Nghệ
thuật Cải Lương
Cải lương là loại hình sân khấu kịch hát
dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ XX. Nguồn gốc của Cải lương là những bài hát lý,
ca nhạc tài tử ở miền Tây Nam Bộ. Từ những hình thức ca nhạc thính phòng, tiến
tới các diễn xướng, vừa hát, vừa biểu diễn bằng động tác để minh hoạ, gọi là ca
ra bộ. Ca ra bộ là cây cầu nối giữa đàn hát thính phòng và sân khấu hát
kịch cải lương sau này. Khi mới ra đời cải lương gắn với người những dân Nam bộ, do đặc điểm phát âm ngọt ngào nên giọng Nam bộ ca cải
lương rất "mùi mẫn". Dần dần cải lương phát triển rộng ra cả nước.
Cũng như các nghệ thuật kịch hát dân tộc
khác, cải lương bao gồm múa, hát, âm nhạc (không kể kịch bản tích trò). Dàn
nhạc cải lương không dùng bộ gõ như Tuồng, Chèo mà đàn ghi ta phím lõm và đàn
nguyệt là hai nhạc cụ chủ đạo.
Mặc dù sinh sau nhưng sân khấu cải lương
nhanh chóng tạo cho mình khối lượng kịch mục phong phú. Nhiều vở diễn được các
tác giả cho ra đời đã nhanh chóng được công chúng đón nhận:
Lục Vân Tiên, Lưu Bình - Dương Lễ, sau này chuyển từ đề tài lịch sử, xã hội mở ra các vở diễn chuyển thể từ tiểu thuyết lãng mạn đương thời có nhiều tình tiết ly kỳ, hoặc các lớp "Nhảy cửa sổ đấu dao găm"...
Lục Vân Tiên, Lưu Bình - Dương Lễ, sau này chuyển từ đề tài lịch sử, xã hội mở ra các vở diễn chuyển thể từ tiểu thuyết lãng mạn đương thời có nhiều tình tiết ly kỳ, hoặc các lớp "Nhảy cửa sổ đấu dao găm"...
Sân khấu cải lương hình thành, đáp ứng
thị hiếu của công chúng đô thị và ngày càng pháp triển mạnh mẽ. Mặc dù còn trẻ
tuổi nhưng nghệ thuật cải lương có một sức sống kỳ diệu nhiều khi muốn lấn át
cả hai loại hình kịch hát dân tộc đàn anh. Trong tiến trình hoàn thiện và pháp
triển, cải lương đã trải qua những thể nghiệm đổi mới về âm
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu có phải là ông tổ
ngành cải lương?
Gần đây, trong một buổi gặp gỡ các bạn trẻ sinh viên yêu thích
cải lương và âm nhạc truyền thống, các bạn có đặt câu hỏi: "Nhạc sĩ Cao
Văn Lầu là cha đẻ bản Dạ cổ hoài lang, vậy ông có phải là ông tổ của ngành cải
lương không?". Bài viết sau đây cung cấp thêm một số thông tin về nhạc sĩ
họ Cao cũng như về bản Dạ cổ hoài lang...
Ông Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái Cui,
làng Chí Mỹ, sau sáp nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm
Cỏ, tỉnh Long An. Năm 1901, ông Cao theo gia đình đến lập nghiệp tại Bạc Liêu
rồi ở luôn tại đây cho đến hết đời (ông qua đời ngày 13/8/1976). Thuở nhỏ, ông
học chữ nho rồi học chữ quốc ngữ đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours
moyen 2e année) tức lớp bốn ngày nay; sau đó quy y tại chùa Vĩnh Phước - Bạc
Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học nhạc lễ và là một trong những môn đệ giỏi
về nhạc lễ của nhạc sư Lê Tài Khị (Nhạc Khị). Ông sử dụng rành rẽ đờn tranh,
cò, kìm và trống lễ. Nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến bản Dạ cổ hoài lang
(1919) được xem là tiền thân của bản vọng cổ ngày nay. Ông viết bản nhạc trên
gồm 20 câu, nhịp 2 để trút cạn nỗi niềm tâm sự.
Nỗi niềm ấy ra sao? Nhiều lần ông thổ lộ với bạn tri âm: "Tôi
đặt bài này bởi tôi rất thương vợ tôi. Năm tôi viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã
ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con. Tam niên vô tử bất thành thê. Vợ
chồng ăn ở với nhau trong 3 năm, vợ không sanh con, chồng được quyền bỏ để cưới
người khác hầu có con nối dõi tông đường. Thời phong kiến có những quan niệm
chưa đúng. Người ta cho rằng vợ chồng không sanh con là do lỗi của người đàn
bà. Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không
đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho
cha mẹ vợ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu, xót thương cho vợ
chồng tôi gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày với hy vọng vợ chồng tôi
sẽ có con và chiến thắng một quan niệm khắc nghiệt, lạc hậu, chịu ảnh hưởng
nặng đạo lý thời phong kiến”. Trong thời gian dài phu thê phải cam chịu cảnh
“Đêm đông gối chiếc cô phòng", tâm tư nặng trĩu u buồn nên nhạc sĩ Sáu Lầu
đêm đêm mượn tiếng đờn nắn nót đôi câu để bớt cơn phiền muộn. Ông thừa hiểu
người bạn đời cũng đau xót như ông. Bản Dạ cổ hoài lang ra đời trong bối cảnh
như thế
Nói cho rõ hơn, trong thời gian tác phẩm chưa hoàn toàn hoàn
chỉnh, nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa phương đờn tới đờn lui bản này để
lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phương diện sáng tác. Chuông, trống
"công phu" ngân vang khiến anh em nhạc sĩ đất Bạc Liêu nhớ lại hồi
chín, mười tuổi ông Sáu Lầu quy y làm "Sa di" tại chùa Vĩnh Phước.
