Bà Huyện Thanh Quan, người đi dọc những Đèo Ngang
Dừng
chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Một mảnh tình riêng ta với ta
Bà
Huyện Thanh Quan
1. Năm 1802, sau khi thống nhất cả
nước, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng
Long mất địa vị đầu não của đất nước về chính trị và văn hóa. Thậm chí, chữ long
trong tên gọi Thăng Long vốn là rồng, biểu tượng vương quyền và lý do chọn đô
của Lý Thái Tổ, cũng bị đổi thành chữ long là thịnh.
Sự hạ thấp này hẳn làm đau lòng dân
chúng Bắc Hà, nhất là các sĩ phu, những người từng ăn lộc nhà Lê như Nguyễn Du,
Phạm Quý Thích, thầy học của Nguyễn Lý, thân sinh Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi đau
ấy, về sau, hẳn còn gia tăng khi cố đô Thanh Long bị đổi thành tỉnh Hà Nội vào
năm Minh Mệnh thứ 12 (1831): Kinh thành ngày ấy tỉnh bây giờ!
Năm 1813, trên đường đi sứ Trung
Hoa, qua Thăng Long, chứng kiến những đổi thay nơi mình đã từng sống suốt tuổi
hoa niên, Nguyễn Du cảm khái:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một ố cung
(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái
Một mảnh tân thành mất cung xưa)
Nhất phiến tân thành một ố cung
(Nhà lớn nghìn năm thành đường cái
Một mảnh tân thành mất cung xưa)
Nhìn Thăng Long bây giờ, thi nhân
nhớ về một Thăng Long ngày xưa. Một nỗi nhớ với từng chi tiết cụ thể, đối lập
nhau như nhà/đường, thành/cung, mới/xưa. Và nỗi nhớ càng chi tiết, cụ
thể bao nhiêu thì càng chứng tỏ nỗi đau mất biểu tượng ấy lớn bấy nhiêu. Đó là
nguồn gốc và cũng là nội dung của một tâm thức chung về sau được gọi là tâm sự
hoài Lê mà một lớp người đã từng sống với hoàng triều đeo đẳng.
2. Bà Huyện Thanh Quan (1) là người
Thăng Long chính gốc, dù bản thân chưa từng sống với nhà Lê, nhưng hít thở cái
tâm thức chung ấy của thời đại, hẳn cũng không tránh khỏi cái tâm sự hoài Lê.
Một lần, Qua chùa Trấn Bắc (2), thi nhân thấy:
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Một tòa sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi như rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. (3)
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Một tòa sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi như rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?
Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu. (3)
Trấn Bắc là một hành cung cũ đời Hậu
Lê, xưa chúa Trịnh thường đem văn võ bá quan, hoặc cung nữ, tới thưởng ngoạn
cảnh Hồ Tây và bày những trò vui nhộn. Vậy mà nay đã trở nên tiêu điều, vắng
vẻ, cỏ dãi dầu. Từ đó, thi nhân chạnh nghĩ về nhà Lê Trịnh, như một niềm cố
quốc. Chữ chạnh ở đây chỉ là nhân mà nghĩ, do điều gì đó gợi ra mà nghĩ
chứ không phải lúc nào cũng đau đáu như những cựu thần nhà Lê. Hơn nữa, thi
nhân cũng không nghĩ về chính cái nước cũ ấy, mà chỉ nghĩ đến nó như một niềm,
một tâm sự.
Đọc thơ Thanh Quan, nhiều người thắc
mắc, sao thi nhân đang sống trên đất nước mình mà lại luôn luôn nói về cố quốc
("Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau"), luôn nhớ nước ("Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc")? Có vẻ như có một mâu thuẫn logic nào đó. Thực ra, về
mặt xã hội, Bắc Hà (Đàng Ngoài) luôn được coi như một "nước" so với
Nam Hà (Đàng Trong) (Xem Hoàng Lê nhất thống chí). Hơn nữa, về mặt tâm lý, cùng
một thực tại mà không cùng một khoảnh thời gian thì thực tại đó chưa hẳn đã như
nhau. Bởi thế, Nguyễn Bính mới "ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên".
