Suy ngẫm về đặc trưng của văn hoá Nhật Bản
- Vĩnh Sính[1]
Trận động đất kinh hồn hôm 11 tháng 3, 9 độ Richter, tiếp đó là tsunami,ithường
cao ít nhất là 3 mét và có khi lên cao đến 38 mét, đã tấn công vùng
Tôhoku (Đông-Bắc) và Kantô ở Nhật Bản. Kantô gồm thủ đô Tokyo và vùng
xung quanh,
tức là 6 tỉnh Ibaraki, Tochigi, Gunma, Saitama, Chiba, và Kanagawa.
Thế là trong khoảnh khắc Nhật Bản đang phải gánh chịu 3 khổ đau trong
cùng một lần : động đất, tsunami, và hiểm hoạ hạt nhân do các lò phát
điện hạt nhân ở tỉnh Fukushima — cách Tokyo 250 kilomet về phía Đông
Bắc. Hiện nay, vấn đề các lò phát điện hạt nhân chưa giải quyết xong,
một số rau ở vùng Kantô và một hồ trữ nước ở Chiba do gió, mây, và mưa
bị nhiễm xạ.
Thủ tướng Kan Naoto của Nhật đã tuyên bố : “ Nhật đang phải hứng chịu thảm họa lớn nhất sau Chiến tranh Thế giới thứ II ”. Sự thật đây là trận động đất lớn nhất kể từ ngày Nhật Bản có máy đo địa chấn vào thời Minh Trị.
*
Thế
giới trong những ngày này cũng đang sửng sốt khâm phục, ngưỡng mộ thái
độ khắc phục tai biến của người Nhật Bản. Nhằm vượt qua muôn vàn khó
khăn do thảm hoạ địa chấn gây ra, người Nhật tỏ ra luôn luôn bình tĩnh,
trọng kỷ luật trong mọi tình huống, biết tôn trọng người khác, tuyệt
nhiên không có chuyện lược đoạt cướp bóc, luôn luôn giữ danh dự cá nhân
và tập thể. Chính vì vậy, tờ The Wall Street Journal trong phần xã luận đã viết : “ Sau
trận động đất kinh hoàng 300 năm mới có một lần, người Nhật đã giữ được
bình tĩnh giữa tình trạng loạn lạc, thực hiện nhiệm vụ cứu nạn khổng lồ
và nhận được sự ngưỡng mộ của cả thế giới ”.ii
Thị
trường tài chánh quốc tế chắc hiểu tinh thần người Nhật trong khổ đau
nên đã tăng giá đồng yen. Chúng ta còn nhớ trong trận động đất
Hanshin-Awaji (vùng Kobe) vào năm 1995, đồng yen không ngờ tăng giá 20
%, hoặc sau Thế chiến thứ II người Nhật Bản đã làm nên kỳ tích là khắc
phục bao gian khổ và khó khăn để trên căn bản phục hồi đất nước 10 năm
sau đó từ đống tro tàn.
Vào hôm 12 tháng 3, Tân Hoa Xã, hãng thông tấn đại diện cho lập trường chính thức của Trung Quốc, cho biết : “ Một người Nhật đã liều bỏ mình để cứu 20 công nhân đang thực tập đến từ Đại Liên, Trung Quốc
”. Người Nhật đó là Satô Mitsuru, giám đốc công ty thủy sản Satô
Suisan. Khi động đất xảy ra 11 tháng 3, đoàn công nhân thực tập 20 người
đang ở thành phố Onagawa, thuộc tỉnh Aomori ở phía Đông Bắc đảo Honshu.
Vì hoàn toàn không có kinh nghiệm về động đất, đoàn thực tập kéo nhau
đã về cư xá của họ để lánh nạn. Ông Satô Mitsuru mới dẫn họ lên một đền
Thần đạo trên chỗ cao ráo hơn. Sắp đặt cho những người này có chỗ tị nạn
an toàn xong, ông Satô trở lui về cư xá để lo chuyện khác. Vừa lúc ấy,
tsunami đánh vào vùng đó ; ông Satô đã bị sóng cuốn đi mất. Một công
nhân thực tập khóc tức tưởi, kể lại cho phóng viên Tân Hoa Xã : “ Từ trên đồi chính mắt tôi nhìn xuống thấy rõ sóng nước cuốn lôi ông đi ”. Anh kể tiếp với điều kiện giấu tên : “ Nếu không có sự giúp đỡ của người dân trong vùng, chắc chắn chúng tôi đã bị sóng nước cuốn đi hết rồi ”.