Chú tiểu từng đánh trống, dộng chuông công phu hai buổi sớm chiều. Do đó, anh
em đề nghị thêm hai chữ "Dạ cổ" (tiếng trống về đêm) cho ý nghĩa thêm
sâu đậm. Ông Sáu hoan nghênh nên bản nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài
lang", tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng".
Từ "Dạ cổ hoài lang" đến vọng cổ
Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Đó là đứa con của nhạc sĩ Cao
Văn Lầu. Nhưng khi "Dạ cổ" hòa nhập vào sân khấu cải lương thì hai
soạn giả tiền phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở thành nhịp
4 là Huỳnh Thủ Trung (tức Tư Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung). Tiếng nhạn kêu
sương là bản "Vọng cổ hoài lang" nhịp 4 đầu tiên do soạn giả Huỳnh
Thủ Trung (1907 - 1964) sáng tác vào năm 1925. Trên những chặng đường phát
triển, khi bản "Vọng cổ hoài lang" được nâng lên nhịp 8 (từ khoảng
năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới là "Vọng cổ" (không còn cái đuôi
"hoài lang"). Từ khoảng 1944 - 1954, vọng cổ tăng lên nhịp 16; thời
kỳ kế tiếp: 1955 - 1964: tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến
nay.
Hậu thế đã nhận định như sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Bản "Vọng cổ" từ nhịp 4 trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử tứ phương. Còn ông tổ cải lương dứt khoát không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1919, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.
Hậu thế đã nhận định như sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Bản "Vọng cổ" từ nhịp 4 trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử tứ phương. Còn ông tổ cải lương dứt khoát không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1919, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.
Ông tổ cải lương là ai? Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định ngành cải
lương thờ chung một ông tổ với hát bội.
Đi sâu nghiên cứu,chúng tôi thấy có nhiều tư liệu khác biệt:
1) Theo NSƯT, nhạc sĩ Vũy Chỗ xác định cụ thể: Chính Thầy Thống
tức ông Trần Xuân Thơ, với sự đồng ý của nhạc sĩ Sáu Lầu, viết bài ca Từ phu
tướng, đồng thời có chấn chỉnh một vài chữ nhạc ở câu thứ nhất và thứ bảy cho
sắc sảo hơn (Báo Sân khấu số 333 ngày 26/5/1997).
2) Theo nhà nghiên cứu Hoài Ngọc, trong biên khảo "Sân khấu
cải lương" (chưa xuất bản), tác giả viết theo lời kể của NS Sáu Lầu:
"...Chừng mấy tháng sau, tôi nghe người ta có đặt bài ca cho bản Dạ cổ
hoài lang của tôi rồi, và ca cho tôi nghe, thật đúng y như chữ đờn..."
(người ta ở đây là nhóm tài tử Sài Gòn - ghi chú của NV).
3) Qua bài viết của ông Trần Phước Thuận, đồng hương với nhạc sĩ
Sáu Lầu, xác nhận "Bản Dạ cổ hoài lang, cả nhạc lẫn lời đều do ông Cao Văn
Lầu sáng tác" (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 2 (40) 2003, trang 37).
Đờn ca tài tử Nam Bộ: Hồn muôn năm cũ,
bây giờ ở đây
Đờn ca tài tử là hoạt động
văn hóa dân gian đặc trưng của vùng đất sông nước miệt vườn, trở thành cốt cách
của người Nam Bộ xưa nay. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hình thức sinh
hoạt văn hóa dân gian này vẫn tồn tại và phát triển, gắn bó mật thiết trong đời
sống tinh thần con người đất phương Nam.
Theo các tài liệu khảo cứu
về văn hóa Nam Bộ thì Đờn ca tài tử (ĐCTT) xuất hiện từ thuở khai thiên lập địa
vùng đất phương Nam.
Ban đầu ĐCTT chỉ là thú giải trí trên ghe thuyền, sông rạch của con người đi
khẩn hoang. Về sau, ĐCTT được đưa vào biểu diễn trong đình, chùa vào những dịp
lễ Tết, giỗ chạp. Hai chữ "tài tử" là để chỉ người tài. ĐCTT là hoạt
động văn hóa, giải trí của một nhóm người tài, có giọng ca thiên phú cùng sự
đam mê luyện tập, ứng đối tốt. "Tài tử" thường đi với "giai
nhân". Tài tử sánh với giai nhân là tri âm tri kỷ.
Thời sơ khai của ĐCTT (trải
dài suốt triều Nguyễn cho đến đầu thế kỷ XX), ĐCTT là thú chơi của tầng lớp
quan lại, quý tộc. Các nhóm ĐCTT tiếng tăm như ban của ông Tư Triều và Hai
Triều ở Mỹ Tho, Tiền Giang thường được giới quý tộc săn đón, mời mọc biểu diễn.
Dân chúng mê ĐCTT, theo ĐCTT như một thứ bùa. Đã mê rồi, họ không dứt ra được.
Trong kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, ĐCTT là linh hồn của phong trào "Tiếng hát át tiếng bom"
ở Nam Bộ. Một số bản nhạc tài tử thời kỳ đó trở thành bất hủ như: Mặt trận Tầm
Vu, Chống Bảo Đại, Lưu thủy trường, Xuân tình v.v...
