Văn chương Truyện Kiều (2)
|
II. Loại tư sản
Từ năm 1919 trở đi, trên mặt tạp chí Nam phong
bổng nổi lên một trào lưu sùng mộ Truyện Kiều rầm rộ và nhiệt liệt. Bắt đầu,
là ông chủ nhiệm tạp chí ấy: ông Phạm Quỳnh, một nhà tân học vừa đồng hóa
được những tư tưởng tư sản ở Tây phương lại vừa cố giữ cái nền nếp tinh thần
đào luyện trong Nho giáo của Đông phương. Hưởng ứng với ông Phạm Quỳnh sốt
sắng nhất là học giả Trần Trọng Kim. Rồi, nối lời hai ông, cả một toán binh
thanh niên Tây học (Vũ Đình Long, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Tường Tam, v.v.)
nhảy vào phong trào tập Kiều, đem cái sở đắc về phương pháp thưởng thức văn
chương lĩnh hội được ở nhà trường Pháp áp dụng vào sự phân tích cái hay cái
khéo của từng câu từng chữ trong tập thơ Đoạn trường của Nguyễn Du. Tạp chí
Nam phong suốt mấy năm trời chất đầy những bài bình Kiều của loạt thanh niên
Âu hóa đó.
Sự ca tụng Truyện Kiều ấy được kết thúc bằng
cuộc kỷ niệm Nguyễn Du ở hội quán Khai trí Tiến đức Hanoi tháng Septembre 1924. Chính trong
buổi kỷ niệm này, ông Phạm Quỳnh đã hai lần hô lên một cách say sưa câu nói
bất hủ của ông: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”.
Ông lại cho rằng Truyện Kiều là một cuốn Phúc âm của người Việt Nam, phàm đã là
người Việt Nam thì phải học, phải thưởng thức, phải lấy sự có nó làm vinh dự.
Bài “Chính học và tà thuyết” của nhà chí sĩ Ngô Đức Kế viết ra chính là để
đáp lại cái chủ trương ấy của phái Nam phong.
Xét cho kỹ, phong trào học Kiều do các nhà
trí thức tân học kia chủ xướng chỉ là con đẻ của cái bản chất lịch sử của
đẳng cấp tư sản Việt Nam
hồi bấy giờ. Đẳng cấp này, nhờ cuộc Âu chiến, đã bắt đầu có điều kiện để phát
triển mạnh mẽ. Con em họ sinh trưởng ở thị thành đã đón tiếp được ngọn gió tư
tưởng Tây phương trong cái học đường Trung và Cao đẳng của Chính phủ Bảo hộ
mở ra từ trước cuộc Âu chiến[1].
Các phần tử trí thức tư sản tốt nghiệp ở các
học đường này ra đều hăng hái muốn kề vai gánh vác việc giang sơn đất nước,
để thực hiện những tư tưởng thu thái được của văn hóa tư sản Tây phương.
Những bao nhiêu mộng tưởng cao siêu đẹp đẽ ấy lúc va đụng vào sự thực đều bị
tan vỡ một cách đau thương.
“Cho nên, than người bạc mệnh, tức là than
thân mình… Nay ta đọc Truyện Kiều mà có “khóc người đời xưa” thì những người
thức giả hẳn không ai cho là “khéo dư nước mắt nữa”. (Trần Trọng Kim – “Tựa
truyện Truyện Thúy Kiều”)
Đó là cái lẽ chính nó kích thích các nhà trí
thức tư sản ca tụng Truyện Kiều say mê đến thế. Ngoài lẽ ấy ra, họ còn ca
tụng Kiều là để tỏ rằng dân tộc mình cũng đồng đẳng với những dân tộc mình
cũng đồng đẳng với những dân tộc khác về một phương diện nào đó – phương diện
văn chương. Về điểm này, ông Phạm Quỳnh đã viết:
“Đối với những kẻ nào chê rằng người Việt Nam
chúng ta không có văn chương, các bạn hãy đọc cho họ nghe những câu thơ của
Nguyễn Du mà tất cả các bạn hẳn đã thuộc lòng, hoặc những câu thơ của Nguyễn
Công Trứ, hoặc những bài thơ của Hồ Xuân Hương, rồi các bạn thử hỏi họ xem đã
có mấy nền văn chương trên thế giới có được những câu thơ đậm đà tao nhã như
thế, dĩnh ngộ như thế; biểu diễn bằng một hình thức hoàn toàn đến thế những
tình cảm khác màu sắc đến thế và sâu sắc đến thế không? (Bài: “Etudes
classiques sino annamitos’’ – Sách Nouveaux essais franco-annamites). Trong
một bài đề là: “Vers une doctrine nationale’’ cũng in trong sách ấy ông Phạm
Quỳnh lại trích dẫn một bài báo ký tên là André Gaudbye đăng trong tờ Ami du
people indochinois ngày 16.4.1934 thuật câu nói sau đây của Francis de
Miomaudre về ngày kỷ niệm nhà thi sĩ Ba Tư Ferdowsi, tác giả tập thơ
Shahnameh (Sách của các vua):
“Một dân tộc bị chinh phục muốn giải thoát
chỉ cần có một từ ngữ đã được quy định bởi một văn phẩm kiệt tác”. Như vậy tỏ
rằng ông tin ở “cái sứ mệnh giải phóng dân tộc của những tập văn kiệt tác” là
nhường nào!
Lòng tin tưởng ấy lại càng tố cáo rõ thêm
trạng thái bất lực của giai cấp tư sản. Chỉ còn biết đặt hy vọng giải thoát
cho dân tộc vào một tập thơ: tất nhiên đó không phải là thái độ của một giai
cấp đang đóng một vai trò tiến hóa trong lịch sử.
