CHƯƠNG 3 : TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 1930 - 1945
V.
KẾT
LUẬN
I. HOÀN CẢNH RA
ÐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN
|
Từ năm 1932-1945, Tự Lực Văn Ðoàn chiếm ưu thế tuyệt
đối trên văn đàn công khai, sách báo của họ in đẹp nhất, bán chạy nhất, có một
ảnh hưởng nhất định trong giới trí thức tư sản và tiểu tư sản thành thị.
"Tự Lực Văn Ðoàn chính thức thành lập năm 1933,
gồm có Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khải Hưng (Trần Khánh Giư). Hoàng Ðạo
(Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mở (Hồ Trọng Hiếu), Thế
Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em Khải Hưng)" (theo
tài liệu của Trương Chính). Còn có một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với Văn
Ðoàn này đó là Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Ðoàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận
của Văn Ðoàn là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ
Ngày nay thay thế.
Sách Tự Lực Văn Ðoàn in đẹp. Phần lớn in ở nhà in
Trung Bắc Tân văn, bấy giờ có Ðỗ Văn học nghề in ở Pháp về phụ trách. Sau, họ
mở nhà in riêng, nhà in Ðời nay. Bìa, tranh minh hoạ đều nhờ những họa sỹ nổi
tiếng trông coi: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân. Có thể nói trong các nhà xuất bản
thời bấy giờ, Nam Ký, Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực, Minh Phượng, Lê Cường, Tân
Việt...chẳng nhà in nào tranh dành được với họ.
Khi ra đời, Tự Lực Văn Ðoàn có đề ra tôn chỉ mục đích
rõ ràng: "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến
bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng
tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Ðem phương
pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam"
Sau khi những phong trào Cách mạng Yên Bái vào đêm
mồng 9 tháng 2 năm 1930 do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Ðức Chính bị thất bại, một
không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không
còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát ly trong những
tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy.
Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra những nhân vật điển hình như Tố Tâm, Ðạm
Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông Ðông Hồ, người chết chồng, kẻ chết vợ, họ
khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu vào tình yêu
để rồi phô diễn thành vần thành điệu.
Tự Lực Văn Ðoàn đề ra mục đích tôn chỉ "lúc nào
cũng trẻ, yêu đời" là muốn phá tan cái không khí u uất, sầu thảm kia.
Trong hoàn cảnh xã hội thời Pháp thuộc, cái nhân văn tiểu tư sản đó tiến bộ
nhiều hơn so với cái nhân văn cổ hủ, hẹp hòi thời Phong kiến. Trong tiểu thuyết
Tự Lực Văn Ðoàn thanh niên chưa dám đứng lên cứu nước, đang tìm mọi cách thoát
ly thực tế đời sống. Vui, cũng để mà quên. Ðối với họ than vãn là lạc hậu, nói
như Nhất Linh trong lời tựa cuốn "Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng.
Tâm hồn họ "Phản phất vui lẫn buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm
mưa thưa". Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
II. QUAN NIỆM VỀ
CÁI TÔI TRONG TỰ LỰC VĂN ÐOÀN
|
Như trên đã trình bày, văn học lãng mạn 1930-1945 khác
văn học lãng mạn trước đó, là do sự tư sản hóa của ý thức và sự âu hóa của thẩm
mỹ đã đến độ cao.
Trước 1930, người ta cũng đã muốn được hưởng tự do tư
sản, nhưng còn vướng mắc đạo đức Phong kiến nên chủ nghĩa cá nhân đành khuất
phục giáo lý Khổng-Mạnh. Thời phong kiến cái tôi" hầu như bị giam cầm, bị
kìm hãm, bị toả chiết và có lúc như bị giết chết. Con người không tự chủ được
mình, luôn lệ thuộc vào những triết lý hà khắc. Tư tưởng chính thống của chế độ
Phong kiến đã giết chết "cái tôi" của từng con người, cũng là giết
chết cái chủ nghĩa cá nhân. Sau năm 1930, chủ nghĩa cá nhân tư sản xuất hiện ở
Việt Nam. Ðây là một loại chủ nghĩa cá nhân mang tính nhân bản trong buổi đầu
phát triển của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Nên nhớ rằng vào thời kì sau năm
1930 chủ nghĩa cá nhân tư sản là một bước tiến bộ trong quá trình con người
dành quyền sống. Xã hội Phong kiến Việt Nam chưa hề có quan niệm về cá nhân-
cái tôi". Không có cá nhân, chỉ có gia đình, quốc gia. Cá nhân và hạnh
phúc cá nhân, bản sắc cá nhân chìm hẳn trong gia đình trong quốc gia, "như
giọt nước trong biển cả". Một sinh viên trong trường Cao đẳng đọc hết sách
Tây như Ðạm Thủy, mà không dám chống lại những tập tục cũ, yêu Tố Tâm nhưng bị
ràng buộc bởi lời hứa hôn của gia đình, không tìm được cách nào giải thoát cho
mình và cho Tố Tâm. Bà mẹ Tố Tâm buộc nàng phải lấy một cậu B nào đó môn đăng
hộ đối. Không những thế, Ðạm Thủy không có một phản ứng nào đáng kể. Anh ta vẫn
cho tình gia quyến là "tối thiêng liêng". Anh ta phục tùng gia đình
một cách vô điều kiện. Cho là "bổn phận" là "danh dự".
Chúng ta không bênh vực những cá nhân ích kỷ, hèn
nhát, trốn tránh trách nhiệm đối với gia đình, đối với xã hội, nhưng chúng ta
cũng không tán thành những ai cứ nghe nói đến"chủ nghĩa cá nhân"
tưởng là cái gì tồi tệ nhất. Xuân Diệu khi bàn về văn học lãng mạn, cũng nói:
"trong nền văn học của các dân tộc, nằm chung trong lịch sử văn hóa nhân
loại. Khi cái tôi" bắt đầu có ý thức là có mình thì theo tôi khái niệm có
phần cũng tương tự như khi một em thiếu niên, đồng thời với sự dậy thì, thời
trong tâm tình em ấy cũng từ trạng thái hồn nhiên vô tâm, chuyển sang tự giác,
tự ý thức, tự biết là "mình đây" có một sự phấn chấn nhạy cảm, ham
sống, yêu đời..." (tìm hiểu Tản Ðà).
Bởi vậy khi cá nhân đòi hỏi quyền sống, đòi quyền được
phát triển nhân cách, khả năng của mình, đấu tranh cho quyền được yêu, chọn
người xứng đáng để chung sống suốt đời thì không thể gọi là chủ nghĩa cá nhân
tư sản hưởng lạc, cho là "xa rời với truyền thống dân tộc" được.
III. NHỮNG NỘI DUNG
CHÍNH CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN
|
1. Tinh thần chống lề giáo phong kiến, đòi quyền tự do
yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân
Tác phẩn Tự Lực Văn Ðoàn đều chĩa mũi nhọn đã kích lễ
giáo Phong kiến và nếp sống đại gia đình Phong kiến: "Nửa chừng
xuân", "Ðoạn tuyệt", "Lạnh lùng", "Ðôi bạn",
"Gia đình", "Thoát ly", "Thừa tự"... Họ hô hào
giải phóng phụ nữ khỏi cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng, cảnh thủ tiết
của những người đàn bà trẻ góa bụa. Họ đòi cho nam nữ có quyền được hưởng hạnh
phúc riêng.
Chống lễ giáo Phong kiến, đòi hạnh phúc lứa đôi và
quyền sống con người là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu trong văn học việt
Nam: "Sơ kính tân trang" (của Phạm Thái); thơ Hồ Xuân Hương;
"Truyện Phan Trần" (truyện Nôm khuyết danh); "Truyện Kiều"
(Nguyễn Du)... ở mức độ khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo thứ lễ giáo khắc
nhiệt đó. Cái chết của Tố Tâm (tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách) nói về
khách quan cũng là một thái độ phản ứng chống lễ giáo Phong kiến. Tiểu thuyết
Tự Lực Văn Ðoàn tiếp tục truyền thống ấy của văn học dân tộc trong hoàn cảnh xã
hội thuộc địa nửa Phong kiếnViệt Nam ở thành thị đang trên đà Âu hóa.
a/ Chống lễ giáo Phong kiến
Ơí Việt Nam lễ giáo Phong kiến đã ngự trị lên đời sống
xã hội hàng ngàn năm với biết bao những kỷ cương hà khắc để làm một cuộc
"Cách mạng" xóa bỏ cái cũ, hàng loạt tác phẩm Tự Lực Văn Ðoàn đã chĩa
mũi nhọn đả kích vào lễ giáo của đại gia đình phong kiến. Những nhà văn có công
lớn nhất trong việc này phải kể tới Nhất Linh và Khái Hưng.
