoán rằng cả hai đã công bằng và chính xác
ra sao khi đạt tới những kết luận ấy.
Cảm giác của tôi là hầu hết các sự kiện và các phát hiện đều dường như được hỗ trợ khá tốt, nhưng những mơ hồ thì không luôn
luôn được thừa nhận một cách thích đáng. Còn về sự tín nhiệm của các
tác giả thì hình như cả hai đã hướng rõ rệt vào việc dựa trên một số tạp
chí của Hongkong vốn chuyển động trong sự pha trộn mờ ảo giữa thực tế
và hư cấu, nhưng [với các tạp chí ấy thì] việc họ lục lọi cho ra sự thật
lại càng khó khăn hơn việc thừa nhận. Các hồi ký và các hồi tưởng mà cả
hai tác giả dựa vào có thể đáng tin, hầu hết về thời đó, nhưng tôi tự
hỏi về sức nặng của sự quá đổi tự tin mà cả hai tác giả dùng tới trong
việc kể tỉ mỉ các biến cố và các lời trích dẫn – và tôi e rằng một số
điều có thể bị thổi phồng.
Đan
cử nạn đói ghê gớm từ năm 1958 tới 1961. Cả hai tác giả tuyên bố rằng
”gần 30 triệu người chết”, và trong một chú thích cuối trang, họ trích
dẫn sự phân tích dân số Trung Quốc về con số tử vong trong những năm đó.
Đúng, có thể. Nhưng cũng có nhiều chuyên gia ước lượng trong những cuốn
sách và những tạp chí có tính chất học thuật về con số người chết, cách
biệt nhau rất lớn, và trong thực tế, không người nào thật sự biết chắc chắn – và chắc chắn rằng dữ kiện tử vong không quá
hoàn chỉnh để có thể gây cảm hứng tự tin. Những ước lượng tỉ mỉ nhất
của các nhà dân số học từng nghiên cứu con số người chết đó thì hầu hết
thấp hơn con số trong cuốn tiểu sử này: Judith Banister ước lượng 30
triệu; Basil Ashton cũng xấp xỉ 30 triệu; và Xizhe Peng đề nghị khoảng
23 triệu. Việc chỉ đơn giản lấy ra con số ước lượng cao nhất từ một văn
bản và giữ riết nó như một ước lượng chính xác khiến tôi e ngại; nếu cái
đó bị thổi phồng thì những cái khác ra sao?
Một vấn đề khác: Mao gây ấn tượng là kẻ quỉ quyệt đến mức như thế, tới độ ông không bao giờ thật sự trở thành ba chiều kích. Là độc giả, chúng ta chùn lại trước ông nhưng không thật
sự hiểu ông. Ông được trình bày như một người mắc bệnh tâm thần, cư xử
vụng về và bất nhất, khiến ta khó mà thấu hiểu làm thế nào Mao đánh bại
hết thảy các đối thủ của mình để lãnh đạo Trung Quốc và nổi bật như một
trong những nhân vật được thờ phượng nhất trong thế kỷ vừa qua.
oOo
Sau
cùng, đó là chỗ đứng của Mao trong lịch sử. Tôi đồng ý rằng trong rất
và rất nhiều khía cạnh, Mao là nhà cai trị tai ương và cuốn sách này nắm
bắt mặt đó tốt hơn bất cứ cuốn sách nào từng được viết ra. Nhưng di sản
của Mao không hoàn
toàn xấu. Cải cách ruộng đất tại Trung Quốc, giống như cải cách ruộng
đất tại Nhật Bản và Đài Loan, góp phần đạt công trình chuẩn bị cơ bản
cho sự thịnh vượng ngày nay. Hành động giải phóng phụ nữ và chấm dứt tệ
nạn tảo hôn đã đưa Trung Quốc từ một trong những nơi đối xử với thiếu nữ
tồi tệ nhất thế giới thành một nơi mà phụ nữ có quyền bình đẳng còn hơn
những nơi, thí dụ như Nhật Bản hoặc Hàn Quốc. Quả thật, cuộc tấn kích
toàn diện của Mao vào nền kinh tế già nua và cấu trúc xã hội đã tạo hoàn
cảnh dễ dàng hơn cho Trung Quốc nổi bật như một con rồng kinh tế mới mẻ
của thế giới.