Câu chuyện cảm động này được đăng lên ở Tân Kinh Báo (Bắc Kinh) với đầu đề là “ Cảm động ”. Báo Asahi Shimbun ở Nhật Bản đã bình luận : “ Tình thương quả thật là vô bờ bến ! ”iii
Sau đây chúng ta thử tìm hiểu vì sao nước Nhật lại có thể làm những chuyện kỳ vĩ như thế.
*
Trước khi làn sóng Tây xâm
ồ ạt đánh vào bờ các nước ven Thái Bình Dương khoảng giữa thế kỷ XIX,
Trung Hoa là trung tâm của Đông Á. Với tư cách là nước ở giữa, thể hiện
cho tinh hoa của một nền văn hoá rực rỡ lâu đời. Trung Hoa xem các nước nằm trên ngoại vi của mình là “ man di mọi rợ ”. Vì văn minh Trung
Hoa là khuôn thước và mẫu mực của các nước Đông Á, không mấy khi Trung
Hoa bận tâm để ý đến những nét đặc thù của các nước láng giềng.
Bàn về mối giao lưu văn hoá
một chiều, có đi không lại, của Trung Quốc và Nhật Bả̉n trước thập niên
1960 — tức là trước khi Nhật Bản bước đầu trở thành một cường quốc kinh
tế — nhà Trung Quốc học nổi tiếng Yoshikawa Kôjirô đã đưa ra nhận xét :
“ Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước có vị trí
địa lý nằm gần nhau. ...Nhật Bản luôn luôn ý thức Trung Quốc là người
hàng xóm và kính nể nền văn hoá
của Trung Quốc... Ngược lại, năm thì mười hoạ Trung Quốc mới ý thức
rằng Nhật Bản là nước láng giềng. Ngay sự tồn tại của nước Nhật cũng
không được nhắc đến một cách liên tục trong tư liệu lịch sử của Trung
Quốc, huống hồ là văn hoá Nhật Bản thì Trung Quốc chẳng mảy may quan tâm
đến. Nói một cách khác, đối với người Nhật, trong quá khứ Trung Quốc
luôn luôn là nước láng giềng; còn Trung Quốc thì không nhất thiết nhìn
Nhật Bản như vậy ”.iv Nói rộng ra, không chỉ riêng gì với văn hoá Nhật Bản, mà đối với văn hoá của tất cả các nước xung quanh, thái độ của Trung Quốc nói chung là lúc nào cũng thờ ơ, hờ hững. Đối với Trung Quốc, văn hoá Trung Hoa — với trọng điểm là Nho giáo và chữ Hán — là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường trình độ văn minh của các nước lân bang.
Điểm khác biệt quan trọng giữa Nhật Bản và Việt Nam trong quan hệ
đối với Trung Hoa là vị trí địa lý : Nhật Bản nằm cách rời đại lục
Trung Hoa bởi một eo biển khá rộng (khoảng 700 cây số) và có nhiều sóng
lớn. Khoảng từ Kyushu đến bán đảo Triều Tiên, ở gần Nhật nhất, cũng gần
180 cây số, tức gấp ba lần eo biển Dover giữa Anh và Pháp. Thứ nữa, ảnh
hưởng của Trung Quốc đối với Nhật Bản không trực tiếp và có tầm mức sâu
rộng như ở Việt Nam hoặc bán đảo Triều Tiên — liền sông liền núi với
Trung Quốc.