Qua tác phẩm "Nửa chừng xuân" (Khái Hưng)
nhà văn đã xây dựng được nhân vật Mai đương diện đấu tranh với lễ giáo Phong
kiến. Lễ giáo Phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc của mình.
Nhân vật Mai trong truyện là một nạn nhân, một nạn
nhân đau khổ và tự trọng, chỉ biết đem cái chính nghĩa, cái thanh cao của mình
ra mà chống đỡ.
Sở dĩ tác phẩm là một trận đánh vào giáo lý và tập tục
Phong kiến, là vì nó làm cho người ta ghét bà Aïn, nhân vật đại diện cho thế
lực Phong kiến, mà người ta yêu Mai- hiện thân của tình yêu thanh sạch, chung
thủy. "Nửa chừng xuân" đã làm cho người ta khóc than Mai nhiều kể cả
khi nó được diễn thành kịch trên sân khấu.
Xây dựng nhân vật Mai, Khái Hưng muốn xây dựng một
nhân vật lý tưởng, một tình yêu lý tưởng; Mai dẫu đã có con với Lộc, dẫu vẫn
thiết tha yêu Lộc, dẫu đã được bà Aïn yêu cầu về chung sống với Lộc, nhưng Mai
không trở về. Với lòng tự trọng Mai không thể về làm vợ lẽ Lộc được. Thái độ
của Mai là một khía cạnh chống chế độ đa thê và là một cách bảo vệ tình yêu lý
tưởng.
Khái Hưng chưa thực sự mài ngòi bút cho sắc để chống
lại bà Aïn. Tác giả chỉ muốn xây dựng một "mệnh phụ" có đầu óc đầy
quan niệm cũ chỉ vì con mà phải già tay giằng buộc. Nhưng cái hiện thực mà tác
phẩm phản ánh còn mạnh hơn ý muốn của tác giả: chỉ cái thủ đoạn gởi thư tình
giả mạo, chỉ cái í định tìm cho Lộc một người vợ ở nơi quyền quý có lợi cho
việc tiến thân của Lộc về sau cũng đủ nói lên cái bản chất của bà Aïn - bản
chất của một con người quỷ quyệt. Ðối với hạnh phúc của Lộc-Mai, bà Aïn là một
kẻ phá hoại. Những bà mẹ có lòng nhân hậu không làm như bà Aïn được; tác dụng
khách quan của nhân vật là ở đó. Ðược như thế không phải tác giả đã nhìn thấu
suốt nhân vật phong kiến đã lột trần được cái bản chất phong kiến của bà Aïn
đâu. Chính là nhờ ý nghĩa của một số chi tiết hiện thực, mà cũng là nhờ sức lôi
cuốn của nhân vật Mai nữa.
Hai lần Mai trực tiếp đấu lý với bà Aïn ích kỷ xảo
quyệt và cả hai lần Mai luôn cho bà bẽ mặt dồn bà Aïn đến chổ đuối lý. Trong xã
hội thực dân Phong kiến lúc bấy giờ, chúng ta tìm được một cô gái như Mai không
phải nhiều lắm. Song cũng không phải là không có. Mai không hẳn giống các cô
gái thị thành. Mai có cái mạnh dạn táo bạo của một "cô gái tân thời"
nhưng cũng có cái dịu dàng, nết na, chân chất của một cô gái thôn quê. Những
đức tính của mai gần với đạo đức nhân dân. Cái tôi" của chủ nghĩa cá nhân
thời kỳ đầu mới ra đời đã mang lại được tính nhân bản của nó.
Nhân danh chống lễ giáo phong kiến, tiểu thuyết Tự Lực
Văn Ðoàn ở thời kỳ đầu được phát triển cả về hình thức và nội dung.
"Ðoạn tuyệt" của Nhất Linh là cuốn tiểu
thuyết tặng những thanh niên nam nữ đang đau khổ vì cuộc xung đột mới- cũ như
lời tác giả viết trên đầu sách.
Nhất Linh muốn chứng tỏ rằng tình yêu cùng chí hướng
đều bị đại gia đình Phong kiến kìm hãm, chỉ có một lối thoát là đoạn tuyệt với
đại gia đình Phong kiến. Truyện lấy tên là "Ðoạn tuyệt" vì thế.
Trong cách xây dựng truyện, ta nhận thấy cái khó khăn
này: bị ràng buộc trong cái xã hội cũ, Loan không bao giờ thoát khỏi cảnh làm
dâu nhà bà Phán Lợi. Loan mà thoát được là do một sự tình cờ, một vụ ngộ sát
đưa đến một vụ xét xử. Tác giả phải mượn đến trường hợp ngẫu nhiên ấy để
mở đường cho Loan.
Câu chuyện Nhất Linh viết khá cảm động. Loan thông
minh biết điều, yêu sâu sắc, tha thiết tự do, tự lập. Nàng bị ép lấy Thân.
Người chồng quá lạc hậu, không hiểu vợ; mẹ chồng ác nhiệt, hành hạ con dâu, em
chồng xúi dục mẹ thêm. Cả một đại gia đình chống lại những ý nguyện tốt đẹp
nhất của Loan. Ngày lại ngày, một chuỗi đau khổ đến với Loan. Loan có lúc đã
nghĩ rằng thà đi hoạt động phiêu lưu như Dũng, người yêu của nàng, "nếu có
gặp cái chết chăng nữa, cái chết cũng không đáng thương bằng cái chết dần chết
mòn". Cả tác phẩm là một bản cáo trạng. Loan tiêu biểu cho "cái
mới". Người đọc theo dõi Loan, thương mến Loan, vui mừng khi thấy Loan ra
tòa được tha trắng án. (cái mới đã thắng). Giá trị đương thời của tiều thuyết
là ở đó.
Ðối với phong tục tập quán cổ hủ, những cảm tưởng chua
chát, những mẩu đời thực, những tấn kịch xảy ra giữa Loan và Thân, giữa Loan và
bà Phán Lợi, có tác dụng phê phán mạnh. Chẳng hạn bị cha mẹ ép gả cho Thân, khi
lợn quay nhà trai dẩn lễ, Loan đã đem chia cho bà con họ hàng, Loan ngẫm nghĩ
"thịt quay mình đây. Bây giờ cứ ở mỗi nhà quen trong mâm tất có món thịt
quay. Mỗi nhà một miếng thế là đối với cái xã hội nhỏ này mình đã nghiễm nhiên
là vợ thân, là con dâu bà Phán Lợi. Ðố chạy đâu thoát".
Quả vậy, "việc nhân duyên của nàng chỉ là việc
mua bán. Trước kia cha mẹ Loan giao ước cho nàng làm vợ Thân là đã làm một việc
bán linh hồn của con mình, nay cha mẹ bắt nàng làm vợ Thân là đã bán xác thịt
của nàng, bán nàng vì một số tiền ba ngàn bạc".
Tưởng rằng, Loan chấp nhận sự đời éo le nhưng Loan đã
đấu tranh quyết liệt Loan đã thắng lễ giáo phong kiến trở về được với Dũng-
người yêu cũ của Loan. "Ðoạn tuyệt" ra đời báo chí lúc bấy giờ hoan
nghênh. Nếu như cách đó mười năm "Tố Tâm" của Hoàng Ngọc Phách, gia
đình còn có một sức mạnh thiêng liêng, khiến Ðạm Thuỷ và Tố Tâm phải thừa nhận
thì "Ðoạn tuyệt" chế độ gia đình hà khắc bị lên án kịch liệt. Vì sau
mười năm làn gió mát " Âu hóa" đã tràn vào Việt Nam, cái "tôi"
của chủ nghĩa cá nhân đã tự khẳng định được mình.
Cái thế giới tâm tư của cá nhân từ xưa ít được khám
phá. Cá nhân không được đếm xỉa đến, nên người cầm bút e ngại bộc lộ những nổi
niềm riêng. Với văn học lãng mạn, cá nhân là đề tài chủ yếu. Dưới hình thức này
hay hình thức khác, các nhà văn chăm chú biểu hiện cái tôi". Cái tôi của
họ còn được giành cho họ và cho độc giả nhiều điều mới mẻ.