Có lẽ sự so
sánh thích hợp nhất là với Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế tiên khởi của nhà
Tần, kẻ 2.200 năm trước đây đã thống nhất Trung Hoa, xây lên phần lớn
Vạn Lý Trường Thành, tiêu chuẩn hóa việc đo lường, tạo ra đồng tiền
chung và một hệ thống pháp luật – nhưng đốt sách và chôn sống các học
giả. Vị hoàng đế nhà Tần ấy hung ác và thỉnh thoảng điên dại như Mao –
nhưng sự thành công của ông trong việc hòa nhập và củng cố Trung Hoa đã
đặt nền tảng chuẩn bị cho triều đại kế đó, nhà Hán, một trong những kỷ
nguyên hoàng kim của văn minh Trung Hoa. Tôi nghĩ, trong một cách thức
giống như thế, sự tàn ác của Mao là tai ương nhất thời; nó được ghi lại
một cách xuất sắc trong cuốn sách phi thường này – và tuy thế, có điều
còn hơn là một câu chuyện: Mao cũng đã giúp đặt nền tảng chuẩn bị cho sự tái sinh và chỗi dậy của một Trung Hoa sau năm thế kỷ ngủ say.
Chú thích của người dịch:
[1]
Nicholas D. Kristof, bình luận gia của tạp chí The New York Times, cùng
với vợ là Sheryl WuDunn viết nhiều sách về Trung Hoa và châu Á.
[2]
The Unknown Story của Jung Chang và Jon Halliday, có kèm hình minh họa,
dày 814 trang. NXB Alfred A.Knopf, Anh, Tháng Sáu 2005.
[3]Theo
truyền kỳ của La mã, Romulus là kẻ thành lập và là hoàng đế đầu tiên
của La mã. Cùng Remus là anh em sinh đôi, lúc hài nhi, cả hai bị bỏ rơi
và được chó sói nuôi. Người La mã đồng hóa ông với vị thần Quirinus.
Nguồn: Bài điểm sách có nhan đề The Real Mao: Mao
thật của Nicholas D. Kristof, đăng trong The New York Times BOOK
REVIEW, ra ngày Chủ Nhật, October 23, 2005, các trang 1 và 9&10.
Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (lược dịch)
(Mao: The Unknown Story)
Phụ lục: Khi Mao Hống
Adi Ignatius - Nguyễn Ước dịch [*]
Tiểu sử của kẻ thay đổi Trung Quốc phác họa một chân dung ương ngạnh nhưng sống động về một bạo chúa
Vào
cuối thập niên 1970 lúc tôi lần đầu tiên du hành tới Trung Quốc như một
sinh viên và rồi là thông tín viên nước ngoài thì người Trung Quốc đang
choáng váng bắt đầu dò dẫm những ranh giới mới của tự do sau cái chết
của Mao Trạch Ðông. Lúc đó có cuộc tuyên truyền tấn kích dồn dập Tứ Nhân
Bang - bọn bốn tên (gồm cả vợ của Mao là Giang Thanh) bị qui trách về
Cuộc Cách Mạng Văn Hoá, một thập niên kinh khiếp mà Mao đã buông cương
và kế đó nuôi dưỡng. Mao không bị tính sổ vào bộ tứ hung hiểm ấy, nhưng khi tôi gặp gỡ những người Trung Quốc gan dạ và nói chuyện với
họ về Bè Lũ ấy thì họ đưa năm ngón tay lên, rồi chầm chậm cụp ngón cái
lại để giữ cho đúng sự tính sổ chính thức những kẻ âm mưu. Thông điệp
thật rõ ràng: Mao là ngón tay biến mất ấy.
Gần
ba thập niên sau đó, nhân dân Trung Quốc vẫn vật vã với cách xử lý di
sản của Mao. Ðảng Cộng Sản tiếp tục bảo vệ ký ức về ông; bộ mặt ông vẫn
chế ngự Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc kinh. Và trong khi người Trung
Quốc nói chung thừa nhận sự tàn bạo của ông thì hầu hết lại dường như ấp
ủ hình ảnh ông như một người lập quốc, kẻ đã lật sấp hàng thế kỷ bị sỉ
nhục trong bàn tay của các siêu cường ngoại bang. Ðiều hiển nhiên là gần
như bản thân các đấng quốc phụ đều có khuyết tật. (Tại Hoa Kỳ, George
Washington thì ngạo mạn; John Adams thì hay than vãn; Thomas Jefferson
thì ngoại tình.) Nhưng những cuốn tiểu sử gần đây đã làm rõ ra rằng Mao không chỉ tàn nhẫn mà thôi, về thực tế, sự tàn nhẫn của ông trong lịch sử thì không ai
sánh bằng. Nếu một Mao thần tượng và thời thượng xã hội chủ nghĩa từng
có thời dường như được ôm hôn thắm thiết còn hơn, chẳng hạn như Stalin,
thì ngày nay, bản thành tích đã làm rõ ra rằng hai kẻ ấy là địch thủ
tranh đua nhau về sự tàn bạo. Qua việc giết người và cai trị tồi, cả hai
chịu trách nhiệm về hàng chục triệu cái chết.