Tài tử, giai nhân một thời
vang bóng
Thành phố Cần Thơ là vùng
đất nổi tiếng của phong trào ĐCTT xưa nay. (Thời xưa, vùng đất Cần Thơ có tên
là Cầm Thi. Hoạt động đờn ca trên sông nước ở đây đã làm nên giai thoại Cầm Thi
Giang nức tiếng một thời). Đất tài tử hàng đầu ở Cần Thơ phải kể đến huyện miệt
vườn Phụng Hiệp.
Trong số các lão tài tử từng
nổi tiếng thời chống Pháp còn sống đến hôm nay, cụ Lưu Văn Thuần (Ba Thuần) ở
ấp Phụng Sơn A, xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp được coi như một "gia tài
sống" về ĐCTT. Nhà cụ Thuần nằm bên bờ một dòng kênh nhỏ. Người dân ở đây
gọi cụ Thuần là "cụ Ba tài tử". Cụ còn rất trẻ và khỏe so với tuổi 82
của mình. Con đường trở thành tài tử của cụ Ba quả cũng lắm công phu.
Cụ kể: "Hồi xưa tui mê
đờn ca nên được ba má tui mời thầy về dạy. Thầy dạy tui là tài tử Bảy Tàu ở ấp
Láng Sen, xã Phụng Hiệp. Lớp học có 6 người, học vào ban đêm, vừa học đờn, vừa
học ca. Sau hai năm theo học, thầy bảo: Các con giờ đã ca hay, đờn giỏi, nhớ
lấy tiếng ca, tay đờn để mua vui cho đời. Được như vậy thì tâm hồn sảng khoái,
sống lâu. Những lần đi làm ăn buôn bán xa quê, tụi tui thường tụ tập đờn ca. Từ
đó, tui quen với ông Trần Văn Thành, một tài tử rất nổi tiếng ở Sóc Trăng. Con
gái ông Thành là Trần Thị Lan mê tiếng ca, tay đờn của tui nên đem lòng yêu
thương rồi trở thành vợ tui"...
Với chất giọng trời phú, Ba
Thuần trở thành một trang tài tử nổi tiếng khắp miệt vườn. Ba Thuần gia nhập
đoàn văn nghệ của huyện đi biểu diễn phục vụ bộ đội khắp các vùng Long Điền,
Phụng Hiệp... Ông lọt vào tầm ngắm của bọn mật thám, chỉ điểm. Chúng tổ chức
mật phục, truy lùng ông ráo riết với mục đích triệt hạ giọng ca tài tử. Bị giặc
bắt, giam tù, tra tấn dã man, ra tù Ba Thuần tiếp tục gia nhập các nhóm đờn ca
phục vụ kháng chiến. Con trai hy sinh trong kháng chiến, vợ mất, Ba Thuần sống
cùng với người con gái duy nhất. Cụ Ba Thuần là thương binh hạng 4/4. Hiện nay,
cụ Ba và các thành viên trong nhóm ĐCTT chỉ đi hát mua vui, không lấy tiền thù
lao.
Cách Phụng Hiệp một chuyến
đò ngang, mảnh đất Phong Điền cũng có một lão giai nhân vang bóng một thời về
đờn ca và nay cũng đang say sưa bầu nhiệt huyết ấy, đó là cụ Phan Thị Thanh
Liên (Năm Liên). Cụ Năm Liên năm nay đã 72 tuổi nhưng lời ca vẫn rất mượt,
trong và sáng. Cụ Ba Thuần và cụ Năm Liên đều chung nguyện vọng, đó là được
truyền nghề cho lớp con cháu. Những lão tài tử, giai nhân một thời vang bóng
như cụ Ba Thuần, cụ Năm Liên hiện còn rất ít.
Đờn ca tài tử không chỉ để
mua vui
Vào cái thời bùng nổ nhạc
rock, nhạc rap... nhịp sống cuồn cuộn, lớp trẻ vùng sông nước miệt vườn cũng bị
cuốn theo. Những năm gần đây, khi ĐCTT được công nhận là tài sản văn hóa phi
vật thể của vùng đất Nam Bộ cần phải được bảo tồn, phát triển, các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long đã thường xuyên tổ chức các đợt liên hoan ĐCTT, liên hoan ca
cổ. Trung bình mỗi xã có từ 1-3 câu lạc bộ ĐCTT. Ngoài ra, ĐCTT còn phát triển
trong các quán nhậu. Tại các đô thị, hầu như ở khu phố nào cũng có quán nhậu ca
cổ, ĐCTT.
Nếu nhìn vào những biểu hiện
ấy, có thể thấy ĐCTT đang dần trở lại thời vàng son. Tuy nhiên, vấn đề lại
không đơn giản như vậy. Tại các cuộc liên hoan ca cổ và liên hoan ĐCTT gần đây,
số lượng các diễn viên trẻ tham gia rất ít. Nghệ sỹ ưu tú Trúc Linh, một trong
những cây đại thụ của làng ca cổ hiện nay, đã phát biểu rất tâm huyết rằng: Lớp
trẻ nhiều cháu có chất giọng rất tốt nhưng ca hời hợt quá. Ca cổ, ĐCTT mà phong
cách cứ như hát nhạc trẻ. Thế này thì khó mà "lớn" được.
Nói về hướng đi cho ĐCTT,
Giáo sư, nhạc sỹ Trần Văn Khê cho rằng: ĐCTT là hồn cốt của văn hóa Nam Bộ. Nó
không bao giờ mất đi. Điều quan trọng là trong quá trình duy trì, phát triển,
không được để nó biến tấu theo những khuynh hướng xô bồ, tùy tiện. Để làm được
điều đó phải tạo cho ĐCTT có những "sân chơi" phù hợp. Chỉ dừng lại ở
mấy cuộc liên hoan, thi thố thì chưa đủ.