Cũng là một hình thức chống lại lễ giáo Phong kiến
nhưng tác phẩm "Gia đình" của Khái Hưng lại biểu hiện ở một khía cạnh
khác. Những cái thối nát của đại gia đình, những cái thối nát trong quan
trường, đó là cái phần hiện thực trong tác phẩm của Khái Hưng. Tá giả
muốn chứng tỏ rằng khuất phục đại gia đình, dấn thân vào quan trường (mà đi làm
quan trường cũng là vì đại gia đình phong kiến). An là nhân vật chính của
"Gia đình". Anh cảm thấy đời mình trống rỗng vô vị "chàng không
còn tin ở cái quan niệm sự sống và cách bày trí tương lai của chàng. Và chàng
cảm thấy sự trống rổng vô vị dần dần lấn sâu mãi linh hồn. Hôm nay cũng như hôm
trước đây, chàng vác súng đi săn là để cố lấp kín sự trống rỗng đó.
An lấy vợ, "lấy vợ không phải vì chàng mà chỉ vì
gia đình, vì tổ tiên, vì những người chết..."
An đi học thêm ở trường luật rồi ra làm quan vì mẹ vợ
(bà Aïn Báo), vì anh rể (Huyện Viết), vì em vợ, vì vơ, vì những ghen tị khích
bác trong đại gia đình.
Một lần nữa đại gia đình tấn công An. Những tấn bi hài
kịch mà tác giả miêu tả có một ý nghĩa đã phá rõ rệt.
Còn vấn đề quan trường? Hãy nghe mấy lời An tự nhủ:
"ta phải bình tĩnh sau được! thời nay hai chữ "quan trường" đã
trở nên cái ý nghĩa ghê sợ, huyền bí. Ðến nay, ta cũng rùng mình mỗi khi ta
nghe kể những câu chuyện về quan trường, những công trình tàn ác của một vài
viên tri huyện, tri phủ bất lương mà mục đích làm quan là để bóc lột dân quê
ngu dại. Ta biết thế mà ta còn đâm đầu vào !... chẳng qua chỉ tại vợ ta, chú ta
và cậu ta, chỉ tại gia đình ta cả !".
An vô cùng khổ sở trong cảnh làm quan của mình, đến
nổi có lúc phải thốt lên: "Làm quan ! trời ơi, sao tôi lại làm quan
!".
Viết "Gia đình" thái độ của tác giả thù ghét
đại gia đình, thái độ đã kích của tác giả đối với quan trường và thái độ mến
chuộng của tác giả đối với cuộc sống của địa chủ "văn minh" và
"nhân đạo" đã rõ.
Những nhân vật đại diện cho lễ giáo phong kiến là đối
tượng phê phán của tác phẩm "Nửa chừng xuân" Khái Hưng làm cho người
đọc công phẩn với bà Aïn-hiện thân của quan niệm "môn đăng hậu đối".
Tuy bà rất thương con, có khi biết ăn năn về hành động của mình nhưng những
hành động tàn nhẫn, những thủ đoạn toan tính bỉ ổi đã làm cho người đọc không
những căm ghét bà Aïn cụ thể mà còn căm ghét cả một nền luân lý lễ giáo phong
kiến. Bà Aïn Báo trong "Gia đình" là một người hám danh vị đánh mất
cả lương tâm và bổn phận làm mẹ.
Viết được các tác phẩm trên , các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn
có ý thức dương cao lá cờ nhân đạo chủ nghĩa, mang đến cho chủ nghĩa cá nhân
một màu sắc hấp dẫn của chính nghĩa.
b/ Ðề cao hạnh phúc cá nhân
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đòi quyền tự do yêu đương
cho thanh niên. Các nhà văn đã tự đưa ra một quan niệm mới mẻ về hạnh phúc cá
nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con người.
_Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là muôn
hình vạn trạng. Có tình yêu "bất vong bất diệt" của Lan và Ngọc dưới
bóng từ bi phật tổ (hồn bướm mơ tiên) - Khái Hưng. Ðây là cuốn tiểu thuyết đầu
tiên của Tự Lực Văn Ðoàn. Nó được thanh niên thành thị đón chào như một người
bạn chờ đợi từ lâu. Nó nâng ái tình lên một triết lý, miêu tả tỉ mỉ những băn
khoăn của lòng yêu.
Ðề tài của cuốn tiểu thuyết lấy trong cuộc sống của
tiểu tư sản thành thị: Ngọc là sinh viên Trường Cao Ðẳng Canh Nông, đọc tiểu
thuyết Pháp và biết hội họa. Lan là một cô gái có học, không "quê
mùa" chút nào, bỏ nhà đi tu vì chẳng muốn lấy một người chồng bị ép buộc.
Ngọc gặp chú Tiểu Lan dưới chùa Long Giáng, kiều diễm
dưới bộ áo tu hành. Ngọc ngờ lan là gái, để tâm theo dõi. Càng thấy mình đoàn
trúng, Ngọc càng đem lòng yêu. Lan không khỏi bồi hồi: ái tình nảy nở trong tâm
hồn cô gái đi tu ! lan đấu tranh để khỏi sa ngã. Thái độ muốn dứt khoát, nhưng lòng
vẫn cứ yêu. Ngọc cũng chẳng gạt bỏ được mối tình. Kết cục hai người xa nhau mà
"yêu nhau trong linh hồn trong lý tưởng"... và vẫn có thể gặp nhau.
Câu chuyện chỉ có thế : một chuyện tình "dưới bóng từ bi Phật tổ"
Khái Hưng muốn miêu tả cuộc xung đột giữa ái tình và
tôn giáo. Trong cuộc xung đột hồi hộp và đau đớn ấy, ái tình hẳn phải thắng. Dù
không thắng hẳn, nhưng cũng là thắng. Aïi tình thắng vì ái tình là "bản
tính con người ", chỉ có ái tình mới đem lại hạnh phúc.
Viết "hồn bướm mơ tiên", Khái Hưng đã đề cao
ái tình trong trắng, cao thượng, tránh những dục vọng thường tình. Ngọc yêu
Lan, một tình yêu chung thủỷ: :"tôi xin viện Phật tổ, tôi thề với Lan rằng
suốt một đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái tâm hồn dịu dàng
của Lan". Chúng ta hãy biết rằng, bất cứ bao giờ, đối với một tình yêu
chân chính, lòng chung thủy vẫn là tốt đẹp và cảm động. Nhưng phải chăng ở đời
ái tình là trên hết ! Phải chăng suốt đời, người ta chỉ nên sống trong cái thế
giới mộng ảo của ái tình dù là cái ái tình lý tưởng, ái tình "bất vong bất
diệt" như lời văn vẻ của Ngọc.
Thanh niên hồi bấygiờ, tuy đã lấy ái tình làm lẽ sống,
nhưng chưa đến nổi trụy lạc, trác táng, cái lãng mạng của họ có chất mộng ảo,
không tưởng nhiều. Cố nhiên cái mộng ảo của thanh niên mất nước chỉ có lợi cho
bọn cướp nước.
"Hồn bướm mơ tiên" ca tụng ái tình, ái tình
trong sạch, chung thủy, ấy là dạo lên một khúc nhạc được thanh niên mong chờ và
một lý tưởng cao cả bao trùm nhân loại và vũ trụ, mà lại không loại trừ tình
yêu hẳn là được bạn trẻ vồ vập lấy. Sách không hề đả kích Phật giáo, có chỗø
hầu như đề cao, thì bọn thống trị chẳng cần ngăn cấm.
_ Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có tình
"trong giây phút mà thành thiên thu" như Loan và Dũng trong
"Ðoạn tuyệt".
Dũng bất mãn về hoàn cảnh gia đình, yêu mà không lấy
được Loan, dọn đi ở một căn nhà tồi tàn ở xóm lao động hẻo lánh. Người ta có
gặp Dũng dăm ba lần: lần Dũng bị tai nạn ô tô trong rừng, tình cờ gặp xe Loan
một lần trong dịp tết,một lần Dũng ngồi trên khoan thuyền bùi ngùi nhớ tới
Loan, một lần Dũng đứng lẫn trong đám công chúng dự phiên tòa và lần cuối cùng
Dũng lại gặp Loan tại nhà chị giáo Thảo, hai người hiểu rõ lòng nhau rồi gắn bó
với nhau như sở nguyện.
Viết "Ðoạn tuyệt" Nhất Linh đề cao tình yêu
lứa đôi, đó là tình cảm tự giác, tự nguyện đến với nhau dù chỉ là giây phút
ngắn ngủi nhưng trong trắng và thủy chung.
_Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, có tình
yêu mộc mạc thuỷ chung của Liên trong "Gánh hàng hoa" của Nhất Linh
và Khái Hưng.
Liên là một cô gái thùy mị, nết na, chăm chỉ làm lụng,
giàu lòng vị tha và đức hy sinh. Liên đã kéo chồng tội lỗi ra khỏi vòng trụy
lạc, sa đọa trở về với tình yêu chân chính. Liên biết trân trọng và gìn giữ
hạnh phúc lứa đôi của mình.