Cũng nhờ sự cách ly địa lý nói trên mà vừa ‘đủ gần’ để Nhật có thể tiếp thu văn hoá Trung Hoa trước thời cận đại, nhưng cũng vừa ‘đủ xa’ để khỏi bị xâm lấn. Bởi vậy, mối quan hệ từ những tiếp xúc ban đầu cho đến thế kỷ XIX chỉ giới hạn trên lãnh vực văn hóa. Khi nhìn lịch sử tiếp thu văn hóa Trung Hoa của Nhật Bản, ta có cảm tưởng gần như Nhật Bản có thể điều chỉnh mức độ tiếp thu văn hóa Trung Hoa tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Nói chung thì văn hoá của dân tộc nào cũng có những nét độc đáo ; nhưng trong trường hợp Nhật Bản, nét đặc trưng văn hoá rõ rệt và đồng nhất có thể kiểm chứng qua lịch sử hay quan sát qua những sinh hoạt hiện tại. Những nét đặc trưng đó là:
* Nhấn mạnh sự hoà hợp (harmony)
: Trong ‘Hiến pháp mười bảy điều’ (Jûshichijô no kenpô; chữ ‘hiến pháp’
phải hiểu theo nghĩa xưa, tức là ‘điều lệ’) của Thái tử Shôtoku ( 574
sau CN-622), điều trước tiên là ‘hoà’. Thái tử viết : ‘Dĩ hoà vi quý’
(Lấy sự hoà thuận làm trọng). Chữ ‘hoà’ vì đối với người Nhật quá quan trọng,
đã trở thành một tiếng mang cùng nghĩa với Nhật Bản. Ví dụ, khi người
ta nói ‘Ei-Wa Jiten’ , tức ‘Anh-Hoà Từ điển’ thì có nghĩa là ‘Anh-Nhật
Từ điển’, hay theo tiếng Việt là ‘Từ điển Anh Nhật’.
Trong một hãng hay một công ty, văn phòng quan trọng
nhất không phải là tài chánh, kinh doanh hay kế toán, mà chính là
Jinji-ka (Nhân sự - Khoa), tức là ‘Phòng Nhân sự’, hay Personnel
Department — tức phòng lo việc bổ nhiệm, thuyên chuyển, giữ hồ sơ, lý
lịch của nhân viên đồng thời lo việc liên lạc hay giao tế. Lý do là vì
người Nhật xem ‘hoà’ là tối thiết yếu.
* Tính hiếu kỳ và nhạy cảm đối với văn hoá nước ngoài :v
Mặc dầu rất nhạy cảm đối với văn hoá nước ngoài, người Nhật Bản rất ý
thức về tài sản văn hoá của họ — một nền văn hoá đã được trang trọng
tích luỹ và bồi dưỡng qua các triều đại. Người Nhật không ngừng theo dõi
những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng
của các trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản. Một điều đáng chú ý
là khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hướng chấp
nhận, nghiên cứu, học hỏi, không để mất thời cơ. Ví dụ, vào hậu bán thế
kỷ IX, nhận thấy Tây phương là trung tâm của khoa học tiên tiến, Nhật
Bản vừa gởi sinh viên sang Âu Mỹ du học, vừa mời các chuyên gia nước
ngoài đến Nhật để giúp họ canh tân. Tinh thần thực dụng, óc hiếu kỳ và
nhạy cảm, và luôn luôn cầu tiến là những động lực thúc đẩy họ bắt kịp
các nước tiên tiến.
* Suy nghĩ và làm việc tập thể (group-orientation) :vi Tập thể đóng vai trò quan trọng
trong đời sống người Nhật. Tập thể có thể là công ty, trường học, hay
hội đoàn, v.v. Một biểu tượng rõ ràng nhất của khuynh hướng này là cách
xưng hô watashitachi hoặc wareware (chúng tôi), thay vì watashi
(tôi) khi họ tiếp xúc với người lạ. Trước khi bắt đầu câu chuyện với
người lạ, người Nhật thường trình danh thiếp để giới thiệu tên họ của
mình và cơ quan mình trực thuộc. Khi giao thiệp với người Nhật việc trao đổi danh thiếp mang một ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ không trình danh thiếp có thể hiểu là buổi gặp gỡ không chính thức cho lắm. Vì tập thể mang một ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người Nhật nên một trong những việc cấm kỵ nhất là làm mất danh dự của tập thể.
Trong
công việc người Nhật thường gác cái ‘tôi’ lại để đề cao cái chung, tìm
sự hoà mình với những thành viên khác trong một tập thể. Trong các buổi
họp hành, người Nhật thường ít cãi cọ hay dùng những ngôn từ có thể làm
mất lòng người khác. Các tập thể (công ty, trường học, hội đoàn kinh tế
hay chính trị, v.v.) có thể cạnh tranh với nhau gay gắt, nhưng tùy theo
hoàn cảnh và trường hợp có thể liên kết với nhau để đạt mục đích chung.
Thí dụ điển hình là hai công ty Nhật Bản có thể cạnh tranh với nhau
trong nước Nhật, nhưng khi ra nước ngoài hai công ty đó có thể bắt tay
nhau để cạnh tranh lại với một công ty thứ ba ngoại quốc.