Nỗ lực mới đây nhất nhằm chiếu ánh sáng khắc nghiệt của lịch sử lên Người Lái Tàu Vĩ đại ấy là cuốn Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết (Mao: The Unknown Story) của Jung Chang và Jon Halliday. Chang là tác giả cuốn Những Thiên Nga Hoang Dã (Wild Swans), một hồi ký hấp dẫn và bán cả triệu cuốn vào năm 1991, kể câu chuyện làm
thế nào mà ba thế hệ trong gia tộc bà sống sót qua những biến động thời
hiện đại ở Trung Quốc. (Bà từng là Vệ Binh Ðỏ theo Mao-ít trong các
giai đoạn đầu của Cuộc Cách Mạng Văn Hóa.) Halliday, chồng của Chang, là
một tác giả và là một sử gia về Nga.
Mao
của họ thì xấu tới tận cốt tủy, kẻ lúc nào cũng ích kỷ và mưu mô trí
trá, thuở thanh niên đã ấp ủ "một tình yêu sự ác ôn khát máu". Và rồi
thì ông thật sự biến thành một kẻ tởm lợm. Mao thanh trừng và giết chết
các đối thủ. Ông ngốn như lợn cao lương mỹ vị ngoại nhập giữa nạn đói
tập thể do các chính sách của ông gây ra. (Cả hai tác giả nêu con số ước
lượng 38 triệu người dân chết vì đói và vì lao lực trong Bước Ðại Nhảy
Vọt. Trong khi đó, Mao bám riết các kế hoạch kỹ nghệ hoá lầm lạc và điềm
nhiên bình luận rằng, "một nửa Trung Quốc rất có thể phải chết.") Trong
thập niên 1970, Mao thậm chí còn cấm giải phẩu kẻ trung thành Số Hai
của mình là Chu Ân Lai đang khổ sở vì ung thư bàng quang, để góp phần
bảo đảm rằng họ Chu sẽ không sống lâu hơn mình.
Mao bám riết các
kế hoạch lầm lạc
của mình và điềm
nhiên bình luận rằng:
"một nửa Trung Quốc
rất có thể phải chết"
|
Ðã
và đang có nhiều tranh luận giữa các học giả Trung Quốc về việc biên
tập và in cuốn sách này (nó đã được xuất bản tại Anh vào Tháng Sáu).
Chang và Halliday bỏ ra bảy năm nghiên cứu cho cuốn sách và tiến hành
các cuộc phỏng vấn những người cùng cánh với Mao còn sống khắp thế giới.
Nhưng trong chừng mực chi tiết của nó, đây là bức chân dung một chiều,
với rác rưởi tới nơi tới chốn, làm người ta ngập ngừng, cũng thế đối với
sự chắc chắn mà với nó nhiều biến cố được mô tả. Cả hai tác giả nói,
"Mao cóc cần cái gì xảy tới sau khi ông ta chết." Ai có thể mô tả thật
chính xác, thậm chí các cảm xúc của mình, với một sự tin chắc như thế.
Tuy
thế, đây là một cuốn sách thú vị, và vì hình ảnh vĩ đại ấy, đây tối hậu
là một cuốn sách cung cấp nhiều thông tin về một nhận vật sẵn sàng cho
sự tái thẩm định bất cứ lúc nào. Thật khó tha thứ cho kẻ đã quá bị ám
ảnh bởi quan điểm chính trị nhỏ nhen và oán thù tới độ sau cuộc động đất
ở Ðường Sơn năm 1976 làm chết hàng trăm ngàn người Trung Quốc, ông đứng
chủ trì cuộc vận động chống kẻ thù chính trị của mình là Ðặng Tiểu Bình
và hạ lệnh cho những người cứu hộ ngừng công tác cấp cứu để "tố cáo họ
Ðặng trên hoang tàn đổ nát." Có thể nay tới lúc đưa lại ngón tay thứ năm
ấy lên trời.
[*] Nguyên tác: The Mao That Roared, Tuần báo Time, October 31, 2005 . Ấn bản Canada, trang 50. (Trang 82, Ấn bản Hoa Kỳ)
Nôi dung bài viết này lần đầu tiên tôi được biết; quả là Trung Quốc có những vị nguyên thủ rất phức tạp, đầy mưu mô
Trả lờiXóa