Viết về tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn,
các nhà văn đã đề cao tình cảm trong sáng thủy chung của những chàng trai
cô gái. Tình yêu của họ phải vượt qua bao nhiêu những ràng buộc, khắc khe nhưng
họ luôn đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Ðó chính là điểm tiến bộ của tiểu
thuyết Tự Lực Văn Ðoàn.
Song bên cạnh những mối tình cao đẹp, thủy chung thì
cũng có những tình yêu "không còn có cái gì gọi là thiên liêng nữa".
Ðó là tình yêu lén lút, vụng trộm của Nhung trong
"Lạnh lùng" của Nhất Linh. Tình yêu bông lông tài tử của Nam
"Ðẹp" của Khái Hưng. Khái Hưng muốn miêu tả một tâm hồn nghệ sĩ: nghệ
sĩ tôn thờ cái "Ðẹp" chỉ vì nó là đẹp và thực hiện cả cái triết lý ấy
trong đời sống của mình "Vẽ để mà vẽ .Ðó là nguyên tắc của chành về hội
họa. Ðược vẽ là đủ rồi, là sung sướng rồi, chàng không cần phải hỏi và phải
biết: vẽ để làm gì ? .Một bức tranh chỉ có giá trị khi mình còn đương vẽ, vẽ
xong nó là cái khung vải bôi sơn".
Trong tình yêu, Nam cũng có những quan niệm khác
người: hoặc lấy vợ và thôi vẽ, hoặc vẽ tranh và đừng lấy vợ. Trong
"Ðẹp" tâm trí của Nam là một tâm trí chẳng lành mạnh. Ðiều đó cũng
thể hiện đúng cái thế giới quan của các nhà văn lãng mạn ở thời kỳ cuối. Tầm
mắt của văn học lãng mạn chẳng phóng xa nữa, nhà văn càng lui vào thế giới bên
trong, xa hẳn thực tại xã hội. Với họ, phong trào quần chúng và cuộc đấu tranh
về nghệ thuật đã là chuyện cũ rồi. Ðời sống của dân nghèo thành thị và thôn quê
chẳng lưu ý họ nữa. Chẳng còn những băn khoăn, thấp thỏm, ít nhiều dính liúu
đến thời đại đến dân tộc ! Tất cả nhân sinh, tất cả xã hội chỉ thu hình trong
Cái Tôi" bé nhỏ ốm yếu. Ðề tài eo hẹp lại, chủ đề quanh co đi, nội dung
bắt đầu đã thấy khó khăn bế tắc.
Nếu cuốn "Tối tăm" của Nhất Linh đã vạch cái
vô nghĩa của xu hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, thì truyện "Ðẹp" của
Khái Hưng ra đời sau, lại điểm tô cho xu hướng ấy. Nếu Hoàng Ðạo đã tìm
"Con đường sáng", nếu Nhất Linh đã tạo "Ðôi bạn" thoát li
gia đình để làm Cách mạng (dù là cách mạng để mua cái quên) thì chính Nhất Linh
lại viết "Bướm trắng" chuyên tả một thanh niên xa đoạ.
Nam ít ra còn hâm mộ cái đẹp, cái đẹp hình
thức, phần nào cái đẹp tinh thần. Trương của Nhất Linh trong "Bướm
trắng" thì độc đáo đến thành quái gở. Nhân vật khác thường này đã tụt
xuống hố sâu nhơ bẩn.
Trương yêu Thu "Trương nghĩ lại mới thấy tình
chàng yêu Thu không có một lí nhẽ gì sâu xa, một căn bản gì chắc chắn cả. Chỉ
là một ảo tưởng gây nên một vài sự rủi ro; lần đầu trông thấy Thu là Thu đẹp
não nùng trong bộ áo tang ... Thu lại có vẽ đẹp giống Liên, người mà trước kia
chàng đã yêu...".
Ơí tù ra chàng hy vọng Thu vẫn yêu chàng và chàng tính
toán như sau "... giờ chỉ còn một cách là rủ Thu đi trốn. Phải đấy, không
xong thì ta sẽ về làng lấy Nhan". Trương đã thay người yêu như thay áo và
Trương luôn luôn có ý muốn lạ lùng "làm cho nhân phẩm mình mất dần
đi". Trương đặt tình yêu lên trên cả dư luận xã hội, trên cả nhân phẩm:
" yêu nhau đến không cần gì cả, không kể đến cha mẹ, đến xã hội. Chẳng
biết Thu có là người yêu đến bậc ấy không. Mình thụt két mà Thu yêu mới là yêu.
Nhân vật Cảnh trong "Thanh đức" cũng giống
Trương, hai nhânvật này bổ sung cho nhau để hoàn thiện bản chất thô bạo, đểu
cáng một cách trắng trợn. Cảnh thay đổi tình nhân như thay đổi áo sơ mi. Hắn
dùng vũ lực, dùng tiền bạc để chiếm đoạt tình nhân của bạn. Ðối với hắn ở trên đời
này "không còn cái gì đáng gọi là thiên liêng nữa, nếu ta muốn dành chữ
thiên liêng cho một cái gì".
Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đi từ lãng
mạn đến suy đồi là một hiện tượng có tính quy luật và dễ hiểu.
Từ những nhân vật tích cực như Mai, Loan, từ những
tình cảm tốt đẹp Ngọc, Loan, Liên, tác giả mau chóng chuyển sang những nhân vật
do dự, giỏi chịu đựng hơn là ít đấu tranh như Hồng, Nhung ... vấn đề chống lễ
giáo phong kiến chỉ một vài năm sau lùi dần vào dĩ vãng. Và cuộc đấu tranh bằng
văn hóa chống phong kiến chỉ xảy ra trong phạm vi lễ giáo. Ðối với chế độ chiếm
hữu ruộng đất cái gốc của lễ giáo phong kiến tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn không
đề cập đến. Tiểu thyết Tự Lực văn Ðoàn chỉ chống đối với bộ phận hủ bại nhất
của giai cấp phong kiến ngăn trở hạnh phúc cá nhân.
Về văn học lãng mạn, Ðặng Thai Mai nhận định:
"Phần đông các nhà văn vẫn sung sướng ẩn nấp sau cái biểu ngữ "không
làm chính trị" để lao đầu vào con đường "tự do chủ nghĩa" và ca
ngợi tự do ái tình, tự do cá nhân và chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất cả cống
hiến của văn chương thời này là những tìm tòi về kỹ thuật biểu hiện và những cố
gắng để phân tích tâm lý của con người tiểu tư sản" (nghiên cứu văn học số
1-1960)
2. Xu hướng bình dân:
Thời kỳ mặt trận dân chủ do Ðảng công khai lãnh đạo.
Trên văn đàn công khai, văn học lãng mạn không còn ưu thế nữa. Nó không phù hợp
với thực tế xã hội sôi nổi với quần chúng lao động đấu tranh, với tâm lý độc
giả ít nhiều đổi thay. Nhưng nó vẫn còn ít nhiều độc giả tư sản và tiểu tư sản thành
thị, do đó những tac phẩm lãng mạn vẫn kế tiếp nhau ra đời.
Mặt khác, cho khỏi lạc lõng, văn học lãng mạn chạy
theo phong trào bình dân: nó gượng thích nghi với hoàn cảnh mới để dễ tồn tại.
Tự Lực Văn Ðoàn dù muốn "tự lực" đến thế nào
cũng chịu sức tác động của Mặt trận dân chủ. Họ phải khuôn theo sự chuyển hướng
trong công chúng. Họ thêm mục "Bùn lầy nước đọng" chuyên viết về dân
quê. Năm 1939, Hoàng Ðạo, tác giả cuốn "Con đường sáng", công bố
"10 điều tâm niệm" bàn về đạo làm người : con người phải hoàn toàn
theo mới, tin ở sự tiến bộ, sống theo một lý tưởng và làm việc xã hội. Tiểu
thuyết Tự Lực Văn Ðoàn trong thời kỳ này, muốn tỏ ra nặng khuynh hướng xã hội,
băn khoăn đền bình dân. Nói chung gọi là "xu hướng bình dân" của họ
chỉ vươn lên được đến cái mức cải lương xã hội mà thôi.
"Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh, nó đặt lên câu
hỏi: giữa hai vẻ đẹp, vẻ đẹp vị nghệ thuật và vẻ đẹp vị nhân sinh, thì vẻ đẹp
nào đẹp hơn ? và nó giải đáp rằng đẹp vị nhân sinh mới thật là đẹp.