Nhưng Truyện Kiều không phải chỉ có những câu
thơ kiều diễm để mà đem khoe khoang với người ngoài. Nó cũng không phải chỉ
có cái triết lý đầu hàng vận mệnh để giai cấp tư sản nương vào đó mà tự an
ủi, tự biện hộ. Nó còn có cái mà nhà nho Ngô Đức Kế gọi là sự tà dâm nữa. Nó
lại còn có cả một ý thức hệ phong kiến nữa. Ca tụng Truyện Kiều, các nhà trí
thức tư sản không thể không phát biểu ý kiến về hai điểm ấy.
Thực ra hai cái đó (tà dâm và luân lý phong
kiến) không thể dung nhau được. Một là theo luân lý phong kiến thì phải kết
án chuyện “giăng thề quạt ước” vượt ngoài lễ giáo đã mô tả ở Truyện Kiều. Một
là bênh vực ái tình mê đắm thì phải đạp lên luân lý phong kiến. Các nhà trí
thức tư sản ở xứ ta đã dung hòa cả ái tình mê đắm và luân lý Nho giáo. Họ
không dám kết án ái tình mê đắm (một yếu tố trong ý thức hệ tư sản mà họ đại
diện) mà lại cũng không giẫm đạp lên luân lý phong kiến (hoàn cảnh lịch sử đã
dồn họ vào cái thế thỏa hiệp với giai cấp quý tộc và địa chủ). Ta hãy nghe
một đại biểu của phái trí thức tư sản lên tiếng về vấn đề ấy:
“Truyện Kiều… có luân lý gì không? Thiết
tưởng một người đàn bà con gái đang “phong gấm rủ là” mà bị cơn gia biến biết
bán mình để giữ cho trọng đạo hiếu và lúc lưu lạc giang hồ mà giữ được lòng
tiết nghĩa như nàng Kiều thì dầu ở đời nào nước nào ai cũng phải kính phục.
Tuy trong truyện có tả những cảnh thanh lâu, những phường gian ác, nhưng có
đem bầy tỏ những cái xấu xa dơ bẩn ấy ra thì mới rõ cái đoạn trường của một
bậc giai nhân đáng thương xót là bao nhiêu làm cho người xem truyện sinh ra
cái mối lòng thương lòng giận. Thương là thương cái số kiếp con người ta hay
phải lắm điều chìm nổi khắt khe; giận là giận một xã hội hiếm hoi thiện tính
lương tâm; để đến nỗi những kẻ liễu yếu đào tơ phải những bước gớm ghê chua
xót. Có cái lòng thương ấy thì người ta mới muốn làm những điều từ thiện; có
cái lòng giận ấy thì người ta mới mong mỏi muốn sửa đổi việc đời cho thành ra
có cái xã hội hay hơn đẹp hơn. Đọc một quyển sách mà nẩy ra được những cái
cảm tình mật thiết với loài người như thế thì quyển sách ấy chắc là không
phải không có luân lý. Thế mà nói đến Truyện Kiều thì nhiều người chê là
Truyện Kiều tà dâm, nhảm nhí. Những người ấy một hạng là tính nông nổi không
chịu mất công mà nghĩ ngợi cho ra lẽ phải trái; một hạng là bọn giả đạo đức…
… Nàng Kiều có nặng về đường tình ái thật,
nhưng cái tình ái mà trong sạch thì có điều gì là dở? Vả làm người, trừ những
kẻ trơ như mộc thạch chỉ biết ăn biết ngủ thì ai là người đã khỏi cái nợ tình
ái? Tình ái mà như nàng Kiều trước sau biết nặng lời non nước, biết “lấy hiếu
làm trinh”, biết nhân biết nghĩa thì sao lại cho là không có luân lý được?
Ta nay cứ xem Truyện Kiều không phải là chỉ
vì văn hay ý sâu mà thôi nhưng lại vì những điều nhân nghĩa trí tín nữa; thật
là quyển sách rất có luân lý, rất thanh nhã vậy”. (Trần Trọng Kim – “Tựa
Truyện Thúy Kiều”)
Đoạn văn này, có hai lý luận khác nhau mà
cùng tố cáo một dụng ý giống nhau là: thỏa hiệp ý thức hệ phong kiến với ý
thức hệ tư sản. Bằng lý luận thứ nhất, ông Trần dùng một quan niệm tư sản để
bênh vực một văn phẩm phong kiến. Không ai còn lạ rằng văn chương, theo quan
niệm phong kiến, phải có tính cách công thức và truyền đạo. Có tính cách công
thức nghĩa là phải mô tả mỗi loại sự kiện (tự nhiên, tâm lý, xã hội) đúng với
cái trạng thái bất biến đã định sẵn của nó trong trật tự phong kiến, không
được ghi chép những cái gì “đặc sắc” của “cá thể”.
“Những nhân vật trong văn chương trung cổ
(phong kiến) không phải là những cá tính đặc biệt mà phải là “mẫu người” điển
hình. Và ngay cả những cách sinh hoạt của các mẫu người điển hình này cũng bị
ấn định sẵn rồi. Chỉ có người Thày Tu, người Lái Buôn, người Ẩn Sĩ”.[2]
Tả người đã phải như thế, tả các loại trí thức hay xã hội cũng phải theo
nguyên tắc công thức ấy. Hơn nữa, sự mô tả còn phải có mục đích tuyên truyền
hoặc biểu dương cái trật tự đang có hay cái Đạo – cái ý thức hệ - vẫn dùng để
chính thức hóa trật tự ấy. Bởi vậy, một điều kị nhất của nhà văn phong kiến
là sự tả thực. Văn nghệ tả thực và văn nghệ phong kiến là hai cái không thể
đứng chung với nhau một chiều được. Xét trong lịch sử các văn học thì nghệ
thuật tả thực ở đâu đâu cũng chỉ nẩy nở được cùng với giai cấp tư sản. Tinh
thần “tả thực” là một tinh thần tư sản.
