Văn chương Truyện Kiều (3)
Chương II - Nghệ sĩ và tác phẩm
Tại sao ông Hoài Thanh lại chủ trì rằng chất thơ của Truyện
Kiều và thiên tài của Nguyễn Du không thể phân tích giảng giải được?
Tại ông tin đó là những thực thể thần bí có cội rễ ở vật
chất.
Có thực thế không? Có thực hai cái “tinh thần” ấy tồn tại
độc lập ngoài vật chất không?
Trước hết, ta phải nhận rằng bản thể và biến thái của những
sự kiện mà người ta mệnh danh là sự kiện tinh thần đó quả có bầy ra một tính
cách uyển chuyển, phức tạp không thể lấy những định luật cơ khí mà hiểu thấu
đáo được. Nhưng nhận như thế không phải là nhận rằng những sự kiện tinh thần
không thể dùng những phương pháp và khí cụ khoa học mà phân tích. Từ giữa thế
kỉ XIX, đến nay nhờ có một phương pháp cực kỳ hiệu nghiệm là biện chứng pháp
duy vật, các nhà khoa học đã khám phá ra được hầu hết những định luật chi phối
cuộc sống sinh hoạt tinh thần của con người và của xã hội. Bao nhiêu kế ngách u
ẩn của tâm lý đều đã ghi dấu vết khám phá đắc thắng của bàn tay các nhà sinh lý
học, tâm lý học, thần kinh bệnh học, xã hội học. Đến ngày hôm nay, kết quả rực
rỡ của khoa học là đã đĩnh đạc đi tới quan niệm duy vật về con người về xã hộI
– quan niệm mà những nhà triết học Feuerbach, Karl Marx, Engels đã cân tác nên
từ khoảng giữa thế kỷ 19 ở Âu châu.
Ngày nay không có người nào đã theo kịp những kiến thức khoa
học mà lại còn dám chủ trương rằng linh hồn con người là một tinh anh tồn tại
biệt lập với thể chất con người. Ngày nay ai cũng hiểu rằng cái mà các nhà tôn
giáo xưa gọi là linh hồn chỉ là thuộc tính của một vật hữu cơ thể được tổ chức
cách nào đó. Phá hủy vật thể ấy đi, linh hồn sẽ tiêu tan. Năng lực nội tại của
“linh hồn” tùy theo sự cấu tạo của cơ thể mà tinh tế hay thô kệch. Những
khiếu của linh hồn (thông minh, ký ức, sáng tác) đều bị lệ thuộc mật thiết vào
cuộc sinh hoạt của những nội hạch (endocrines) những bộ phận riêng trong thần
kinh hệ con người. Tóm lại, quan niệm “linh hồn” đã phải nhường chỗ cho một
quan niệm khoa học hơn: quan niệm “phân tích ý thức” (personnalité conscience).
Những ý thức ấy không phải vì thế mà có thuần một bản chất
tâm lý thuộc về Người (người viết bằng chữ hoa). Nó còn là kết tinh phẩm của
những mối tương quan xã hội trong đó con người sinh trưởng và tồn tại. Không có
một bản thể người nào tuyệt đối cả. Chỉ có những con người cụ thể sống trong
những hoàn cảnh xã hội cụ thể ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quá
trình tiến hóa, con người vì phải tác động đến ngoại giới để thay đổi nó mà
đồng thời cũng thay đổi cả bản thể của mình. Cho nên, bản thể của con người
thái cổ không giống bản thể của con người hiện đại. Cái gọi là bản thể con
người đó chỉ là sản vật của những tương quan xã hội. Và những tương quan này ta
có thể nghiên cứu một cách rất thực nghiệm được.
Con người là một vật hữu cơ thể vì được tổ chức một cách đặc
biệt mà có ý thức được về bản ngã mình và ngoại giới. Ý thức ấy nẩy nở ra trong
khi con người hành động, và bao nhiêu hình thái thay đổi của nó qua thời gian
và không gian đều do đời sống xã hội cấu tạo nên. Không có cơ thể không có ý
thức. Mà không có xã hội thì ý thức con người cũng im lìm thô kệch, không thành
hình. Ý thức của con người (tức là linh hồn) – dù là một con người tài năng lỗi
lạc – tựu chung chỉ là sản phẩm kết tinh của cơ thể cá nhân và của tổ chức xã
hội.
Trong tập sách luận về Nghệ thuật xét quan điểm xã hội học[1] ông Guyan có lập một giới thuyết về nghệ
sĩ như sau đây: “Là nghệ sĩ tức là quan sát sự vật theo một thị dạ[2] kỳ đặc trong nội giới, tức là không đứng
cùng một góc với bất kỳ ai để quan sát sự vật. Thường thường trung tâm thị dạ
của một người là cái bản ngã, cái mớ trạng thái ý thức của người ấy, mà bản ngã
lại là một hệ thống ý tưởng và hình ảnh phối hợp với nhau theo một cách thức
nào đó – cho nên quan sát một vật tức là đem hình ảnh vật ấy gia nhập vào phạm
vi một hệ thống phối hợp riêng, đem bọc nó trong một cơn lốc hình ảnh và ý
tưởng” (trang 81).
Nhưng cái gì cấu tạo ra bản ngã ấy? Tại sao nghệ sĩ lại có
một cách phối hợp những tương quan của sự vật khác hắn người thường? Sức mạnh
nào đã nhào nặn cho nghệ sĩ một hệ thống phối hợp tâm lý riêng biệt?
Các nhà tâm lý học duy tâm sẽ trả lời chúng ta rằng sức mạnh
đó là cái linh tính của nghệ sĩ do trời phú bẩm cho từ thuở lọt lòng. Nói theo
W. Stenu, thì đó là một ơn huệ huyền bí của đấng thiêng liêng ban cho con người
– một cái mystérium.
Các nhà tâm lý học duy vật – bắt đầu từ H. Taine – đã phá đổ
quan niêm lạc hậu ấy. Họ dựa vào những kết quả chắc chắn của các khoa sinh lý
học, nội hạch học, thần kinh bệnh học, tâm thần bệnh học… để khám phá những
định luật đã chi phối sự cấu thành cái mà họ gọi là cá tính, ý thức của con
người. Họ khởi điểm sự nghiên cứu từ những nguyên tắc căn bản này:
1. “Dù bản chất huyền diệu đến đâu, dù cách phát hiện tế
toái đến đâu, những hiện tượng thuộc về sinh vật cũng phải nằm trong phạm vi
chi phối của luật nhân quả chứng nghiệm (Claude Bernard).
2. “Tư duy là thuộc tính của cơ thể” (Feuerbach).
3. “Đời sống tinh thần bắt rễ ở yếu tố sinh lý mà phát triển
lại ở ngoài xã hội” (Th. Ribot)
4. “Tinh thần con người là kết tinh của các tương quan xã
hội” (K. Marx)
5. Sự tiến hóa ở đâu đâu cũng bầy ra tính cách vượt bực theo
quy luật lượng đổi chất đổi” (Hegel).
Đó là năm cái công chuẩn họ đã dùng làm phương pháp
(postulats méthodologiques) để nghiên cứu cá tính con người. Năm công chuẩn ấy
càng ngày càng được minh chứng rực rỡ trong các phòng thí nghiệm khoa học về
sinh vật và xã hội[3].
Theo lý thuyết mới nhất của các nhà tâm lý hướng nghiệp học
về nhân tính thì ở mỗi người chúng ta cơ thể và thần kinh hệ được tổ chức một
cách riêng. Cho nên mỗi người cũng phải có những sắc thái tinh thần riêng biệt.
Cái tổ chức cơ thể và thần kinh hệ riêng ấy là một sản vật tổng hiệp của những
yếu tố sinh lý di truyền rất phức tạp. Bởi là sản vật tổng hiệp nên có nhiều
tính cách mới mà các yếu tố cấu tạo ra nó không có. Hiện tượng phối hóa này rất
thường thấy trong các phòng thí nghiệm hóa học, không có gì là huyền bí cả.
Cái tổ chức cơ thể và thần kinh hệ của cá nhân lại phải chịu
ảnh hưởng quyết định của hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh xã hội. Nó chứa đựng
những năng khiếu tiềm tàng, sơ nguyên bất thành dạng. Cá tính của một người
chính là kết quả của thể cách phối trí các năng khiếu sơ nguyên ấy. Mà “cái xu
thế phát triển và thành hình của mỗi năng khiếu đó, cái hình thức chi phối trong
đó năng khiếu kia bị hút vào tại phần lớn bị thuộc lệ vào giáo dục và thưởng là
bị tùy thuộc vào những điều kiệu sinh hoạt của hoàn cảnh xã hội” (Hoffding;
Psychologie).
Bởi vậy, cá tính một người tuy gốc ở yếu tố sinh lý mà bổ
chất, dạng thái và xu thế phát triển lại do xã hội chỉ định.
Vì thế, dù cá tính ấy có đặc sắc đến đâu cũng vẫn chứa một
thành phần xã hội rất to, một tính cách chung với đẳng cấp của nó.
“Victor Hugo, Eugène Delacroix và Hector Berlioz mỗi người
sở trường về một ngành nghệ thuật khác hắn nhau. Ba người, kể về tâm tính và sở
thích, lại xa nhau lắm. Đại khái, Victor Hugo không ưa âm nhạc, mà Delacroix
lại miệt thị những nhạc sĩ lãng mạn. Vậy mà các người đồng thời với họ đều mệnh
danh họ là bộ ba lãng mạn (Trinité romantique). Trong tác phẩm của ba người đều
bộc lộ ra một tâm lý giống nhau. Người ta có thể nói rằng bức họa Dante et
Virgile của Delacroix biểu hiện cùng một trạng thái tâm hồn với vở kịch Hernani
của Victor Hugo và bản đàn Symphonie fantastique của Berlioz… Cái tâm lý của
trào lưu lãng mạn Pháp chỉ có thể hiểu được khi ta nhìn nhận nó là tâm lý của
một đẳng cấp nhất định sinh hoạt trong những điều kiện xã hội và lịch sử nhất
định” (Plékhanov).
Cho nên muốn hiểu cá tính một nghệ sĩ, phải khảo xét đến
những điều kiện xã hội, lịch sử, đẳng cấp, địa dư, di truyền đã dự phần vào sự
cấu tạo ra nó. Lại phải xét đến cái khả năng hoạt động, phản động, và thích ứng
của cơ thể và của thần kinh nghệ sĩ cùng những trường hợp ảnh hưởng qua lại của
cá thể nghệ sĩ với cuộc sống chung quanh.
