Nhà thơ Thâm Tâm: Neo lại với đời bằng bài
thơ tống biệt
|
"Thế giới
thơ rất dân chủ, hay nói đúng hơn có lối công bằng kỳ quặc. Người có một câu
hay được nhắc đến như người có vạn bài, miễn rằng câu ấy đã đến được xứ
thơ" - Nhận xét trên của Chế Lan Viên được nảy ra khi ông nghĩ về đời
thơ Bích Khê.
Cũng đúng với
trường hợp Thâm Tâm. Viết ít và mất quá sớm, nhưng chỉ với một "Tống
biệt hành" thôi đã đủ để tên tuổi Thâm Tâm mãi mãi neo lại với đời. Nói theo
cách của John Don "Nếu sóng cuốn xuống biển một mỏm đá ven bờ thì châu
Âu sẽ bé đi", phong trào Thơ Mới dù đã đem đến cho độc giả nhiều bài thơ
hay, song cũng sẽ khiến ta có cảm giác trống vắng nếu như thiếu đi một
"Tống biệt hành" của Thâm Tâm. Đó là bài thơ có nhiều điểm độc đáo
cả về nội dung và hình thức.
Đưa người, ta
không đưa qua sông
Sao có tiếng
sóng ở trong lòng?
Bóng chiều
không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng
hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta
chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình,
một dửng dưng…
- Ly khách! Ly
khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa
về bàn tay không
Thì không bao
giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già
cũng đừng mong.
Ta biết người
buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ
sen nở nốt
Một chị, hai
chị cũng như sen
Khuyên nốt em
trai dòng lệ sót.
Ta biết người
buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa
thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây
thơ đôi mắt biếc
Gói tròn
thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như
chiếc lá bay
Chị thà coi
như là hạt bụi
Em thà coi như
hơi rượu say
Bài thơ được
viết theo thể hành - một thể thơ cổ phong có đặc điểm là khá tự do phóng
túng, vốn thịnh hành ở thời Hán Ngụy (Trung Quốc). Thể thơ này đến thời Thơ
Mới ít được dùng, và cũng không mấy tác giả thành công. Vì lẽ ấy mà ngoài yếu
tố hay, "Tống biệt hành" còn có một vị trí riêng.
Nếu xét ngữ
nghĩa từng câu thì không có gì thật khó hiểu, nhưng trên tổng thể cả bài thì
quả là… phức tạp. Đến nay, mặc dù bài thơ được nhiều người phân tích, bình
luận, nhưng xem ra các ý kiến đối chọi nhau chan chát. Chỉ riêng việc ra đi
của nhân vật "người ấy" (Đưa người ta chỉ đưa người ấy) mà mỗi tác
giả một cách hiểu. Giáo sư Nguyễn Đình Chú cho rằng: "Người ra đi ở đây
chính là người chiến sĩ cách mạng, giã nhà lên đường đi chiến đấu (có thể là
lên chiến khu, khi đó đã thành lập ở Việt Bắc và trở thành một nơi bí mật và
thiêng liêng, hấp dẫn với mọi người thời ấy)" (sách "Văn 11"
dành cho giáo viên, NXB Giáo dục, 1991). Nhà thơ Vũ Quần Phương lại hiểu:
"Cái chí nhớn, một đi không trở lại ở trên, nó chẳng có gì là đáng tự
hào, nó là việc bất đắc dĩ. Ở lại thì bế tắc, nhưng ra đi chưa thấy gì là
tươi sáng, nó tự nhủ bằng cái vẻ bi hùng của Kinh Kha bên sông Dịch thì cũng
chẳng lừa được chính mình" (sách "Thơ với lời bình", NXB Giáo
dục, 1990).
Nhà phê bình
văn học Trần Đình Sử, mặc dù không tán đồng với những ý kiến trên, cho rằng
chúng "thiếu sức thuyết phục, nặng về suy diễn", song ở cả hai bài
viết in trong tập "Đọc văn học văn" (NXB Giáo dục, 2001), cũng chỉ
dám khẳng định người ra đi là "một con người quyết dứt bỏ tình riêng ra
đi vì chí lớn". Còn "chí lớn" ấy cụ thể là gì, được thể hiện
như thế nào thì không cắt nghĩa được. Qua đó mới thấy, "Tống biệt
hành" thực sự là bài thơ phức tạp (nói như Trần Đình Sử là "không
dễ giảng"). Người viết bài này từng có một ý nghĩ vui: Nếu coi đây là
bài thơ viết về cuộc tiễn đưa một chiến sĩ cách mạng giã nhà lên chiến khu
(như ý kiến của Giáo sư Nguyễn Đình Chú) thì tỉ dụ bài thơ có rơi vào tay mật
thám, chịu chết chúng cũng không xác định được hành tung của nhân vật. Chẳng
hạn, đọc mấy câu:
Đưa người, ta
không đưa qua sông
Sao có tiếng
sóng ở trong lòng?
Bóng chiều
không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng
hôn trong mắt trong?
làm sao xác
định được cuộc tiễn đưa ấy diễn ra ở đâu, tại nhà ga, bến tàu nào? Đọc những
câu: "Đưa người, ta chỉ đưa người ấy/ Một giã gia đình, một dửng
dưng" cũng chẳng thể xác định được "người ấy" là ai? Đặc biệt,
với câu thơ "Chí nhớn chưa về bàn tay không" - không thể khép nhân
vật vào tội danh nào được. Đọc mấy câu "Một chị, hai chị cũng như sen/
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót" và "Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc/
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay", cũng khó xác định được chính xác
thân nhân của con người này.
Một nhà thơ tinh
nhạy ngôn ngữ như Vũ Quần Phương, đọc mấy câu thơ trên còn cho rằng
"người ấy" có "mẹ già, một chị, hai chị và đứa em gái"
(không rõ mấy chị nữa?), trong khi tác giả Huệ Thu, ở một bài in trong tập
"Sương chiều thu đọng" (xuất bản tại Mỹ năm 1991) lại hiểu nhân vật
"Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc" là… "thằng em út". Còn nhà
phê bình văn học Trần Đình Sử thì cẩn thận gọi là "Mẹ già, chị gái, em
thơ" (không dám khẳng định là em trai hay em gái). Rõ ràng, bài thơ có
những điểm không dễ xác định. Có cảm tưởng tác giả làm thơ mà như nói với
riêng mình. Chuyện chỉ cần nói tắt là đủ hiểu, trong khi người bên ngoài phải
khó nhọc lắm mới nắm bắt được đúng ý người nói? Không chỉ ở mấy đoạn trích
dẫn trên mà ở khổ thơ kết, bên cạnh việc có người cho rằng đó là ý nghĩ của
"người đưa tiễn" thì không ít người lại hiểu đó là lời tâm sự cùng
gia đình của "người ra đi". Quả là hiếm có bài thơ nổi tiếng nào mà
rắc rối, mà tạo nên nhiều cách hiểu như "Tống biệt hành" của Thâm
Tâm.
Nhưng nói vậy
không có nghĩa là ở "Tống biệt hành", mọi sự đều…rối beng, muốn
hiểu thế nào cũng được. Nhà phê bình văn học Trần Đình Sử đưa ra một lời
khuyên xác đáng: "Đối với bài thơ như bài này, theo chúng tôi, trước hết
nên tìm hiểu cấu tứ bài thơ để hiểu nó nguyên phiến, toàn vẹn. Còn câu chữ
bài thơ, nói như Triệu Chấp Tín đời Thanh, chỉ là cái râu, cái vẩy của con
rồng bay hiện ra ngoài đám mây mà thôi, không thể đầy đủ được". Theo
ông, "Bài thơ này là lời của người đưa tiễn nói về người ra đi",
"người tiễn rất hiểu người đi và chỉ nhờ sự bộc lộ cảm xúc của người
tiễn mà hình ảnh của người đi hiện lên mạnh mẽ, cao cả, một con người quyết
dứt bỏ tình riêng ra đi vì chí lớn".
Về cơ bản, tôi
cho độc giả cần hiểu như vậy và cứ trên cái "sườn" ấy, hẳn sẽ thẩm
thấu được tương đối đủ đầy ý nghĩa nhân văn của bài thơ. Tiếc là, tác giả nói
thì nói vậy nhưng lại không thực hiện được triệt để điều ông vừa khuyên nhủ
bạn đọc: Trong hai bài viết dài tới 5-6 ngàn chữ của mình (mà chúng tôi đã
nhắc tới ở đầu bài viết), không ít chỗ ông xông vào cắt nghĩa, giải thích tỉ
mỉ từng câu từng chữ, khiến cho ý nghĩa của bài thơ phần nào bị nhòe đi,
chệch ra ngoài cái hướng chung mà ông từng nêu.
"Tống
biệt hành" là một bài thơ hay. Về nhạc tính, có thể nói đây là bài thơ
có cách phối nhạc rất đặc biệt, các chữ va nhau nghe như chuông vàng, khánh
bạc. Để tạo được hiệu quả này, tác giả sử dụng nhiều điệp ngữ, điệp vần. Còn
về hình ảnh, tuy nói cuộc chia tay không diễn ra ở một nơi có sông có nước, ở
một thời điểm có bóng hoàng hôn, nhưng những hình ảnh ấy vẫn tràn ngập không
gian thơ. Cộng với những hình ảnh rất giàu biểu cảm như sen cuối hạ, trời
chưa vào thu, hình ảnh chiếc khăn tay, hạt bụi, người đi, lá bay... ,
bài thơ đã tạo nên được những dư ba trong lòng người. Ngoài việc mở đầu bằng
những câu “rắn rỏi, gân guốc” (chữ của Hoài Thanh) rất hợp với nội dung cần
thể hiện, bài thơ còn chinh phục người đọc bằng những câu có giai điệu
"ngọt xớt", kiểu như:
Ta biết người
buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa
thu tươi lắm thay
hoặc:
Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như
chiếc lá bay
Chị thà coi
như là hạt bụi
Em thà coi như
hơi rượu say
Rất mềm mại mà
chuyển tải được bao tình ý. Có thể khẳng định, ngoài cái khoáng đạt của nội
dung, "Tống biệt hành" còn thực sự lôi cuốn người đọc bởi một thứ
nhạc tính tung tẩy, sảng khoái. Và, một điều thật đáng nói, trong phong trào
Thơ Mới, đã có những bài hay mà ý tứ và cấu trúc giai điệu tương đối giống
nhau, song ở cả hai phương diện nói trên, không có bài nào "na ná"
như "Tống biệt hành" của Thâm Tâm.
Cuộc đời Thâm
Tâm kết thúc ở tuổi 33 và sự nghiệp thi ca của ông chỉ gói lại trong khoảng
hai chục bài, đa phần đều được ông viết vào giai đoạn trước Cách mạng. Tác
giả Bùi Văn Trọng Cường đã nhận xét đúng: "Gam màu chủ đạo của hồn thơ
Thâm Tâm là trầm và lạnh". Thâm Tâm rất có sở trường trong việc thể hiện
tâm thế "bất đắc chí", cũng như "khẩu khí" của mình:
Bọn ta một lớp
lìa nhà
Cháo hàng cơm
chợ, ngồi ca lúa đồng
(bài
"Tráng ca")
Mấy lần thù
trả thân không chết
Khắp xóm giang
hồ khét họ tên
Vợ con thí tất
cho thiên hạ
Yêu rất ban
ngày, ghét rất đêm
(bài "Can
trường hành")
Nhưng dẫu sao
đó cũng chỉ là những câu thơ đơn lẻ, nằm lẫn trong những bài thơ tản mát về ý
tưởng, rời rạc về giai điệu. Không bài nào tầm vóc được như "Tống biệt
hành". Bởi vậy, đọc những bài này, dẫu biết chúng được viết sau
"Tống biệt hành", ta vẫn có cảm giác đó là chỉ những nét thử bút
của thi nhân mà thôi…
|
Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012
Nhà thơ Thâm Tâm: Neo lại với đời bằng bài thơ tống biệt
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài thơ rất hấp dẫn
Trả lờiXóa