Tản mạn về lập luận
GS
TS Nguyễn Đức Dân
1. Lập
luận – một môn học cần thiết
Một nguyên
lý sư phạm cho nền giáo dục tiên tiến: cấp cần câu chứ không cho cá. Cái
cần câu cấp cho người học là phương pháp độc lập tư duy, đánh giá, phát
hiện và giải quyết vấn đề. Trước hết, đó là phương pháp tư duy
phản biện (critical thinking) mà cốt lõi là lý thuyết lập luận (argumentation).
Sống trong xã hội , con người luôn luôn dùng tới lập luận. Biết cách lập
luận, chúng ta nói năng có lô gích, có lý lẽ và thuyết phục. Hơn ai
hết cách nghị sĩ càng cần rèn luyện về lập luận. Hầu như trong
chương trình của các nền giáo dục tiên tiến đều có môn này. Khi có thói
quen tư duy phản biện, hiện tượng được nhìn nhận, đào sâu tới gốc rễ của
nó. Nhờ nó mà xã hội phát triển theo đúng quy luật. Đừng thấy
từ phản biện mà hốt hoảng. Ai có chân lý, người đó
không sợ tư duy phản biện.
2. Lập
luận là gì?
Xuất phát từ tiền
đề (từ những sự kiện, từ những chân lý được mọi người
thừa nhận) , dựa trên những lý lẽ chúng ta đi tới những kết luận. Đó
là lập luận.
Có hai loại lập
luận: Lập luận để chứng minh một chân lý và lập luận để thuyết
phục.
Loại lập luận thứ
nhất thuộc lô gích hình thức. Đó là toán chứng minh
trong hình học, đại số, vật lý, hóa học…dạy trong trường học. Lý lẽ
trong loại này là những định lý, định luật, quy tắc… đã biết.
Trong đời thường
còn có loại lập luận để thuyết phục, tạo niềm tin, nói sao cốt để
người nghe thấy “lọt lỗ tai” rồi tin theo điều mình nói hoặc từ bỏ
những xác tín cũ. Lý lẽ chủ yếu ở loại lập luận này là
những lô gích đời thường : “Ở hiền gặp lành” là lý lẽ về quan
hệ nhân quả. “Trời kêu ai người ấy dạ” là lý lẽ về số mạng. “Con nhà tông không
giống lông cũng giống cánh” là lý lẽ về dòng dõi. Đó là những lẽ
thường hay lý lẽ “hiển nhiên là thế”. Loại lập luận này
thuộc lô gích phi hình thức (informal logic). Ở đây lý
lẽ có tầm quan trọng hàng đầu. Chất vấn, trả lời, tranh luận trước
quốc hội là những lập luận để thuyết phục.
Để đi tới
một kết luận, thường trải qua một chuỗi lập luận.
Ví dụ: Xuất phát
từ tiền đề đã được thực tế kiểm chứng “quyền lực thường bị lạm
dụng”, người ta lập luận như sau: Muốn xã hội phát triển
tốt, cần có cơ chế giám sát quyền lực đối với mọi tổ chức, không có
ngoại lệ. Không tổ chức nào đứng ngoài vòng giám sát, nên cơ chế giám
sát lẫn nhau là tốt nhất, hiệu quả nhất. Từ đây hình thành cơ chế tam
quyền phân lập.
Trong lập luận
có những luận đề - những nhận định làm tiền đề hoặc kết
đề. Những luận đề “hiển nhiên” được mọi người thừa nhận thì không cần
chứng minh. Chẳng hạn , “không còn uy tín mà cố gắng bám lấy quyền lực là
vô liêm sỉ” (p. Chủ tịch tỉnh, tập.26, VTV1).
Có những lập luận được
hiểu theo nghĩa biểu trưng. Newton nói: Nếu bạn hỏi một người giỏi
trượt băng làm sao để thành công, anh ta sẽ nói với bạn:ngã, đứng dậy
là thành công. Câu này được hiểu là: Nếu thất bại, hãy kiên trì tiếp
tục con đường đã lựa chọn, bạn sẽ thành công.
3. Lý
lẽ trong lập luận
Những kết
luận không chứng minh, không có lý lẽ là loại lập luận quyền
uy chẳng thuyết phục được ai. Tiếc thay, loại này lại thường thấy trong
diễn đàn QH.