Vốn con nhà nghèo, Doãn vào làm em nuôi bà Thượng,
được sang Pháp du học, thi đỗ cử nhân luật . Nhưng chàng không chịu ra làm
quan, suốt ngày chỉ mải mê vẽ tranh. Dần dầìn Doản đi về nông thôn để vẽ, hóa
ra gần gũi với những nỗi khổ của dân quê, như cảnh khổ cực, tiều tụy của nông
dân hiện ra trước mắt: "mấy mảng bè rau rút màu xanh già, mùa thu rắc hoa
vàng lấm tấm, lại càng tăng vẻ bẩn thỉu của cảnh ao tù..." .Và cảnh :
"một đứa bé con trần truồng đi ra cầu ao bụng to và hai chân lẳng khẳng trông
tựa một con nhái dựng đứïng".
Lòng thương người ở Doản ngày một tăng, Doản không thể
dửng dưng trước cuộc đời. Cuộc đời mải mê hình sắc trước kia đối với Doản thanh
cao biết bao ! nay Doản không dám tự hào về nó. Cuộc đời như thế đã trở thành
vô nghĩa. Không những thế Doãn còn thấy nghệ thuật thuần túy của mình là bước
tường ngăn cách của mình với cuộc sống thực, cũng như cuộc sống giàu sang của
bà mẹ nuôi Doãn là một bức tường ngăn Doãn với người bình dân "Doãn so
sánh túp nhà lụp xụp ở hai bên vệ đường với mái nhà gạch cụ Thượng đỏ tươi lẩn
sau chùm lá hoàng lan".
Cho nên Doãn phải sống một cách khác! Phải sống vì dân
quê, để phục vụ dân quê. Thế là tâm hồn Doản trở về với dân quê, tự nguyện xây
dựng hạnh phúc cho dân quê. Doãn tìm thấy bạn chí tình của mình ở dân quê lầm
than, khác nào Doãn tìm thấy nguồn sống ở cái hình ảnh dịu dàng của người mẹ
đau khổ.
Giữa hai vẻ đẹp, vẻ "đẹp vì đẹp"
của người họa sĩ không biết gì khác ngoài hội họa, với vẻ đẹp của người đem tân
trí hoạt động vì bình dân. Doãn không do dự đã trả lời vẻ đẹp nào là đẹp hơn,
ít ra, Doãn cũng thấy vẻ đẹp sau quả là đáng quý và có thể đem lại hạnh phúc
cho mình.
Chủ đề tác phẩm tốt vì nó mượn ở cuộc đấu tranh tư
tưởng do Ðảng lảnh đạo. Ở đây vẫn là câu chuyện cái "tôi", cái
"tôi" đi tìm hạnh phúc. Không tìm hạnh phúc được ở nghệ thuật thuần
túy thì tìm hạnh phúc ở con đường phục vụ bình dân. Hiện thực khách quan miêu
tả trong tác phẩm chỉ là mấy cảnh nghèo thường thấy ở thôn quê. Tất cả là những
diển biến trong tâm hồn nhân vật. Sự thay đổi chí hướng quá mau, phần nào gượng
ép: một số điều mắt thấy tai nghe, gợi lên những cảm nghĩ cần thiết, dẫn đến sự
đột biến trong tư tưởng! Tâm lí của một thanh niên đi chệch hướng, nay chợt
tỉnh, ù té chạy theo phong trào! Doãn gần gũi người nghèo, vì Doãn vốn là con
nhà lao động. Nhưng Doản đã sống xa nông thôn từ thuở bé, cần phải được tiếp
nhận cái sức nóng hổi của cuộc sống thực, cần được rèn luyện trong thực tế đấu
tranh mới có thể đi tới một chí hướng sâu sắc được. Người ta thấy thiếu cái sức
nóng hổi ấy, thiếu cái cơ sở hiện thực quí giá ấy. Hình tượng ở đây khuôn theo
luận đề, mới minh hoạ được mệnh đề, chứ chưa biến cái luận đề thành một chất
sống.
Hơn nữa, Doãn trở lại với nông dân, mà còn đứng trên
sẳn sàng ban ơn xuống, không để nông dân như "xác còn vờ" chẳng ai
chăm sóc tới. Hẳn Doản nghĩ đó là nhiệm vụ của người tài trí và sẳn tiềún !.
Ðiều dự định của Doản gắn chặt với tình thương mẹ, một người cố nông đau khổ,
nó khiến ta cảm động song nó không khỏi làm ta còn dè dặt.
Sau những suy nghĩ lao lung, Doản mới có một lời tự
hứa, chưa rõ Doản sẽ làm gì. Tác phẩm chấm hết, để lại cho người đọc một mổi
băn khoăn là bởi cái hướng còn mơ hồ quá, chính tác giả cũng chẳng rõ Doãn sẽ
làm gì !.
Doản cũng đến như Duy trong "Con đường sáng"
như Hạc và Bảo trong "Gia đình"
"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết năm
1938. Hoàng Ðạo quan niệm : thanh niên trụy lạc thì đau khổ. Họ phải sống
có lí tưởng. Họ phải thóat con đường tối, con đường trụy lạc, đi tìm "Con
đường sáng" . Con đường sáng ấy là ở cuộc sống phục vụ dân quê. Nó gập
ghềnh khúc khuỷu. Phải kiên trì đi tới mới thành công và có hạnh phúc. Ðó là tư
tưởng chủ đạo của Hoàng Ðạo, tác giả truyện "Con đường sáng", người
đã viết "mười điểu tâm niệm"
Duy một thanh niên có học, con nhà giàu và đã lao vào
con đường trụy lạc. Nhưng Duy sớm nhận ra được sự trống rổng trong cuộc đời. Có
lúc Duy muốn quyên sinh. Duy lo sợ những ngày sắp tới Duy mơ ước một cuộc đời
giản dị, trong sạch. Duy tha thiết sống và tình yêu của thơ khiến cho Duy càng
tha thiết với sự sống hơn.
Gần thơ, gần cuộc sống nơi thôn dã, dần dần Duy đã
nhận thấy : " cái vui ở trong công việc ngày mùa, cái vui trong sạch nó
đợi chàng từ lâu ..." Duy thoáng nghĩ tới "Con đường sáng" :
"những người thợ mạnh khỏe kia đã vô tình đem lại cho chàng một lối sống mới,
một con đường đi đến hạnh phúc".
Muốn rứt bỏ đời trụy lạc, Duy tưởng đến tìm hạnh phúc
ở thôn quê, ở "sự trong sạch ở linh hồn và thể phách" , "Chốn
thôn quê yên tĩnh này sẽ làm cái tổ ấm áp của con chim bấy lâu bay mỏi ở những
rừng xa, xứ lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây"
Quan tâm đến đời sống của nông dân, Duy buồn rầu nhận
thấy những nổi khổ cực của họ. Cảnh "hai đứa bé gầy gò như hai cái que,
bụng ỏng chảy xuống, thò tay vào rá bốc cơm, một thứ cơm bay lên một mùi mốc
như mùi của rơm rác", làm cho chàng phải nghĩ ngợi.
Duy đi tìm lí tưởng, lí tưởng đó là :"làm dịu nổi
đau khổ của nông dân, đưa những người sống tấm thảm kịch kia đến một đời êm
đẹp"
Thế là Thơ và Duy bắt tay vào công việc. Nhưng công
việc to lớn, khó khăn quá :"xung quanh thành kiến mạnh mẽ và kiên cố quá,
sự ngu độn dày đặc quá. Duy có cái cảm tưởng rằng mình chỉ là một con ruồi mắc
trong một cái mạng nhện, vùng vẫy mãi không sao thoát ra được.
Duy thấy cái nguyên nhân của mọi sự đau khổ của nông
dân là ở sự ngu dốt, mà ngu dốt là tại không được học :"Duy nghĩ đến dân
quê, nhớ lại gian phòng sách và vui mừng đã hiểu nguyên nhân giản dị của sự ngu
muội đè lên tâm trí người nghèo khổ.... và Duy đã nhận thấy : "nổi thống
khổ của dân quê chàng trông như một trái núi lớn, sừng sững, bất di bất dịch và
sự ngu muội của dân quê như mây đen bao phủ lấy ngọn không biết tự bao giờ
nhưng dày đặc như đêm tối ... chàng cảm thấy cái yếu đuối, cái hèn mọn của con
người trước trái núi sừng sững ấy...". chính bởi cái xu hướng "bình dân"
của tác phẩm không phải là xu hướng cách mạng, cho nên :"sau một giây mộng
tưởng ngắn ngủi. Duy càng thấy vô vị chua cay của thực tế; ở đây chỉ có chàng
với cái yếu đuối cái hèn mòn ..."