Để trả lời những người công kích Truyện Kiều
là tà dâm, ông Trần Trọng Kim đã biện hộ sự mô tả “những cảnh thanh lâu những
phường tàn ác” trong truyện, lấy lẽ rằng: có đem bầy tỏ những cái xấu của xã
hội thì mới khiến người ta thương người đau khổ (Kiều) và giận xã hội thiếu
thiện tính; và như vậy tức là Truyện Kiều có luân lý vì đã làm “nẩy ra được
những cảm tình mật thiết với loài người”.
Đó là một luận điệu trăm phần trăm tư sản.
Nếu Truyện Kiều vì tính cách “tả thực” của nó mà có luân lý, như ông Trần
nói, thì cũng chỉ “có luân lý” với những người có ý thức hệ tư sản thôi. Còn
đối với những người phê bình văn chương theo nguyên tắc phong kiến thì Truyện
Kiều là vô luân lý chính vì nó đã “tả những cảnh thanh lâu những phường tàn
ác… đã đem bầy tỏ những cái dơ bẩn xấu xa ấy ra”.
Nhưng bàn như vậy chỉ là muốn đứng vào quan
điểm ông Trần để bác cái lý luận của ông đã dùng đến, chứ thực ra Truyện Kiều
có tính cách tả thực như ông Trần đã gán cho nó đâu. Thực ra, bao nhiêu cái
dơ bẩn, Nguyễn Du đã giấu đi hết hoặc đã dùng văn chương để gói ghém vào một
hình thức thanh tao. Bao nhiêu nhân vật trong Truyện Kiều đều nhiễm một mầu
sắc công thức đằm thắm không thể đánh lộn với một văn phẩm tả thực tư sản
được.
Các nhà nho công kích Truyện Kiều là vô luân
lý không phải vì nó phô bầy những cái dơ bẩn ra mà chỉ vì nó tả những hành vi
trái với luân lý phong kiến (như hành vi của nàng Kiều lúc thề thốt với Kim
Trọng). Ông Trần cũng như giai cấp ông – vẫn phải tán dương nhân nghĩa trí
tín trung hiếu (luân lý Nho) nên cố tình bênh vực những cái đó trong Truyện
Kiều rồi ngụy biện theo lối chủ quan thiên lệch vậy.
Sự ngụy biện ấy càng tỏ lộ ra ở lý luận thứ hai
trong đoạn văn kia của ông Trần Trọng Kim. Ở lý luận này, ông Trần lại đem
một quan niệm phong kiến để bào chữa cho một hành vi tư sản (tôi muốn nói:
cái tình ái mê đắm của nàng Kiều). Ông cật vấn phe địch:
“Tình ái mà như nàng Kiều trước sau biết nặng
về lời non nước, biết lấy hiếu làm trinh, biết nhân biết nghĩa thì có luân lý
hay không?”
Nếu tình ái của nàng Kiều chỉ là thế thì tất
nhiên là có luân lý lắm rồi (chữ luân lý hiểu theo ông Trần). Nhưng tình ái
mà (như nàng Kiều) “mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều”, mà “trăng thề, quạt
ước” với trai trước khi được lệnh của cha, mà “sánh vai về chốn thư hiếu” với
trai, mà “chén hà sánh giọng quỳnh hương” với trai giữa lúc canh trường nhà
vắng, tình ái như thế thì có đúng với giáo lệnh của luân lý phong kiến không?
Ông Trần nói đến tình ái của nàng Kiều chỉ nói đến sự “lấy hiếu làm trinh”,
sự nhân nghĩa là những cái không dính gì đến tình ái cả. Ông quên mất cái
khác nhau của bản đàn ân ái đó. Dù muốn bào chữa cho Kiều đến đâu ta cũng
phải nhận rằng tình ái của Kiều với Kim Trọng lúc “trăng thề quạt ước” thật
là vô luân lý (tất nhiên là xét theo quan điểm luân lý phong kiến). Nói như
ông Trần trên kia là nói thiên đi để tránh sự bế tắc về luân lý[3].
Muốn biện hộ cho tình ái của nàng Kiều đáng
lý nhà trí thức tư sản phải luận theo ý thức hệ tư sản thì mới hợp lẽ. Mà
cũng chỉ có đem chủ nghĩa cá nhân tư sản ra mới bênh vực được hành vi tình ái
của nàng Kiều. Không đứng ở lập trường tư sản mà lại cố ý đứng ở lập trường
phong kiến, một mực cho rằng tình ái của Kiều không phải trái gì với luân lý
nho – như ông Trần đã làm – thì thật là bất chấp cả luân lý, bất chấp cả sự
thực. Thái độ của ông Trần chỉ chứng thực rằng giai cấp tư sản đã cộng tác
mật thiết với giai cấp quý tộc phong kiến ở địa hạt tư tưởng và luân lý[4].
