Thụy Khuê
Phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghê sĩ và trí
thức miền Bắc, có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập
tắt vào tháng 6 năm 1958.
Từ 1959 cho đến nay, hai nguồn tư liệu tương đối đầy đủ về phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm (NVGP) vẫn chỉ là: Cuốn
Trăm hoa đua nở
trên đất Bắc
(THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí, do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá, in ở Sàigòn năm 1959 và
cuốn
Bọn
Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
(BNVGPTTADL) của Nxb Sự Thật, in ở Hà Nội, cùng năm 1959.
Từ thập niên 90 trở đi, ở ngoài nước, có thêm một số tư liệu mới, rải rác dưới
dạng tự thuật, bút ký... của những nhà văn đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm... và hồi ký Trần Dần (Văn
Nghệ, Californie, 2001). Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn
Giai Phẩm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại bối cảnh toàn
diện của phong trào tranh đấu cho tự do sáng tác độc đáo trong lịch sử văn học
Việt Nam thế kỷ XX.
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần
thứ nhì, chúng tôi đã đề nghị ghi âm ông, mong ông soi rõ những chỗ chưa được
các tài liệu trước nói đến, hoặc nói sai. Buổi nói chuyện -được thu thanh với
chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- vừa mang tính cách cá nhân, vừa có
tính cách hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đã đồng ý với nhà
thơ là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó ông cho biết, ông
không có ý định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ 1954-2004, chúng tôi dự
định làm một chương trình đặc biệt kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
(nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương
phong trào), vì vậy đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn
liên Paris-Hà Nội, nhưng không thể thực hiện một cuộc phỏng vấn mới, bởi chỉ qua
vài lời đối thoại là đường dây bị nhiễu ngay. Sau nhiều tháng phân vân, cuối
cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định phát thanh trên
RFI, toàn bộ buổi nói chuyện thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris, do đó mà tập
tài liệu văn học sử này đến với người nghe và người đọc sớ hơn dự tính.
Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột
trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh nhân chứng của Lê Đạt, còn
có nhân chứng của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là buổi phỏng
vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang, ghi âm qua điện thoại viễn
liên Paris-Hà Nội tháng 8/1995, nhân dịp chúng tôi hỏi ông về việc ông tổ chức
ngày lễ Độc Lập 2/9/1945. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng có thể
ghi âm được ông Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: bởi
chỉ nói vài câu là đường dây điện thoại bị nhiễu ngay. Những buổi nói chuyện với
nhà thơ Hoàng Cầm được ghi âm tản mạn trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000,
và truyền thanh trên RFI, trong những dịp khác nhau. Các bạn sẽ lưu ý thấy sự
trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội,
không đạt mức độ tự do triệt để như trường hợp trò truyện trực tiếp với Lê Đạt ở
Paris. Nhưng tựu trung cả ba chứng nhân cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật
cho nên có những câu hỏi cùng đặt ra cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm
và hoàn cảnh khác nhau nhưng những câu trả lời gần như tương tự. Phần phát biểu
của nhà thơ Lê Đạt, cho đến nay, là chứng từ quan trọng và đầy đủ nhất về lịch
sử Nhân Văn Giai Phẩm.
*
Hoàng Văn Chí,
tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt Trận Tự Do Văn
Hoá xuất bản tại Sài Gòn) cho biết: "Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn
với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một
mình", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ
đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản
ở Hà Nội", " Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông tin và nói chung,
chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu
mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở
Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural
Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung
Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá
mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lý Trung
Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có
ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế
độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả.
Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa" (Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên
thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ).
Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập THĐNTĐB. Nhưng tại sao
Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Ai là những
người "ở lại" mà Hoàng Văn Chí đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Nếu tìm sâu
hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy
câu trả lời: Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái -và vì bà Lê Dư là em ruột
Phan Khôi- cho nên ba cô này là cháu ruột Phan Khôi. Cô đầu gả cho Vũ Ngọc
Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ
Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, đã viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn
Giai Phẩm. Và rất có thể, người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, là
một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân
Văn Giai Phẩm.
Tác phẩm của Hoàng văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong
trào. Phần lớn những tác nhân chính đều có mặt, với một tiểu sử khá chính xác và
những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Nhược điểm duy
nhất: vì không phải là người trong cuộc, và ông đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955,
khi phong trào mới manh nha, cho nên có những điểm sai mà ngày nay qua chứng
nhân của những người trong cuộc, chúng ta có thể đính chính lại được.
Tập tài liệu tựa đề
Bọn Nhân Văn
Giai Phẩm trước toà án dư luận
do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà
Nội, là cuốn sách tập hợp những bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội
Nhân Văn Giai Phẩm. Cuốn sách có một chương nhỏ, in lại "những lời thú tội" của
các thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, còn toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện
tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng,
hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng
nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Nó ghi lại một thời
kỳ mà nhân cách con người đã đạt tới đáy sâu của sự tha hoá.
Tập tư liệu dày 370 trang này còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra
nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp
thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà sau này, nhà thơ Lê
Đạt sẽ mô tả một cách tường tận.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ, và các đoàn
thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với
những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng
Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung
Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng
Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Ví dụ cách
viết của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, không giống cách viết của Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông... Cho nên, có thể nói, chính với những "văn bản
tố", các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau
cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự "những tên đầu sỏ" trong cuốn sách mà chúng ta biết
được thứ tự "tội" nặng, "tội" nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.
*
Hành trình Nhân
Văn Giai Phẩm
Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, ngày nay chúng ta có thể tóm tắt lịch
trình hoạt động của phong trào NVGP như sau:
Tháng 3/1955,
trong quân đội, nổi lên một phong trào tranh đấu do Trần Dần, Tử Phác chủ trương
(với sự cộng tác của Lê Đạt, Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ khác...): Một mặt, lên
tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Một mặt, đưa ra đề nghị cải cách
chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi trả quyền lãnh đạo văn nghệ về
tay văn nghệ sĩ.
Tố Hữu viết:
"Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu
năm 1955, ngay khi hoà bình vừa lập lại.
Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương
Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn Nguyễn
Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ
cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân
đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.
Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc
là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của
Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề
xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối
sống tự do sa đọa.
Đương nhiên cái "điệu tâm hồn" ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được
với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với "tiếng
sáo tiền kiếp" lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần , Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay
lại trở về với "cảnh cũ người xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội "nghẹt
thở", chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời
sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá
mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên
"tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi",
"người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu
tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ
tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ
quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội
văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính
Trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với
họ"
(Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL,
trang 22-24). Vì vụ việc này, Trần Dần bị giam trong trại từ 13/6 đến 14/9 để
kiểm thảo. Trong thời gian bị giam, Trần Dần viết trường ca Nhất định thắng
mà Hoàng Cầm và Lê Đạt đều có bản thảo.