Và, cũng bởi thế, Bà Huyện Thanh
Quan nhìn hiện tại mà nhớ đến quá khứ. Thậm chí, nỗi nhớ làm con người như rơi
vào ảo giác. Thi nhân thấy quá khứ: một toà sen thơm hơi hương vua còn rớt và
năm thức mây lưu lại nếp áo chầu. Sự hoài niệm đã xáo trộn thời gian, biến quá
khứ thành hiện tại. Đây là một nét đậm, một nhịp mạnh trong thơ Thanh Quan. Nó
không chỉ tạo ra một cảm hứng thế sự, mà còn tạo ra cái nhìn thế giới và cái
nhìn nghệ thuật trong thơ bà.
Bà Huyện Thanh Quan sống trong một
thời đại (lớn) đầy biến động. Nhà Lê/Mạc, chúa Trịnh/Nguyễn, Tây Sơn/Nguyễn Ánh
liên tiếp xuất hiện và liên tiếp sụp đổ. Nguyễn Du, một chứng nhân của thời đại
ấy, đã phải thốt lên: "Cổ kim bất kiến thiên niên quốc" (Xưa nay chưa
từng thấy triều đại nào tồn tại nghìn năm cả). Bà Huyện Thanh Quan cũng sống
trong một không gian nhiều đổi thay. Đó là Thăng Long. Theo quy luật động học
văn hóa, trung tâm bao giờ cũng thay đổi nhanh hơn và nhiều hơn ngoại biên. Hơn
nữa, ở Việt Nam,
mỗi triều đại mới lên ngôi thường phá hủy những công trình của triều đại trước
để làm lại từ đầu. Trong một không - thời gian biến dịch như vậy, từ một cảnh
quan cụ thể là chùa Trấn Bắc, Bà Huyện Thanh quan dễ khái quát lên thành một
quy luật xã hội:
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Quy luật này không chỉ chi phối một
cảnh quan nào đó của Thăng Long, mà Toàn bộ Thăng Long và qua đó toàn bộ non
sông đất nước. Đây là sự thăng hoa của thơ Thanh Quan và càng ở những bài thơ
sau thì sự thăng hoa này càng lớn. Vì thế, trong Thăng Long thành hoài cổ, tâm
sự hoài Lê trong Bà Huyện Thanh Quan đã trừu tượng hóa thêm một bậc nữa:
Tạo hóa gây chi cuộc Lý Trường?
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Thi nhân trách con tạo (gây
chi) biến cuộc đời thành sàn diễn của những đổi thay. Thoạt tiên vẫn những đối
lập xưa/nay ấy: Xưa là lối xe ngựa đi về nhộn nhịp thì nay chỉ có cỏ thu phủ
dày; xưa là lâu đài đường bệ mà nay chỉ còn trơ lại nền cũ dưới ánh chiều tà.
Rồi xuất hiện thêm một đối lập khác nữa tự nhiên/nhân tạo. Ngày tháng (tuế
nguyệt) trôi đi kéo theo những đổi thay (tang thương), nhưng đó là những đổi
thay của thế giới nhân tạo, thế giới người, còn tự nhiên (đá, nước) thì vẫn bất
biến (trơ gan, cau mặt). Soi vào tấm gương vĩnh hằng của tự nhiên, đời sống
nhân tạo từ xưa đến nay (kim cổ) càng trở nên giả tạm và thoáng chốc. Con người
đối diện với cảnh tượng này (cảnh đấy, người đây) được thức nhận, tỉnh táo hơn
so với con người ảo giác ở chùa Trấn Bắc. Nhưng, vì thế, cũng đau khổ hơn.Và cô
đơn hơn.
Đến đây, có thể nói, cái chữ tâm sự
hoài Lê ở Bà Huyện Thanh Quan, nếu có thì cũng đã dần dần trở nên rỗng nghĩa,
mất nội dung cụ thể. Thăng Long thời Lê chỉ còn là một biểu tượng của một quá
khứ vàng son đã một đi không trở lại. Thậm chí chỉ còn là biểu tượng của một dĩ
vãng chung chung một hoài niệm, một nỗi nhớ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ cấp hai này tạo
thành nội dung sống của Bà Huyện Thanh Quan.