Nói rút lại, các nhà trí thức tư sản cũng vẫn
đứng ở quan niệm luân lý để phê bình Truyện Kiều mà lại là quan điểm của luân
lý phong kiến. Họ cũng đã biết đem cái đẹp và hình thức của Truyện Kiều ra
phát huy, “cải tiến”, họ cũng biết thưởng thức cái phần tình cảm của các vai
trò trong Truyện Kiều. Nhưng họ vẫn đặt luân lý của truyện lên trên tất cả - trên
cả “ý sâu” trên cả “văn hay”, trên cả tình cả cảnh. Mà hễ còn ca tụng Truyện
Kiều theo quan điểm luân lý phong kiến thì vẫn không tài nào tránh được dư
luận búa rìu của phái Ngô - Huỳnh. Muốn ca tụng Truyện Kiều, phải đứng ở lập
trường ý thức hệ tư sản mà phê phán. Đó là công việc của các nhà trí thức
tiểu tư sản Việt Nam (Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư) sau khi phái Nam
phong im hơi lặng tiếng. Đến thời kỳ này, vấn đề Truyện Kiều lại bầy ra một
cục diện mới khác hẳn trước đáng cho ta chú ý.
III. Loại tiểu tư sản
Những ý kiến phê bình Truyện Kiều của các nhà
trí thức tiểu tư sản xứ ta tuy phức tạp nhưng đều xây dựng trên quan niệm
chung, chống hẳn lại quan niệm phong kiến là “văn chương không kể đến luân
lý”. Họ đều chủ trương rằng phê bình một tập thơ (như Truyện Kiều) không thể
đem luân lý ra mà định giá được. Một văn phẩm có giá trị riêng của nó không
dính dấp gì đến giá trị luân lý cả. Quan niệm này được một đại biểu của phái
trí thức tiểu tư sản – ông Đào Duy Anh – nói ra rất rành mạch trong quyển
khảo luận về Kim Vân Kiều của ông (chương thứ tám). Sau khi lược thuật các
lời phê phán của các người khen Kiều (Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Kỳ
Nam) và chê Kiều (Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng), ông Đào kết luận: “Lời tán
tụng… cũng quá đáng như sự mạt sát… mà quá đáng là vì hai bên đến lấy tư
tưởng luân lý mà phê bình phán đoán một tác phẩm nghệ thuật. Chúng ta sở dĩ
yêu chuộng Truyện Kiều không phải vì nó có thể làm quyển sách luân lý cho
đời, mà chỉ vì trong sách ấy Nguyễn Du đã dùng những lời văn thần diệu để
rung động tâm hồn ta...” (trang 197).
Đó cũng là ý kiến chung của tất cả các nhà
học giả, văn nhân, nghệ sĩ tiểu tư sản khác (Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Xuân
Diệu…) Tất cả đều cố giữ cho văn nghệ một đời sống độc lập trong một thế giới
độc lập, tại đó luân lý không đặt chân vào.
Tuy nhiên, mặc dầu cùng chủ trì một nguyên
tắc căn bản ấy, các nhà tri thức tiểu tư sản kia cũng vẫn không đồng tư tưởng
với nhau khi luận đến nghệ thuật. Chung quanh vấn đề Truyện Kiều, họ đã chia
ra làm hai phái lớn:
1. Phái Đào Duy Anh
2. Phái Hoài Thanh
Phái Đào Duy Anh chú trọng đặc biệt vào giá
trị tình cảm của Truyện Kiều:
“Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều… chỉ
vì trong sách ấy Nguyễn Du đã dùng những lời văn thần diệu để rung động tâm
hồn ta, khiến mỗi câu văn chúng ta ngâm, hoặc khi Kiều Kim gặp gỡ, hoặc khi
gia biến, hoặc khi Kiều bị đầy đọa, hoặc khi tái ngộ chàng Kim đều chan chứa
đồng tình: chỉ vì Nguyễn Du đã đem những câu văn “vừa lâm ly vừa ủy mị vừa
giải thứ, vẻ hệt một người tài mệnh trong mười mấy năm trời” trải qua nhiêu
những nỗi đau đớn ê chề mà vẫn giữ trọn tấm lòng thanh bạch, bởi vì Nguyễn Du
đã gieo vào lòng ta những mối hứng thú tế nhị thanh cao, cùng những mối cảm
tình thương người, nhất là thương người phải giày vò vì phận mệnh, chỉ vì đây
mới là lẽ chính – Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một
mối hy vọng dồi dào với tiếng nói của ta…” (Đào Duy Anh – Sách đã dẫn – trang
177 - 178).
Phái Hoài Thanh tán thành cái lẽ cuối cùng mà
ông Đào vừa nói đến (Truyện Kiều làm cho ta tin và hy vọng vào tiếng nói của
ta) gác bỏ những lẽ ở giữa (truyền những cảm tình thương người, tả một người
giữ trọn tấm lòng thanh bạch) và đặt cả công phu tán Kiều của họ lên lẽ thứ
nhất (lời văn thần diệu). Trong một bài báo nhan đề “Nội dung và hình thức”
đăng ở một số tạp chí Tao đàn năm xưa, ông Hoài Thanh có chủ trương rằng: cái
“nội dung” của Truyện Kiều theo ý ông chính là những lời thơ đẹp, những hình
ảnh tài tình, nghĩa là cái mà người ta vẫn gọi là hình thức của nó. Truyện
Kiều đáng cho ta ca ngợi không phải vì nó biểu dương quan niệm này hoặc
truyền đạt cảm tình thanh tao nọ, mà chỉ vì nó đẹp: chữ đẹp, lời đẹp, hình
ảnh đẹp, âm điệu đẹp. Như thế là nó có giá trị duy nhất của một văn phẩm chỉ
là giá trị về kỹ thuật (valeur technique) – giá trị về hình thức.
Với quan niệm tiểu tư sản ấy, vấn đề Truyện
Kiều, ở con mắt nhiều người, hồ như đã được giải quyết thỏa đáng rồi. Hiện
nay mọi người đều công nhận rằng Truyện Kiều dù luân lý có đáng chê, tư tưởng
cổ không hợp thời nữa, cũng vẫn đáng ca tụng, đáng kỷ niệm, sống đời đời với
non sông Việt Nam, vì nó là một tập thơ hay, bất hủ - “Đại Việt thiên thu
tuyệt diệu từ” để theo câu nói của Phan Thạch Sơn.