Cùng thời điểm đó, báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh trích đăng bài Sự chia
tay giữa văn nghệ và chính trị của Lỗ Tấn.
Nhưng phải đến
tháng 2 năm 1956, phong trào mới chính thức công khai, với sự
xuất hiện của Giai phẩm mùa xuân, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, đăng
các tác phẩm của Trần Dần, Văn Cao, Sĩ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng,
Tô Vũ... Giai phẩm mùa xuân, ngoài bài Nhất định thắng của Trần Dần xem
như cái sườn chính, còn có bài thơ Ông bình vôi của Lê Đạt, và Cái
chổi quét rác rưởi của Phùng Quán. Lúc đó, Trần Dần và Tử Phác, đang tham
gia cải cách ruộng đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, và theo Hoàng Cầm thì Trần Dần
không hề biết việc đăng bài thơ Nhất định thắng. Bài thơ của Trần Dần đã
gây tai họa cho nhà thơ và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi ngay
lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác
bị bắt. Trần Dần cứa cổ tự vận nhưng không chết.
Hồng Cương viết: "Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa
xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ. Bọn phản
động trong Công Giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Định v.v..."
(sđd, trang 17).
Tuy vậy, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn chưa có thái độ dứt khoát với những người
làm Giai phẩm mùa xuân.
Ngày 26/5/1956,
Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm
nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Theo chính sách của Tàu,
Đảng Lao động (tiền thân của đảng Cộng sản) cũng nới rộng chính sách văn hóa
chính trị: Tháng 8/1956, Hội Văn Nghệ đứng ra tổ chức lớp 18 ngày, học tập dân
chủ trong văn nghệ, học tập chống tệ sùng bái cá nhân (Staline) của Liên Xô.
Trong lớp học này, sự phê phán chính sách văn nghệ của nhà nước khá mạnh mẽ, đặc
biệt Nguyễn Hữu Đang đứng ra đọc bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích đường lối văn
nghệ của Đảng.
Ngày 29/8/1956, Giai Phẩm Mùa Thu (tập I) ra đời, có bài Phê bình
lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Bệnh sùng bái cá nhân trong lãnh đạo
văn nghệ của Trương Tửu...
Ngày 15/9/1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1, do Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu
Đang, Trần Duy, chủ trương, với Phan Khôi chủ nhiệm và Trần Duy thư ký toà soạn,
ra đời với những bài chủ chốt: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bài thơ
Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, và bức tranh Nguyễn Sáng vẽ
Trần Dần với vết sẹo trên cổ...
30/9/1956 Nhân Văn số 2.
8/10/1956 tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân.
15/10/1956 Nhân Văn số 3, đăng bài Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức
Thảo...
Cuối tháng 10/1956, Giai phẩm mùa thu (tập II) ra đời, có những bài Những
người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán,
Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan...
Đồng thời ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo... huy động sinh viên
cho ra tờ Đất Mới số 1, với Phùng Quán, Bùi Quang Đoài... Đất Mới ra được một số
thì bị đình bản.
Hồng Cương viết: "Sự chống đối của chúng không còn tính chất văn nghệ nữa mà
đã trở thành một cuộc chống đối vế chính trị công khai. Nhóm Giai Phẩm chống
Đảng về văn nghệ đã biến thành nhóm phá hoại chính trị trắng trợn "Nhân Văn-Giai
Phẩm". (...) Từ Nhân Văn số 4 trở đi (...) thì chúng đã chuyển hẳn sang chống
đối về chính trị, kích động quần chúng biểu tình chống lại Đảng và chính phủ ta
nhân lúc Quốc Hội ta đang họp." (sđd, trang 18-19).
05/11/1956
Nhân Văn số 4, đăng bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ
của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung...
10/11/1956
Hungary nổi dậy.
20/11/1956
Nhân Văn số 5, đăng bài Bài học về Ba-lan và Hun-ga-ri của Lê
Đạt, ký tên Người Quan Sát, bên cạnh bài xã luận Hiến pháp Việt nam 1946 và
Hiến pháp Trung hoa của Nguyễn Hữu Đang. Thi sĩ máy của Như Mai...
Tháng 11/1956 Giai phẩm mùa thu tập III đăng các bài Văn nghệ và chính trị
của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh...
Tháng 12/1956
Giai phẩm mùa đông, đăng bài Nội dung xã hội và hình thức tự do
của Trần Đức Thảo; đăng tiếp Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu...
09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.
15/12/1956, Lệnh đóng cửa Nhân Văn, số 6 đang in, bị chận lại.
Từ 20 đến 28/2/1957, Đại hội văn nghệ lần thứ hai họp tại Hà Nội với gần 500 đại
biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" phong trào NVGP.
Tuy vậy, Đảng Lao Động vẫn giữ thái độ tương đối hòa hoãn với văn nghệ sĩ, bởi
vì bên Trung quốc vẫn còn đang tiếp tục phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà
đua tiếng", cho nên đến đầu tháng 4/1957 Hội Nhà Văn chính thức được thành lập
(trước đây là Hội Văn Nghệ), Tô Hoài làm Tổng thư ký, kiêm giám đốc nhà xuất bản
Hội Nhà Văn và một số thành viên cũ của Nhân Văn như Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh
vẫn được bầu vào ban chấp hành. Ngày 10/5/1957, hội cho ra tuần báo Văn, với
Nguyễn Công Hoan (chủ bút), Nguyễn Tuân (phó chủ bút), Nguyên Hồng (tổng thư
ký). Ban đầu báo Văn cũng đi theo đường lối chính thống. Nhưng khi trên báo Học
Tập (của đảng) Thế Toàn lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách
mạng", Nguyên Hồng trả lời trên báo Văn số 15 (16/8/1957), phê bình Thế Toàn là
"quan liêu", "trịch thượng", Văn dần dần thay đổi thái độ, chẳng bao lâu một số
cây bút cũ trong NVGP lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Văn số 21(27/9/1957) đăng
bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, số 24(18/10/57), đăng kịch thơ
Tiếng hát của Hoàng Cầm, số 28 (15/11/1957), đăng bài Hãy đi mãi của
Trần Dần. Số 30 (29/11/1957) in hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của
Đảng.
Cuối năm 1957,
Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Theo Hoàng Cầm: Huy Cận và một người nữa
được cử đi học tập ở Trung Quốc trở về: Đảng liền thay đổi đường lối, chủ trương
đàn áp mạnh hơn. Tờ Văn ngừng ở số 36(10/1/1958), có đăng bài
Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Để "trừ khử nọc độc Nhân Văn", Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh chống
"bọn NVGP" ở Thái Hà Ấp, mà tài liệu chính thức gọi là hai cuộc "hội nghị":
"
Đầu năm
1958,
có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của
Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai
bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân
họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người
dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.
Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ ổi đã được phát hiện (...)
Cái ổ chuột "Nhân Văn- Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận.
Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá
hoại "Nhân Văn Giai Phẩm" bao gồm những tên đầu sỏ, những "cây bút" đã viết
"hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân Văn Giai Phẩm" như:
Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi,
Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu
Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần
Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huê, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu
Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn
Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải
tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc
phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ hoạ..."
(sđd, trang 309-310).
Những tên tuổi trên đây có lẽ đã không xếp đặt một cách tình cờ mà theo một trật
tự "tội" nặng, nhẹ, đã được thẩm định từ trước.
Theo Lê Đạt, thực chất hội nghị đầu là dành cho 172 đảng viên, đi để học tập
cách "phát hiện" và tố giác, để chuẩn bị cho hội nghị sau (gồm 304 người, cả
đảng viên lẫn quần chúng và những người ngoài đảng tham gia NVGP), dốc toàn lực
đấu tranh chống NVGP.
"Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết thúc bằng hội nghị của ban chấp
hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, họp lần thứ ba tại Hà Nội ngày
4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và Nghị quyết của của ban chấp
hành hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam lên án "bọn" NVGP. Ngày 5/6/1958,
tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là "Nghị quyết của 800
văn nghệ sĩ" phụ hoạ với nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ
21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần
lượt thi hành các biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đã tham gia
NVGP:
Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban chấp hành.
Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, "chấp nhận cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi
ban chấp hành".
Hội Nhạc Sĩ "chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành".
Cả ba hội quyết định:
- Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra
khỏi Hội Mỹ Thuật.
- Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng Quán ra khỏi
hội nhà văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà văn, ba
năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc sĩ. Và cảnh cáo một số hội
viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.
Đó mới chỉ là biện pháp kỷ luật của các hội văn nghệ đối với các thành viên của
hội. Ngoài ra, người ta cũng chỉ biết sơ lược một số dữ kiện khác, như Thụy An,
Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung (bị bắt tháng 5/61)... bị kết án từ 12 đến
15 năm tù. Các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,
Đào Duy Anh... bị cách chức và bị quản thúc. Còn những biện pháp trừng phạt đối
với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia,
đã đọc, đã mua báo, hoặc đã ủng hộ phong trào NVGP, thì hiện nay chưa có một ước
lượng nào gần với sự thật.
Mục đích hoạt động
của phong trào
Theo lời buộc tội của Tố Hữu,
công tác được "phân phối" như sau:
- Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm hoạt động ở Hội Nhà Văn.
- Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở Hội Mỹ Thuật.
- Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu
- Tử Phác, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đặng Đình Hưng ở hội Âm Nhạc.
Tố Hữu cho rằng: Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, là những "nhà tư tưởng
của phong trào". Thụy An, Nguyễn Hữu Đang liên lạc, huy động và khuyến khích anh
em. Trần Thiếu Bảo (chủ nhà in Minh Đức) in các Giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và
phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Đức còn là trụ sở của các
cuộc họp báo Nhân Văn và Đất Mới.
Theo lời buộc tội của
Nguyễn Đình Thi, thì chủ trương của NVGP dựa trên 6 điểm:
1. Cho chủ nghĩa Cộng Sản là không nhân văn, là chà đạp con người. Coi những
người cộng sản là chà đạp con người. Coi những người cộng sản là những người
khổng lồ không tim (Trần Duy). Văn học xã hội chủ nghĩa là công thức, giả tạo,
đẻ ra những thi sĩ máy (Như Mai). Đòi quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống
tình cảm riêng tư cuả mỗi con người: "Đem bục công an máy móc đặt giữa tim
người. Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước" (Lê Đạt).
2. Phản đối chuyên chính, đòi dân chủ, tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hoá. Đả kích mậu dịch, quản lý hộ khẩu, các bộ máy nhà nước. Đòi tự do đối
lập.
3. Chống sùng bái cá nhân. Cho sự lãnh đạo của Đảng là Đảng trị, là độc đoán,
mâu thuẫn với quyền lợi căn bản của con người. Bài Ông bình vôi của Lê Đạt có
những câu:
"Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại."
4. Đề cao chủ nghĩa quốc gia, tư sản, đả kích Liên xô, cho sự giáo dục con người
ở Liên xô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên xô là công thức.
5. Chống chính sách cải cách ruộng đất.
(Xin mở ngoặc: Ngày 30/10/1956, trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn
Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề "Qua những sai lầm trong cải
cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo", nội dung phân tích những sai
lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong
chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế mang tính cách bóc lột. Ông
truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa
sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh tế).
6. Về văn nghệ, chủ trương phát triển "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng". Chối
bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao khẩu hiệu "Trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ".
(6 điểm kê khai theo bài tố cáo của Nguyễn Đình Thi, sđd, trang 114).
Những nguy cơ xụp đổ chế độ cũng được bàn đến,
Hồng Cương
viết:
"Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ
kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng và Chính phủ xuống.
(...) Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ (communisme du moyen
âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ ta là cộng sản suy đồi
(dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa chỉnh huấn của ta
là đồi trụy tinh thần (avilissement de l'esprit), là nô dịch hoá tư tưởng
(esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta là "bổng lộc"
vua ban, huân chương của ta là "mề đay" của đế quốc. Không khác gì Phan Khôi đã
ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó."
(Hồng Cương, sđd, trang 128, 129).
Chính Hữu
trong bài tố cáo Lê Đạt, nói đến cái họa Nhân Văn số 5: "... Lê Đạt
đã viết "Bài học về Ba-lan và Hung-ga -ri" trong Nhân Văn số 5, ký tên "Người
quan sát" đăng ngay bên cạnh bài xã luận kích động quần chúng của Nguyễn Hữu
Đang "Hiến Pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa", trong đó có những đoạn
nói đến quyền công dân được tổ chức biểu tình tuần hành thị uy. Bài của Lê Đạt
đưa ra những nhận định nguy hiểm cho tình hình nước ta lúc đó: "... Nhưng tốc độ
và mức độ sửa chữa không kịp với đòi hỏi của tình thế và yêu cầu của quần chúng
nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần
chúng..." Hai bài báo đó là những lời kêu gọi làm loạn. Đạt và nhóm Nhân Văn đã
hỗn xược buộc Đảng và chính quyền ta phải chọn lấy một trong hai con đường: hoặc
"lập tức" mở rộng tự do dân chủ, để cho chúng và bọn thù địch khác phá hoại, và
cải thiện "ngay" sinh hoạt cho nhân dân, nếu không quần chúng sẽ biểu tình."
(Chính Hữu, sđd, trang 130, 131).
*
Những người xây
dựng nên phong trào
Nhiều người đã khuất, thế hệ trẻ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về những
hoạt động của họ. Những nhà văn mà Hoàng Văn Chí ghi lại tiểu sử và tác phẩm
trong cuốn THĐNTĐB, được nhiều người biết đến hơn. Qua những bài buộc tội trong
tập tài liệu BNVGPTTADL, chúng ta cũng có thể biết thêm được về tư tưởng và hành
động của mỗi cá nhân và "tội trạng" nặng nhẹ của mỗi người.
Thụy An
là người phụ nữ duy nhất -ở trong hay ở ngoài phong trào- bị kết án là "gián
điệp". Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở
trong NVGP, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong "hàng ngũ phản động" với
nhãn hiệu "Con phù thuỷ xảo quyệt" và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà:
"Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun
nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân" (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang
120).
Vụ án Thụy An có phải là một vụ án chính trị? Hay là một sự quy kết oan uổng? Lê
Đạt sẽ soi tỏ một số nghi vấn chung quanh sự kiện này.
Trước hết Thụy An là ai? Thụy An hay Thụy An Hoàng Dân tên thật là Lưu Thị Yến.
Cho đến nay chúng ta chỉ biết sơ về bà qua những gì Vũ Ngọc Phan đề cập đến
trong Nhà văn hiện đại : Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong
trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn (1943). Nhà phê bình họ
Vũ nhận định: "Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất
của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại
xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn". Bà đã từng làm chủ nhiệm những tờ
Đàn Bà Mới (Sài Gòn), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn), và Đàn Bà (Hà Nội). Là phóng
viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài
liệu cho báo chí. Bà đã từng giữ chức giám đốc Việt Tấn Xã.
Mới đây chúng tôi liên lạc với nhà văn kiêm nhà báo Bùi Thụy Băng, con trai thứ
nhì của Thụy An, hiện làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt báo,
ông vừa hoàn tất tập tài liệu "Thụy An, 1945, 1954, 1975". Tập tài liệu
đồ sộ này sẽ được đăng dần trên Atlanta Việt báo và trên mạng Intrenet. Qua Bùi
Thụy Băng, chúng tôi được biết thêm những chi tiết sau đây: Lưu Thị Yến sinh năm
1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà
Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Thủa nhỏ học trường Hàng Cót, Hà Nội. Năm 1929,
13 tuổi, Yến đã được đăng thơ trên tờ Nam Phong. 16 tuổi được giải thưởng văn
chương của Triều đình Huế. Vào khoảng 1930-32, cô Yến được cha mẹ cho học tư
thêm với một ông thầy người Quảng Bình. (Trong điện thư ngày 15/9/2004, ông Bùi
Thụy Băng cho biết: "Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Võ nguyên Giáp.
Năm 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về nhà
kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - có thể để đi sang Trung hoa.
Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau"). Và trong bài
tiểu sử Thụy An, Bùi Thụy Băng viết:
"Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc là "Anh đồ Nghệ". Hơn
thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:
...Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
Hơn mình mấy tí tuổi đầu
(trích "Sao lại mùa thu " của Thụy An) (...)
Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong
bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh
hùng đó:
... Hung hãn vọng vào tiếng bể
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
và như:
Mắt anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xòa vương hận núi sông
Môi bậm tay tai nghe rên xiết
Áo cơm dọa dưới cùm gông!...
Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ
... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh...
(Sao lại mùa thu)".
(Trích tiểu sử
Thụy An, do Thụy Băng viết).
Người chồng của Thụy An là giáo sư Bùi Nhung, em ruột ông Bùi Kỷ và bà Trần
Trọng Kim. Bùi Nhung có bút hiệu là Băng Dương. Thụy An sinh được 6 người con:
An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (38), Dương Chi (39), Ngọc Trinh
(43) và Châu Công (45). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội
từ 48-49, và 51-52; rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954. Thụy An -
Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị vì cả hai đều theo đạo công
giáo. Người ta cũng nói đến quan hệ giữa bà và ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật
quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng cái chết có nhiều nghi vấn của ông Đỗ
Đình Đạo.
Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi nhận Thụy An là con nuôi. Theo cả hai bên nhân
chứng, buộc tội cũng như bênh vực, thì bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ,
bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia NVGP. Bà liên
lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đình Lê
Đạt. Theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thì Thụy An không viết gì cho báo Nhân Văn.
Nhưng có thể Thụy An viết cho báo khác, vì Vũ Đức Phúc trong bài tố cáo, có nói
đến "những nhân vật như một anh nghiện hút, ăn cắp (trong "Ông Năm Chuột" của
Phan Khôi), một con đĩ, một tên ăn cướp (trong "Bích-xu-ra" của Thụy An), một
tên việt gian cao cấp, một tên sĩ quan trong quân đội địch trung thành với đế
quốc (trong "Trường hợp tòng quân của thiếu uý Lâm" cũng của Thụy An), lại trở
thành những người đáng thương, đáng yêu, những người yêu nước đáng học tập"
(BNVGPTTADL, trang 118).
Trả lời câu hỏi: Thụy An bị bắt ở đâu? Bùi Thụy Băng, trong
cuộc nói chuyện điện thoại với chúng tôi, ngày 16/12/2004,
cho biết: "Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hoà Xá. Nhưng theo lời ông cụ tôi thì
bị bắt ở Phủ Lý. Tại sao lại như vậy? Bởi vì khi thấy lâm nguy, biết mình bị
theo dõi, Thụy An thường di chuyển giữa Hà Nam-Phủ Lý (quê chồng) và Hoà Xá-Vân
Đình (quê mình) để trốn tránh".
Thụy An bị giam tại Hoả Lò Hà Nội từ tháng 3/1957 đến đầu
năm 1960, bà bị đưa ra tòa, rồi sau đó bị chuyển đi trại giam khác. Vào Hoả Lò
chưa được 3 tháng bà đã tự chọc mù một mắt. Con người đã viết những câu thơ
"Tay run nắm hồn dân
tộc, tóc xòa vương hận núi sông" lại một lần nữa ký
tên dưới hành động của mình: lần này dưới những chữ đòi tự do, dân chủ cho dân
tộc vừa lấy lại được quyền tự chủ.
Việc bà chọc mắt, được nhiều người thân xác nhận, trong đó
có Lê Đạt. Bùi Thụy Băng cho biết: "Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có
bài của Trần Minh, tựa đề "Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác" đăng
trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi
tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng thì bà
cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra toà án nhân dân, đứng trước lá cờ đỏ sao
vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà
giam, không có bút viết, thì bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời
phản kháng chọc mù mắt để không phải nhìn thấy chế độ này nữa. Sau này có một
người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có
chép lại câu này trên sách báo".
Ngày 21/1/1960 bà bị đưa ra toà
cùng với Nguyễn Hữu Đang và bị kết án 15 năm tù. Tháng 10/1974 Thụy An được thả
theo diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris", cùng diện với Nguyễn Hữu Đang. Được trả về quản thúc ở nguyên quán
làng Hoà Xá, trên xe tù bước xuống, Thụy An bị ném đá. Năm 1976, nhờ em trai, là
Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ với gia đình, bà được vào sống với mẹ tại
Gia Định.
Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng giải thích: Phan Khôi và Thụy An
là hai người bạn vong niên từ lâu, Thụy An kém Phan Khôi khoảng gần 30 tuổi.
Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng để tưởng
niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.
Trong "sổ đoạn trường",
Nguyễn Hữu Đang,
đứng thứ nhì sau Thụy An. Ông sinh ở Thái Bình, sớm tham gia các phong trào ái
quốc. Trước 1942, ông hoạt động trong phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ. Năm 1942,
khi ảnh hưởng Việt Minh lên cao, ông tham gia Văn Hóa Cứu Quốc. Từ 1954, Nguyễn
Hữu Đang liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo (sau này là chủ Nxb Minh Đức).
Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, ông đứng ra tổ chức Thanh Niên Xung Phong
và sau đó làm Thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang chính thức
vào Đảng. Nhưng vài năm sau, ông bắt đầu chán nản, tự ý bỏ cơ quan. Năm 1951,
ông ly khai Đảng, và từ đó, khi ở Cầu Bố, khi ở Hậu Hiền, ông lên tiếng đả kích
đảng, chống đối cách mạng. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong tờ Nhân Văn sẽ được
xác nhận rõ ràng qua lời tường thuật của Lê Đạt. Theo lời buộc tội của Mạnh Phú
Tư thì "Nguyễn Hữu Đang là linh hồn của tờ Nhân Văn, Đang tìm kiếm, kiếm
giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp
những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh
những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười". (Mạnh Phú Tư, sđd,
trang 50). Lê Đạt sẽ trở lại những thông tin này, với cái nhìn của người trong
cuộc. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định:
"Nếu không có Đang,
không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị:
gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Theo Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trong lúc đang xẩy ra lớp đấu tranh Thái Hà,
trên đường tìm cách vào Nam.
Hoàng Cầm, Trần
Dần, Lê Đạt,
ba nhà thơ cùng nhạc sĩ Tử Phác, là những người dấy lên phong trào. Tuy vậy
Hoàng Cầm dường như vẫn được nhà cầm quyền xử nương nhẹ hơn; vì Hoàng Cầm nổi
tiếng từ trước kháng chiến? vì Hoàng cầm là tác giả những bài thơ hào hùng trong
kháng chiến? hay vì Hoàng Cầm có thái độ cam chịu hơn? Do đó Trần Dần, Lê Đạt
trở thành hai khuôn mặt nhà thơ "phản động nhất nước".
Hoàng Cầm
sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng
chiến ông đã nổi tiếng với ba vở kịch thơ Viễn khách, Kiều Loan và Lên
đường. Trong kháng chiến, thơ Hoàng Cầm càng nổi bật với các bài Đêm liên
hoan, Tâm sự đêm giao thừa, và trường ca Bên kia sông Đuống. Thời kỳ
NVGP, Hoàng Cầm là người đầu tiên xin ra khỏi quân đội, cùng với Lê Đạt xây dựng
nên các tờ Giai Phẩm và Nhân Văn. Hoàng Cầm giữ vai trò liên lạc và cổ động các
văn nghệ sĩ, thúc giục Văn Cao làm thơ cho Giai Phẩm, ông đem bài thơ Nhất
định thắng của Trần Dần ra in v.v... Những sáng tác của ông trong thời kỳ
này không nhiều, được ghi lại có bài thơ "Em bé lên 6 tuổi" viết về hoàn
cảnh đau thương của một em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam:
"Chị Đội bỗng lùi lại
nhìn đứa bé mồ côi,
cố tìm vết thù địch,
chỉ thấy một con người".
Và vở kịch thơ Tiếng hát, mượn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và
tự do, để xác định "không thể cưỡng bức được nghệ thuật". Bài viết có
tính cách tiêu biểu của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần
Dần, in trong Nhân Văn số 1, biện hộ cho Trần Dần. Nhưng tác phẩm chủ yếu
của ông là Về Kinh Bắc, viết sau Nhân Văn, trong thời gian 57-58, phản
ảnh ý chí quật cường của nhà thơ trước cơn bão tố dập vùi.
Trần Dần
là một trường hợp đặc biệt bất phục tòng và đã chịu sự trù dập nặng nề. Hăng say
tham gia kháng chiến, thời kỳ Điện Biên Phủ, ông viết Người người lớp lớp.
Yêu người con gái ở phố Sinh Từ, gia đình đã di cư vào Nam, bất chấp sự ngăn cấm
của đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Những câu thơ "Tôi bước đi
không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ" đã trở
thành biểu tượng của một thời.
Bị bắt. Cứa cổ. Trần Dần biểu dương bi kịch NVGP. Mấy tháng sau, Đảng phát động
"Trăm hoa đua nở": trên Giai phẩm mùa thu tập I, Phan Khôi viết bài Phê bình
lãnh đạo Văn nghệ, bênh vực Trần Dần, và bài Ông bình vôi bênh vực Lê
Đạt. Trên Nhân Văn số 1, Hoàng Cầm viết bài Con người Trần Dần, và Nguyễn
Sáng vẽ chân dung Trần Dần với vết sẹo trên cổ. Đảng phải xét lại trường hợp
Trần Dần: Trần Dần được thả và ngày 2/10/56 Hội Văn Nghệ phải viết bài tự kiểm
thảo đăng trên các báo. Đến cuối năm 1957, báo Văn in bài Hãy đi mãi của
Trần Dần, tính cách tranh đấu vẫn còn quyết liệt:
"Tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn
Trừ tiếng chửi sống không sáng tạo".
Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết: "Những sáng tác của tôi đều là cái
loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người
ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi".
"Người sáng tác phải có quyền và có gan như người viết sử thời xưa, vua chém đi
6 người, đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy",
(trích Những lời "thú tội" của Trần Dần, sđd, trang 312).
Lê Đạt
là người duy nhất, từ trong nội bộ của đảng đứng lên đòi hỏi tự do dân chủ. Là
một cán bộ hoạt động ở ngành Tuyên huấn, Lê Đạt được xếp vào loại "đầu sỏ",
"nguy hiểm" như Nguyễn Hữu Đang.
Theo lời tố của Xuân Diệu: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân
1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận
trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích thơ gửi người yêu"
(...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới" đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt đưa
ra cái tà thuyết rạch đôi các sự vật làm hai: hễ cái gì mới là cách mạng, hễ cái
gì cũ là đeo kính vào viện hàn lâm, là mệt mỏi, lối mòn, vết già nua, lề đường
han rỉ..(...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ
báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (...) Đứng lên lập
nhóm Giai phẩm mùa xuân. Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn,
đứng làm "nhà lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm,
Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc
lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê
Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn
nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê
Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong
bản chất giai cấp thù địch" (trích bài Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân
trong thơ Lê Đạt, trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các
trang 86, 87, 89 và 95).
Chính Lê Đạt cũng xác nhận vai trò của mình trong bài tự kiểm thảo: "Tôi tham
gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững
vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang,
Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng,
tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo
chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn,
tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình
trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán".
(trích Những lời "tự thú" của Lê Đạt, sđd, trang 318, 319).
Thơ Lê Đạt trong thời kỳ NVGP, có những câu đã in sâu vào ký ức dân tộc:
Đem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước
Có những lời lẽ tiên tri:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trần Thiếu Bảo,
chủ trương Nxb Minh Đức, trách nhiệm ấn loát và phát hành những tờ Nhân Văn,
Giai Phẩm, Đất Mới, quê quán ở Thái Bình. Ông mở hiệu sách Minh Đức (sau trở
thành nhà xuất bản) ở Thái Bình, đến 1954, rời về phố Phan Bội Châu, Hà Nội.
Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và có tiếng là Mạnh Thường Quân
đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, tổ chức lễ kỷ niệm Vũ
Trọng Phụng (thời ấy, Vũ Trọng Phụng còn bị liệt vào thành phần phản động). Theo
lời buộc tội, Nxb Minh Đức đã "lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ" để tái bản
những sách "có hại" của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu sơn tráng sĩ v.v... Nxb
Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc họp báo Nhân Văn.
Trương Tửu-Nguyễn
Bách Khoa,
là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Ông bước vào làng
văn với loạt bài phê bình những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên báo Loa, Hà
Nội, năm 1935. Là nhà phê bình đầu tiên sử dụng phương pháp phê bình Mác xít một
cách có hệ thống và có tính sáng tạo, đặc biệt trong những tác phẩm như:
Nguyễn Du và truyện Kiều (Hàn Thuyên, 1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn
Công Trứ (Hàn Thuyên 1944), Kinh thi Việt Nam, (Hàn Thuyên 1950)...
Ông còn là tác giả những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hội. Khi Mặt trận Dân
Chủ của Việt Minh bắt đầu hoạt động, Trương Tửu viết bài đả kích Mặt Trận Dân
Chủ trên các báo Quốc Gia và Thời Thế. Trương Tửu tuyên bố: "Văn nghệ không
làm chính trị để giữ sự độc lập của trí thức". Cùng với Nguyễn Đức Quỳnh,
ông thành lập nhóm Hàn Thuyên theo khuynh hướng Cộng Sản Đệ Tứ, in sách của
Lương Đức Thiệp, Thái Văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Hải Âu, Hồ Hữu Tường và
Nguyễn Bách Khoa (tức Trương Tửu). Năm 1945 , Hồ Hữu Tường ra Bắc gặp Trương
Tửu, thành lập Ủy Ban Văn Hoá Bắc Bộ. Ngày 10/9/1945, Trương Tửu cho xuất bản
cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam, trong đó ông đã nhắc đến "cái hôm nay
đen tối và chật hẹp", và mượn lời André Gide, khuyên các văn nghệ sĩ, hãy
"reo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng". Tuy
vậy khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng theo cách mạng trong 9 năm. Sau 54, ông
dạy học.
Trong thời kỳ NVGP, Trương Tửu viết hai bài quan trọng "Bệnh sùng bái cá nhân
trong giới lãnh đạo văn nghệ" và bài "Văn nghệ và chính trị". Hoài
Thanh tố cáo: "Trong ba tập Giai phẩm liên tiếp nó đả kích thậm tệ vào toàn
bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính
chất vô sản của Đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có
nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống...
Một mặt khác nó xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ. Nó trích dẫn lời Mác đả kích
chính quyền phản động cũ để gián tiếp đả kích chính quyền ta". (Hoài Thanh,
Thực chất của tư tưởng Trương Tửu, BNVGPTTADL, trang 66).
Nguyễn Vĩnh tố cáo: "Trong bài "Bệnh sùng bái cá nhân trong giời lãnh đạo văn
nghệ" (Giai phẩm mùa thu, tập I), Trương Tửu giả vờ công nhận "Đảng lãnh đạo văn
nghệ là một tất yếu lịch sử" để rồi đòi trả lại "quyền điều khiển chuyên môn cho
những người chuyên môn". Trong bài "Văn nghệ và chính trị ", Trương Tửu tiến lên
một bước, xuyên tạc bài "Tổ chức Đảng và văn học có đảng tính" của Lê nin (...)
Làm như vậy, Trương Tửu có thâm ý tách rời văn nghệ ra khỏi chính trị, xúi dục
văn nghệ sĩ thoát ly đường lối văn nghệ của Đảng, thoát ly sự lãnh đạo của Đảng"
(Nguyễn Vĩnh, sđd, trang 115, 116).
Bàng Sĩ Nguyên phát hiện: "Tửu đã nói gì khi giảng dạy? Tửu đã vu khống Đảng
là hiện tượng tha hoá. Trường đại học có Đảng trị. Có Đảng cụ thể và Đảng trừu
tượng, cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có một Đảng mới".
(...) Con người mới là con người ở nông thôn chống thu mua, ở thành thị chống
mậu dịch, trí thức chống chính sách báo chí. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo
của Đảng. Cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của Đảng trong đại học. Tửu đề
cao quá đáng Vũ Trọng Phụng (...) để nói rằng "không có Đảng lãnh đạo nhà văn
vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn Đảng,
cố vấn cho Đảng, phát hiện vấn đề cho Đảng biết." (Bàng Sĩ Nguyên, sđd,
trang 119-120).
Trần Đức Thảo,
triết gia, giáo sư đại học. Đỗ vào trường Normale Supérieure rue d'Ulm ở Pháp
năm 1936, thủ khoa ban văn chương. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học. Thời kỳ ở
Pháp, ông cộng tác với J.P. Sartre, tham gia nhóm Les Temps Modernes. Sau này
ông kiện Sartre về một cuốn sách viết chung mà Sartre không muốn xuất bản. Những
năm 44-45, ông hoạt động cho Hội Việt kiều. Phạm Huy Thông, giáo sư thạc sĩ, bạn
học cùng thời với Trần Đức Thảo ở Pháp, được cử viết bài đánh Trần Đức Thảo.
Phạm Huy Thông cho biết: Khi phái đoàn Việt Minh Đồng Chí Hội sang Pháp năm
1946, Trần Đức Thảo đả kích phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh
là đầu hàng và phản bội, và đảng Cộng Sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần
Đức Thảo chống lại hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Năm 1949, tại Đại Hội Hoà Bình Thế
Giới ở Paris, Trần Đức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Xô và đại biểu Pháp
là phản bội các dân tộc thuộc địa.
Phạm Huy Thông viết: "Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư
tưởng Mác xít truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn
hoá, không tiếp thu được, hay tiếp thu "máy móc" thì "nguy hiểm" (!). Còn đối
với đảng Cộng Sản Pháp, thì Thảo có một lập luận phản động rằng: đảng Pháp, tuy
có uy tín đấy, nhưng trình độ lý luận Mác xít khó lòng cao, vì hầu hết những
cương vị cao trong đảng đều do công nhân nắm (!)" (Phạm Huy Thông, sđd, trang
69). Năm 1951, Trần Đức Thảo trở về nước, làm giáo sư đại học. Năm 1956, ông
tham gia phong trào NVGP. Phạm Huy Thông viết về người bạn cũ của mình: "Thật ra
"thành tích" học thuật cũng như "thành tích" chính trị của Thảo ở Pháp trước
đây, nhìn lại toàn là những "thành tích" bất hảo (...). Trong thư gửi hội nghị
học tập của trường đại học, Hoàng Cầm có viết: "Tôi nhớ rất rõ: trước Nhân Văn
số 4, trong một buổi họp ở nhà Trần Duy, 55 đường Trần Quốc Toản, lần đầu tiên
Trần Đức Thảo đến họp. Vấn đề hôm ấy do Trần Duy nêu ra là: Ta nên chuẩn bị cái
hướng số 4 như thế nào? Một số như Trần Dần và tôi phát biểu là: "Thêm một bài
về tự do dân chủ thôi!" Trần Đức Thảo nói: "Tôi thấy cần phải bớt vấn đề văn
nghệ đi, nếu cần thì rút bớt cả sáng tác, để bàn nhiều về chính trị, vì tình
hình trong nước và thế giới có nhiều tài liệu khác nữa".
Ta thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân Văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và
chủ yếu vạch ra. (Về vai trò của Trần Đức Thảo trong tờ Nhân Văn, Lê Đạt sẽ xác
định lại.)
Mượn cớ "phát huy tự do dân chủ" Thảo đã bày vẽ cho chân tay của mình trong sinh
viên đả kích sự lãnh đạo của Đảng ở nhà trường (...), giáo sư Nguyễn Lân, phụ
trách môn giáo dục học, trường đại học sư phạm đã phát biểu: "Tôi còn rùng mình
khi nghĩ đến hoạt động của bọn Trần Đức Thảo. Nếu bọn chúng thực hiện được ý
muốn thì không những giáo sư đảng viên, mà đầu của những người lương thiện trung
thành với chế độ như tôi cũng đều treo lên ngọn cây."
(Phạm Huy Thông, sđd, trang 74 và 134).
Sau khi Nhân Văn bị cấm, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp
đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do
dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài Nội dung xã
hội và hình thức tự do đăng trong Giai phẩm mùa đông tập I, lên án những sai lầm
trong cải cách ruộng đất và bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ đăng trên
Nhân Văn số 3, tháng 10/1956, được coi như bản đề cương tranh đấu cho tự do dân
chủ của nhóm NVGP. Trần Đức Thảo viết:
"Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát
triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo. Cái tự do đó là quyền của người
công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không
phải là cái gì có thể ban ơn. Người trí thức hoạt động văn hóa cần tự do như khí
trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa
học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân, đồng thời là
nhiệm vụ số một của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự
do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây
dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng
của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản bây giờ, đã bắt đầu trở
thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô", ký tên Trần Đức Thảo.
Học giả
Đào
Duy Anh
đóng góp tiếng nói của mình trong Giai phẩm mùa thu tập III, với bài Muốn
phát triển học thuật, nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng
chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: "Sự xâm phạm của những cán bộ
chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên
môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để
cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn
mạnh hai hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là
bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các
bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn khiến người ta, vô
luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Engel và
Lénine, hoặc những ý kiến của Staline hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và
bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý
kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn thì người ta chụp
ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu "cải biến chủ nghiã" chẳng hạn, để bịt
mồm, bịt miệng người khác.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm
tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong
thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận
một vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường
lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy công tác học thuật trở
thành trò xiếc leo dây.Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho
mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho mọi người làm xiếc.
Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học
thuật".
Phan Khôi,
chủ nhiệm báo Nhân Văn. Nhà văn và nhà cách mạng lão thành Phan Khôi như một vị
tiền bối đứng ra che chở cho các anh em văn nghệ trẻ. Cùng thời với Bùi Kỷ, Trần
Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh... Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo
An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con trai Tri phủ Phan Trân, và là cháu
ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, ít lâu sau, phong trào bị đàn áp, ông trở lại Quảng Nam,
hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, Phan
Khôi học tiếng Pháp trong tù. Ra tù, ông bắt đầu cuộc đời viết văn làm báo.
Trong nửa thế kỷ, từ Nam ra Bắc, ngòi bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên
các báo: Nam Phong, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân
Văn, Trung Lập, Thực Nghiệp Dân Báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Đàm, Tràng An, Sông
Hương... Từ 1920 đến 1925, ông dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Tác phẩm đầu
tiên của Phan Khôi là tập Nam Âm Thi Thoại, ký bút hiệu Chương Dân, in
năm 1920 ở Hà Nội (năm 1936, tái bản tại Huế, đổi tên là Chương Dân Thi Thoại).
Bài thơ Tình già của Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn,
tháng 3/1932, được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới.
Bởi địa vị văn học, địa vị cách mạng và thái độ đối lập của Phan Khôi, cho nên
ông có một vị trí riêng và đồng thời ông cũng đã phải chịu những sự phỉ báng
nặng nề thô bỉ.
Về hoạt động chính trị, Phan Khôi luôn luôn là một khuôn mặt đối lập với Việt
Minh. Tháng 6/1946, phái đoàn Trung ương của Việt Minh về Quảng Nam, mở cuộc mít
tinh để giải thích Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Phan Khôi lên diễn đàn, công kích
hiệp định sơ bộ. Tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phan Khôi được bầu làm chủ
nhiệm chi bộ Nam Ngãi. Nguyễn Công Hoan viết: "Đêm 12/7, trong khi hắn (chỉ
Phan Khôi) đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, thì
xẩy ra việc Công an ta đến khám toà báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn
phản động ở trong nhà nổ súng ra để chống cự. Tức thì Công an buộc lòng phải bắt
bớ người. Trong số những người bị bắt có Phan Khôi.
Song, Phan Khôi lại một lần nữa được Chính phủ tha cho về để suy nghĩ tội lỗi mà
hối cải."
(Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời
kỳ toàn quốc kháng chiến, báo Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số
12, tháng 5/1958, trang 14).
Về thái độ của Phan Khôi đối với Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan viết:"Cách
mạng tháng Tám cải tử hoàn sinh cho hai mươi nhăm triệu nhân dân Việt Nam, trong
đó có Phan Khôi. Nhưng cái tên già này rất vô ơn với Cách mạng tháng Tám.
Cho đến năm hoà bình, 1954, chưa bao giờ hắn viết, hoặc nói mà dùng danh từ
"Cách mạng tháng Tám". Chính hắn đã khoe điều ấy bằng cả sự hằn học với người
tâm phúc của hắn. Hắn nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng "cướp chính quyền",
mà cũng ngượng mồm. Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ
Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, thì ta "lượm" được, chứ "cướp" ở
tay ai?"
(bài đã dẫn, Văn Nghệ, trang 12)
Về thái độ của Phan Khôi đối với Hồ Chí Minh, Nguyễn Công Hoan viết: "Hôm họp
Hội nghị văn hoá, Hồ chủ tịch có đến. Khi nói về tiểu thuyết, Người có một nhận
xét để khuyên nhủ anh em cầm bút là "tiểu thuyết của ta có vạch được tội ác của
chế độ phong kiến và đế quốc, nhưng chưa đề ra phương pháp cải tạo. Như vậy là
kém phần xây dựng". Trong khi mọi người rất phục Hồ chủ tịch sáng suốt cả về
lĩnh vực văn nghệ, thì tên Quốc Dân Đảng già, vốn bản chất là đối kháng, dè bỉu
Hồ chủ tịch, cho là Người chỉ giỏi chính trị, chứ không biết về văn nghệ. Hắn
bàn tán với bạn hữu rằng Hồ chủ tịch nói sai. "Văn nghệ chỉ có nhiệm vụ trình
bày, còn xây dựng là nhiệm vụ của chính trị, của nhà cầm quyền" (bài đã dẫn,
Văn nghệ, trang 15).
Phan Khôi không tự ý đi theo kháng chiến mà "bị mời" đi kháng chiến, Đào Vũ
viết: "Kháng chiến bùng nổ. Phan Khôi đi theo kháng chiến. Nói cho đúng hơn,
chúng ta đưa Phan Khôi đi theo kháng chiến từ đầu chí cuối", "tôi biết rằng cơ
quan đối với y bao giờ cũng dành những ưu tiên lớn", theo Nguyễn Công Hoan,
"Phan Khôi đi với kháng chiến, không lúc nào hắn không ngớt chửi bới kháng
chiến", Đào Vũ viết: "Phan Khôi bấy nay không ưa gì Đảng của chúng ta.
Vốn là hay xỏ xiên vặt, y gọi Đảng ta là "cái Đảng" thế này thế khác. Có người
vặn lại: sao lại gọi là "cái Đảng", tiếng "cái" ấy có cần thiết gì đâu? Phan
Khôi sẽ thủng thỉnh trả lời: tiếng "cái" ấy cũng như "le, la, les" của tiếng
Pháp mà thôi." (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của
Phan Khôi ngày nay, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).
Là nhà Hán học, nhưng lý luận khúc triết và đanh thép theo phương pháp luận
phương Tây, những bài bút chiến của Phan Khôi với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh...
đã gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Tài năng, nhân cách và kiến
thức đã đưa Phan Khôi lên địa vị "Ngự sử văn đàn" của thời ấy.
Khi toàn quốc kháng chiến. Miễn cưỡng lên Việt Bắc, Phan Khôi dịch sách chữ
Hán, chữ Pháp, sang tiếng Việt.
Thời kỳ NVGP, Phan Khôi đứng ra nhận chức Chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân Văn để
bao che cho các cây bút trẻ. Trong bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ, với
tác phong Ngự sử văn đàn, Phan Khôi nghiêm khắc lên án chế độ quản lý tư tưởng:
Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh,
Nguyễn Đình Thi, những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách
bạch hai giai cấp: Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi phê bình
triệt để ba vấn đề thực tiễn:
1 -Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc
lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi
lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu
ngữ, thông tri, chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ sĩ, rồi
ông cánh cáo: "Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ
thuật của văn nghệ sĩ."
Những lời khẳng khái nổi tiếng của Phan Khôi: "Nhược bằng bắt hết mọi người
viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa
cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết". Hoặc phê Đảng:
"Đảng giáo dục Xuân
Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"
2 -Về vụ Giai phẩm mùa xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ:
"Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính tri tài tình lắm đấy, để cô lập
Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
"Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ
rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa
chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong
chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông
Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng
mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải
thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở
trong phòng họp hội Văn nghệ".
3 -Về vụ giải thưởng văn học năm 54-55, ba tác phẩm Mưa sao của Xuân
Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của
Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn
Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu
ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở
ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám
muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi
thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây
giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí
Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi
cái miệng đã bị vú lấp."
Phan Khôi viết truyện Ông bình vôi, ngẫu hứng từ bài thơ Ông bình vôi
của Lê Đạt, chủ đích bênh vực Lê Đạt, đồng thời nhạo báng lãnh tụ, gọi lãnh tụ
là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Đầu Rau, Ông Tre, Ông Bình Vôi... như những bài vị
mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột,
Phan Khôi đòi hỏi phải trả văn nghệ lại cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn
qua lời người thợ bạc: "người ta cái gì biết ít thì nên nghe chứ không nên
nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy
nghề làm thợ bạc cho tôi."
Theo bài viết của Đoàn Giỏi đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 15/8/1958 thì
tháng 12 năm 1957, Phan Khôi còn đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một tập bản
thảo dầy, tên là Nắng chiều gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, viết từ đầu
kháng chiến Việt Bắc đến năm 1957. Đoàn Giỏi trích một số đoạn để đả kích, nhờ
vậy mà độc giả biết được đại cương nội dung những tác phẩm đó. Theo Đoàn Giỏi,
ngay trong hai bài đầu, tựa đề Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi đã
khẳng định "Xã hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề
đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác". Về bài viết Cây
cộng sản, Đoàn Giỏi tự hỏi: Tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn, cũng gọi
là cây chó đẻ, và cây bọ xít, toàn là những tên không nhã tý nào hét, để gọi nó
là Cây cộng sản và cỏ cụ Hồ? Đến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi
viết: "Vua thì như thế, còn đám quan liêu từ triều đình đến các tỉnh phần
nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều hủ nho. Dưới vua,
hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để
giữ lấy quyền lợi thì còn ai mà làm gì được". Đoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội
vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm bị cấm. Bản
thảo tập Nắng chiều hiện nay còn hay mất? Đó là một nghi vấn văn học chưa
được soi tỏ.
|
Bài viết dài quá
Trả lờiXóa