3. Được gọi vào Huế làm Cung Trung
Giáo Tập, Bà Huyện Thanh Quan giã từ Thăng Long. Những tưởng rằng sự thay đổi
không gian sẽ làm thay đổi thời gian. Van lạy không gian xóa những ngày (Hàn
Mạc Tử). Nhưng hóa ra phong cảnh không lay chuyển được tâm cảnh, mà, ngược lại,
còn bị tâm cảnh nhuộm màu. Điều này có thể thấy rõ khi thi nhân Qua Đèo Ngang:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác ven sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh Đèo Ngang thật khác xa với cảnh
Thăng Long. Nhiều thiên nhiên hơn, ít nhân tạo hơn. Nhìn gần, thi nhân thấy
thiên nhiên cũng chen chúc. Một mặt, cái hữu sinh (cỏ cây) lấn át cái vô sinh
(đá), mặt khác, trong giới, hữu sinh, cái thô lậu hơn (lá) lại lấn át cái tinh
tế hơn (hoa). Còn nhìn xa: vạn vật thu nhỏ như trong hòn non bộ. Con người thì
nhỏ nhoi, cực nhọc (Lom khom dưới núi tiều vài chú), nơi "vui như
chợ", "đông như chợ" thì cũng lại thưa thớt (Lác đác ven sông
chợ mấy nhà). Thật khác xa với cảnh chen chúc của thiên nhiên. Thực ra, cảnh
Đèo Ngang rất hùng vĩ, nhưng trong con mắt tâm trạng của nhà thơ đã trở thành
cảnh mọn, thậm chí tiêu điều. Chẳng khác gì sự tiêu điều của Thăng Long. Nội
tâm đã chi phối ngoại cảnh.
Đứng trên đỉnh Đèo Ngang, nghe tiếng
cuốc kêu, Bà Huyện Thanh Quan nhớ đến nước; nghe chim da da (đa đa, bát cát quả
cà, bắt cô trói cột...) kêu, thi nhân thấy thương nhà. Niềm hoài cổ luôn chờ
chực sẵn, còn sự đồng âm kia (cuốc là chim và quốc là nước, da da là chim và
gia là nhà) chỉ là một cái cớ. Đến đây, thiên nhiên vốn chen chúc tạo thành một
hợp thể ở chân đèo, rã ra thành những yếu tố riêng rẽ: trời, non, nước. Và con
người cũng trở thành một yếu tố đơn lẻ, ngậm một mảnh tình riêng mà chỉ biết
chia sẻ với chính mình (ta với ta).
Bà Huyện Thanh Quan, như vậy, đã
vượt qua được một Đèo Ngang địa lý mà không qua nổi một Đèo Ngang tâm lý. Tâm
tình hoài cổ vẫn là hành trang của bà trên đường vào Huế. Thậm chí, hành trang
ấy càng đi xa càng trở thành một gánh nặng. Nỗi nhớ Thăng Long, nhớ về nỗi nhớ
Thăng Long đè nặng tâm hồn người lữ thứ, trở thành nỗi nhớ nhà mỗi khi chiều về
trên con đường thiên lý:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Chiều hôm nhớ nhà là một tâm trạng
cố hữu, thường hằng của động vật, của con người. Mỗi khi ngày hết, mọi sinh
linh đều tìm về nhà, tổ ấm, chốn nương thân để được che chở nghỉ ngơi. Bằng
những động tác dứt khoát, sảng khoái (gác mái, gõ sừng), ngư ông và mục tử ra
về. Và tuy là bến xa (viễn phố) và thôn lẻ (cô thôn), nhưng họ còn có nơi để mà
về. Còn con người lữ thứ kia, giống như con chim bạt gió, mặc dù đang dồn bước
nhưng không có nhà để mà về. Chỉ có sự nhớ nhà, sự nhớ về sự nhớ nhà. Bởi thế,
đường đi không bao giờ kết thúc. Bởi thế lữ khách trở thành một trường lữ, một
người đi.
4. Nếu lâu đài ngôn ngữ thơ Hồ Xuân
Hương được xây dựng bởi những động từ chỉ hành động, tính từ chỉ phẩm chất, và
trạng từ chỉ cách thức và mức độ thì tháp (ngà) thơ Bà Huyện Thanh Quan lại chỉ
được kiến tạo bằng những danh từ mà phần lớn lại là danh từ Hán Việt: tạo hóa,
hý trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ,
đoạn trường, cố quốc, phế hưng, hoàng hôn, ngư ông, mục tử, viễn phố, cô thôn,
chương đài, lữ thứ, khoáng dã, bình sa... Nhiều câu thơ của Thanh Quan dường
như chỉ là sự ghép lại của những danh từ:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Danh từ chỉ sự vật ở cấp độ khái
niệm. (Ví dụ, nói đến từ bàn, ta hình dung đó là một mặt phẳng, có chân, được
dùng để làm gì đó. Còn nếu biết cái bàn đó như thế nào thì phải thêm vào những
định ngữ như cái bàn vuông, màu xanh, bằng gỗ, để viết...). Làm thơ bằng những
danh từ, nghĩa là Bà Huyện nhìn sự vật ở những bản chất của nó, bỏ qua tất cả
những gì là cụ thể, sông động. Một người như thế là giữ một khoảng cách với
cuộc sống, xa lánh cuộc đời, lẩn trốn hiện tại. Khoảng cách đó ở nhà thơ còn
được nhân lên một lần nữa, bởi các danh từ của Thanh Quan toàn là danh từ Hán
Việt.
Cùng chỉ một loài thực vật, nhưng cỏ
(thuần Việt) và thảo (Hán Việt) gieo vào tâm trí bạn đọc những cảm xúc và tưởng
tượng khác nhau. Cỏ bao giờ cũng gợi nhắc đến một thứ cỏ cụ thể nào đó. Nó đánh
thức trong ta những kỷ niệm. Còn thảo thì chỉ là một âm vang xa xôi, trang
trọng và nhoè nghĩa. Như vậy, sự khác nhau giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt
không đơn thuần ở sắc thái ngữ nghĩa, ở độ âm vang của con chữ, mà còn ở một
cách nhìn.
Bà Huyện Thanh Quan thường nhìn cảnh
vật vào mùa thu: Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, bằng tấm-lòng-con-mắt-thu: Ngơ
ngẩn lòng thu khách bạc đầu. Thậm chí, ngay cả khi thi phẩm không có chữ thu
nào, thì bạn đọc vẫn cảm nhận được cảnh ấy, vật ấy đang thu: cỏ dãi dầu, toà
sen rớt, thức mây phong, ngàn mai gió cuốn, dặm liễu sương sa, còi mục thét
trăng, chài ngư tung gió... Một hồn thu ngấm trong từng con chữ phả vào hồn
người đọc: Hơi thu lạnh lẽo khí thu loà (Đỗ Phủ).
Cảnh thu ấy còn được thi nhân nhìn
vào buổi chiều, trong bóng chiều tà. Trong 5 bài thơ chắc chắn là của Bà Huyện
Thanh Quan thì có đến 4 bài có những từ khác nhau chỉ bóng chiều tà:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(Qua Đèo Ngang)
(Qua Đèo Ngang)
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long thành hoài cổ)
(Thăng Long thành hoài cổ)
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
(Chiều hôm nhớ nhà)
Vàng tỏa non tây bóng ác tà
(Nhớ nhà)
(Nhớ nhà)
Với tần số xuất hiện cao như vậy,
lại ở vào một vị trí đặc biệt (hầu hết đều ở cuối câu mở đầu thi phẩm), có thể
nói, bóng chiều tà chính là từ-chìa khóa để mở vào những tòa lâu đài thơ Thanh
Quan. Bóng chiều tà chính là lăng kính để thi nhân nhìn cuộc đời. Dưới bóng
chiều tà, cảnh vật mùa thu vốn đã tiêu điều đổ nát càng thêm đổ nát tiêu điều.
Nhưng cũng trong ánh chiều tà ấy, sự vật lại bừng sáng lên lần cuối cùng cái
huy hoàng của tàn tạ, để rồi vĩnh viễn lịm tắt.
Bà Huyện Thanh Quan không chỉ giữ
một khoảng cách với cuộc đời, mà còn giữ khoảng cách với cả chính mình. Khi
trên đỉnh Đèo Ngang, thi nhân nói với ta với ta là đã có sự phân thân. Ta tự
chia ta thành một cái ta khác để chia sẻ mảnh tình riêng cho bớt cô đơn. Nhưng
dẫu sao chữ ta này cũng vẫn là nhân xưng ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ
diễn ra một lần, khi cảm xúc của thi nhân lên đến đỉnh điểm. Còn ở tất cả những
trường hợp khác, Bà Huyện Thanh Quan đều tự gọi mình ở ngôi thứ ba số ít. Một
cách tự xa lạ hóa mình. Đó là người ("Cảnh đấy, người đây luống đoạn
trường"); "Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ"), kẻ ("Mấy kẻ
tình chung có thấu là...", đặc biệt là khách ("Ngơ ngẩn lòng thu
khách bạc đầu"; "Dặm liễu sương sa khách bước dồn"; "Dặm
liễu bâng khuâng khách nhớ nhà").