Về mối liên lạc giữa quan niệm nghệ thuật với
các trào lưu lịch sử ở Pháp trong thế kỷ 19, giáo sư P. Martino đã nhận xét
(trong sách Parnasse’ et Symbolisme).
“Sự đắc thắng của thuyết nghệ thuật vị nhân
sinh hay của thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật, ngoài nguyên nhân văn học ra,
còn có nhiều nguyên nhân chính trị và xã hội nữa. Năm 1830 sự thành công của
Cách mạng kích thích và vun xới những quan niệm của Saint–Simon và của thuyết
Nghệ thuật hữu ích; năm 1850, chế độ phản động của họ Nã-phá-luân mở đường
một cách gián tiếp cho thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật. Đến năm 1880, chế độ
Cộng hòa lại cổ lệ cho nghệ thuật tả chân thực nghiệm…” (tr. 243).
Định luật xã hội học ấy đem dùng để cắt nghĩa
những biến thái của quan niệm nghệ thuật trong vòng ba bốn mươi năm nay ở xứ
ta (chung quanh vấn đề Truyện Kiều) không phải là không đúng.
Từ hồi Nam phong đến giờ, chung quanh
vấn đề Truyện Kiều, ta nhận thấy quan niệm về nghệ thuật đã trải qua nhiều
dạng thái khác nhau. Mới thoạt đầu (khoảng 1918-1928) là quan niệm nghệ thuật
vị luân lý. “Ta nay cứ xem Truyện Kiều không phải là chỉ vì văn hay ý sâu mà
thôi, nhưng lại vì những điều nhân nghĩa trí tín nữa”. – Trần Trọng Kim
– “Nghệ thuật vị xã hội”. “Văn chương… là một cách rải rắc tư tưởng học thuật
ra thiên hạ, tư tưởng học thuật hay thì quốc vận cũng hay, tư tưởng học thuật
dở thì quốc vận cũng dở” (Phan Kế Bính – Việt Hán văn khảo, tr. 109 –
Trung Bắc Tân Văn xuất bản 1930). Đó là thời kỳ mà ông Phạm Quỳnh chê thi sĩ
Tản Đà chỉ biết ngồi trạm cửa võng khéo léo tỉ mỉ (nghĩa là chỉ biết gọt văn
rũa chữ cho réo rắt mỹ miều) trong lúc mọi người đang nỗ lực xây nền móng cho
lâu đài quốc học.
Sau đó ít lâu, khoảng 1930–1935, nẩy ra quan
niệm nghệ thuật vị nghệ thuật của phái Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư. Quan niệm
này đồng thời với một thời kỳ phản động về chính trị. Kịp tới hồi tranh đấu
xã hội bồng bột (1935-1939). Hai quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh do các nhà
trí thức duy vật đề xướng lại một phen đắc thắng.
Đến thời kỳ 1940 tới gần đây, cục diện chính
trị và xã hội bầy ra một tính cách trầm trệ, ngừng tiến hóa thì lại nẩy ra
cái quan niệm của ông Đào Duy Anh dung hòa hai chủ trương nghệ thuật vị nghệ
thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, ca tụng Truyện Kiều vì lời văn tuyệt diệu
mà cũng lại vì nó làm nẩy ra lòng thương người ở độc giả, vì nó tả một tâm
hồn thanh bạch bền bỉ mà cũng lại vì nó quan hệ đến tương lai của Việt ngữ.
Ông Đào Duy Anh đã nói hộ mọi người khi ông
đề nghị: “Văn học giới nước Nam
ta sau này có lẽ cần phải có một học phái chuyên nghiên cứu Truyện Kiều thì
may ra mới phát huy được hết chân giá trị của áng văn bất hủ ấy”.
Viết cuốn tiểu luận này tác giả chú ý phê
bình cái quan niệm tiểu tư sản kia về Truyện Kiều. Chúng ta thử xét xem:
1. Cái “chân giá trị” của Truyện Kiều ở hình
thức hay ở nội dung?
2. Truyện Kiều có phải là một áng văn “bất
hủ” không?
3. Thi vị Truyện Kiều có thật hợp với tâm hồn
Việt Nam
ngày nay nữa không?
Và nhân đó, chúng ta sẽ đi tìm một nguyên tắc
vững chãi làm nền tảng cho khoa phê bình văn học.
*
Phần thứ hai - Văn chương Truyện Kiều
Chương I - Cái hay của Truyện Kiều
Bàn về giá trị văn chương của Truyện Kiều,
một người đồng thời với Nguyễn Du – Mộng Liên Đường chủ nhân – đã viết:
“Trong một tập, thủy chung lấy bốn chữ ‘Tạo
vật đố tài’ tóm cả một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án
khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu
tao, khi duyên ưa kim cải non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào cửa nhà tan nát,
khi lầu xanh khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân, khi kinh kệ khi can
qua mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui buồn tan hợp mười mấy năm trời, trong
cuốn văn tả ra như hệt không khác gì một bức tranh vậy.
Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà
căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gẩy xong mà oán bận vẫn còn chưa
hả thì dẫu đời xa người khuất không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tả ra
hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc
cũng phải thấm thía ngùi ngùi đau đớn như đứt ruột… Nếu không phải con mắt
trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút
lực ấy”.
Hơn trăm năm nay, các học giả, văn nhân, thi
sĩ không ai là không biểu đồng tình với Mộng Liên Đường về điểm ấy[5].
Và từ Phạm Quý Thích đến Chu Mạnh Trinh, suốt
gần một thế kỷ, khi nói đến cái văn tài của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ai
cũng đều bình luận theo cái lối bình luận của Mộng Liên Đường chủ nhân cả.
Ông Phan Kế Bính, trong sách Việt Hán văn
khảo soạn năm 1918 là người thứ nhất đã đem cái óc thưởng thức văn chương rất
hiện đại ra mà phân tích cái đẹp, cái tài tình của thơ Truyện Kiều. Ta hãy
nghe nhà nho ấy bình luận:
“Xem toàn quyển truyện không có một tiếng nào
là tiếng đục, không một câu nào là câu non. Giọng văn nhẹ nhàng, ý tứ lưu
loát, tá dụng những điển tích cũng tài mà nhất là những chỗ tả cảnh tả tình,
tình cảnh nào như vẽ ra tình cảnh ấy:
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Thực rõ cảnh mùa xuân!
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Thực rõ ra cảnh mùa hạ!
… Tả đến người nào lại hợp với khẩu khí và
tính cách của người ấy mới lại khéo thay!
Thoạt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
Và mấy câu:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.
Cho đến câu:
Cớ sao chịu ép một bề
Gái lơ mà đã ngứa nghề sớm sao.
Thực như vẽ ra hình dáng và rõ ra giọng lưỡi
của một người mụ giàu…
… Lại như những chỗ tả ngón đàn mỗi chỗ tả
một khác mà chỗ nào cũng thần tình, những chỗ tả lòng thương nhớ mỗi đoạn tả
một tứ mà tứ nào cũng não nùng. Nói rút lại thì trong toàn thiên chữ nào cũng
êm, câu nào cũng thoát, đoạn nào cũng dồi dào ý tứ, tả đến tinh thần, nhời ít
nhẹ nhàng mà ý thì bát ngát, càng đọc càng thấy hay, càng nghe càng thấy thú,
không khi nào chán tai được. Thực là văn chương tuyệt phẩm của nước Nam ta!”.[6]
Đó là những lời giải thích cái hay của văn
chương Truyện Kiều in ra từ năm 1918. Sở dĩ chúng tôi trích đăng một đoạn dài
như vậy là bởi muốn để bạn đọc có tài liệu mà so sánh với các lối bình luận
Kiều từ 1918 về sau. Nếu các bạn dõi theo sự bình phẩm văn Truyện Kiều qua
mấy nhà học giả đứng đắn như Trần Trọng Kim (1926), Đào Duy Anh (1943), Dương
Quảng Hàm (1944) thì các bạn sẽ nhận thấy rằng phương pháp mà các nhà đó dùng
để bình luận văn chương Truyện Kiều vẫn là cái phương pháp đã dùng từ 1918.
Cũng vẫn cái lối phân tích những cách tả cảnh tả tình, tả người, tự thuật,
đàm thoại, dùng chữ, dùng điển của Nguyễn Du, rồi thêm vào ít lối bình phẩm
như: thật là tài, thật là khéo hoặc “xét tâm lý rất rành”… “bút pháp rất gọn
gàng linh động”… lời văn âm điệu du dương, v.v.
Đây là cách giải thích văn Kiều của ông Trần
Trọng Kim:
“… Tiên sinh có cái tài dùng một chữ hay là
một cái cảnh nào để gợi cái tâm tình của tiên sinh định tả ra. Người đàn bà
lưu lạc ngồi một mình nhớ nhà:
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Hai chữ hoàng hôn và hôn hoàng láy đi láy lại
thật là gợi ra một cảnh sầu muộn hôm nào cũng một màu một vẻ như thế… Tả các
vai người thì người nào vẽ hệt người ấy… Mã giám sinh thì quá niên trạc ngoại
tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Tú Bà thì: Thoắt trông nhờn nhợt
màu da, ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao… Đến cách tả cảnh thì tưởng không ai làm
thế nào mà tả được gọn gàng, rõ ràng hơn Tố Như tiên sinh… Mỗi một cảnh chỉ
có độ bốn câu thơ là cùng, thế mà tả được không thiếu không thừa, cảnh nào ra
cảnh nấy…”[7]
Còn đây là một đoạn bình luận văn Kiều của
ông Đào Duy Anh (năm 1943):
“Tả bước chân người trong mộng, Nguyễn Du nói
lãng đãng như gần như xa, tả người phá của thì quen thói bốc trời; tả lão con
buôn thì cò kè bớt một thêm hai, tả mụ “trùm” ngồi để bắt kỹ nữ lạy thì nói
vắt nóc lên giường, tả một anh hùng thì nói chọc giời quấy nước; những tiếng
ấy toàn là những tiếng thường dùng do Nguyễn Du chắp lại, mà sự hội họp ngẫu
nhiên của chúng vẽ hệt ra cái khí tượng của từng người. Tả cảnh đêm mà nói
mịt mù dặm cát đồi cây thì ta thấy rằng trong đêm mà có trăng; tả sự hành
hình mà nói xương bay thịt nát thì đọc đến phải rùng mình, tả cảnh mà nói
song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời thì ta thấy hiển hiện ngay một cảnh nhà
đổ nát bỏ không đã lâu…
… Nhiều khi trong một câu thơ, chỉ một chữ mà
làm nổi cả câu, không thể đem chữ khác mà thế được… như trong câu Cậy em em
có chịu lời, Nguyễn Du dùng chữ cậy chứ không dùng chữ nhờ là vì chữ cậy đã
có nghĩa tin cậy phó thác mà lại còn khiến câu thơ dễ đọc hơn chữ nhờ, còn
chữ chịu đúng hơn chữ nhận là vì…
… Xem ít thí dụ trên ta thấy vô luận là tả
người, tả cảnh tả tình, Nguyễn Du khéo chọn những chữ có nhịp điệu thích đáng
nhất có thể gây trong tâm hồn người đọc những rung động đặc biệt khiến người
đọc có thấy người thấy cảnh hay cảm động thiết tha như chính người trong cuộc
vậy…” (Khảo luận về Kim Vân Kiều, trang 152 – 154).