* Suy nghĩ và làm việc có mục tiêu nhất định (goal-orientation)
: Một đặc điểm trong lịch sử Trung Quốc (và Việt Nam) là khi triều đại
này thay thế triều đại khác thường có hai quá trình ‘phá’ và ‘lập’, tức
là trước khi thiết lập hay xây dựng một chế độ mới, phải phá huỷ chế độ
cũ trước đã. Ở Nhật thì khác. Ví dụ vào cuối thế kỷ XII, khi giai cấp vũ
sĩ (bushi hay samurai) nắm được quyền bính thì họ
cũng không triệt bỏ chế độ thiên hoàng. Trong gần 700 năm giai cấp vũ sĩ
nắm quyền kể từ 1185, tức là từ lúc giai cấp này bắt đầu xây dựng chính
quyền bakufu (mạc-phủ, tức chính quyền quân sự mà người cầm đầu là
shôgun, tức tướng quân) đầu tiên ở Kamakura, cho đến lúc Tokugawa bakufu
bị lật đổ năm 1868, triều đình thiên hoàng vẫn không bị phế bỏ. Đồng
thời, khi quyền bính được phục hồi cho chính phủ thiên hoàng, những
người trong dòng họ tướng quân Tokugawa cũng không bị giết chóc, trừng
phạt, hay đày ải; ngược lại được cấp bổng lộc và có thể đóng góp phần
mình trong công cuộc xây dựng thời Minh Trị.
* Tôn trọng thứ bậc (hierarchy):
Ý thức tôn trọng thứ bậc chắc hẳn đã có từ xưa trong đời sống của người
Nhật Bản. Bằng chứng là sử liệu Trung Quốc sớm nhất vào cuối thế kỷ thứ
III sau CN, dựa trên sự quan sát của
các sứ thần đã đến thăm viếng nước Nhật, cũng có nói rằng ở đất nước
này khi cấp trên đi qua thì dân chúng quỳ xuống ở hai bên vệ đường.
Ngày
nay, ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn được biểu hiện trong đời sống hàng
ngày. Ví dụ, trong phòng họp người có chức vụ thấp nhất sẽ ngồi gần cửa
ra vào, người có chức vụ càng cao càng ngồi gần phía bên trong. Thả hoặc
trong các buổi tiệc tùng, ăn uống đột xuất ở nhà hàng, v.v. không ai
bảo ai, tất cả đều biết chỗ mình có thể ngồi mà không đi ngược lại trật
tự thứ bậc. Trong cách ăn nói cũng vậy, đối với người có chức vụ cao thì
dùng ngôn ngữ kính trọng (keigo), khi nói về mình hay những người trong gia đình mình thì dùng ngôn ngữ khiêm tốn (kensongo).
*
Ngày
26 tháng 3, trên tivi đài NHK của Nhật, có buổi tốt nghiệp tại một
trường trung học ở tỉnh Miyagi, một vùng bị địa chấn và tsunami. Một em
15 tuổi đứng lên đọc diễn từ ; em nói : “ Chúng tôi không oán Trời (Watashitachi wa Ten o uramazu). Chúng
tôi tự nguyện cùng chung sức với bè bạn để vượt qua những khó khăn. Đó
là cách chúng ta mang lại ý nghĩa cho những người đã bỏ mình trong trận
địa chấn và tsunami này ”.
Nghe
đến đó tôi giật mình. Em học sinh 15 tuổi mà ăn nói đàng hoàng và chững
chạc quá ! Đã biết giáo dục Nhật Bản rất tiến, nhưng tôi nào ngờ trong
giờ phút khó khăn này em nói đến những ý tưởng đẹp tuyệt trần : “ Chúng tôi không oán Trời ” và “ đó là cách chúng ta mang lại ý nghĩa cho những người đã bỏ mình trong trận địa chấn và tsunami này ”. Tự dưng tôi cảm thấy ấm lòng, bất giác nước mắt trào ra lúc nào tôi chẳng hay.
Nghĩ
lại từ đầu, ông Satô Mitsuru đã bị tsunami cuốn đi mất bởi mãi lo cứu
đoàn công nhân thực tập Trung Quốc. Chắc hẳn tinh thần trách nhiệm và
danh dự tập thể đã thúc giục ông. Thật là cao cả !
Viết xong ngày 30 tháng 3 năm 2011
Bài viết rất hay
Trả lờiXóaBạn nói đúng
XóaQuá chuẩn
Xóa