Hẵng cho ta biết nghệ sĩ có một cơ thể cấu tạo như thế nào,
một bộ thần kinh tổ chức như thế nào, một di truyền gia tộc như thế nào, và hấp
thọ một nền giáo dục như thế nào, thuộc vào một đẳng cấp nào ở một xã hội nào
trong giai đoạn lịch sử nào ta sẽ có thể tiên đoán được tất cả các hệ thống ý
thức (tư tưởng, tình cảm, tâm lý) của nghệ sĩ và cả cái vận mạng nghệ thuật của
hắn nữa. Thiên tài có phải là một hiện tượng phi thường gì đâu. Nó cũng được
thai nghén, được cấu tạo, được phát triển, được thành tựu rồi cũng tàn héo tiêu
vong như bất kỳ một vật nào trong thế giới vật chất xã hội.
Tóm lại, “linh hồn” của con người, - dù là của một thiên tài
– dưới mắt nhà khoa học, cũng không còn là một tinh anh huyền bí nữa. Nó là một
khối trạng thái ý thức bị lệ thuộc chặt chẽ vào cơ thể cá nhân và hoàn cảnh xã
hội. Nó đã được nhà khoa học phân tích bằng những khí cụ rất tinh tế. Vẫn hay
rằng công trình phân tích này đang “đi tới’, và chưa đạt được những kết quả
thật mỹ mãn. Nhưng nếu vì thế mà phủ nhận khả năng của khoa học thì thật là tự
bịt lấy mắt không cho hiểu nữa.
Chương III - Nghệ sĩ và tác phẩm (tiếp theo)
Cái “thiên tài” của Nguyễn Du, ta đã có thể phân tích ra
từng yếu tố thì cái “chất thơ bàng bạc trong Truyện Kiều”, “cái đẹp của Truyện
Kiều” ta cũng có thể mổ xẻ đến nội tạng của nó được. Cái “chất thơ” kia đâu có
phải là một thực thể thiêng liêng ở trên không rơi xuống nhập vào những lời thơ
của Truyện Kiều. Nó chỉ là một sáng tạo phẩm của một con người có thực – là
Nguyễn Du. Mà tinh hoa của một thi phẩm là gì nếu không phải là tinh túy ý thức
của chính thi nhân? Tinh túy chứ không phải phản ảnh thô sơ.
Tác phẩm không phải là một cái gì ở nhân tính của nghệ sĩ
xuất phát ra theo một trực tuyến. Nó là một vật kết tinh chứ không phải một
tiểu sử. Vừa kiến thiết nó, nghệ sĩ cũng vừa kiến thiết luôn cả chính hồn thể
mình nữa. Nó là một phương tiện để nghệ sĩ thỏa mãn những nhu cầu riêng, mà
cũng là một khí cụ nghệ sĩ dùng để phóng ra ngoài và truyền lan đến người khác
cá tính của mình, tác phẩm là sự thể hiện của cuộc đời tâm giới, là cách tóm
bắt những mộng tưởng bằng các hình thức vật chất. Nói theo các nhà tâm phân
bệnh học thì tác phẩm là một cái gì u ẩn bị dồn ép trong tâm khảm được thực
hiện ra ngoài (V. Feldman: L’ esthetique francaise contemporaine, tr. 46 - 47).
Như vậy, “chất thơ bàng bạc trong Truyện Kiều” chỉ là phản
ánh chất tình cảm của thi sĩ Nguyễn Du – không phải cái cung bực tình cảm “hiện
tại” của tâm hồn thi sĩ, mà là cái cung bực u ẩn, bị dồn ép, chưa phát xuất ra
được. André Gide đã có lần tự thú: “Những tác phẩm của chúng ta không phải là
những chuyện thực của đời chúng ta mà chính là những ao ước rền rĩ, sự mong mỏi
một cuộc sống đang bị cấm đoán, sự mong mỏi những hành vi mà xã hội không cho
phép làm. Và mỗi tác phẩm chỉ là một lần tìm cách khác để vươn đến sự ao ước
đó” (Le Retour de l’enfant prodigue).
Chất sống tình cảm của Nguyễn Du vươn đến một thế giới mong
ước nào? Trả lời được câu hỏi này tức là tìm được đến cội rễ của “chất thơ bàng
bạc trong Truyện Kiều”. “Tìm được bản tính của chất thơ ấy, ta sẽ cắt nghĩa
được dễ dàng “cái đẹp của Truyện Kiều”. Ta không cần phải “im hơi, nhẹ bước mới
hòng nhận thấy “cái đẹp khi dịu dàng thùy mị khi tráng lệ huy hoàng” của Đoạn
trường tân thanh.