"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết vào thời
kỳ mặt trận dân chủ, giữa lúc quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi của mình,
"Con đường sáng" con đường cải lương tư sản - chỉ đem lại một ảo
tưởng nguy hiểm. Chúng ta mong thanh niên thoát con đường tối nhưng cũng mong
họ đi vào "con đường sáng thực sự "
Cũng như Doãn trong "Hai vẻ đẹp", Duy trong
"Con đường sáng", Bảo, Hạc trong "Gia đình" của Khải Hưng
viết 1936. Khải Hưng đã đối lập cuộc sống được miêu tả như là sự thanh thản,
đầy hạnh phúc của cặp vợ chồng Hạc, Bảo "làm ruộng", với cuộc sống
nhỏ nhen, kình địch về địa vị xã hội của những anh chị em trong một đại gia
đình phong kiến. Hạc đang học "Ðốc tờ", bỏ về ấp cùng với Bảo thực
hiện những công cuộc cải cách ở ấp mình để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
dân quê. Họ tuy vẫn thu tôì nhưng sau khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem
dốc cả vào công việc cải thiện đời sống cho tá điền như phát thuốc, đắp đường,
xây trường học, sân vận động và dựng cả một khu nhà nghỉ mát. Như tất cả những
nhân vật thơ mộng khác của Khái Hưng, Bảo và Hạc đã thành công một cách dễ
dàng. Khái Hưng dựng lên một hình ảnh hạnh phúc của Bảo như sau:
"Bảo ngước nhìn con chim chích chòe đương phưỡn
ngực cất đuôi hót từng nhịp dài. Bảo so sánh cái sung sướng hồn nhiên của mình
với tiếng hót vui vẻ của con chim một buổi sáng xuân êm mát..."
Bảo và Hạc sống thỏa mãn, thanh thản trong công cuộc
từ thiện ấy :"Hạnh phúc của họ tức là hạnh phúc của ta... còn gì sung
sướng bằng trông thấy ở trước mắt những người dân quê mặt mũi sạch sẽ, nô đùa
trò truyện thảnh thơi..."
Các nhân vật trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn cũng có
khi họ nhìn thấy đại gia đình phong kiến đang bóc lột những người dân quê. Thu
cảm thấy: " cốc sâm banh ngon ngọt. Chiếc áo sa tanh bóng nhoáng, chiếc
nhẫn kim cương mà ta tặng cho Liên, những thứ xa hoa ấy là do tá điền của ta,
do mồ hôi của bọn sống lam lũ cầm hơi ấy mà ra cả ..." (Mái nhà tranh) .
Doãn nghĩ : " tiền ăn học của mình, cuôc sống vật chất của ba cô em là của
nông dân súc tích lại" ( Hai vẻ đẹp). Dũng ngậm ngùi nhận xét :
"trong gia đình không có một người làm một việc gì cả mà người nào cũng
sống phong lưu sang trọng" (Ðôi bạn).
Tóm lại trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, trước
cảnh nông dân bị bóc lột tàn tệ, những suy nghĩ nói trên là tiến bộ. Nhưng dù
sao nó cũng chỉ mới là những nhận thức của những trí thức bất tự trọng. Những
nhận thức ấy chưa thóat khỏi quĩ đạo tư sản và những nhận thức ấy không ít
những phức tạp, chính đó là sự phức tạp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Có lúc
thì tỏ ra trân trọng quí mến người nông dân, có lúc lại tỏ ra khinh bỉ miệt thị
người nông dân. Doãn cho rằng : "xã hội dân quê bao giờ cũng nghèo xơ,
nghèo xác như bây giờ. Hai mươi năm trước đây cũng vậy. Hai mươi năm sau nữa
cũng thế này thôi. Không có chút hy vọng gì về một sự đổi thay và kịch liệt như
một trận gió mạnh nổi lên thổi sạch hết bụi cát, rơm rác". (Hai vẻ đẹp)
đối với Dũng thì cho nông dân quen sống với cảnh khổ :"không hề khao khát
một cuộc đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tươi đẹp hơn ngày hôm
nay". (Ðoạn tuyệt). Những nông dân ấy còn là Hai Lẫm bị địa chủ đánh đau
chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên mà vẫn đinh ninh rằng "cụ lớn đánh
con là cụ lớn thương...thế mới biết cụ lớn còn khỏe" (Ðôi bạn). Ðó là
những người nông dân Nhiêu Tích (trong truyện ngắn May quá) Sửu (trong truyện
ngắn hai cảnh Ngoài phố) khờ khạo đến ngớ ngẩn, thật thà đến dại dột. Ðó còn là
Bìm (trong truyện ngắn Hai chị em). "An phận như một con lợn không tư
tưởng... mà đời nàng với những con lợn kia không biết đằng nào gía trị hơn đằng
nào đáng sống hơn"
3. Người "Chiến sĩ cách mạng" :
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn bao giờ cũng muốn thể hiện
vai trò lịch sử của mình. Vai trò của ý thức hệ tư sản Việt nam bao gồm hai
mặt: phản đế và phản phong. Ðến thời kỳ này đối với đế quốc ý thức đó hoặc tìm
cách thỏa hiệp hoặc lẩn dài, chạy trốn. Tính chất thoát li của văn học lãng mạn
thì đã rõ, đủ các nẻo đường như thoát ly vào tình yêu, vào mộng ảo, tiên giới.
Cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống lề giáo phong kiến hoặc ước mơ cải lương tư
sản đều mang tính chất thoát li ấy. Xu hướng ấy Dũng và những người "đồng
chí" của anh hiện lên như Trúc, Thái, Tạo, Xuân, Cận... (Ðôi bạn)
Dũng "Ðoạn tuyệt" được miêu tả như là một
thanh niên "có tâm trạng" sau khi bải khóa bỏ học về nhà, Dũng đau
khổ vì "phải sống trong một cảnh giàu sang không đích đáng" tự cho
mình "không có quyền hưởng và không muốn được hưởng", "Dũng thấy
sự giàu sang của bản thân và của cả nhà như là một cái nhục". Dũng bất mãn
vì mối quan hệ không hợp lý giữa cha mình và những người tá điền. Với tâm trạng
day dứt ấy, Dũng đã ra đi, bỏ lại cuộc sống sung sướng đầy đủ mà những kẻ tầm
thường cho là hạnh phúc, bỏ lại mối tình của Loan. Dũng cùng với Trúc vượt biên
giới sang trung Quốc và định sang cả Liên Xô.
Người cách mạng trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là
tính chất lãng mạn. Ðộng cơ yếu ớt, cái nhìn bi quan, tấm lòng phiền não như ta
đã nhận xét.
Thái đi làm cách mạng vì "không biết làm gì nữa
thì liều lĩnh", vì "chán cả sự đời, không tin ở sự việc của mình
nhưng lúc nào cũng hoạt động để cố vượt khỏi sự buồn nản bao phủ dày đặc quanh
mình"
Tạo bỏ nhà đi hoạt động vì ghét " các bà gì quanh
năm hạch sách, vì chê vợ mình vừa béo, vừa rỗ, vừa đen" họ chạy theo một
thứ hạnh phúc đặc biệt khó kiếm. Ðể thoả mãn thất vọng, họ tìm, tìm mãi. Tìm
mãi chẳng được họ đành mưu cái quên bằng con đường khác thường, cuộc sống mới
lạ. Ðời cách mạng là nơi trú ẩn cá nhân. Ðời cách mạng là một ước mơ huyền ảo:
đến khi thực hiện họ thấy đau khổ và chán nản : "họ đối với nhau chỉ có
một giây liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngã
đường, sống theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạt. Thỉnh thoảng lại nghe tin
một người trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi ai nấy trước số mệnh chỉ việc
cúi đầu yên lặng nơm nớp đến lượt mình". Vốn là sản phẩm của một ý thức hệ
tư sản và tiểu tư sản đương thời bạc nhược đầu hàng, những hoạt động của Dũng
và những đồng chí của anh ta không hơn "một tiếng thở dài chống chế độ
thuộc địa" (Trường Chinh).
Một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam
"muốn hành động để cho đời mình và đời những kẻ khác có thể đẹp đẻ hơn ,
tươi sáng hơn" (Ðôi bạn) thì chỉ có một con đường duy nhất là đánh đổ đế
quốc và phong kiến theo đường lối của Ðảng thì mới hạnh phúc được.