Ông Dương Quảng Hàm, - cũng như các ông Trần
Trọng Kim, Đào Duy Anh, - bình luận văn Kiều cũng không được ra ngoài lề lối
ấy. Phê bình cuốn Việt Nam
văn học sử yếu của ông Dương Quảng Hàm, ông Nguyễn Mạnh Tường đã chê ông
Dương về đoạn nói đến cái hay của Truyện Kiều.
“Đối với quyển Kim Vân Kiều, ông Dương Quảng
Hàm có vẻ trân trọng hơn, nhưng chính vấn đề cốt yếu là vấn đề văn chương,
ông chỉ nói qua thôi. Ông khen cụ Nguyễn Du có tài tả cảnh, tả người, tả hình
và dùng điển. Còn nghệ thuật của cụ ông không nói đến. Ông không cắt nghĩa
tại làm sao quyển Kim Vân Kiều chứa chan thi vị và tại sao thi vị đó rất hợp
với tâm hồn người Việt Nam
chúng ta. Hợp cho đến nỗi ta tưởng tượng rằng nếu tâm hồn ta có thể lên tiếng
được thì sẽ hòa điệu theo thơ của Kim Vân Kiều” (Thanh nghị số 92).
Lời chê trách này có thể đem gởi gấm cho tất
cả những người đã giải thích văn thơ Truyện Kiều từ trước tới giờ. Cái lầm
của các người đó là chỉ chú trọng phân tích có cái điêu luyện về kỹ thuật làm
văn của Nguyễn Du mà sao nhãng hẳn cái phần nghệ thuật của Truyện Kiều.
Nghệ thuật của Truyện Kiều không phải ở sự tả
tình, tả cảnh, tả người, dùng chữ dùng điển của tác giả nó. Những cái tiểu
xảo kỹ thuật này không đủ ban cho Truyện Kiều cái “thi vị chứa chan”, nó
huyền hoặc người đọc như một sức mạnh phù thủy. Nghệ thuật của Truyện Kiều là
ở cái thể cách truyền cảm đặc biệt, cái cấu tạo đặc biệt của nó. Chính cái
thể cách đó đã làm ra thi vị Truyện Kiều và chính cái cấu tạo đặc biệt kia đã
làm ra kiến trúc nghệ thuật của Truyện Kiều.
Nghiên cứu văn chương Truyện Kiều mà không
tìm đến dạng thái của cấu tạo đó, không dò đến cái thể cách đã điều khiển sự
sáng tác ra hệ thống này tức là chưa nghiên cứu đến gốc rễ cái hay, cái đẹp
của Truyện Kiều vậy.
Nhưng trước khi khảo sát đến cái hay cái đẹp
của Truyện Kiều, chúng ta cần phải đính chính lại một quan điểm sai lầm của
ông Hoài Thanh (mà cũng là của nhiều người) về phương pháp phê bình nghệ
thuật. Theo ý ông Hoài Thanh thì “cái đẹp của Đoạn trường tân thanh, cái chất
thơ bàng bạc trong cả quyển truyện cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên.
Cứ phân tích, cứ giảng giải, nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ bước
mới hòng nhận thấy cái đẹp, cái khí dịu dàng thùy mị, khí tráng lệ huy
hoàng”.
Ông Hoài Thanh chủ trì rằng không thể phân
tích được cái đẹp của Truyện Kiều, bởi ông cho nó là biểu thị của một thiên
tài, mà theo quan niệm của ông thì thiên tài là một cái gì huyền bí lắm vì nó
thuộc về địa hạt u ẩn của linh hồn, của “tâm” khoa học không thể nào giải
thích được. Cũng trong bài báo có đoạn văn trích trên kia, ông đã viết: “Với
ông Nguyễn Bách Khoa, cái gì cũng rõ ràng như hai lần hai là bốn. Ông có ngờ
đâu rằng sự thực huyền diệu hơn nhiều, nhất là, khi sự thực đó là con người
Nguyễn Du. Ông dang tay phản kích con người Nguyễn Du chẳng khác gì một nhà
bác sĩ phân tích thây ma trong phòng mổ xẻ. Thực là tàn nhẫn! Và cũng thực là
thô thiển!...”
Nói khác đi, ông Hoài Thanh cho rằng trong
con người vẫn có một phần sâu kín thăm thẳm mà khoa học không thể lùa lưỡi
dao phân tích vào được. Phần đó là linh hồn con người, là cái điểm tinh anh
huyền diệu, phải dùng đến cái tâm mới cảm thông được. Ông đã nói: “Muốn bước
vào một thế giới như thế giới Đoạn trường tân thanh, thái độ đúng với khoa
học hơn cả là bỏ hết những kiến thức về khoa học ở ngoài cửa để đi vào một
tấm lòng chân thành và thanh khiết. Còn như đưa vào đây những kiến thức rềnh
ràng, những khí cụ chỉ nên dùng trong phòng thí nghiệm thì thực là trái với
khoa học…”
Chính cái linh hồn ấy, cái tinh anh ấy, ở
Nguyễn Du, đã tạo ra cái chất thơ bàng bạc trong Truyện Kiều. Đã không phân
tích được cái gốc (linh hồn Nguyễn Du) thì tất nhiên cũng không sao phân tích
được cái ngọn (chất thơ trong Đoạn trường tân thanh). Do quan niệm thần bí ấy
về thiên tài đã nẩy ra quan niệm duy tâm về nghệ thuật là một sản vật thiêng
liêng có tính cách hoàn toàn tinh thần không chịu sức chi phối của một sự
kiện vật chất nào. Nghệ sĩ là một loại siêu nhân không bị hoàn cảnh xã hội
quy định mà lại còn tạo ra được những thể cách sống mới cho hoàn cảnh. Bởi
vậy không nên và không thể ràng buộc cái tự do của nghệ sĩ bằng bất kỳ kỷ
luật nào. Nghệ sĩ muốn làm gì thì làm, muốn sáng tạo cái gì thì sáng tạo, chỉ
kể đến nghệ thuật, không kể đến xã hội nhân quần. Tóm lại, quan niệm của ông
Hoài Thanh là quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật vậy.
Thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật đã bị đánh đổ
từ lâu rồi, chúng ta không cần đem bàn luận làm gì nữa[8]. Ở chương
sau đây, chúng ta sẽ chỉ phê bình quan niệm của ông Hoài Thanh về thiên tài
và giá trị một văn phẩm, đã phát biểu trong bài báo dẫn trên kia.
(còn tiếp)
Nguồn: Văn chương Truyện Kiều. Khảo
luận của Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu). Tạp chí Văn mới, Nxb Hàn
Thuyên, Hà Nội 1945. Bản điện tử: talawas thực hiện.
[1]
Đây là một đoạn văn của nhà trí thức Phạm Quỳnh, người đã đề xướng ra việc
học Kiều, nói về lịch sử và ý nghĩa trường Cao đẳng đầu tiên ở xứ ta… “Nhưng
cuộc nội biến năm 1908 và mấy năm sau… chứng tỏ rằng chính phủ bảo hộ và dân
bị bảo hộ không tin cậy nhau nữa. Đứng trước tâm trạng ấy của phái thượng lưu
Việt Nam,
quan Toàn quyền Bean nhất quyết thi hành sự cải cách… Ngài lập ra những ban
xét về việc sửa đổi sự duy học bản xứ. Ngài mở mang thêm những trường
Pháp-Việt đang có, những trường này từ trước tới giờ chỉ theo đuổi mục đích
đào luyện lấy những người đủ sức học làm thông ngôn để dùng trong việc cai
trị, ngài đặt thêm một bực học bổ túc cao hơn bực học thực tiễn ấy để dự bị
học sinh đi tới bực Trung học. Ngài lại còn đi xa hơn nữa: muốn cắt đứt hết
sự oán trách của các nhà trí thức thượng lưu cho rằng chính phủ không muốn
“khai hóa” dân Việt Nam, ngài sáng lập ra Đông Dương cao đẳng học đường; đây
là trường Cao đẳng đầu tiên ở xứ ta, tuy không mở được lâu nhưng cũng thỏa
mãn được nguyện vọng của người Việt Nam. Không những chỉ có loạt thanh niên
theo học nó mà cả đến những nhà cựu học nữa cũng nhiệt liệt hoan nghênh nó…
Tôi còn nhớ tất cả cái sung sướng cái hăng hái nhiệt thành của tôi lúc tôi
cùng các bạn tôi đến biên tên vào sổ những sinh viên theo học trường Cao đẳng
ấy…”(Phạm Quỳnh – bài “L’Evolution annamite” in ở sách Nouveaux essais
franco-annamites – Bùi Huy Tín xuất bản - 1938). Trường Cao đẳng ấy mở
được ít lâu thì đóng cửa. Sau đến khi ông Sarraut sang làm toàn quyền mới lại
nối chí ông Bean mở lại trường Cao đẳng và khuyếch trương việc học thêm ra.
[2]
Jean Casson: Cervantès – E.S.I. 1936.
[3]
Về điểm này ông Đào Duy Anh cũng có biện hộ cho Kiều như sau đây: “… Khi hai
người Kim Trọng và Thúy Kiều gặp gỡ ở vườn Thúy, thái độ Thúy Kiều tuy là
phong tình mà tránh được điều cẩu hợp thì dẫu là nhà nho thủ cựu cũng khó
buộc tội mối tình qui kết về hôn nhân ấy”. (Khảo luận về Kim Vân Kiều.
Trang 94). Ông Đào cũng đứng ở quan niệm tư sản mà bênh vực Kiều vậy. Nếu
đứng ở quan niệm nhà nho (nhà nho thôi chứ đừng nói đến nhà nho thủ cựu) nếu
ông tin thành thực rằng “nam nữ thụ thụ bất thân”, nếu ông tin thành thực
rằng về hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy”, nếu ông tin như một nhà
nho rằng luân lý gia đình nghiệt ngã, không công nhận sự phát triển của ái
tình, nếu ông tin thế thì ông sẽ thấy rằng nội một điều người con gái của
Vương viên ngoại đêm hôm một mình lẻn sang nhà một người con trai, uống rượu
gảy đàn thề thốt đính hôn với nhau cũng đủ cho nhà nho buộc tội rồi. Cứ phải
cẩu hợp mới là trái với luân lý nhà nho hay sao? Cũng trong sách của ông,
trang 101, phê bình Kim Trọng, ông đã viết: “Ta đừng lấy tâm lý người đời nay
mà xét người đời xưa”. Vậy mà ông đã phạm vào điều cấm kỵ ấy.
|
Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012
Văn chương Truyện Kiều (2)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bài viết rất hay, nhưng dài quá
Trả lờiXóa