Cái đẹp hay cái chất thơ của Truyện Kiều, ta cũng chỉ có thể
thưởng thức bằng phương pháp khoa học, bằng khí cụ khoa học. Muốn “cảm” thấy
một “cái đẹp” hay một “chất thơ” ta vẫn phải dùng đến – dù là vô tình – trí tuệ
nhiều hơn các năng khiếu khác. Nhiều người tưởng rằng lúc họ “cảm” cái đẹp là
lúc trí tuệ họ không dự phần vào. Những người ấy không hiểu gì về quá trình
thành tựu của một hiện tượng ý thức cả. Thực ra khi họ tiếp xúc với một tác
phẩm mỹ thuật bằng ngũ quan thì lập tức trí tuệ họ đã can thiệp ngay vào cái
quá trình biến những cảm giác thô sơ ấy thành trạng thái mỹ cảm rồi. Theo sự
nghiên cứu của nhà tâm lý học Th. Ribot ở một người thường, tổng số các trạng
thái ý thức rất ít so với tổng số các kích động thần kinh. Bởi vậy nhân tính ý
thức của một người không thể là biểu tượng của tất cả những sự trạng xảy đến ở
các trung khu thần kinh của người ấy. Nó chỉ là một chất tinh túy rút ở đó ra
một hình thái thư lại của các sự trạng ấy”.
Mà trong quá trình của sự thu hút ấy, trí tuệ đóng vai trò
quan hệ nhất. “Cơ thể chúng ta luôn luôn bị kích thích vì những giác cảm do ngũ
quan chuyển vào. Nhưng cách thức những cảm giác ấy đi được đến cõi ý thức và
cái giá trị ban cho các hình ảnh bên ngoài thì ở mỗi người lại một khác. Phân
tích đến kỳ cùng, ta nhận thấy rằng giá trị mà ta ban cho các hình ảnh tùy
thuộc vào những loại kiến thức của ta trong đó ta đậu những hình ảnh kia…” (M.
Lahy Houllebecque).
Một người nhà quê Việt Nam đi qua một cây đa có những bình
vôi ở dưới gốc, đột nhiên “cảm” thấy một thành kính sợ hãi, ấy là bởi từ cái
nhìn của mắt (thấy cây đa và bình vôi) đến cái trạng thái tình cảm kia (thành
kính sợ hãi) đã có một cái tam lăng (prisme) nằm ở giữa. Tam lăng ấy là cái
loại kiến thức, khái niệm mà người nhà quê mê tín đã học được từ xã hội, cho
rằng “thần cây đa ma cây đề”, hễ người trần mắt thịt đi qua đó gặp “ngài”, thì
sẽ bị ngài bắt mất vài cái “vía”, v.v. Bao nhiêu cảm giác của mắt hắn thu nhận
được muốn vào đến cõi ý thức hắn phải biến tính theo tính chất của “loại kiến
thức” có sẵn trong óc hắn.
Một thí dụ ấy đủ hình dung cái quá trình phát sinh ra mỹ
cảm. Một cảm xúc mỹ thuật đồng thời vừa là kết quả của một tinh tác trí tuệ
(elaboration intellectuelle) vừa là kết quả của một thể trừu tượng hóa về tình
cảm (abstraction sentimentale). Nó vừa có tính chất xã hội vừa có tính chất cá
nhân.
Vả lại, cái đẹp trong nghệ thuật vốn là một loại quan niệm
hoàn toàn do con người sáng tác ra. Đó là một giá trị kỹ thuật chứ không phải
một giá trị tự nhiên. “Thế giới tự nhiên chỉ có giá trị nghệ thuật khi nó được
nhìn qua một nghệ thuật, được phổ vào tiếng nói của những tác phẩm do một khối
óc đã dùng một kỹ thuật để sáng tạo ra” (Lalos, Esthétique). Kỹ thuật đó cũng
là một sản vật xã hội. Cá nhân biệt tài (nghệ sĩ) là người biết chiều theo cái
xu thế mật thiết của cá tính mình mà vận dụng khéo léo cái sản vật xã hội đó ấy
tự thực hiện ra bằng những hình thức. Ngay trong kỹ thuật, thị hiếu mỹ thuật
của xã hội đã dự phần vào rất nhiều rồi. Đến khi tác phẩm thành hình thì xã hội
lại dùng thị hiếu mỹ thuật ấy để định giá, hoan nghênh hay bài trừ. Mà sở dĩ sự
hoan nghênh hay sự bài trừ thường rất kịch liệt là bởi thị hiếu và tình cảm mỹ
thuật là một yếu tố căn bản trong hệ thống ý thức của xã hội. Nó là người
phương diện của sự sống.
Bởi lẽ đó, cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật một phần là sản
phẩm của cá tính nghệ sĩ, và một phần nữa cũng là sản phẩm của kỹ thuật và của
thị hiếu mỹ thuật xã hội. Ba cái đó chế hóa với nhau rồi cấu tạo ra tác phẩm.
Đã phân tích được cá tính nghệ sĩ, đã phân tích được kỹ thuật và thị hiếu mỹ
thuật của xã hội thì cái đẹp của tác phẩm không còn là một con sư thân (sphynx)
huyền bí nữa. Ta có thể phân tích nó như các nhà bác sĩ phân tích một “chất”
trong phòng thí nghiệm – chỉ khác một điều là cái đẹp kia bắt rễ ở một vật sống
luôn luôn vận chuyển và biến hóa. Muốn tránh khỏi tật “máy móc” trong khi phân
tích cái đẹp của một tác phẩm thì ta phải thông hiểu cả đến những định luật của
sự vận chuyển biến hóa thường xuyên của sự vật nữa. Ta phải có một phương pháp
xây trên hai quan niệm duy vật và biện chứng về cái đẹp, về tác phẩm, về nghệ
thuật.