Ngày xuân tiết trời se se,
lênh đênh qua những tuyến kênh rạch dưới không gian xanh ngút mắt, thưởng thức
hương vị trái cây mát lịm, ngồi trên nhà hàng nổi thả hồn du dương theo âm
thanh ĐCTT... là thú vui của du khách muôn phương khi đến vùng đất sông nước miệt
vườn. Hy vọng ngày càng có nhiều "sân chơi" như thế để ĐCTT lại tiếp
tục được mê đắm, được mời mọc.
Nghệ sĩ Nhân dân Tám Danh - Cây đại thụ
của nghệ thuật cải lương
Đài truyền hình TPHCM vừa thực hiện
chương trình Những cánh chim không mỏi (NCCKM) dành cho NSND Tám Danh.
NSND Tám Danh tên thật là Nguyễn Phương
Danh, sinh năm 1901, tại Cần Thơ. Ông mất năm 1976, khi đất nước vừa thống
nhất. Đó điều đau xót cho một người con của cái nôi cải lương chưa kịp trả nợ
với quê hương... và là điều tiếc rẻ cho vùng đất Nam bộ. Bởi vì, ông là một cây đại
thụ của nghệ thuật sân khấu cải lương nhưng học trò của ông đa số là học sinh
miền Nam
tại đất Bắc hoặc học sinh miền Bắc mới có diễm phúc để ông truyền nghề.
Chương trình NCCKM nói về NSND Tám Danh
như một thước phim “quay ngược”, vì các cô-cậu học trò ngày ấy... bây giờ đã
“răng long đầu bạc, công thành danh toại” như: Công Thành, Tú Lệ, Lê Thiện, Ca
Lê Hồng, Thanh Vy, Thanh Hạp, Xuân Hiểu, Hoàng Khanh...
NSƯT Tú Lệ nói: “Hồi bác Tám Danh còn ở
miền Bắc, tôi gầy nhom, ai cũng gọi tôi là con Xẩm, còn anh Công Thành cứ trêu
tôi là con Xẩm khùng. Buồn lắm à nhen. Thấy tôi tội nghiệp, bác Tám Danh gọi
tôi đến dạy hát cải lương và cho vào vai Võ Thị Sáu, đó là vai diễn đầu tiên
của tôi. Sau này giọng tôi yếu quá nên chuyển sang kịch nói Nam Bộ”. NSƯT Thanh
Vy vốn là một cô gái Bắc nhưng hát cải lương rất thành công, khi vô Nam đã từng
“làm mưa làm gió” với Nàng Xê Đa cùng với ngôi sao giải Thanh Thanh Tâm-Phương
Quang trên sân khấu cải lương miền Nam. Thời gian ở miền Bắc, NSƯT Thanh Vy đã
có diễm phúc học hát cải lương với thầy Tám Danh và nhờ vai Võ Thị Sáu mà chị
đã được Bác Hồ mời diễn cho Bác xem. Đến với chương trình NCCKM của NSND Tám
Danh, dù ở vào cái tuổi lục tuần vậy mà diễn vai Võ Thị Sáu tung tăng hái hoa,
bắt bướm, bỗng dưng nghe tiếng ngựa xổng chuồng, Võ Thị Sáu vội chạy theo bắt
chú ngựa lại... với lối vũ đạo mềm mại, uyển chuyển, NSƯT Thanh Vy đã diễn đạt
đến tuyệt vời, người xem nhìn chị diễn mà cứ ngỡ đang bắt ngựa thật. Diễn trích
đoạn xong, chị mệt phờ và chỉ kịp nói: “Đó là vũ đạo của thầy Tám Danh đã dạy
cho tôi dùng cho tuồng xã hội...”.
Thầy giáo Xuân Hiểu cũng là chàng trai
miền Bắc nhưng học ca bằng giọng Nam, lúc nói chuyện giọng Bắc, lúc hát giọng
Nam nên ai cũng cười, vì ông hát “khá” quá. Nhưng khá hơn là lúc ông dùng vũ
đạo diễn đạt vai con hạc trong vở cải lương “Hạc trắng” mà ngày xưa thầy Tám
Danh đã dạy... Cô học trò trường CĐ.SK&ĐẢ diễn vai hạc trắng không ra, ông
phải thị phạm lại cho mọi người xem. Mái tóc bạc đốm bạc nhưng từng nét vũ đạo
thật điêu luyện, tuyệt vời. Ông nói: “Hồi chúng tôi học, làm gì biết đến ba lê
nhưng thầy Tám Danh đã biết dạy cho chúng tôi múa con hạc trắng cho giống Việt
Nam, không phải thiên nga. Nghĩa là: dù hạc biến thành người nhưng lúc diễn
thỉnh thoảng phải lộ cốt hạc bằng “chiếc mỏ” và “đôi cánh”. Lúc hạc bị thương
thì phải vỗ nhè nhẹ vào đôi vai, lúc đi trong đau đớn đôi chân phải kéo về phía
sau và bấu xuống sàn diễn như gà bới, vì đó là hạc Việt Nam”. Những
hình ảnh mà NSND Tám Danh truyền đạt cho học trò của mình chính là những điều
ông gặt hái từ sự quan sát thiên nhiên quanh ông ta, quả là bậc nhân tài. Những
năm đầu của thế kỷ 20, làm gì sân khấu của chúng ta có điều kiện tiếp cận với
sân khấu thế giới, vậy mà thầy Tám Danh lại soạn ra được một chuyên đề để dạy
cho bộ môn cải lương và chúng ta dùng nó ở trường đại học sân khấu Hà Nội cho
đến cao đẳng trong Nam. Những danh từ thầy tám Danh dạy như: diễn có thần sắc,
bây giờ người ta gọi là tâm lý-hình thể bên trong và bên ngoài, bế chiến là chú
ý... Vậy mà từ xưa thầy đã nói nôm na để cho học trò hiểu, còn bây giờ thì khoa
học ngôn từ nên thấy khác chứ thật ra là một. Năm 1966, ông còn đề xuất cách
tân cải lương bằng cách kết hợp âm nhạc, vũ đạo, nội dung để tạo ra hình thức
mới cho cải lương đã tạo nên một cuộc tranh luận dữ dội giữa các nghệ sĩ chuyên
môn trong bộ môn cải lương như Út Du. Cuối cùng mọi người yêu cầu dựng thể
nghiệm vở Ánh lửa, câu chuyện chưa ngã ngũ thì có lệnh sơ tán đi chiến đấu
chống Mỹ... và việc cải cách cải lương cũng bỏ lửng từ đó. Điều này đang được UBND
TPHCM chỉ đạo ngành chức năng đưa ra dự án nâng cấp cải lương.