‘Chân lý thuộc
về số đông’ là loại lý lẽ về số lượng. Nó loại trừ lý lẽ “ta
làm theo cách của ta”. Dùng lý lẽ này, GS Hoàng Tụy
viết: “Yếu kém nhất của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là đi lạc
con đường chung của thế giới đang đi. Lạc hậu còn có thể khắc phục
được nhưng lạc đường thì mãi mãi khó đuổi kịp các nước” (SGTT ,
14.10.11)
Ý thức được tầm quan trọng của lý
lẽ ‘chân lý thuộc về số đông’, nhiều đại biểu quốc hội đánh tráo thành nhân
danh số đông. Ông Hoàng Hữu Phước (HHP) nói mà không đưa ra được
chứng cứ thống kê “đa số công dân sẽ không ủng hộ luật biểu
tình” thì chỉ là nhân danh số đông – nhân danh nhân
dân. Ai tin được cái “đa số công dân” của HHP?
Thú vị là lý lẽ
dựa vào uy thế cũng hay được dùng trong QH để tăng thêm trọng
lượng cho lập luận. Khi bàn cần có luật biểu tình cả hai ông D.T.
Quốc và T.T. Nghĩa đều viện tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
4. Ngụy
biện và sai lầm trong lập luận
Luật đặt ra để điều
chỉnh các hành vi xã hội. Xảy ra một vài cuộc biểu tình hỗn
loạn tại sao không nghĩ rằng hãy xây dựng luật biểu tình để hạn chế biểu tình
hỗn loạn mà lại nghĩ cần cấm biểu tình?
Đánh tráo khái
niệm là một cách ngụy biện hay thấy trong lập luận nghị trường.
Từ demonstration ( biểu tình) xuất hiện trong tiếng Anh từ thế kỷ XIV (
1325 – 1375) là hình thức đấu tranh của một tập hợp người, công khai
đòi quyền lợi, chống bất công, phản đối một điều gì đó đối với giới
chủ hay nhà cầm quyền được ông HHP đánh tráo thành
biểu tình với động cơ chính trị “chống chính phủ”, ông đại
biểu H. thậm chí còn đẩy lên thành “chống chế độ” . Đây là
kiểu lập luận chụp mũ hù dọa. Tại sao ông HHP lại quên mất bên cạnh những
cuộc biểu tình “chống” còn có những cuộc biểu tình ủng hộ - chống lại cuộc biểu
tình “chống”. Câu
chuyện phe ‘áo đỏ’, ‘áo vàng’ bên Thái còn chưa xa.
Nếu xuất phát từ
những tiền đề vu vơ, những lý lẽ tào lao thì lập luận chẳng thuyết phục
nổi ai. Xem xét quyền biểu tình theo trình độ dân trí và
nền kinh tế là một lối tư duy hết sức tùy tiện. Lối lập luận này cùng “tầm
cỡ” lập luận của ông T.T.Cảnh - đại biểu QH khóa trước:
Các nước có chỉ số IQ cao thì người ta làm đường cao tốc.
Không ai là người hoàn hảo. Và cũng
không có chính phủ nào hoàn hảo. Người dân trong một thể chế dân chủ và nhà
nước pháp quyền dùng quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình để tham
gia quản lý xã hội , nhằm giúp chính phủ tự điều chỉnh cho hoàn hảo hơn. Những
cuộc biểu tình như thế không hề làm “ô danh đất nước”.
Về cuộc biểu tình ở Thái Bình
năm 1980, từng có ý kiến cần dùng biện pháp “đàn áp bạo loạn”. Nhưng
chính vì nhìn nhận nó theo hướng dân chủ và tích cực, các nhà lãnh đạo Việt Nam
thời ấy đã “đi vào tâm bão” và giải quyết êm thấm vụ việc.
Đẩy người dân sang
phía đối kháng thì dễ, kéo họ về phía ta khó hơn nhiều.
Về phương diện lập
luận, chân lý không phải luôn luôn thuộc về số đông. Chỉ mình ông Dương Trung
Quốc phát biểu ủng hộ cần luật biểu tình, nhưng hầu như không ai có tranh luận
bác bỏ. Vậy ông D.T. Quốc đúng.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa