Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975
ThS. Ngô Thị Quỳnh Nga (
Ngôn
ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn
ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách
sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại
hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương
diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà
văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như
trước. Với quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết, họ đã rất
chú trọng đến việc xử lý ngôn ngữ. Người viết đã kết hợp khéo léo tiếng nói của
một thời đã qua và tâm lý của người đọc thời hiện tại. Mỗi trang viết của họ
thực sự tạo nên sức hút mạnh mẽ bởi sự biến ảo kì diệu của ngôn ngữ. Đọc tiểu
thuyết lịch sử hôm nay người đọc như vừa được sống lại không khí của từng sự
kiện lịch sử xa xưa, vừa cảm thấy gần gũi, thân quen như chính cuộc sống này.
Qua các tiểu thuyết lịch sử viết sau năm 1975 được dư luận đánh giá cao, chúng
tôi rút ra một số đặc điểm chính về ngôn ngữ như sau.
1. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính
Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy các sự kiện, biến cố, nhân vật lịch
sử làm đề tài, cảm hứng sáng tạo. Đó là những sự việc, con người của một thời
đã qua, cách chúng ta hàng thế kỉ. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phục dựng lại
được không khí của thời đại đó, phân biệt con người hôm qua với con người hôm
nay. Bởi vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính không thể thiếu trong bất cứ
tiểu thuyết lịch sử nào. Lớp ngôn ngữ này được sử dụng trong cả lời của nhân
vật và lời của người kể chuyện. Câu chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử thường
là về một vương triều nào đó, gắn với những ông vua, bà hoàng cụ thể. Nghĩa là
các sự kiện và con người trong tiểu thuyết lịch sử hầu hết đều liên quan đến
đời sống cung đình. Vì vậy nên ngôn ngữ cung đình, quan phương được sử dụng với
tần số lớn. Mỗi nhân vật trong các tác phẩm đều gắn với một chức phận, một
triều đại nhất định. Người viết tiểu thuyết lịch sử phải giúp người đọc nhận
biết được đặc điểm ngôn ngữ, tâm lý của con người thời đại đó. Từ vua đến quan
đều phải giao tiếp với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mang tính quy phạm, tương
xứng với địa vị của mỗi người. Dù là một ông già gần đất xa trời hay là một đứa
trẻ lên ba đã lên ngôi vua đều xưng là "trẫm", "ta" một
cách rất trịnh trọng. Còn những kẻ bề dưới khi xưng hô với bề trên đều phải xưng
là thần, khi nói phải "xin", "tâu" rất cung kính. Lối ăn
nói quy phạm ấy ngấm cả vào trong đời sống riêng tư nhất. Trần Thuận Tôn và Hồ
Nguyên Trừng (tiểu thuyết Hồ Quý Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có
quan hệ họ hàng (Thuận Tôn là em rể của Nguyên Trừng), và là những người bạn
rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn đạo vua tôi nghiêm ngặt.
Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: "Khanh vẫn đắm mình trong rượu ư?".
Nguyên Trừng đáp: "Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ tiểu
thần này không thể không say được". Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời:
"Cũng như ta chứ sao? Thật không thể không đi tu được" [5,
tr.450]. Vua Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ) trong tiểu thuyết Giàn thiêu
của Võ Thị Hảo khi gặp sư bà động Trầm đã có những linh cảm kì lạ: "Đôi
mắt ấy hắt cái ánh sáng kì lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tụt rơi
đâu mất. Một mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên khiến Thần
Tông sững sờ" [4, tr.274], "Dáng vẻ lạ lẫm và cái mùi hương
thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa
Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại
nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại" [4, tr. 275]. Dù đang
trong cảm giác đê mê với những rung cảm kì lạ nhưng khi nói với sư bà, Thần
Tông vẫn giữ lối nói khuôn phép: "Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc
của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm
mọi hang cùng ngõ hẻm" [4, tr.282], "Sư bà… không đựơc lộng
ngôn mạn thượng" [4, tr.283], "Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dẫu
đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở, đi lại trên đất
của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha" [4,
tr.289].
Viết về một thời quá khứ xa xưa của dân tộc, các tác giả tiểu thuyết lịch sử
sau 1975 đã tạo nên một không khí chân thực cho tác phẩm qua việc ghi lại các
mốc thời gian lịch sử. Các sự kiện lịch sử được được đánh dấu bằng những mốc
thời gian chính xác như: Năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Mậu Thìn (Hồ
Quý Ly); "Đinh Mùi tháng Chạp. Ngày ất Dậu, giờ Dần",
"Hội Tường, đại khánh năm thứ nhất", "Mậu Thìn,
Quảng Hựu năm thứ tư", "Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự năm
thứ tư", "Nhâm Tý, Thái Nình năm thứ nhất", "Thuận
Thiên năm thứ hai", "tháng 10 Mậu Ngọ, Thiệu Ninh năm thứ
nhất', "Năm Hội Phong thứ 7" ("Giàn
thiêu"). Trong "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng
Giác là: "Đầu năm Mậu Tý", "Năm Tân Mão (1771)",
"Tháng 3 năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng vương", "Tết
Đinh Dậu (1777)", "Từ tháng 4 đến tháng 6 năm Đinh Dậu
(1777)", "đầu năm Mậu Tuất (1778)", "Mùa
đông năm Nhâm Dần (1782)", "Tháng Giêng năm Quý Mão (1783)",
"Tháng 10 năm Giáp Tìn (1784)", "Sáng 10 tháng 7
năm Bính Ngọ ", " ngay sau khi nghe tin quân Thanh xâm lấn
Bắc Hà, vua Quang Trung cấp tốc ra lệnh xuất quân ra Bắc ngày 25 tháng 11
năm Mậu Thân (1788), ngày 29 ra đến Nghệ An". Trong tiểu thuyết
"Mẫu thượng ngàn " của Nguyễn Xuân Khánh, các sự kiện cũng
được đánh dấu bằng các mốc thời gian cụ thể: tháng 5 năm 1883, năm 1858, tháng
7 năm 1861, năm 1873 (Quý Dậu), năm Nhâm Ngọ (1882)… Đây là cách viết quen
thuộc của sử biên niên. Cách viết nhằm xác nhận tính chân thực của các sự việc,
tạo ra sự tin tưởng cao độ nơi người đọc. Cách viết này còn giúp người đọc hình
dung cụ thể hiện thực của từng thời kỳ lịch sử. Qua các mốc thời gian sự kiện,
từng hành động, tâm lý của con người cũng hiện lên, phơi bày toàn bộ những sóng
gió trong đời sống triều chính ở một xã hội phong kiến phương Đông.
Ngôn ngữ quan phương, cổ kính còn được thể hiện trong hệ thống ngôn ngữ mang
màu sắc tôn giáo. Do đặc điểm lịch sử riêng, nhiều tôn giáo của nước ngoài đã
du nhập vào Việt Nam. Người Việt Nam đã tiếp nhận các tôn giáo đó một cách có
chọn lọc, phù hợp với tâm lý, nếp sống của mình. Mỗi triều đại gắn với sự phát
triển của những tôn giáo, học thuyết nhất định. Bởi vậy, sử dụng hệ thống thuật
ngữ mang màu sắc tôn giáo cũng là một cách tái hiện lại không khí của thời đại
đó. Thời Lý ghi nhận sự phát triển của đạo Phật. Bởi vậy, trong tiểu thuyết
"Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã sử dụng đầy ắp ngôn ngữ
Phật giáo. Nhiều chương trong tác phẩm được đặt tên bằng những khái niệm nhà
Phật: "Ngược thác oan" (chương VIII), "Niệm xứ"
(chương XI), "Đoạ xứ" (chương XII), "Nghiệp chướng"
(chương XV), "Hành cước" (chương XVI), "Báo oán"
(chương XVII), "Thiền sư" (chương XVIII), "Đầu thai"
(chương XX), "Giải thoát" (chương XXI) (9/25 chương). Tiểu
thuyết mở đầu bằng lời của Phật nói với các tỳ kheo: "ơ các tỳ kheo!
Nếu các người lại để mình mắc vào thuyết ấy, nếu các người ưa thích nó, nếu các
người mê luyến nó, gìn giữ nó như một kho bảo vật, nghĩa là các người bị ràng
buộc vào nó, thì các người đâu có hiểu rằng giáo lý của ta có khác nào là chiếc
bè để đưa qua sông chứ không phải để buộc trói người vào đó "
[4, tr.17]. Khắp tác phẩm văng vẳng những lời cầu kinh: "… An ta phạ
bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phà… " [4, tr.20].
"Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau lên thuyền Bát Nhã".
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm vượt qua bể khổ
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau đến nhà vô vi …" [4, tr.22].
Các nhân vật trong truyện cũng thường nói với nhau bằng ngôn ngữ nhà Phật. Vị
Thượng tọa nói với vua Thần Tông: "Mô Phật! Kẻ tu hành này thật lấy
làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp… " [4, tr.50]. Lời Từ Lộ
khấn người cha bị chết oan: "Lạy cha… Kiếp này không phải của con. Con
chỉ sống đề trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám" [4,
tr.78]. Nhìn thấy sự sa đọa của Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ), sư bà động Trầm
(Nhuệ Anh) thốt lên đau đớn: "Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này,
thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta bằng những nỗi đau khổ của
chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng " [4, tr.319].
Đạo Phật hướng con người tới lối sống thoát tục, rũ bỏ những dục vọng tầm
thường, sống từ bi hỉ xả. Những con người trong tác phẩm thấm nhuần triết lý
nhân đạo của đạo Phật, sùng bái đạo Phật nhưng ngọn lửa dục vọng vẫn rừng rực
cháy trong họ. Những toan tính, tham vọng cá nhân đã khiến họ lún sâu vào tội
ác. Họ tụng kinh, niệm Phật như để che giấu những tội lỗi mà họ đã gây ra.
Tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh kể về giai
đoạn lịch sử thế kỷ XIV - XV. Đó là thời kỳ cực thịnh của Nho học. Nho
giáo trở thành quốc giáo, chi phối trong từng lời nói, nếp nghĩ của con người.
Trong những lời tấu trình, thậm chí cả khi trò chuyện các nhân vật đều viện dẫn
sách vở, kinh điển Nho gia. Trong hội thề Đồng Cổ, vua Nghệ Tôn nói với các cận
thần: "Kẻ làm tôi bất trung thì thần linh tru diệt" [5,
tr.22]. Hồ Quý Ly nói với con trai "Người quân tử cũng phải biết chịu
khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được" [5, tr.54].
Tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác
viết về thời đại Tây Sơn. Đó là thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa
diễn ra rầm rộ, Nho học bước vào buổi cuối mùa. Lớp ngôn ngữ cung đình, Nho -
Phật do vậy chỉ còn rơi rớt nơi cung vua, phủ chúa điêu tàn, rệu rã và trong
lời những nhà nho thất thế.
Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" của Nguyễn Xuân Khánh tái hiện
lại bức tranh xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Đó là
thời kì Thiên chúa giáo bắt đầu len lỏi vào đời sống tinh thần của người dân
Việt Nam, trong khi Nho học tuy bước vào buổi cuối mùa nhưng vẫn chưa lụi tắt,
đạo Phật vẫn sống trong đức tin của người dân Việt. Trước sự xâm thực của Thiên
chúa giáo với âm mưu đồng hoá về văn hoá của thực dân Pháp, người dân Việt đã
lựa chọn cho mình một cách ứng xử mềm dẻo. Họ tiếp nhận những phần tốt đẹp của
các tôn giáo, đồng thời vẫn thờ đạo riêng của mình: Đạo Mẫu, thờ Đất Mẹ thiêng
liêng. ở thời buổi giao thoa giữa các tôn giáo ấy, ngôn ngữ cũng có điểm đặc
biệt. Ngôn ngữ của cụ đồ Tiết, cụ cử Khiêm, phó bảng Vũ Duy Tân mang khẩu khí
của những nhà Nho học. Cụ cử Khiêm nói với học trò: "Việc có thị có
phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì
trái với điều ấy thì không làm " [6, tr.285]. Với những người theo
đạo Thiên chúa, lời nói của họ luôn hướng đến Chúa như tìm đến sức mạnh, niềm
tin. Phần lớn người dân Việt Nam thờ đạo riêng của mình - Đạo Mẫu tạo nên thứ
ngôn ngữ riêng bao phủ khắp tác phẩm. Người già kể cho con trẻ nghe, con trẻ
lại truyền cho nhau những câu chuyện về "Thánh Mẫu", "giá
Mẫu", "ốp đồng", "cô hầu",
"hát chầu văn"… Mặc dù cùng lúc tiếp nhận nhiều tôn giáo
nhưng người Việt Nam đã nhận ra và hành xử theo những điều tốt đẹp mà các tôn
giáo mang lại. Ngôn ngữ của người dân chủ yếu là ngôn ngữ khuyến thiện. Cha
Colombert nói với bà Vũ Thị Ngát: "Đạo thánh hiền cũng có những điều
giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn
đạo Thiên chúa thì lấy tình thương yêu con người làm căn bản… " [6,
tr.302]. Bà Tổ cô tâm sự với cô Mùi: "Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo Giêsu
cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện" [6, tr.696]. Lớp
ngôn ngữ tôn giáo này đã cho ta thấy bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của Việt
Nam trong buổi giao thời. Và điều quan trọng hơn hệ thống ngôn ngữ này còn cho
thấy cách ứng xử thông minh của người Việt Nam trước nguy cơ bị đồng hoá về văn
hoá để có thể đứng vững, trường tồn.
Như vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính có vai trò rất quan trọng trong các
tiểu thuyết lịch sử. Lớp ngôn ngữ này mang lại hơi thở thời đại cho các tiểu
thuyết lịch sử, thuyết phục người đọc bằng những chứng cứ cụ thể, chi tiết.
Đồng thời nó còn là phương tiện khám phá đời sống bên trong của các vương triều
và trong tâm hồn con người.
2. Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu sắc
Nếu như chỉ sử dụng lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tiểu thuyết lịch sử sau
1975 sẽ chẳng khác gì một cuốn sử biên niên, thuần tuý ghi chép, mô tả lại các
sự việc. Và như thế, mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử sẽ giống như một cuốn sách
giáo khoa lịch sử, chứa đầy những chi tiết khô khan, kinh viện. Người đọc chỉ
thấy được lớp vàng son bề ngoài của nó mà không hiểu hết được bản chất bên
trong. Việc đưa ngôn ngữ đời sống vào trong tác phẩm có thể xem là một hành
động phá cách, vượt chuẩn của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau 1975. Lớp
ngôn ngữ quan phương, cổ kính tạo cho người đọc niềm tin vào sự có thật của các
chi tiết được kể, còn lớp ngôn ngữ hiện đại, trần trụi lại giúp người đọc
được sống trong không khí thật của câu chuyện, cảm nhận được sự gần gũi, thân
quen trong từng lời kể, làm sống dậy "những xác chết biên niên sử".
Điều quan trọng hơn là, với lớp ngôn ngữ này, người viết có điều kiện đi sâu
khám phá thế giới tâm hồn sâu kín, đầy ngõ ngách của con người. Toàn bộ bản
chất của con người theo lời nói được bộc lộ ra. Từ đây, những "nghi
vấn" lịch sử cũng được giải thích một cách thoả đáng, thuyết phục hơn.
Trong tiểu thuyết "Sông Côn mùa lũ", lớp ngôn ngữ đời thường
chiếm tuyệt đối. Các nhân vật chính trong tác phẩm đều xuất phát từ tầng lớp
thường dân áo vải. Nguyễn Nhạc trước khi trở thành vua Thái Đức đã phải xoay sở
đủ nghề, từ khai khẩn đất hoang, buôn nguồn đến làm chức đốc thuế để nuôi em và
tạo dựng sự nghiệp. Vua Quang Trung trước đó cũng chỉ là một trí thức bình dân.
Bởi vậy, cách nói năng của họ rất tự nhiên, thoải mái, thậm chí suồng sã, không
khác gì dân thường. Vua Thái Đức khi nói chuyện với Ngọc Hân - công chúa của
nhà Lê, phu nhân của Nguyễn Huệ, đã dùng những từ ngữ rất thân mật như những
người trong gia đình thường dân nói với nhau: "Thím cầm chân được chú
Tám nhà này là giỏi rồi, là trở thành ân nhân của ta rồi. Chỉ trông cái bộ bẽn
lẽn của chú ta cũng biết ngựa hoang đã bị đóng cương rồi đấy!" [2].
Thế nhưng, khi giận dữ, toàn bộ bản chất của một gã buôn nguồn nhiều mánh lới
trong Nguyễn Nhạc lại tuôn qua từng lời nói. Khi giận Nguyễn Huệ đã tự ý kéo
quân ra Bắc, ông chửi mắng bằng những lời thậm tệ: "Bầy "ngựa non
háu đá" mê đường trường không chịu về chuồng. Các người đoán đúng
lắm. Mỗi đứa bịa ra một cớ để ở lì ngoài đó. Toàn là một lũ vong ân bội nghĩa"
[2], "Cút đi. Về bảo cái bọn sai tụi mày vào đây là ta đã xé tờ biểu
như vậy đó. Quân vô ơn bội nghĩa. Nếu không có ta gầy dựng thì cả lũ bây giờ
quá lắm là những tên buôn trầu, những thằng mót củi, làm thuê chứ đâu được ngồi
sập vàng ăn mâm bạc " [2]. Nguyễn Huệ là người điềm tĩnh, quyết đoán,
từ khi mới lớn lên đã được học chữ nghĩa nho gia với thầy giáo Hiến. Bởi vậy
lời nói của ông bao giờ cũng đĩnh đạc, nghiêm túc. Ngay cả khi nói những lời
bông đùa, hóm hỉnh, lời nói của ông cũng không có sắc thái cợt nhã thái quá:
"Vì dẹp loạn mà ra, rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười cho thí sao?
Nhưng ta mới chỉ quen gái Nam hà, chưa biết con gái Bắc hà. Nay cũng nên thử
xem một chuyến xem có tốt không?" [2]. Khi đứng trước An - người con
gái mình yêu, chưa bao giờ Huệ dám nói chuyện tự nhiên với cô. Khác với Huệ,
Lợi là người ít học, nhưng bao nhiêu năm theo biện Nhạc đi buôn nguồn khiến Lợi
trở thành một kẻ lanh lợi, ranh mãnh. Lợi biết cách nói chuyện để vừa lòng mọi
người. Chính ưu điểm này của anh ta đã khiến An nhiều lúc phải phân vân lựa
chọn giữa Huệ và Lợi. Tác phẩm thành công ở mạch truyện thế sự. Nhiều nhân vật
không có trong sử sách như An, Lãng, ông giáo Hiến… cũng trở thành những nhân
vật chính của truyện. Tiếng nói của những con người đời thường này làm cho câu
chuyện càng gần gũi, thân quen với người đọc thế hệ sau.
Trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly", khoảng cách sử thi của sự
kiện lịch sử và nhân vật đã được thu hẹp nhờ lớp ngôn ngữ đời thường tự nhiên,
sống động. Hồ Quý Ly là một kẻ quyền biến, cả gan, dám nghĩ dám làm. Trong
những lời tranh luận về chính sự, thời cuộc, ông luôn bộc lộ cá tính ngang
tàng, bướng bỉnh, quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng cả những lời nói báng bổ:
"Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì! Thuần một lũ ăn
cắp văn mà thôi…" [5, tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành
một người cha gần gũi, hiền lành. Ông nói với con bằng những lời thân mật, dịu
dàng: "Anh Trừng! Đã đến lúc cha phải vào Tây Đô" [5,
tr.669], "Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến." [5,
tr.828]. Những lúc một mình quỳ dưới bàn thờ của công chúa Huy Ninh, Hồ Quý Ly
lại trở thành một con người khác: cô đơn, trầm lắng đến tội nghiệp. Lời người
kể chuyện đan cài trong lời nhân vật làm cho hiện tại, quá khứ đan quện vào
nhau càng làm rõ cái phần yếu đuối trong con người tưởng như chỉ biết có âm
mưu, toan tính: "Sự dịu hiền của bà ám vào trong không gian, trên cái
gối, cái chăn luôn luôn thơm tho mời đón, trên mâm cơm giản dị ngon lành tự tay
bà nấu. Có bận ông ốm, bà nấu cho ông bát canh sâm cầm nóng. Ông chậm rãi nhai
những mẩu hành như nhai những đốm hoa màu ngà xanh bơi trong thứ nước sóng
sánh… Ông nhai chậm rãi. Ô kìa! Sao lại thế? Hành mà có vị thơm đến thế ư? Lần
đầu tiên trong đời ông cảm nhận được hương thơm của một nhánh hành hoa. Có lẽ
cuộc sống chính trường vội vã, hối hả và bạo liệt đã làm cho tất cả giác quan
của ông bị thui chột… Và chỉ có bàn tay người đàn bà mới có thể làm thức dậy
những cảm xúc tinh tế mà con người đã đánh mất…" [5, tr.569]. Bên
cạnh đó, tác phẩm còn có nhiều đoạn văn được diễn tả bằng những từ ngữ hiện
đại: "Chúng tôi nói với nhau bằng cách nói nửa lời như vậy, nhưng tôi
cảm thấy hình như chúng tôi đã hiểu nhau. Cho đến lúc chúng tôi giao hoà cùng
nhau thì tôi đã hoàn toàn hiểu nàng. Nàng nói với tôi ư? Không. Nàng chẳng nói.
Nhưng im lặng đã nói. Khi một người nam và một người nữ đã hoàn toàn hiểu nhau
thì đó là một sự thái hoà" [5].
Với tiểu thuyết "Giàn thiêu", nhà văn Võ Thị Hảo đã đặt cái
tốt - cái xấu ở những thái cực đối lập nhau. Ngôn ngữ diễn đạt theo đó cũng
được đẩy tới những giới hạn của nó. Những trang viết về tình yêu, về cái đẹp
được tạo nên bởi ngôn ngữ bóng bẩy, giàu chất thơ. Cảm giác về tình yêu đam mê,
đắm đuối được diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, bay bổng: "Những giọt
mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như
mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay
Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vòng
ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy
ngậy, bạo liệt như đá rừng rực toả hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa
tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt như lạc vào
cõi phiêu bồng" [4, tr.211]. Khi trong lòng chất chứa mỗi hận thù,
những dục vọng, ngôn ngữ trở nên sắc nhọn, trần trụi. Lãnh cung, nơi ghi dấu
tội ác man rợ do con người tham muốn quyền lực và lòng đố kị gây ra được miêu
tả đầy rùng rợn: "ở dưới đáy hầm mộ là một đàn chuột hăm he cắn nát
chân tay mặt mũi nàng vừa nãy. Khi tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng
tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại trật tự răm
rắp thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt
chảy ra, chắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương". [4,
tr.229].
Tiểu thuyết "Mẫu thượng ngàn" không còn kiểu ngôn ngữ cổ
kính, quy phạm. Toàn bộ tác phẩm là thứ ngôn ngữ tự nhiên như lời nói hàng
ngày. Cách nói của phương Tây du nhập và được lớp trẻ sử dụng: "Toa về
đã lâu chưa? Sao chẳng đến nhà mình? Moa tưởng toa còn lâu mới về?"
[6, tr.454].
Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, sinh động ngày càng chiếm ưu thế trong tiểu
thuyết lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ này đã rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp
người đọc khám phá lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó. Lịch sử không còn là vật để
thờ cúng mà chính là cuộc sống sinh động, tươi nguyên.
3. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận
Tác phẩm văn học suy cho cùng là "nơi kí thác, nơi khẳng định quan
điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ" [3, tr.196] của nhà văn. Lấy đề tài
lịch sử làm cảm hứng sáng tạo các nhà văn sau 1975 không chỉ dừng lại ở việc
minh hoạ lại bức tranh lịch sử dân tộc như các nhà viết sử đã làm. Họ muốn mượn
lịch sử làm phương tiện chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện
tại. Điều này đã tạo ra hình thức ngôn ngữ mang màu sắc triết luận cho tác
phẩm. Lớp ngôn ngữ này chủ yếu xuất hiện trong lời đối thoại và độc thoại nội
tâm của nhân vật. Nhân vật Nguyễn Huệ trong "Sông Côn mùa lũ"
thường có những cuộc đối thoại thẳng thắn với thầy giáo Hiến để tìm ra chân lý.
Là học trò của ông giáo nhưng Huệ là một chàng trai trẻ mang đầy những khát
vọng lớn lao. Anh thường đặt ra cho thầy những câu hỏi hóc búa như: "thế
nào mới là người nghĩa hiệp?", "thế nào là đói?"…
Qua những lần trao đổi ấy đã bộc lộ những suy ngẫm của Nguyễn Huệ về cuộc đời,
con người và ước mơ làm nên những cái mới tốt đẹp hơn cuộc sống trong nhãn quan
của thầy Hiến. Tác phẩm có nhiều đoạn ghi lại những cảm nhận sâu sắc về chiến
tranh. Phụ nữ là người có cảm nhận rõ nhất về sự mất mát do chiến tranh gây
ra. Trong khi những người lính rộn rã, vui mừng chuẩn bị cho những cuộc tấn
công mới thì những người đàn bà lại âm thầm đau khổ bởi họ sắp phải tiễn
chồng, tiễn con đi đến chỗ chết. Có lẽ chỉ những người mang nặng đẻ đau mới
cảm nhận hết nỗi đau này: “Em không phải là đàn bà, không mang nặng đẻ đau
nên không thể hiểu được tấm lòng của người mẹ. Khổ sở nuôi con khôn lớn, rồi
sắm sửa quần áo, gạo thóc, đưa nó đi, đi đâu? Đưa đến chỗ hòn tên mũi đạn để
chết. Bao nhiêu công phu đổ xuống sông xuống biển, không đau đớn sao được!...Tự
nhiên xông ra đâm chém nhau, để ruộng nương lại cho đàn bà cày cấy, tưới
mồ hôi kiếm cơm nuôi lũ nhỏ lớn lên để tiễn chúng ra trận chuyến sau, chuyến
sau nữa ..." [2]. Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt và gây ám
ảnh nhất đối với con người. Ngay cả với những cuộc chiến giương cao ngọn cờ
chính nghĩa, để giải phóng loài người, người dân luôn phải chịu đau khổ, phải
hy sinh những người chồng, người con vô cùng yêu dấu của mình. Lẽ ra những người
như An, Thọ Hương sẽ được sống thanh thản, yên ổn nhưng thời cuộc đã khiến
họ long đong, khốn khổ. Thọ Hương, người con gái yêu của Nguyễn Nhạc cũng bị
sử dụng như một con bài trong ván bài chính trị của vua cha. Người cha lạnh
lùng ép gả cô cho hoàng tôn Dương để nhằm trấn an lòng dân. Cô gái 18 tuổi bất
đắc dĩ phải trở thành vợ của một kẻ cô chưa hề quen biết. Cô phải sống bên một
người chồng hờ, mang tiếng là đàn bà mà chưa một lần được làm đàn bà. Chưa
đầy 20 tuổi, hoàng tôn bỏ đi, cô trở thành người đàn bà goá bụa. Thọ
Hương chua chát tự nhận mình “Em chẳng khác nào viên đá lót đường cho người
ta dẫm lên trên. Thân em bị chà đạp, đau xót, lấm láp mà không ai thương xót..."
[2]. Đó dường như đã là định mệnh chung của những người phụ nữ trong
thời chiến. Tác phẩm còn thể hiện những quan niệm riêng về lịch sử thông qua
những từ ngữ giàu hình ảnh. Người viết sử không chỉ ghi lại những điều quan
trọng, những biến cố to lớn trong lịch sử bởi “Lọc bỏ không thương
tiếc các xúc động riêng tư, sổ toẹt những chuyện bên lề, chỉ giữ lại cái sườn
biên niên của lịch sử, làm như vậy có khác nào lóc bỏ hết da thịt để lịch sử
chỉ còn là một mớ xương xẩu ghê tởm đủ mùi tanh hôi cuốn lũ ruồi nhặng và làm
cái cớ cho bọn bán thịt chuyên nghiệp vênh váo" [2].
Nhiều nhân vật
trong tiểu thuyết "Hồ Quý Ly" thường sống trong dòng độc
thoại nội tâm. Đó chính là lúc họ đối diện với chính mình, bày tỏ những suy
nghĩ thật của mình về cuộc đời và con người. Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cảm nhận
cung đình là nơi đầy phức tạp và bất ổn: "Điều quan trọng mà tôi nhận
ra ở cái sân khấu quyền quý, hoa lệ này, đó là sự giành giật, sự vật lộn không
khoan nhượng, nó thường hằng rộng khắp, một nụ cười, một vái chào, một khoé mắt
cũng phải coi chừng" [5, tr.58]. Ngoài ra nhà văn còn sử dụng nhiều
câu hỏi tự vấn vừa để nhân vật tự phơi bày dòng ý thức của mình, vừa tạo điều
kiện cho người đọc tự suy ngẫm, kiến giải: "Mâu thuẫn đến thế, sự
giằng xé đến thế vậy mà ông lại muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn mặc
đồ lụa vàng; lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong tâm
tưởng, chợt nghe một tiếng ai đó thét lên : "Ngươi làm đổ cơ
nghiệp nhà Trần" "Không!" "Chẳng phải tại tôi. Đó là vận
nước!" "Tội lỗi do người quá nhân từ.""Sách chẳng nói chữ
nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?" [5, tr.169].
Lớp ngôn ngữ triết
luận trong các tiểu thuyết lịch sử sau 1975 không phải là những lời giảng giải
khô cứng, khuôn mẫu. Lớp ngôn ngữ này được nhà văn sử dụng thông qua những từ
ngữ giàu tính hình tượng và kết hợp nhiều hình thức linh hoạt như: đối thoại,
độc thoại, câu hỏi nghi vấn… làm cho cảm hứng triết luận được bộc lộ một cách
tự nhiên, hấp dẫn. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận đã giúp người viết có
thể bộc lộ một cách kín đáo những suy ngẫm của mình về các vấn đề của quá khứ
và hiện tại. Đồng thời lớp ngôn ngữ này cũng tạo ra những khoảng trống để người
đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề.
Sự kết hợp đa dạng
các hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự khởi sắc cho tiểu thuyết lịch sử sau 1975.
Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 gắn với nhu cầu dân
chủ hoá về ngôn ngữ, về nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách quan với lịch sử.
Sự đổi mới này cho thấy các nhà văn sau 1975 đã không ngừng bứt phá làm mới
mình, mạnh dạn thể nghiệm những hướng đi mới. Ban đầu đã có nhiều ý kiến không
thống nhất về sự thay đổi táo báo này. Nhưng thời gian đã chứng minh những thể
nghiệm trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 là những nỗ lực đáng
trân trọng của người viết và hứa hẹn nhiều thành công.
Bài viết hay, nhưng dài quá
Trả lờiXóa