THANH TÚ
Dân ca
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã nhất trí
đánh giá Bến Tre là một trong những cái nôi dân ca Nam Bộ mang đậm dấu ấn vùng sông
nước và đồng bằng sông Cửu Long. Ở Bến Tre có nhiều làn điệu dân ca như: hát
ru, hò, lý, nói thơ, nói vè, đồng dao, hát huê tình, hát đối đáp, hát sắc
bùa... Căn cứ vào nội dung và giá trị nghệ thuật, ở đây chỉ giới thiệu 4 thể
loại dân ca tiêu biểu của tỉnh
-
hò
-
lý
-
nói thơ Vân Tiên
-
hát sắc bùa..
Phát triển trên vùng đất 3 cù lao nằm
giữa các nhành sông Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, hò Bến Tre hình
thành theo hai hệ thống: hò trên sông nước và hò trên cạn. Cũnh như vôn văn
nghệ dân gian nói chung, hò Bến Tre có cội nguồn từ miền đất cũ do những thế hệ
lưu dân người Việt mang theo cùng với hành trang khác của mình trên đường di
chuyển để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn về phương Nam.
Hò trên sống nước gồm có:
-
Hò chèo thuyền (chèo ghe)
-
Hò mái đoản (mái cụt)
-
Hò mái trường (mái dài)
Hò trên cạn gồm có:
-
Hò cúng chùa
-
Hò bản đờn
-
Hò lờ
-
Hò cấy lúa
-
Hò đối đáp.
Dù hò trên sông hay hò trên cạn, tiếng hò
Bến Tre, do những điều kiện làm ăn sinh sống và do khung cảnh thiên nhiên qui
định, nên có phần thanh nhàn và ung dung hơn so với hò miền Trung hay miền Bắc
với tiết tấu khỏe, gấp rút, vội vàng. Là một loại hình nghệ thuật dân gian, hò
Bến Tre cũng có lề lối diễn xướng riêng. Hò trong lao động, hò giải trí trong
lúc nghỉ ngơi, hò trong lễ hội, hò để đua tài cao thấp, hò trong môi trường vui
chơi mỗi độ xuân về.
Hò cấy thường diễn ra ngay trên đồng ruộng, có thể kéo dài từ sáng
cho đến chiều tối. Các nhóm hò, có kẻ xướng người xô, vừa lao động, vừa trổ tài
đối đáp. Xưa kia, mỗi vạn cấy thường tập trung từ 20 đến 30 người, đứng đầu là
một anh "trùm vạn" - người làm trung gian giữa chủ ruộng và thợ cấy.
Những thợ cấy hò giỏi, hò hay thường được mọi người trọng vọng, công xá bao giờ
cũng được nhận phần cao hơn so với các người khác trong vạn.
Hò cấy được phân bố hầu như khắp địa bàn trong tỉnh, nhưng phổ biến
nhất là ở miệt ruộng của huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú, Mỏ Cày, Bình Đại.
Ở Thạnh Phú cũng thịnh hành hò chèo
thuyền, Bình Đại có hò lờ, hò cúng chùa, hò bản đờn. Dọc theo sông
Hàm Luông, ven vàm Tân Hương lại rất phổ biến hò mái đoản, hò mái trường, hò
chèo ghe (chèo thuyền).
Trong dân gian, thuật ngữ hò rơi dùng
để chỉ trường hợp hò lẻ một mình, chẳng có ai bắt, ai luận, ai gài, ai gỡ, dù
có một hoặc nhiều người hò cũng vậy. Trong khi đó, hò kết lại có người
bỏ, người bắt, người luận, người gài, người bẻ, tức là có đối có đáp.
Hò mép (hoặc hò bắt quàng) là loại hò ngẫu hứng, đòi hỏi
nghệ nhân phải có trình độ nhạy cảm và có năng lực đối đáp ngay lúc biểu diễn
trước cảnh và tình xung quanh.
Hò văn, hò thơ, hò truyện đòi hỏi người hò phải am hiểu chữ nghĩa,
sử dụng thành thạo các thành ngữ, tục ngữ, nhất là những thành ngữ Hán Việt,
phải thuộc nhiều thơ Nôm, thơ lục bát, nhất là các truyện thơ (Lục Vân Tiên,
Truyện Kiều, Phạm Công – Cúc Hoa), biết nhiều điển tích trong các truyện Tàu
như Tam quốc, Tây du, Đông Chu liệt quốc, Thủy hử.
Hò quốc sự ra đời muộn màng hơn so với các loại hò
trên, cùng lúc với các phong trào đấu tranh chống xâm lược, giải phóng đất
nước.
Hò đối đáp vốn là một loại hình dân ca phổ biến khắp
ba miền đất nước, có lề lối sinh hoạt nghệ thuật giống nhau, đồng thời ở mỗi
vùng lại có những tục lệ riêng. Hò đối đáp Bến Tre trải qua 3 giai đoạn
diễn xướng. Mở đầu là hò rao, hò mời, hò hỏi thăm. Lời hò ở giai đoạn
này chủ yếu là để tìm hiểu đối phương, cho nên thường khiêm nhường, từ tốn,
lịch sự. Giai đoạn hai - phần chính của cuộc hò – là lúc thi tài cao thấp, phân
định thắng bại, cho nên sôi nổi, căng thẳng, hồi hộp, gay cấn, nhưng cũng là
giai đoạn lý thú và hào hứng nhất. Giai đoạn thứ ba mang tính chất kết thúc với
những lời hò giã từ, tiễn đưa, hò hẹn, tạm biệt, có khi là sự luyến tiếc, vương
vấn, buồn thương, cảm phục...
Lý
Ở Bến Tre, qua kết quả sưu tầm được, có hơn 70 điệu lý khác
nhau. Trong “vườn lý” ngát hương của xứ dừa, chúng ta đã từng nghe các điệu lý
chim chuyền, lý đươn, (đan) đệm, lý lu là, lý con cua, lý con cúm núm, lý con
sáo, lý con quạ, lý ngựa ô, lý cảnh chùa... Lý có nhiều khả năng diễn đạt,
đề cập, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống thiên nhiên và xã hội, sự vật, sự
việc chung quanh, vì vậy đề tài của lý vô cùng phong phú. Lý là tiếng nói của
tình yêu lứa đôi hồn nhiên và mộc mạc, lý là ước mơ trong sáng, lạc quan, lý là
khúc hát ngọt ngào của người bình dân ngợi ca cuộc sống, lý biểu lộ sự bất
bình, sự phản đối trước những hiện thực bất công, chướng tai gai mắt, lý cũng
là tiếng nói đồng tình, đồng chí dạt dào tin yêu... Người Bến Tre cũng đã chọn
nhiều kiểu, nhiều cách để đặt tên cho các điệu lý như:
- Lấy nội dung của lời hát (ca dao) để
đặt tên cho điệu lý: lý cái phảng, lý cảnh chùa, lý trái bắp, lý con cún, lý
đươn đệm...
- Lấy ngay mấy chữ đầu câu hát (ca dao)
mà đặt tên cho lý: lý dừa tơ, lý con cua, lý ông hương, lý ba xa kéo chỉ, lý
nàng dâu, lý chim chuyền, lý con ác.
- Lấy tiếng đệm lót, tiếng láy đưa hơi mà
đặt tên cho lý: lý lu là, lý hố mơi, lỳ kỳ hợi, lý bằng lưu thủy, lý bằng
răng, lý giọng ứ, lý hố khoan...
Lời của lý là những câu ca dao ở thể lục
bát. Âm bậc trầm bổng của lời ca tạo ra cốt cách của âm nhạc, và ngược lại do
yêu cầu của thẩm mỹ, âm nhạc lại tác động tới lời ca. Đó là mối quan hệ qua lại
rất đặc biệt, sinh động của lý.
Trong thể loại lý Bến Tre có hệ thống
tiếng đệm lót, tiếng đưa hơi, tiếng láy, hệ thống này đóng vai trò như
"gia vị" cho món ăn giai điệu, những tiếng đệm lót, tiếng đưa hơi này
đều không có nghĩa cụ thể, nó có tác dụng làm cho giọng hát lên bổng xuống trầm
một cách thoải mái, do đó mà cơ cấu giai điệu được tự nhiên, lời ca được tô
điểm đậm đà và bay bướm hơn.
Người ta phân biệt được các điệu lý ngoài
cấu trúc, đường nét giai điệu và lời ca, như ở tiếng đệm lót đặc thù của nó.
Với tính năng động của nội dung với sự
phong phú của đề tài, với hình thức nghệ thuật nhiều màu vẻ, tiết tấu sinh
động, dồi dào về điệu thức... thể loại lý đạt trình độ cao về thẩm mỹ, nên đã
có mặt ngay từ buổi đầu trong phong trào ca nhạc tài tử và là nguồn bổ sung vô
tận cho âm nhạc sân khấu cải lương Nam Bộ.
Nói thơ Vân Tiên
Nói thơ Vân Tiên là một loại hát kể mang tính chất ngâm
ngợi, phù hợp với giọng thổ của nam giới. Nội dung là truyện thơ Nôm nổi tiếng
của Nguyễn Đình Chiểu – tác phẩm Lục Vân Tiên - được diễn đạt theo nhịp điệu
không buông rơi đều đặn như hát bài chòi, hoặc hát sắc bùa, mà luôn luôn thay
đổi từ khoan thai đến dồn dập. Giai điệu thường bắt đầu ở âm khu cao của đầu
điệp khúc rồi lên xuống giữa âm khu trung và âm khu trầm và chậm dần để kết
thúc mỗi điệp khúc. Khác với hiện tượng “cưỡng âm” ở lý, sáu thanh điệu của
ngôn ngữ lời thơ trong nói thơ Vân Tiên bao giờ cũng được tôn trọng. Các
dấu giọng (hỏi, ngã, nặng) đều được luyến láy rõ lời. Nói thơ Vân Tiên không
sử dụng tiếng đệm lót, hãn hữu mới thấy tiếng "mà" giặm vào, hoặc
tiếng đưa hơi "ơ ớ" tùy theo lối ngâm của từng người.
Theo nhạc sĩ Lê Nhất Vũ, căn cứ vào thang
âm và điệu thức nói thơ Vân Tiên ở Bến Tre sử dụng điệu thức nam (hơi
ai), trong khi đó nói thơ Sáu Trọng, nói thơ Hia Miêng, nói thơ Bạc Liêu thường
diễn xướng trên điệu khúc oán.
Khi phong trào ca nhạc tài tử ra đời,
tiếp theo là ca nhạc sân khấu cải lương thịnh hành và trở thành thời thượng,
thì nói thơ Vân Tiên cũng bị phai nhạt dần. Vả chăng nhịp điệu nói thơ
chỉ phù hợp với đời sống xã hội nông nghiệp cổ, không còn thích ứng với tâm lý
con người trong thời đại công nghiệp, thời đại của ”mốt”, của tốc độ. Về phương
diện thẩm mỹ, công chúng ngày nay, nhất là thế hệ trẻ, không chấp nhận sự lặp
đi lặp lại những hình tượng nghệ thuật cũ kỹ, dù cho nó đã từng một thời làm
say mê lòng người. Tuy nhiên, cho đến nay, ở Bến Tre, trong các làng quê vẫn
còn những cụ già nằm lắc lư theo nhịp võng, vừa vuốt râu ngâm ngợi say mê điệu nói
thơ Vân Tiên trong buổi trưa hè, hay giữa buổi chiều êm ả, tĩnh mịch:
"dữ răn việc trước, lành dè thân sau...".
Hát sắc bùa
Hát sắc bùa Phú Lễ (xã Phú Lễ, huyện Ba
Tri) là một sinh hoạt văn nghệ dân gian có tính chất lễ nghi nông nghiệp pha
trộn với ma thuật Đạo giáo, chủ yếu diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán. Đôi khi hát
sắc bùa Phú Lễ cũng được tổ chức vào dịp cúng đình hàng năm ở ngay tại đình
làng.
Tục hát sắc bùa có địa chỉ hẳn hoi là xã
Phú Lễ, nhưng kết quả điều tra thực tế cho thấy địa bàn hoạt động của nó rộng lớn,
gồm các xã lân cận như các xã Phú Ngãi, Phước Tuy, An Đức, An Bình Đông, Mỹ
Nhơn (huyện Ba Tri) và Tân Thanh (huyện Giồng Trôm).
Tục hát sắc bùa chúc Tết là một tục lệ có
từ lâu đời, phổ biến ở nhiều nơi, từ Bắc chí Nam: Hòa Bình, Nghệ Tĩnh, Bình trị
Thiên và một số tỉnh miền Nam Trung Bộ từ Phú Yên trở ra. Như vậy hát sắc bùa
không phải là nơi sản sinh ra tục hát sắc bùa. Trong khi đi tìm nguồn gốc của
nó, một số nhà nghiên cứu, sau khi so sánh những yếu tố tương đồng giữa hát
sắc bùa Phú Lễ với hát sắc bùa của một số địa phương (kể cả tục hát xéc
bùa của người Mường) đồng thời có liên hệ đối chiếu với hàng loạt gia phả
của một số gia đình, dòng họ ở đây, đã đi đến bước đầu kết luận rằng hát sắc
bùa Phú Lễ có rất nhiều yếu tố đồng nhất với hát sắc bùa Nam Trung Bộ về
các phương diện: mục đích cuộc hát, biên chế nhạc cụ, hệ thống tiết mục, làn
điệu, bố cục, hình thức văn học, đặc điểm âm nhạc...
Đội hát sắc bùa thường được tổ chức từ 4
đến 6 có khi lên đến 8 người, có một ông bầu điều khiển. Đội hát được coi là
đầy đủ phải có 6 nghệ nhân biết chơi 6 nhạc cụ. Một cuộc hát thường có 2 phần:
phần đầu có tính chất nghi lễ - phong tục, tiếp đến là phần diễn xướng giúp vui
có tính chất thiên về sinh họat văn nghệ. Hát sắc bùa là hình thức diễn xướng
tập thể, có xướng có xô, có nhạc cụ phụ họa và nhịp phách rõ ràng. Lời hát là
những câu thơ dân gian thuộc thể sáu tám hoặc thơ 4 chữ.
Về nội dung, gạt ra một bên những câu hát
nặng tính chất xưng tụng, nghi lễ xen lẫn với những phù chú "tống quĩ trừ
ma" (chủ yếu ở phần đầu), lời hát sắc bùa phản ánh những ước mơ của người
lao động trong dịp đầu năm mới: người làm ruộng mong "mùa màng bội
thu", "cây trái tốt tươi", người dệt vải "làm không kịp
bán", thợ nề, thợ mộc được “người ta năng rước”, xã hội “trăm nghệ tân
phát”, “người yên, vật thịnh"...
Theo xu hướng và nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao của xã hội, nội
dung của hát sắc bùa Phú Lễ đã có nhiều thay đổi, ngày càng gắn với hiện thực
của đời sống hơn, trong khi phần tập tục, nghi lễ mang tính chất ma thuật phai
nhạt dần.