Tự nhận mình là khách, Bà Huyện
Thanh Quan không chỉ gián cách mình với mình, mà, quan trọng hơn, gián cách
mình với cuộc đời. Bà khẳng định mình chỉ là một người khách đến với cuộc đời
này. Đến rồi đi không có gắn bó gì hết. Nhất là ở đây và bây giờ. Điều này còn
được thể hiện rõ một lần nữa qua nhan đề các bài thơ của thi nhân. Hai nhan đề
có từ qua (Qua Đèo Ngang, Qua chùa Trấn Bắc), hai có từ nhớ (Chiều hôm nhớ nhà,
Nhớ nhà), một có từ hoài (cổ), cũng là nhớ (Thăng Long thành hoài cổ). Như vậy,
khoảng cách giữa thi nhân và cuộc đời được thiết lập ở cả ba cạnh khía: qua :
không gian; hoài cổ: thời gian và nhớ nhà: tâm lý. Nghĩa là, người lữ khách ấy
chỉ có đi qua cuộc đời, không ghé lại đây để rồi chỉ có nhớ, hoài, nhớ hoài,
hoài nhớ.
5.
Mùa thu là mùa tàn của một năm
Chiều tà là giờ tàn của một ngày.
Chiều tà là giờ tàn của một ngày.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ mùa
thu và chiều tà. Thời gian tàn tạ ấy lại gắn với không gian đổ nát: một tòa thành
cổ, một ngôi chùa hoang vắng, lối xưa nền cũ của những lâu đài cung điện, một
cảnh đèo heo hút, hoang vu, một bến sông xa, một bãi cát rộng, một con đường...
Cảnh vật trong không - thời gian ấy đều hướng tới một sự suy tàn, tiêu vong.
Mặc dù buồn về những cảnh tượng như vậy, nhưng thi nhân vẫn thấy được vẻ đẹp
của sự tiêu vong. Thậm chí, càng tàn tạ càng bừng lên một vẻ đẹp khó hiểu. Tâm
trạng này cũng giống như cái nhìn của Tản Đà sau này: "Lá sen tàn tạ trong
đầm/Lặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa" (Cảm thu tiễn thu). Tâm lý như vậy
hẳn ẩn sâu bên trong một xung năng vô thức nào đó.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn là sự
lặp đi lặp lại dài dài những vấn đề tư tưởng nghệ thuật ở cả phương diện vĩ mô
lẫn phương diện vi mô. Trước hết là sự trùng lặp về chủ đề: cả 5 bài thơ đều là
sự hoài niệm quá khứ. Cảnh tượng, phong cảnh đều là mùa thu và chiều tà. Tâm
cảnh đều là sự nhớ nước, thương nhà. Nhân vật trữ tình bao giờ cũng là người
đi. Sau đó là sự lặp lại của từ ngữ như thu, bóng xế tà, kim cổ (gương cũ soi kim
cổ chuông hồi kim cổ), cỏ (cỏ dãi dầu; cỏ cây chen đá)...
Đặc biệt là sự lặp lại với tần số
cao những từ chỉ tâm trạng của tác giả: niềm cố quốc, nhớ nước, thương nhà, nỗi
hàn ôn, kẻ tình chung, mảnh tình riêng... Như vậy, Bà Huyện Thanh Quan là người
không chỉ bị cuốn hút bởi sự suy tàn, mà còn thấy được cả vẻ đẹp của suy tàn.
Điều này thường trực trong thi phẩm đến mức thành ám ảnh. Ám ảnh đó ẩn chứa một
xung năng vô thức mạnh mẽ mà phân tâm học gọi là bản năng chết (thanatos).
Đến đây, người ta bỗng thấy ý nghĩa
sâu xa, nhiều tầng lớp trong nỗi buồn, sự hoài niệm quá khứ, sự cách vời cuộc
sống hiện tại của Bà Huyện Thanh Quan. Căn cốt của nỗi buồn đó là sự cuốn hút
của thi nhân về phía thanatos, sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, sự yên tĩnh đời đời. Còn
nỗi buồn về thế sự đổi thay, mọi thứ đều giả tạo, mong manh, thoáng chốc chỉ là
"bản chất hàng hai", nói theo ngôn từ của triết gia Trần Đức Thảo.
Như vậy, cái "tâm sự hoài Lê" kia chỉ là tấm áo khoác, là duyên cớ,
hay "bản chất hàng ba", cái trên cùng, bề mặt.
6. Như vậy, với sự hướng về bản năng
chết, Thanh Quan càng là một đối tượng của Hồ Xuân Hương. Sự đối trọng trên mọi
cấp độ. Thơ Xuân Hương, như đã nói, được kiến tạo bằng những động từ chỉ hành
động, thậm chí hành động cơ bản nhất của con người như đạp, móc, xuyên..., bằng
tính từ chỉ phẩm chất, trạng từ chỉ cách thức và mức độ cùng cực. Hồ Xuân
Hương, bởi thế, là người áp sát với đời sống, người không khoảng cách với cuộc
đời, người nhìn cuộc đời trong sự chuyển động, sự vận động không ngừng của nó,
trong màu sắc, hình khối, kích thước, âm thanh của nó. Đó là một thi nhân yêu
sự sống, tôn sùng sự sống. Hồ Xuân Hương là người có một bản năng sống (éros)
mạnh mẽ.
Hồ Xuân Hương, bởi thế, không chịu
nằm yên trong khuôn khổ thơ Đường, một thể loại thơ trang nghiêm, hài hòa đến
tuyệt đối. Thi nhân đưa vào thơ mình vô vàn những chi tiết tỉ mỉ, cụ thể, thậm
chí sống sít của đời sống, những từ láy đôi láy ba hết sức thừa thãi, những từ
vận hiểm hóc, thách đố, đặc biệt những cặp câu thực và luận, mặc dù đối vần rất
chỉnh, nhưng ít nhiều đã ngả sang đối xứng để ám chỉ những chuyện tính giao nam
nữ như:
Trai du gốc hạc khom khom cột
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
(Đánh đu)
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
(Đánh đu)
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đêm ngang thich thích mau
(Dệt cửi)
Một suốt đêm ngang thich thích mau
(Dệt cửi)
Toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương nhìn
chung, vừa tuân theo những nguyên tắc, luật lệ của thơ Đường vừa chống lại nó.
Bà đã phá vở tính đơn giản, kiệm từ, trang trọng cách vời của nó. Tuy nhiên, đó
chỉ là sự phá vỡ cái hài hòa cục bộ, tức nội bộ bài thơ, để sau đó lại thiết
lập nên một hài hòa mới, rộng hơn, giữa bản thân bài thơ và vũ trụ quanh bài
thơ đó. Vì thế, Hồ Xuân Hương đã sáng tạo ra một thứ thơ Đường luật mới.
Đó là tinh thần éros.
7. Bà Huyện Thanh Quan, ngược lại,
vẫn trung thành với thể thơ luật Đường chính thống. Thơ Thanh Quan được làm
bằng những danh từ, lại là danh từ Hán Việt, nên tạo ra được một sự sang trọng,
cách vời, thấm chí uy nghi đường bệ. Thơ bà hoàn toàn không có các nối từ,
"từ nước", mà toàn những từ "đặc". Phép tính lược được vận
dụng đến mức tối đa. Không gian và thời gian thống nhất với nhau. Con người và
vũ trụ thống nhất với nhau. Mỗi bài thơ là một thế giới thống nhất, biệt lập,
tự trị. Năm bài thơ cũng tạo thành một thế giới thống nhất biệt lập và tự trị.
Một Ngũ Hành Sơn trên cánh đồng thơ Việt.
Thơ Đường Bà Huyện Thanh Quan, điều
quan trọng là vẫn giữ được hồn Đường. Đây là điều ít nhà thơ đạt được, kể cả
những thi nhân Trung Hoa sau Đường. Bởi vậy, nếu nói về việc làm thơ nôm Đường
chuẩn nhất, Đường nhất ở Việt Nam
thì thứ nhất phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan. Sự Việt hóa thơ Đường ở thi nhân,
nếu có, chính là việc nhà thơ kín đáo để lộ nữ tính của mình vào bài thơ. Thi
nhân nói nhiều đến mai, liễu vốn là những từ chỉ phụ nữ trong thi liệu Đông
phương.
Nguyễn Du đã từng khen chị em Thuý
Kiều là mai cốt cách tuyết tinh thần, rồi Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Đặc
biệt hơn, Bà Huyện Thanh Quan khi dùng chữ kẻ chốn Chương Đài thì đã nói về
liễu Chương Đài, về người phụ nữ. Ngoài ra, thơ Thanh Quan cũng nói nhiều đến
cỏ, thứ thực vật rất gần với thân phận phụ nữ. Chính nữ tính này của thi nhân
đã làm mềm hóa, thân mật hóa thể thơ Đường luật vốn trang nghiêm, đôi lúc đến
lạnh lùng.
Nét riêng nữa của thơ Đường Thanh
Quan là xuất hiện thực hiện người lữ thứ. Người-đi-đường-chứng-kiến kể lại
những "điều trông thấy" của mình, cảm xúc của mình, nỗi buồn nhớ của
mình bằng một giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, thỉnh thoảng lại xen tiếng thở dài,
nhưng cũng không hiếm khi có sự nồng ấm của thân xác (như khi gọi niềm tâm sự
của mình là nỗi hàn ôn!). Thơ Đường, do ảnh hưởng của Thiền học, vốn là một thứ
mỹ học tĩnh. Nhưng với sự xuất hiện con người lữ thứ, thơ Đường Thanh Quan đã
bắt đầu có sự chuyển dịch, tuy còn rụt rè về phía động. Đó là ảnh xạ của ý thức
cá nhân đã bắt đầu thức tỉnh trong lớp người tài tử đương thời.
Tuy số lượng bài để lại không nhiều,
nhưng, có thể nói, thơ Thanh Quan là những dấu son của thơ Việt Nam
trung đại. Nghĩ đến Bà Huyện Thanh Quan tôi cứ nghĩ tới bức chân dung Người đàn bà xa lạ của họa sĩ Nga
Kramskoi; ngồi bất động trên xe ngựa và sau lưng là kinh thành Peterburg mù
sương. Cũng đẹp một vẻ đẹp sang trọng, đài các và cách vời như thế. Còn nghĩ
đến thơ bà, tôi mường tượng đến một chiều thu, khi mặt trời đã tắt, nhưng còn
hắt lên nền trời những dải sáng vàng rực, thuần khiết, và người thợ trời nào đã
cắt dải sáng đó thành những bài thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Tháng 9/2007
- Đỗ Lai Thúy
____________________
Chú thích:
1. Bà Huyện Thanh Quan tên thật là
Nguyễn Thị Hinh, người Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuật, cạnh Hồ Tây Hà Nội bây giờ.
Không rõ năm sinh và năm mất. Nhưng căn cứ vào năm sinh và năm mất của chồng bà
là Lưu Nguyên Ôn 1804 - 1847 thì có thể đoán chắc một điều là bà sống vào thời
Thăng Long nhà Nguyễn, thậm chí khi Thăng Long đã đổi thành tỉnh Hà Nội.
2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan còn lại
không nhiều. Theo nhiều học giả thì gồm những bài sau.
1. Thăng
long thành hoài cổ
2. Qua chùa Trấn Bắc
3. Qua Đèo Ngang
4. Chiều hôm nhớ nhà
5. Nhớ nhà
6. Tức cảnh chiều thu
7. Cảnh đền Trấn Võ
8. Cảnh Hương sơn
2. Qua chùa Trấn Bắc
3. Qua Đèo Ngang
4. Chiều hôm nhớ nhà
5. Nhớ nhà
6. Tức cảnh chiều thu
7. Cảnh đền Trấn Võ
8. Cảnh Hương sơn
Theo chúng tôi thì 4 bài đầu là hoàn
toàn chính xác của Bà Huyện Thanh Quan bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến
phong cách nghệ thuật, bài thứ 5, Nhớ nhà, như là một dị bản của Chiều hôm nhớ
nhà, hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì không giống phong cách Bà Huyện Thanh
Quan mà giống phong cách Hồ Xuân Hương nên chúng tôi cho là của Bà Chúa Thơ Nôm
(xem thêm chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực của chúng tôi), cuối
cùng bài 8 cũng không giống với tư tưởng và phong cách Bà Huyện Thanh Quan.
3. Câu này nhiều bản chép là Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu, nhưng
chúng ta thấy nó mang không khí của Hồ Xuân Hương, còn Ngơ ngẩn lòng thu khách bạc đầu thì không
chỉ hợp với phong khí của bài thơ mà còn hợp với phong cách của Bà Huyện Thanh
Quan.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa