Trương Tửu
Một quan niệm về văn chương
Chúng tôi tôn thờ sự sống, mãnh liệt và đầy đủ, sự sống bản
chất ở sức mạnh, phát triển ở tranh đấu, cứu cánh ở tiến bộ, sự sống mà hình
thức biểu thị tốt nhất, cao nhất, thuần túy nhất là xã hội loài người.
Chỉ có xã hội loài người là đáng phụng sự.
Chỉ có tiến bộ là đáng tín ngưỡng.
Chỉ có tranh đấu là đáng sùng mộ.
Chỉ có sức mạnh là đáng ca ngợi.
Vì chỉ có sự sống là đáng yêu, đáng quý, đáng vun xới, đáng
khuếch xung, đáng tôn thờ. Sự sống thiết thực của loài người trên mặt địa cầu,
không bận rộn về lẽ huyền bí của vô tận, không dính dáng đến thế giới siêu
hình; sự sống tự nó là một vinh quang, một toàn thắng.
Văn chương phải lấy sự sống làm nguồn, phải tắm gội trong
hào quang rực rỡ của nó, phải giúp nó chiếu thẳng đến tim óc mọi người, phải
phụng sự nó không rụt rè, không nhu nhược.
Tóm lại, văn chương phải mô tả sự sống để đánh dấu nó trên
con đường phát triển vô cùng tận, qua các biến thiên của thế kỷ.
Không phải mô tả sự sống vụn vặt như mọi nghệ sĩ thiển cận
thường nhìn và sao chép. Phải mô tả sự sống tổng hợp, trong các giai đoạn thành
lập, biến hóa và đi tới của nó. Phải mô tả nó từ lúc chia phân ra các nguyên tố
biệt lập đến lúc tập trung vào một đại thể duy nhất, theo sức chi phối của luật
biện chứng duy vật đời đời.
Sự sống này là cái khuôn, cái đích của tất cả những công
trình phá hoại và kiến thiết trong lịch sử mà chiến sĩ là NGƯỜI, mặt trận là XÃ
HỘI.
*
Chiều theo cái đà tiến bộ không ngừng của sự sống, người và
xã hội luôn luôn hô hấp trong không khí cải thiện. Nói khác đi, người và xã hội
luôn luôn tranh đấu để biến đổi, biến đổi để phát triển, phát triển để đi tới.
Mỗi lần trong xã hội, cái "hạt giống biến đổi" đến
thì giờ nảy nở, lập tức bao nhiêu tổ chức đang thông dụng bị phá hoại để nhường
chỗ cho những tổ chức mới, thích hợp với hoàn cảnh mới gây ra sự phát sinh của
những điều kiện kinh tế mới.
Liền đó, cá nhân sống trong xã hội ấy, bị luật ảnh hưởng lôi
cuốn, thay đổi hết các tình cảm, tư tưởng, tín ngưỡng đang có.
Và cũng liền đó, cá nhân có thêm những cần dùng mới, nguyện
vọng mới. Nếu tổ chức mới của xã hội đủ thỏa mãn nó thì đoàn thể được sống điều
hòa cho đến thời kỳ biến đổi khác. Nếu tổ chức mới của xã hội không đủ thỏa mãn
nó thì ngọn lửa tranh đấu trong đoàn thể không thể nào dập tắt được.
Đó là nguyên tắc và pháp luật thiết yếu của các cuộc cách
mạng trong lịch sử. Mà nó cũng là điều kiện và hình thức độc nhất của tiến bộ.
*
Không có gì giúp người cầm bút đủ tự hào để phấn đấu, đủ can
đảm để thắng, đủ an ủi để ngã, bằng nhận thấy rằng trong các công trình phá
hoại và kiến thiết vinh quang nhất của xã hội loài người, bao giờ nhà văn cũng
đứng mạnh dạn vào hàng ngũ tiên phong. Bao giờ nhà văn cũng vui vẻ, hăng hái
giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt xã hội chạy tìm
những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc.
Mỗi khi hai lực lượng thuận và phản tiến bộ xung đột nhau,
báo tin những giông tố hãi hùng, nhà văn, nhờ một linh khiếu - một trực giác -
đặc biệt, lập tức dẫn đạo tư tưởng của đoàn thể đi vào cuộc tranh đấu và không
bao giờ quên ủng hộ mặt trận nào hy sinh để làm toàn thắng lý tưởng và hạnh
phúc. Giờ phút ấy nhà văn hòa vận mạng mình vào vận mạng của xã hội tương lai,
viết bằng chữ máu vào trang giấy sáng sủa của thế kỷ một lời tiên tri, loài
người sắp đi thêm được một bước.
Nhà văn chính là tâm thức của thời đại, sứ giả của tiến bộ.
Nhà văn là vinh dự của loài người.
Phận sự của nhà văn thiêng liêng như vậy, nên không thể coi
văn chương là một món trò giải trí lúc trà dư tửu hậu. Văn chương phải là khí
cụ phát biểu và lưu hành tư tưởng, tình cảm mạnh và đẹp. Văn chương, phải có
tinh thần tranh đấu và lý tưởng.