Con đường cách mạng mà giai cấp tư sản đã tự gạt bỏ mình
từ sau khời nghĩa Yên Bái thất bại. Nhìn vào thế giới quan và nhân sinh quan
của các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn thì làm sao làm được cách mạng. Chính vì thế mà
hành động của Dũng và các "đồng chí" của Dũng khá mơ hồ. Họ cũng bí
mật, cũng xuất dương, cũng vuợt ngục. Nhưng mục đích cách mạng thế nào, đối
tượng cách mạng ra sao thì hoàn toàn không biết: "...lần này nhảy ra cũng
là nhảy ra chổ mờ mờ không biết rỏ. Nhưng cần gì, đời là thế, mình có khi cũng
phải liều chơi..." (Ðôi bạn)
Ðây là hành động của một kẻ liều lĩnh, không tin vào
mình không tin vào ngày mai. Họ hoàn toàn bi quan luôn mang một tâm lí thất bại
chán chường. Họ khác xa những người cách mạng chân chính về tâm tư, ý nghĩ và
hành động. Người chiến sĩ cộng sản trong "Từ ấy", trong "Nhật ký
trong tù" theo đuổi một đường lối cách mạng đúng đắn, gắn mình với quần
chúng, họ có một tư thế hiên ngang, một niềm tin sắt đá, một thái độ tự hào,
một tinh thần lạc quan của những người chiến thắng. Tóm lại, những nhân vật
"cách mạng" là những đứa con tinh thần của Tự Lực Văn Ðoàn. Họ cũng
là những con người khí khái, có lòng tự trọng đã để lại trong lòng người đọc
nỗi ngậm ngùi tủi cực của những kẻ chiến bại. Những nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn
mang ý thức hệ tư sản, vốn ốm yếu bạc nhược làm sao tạo dựng được những nhân
vật có sinh khí để chống đế quốc. Ðiều đó là tất yếu.
IV. NGHỆ THUẬT TIỂU
THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN
|
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là sản phẩm ý thức hệ tư
sản Việt Nam những năm 1930- 1945 văn học của ý thức hệ tư sản do yêu cầu phải
biểu hiện những con người của giai cấp nó đòi hỏi phải có một sự đổi mới cả về
nội dung và hình thức nghệ thuật.
Trong Tự Lực Văn Ðoàn nghệ thuật của Nhất Linh vững
vàng nhất. Các nhà văn của nhóm này, học hỏi nhiều ở văn học Tây phương, một
trình độ tương tự nhau, họ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa lãng mạn Tây
phương.
Ðối với cái thực tại xã hội, thái độ của nhà văn lãng
mạn là thái độ chủ quan không phải cuộc sống thế nào thì họ nhận thức thế ấy,
trái lại tác giả nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những
một tưởng của mình. Không lý giải được hiện thực, không thấy rỏ con đường phát
triển của hiện thực, người cầm bút đưa ra những quan điểm trừu tượng, những
giải pháp không tưởng.
Khái Hưng thêu dệt "ái tình bất vong bất
diệt", nói đến "nhân loại" man mác, "vũ trụ" bao la,
hình dung những điền chủ "chỉ sung sướng khi làm cho những người khác sung
sướng". Với Hoàng Ðạo cũng như với Nhất Linh muốn giải phóng cho dân quê
thì chủ yếu phải làm cho dân quê có học. Hai truyện ngắn "Cái tẩy" và
"Bóng người trên sương mù" của Nhất Sinh gợi lòng tin vào thuyết định
mệnh. Ðó chính là những hạn chế về tư tưởng triết học của tiểu thuyết Tự Lực
Văn Ðoàn.
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã có những đóng góp nhất
định về nghệ thuật: cách xây dựng tác phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm
lí, hành văn.
Một đặc sắc của Nhất Linh là đã bằng một nghệ thuật
chắc chắn, hình tượng hóa những luận đề xã hội những quan niệm trừu tượng.
Truyện là truyện sống, ở đó toát lên cái ý nghĩa xã hội, không phải là một cái
gì gó ép lên khuôn, để chứng minh cho một định đề. Nhà văn đã quan sát một cách
tỉ mỉ công phu nhân vật trong tác phẩm "Hai vẻ đẹp" rất sống với tâm
hồn của họ , ngôn ngữ cử chỉ hành vi của họ. Tâm sự của Dũng là tâm sự của Nhất
Linh, vơ chồng chị giáo Thảo, Trúc, Thái , Tạo... những bạn thân của Nhất Linh.
Khi đọc tác phẩm người ta ít cảm thấy cái phần hư cấu, cái phần giả tạo. Cố
nhiên là cái hiện thực có mức độ, có giới hạn, qua con mắt và tâm tưởng của
người trí thức tư sản xuất thân từ gia đình phong kiến. Về điểm này Nhất Linh
cũng giống như Khái Hưng nhưng Nhất Linh vận dụng lý thú hơn, có những ý định
táo bạo hơn. Cho nên cùng với những ưu điểm của Khái Hưng, Nhất Linh còn nâng
cao ý nghĩa xã hội và tác dụng đả phá của tác phẩm lên một mức. Luận đề ở đây
thúc đẩy nghệ thuật thêm sắc bén. Luận đề không gò ép hình tượng; trái lại hình
tượng làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề có máu thịt và sức sống.
Văn của Nhất Ling có nhiều tính chất lí trí nhưng
không khô khan. Ngọn bút vẫn được điều khiển chắc tay; mỗi lời viết ra đều qua
sự kiểm tra thận trọng. Trên trang giấy, dòng tư tưởng chảy từ từ dưới một hình
thức bình dị mà điêu luyện. Không rườm rà chi tiết, không ôm đồm tham lam, bao
giờ cũng hợp lý và sáng sủa. Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: "văn Nhất Linh
nửa giản dị nửa đài điếm" (nhà văn hiện đại) theo Trương Chính: "Lối
hành văn của Nhất Linh là lối hành văn thi vị, thi vị ở ý mà ít ở
lời" (lược thảo văn học lịch sử Việt Nam ). Chúng ta hãy đọc một vài đoạn
văn dưới đây của Nhất Linh: "gió bỗng thổi mạnh hơn. Một chiếc buồm hiện
ra in lên nền trời như cánh một con bướm nâu khổng lồ. Một ít nắng vàng nhạt
rung động trong nếp cánh buồm" (Ðôi bạn)
Ðã từng sống ở thôn quê, Nhất Linh tả tiếng động như
thế này: " ở ngoài vườn tiếng ếch, nhái ran lên từng loạt, thỉnh thoảng có
tiếng chẫu chuộc nghe lõm bõm như tiếng chân rút mạnh của một người lội trong
bùn" (Bướm trắng)
Bày tỏ một cảm tưởng, một phán đoán, tác giả vận dụng
cả thị giác và vị giác, làm cho hình ảnh thêm rõ nét và đậm đà: "nết mặt
thiếu nữ, Trương thấy kiêu hãnh một cách ngây thơ và vẻ kiêu hãnh lại làm cho
sắc đẹp của thiếu nữ có ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ"
(Bướm trắng)
Và đây là nét tinh vi của một tâm hồn lãng mạn, diển
tả bằng một hình ảnh thanh tao. Dũng có người yêu nhưng dấu cả bạn thân :
"Dũng thấy rằng tấm tình yêu của chàng như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời
chỉ riêng đẹp, riêng quí đối với chàng và chính chàng đã chọn nó và không cho
ai biết"
Nhất Linh ngó sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn, trong
tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có sức hấp dẫn mâu thuẫn giữa cá
nhân và gia đình như "Ðoạn tuyệt", "Ðôi bạn"; chí hướng và
hoàn cảnh như "Ðôi bạn" lòng ham sống và bệnh hoạn "Bướm
trắng"; trụy lạc và nhân phẩm như "Bướm trắng"; tinh thần nghệ
sĩ và đầu óc hoạt động "Hai vẻ đẹp". Ðặc biệt cuộc xung đột giữa mới
và cũ, sự đối lập giữa cảnh giàu và cảnh nghèo được tác giả chú trọng miêu tả
với một giọng văn chua chát và ý nhị.
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã loại bỏ lối kết cấu
chương hồi tìm đến với lối kết cấu hiện đại. Ðó là lối kết cấu không theo trật
tự thời gian, không lần lượt nối tiếp nhau. Câu chuyện có thể men theo tâm lý
nhân vật và cũng có thể đột ngột chuyển từ nhân vật này qua nhân vật khác. Tiểu
thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thường kết thúc một cách tự nhiên, có khi ở chỗ đáng hết
nhưng cũng có khi đột ngột dở dang. Tác phẩm đã chấm hết mà hình như câu chuyện
vẫn còn. Kết thúc có thể vui cũng có thể buồn, có khi cả vui lẫn buồn, có khi
không vui không buồn. Khuynh hướng chung của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là
lãng mạn tiêu cực về tư tưởng, cải lương thỏa hiệp về chính trị. Do đó các kết
cấu gần giống nhau đơn điệu, gượng gạo.
Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn đã thành công trong kỹ
thuật xây dựng nhân vật và có ý thức xem nhân vật là trung tâm của tác phẩm. Họ
đi sâu vào tâm lý nhân vật, chú trọng đến cuộc sống nội tâm nên nhân vật có hồn
như nhân vật Doãn "Hai vẻ đẹp"; Duy "Con đường sáng"; Dũng
"Ðôi bạn". Các tác giả chú ý đến lớp người mới như ông Tham tá; ông
đốctờ; sinh viên cao đẳng; họa sỹ; thiếu nữ đẹp thông minh duyên dáng...Các nhà
văn đã miêu tả lời nói, cử chỉ một cách tỷ mỷ và mô tả một cách sinh động
nên khắc họa được rõ nét từng mẫu người nhất định. Viết về các cô gái, các nhà
văn miêu tả một cách đa dạng: Loan thông minh sắc sảo, Liên dịu dàng nết na,
Mai kính đáo thâm trầm, Tuyết thì lả lơi, Nhung thì nhẩn nhục, chịu đựng.
Sự đóng góp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là ở chổ
biết khám phá nội tâm nhân vật, đưa ngòi bút đi sâu vào phanh phui mổ xẻ những
khía cạnh tinh vi sâu kín của tâm hồn và đã biểu hiện được một cách sinh động
ro îràng, gợi cảm trên mặt giấy những tâm hồn lắc léo, phức tạp ấy.
Các nhân vật của Nhất Linh thường haybăn khoăn, suy
nghĩ, bị day dứt bởi nỗi buồn thầm kín, nội tâm phong phú hơn và diễn biến cũng
phức tạp hơn, đây chính là thành công của nhà văn. Khái Hưng thì lại thành công
khi xây dựng những nhân vật phản diện - đại diện cho lễ giáo phong kiến.
Nhưng các nhân vật của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn
không phải là những nhân vật điển hình. Muốn xây dựng nhân vật điển hình, tác
giả phải tôn trọng cuộc sống chân thực, phải nắm được quy luật cuộc sống. Do
thiên kiến giai cấp, do yêu cầu của tiểu thuyết luận đề, do bút pháp lãng mạn
tiêu cực, muốn cuộc sống thế nào thì miêu tả cuộc sống thế ấy, nên những nhân
vật chính trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có ít nhiều máu thịt nhưng căn bản
đều là những nhân vật tưởng tượng được nhào nặn theo ý muốn chủ quan nhà văn
hơn là hành động theo lô gích nội tại.
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã mở đầu việc đưa thiên
nhiên tươi mát của đất nước vào văn học. Lịch sử văn học Việt Nam, nhiều nhà
văn đưa thiên nhiên vào văn học như trong truyện nôm, tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh ... nhưng đó thường là một thứ thiên nhiên ước lệ. Các nhà văn Tự Lực Văn
Ðoàn miêu tả thiên nhiên với tất cả chi tiết màu sắc, đường nét. Thiên nhiên
trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có hương vị. Chúng ta thường gặp đây đó những
cảnh vật quen thuộc của quê hương đất nước với hương vị ngọt ngào, đậm đà,
những đồi cọ thoai thoải miền Trung du những cánh đồng lúa chín chạy dài đến
tận chân trời, những ngôi chùa, quán nước, bến đò, cây đa, hoa cau, hoa khế...
đây là sắc và hương nơi thôn dã: "cao vút trên từng không, những cây cau
thân thẳng và mảnh toả từng buồng hoa vàng xuống một mùi thơm đậm đà, mộc mạc
xen lẫn trong mùi thơm phản phất thanh thanh của hoa chè: hai hương vị đặc biệt
nơi thôn dã" (Gia đình)
Cái đẹp trong tác phẩm của họ thường gắn với tâm hồn
mơ mộng. Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn thường mượn ngoại cảnh để tả nội tâm nhân
vật "tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ vài nét chấm phá thanh đạm như
những bức tranh thủy họa... cảnh trong truyện nhuộm vẻ nào là tùy theo tâm hồn
của những người trong truyện. Cảnh đối với người có liên tưởng nhịp nhàng linh
động..." (tựa "Hồn bướm mơ tiên")
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã chịu ảnh hưởng của văn
chương Pháp, đó là loại văn ngắn gọn, trong sáng, chính xác, nhẹ nhàng, mềm
mại. Các nhà văn vẫn giữ được lối suy nghĩ và diễn tả Việt Nam, đương nhiên
cũng còn những câu văn lai căng.
Câu văn trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có âm điệu,
nhưng âm điệu ở đây không phải là thứ âm điệu đẽo gọt của các câu văn biền
ngẫu, mà là thứ âm điệu tự nhiên vốn có của tiếng Việt. Tiếng Việt trong tiểu
thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là tiếng Việt hiện đại, ngày nay đọc chúng ta ít thấy
vướng.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thiên về
diễn tả những cái gì bóng baøy, sang trọng, tế nhị, đôi khi văn hoa, kiểu cách
của những tầng lớp trên, thiếu cái khỏe khoắn, chắc nịch của những người lao
động. Tuy ngôn ngữ thông dụng nhưng là thứ ngôn ngữ của tầng lớp tư sản, tiểu
tư sản thành thị có học chứ không tìm trong tiếng nói, cách nói vô cùng trong
sáng của nhân dân lao động nên nó mau chóng trở thành mòn, sáo, đơn điệu.
Mặc dầu có những hạn chế trên, tiểu thuyết Tự Lực Văn
Ðoàn đã góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa nền văn xuôi của chúng ta.
Trương Chính nhận định: "Tự Lực Văn Ðoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ
nước ta tiến tới"
V. KẾT LUẬN
|
Trong cuốn "Phấn đấu cho một
nền văn nghệ phong phú, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã
hội", đồng chí Trường Chinh nhận xét: "các nhà phê bình của ta còn
tránh nói đến những tác phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho
đúng" ( trang 60)
Quả vậy, văn học lãng mạn của ta khá phức tạp. Nhưng
ta có nhiệm vụ cần phải phê bình, đó là những thiện chí tốt đẹp.
Khuynh hướng tiêu cực trong tiểu thuyết Tự Lực Văn
Ðoàn, trước hết là cái nội dung cá nhân chủ nghĩa, ở thời kỳ đầu nó tự khẳng
định được mình, rồi sau đó tự hủy diệt đi đến cực đoan. Nhà văn lấy cái
tôi" làm trung tâm, chỉ đào sâu vào thế giới bên trong, "càng đi sâu
càng lạnh". Cái tôi ấy biết phủ nhận thực tại đen tối nhưng lại xa rời
quần chúng, nó thoát li nên càng bế tắc. Một số tác phẩm miêu tả cảm giác, dục
vọng xấu xa, tình cảm ươn hèn và một chủ nghĩa cải lương hời hợt.
Nhưng theo ý kiến của đồng chí Trường Chinh trong bản
báo cáo của đại hội văn nghệ giúp cho ta một phương hướng : " ta cần
tránh, xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát li "
(trang 60 )
Chúng ta đã tìm thấy nhân tố tích cực nằm trong tiểu
thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Sự giải phòng cá tính và tình cảm khỏi những trói buộc
phong kiến ngàn đời; lòng khao khát tự do, độc lập ( tuy có ngậm ngùi, ai oán
); sự tìm tòi một lý tưởng cao cả để phụng sự ( tuy chẳng thấy ); sự theo đuổi
một hạnh phúc chân chính (dù có rên rỉ, đau thương); xu hướng trở về bản sắc
dân tộc, truyền thống dân tộc.
Các nhà văn đã miêu tả có phê phán những cảch sống
thực của phong kiến, tư sản, quan lại; sự phản ánh nổi đau khổ của trí thức
thất nghiệp, của thanh niên mất phương hướng, sự phản ánh cuộc sống lầm than của
người nghèo thành thị và thôn quê.
Các nhà văn xây dựng thành công các nhân vật phản diện
: địa chủ, gian tham, cường hào, ác bá, tư sản giảo quyệt, sư cụ hổ mang, nhà
báo không tôn chỉ, mẹ chồng ác độc, mẹ ghẻ tai quái...
Trong cái xã hội đảo điên, mà thực dân là "cứu
tinh", địa chủ là "ân nhân", quan lại là "phụ mẫu",
tình là tiền, danh là sĩ, dân lành sống cay cực người tốt không chổ đứng, thì
một chút cương trực, một chút vị tha, một chút thanh sạch, một giọt lệ chân
tình cũng là quý. Nó làm cho con người đỡ bơ vơ và còn hy vọng. Ðó là những
điều đáng quý, đáng trân trọng ở tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn.
Câu chuyện rất hấp dẫn, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa