Quan sát văn minh Phương Tây ( Chuyện Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Qúy Cáp đi xem chiến hạm Nga cập bến Cam Ranh tháng 4 năm 1905)
- Vĩnh Sính
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đang làm cuộc Nam du từ tháng 2 năm 1905, bắt đầu từ Quảng Nam (...) Vào đến Nha Trang thì đã tháng 4, nghe tàu Nga đang ghé ở Cam Ranh, ba chí sĩ bèn giả làm người bán thức ăn rồi thuê ghe ra tận nơi nhằm quan sát văn minh Tây phương cho thỏa chí. Chúng ta thử phác họa bức tranh toàn cảnh của cuộc đi “thám hiểm” đó.
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Phan Châu Trinh, “Chí thành thông thánh”, 1905
Văn chương tám vế mơ màng,
Muôn dân nô lệ dưới chân cường quyền.
Muôn dân nô lệ dưới chân cường quyền.
V.S. dịch
Lời dẫn nhập: Chiến tranh Nhật-Nga chính thức bắt đầu từ đầu ngày 10 tháng 2, năm 1904.1
Sau khi Nga thất thủ hai cảng Đại Liên (Port of Dalny) và Lữ Thuận
(Port Arthur) trên bán đảo Liêu Đông, Nga yếu thế rõ rệt. Không thể dựa
vào hạm đội Thái Bình Dương (Pacific Fleet) để lật đảo thế cờ,
Nga phải trông chờ vào hạm đội Baltic. Rời cảng Liepaja vào giữa tháng
10 năm 1904, hạm đội Baltic phải đi vòng Phi châu rồi đi qua Ấn Độ Dương
trước khi ngược lên Thái Bình Dương. Dọc đường vừa đi vừa tránh sự nhòm
ngó của hải quân Anh – bởi Anh là đồng minh của Nhật. Madagascar và
Việt Nam là hai thuộc địa của Pháp lúc bấy giờ, bởi vậy Nga có thể cập
bến ở Madagascar và Cam Ranh để lấy thêm than đá và lương thực. Đến cuối
tháng 3 năm 1905, hạm đội Baltic cập bến Cam Ranh.
Mặt khác, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp đang làm cuộc Nam du từ tháng 2 năm 1905, bắt đầu từ Quảng Nam. Nam du nói nôm
na là “đi vào Nam”, Nam đây gồm cả Nam bộ, nhưng giữa đường vì Phan
Châu Trinh bị ốm nặng ở Phan Thiết nên đành phải quay về. Trong ba
người, Phan Châu Trinh thi Hội đỗ phó bảng khoa Tân Sửu (1901) nhưng đã
quải ấn từ quan từ đầu năm 1905; còn Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp vừa đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) nhưng cả hai đều không ra làm quan.
Mục
đích của cuộc Nam du là xem xét dân tình và tình hình, đồng thời chiêu
mộ những người cùng chí hướng để vạch đường cứu nước. Đến Bình Định, vừa
gặp ngày tỉnh mở khoa thi, “người hội hạch đông có năm, bảy trăm”.2 Phan nghĩ rằng “cái học khoa cử làm hại người nước ta đã lâu,... ngày nay còn chun đầu vào như kiến, giấc mộng mê say này không cho một gậy ngang đầu không thể nào thức dậy được”.3
Cả ba giả dạng vào trường thi rồi làm một bài thơ và một bài phú, ký
tên chung là Đào Mộng Giác. Kỳ thật, bài thơ do Phan Châu Trinh làm, có
đầu đề là “Chí thành thông thánh” (Lòng thành thông đạt đến thánh hiền); còn bài phú “Lương ngọc danh sơn” (Ngọc tốt tìm ở núi danh tiếng) do Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý
Cáp cùng làm chung. Đó đúng là “tiếng sét rầm vang cả trong nước, học
giới ta trong hai mươi năm nay, lấy văn tự cổ động để mở mang phong khí,
thì bài thi bài phú đó cũng là một bài có ảnh hưởng trong lúc đầu
tiên”.4
Vào
đến Nha Trang thì đã tháng 4, nghe tàu Nga đang ghé ở Cam Ranh, ba chí
sĩ bèn giả làm người bán thức ăn rồi thuê ghe ra tận nơi nhằm quan sát
văn minh Tây phương cho thỏa chí. Chúng ta thử phác họa bức tranh toàn
cảnh của cuộc đi “thám hiểm” đó.
I
Tảng
sáng ngày 31 tháng 3, 1905, từng chiếc khu trục hạm Nga từ từ ló dạng ở
cửa biển vịnh Cam Ranh còn quyện sương mù. Những chiếc tàu này vượt cửa
Bé vào vịnh trước để kiếm nơi thả neo an toàn cho đoàn tàu 45 chiếc của
hạm đội Baltic,5 tức hạm đội Thái Bình Dương II, dưới quyền chỉ huy của đề đốc Rozhestvensky.
Chỉ
trong vòng 2 tiếng đồng hồ sau đó, hạm đội Baltic thả neo, “đậu thành 5
hàng song song với những chiến hạm bọc sắt lớn nằm án ngữ cửa vịnh”.6
Sau 28 ngày trường vượt trùng dương từ đảo Madagascar thuộc Pháp, Cam
Ranh là bến cảng nghỉ chân đầu tiên sau một hải trình dài 4.500 hải lý.
Cam Ranh cũng là trạm tiếp tế nhiên liệu và lương thực cuối cùng trước
khi đoàn tàu này lên đường đi Vladivostock nhằm trợ chiến cho hạm đội
Thái Bình Dương I đang tranh hùng với hải quân Nhật trên vùng biển Bắc Á
từ hơn một năm ròng. Cam Ranh còn là điểm hẹn với hạm đội Thái Bình
Dương III của đề đốc Nebogatoff hãy còn lẽo đẽo theo sau.
Hạm đội Baltic đang cập bến ở Madagascar
Trước
đó Cam Ranh đã một thời là bến cảng khá nhộn nhịp của hải quân Pháp.
Vào thời điểm năm 1905, quân cảng này đã “đượm vẻ hoang vắng điêu tàn”.7 Nhưng dù sao Cam Ranh vẫn nổi danh là một “hải cảng thiên nhiên toàn bích, an toàn, rộng rãi, mặt nước phẳng lặng như tờ”.8
Chiến hạm Nga tuy đã lỗi thời, nhưng những giàn cự pháo 12 ly và 10 ly
trang bị trên tàu là lý do khiến nhiều quan sát viên cho rằng hải quân
Nga “chỉ có thể thua trận trong trường hợp khả năng pháo kích của họ quá
tồi”.9
Bởi vậy, sau khi hạm đội Baltic vào hạ neo ở Cam Ranh, dư luận báo chí ở
Singapore, Manila, Malacca, Sài Gòn, Hồng Công và những thành phố nhiều
người Hoa ở ven biển Thái Bình Dương không ngớt chào xáo về một trận
hải chiến không tiền khoáng hậu sắp diễn ra trong nay mai.10 Sĩ phu nước ta chắc hẳn cũng nhờ vậy mà theo dõi được những diễn tiến của chiến tranh Nhật-Nga.
Ngày 2 tháng 4, đề đốc Pháp de Jonquières, phó tư lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, dẫn tuần dương hạm Descartes
ghé thăm xã giao hạm đội Nga. Nhưng khi de Jonquières trở lại ngày 22
tháng 4, tuy vẫn giữ thái độ hòa nhã bặt thiệp, đề đốc Pháp yêu cầu hạm
đội Nga phải nhổ neo trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Tai
sao Pháp lại có thái độ lạnh nhạt với Nga? Lý do dễ thấy nhất là lục
quân Nga đang bị lục quân Nhật do danh tướng Nogi Maresuke chỉ huy phản
đòn tới tấp trên chiến trường Mãn Châu. Nhưng lý do chính yếu vẫn là áp
lực của Nhật và đồng minh là Anh. Bằng mọi cách, hai nước này đòi Pháp
phải ngưng chỉ những “hành động có tính cách dung túng” (indulgent attitude)
đối với hạm đội Nga. Thêm vào đó, chính quyền Hoa Kỳ cũng cảnh giác cực
độ trước sự xuất hiện của hạm đội Nga ở một địa điểm không cách bao xa
thuộc địa mà họ mới chiếm từ Tây Ban Nha là Phi Luật Tân.
Nhật báo Evening Sun
ở New York bình luận: “Nếu không có sự dung túng” của Pháp và “tệ hơn
nữa là sự vô ý” của chính phủ quyền Đông Pháp đã cho phép hạm đội Nga
ghé vào Cam Ranh lâu hơn thời hạn 24 tiếng đồng hồ theo luật quốc tế,
thì Rozhestvensky không tài gì có thể chuẩn bị giao chiến với hạm đội
Nhật. Bài báo kết luận là “ai cũng thấy rằng nếu không có sự che chở của
Pháp”, toàn bộ hành trình 18.000 hải lý của Rozhestvensky từ biển
Baltic, xuống Đại Tây Dương, vòng châu Phi qua Ấn Độ Dương, rồi ngược
lên miền Bắc Thái Bình Dương “bất quá chỉ là một kế hoạch vô vọng, điên
khùng” (a hopelessly mad enterprise)”.11 Cần nói thêm
là hạm đội Baltic phải vừa đi vừa tránh sự nhòm ngó của hải quân Anh,
nhưng nhờ có căn cứ hải quân của Pháp ở Madagascar và Việt Nam cung cấp
than đá và lương thực nên cuối cùng mới có thể tham chiến, mặc dù sau đó
sẽ bị hải quân Nhật của đề đốc Tôgô Heihachirô (mà sách ta thường gọi
là Đông-hương Bình-bát-lang 東郷平八郎) tập kích ở eo bể Tsushima và tiêu
diệt sau 24 giờ giao tranh.
Trước
yêu sách đột ngột của chính quyền Đông Dương, đúng 1 giờ trưa hôm sau,
Rozhestvensky ra lệnh nhổ neo và cho hạm đội Baltic “dàn thành đội ngũ
ngoài cửa vịnh Cam Ranh”. Quang cảnh hoành tráng của hạm đội Nga lúc bấy
giờ được mô tả trên báo The Times của Anh như sau: “Các chiến
hạm Nga dàn thành một hình cánh cung dài như vô tận, trải dài từ mũi
Valera sang tận mũi bên này của bán đảo Cam Ranh”.12
Sau khi de Jonquières đã trịnh trọng đưa tiễn chân soái hạm của
Rozhestvensky ra đến cửa vịnh, nhằm tránh trách nhiệm cho Pháp là đã cho
phép hạm đội Nga vào lấy thêm nhiên liệu và lương thực trong một thời
gian khá lâu, ông đánh điện về sở chỉ huy với lời lẽ khôn khéo, tựa hồ
như chẳng hay biết gì cả về tình hình chiến sự Nhật Nga: “Hạm đội Nga đã
rời bờ biển An Nam và đang tiến về hướng Đông. Không rõ sẽ đi đâu”!13
Sự thật thì sau khi tuần dương hạm của de Jonquières vừa đi khuất,
Rozhestvensky lại đưa hạm đội của mình vào ẩn náu, lần này ở vịnh Vân
Phong, không cách cửa Bé bao xa. Trên thực tế Rozhestvensky chỉ ra khỏi
bờ biển Việt Nam vào ngày 14 tháng 5, sau khi hạm đội Thái Bình Dương
III của đề đốc Nebogatoff đã bắt kịp và đã lấy thêm than đá nhằm chuẩn
bị cho cuộc hành trình định mệnh. Ngoài ra, trước khi rời Cam Ranh,
Rozhestvensky cũng đã khôn khéo dàn xếp để de Jonquières mặc nhận cho
một số tàu tiếp tế của hạm đội Baltic khỏi di chuyển ngay nhằm có đủ
thời gian để bốc xếp hết than đá.
Hạm đội Baltic đang đi ngang qua vịnh Singapore
Cần nói thêm
là trước đó, vào ngày 15 tháng 4, bốn chiếc tàu vận tải của hãng
Hamburg-Amerika (Đức) chở 30.000 tấn than đá đã cập bến Cam Ranh để cung
cấp nhiên liệu cho hạm đội Baltic. Vì không biết cuộc thư hùng với hải
quân Nhật sẽ kéo dài bao lâu, mọi chiến hạm được lệnh đổ than tới mức
tối đa. Những chỗ trống trên tàu hầu như đều trở thành nơi chứa than.
Than đổ bừa bãi ngay cả trên boong tàu, chỉ có sàn pháo đài được chừa
trống nhằm khỏi vướng vít khi lâm chiến.14
Tàu chở than cũng mang theo thư tín gia đình cho thủy thủ gửi qua một
địa chỉ trung gian ở Sài Gòn. Hôm đó cũng là ngày đầu tiên sau mấy tuần
lễ lênh đênh trên đại dương, thủy thủ trên tàu được ăn xúp cải bẹ và rau
tươi chở từ Sài Gòn. Những thương nhân người Pháp cung cấp lương thực
đủ loại cho hạm đội, từ trái cây, rau tươi, cho đến bột mì, đồ hộp hay
thịt gà, thịt bò. Những hàng này bán “với giá cao kinh khủng, chưa nói những
mặt hàng xa xỉ có lời lớn như rượu vang hay rượu mạnh”. Bởi vậy, có thể
hiểu tại sao chính phủ Đông Pháp đã chần chừ không muốn nhanh chóng
chấp hành lệnh trục xuất.15 Thương nhân người Việt cũng thường mang thực phẩm ra bán bằng ghe.16
Đặc biệt vào đêm 16 tháng 4, 1905, biết thủy thủ Nga sẽ ăn mừng lễ Phục
Sinh, ghe thuyền của các thương nhân người Việt chở gà vịt, rượu đế ra
bán cho tới khuya. Thủy thủ Nga nhận xét là các mặt hàng do người “An
Nam” chở ra bán giá phải chăng, đặc biệt họ tấm tắc tán thưởng món rượu
đế, khen là “mỹ tửu” giống rượu của người Nga17 – ý chừng muốn so sánh với rượu Vodka.
II
Có
ai ngờ trong những ghe ra bán thực phẩm trên tàu Nga lúc ấy lại có
chiếc ghe chở ba người giả dạng thương nhân để quan sát tận mắt văn minh
cơ khí của phương Tây! Ba thương nhân giả dạng này không ai khác hơn là
ba nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp trong chuyến Nam du.
Trong
tự truyện, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại về việc lên xem tàu Nga qua mấy
dòng đơn giản như sau: “Lúc đi ngang qua Nha Trang, được tin chiến hạm
Nga đậu tại Cam Ranh, bèn giả khách buôn, thuê thuyền đánh cá, mua trứng
gà cùng trái cây các thứ, lên thuyền Nga xem rất khoái. Đấy chẳng qua
vì tính thiếu niên hiếu kỳ, chứ không có ý gì”.18
Trong ba nhà chí sĩ nói trên, chỉ có Huỳnh để lại chứng từ về cuộc “thám hiểm” độc đáo này. Cũng dễ hiểu thôi, vì Trần Quý
Cáp thì mất sớm – ba năm sau (1908), khi phong trào Dân biến ở miền
Trung bột phát, cụ bị án sát Khánh Hoà là Phạm Ngọc Quát sát hại, còn
Phan Châu Trinh thì ít khi đề cập đến việc riêng tư trong các trước tác
văn xuôi (hầu hết là chính luận), hay nếu có nhắc tới chuyện riêng
chăng nữa thì cũng để làm sáng tỏ những công việc chung có liên hệ tới
đồng bào và đất nước mà thôi. Hơn nữa, người nước ta hầu như không có
truyền thống biên chép chi tiết về mọi sự việc.
Các
đây khá lâu, khi đọc những dòng chứng từ trên đây của Huỳnh Thúc Kháng,
người viết không khỏi lấy làm lạ. Đã đành Huỳnh Thúc Kháng là người có
trí nhớ tuyệt vời, hầu như chẳng bao giờ lẫn lộn các chi tiết, bởi vậy
chúng tôi tin việc các cụ tự mình “tạo điều kiện” để lên quan sát chiến
hạm Nga hơn 100 năm trước đây phải là chuyện có
thật nên Huỳnh mới ghi lại trong tự truyện cho hậu thế biết. Tuy nhiên,
người viết không khỏi thắc mắc vì sao một việc kỳ thú và có ý nghĩa như
vậy mà từ trước tới nay ít thấy ai nhắc đến. Thắc mắc ấy cứ lởn vởn
trong đầu. Chuyện mạo hiểm của các cụ xui chúng tôi nhớ lại một mẩu chuyện tương tự xảy ra ở Nhật Bản vào giữa thập niên 1850.
Khi
chiến thuyền của đề đốc Matthew Perry (Hoa Kỳ) đến Nhật lần đầu tiên
vào năm 1853, nhà chí sĩ Yoshida Shôin (người mà Phan Bội Châu thường
gọi là Cát-điền Tùng-âm 吉田松陰) nhận thấy cần phải tìm hiểu về Tây phương
nên đã táo bạo chèo thuyền nhỏ ra biển rồi tìm cách đột nhập lên tàu của
Perry để tìm đường du học. Kế hoạch không thành, Shôin bị bắt và bị
giao trả lại cho cơ quan hữu trách Nhật, rồi bị giam lỏng một thời gian
trước khi bị hành quyết. Qua những hành động quả cảm trong cuộc đời vỏn
vẹn 29 năm, sau khi mất Shôin được người Nhật xem là “người đi tiên
phong của phong trào dẫn đến Minh Trị Duy tân”. Một chi tiết rất ít được
biết tới, nhưng cụ Ngô Đức Kế có thuật lại rằng khi quan tỉnh lên án
đày Huỳnh Thúc Kháng ra Côn Đảo (1908) “có dẫn việc đi xem thuyền Nga mà
bắt tội”.
Nhớ lại chuyện cũ, gần đây chúng tôi tìm đọc các sách nói về
hạm đội Baltic thử xem có cuốn nào ghi lại thời gian hạm đội cập bến ở
Cam Ranh hay chăng. May mắn thay, chúng tôi tìm được hai cuốn sách tiếng
Anh, một cuốn đặc biệt nghiên cứu về hạm đội Baltic và một cuốn là hồi
ký của một sĩ quan Nga trên hạm đội Baltic còn sống sót sau trận hải
chiến với hải quân Nhật ở eo bể Đối Mã. Cả hai cuốn thuật lại khá chi
tiết những sự việc xảy ra khi hạm đội vào đậu ở Cam Ranh. Hai cuốn sách
đó là : The Fleet That Had to Die (Hạm đội phải bị tiêu diệt) của Richard Hough và Tsushima
(Eo bể Đối Mã) do A. Novikoff-Priboy trước tác. Những thông tin về hạm
đội Baltic trong thời gian cập bến ở Cam Ranh trong phần đầu của bài
viết này phần lớn dựa theo hai nguồn tài liệu đó. Căn cứ vào những thông
tin này chúng tôi mới biết chắc là có khá nhiều ghe thuyền của các
thương nhân người Việt ra bán thực phẩm cho thủy thủ và việc lên tàu của
các thương nhân này cũng khá dễ dàng – một phần có lẽ do nhu cầu khẩn
thiết của thủy thủ người Nga về lương thực, đặc biệt là các thức ăn
tươi. Do đó, chúng ta có thể suy luận là việc giả dạng làm thương nhân
của ba nhà chí sĩ chắc hẳn cũng không mấy khó khăn, điều cốt yếu là cần
phải có óc quả cảm, táo bạo và liều lĩnh thì họa hoằn mới dám nghĩ tới
kế hoạch đó.
Vậy trong bộ ba Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý
Cáp, ai là người khởi xướng việc này? Chắc hẳn người đó không phải là
Huỳnh Thúc Kháng, vì đúng như nhà nghiên cứu Huỳnh Lý đã nhận xét, Huỳnh
Thúc Kháng “nhanh nhạy chốn trường ốc nhưng chất phác ở ngoài đời”.19 Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp tính tình đã hăng say mà còn có tầm nhìn sâu rộng, đặc biệt Phan là người “từng trải và nhạy bén”20 và chắc hẳn là nhân vật có đầu óc táo bạo nhất trong bộ ba. Chỉ cần xem một vài hành tung của Phan thì rõ.
Ví
dụ, chẳng bao lâu sau chuyến Nam du, khi nghe tin Phan Bội Châu đã đi
Nhật, Phan Châu Trinh đã tìm cách lặn lội sang Quảng Đông là chỗ Phan
Châu Trinh hẹn với Phan Bội Châu, rồi từ đó sang Nhật chừng 2 tháng (vào
năm 1906) để nhìn tận mắt đất nước mới canh tân sau Minh Trị Duy Tân.
Chính vì Phan Châu Trinh đã quan sát hạm đội Baltic tại Cam Ranh mà
chẳng bao lâu sau đó bị Nhật Bản đánh tan tành, Phan chắc hẳn lại càng
muốn nhìn nước Nhật bằng chính mắt của mình. Rồi cũng chính Phan Châu
Trinh, sau khi được phóng thích từ lao tù Côn Đảo vào năm 1910, đã tìm
đường sang ngay chính nước Pháp để tìm con đường giải cứu cho đồng bào.
Tư tưởng “Nhiều tay vỗ nên bộp” và “Không vào tận hang hùm sao bắt được
cọp” được thể hiện suốt cuộc đời xả thân vì đồng bào, vì nước quên mình
của Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh từng nói: “Việc đời không thể ngồi một xó mà nói được; huống chi thời cuộc chừ gió mây biến đổi, trăm dạng nghìn hình, có đi tới tận nơi mới thấy rõ được”.21 Bởi thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu trên thực tế, giữa Phan Châu Trinh và Trần Quý
Cáp, chính Phan Châu Trinh là người đầu tiên ngỏ ý về cuộc đi quan sát
văn minh Tây phương táo bạo ngay ở vịnh Cam Ranh hơn 100 năm trước đây.
Khi
nhìn lại lịch sử nước nhà vào đầu thế kỷ XX, chúng ta không khỏi có cảm
tưởng là dường như bánh xe lịch sử chuyển mạnh từ năm 1905.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóađúng đó bạn
XóaCảm ơn tác giả
Xóa