Vua" vọng cổ Viễn Châu - Người khai
sinh "tân cổ giao duyên"
Nửa thế kỷ qua, nghệ sĩ Viễn Châu đã sáng
tác hơn 50 vở cải lương và 2.000 bài ca vọng cổ. Ông là cây đại thụ hiếm hoi của
nền nghệ thuật cổ truyền dân tộc thế kỷ XX còn lại đến hôm nay.
Mặc dù đã có một số lượng tác phẩm đồ sộ
như vậy, nhưng đến nay lão nghệ sĩ vẫn không ngừng sáng tác. Ông xuất hiện
thường xuyên trong các chương trình cổ nhạc hay làm giám khảo thi tuyển giọng
ca cải lương.
Nhớ về thời tuổi trẻ, ông cho biết, gia
đình chính là chiếc nôi khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho mình: "Cha tôi
là hương cả trong, làng, biết Hán văn, lại rất mê cổ nhạc. Anh em chúng tôi vừa
lớn lên được ông nội và cha dạy cho Hán văn và khuyến khích chơi nhạc. Tôi rất
thích chơi đờn tranh tài tử. Chính nhờ ngón đờn tranh đã nuôi sống tôi trong
thời gian đầu lang thang lên Sài Gòn chơi nhạc".
Bên cạnh việc chơi nhạc tài tử khi còn ở
quê nhà, Viễn Châu còn tập viết văn, làm thơ. Năm 16 tuổi, lần đầu tiên ông có
truyện ngắn Chàng trẻ tuổi và bài thơ Thoi mộng được đăng trên
nhật báo Dân mới và Tổng xã báo.
Nghệ sĩ Viễn Châu nhớ lại: "Khi thấy
bài mình in trên báo, tôi sướng lắm. Máu nghệ sĩ nổi lên, tôi quyết chí giang
hồ, trốn nhà lên Sài Gòn chơi nhạc. Nhưng mới hơn một năm thì anh tôi lên tìm
bắt về. Mấy năm sau, tôi mới lên lại Sài Gòn lần thứ hai cùng chơi nhạc với các
danh cầm Văn Vĩ, Năm Cơ. Nghệ danh Bảy Bá cũng có từ đó".
Năm 1950, được sự khuyến khích của bậc
đàn anh Năm Châu (tức NSND Nguyễn Thành Châu), Viễn Châu đã hoàn thành vở cải
lương đầu tay Nát cánh hoa rừng. Ngay sau đó, vở tuồng này được chính
nghệ sĩ Năm Châu cho dàn dựng biểu diễn trên sân khấu Việt kịch ở Sài Gòn và
gây được tiếng vang.
Từ sự khởi đầu thuận lợi đó, Viễn Châu
tiếp tục sáng tác hàng chục vở, tiêu biểu như: Hoa Mộc Lan, Đời cô Nga, Tình
mẫu tử, Bông ô môi, Cưới vợ cho vua, Ai điên ai tỉnh, Sau bức màn nhung, Chuyện
tình Hàn Mặc Tử, Hai nụ cười xuân... Thời đó, Viễn Châu còn sáng tác hàng nghìn
bản vọng cổ nhưng vẫn không kịp cung ứng cho các hãng, đĩa cổ nhạc. Những bản
vọng cổ của ông khi lãng mạn trữ tình, khi bi hùng ai oán: Tình anh bán
chiếu, Cô hàng chè tươi, Lá trầu xanh, Lan và Điệp, Gánh nước đêm trăng, Hán Đế
biệt Chiêu Quân...
Theo đánh giá của giới nghệ sĩ nếu như
bậc tiền bối Cao Văn Lầu có công khai sinh bản vọng cổ thì Viễn Châu lại góp
công lớn làm cho nó hay hơn, đẹp hơn, nâng lên một tầm vóc mới.
Giống như sự cách tân trong hội họa hay
thi ca, kể từ năm 1964, Viễn Châu đã thổi một luồng sinh khí mới vào làng cổ
nhạc khi ông công bố những bản "tân cổ giao duyên" bằng thể nghiệm
ghép tân nhạc vào bản vọng cổ truyền thống, làm cho nó phong phú hơn, linh động
hơn.
"Tân cổ giao duyên" - cái tên
đáng yêu do chính Viễn Châu đặt ra cũng nhanh chóng trở nên quen thuộc với khán
thính giả như chính bài ca vọng cổ cách tân đã nhanh chóng được chấp nhận. Sức
sống của tân cổ giao duyên trong gần 40 năm qua đủ minh chứng cho sự thành công
của soạn giả Viễn Châu.
Nghệ sĩ Viễn Châu tâm sự: "Điều cốt
yếu là thời trước anh em chúng tôi sống gắn liền với sân khấu, lấy sân khấu làm
nhà, nghệ sĩ với nhau như anh em ruột thịt. Tôi thích cổ nhạc từ nhỏ, ước mơ
mang tiếng đờn đi chơi để kết nối tình bạn, chớ không nghĩ nó là nghề sinh
kế" .
Ông cũng tỏ ra hết sức lo lắng cho nên âm
nhạc cổ truyền dân tộc hiện nay: "Cổ nhạc hiện có nhiều anh em trẻ giỏi,
những chơi hơi thiếu cái hồn nhạc. Hình như do cuộc sống xô bồ nên nét nhạc của
họ ít truyền cảm đi. Muốn giỏi, người nghệ sĩ cần phải có tâm nhạc".
Câu chuyện rất hay
Trả lờiXóa