Với phương pháp này thì bao nhiêu bí mật của “thế giới tinh
thần” sẽ phải hiện trần trụi ra trước mặt ta - chưa hiện hôm nay thì ngay mai
cũng phải hiện ra, vì cái phức tạp, cái biến hóa của “thế giới tinh thần” ấy
cũng đều có một cội rễ vật chất mà ta có thể dùng khí cụ hóa học đo được, nhìn
được, ăn được, tính toán được, điều khiển được.
Không công nhận những kết quả rực rỡ của khoa học hiện tại,
không tán thành và áp dụng biện chứng pháp duy vật, cứ khư khư cố chấp ôm lấy
những quan niệm đã lỗi thời về linh hồn, về thiên tài, về cái đẹp, về nghệ
thuật: đó là thái độ của những người phản động.
Thi sĩ Goethe đã có câu “Tất cả những thời kỳ phản tiến hóa
đều thiên về chủ quan luận”. Nhà văn hào Henri Barbusse cũng đã viết “Xu hướng
thoái hóa bao giờ cũng lấy căn cứ địa ở “tâm giới” để tránh xa các sự kiện cụ
thể, vì rằng ở địa hạt tâm giới, người ta dễ ngụy biện, dễ không đàm khoát luận
muốn nói trắng nói đen thì nói, khó biết lấy tiêu chuẩn gì mà kiểm sát được”.
Quan niệm của ông Hoài Thanh về thiên tài, về cái đẹp, và
lòng hoài nghi của ông đối với khoa học cũng đều có tính cách duy tâm, chủ quan
– nghĩa là cũng thoái bộ và phản động vậy[4].
Cái đẹp của một tác phẩm có thể phân tích được, “chất thơ”
của một áng thi ca có thể giải thích được, “thiên tài” của một nghệ sĩ, linh
hồn của một xã hội có thể đem mổ xẻ ra được. Những công việc mổ xẻ, giải thích,
phân tích ấy, ta chỉ có thể làm được mỹ mãn mà không phạm vào tật “máy móc” khi
nào ta lĩnh hội được và khéo biết áp dụng biện chứng pháp duy vật. Chỉ có dùng
biện chứng pháp duy vật mới có thể hiểu được “chất thơ” kia, thưởng thức được
cái đẹp kia, cảm thông được linh hồn kia, đánh giá được thiên tài kia.
Đó là những định lý căn bản mà tôi dùng làm kim chỉ nam
trong khi đi tìm “chân giá trị” của Truyện Kiều.
Chương IV - Chất thơ là gì?
Ông Hoài Thanh đã nói đến “chất thơ bàng bạc” trong Truyện
Kiều; ông Nguyễn Mạnh Tường nói đến “thi vị” chứa chan của nó. Một mặt nữa, ông
Hoài Thanh cũng như bao nhiêu nhà phê bình khác lại nói đến “cái đẹp” của tập
thơ “tuyệt diệu” ấy, “cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng… cần
phải được cảm thấy một cách hồn nhiên”. Ông Đào Duy Anh cũng ca tụng “cái hay”
của Truyện Kiều và thú nhận rằng: “Cái hay của Truyện Kiều không ai là không
cảm thấy. Nhưng hiểu biết cho hết cái hay ấy là một điều rất khó, mà giải thích
cho ra hết cái tinh vi uẩn áo ấy là một điều khó nữa” (Tựa – Khảo luận về Kim
Vân Kiều).
Truyện Kiều hay, Truyện Kiều đẹp, Truyện Kiều đầy thi vị,
Truyện Kiều súc tích chất thơ: những câu phẩm bình dị ấy ta thường được nghe
nhắc đến luôn luôn hoặc trên mặt báo chí hoặc trong các buổi diễn thuyết kỷ
niệm thi sĩ Tố Như. Nhưng chất thơ kia là gì? Cái đẹp, cái hay kia là gì? Những
yếu tố chủ quan hay khách quan nào làm thành chất thơ đó, cái đẹp đó? Thì tuyệt
nhiên, không có ai đề cập đến.
Luận về một vấn đề mà không lập giới thuyết minh bạch cho
những khái niệm cơ bản quan hệ mật thiết với vấn đề ấy thì lời bàn sẽ phải hồ
đồ, viển vông, không bổ ích gì cho sự học vấn cả. Không định nghĩa những danh
từ dùng đến: đó là thông tật của hầu hết các bình giả xứ ta. Khuyết điểm này đủ
tỏ rằng ta chưa lập được những thói quen khoa học, chưa có một tinh thần phương
pháp chu đáo trong khi nghiên cứu, suy luận và phô diễn. Trong một bài báo viết
từ năm 1935[5] ông Phạm Văn Hùng đã phàn nàn về khuyết
điểm ấy và kết luận:
“… Sự cần phải định nghĩa là sự cần chung cho mọi xứ, mọi
thời mọi khi suy luận và tư tưởng. Không định nghĩa, không biết định nghĩa bao
giờ cũng là một điều bất lợi cho sự truyền đạt tư tưởng và cảm tình… Cho nên
cần phải định cho rõ rằng cái nghĩa của chữ mình dùng trong văn chương, trong
nghị luận…” (trang 44 và 49).
Theo đúng nguyên tắc ấy, trước khi phân tích và phê bình
chất thơ cùng cái đẹp của Truyện Kiều, chúng ta phải định nghĩa thế nào là chất
thơ, thế nào là đẹp. Hai tính cách này vốn có liên lạc nhân quả với nhau như đã
giảng qua ở chương III. Thường thường khi các bình giả nói đến cái đẹp của
Truyện Kiều là họ muốn chỉ thị cái tài khéo về sự dùng chữ, sự vận dụng âm
hưởng và nhịp điệu lời thơ, sự tả cảnh tả tình tổng hiệp mà có dư ba phong phú;
tóm lại theo ý họ cái đẹp của Truyện Kiều là sự thành công về kỹ thuật hành văn
của Nguyễn Du.
Nhưng sở dĩ kỹ thuật đó thành công – nghĩa là khiến được
người đọc văn phải cảm phục – là bởi nó kiến thiết được một hệ thống tương quan
chặt chẽ: bao nhiêu “vật liệu” làm cái “chất” cho kỹ thuật ấy nhào nặn đều được
một ý thức, một năng lực sáng tạo đem tổ chức, phối trí, đem hỗn hóa lại thành
một cơ cấu (structure) vững vàng thích hợp với thị hiếu mỹ thuật của các người
thưởng ngoạn nó. Cái ý thức chỉ huy đó, cái năng lực sáng tạo đó là cá tính của
Nguyễn Du. Mà tinh túy của cá tính này không phải là tư tưởng, không phải là
tình cảm, không phải là cảm giác, không phải là hành động[6]. Tinh túy của cá tính Nguyễn Du là một
chất thơ. Chất thơ này làm ra thi năng của Nguyễn Du. Thi năng này làm ra cái
đẹp và cái thi vị của Truyện Kiều. Cho nên muốn hiểu cái thi vị và cái đẹp của
Truyện Kiều, trước hết phải khám phá ra cái chất thơ của Nguyễn Du.
Nhưng trước hết, thế nào là chất thơ? Nếu chúng ta đã hiểu
biết rằng bao nhiêu khái niệm, bao nhiêu danh từ đều là những sản vật của lịch
sử tiến hóa thì không bao giờ chúng ta lại còn tin ở một giới thuyết tuyệt đối
của “chất thơ”. Muốn định nghĩa “chất thơ”, ta phải dò tìm đến những yếu tố cấu
thành nó ở một giai đoạn lịch sử nhất định nào trên con đường tiến hóa của loài
người.
Về đời thái cổ, con người vì kỹ thuật sản xuất thấp kém quá
nên không hiểu tí gì về ngoại giới cũng như về bản thân mình. Đối với sự vật họ
có một thái độ tòng phục, sợ hãi. Ở con mắt người thái cổ, không một vật nào,
một hiện tượng nào có tính cách thơ cả. Trong các khái niệm cơ bản của xã hội
thái cổ cấu tạo ra để tác động đến ngoại giới, chưa hề có khái niệm thơ. Như
vậy đủ tỏ rằng “chất thơ” không phải là một chất “tiên thiên” của “linh hồn”
con người. Suốt thời thái cổ, loài người chỉ vì có sự sống hàng ngày nên ở mỗi
vật mỗi hiện tượng họ chỉ cố rút ra một kết quả hữu ích trực tiếp. Trí tuệ họ
là một trí tuệ hoàn toàn thực tiễn.
Về sau, nhờ có kỹ thuật tiến bộ, đời sống của loài người ta
thời nông nghiệp trở đi bắt đầu bước đến trạng thái sung túc, nhàn rỗi. Sống
bằng sự phục dịch của đa số nô lệ hoặc nông nô, đẳng cấp thống trị được dư
nhiều thì giờ để vun xới “tinh thần” sáng tác “nghệ thuật” sau khi ăn no mặc
ấm. Đối với những người ở đẳng cấp này, tính cách hữu ích của sự vật không được
chú ý nhiều và tha thiết bằng tính cách trang hoàng.
Thái độ thực tiễn khi xưa đã nhường chỗ ưu du. Quan niệm
hành động để tranh sống lụi đi để quan niệm “hưởng thụ” nẩy nở ra. Cuộc đời
giàu sang của các người thống trị được khuôn đúc mãi trong những quan niệm mới
ấy dần dần biến đối cả tính chất sinh lý và tâm lý của họ. Theo định luật “cơ
quan nào được dùng đến luôn sẽ phát triển, cơ quan nào không được dùng đến sẽ
tiêu mòn” cái chất người của họ cũng biến hóa theo với những điều kiện sinh
hoạt mới kia. Vì không phải lao lực, thân thể họ thanh tao đi; vì thường tiếp
xúc với một thế giới cảm giác tế nhị (hương thơm, mầu đẹp, tiếng thanh…) giác
quan họ mất dần sự thô kệch và trở nên tinh tế, trang nhã. Vì phải vận dụng
luôn luôn những cách nghĩ và cảm xúc nhẹ nhàng để trang hoàng cuộc sống xã giao
quý tộc, thần kinh hệ họ hóa ra tinh nhuệ, xảo điệu. Cử chỉ của họ nhiễm dần
tính phong nhã, đài các, ẻo lả, óng chuốt – tính “đàn bà”.
Thêm vào những biến thái ấy, cái ý thức của đẳng cấp thống
trị kia về uy lực của họ đối với thiên nhiên (kỹ thuật đã giúp họ điều khiển
được ngoại giới có hiệu quả hơn thời xưa) với đồng loại; ta có thể biết được
bản chất tâm lý của những người ở giai cấp đó phải chuyển dịch theo xu hướng
nào. Bản chất ấy mỗi ngày một chuyển đến trạng thái của những vật ký sinh,
nghĩa là càng ngày tâm lý họ càng xa tính cách thiết thực, hữu dụng và chiến
đấu, “linh hồn” họ nhẹ mãi đi, bay cao mãi lên khỏi cuộc sống hoạt động, chỉ
“ngự” ở các thế giới “đẹp” “cao siêu” “thoát tục”. Đến lúc đó, khái niệm “thơ”
mới có thể xuất hiện được: “chất thơ” là một chất quý tộc. Yếu tố nền móng của
“chất thơ” là cuộc đời ký sinh, thống trị. Đặc tính căn bản của nó là không
thiết thực, là mơ hồ, là ưu du, là mộng. Xét theo con mắt nhà bệnh thái học thì
chất thơ là sầu muộn, buồn bã, khóc lóc, tính khí yếu mềm, dễ hoảng hốt. Biến
thái cuối cùng của chất thơ là một trạng huống bại hoại về thần kinh hệ mà nhà
thần kinh bệnh học Pierre Janet mệnh danh là psychasthénie. Đó là tâm trạng
huống của những người “thiếu hẳn sự nhất quyết, sự quả cảm, sự chú ý, sự tin
tưởng, khi đứng trước một cảnh ngộ nào trong đời không đủ bình tĩnh để nhận
định rõ cảnh ngộ ấy; tóm lại thiếu hẳn năng lực xử trí thực tại”. (Janet, Les
névroses).
Về phương diện hành động và tình cảm thì như thế, còn về
phương diện trí thức thì chất thơ là thù địch của sự nhận xét chứng nghiệm, của
sự rõ ràng minh bạch của sự “thực tại” – của khoa học. Trong một bài báo bàn về
khoa học đăng trong Thanh Nghị số 98 (13.1.1945) ông Nguyễn Mạnh Tường có viết:
“Trong con người ta, cần phải có bí mật, trong đời ta phải
có tình cờ, trong thế giới cần phải có giời đất quỷ thần thì ta mới muốn sống.
Ảo tưởng là sự cần dùng thiết yếu của ta. Ta chỉ có thể sinh hoạt được ở trong
bầu không khí đầy những sương mù… Nếu nhờ khoa học mà ta hiểu được thiên cơ và
tới được địa vị hóa công thì quang cảnh giời xanh buồn tẻ và bóng tối của đêm
hôm vô vị… Khoa học là sự nghiệp của trí khôn. Trí không có thể hiểu và cắt
nghĩa được ngoại giới dưới quyền ngũ quan mà thôi. Còn như nội giới của nhân
loại hay là ẩn giới của tạo hóa phải để dành cho tri giác. Đây là vương quốc
của nhà thi sĩ và triết học” (Bài: “Vấn đề khoa học”).
Quan niệm đó đã phân chia ranh giới cho chất thơ và tinh
thần khoa học. Khoa học là khám phá, là điều kiện, là chứng nghiệm. Chất thơ là
ảo tưởng, là sương mù, là siêu lý. Người có óc khoa học lấy sự hiểu biết đầy đủ
cặn kẽ làm mục đích, người có chất thơ lấy sự không hiểu biết cặn kẽ đầy đủ làm
lẽ sống. Óc khoa học là khí cụ tiến hóa của một đẳng cấp đang đi tới, trẻ và
mạnh. Óc thơ là khí giới tự vệ của một đẳng cấp tàn tạ, cằn cỗi và ốm yếu.
Tóm lại, chất thơ là ý thức kết tinh của một cơ cấu
(structure) sinh lý và tâm lý đang ở vào trạng huống suy đồi. Nó là sự trầm
muộn thê thảm, sự mơ mộng vẩn vơ, sự tê liệt của khiếu hành động, sự sợ hãi
những cách hiểu biết sáng suốt và đầy đủ. Vượt ra ngoài phạm vi cá nhân thì
chất thơ là trạng thái tinh thần của một đẳng cấp quản trị ký sinh đã bắt đầu
có tính cách phản tiến hóa. Còn vượt ra ngoài cả phạm vi một đẳng cấp thì chất
thơ là trạng thái tinh thần của một xã hội đang bị khủng hoảng trên con đường
phát triển, đang bị lịch sử tiến hóa dồn gần đến một thế “vượt bực” mà chưa đủ
năng lực nội tại để giải quyết lấy sự mâu thuẫn trong tạng phủ.
Nhà văn học sử Gustave Lanson cho rằng “thơ là một phương
pháp thiên bẩm của linh hồn cũng như khoa học vậy, một cái “khiếu” nhờ đó linh
hồn đột nhập vào sự vật và tác động đến sự vật một cách thình lình cũng như nó
vẫn tác động đến sự vật bằng ngũ quan và trí tuệ” (Sách Pages choisies de
Anatole France – Bài tựa: trang 9).
Chủ trì như vậy tức là nhìn nhận chất thơ là một cái gì tiên
thiên, bất biến của bản thể linh hồn, một năng lực nhận thức và tác động
“thường” của con người “thường”. Đó là một cách tư tưởng mà các nhà triết học
biện chứng gọi là “siêu lý” (métaphysique). Tư tưởng một cách siêu lý nghĩa là
cắt một vật (hay một khái niệm) rời hẳn toàn khối sự vật trong không gian và
thời gian, coi nó như một thực thể bất biến trước sao sau thế, không sinh
thành, dịch hóa, tiêu vong. Theo lối tư tưởng ấy, người ta vẫn nghĩ rằng “lương
tâm” “lòng thương người” “khiếu luân lý” ,“cảm năng mỹ thuật”, sự hoài bão đến
điều thiện”, … những vật ấy, những sự trạng ấy đều là tiên thiên của con người
muôn thuở. Người ta có biết đâu rằng bao nhiêu khái niệm, bao nhiêu tiêu chuẩn
luân lý, bao nhiêu năng khiếu trí tuệ của con người đều có một lịch sử, đều là
những sản vật xã hội có nguồn gốc có trưởng thành và biến hóa trước khi đến
được những hình thức hiện tại mà người ta tưởng là thiên bẩm.
(còn tiếp)
Nguồn: Văn chương Truyện Kiều. Khảo luận của Nguyễn
Bách Khoa (Trương Tửu). Tạp chí Văn mới, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội 1945.
Bản điện tử: talawas thực hiện.
[1] L’act au point de vue sociologique
– J. M Guyan - Nhà Felix Alcan xuất bản (1923).
[2] Perspective.
[3] Hiện giờ, đã thành hình khoa học tâm lý
hướng nghiệp (psychotechnique) chuyên nghiên cứu về nhân tính (personnalité
humane) theo phương pháp khoa học chứng nghiệm. Ở kỳ Hội nghị quốc tế của các
nhà tâm lý hướng nghiệp học kỳ thứ 8, trong một bài diễn thuyết đề tài Les
fondements de la psychotechnique (những nền móng của khoa tâm lý hướng nghiệp
học) sau khi trình bầy và phê bình những quan niệm thần bí và duy tâm của các
ông H. Dilety, Spranger, William Stern, Müller–Freienfels về nhân tính – các
ông này đều cho rằng linh hồn là một cái gì bí mật (un mystérium) nó điều khiển
cuộc sống của con người – ông J. M. Laky đã kết luận: “Công trình nghiên cứu ở
các phòng thí nghiệm thần kinh bệnh học và hóa học sinh vật đã lượm được nhiều
tài liệu để củng cố quan niệm duy vật về “linh hồn” con người”.
[4] Lòng hoài nghi khoa học có nhiều nguyên nhân
phức tạp lắm, xin xem lại cuốn Nhân loại tiến hóa sử của Nguyễn Bách
Khoa. Dưới đây, chúng tôi trích một ý kiến của ông Nguyễn Mạnh Tường về một
nguyên nhân tâm lý của lòng hoài nghi đó:
“Nếu phương pháp khoa học có thể vạch tỏ ra cái khuất khúc
của tâm lý thì trong người ta hết bí mật. Nếu các nhà bác sĩ khám phá được thực
tại của cái chết thì đời ta hết nghĩa lý. Nếu nhờ khoa học mà ta hiểu được
thiên cơ và tới được địa vị Hóa công thì quang cảnh giời xanh buồn tẻ và bóng
tối của đêm hôm vô vị. Nếu trong người ta, ta biết rõ những cơ quan của thân
thể, những tính tình của tâm trạng thì ta không muốn ở với ta nữa, ta chán ta
vô cùng. Nếu ta biết ngày mai kia sẽ xẩy ra sự gì, ta không chắc ta có can đảm
sống đến mai không. Nói tóm lại, trong người ta cần phải có bí mật, trong đời
ta phải có tình cờ, trong thế giới cần phải có giời đất quỷ thần thì ta mới
muốn sống. Ảo tưởng là sự cần dùng thiết yếu của ta. Ta chỉ có thể sinh hoạt
được ở trong bầu không khí đầy những sương mù…
“… Nếu khoa học không đủ thế lực phá tan bí mật của vũ trụ,
nếu nhân loại chưa hiểu chết là gì, nếu trên giới còn có Hóa công, nếu trong người
ta còn linh hồn còn cảm giác, nếu trên đường đời tương lai còn mù mịt, nếu
quang cảnh êm đềm của ngôi sao lóng lánh trong đêm thanh vắng còn làm ta mê man
trong giấc mộng, thì ta chưa đến nỗi thất vọng.
… Khoa học là sự nghiệp của Trí khôn. Trí khôn có thể hiểu
và cắt nghĩa được ngoại giới dưới quyền ngũ quan mà thôi. Còn như nội giới của
nhân loại, hay là ẩn giới của tạo hóa phải để dành cho trí giác. Đây là vương
quốc của các nhà thi sĩ và triết học…” (Nguyễn Mạnh Tường – Bài “Vấn đề khoa
học…” Thanh nghị số 98 ra ngày 13.1.45).
Truyện Kiều là tác phẩm kiệt tác của nhân loại
Trả lờiXóa