Không đủ những tính cách ấy, văn chương tự truất địa vị
mình, tự hoại giá trị mình và trở nên một sức phản tiến bộ đáng bài trừ. Mà nhà
văn nào phụ họa vào nó sẽ bị coi như kẻ thù của xã hội.
*
Đó là đại cương những quan niệm của chúng tôi về nhân sinh,
về văn chương, về sứ mệnh nhà văn. Căn cứ vào những quan niệm ấy, chúng tôi
nghiên cứu và phê bình văn chương hiện đại.
Từ năm 1932 đến bây giờ, chúng ta thường được nghe những
tiếng “văn học phục hưng”, “văn nghệ phồn thịnh” dùng để mệnh danh cái đà phát
triển của văn chương hiện đại. Những danh từ ấy, một vài người nông nổi ném ra,
rồi một vài người nông nổi a dua nhắc lại, om sòm trên báo chí. Sự ồn ào trống
rỗng này đã làm nhiều người cạn nghĩ tin rằng văn chương Việt Nam hiện thời là
mẫu mực tuyệt mỹ tuyệt hảo rồi. Người ta nhắm mắt vỗ tay hoan nghênh những văn
phẩm chỉ có độc một đặc điểm là làm điếm nhục nghệ thuật và bại hoại đạo lý.
Người ta ca tụng một cách mù quáng những văn sĩ thi sĩ mà đáng lẽ người ta phải
cảnh cáo để họ đi vào con đường thuận tiến bộ.
Phải phá đổ sự tin nhầm ấy. Phải đem các tác phẩm được hoan
nghênh sàng lại theo phương pháp phê bình khách quan và quan niệm tranh đấu về
văn chương. Phải soát lại ngôi thứ các nhà văn. Phải chỉnh đốn dư luận.
Chúng tôi, vì tương lai của văn chương Việt Nam, tình nguyện
lĩnh cái nhiệm vụ gai góc ấy, không ngại ngùng những lời chê bai của kẻ hèn,
không ngừng bước trước sự mai mỉa của kẻ yếu, không nản chí trước sức phản động
của kẻ nghịch.
Chúng tôi sẽ lần lượt bài trừ một cách vô tư, nhưng tàn nhẫn
tất cả những ngọn cỏ tai hại trong khu ruộng văn chương để những nhà văn tâm
huyết có đất gieo những hạt giống tốt, thuận với mưa, nắng của thế kỷ hai mươi,
gây một mùa màng đẹp cho đất nước.
Những cỏ tai hại ấy không ít. Theo chúng tôi thấy, chúng có
thể chia làm bốn loại:
1. Văn chương phóng đãng
2. Văn chương ủy mị
3. Văn chương bi quan
4. Văn chương xu nịnh
Bốn thứ này họp lại thành một ung độc trong văn chương và xã
hội Việt Nam. Chúng phản tiến bộ.
Phải diệt chúng đi. Diệt chúng như diệt những trùng độc. Có
thể văn chương Việt Nam mới phát triển theo nguyên tắc tranh đấu được. Có thế
sức tiến thủ của dân tộc Việt Nam mới bùng được.
Lúc này chính là lúc mạnh được yếu thua. Không được phép mơ
màng, hoài nghi, nô đùa, bi quan, chán nản. Phải khỏe. Thân khỏe, hồn khỏe mới
không bị nghiến nát trong guồng máy cạnh tranh.
Tất cả những phần tử trẻ trung thông minh tâm huyết của nòi
giống Việt Nam phải cố công luyện lấy một tinh thần tranh đấu thật cứng cỏi để
tự bảo vệ, để chống họa diệt vong nó đang đón chờ những dân yếu hèn ở các ngã
ba lịch sử.
Không muốn bị diệt vong, chúng ta phải mạnh. Ngày nào tất cả
người Việt Nam biết lấy sức mạnh làm tôn giáo, lấy tranh đấu làm luân lý, lấy
hy sinh làm vinh dự; ngày nào cha dạy con, vợ dạy chồng, anh dạy em nên gắng gỏi
làm người cho ra người, làm dân cho ra dân; ngày ấy chúng ta mới có quyền sống
những phút vinh quang, hạnh phúc.
Văn chương Việt nam phải nhận mệnh nhào nặn cái ngày quý báu
đó. Trong giờ phút nghiêm trọng này nhà văn lương tâm không can đảm ngồi mơ mộng,
ca hát những cái phù phiếm, tán tụng những cái xa xỉ.
Nhà văn Việt Nam của thế kỷ hai mươi phải đảm lĩnh cái trọng
nhiệm xây dựng tư tưởng Việt Nam trên những nền tảng mới, dìu dắt dân tộc Việt
Nam đến một vận mệnh mới.
Những nhà văn nào làm trái trọng nhiệm ấy,
ta phải đánh đổ. Những tác phẩm nào phản khuynh hướng ấy ta
phải thiêu đốt. Những dư luận nào ngược tư trào ấy, ta phải đả đảo.
Làm như vậy tức là làm trọn nghĩa vụ một người thờ sức mạnh,
một công dân thờ Tổ quốc, một nhà văn thờ nghệ thuật.
TT.
Đây là một người đầy nhiệt huyết cách mạng
Trả lờiXóa