LÀM PHIM TRUYỆN LỊCH SỬ - CỔ TRANG, DỄ HAY KHÓ?
Các
chuyên gia điện ảnh Trung Quốc: đạo diễn Viên Thế Kỷ (người đã hợp tác
với Việt Nam thực hiện bộ phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông) cùng nhà biên
kịch Lâm Tây Bình,
đạo diễn Trịnh Hoa (Điện ảnh Quảng Châu) đã đến Hà Nội và TP.HCM cùng
trao đổi với nhiều nhà làm phim Việt Nam về nghiệp vụ và kinh nghiệm làm
phim truyện lịch sử - cổ trang.
Làm thế nào để tạo ra cảm xúc lịch sử trong các bộ phim về đề tài lịch sử - cổ trang?
Theo
đạo diễn Viên Thế Kỷ, mỗi khi xem phim lịch sử, cổ trang trên màn ảnh,
người ta thường để ý trước tiên đến tạo hình thiết kế mỹ thuật. Thật
thế, việc chọn và dàn dựng tái tạo bối cảnh, thiết kế phục trang, hóa
trang cho các nhân vật, đạo cụ trang trí và diễn xuất… là hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, việc tạo được không khí lịch sử
thông qua bộ phim lại quan trọng hơn.
Kinh nghiệm cho thấy, người làm phim cần nắm vững hai nội dung chủ yếu khi sản xuất phim là xây dựng (gồm tổ chức, lên kế hoạch, thiết kế, dàn dựng) và sáng tạo
(gồm tái tạo, chế tạo, đào tạo). Trong thời hiện đại, ta không thể trở
về quá khứ hoặc lặp lại nó bằng cách đảo ngược thời gian. Do đó chỉ có
thể là sáng tạo, tái tạo cho người xem cái không khí lịch sử của thời
đại đã qua. Đó chính là việc thể hiện trong phim cảm xúc lịch sử và vì
thế với nhiều người làm phim, thật khó tránh khỏi tư duy áp đặt chủ
quan. Có nhiều khi càng cố gắng khách quan bao nhiêu lại càng sa vào chủ
quan bấy nhiêu.
Có
thể nói, việc sáng tạo ra không khí lịch sử là sáng tạo mang tính chủ
quan và chịu sự dẫn dắt chủ quan. Điều này rất dễ xảy đến không chỉ với
người sáng tác mà ngay cả các sử gia cũng rất dễ mang dấu ấn chủ quan.
Chính kinh nghiệm, sự từng trải đòi hỏi con người phải nêu cao ý thức
trách nhiệm với sản phẩm do mình tạo ra.
Khi
làm phim lịch sử - cổ trang, người nghệ sĩ thường hay có xu hướng làm
cũ tất cả mọi thứ, từ đạo cụ, trang phục đến bối cảnh… cho ra vẻ cổ xưa.
Thật ra cách nghĩ này không phải lúc nào cũng đúng. Vấn đề là ở chỗ
phải tìm được những điển hình đặc trưng cho từng giai đoạn, tìm ra phong
cách, đặc điểm lịch sử của thời đại mà bộ phim nhắm tới. Thí dụ, trong
một cảnh phim diễn ra ở thời hiện đại có bối cảnh nhà từ đường họ tộc
xưa để lại, khi đưa lên phim phải thấy được sự đã cũ. Ngược lại, khi làm
một phim lịch sử - cổ trang, bối cảnh ngôi nhà mới của đôi vợ chồng vừa
cưới phải làm sao thật mới, thật đẹp mới phù hợp với yêu cầu nội dung.
Rõ
ràng nếu như những đóng góp của thiết kế mỹ thuật cung cấp điều kiện
đầu tiên để tạo nên không khí và cảm nhận có tính chất lịch sử thì vai
trò của đạo diễn với sự phối hợp đồng điệu sẽ tạo nên không khí lịch sử
hoàn chỉnh.
Diễn
xuất trong phim lịch sử - cổ trang khẳng định rõ vai trò của diễn viên,
thành phần đặc biệt quan trọng trong đội ngũ sáng tạo của đoàn làm
phim. Nghệ thuật biểu diễn chính là linh hồn của việc sáng tạo nên không
khí lịch sử. Tất cả tâm huyết, năng lực, cố gắng của mọi thành phần làm
phim, cuối cùng vẫn phụ thuộc vào diễn xuất của diễn viên thông qua
hình tượng nhân vật trên màn ảnh. Do đó, người diễn viên phải đọc sách,
gặp gỡ với thái độ tôn trọng các chuyên gia, bạn đồng nghiệp và tôn
trọng chính mình; không ngừng thâm nhập thực tế để hóa thân vào vai
diễn, hình dung được hành động và cách biểu cảm trạng thái nội tâm, kích
thích trí tưởng tượng và sáng tạo.
Tư
liệu lịch sử để lại cho hậu thế là các di chỉ khảo cổ, tranh vẽ, phù
điêu, tượng tròn và sách vở... Người làm phim phải biết biến những cái
khô cứng, những con chữ chết… thành hiện thực sống động với người xem.
Thái độ học hỏi, tham khảo kinh nghiệm và thành tựu của người khác nhưng
không sao chép một cách rập khuôn mà biết phát huy sáng tạo cá nhân là
điều cần thiết.
Xác định rõ ngôn ngữ biểu đạt khi làm phim lịch sử - cổ trang
Kho
tàng lịch sử thường bao gồm chính sử, dã sử, điển cố, truyền thuyết…
Mỗi thời đại lịch sử có ngôn ngữ khác nhau. Sự độc đáo của nghệ sĩ là
tạo ra mùi vị lịch sử thể hiện đúng ngôn ngữ của thời kỳ đó.
Người làm phim có quyền dùng cổ văn, nhưng phải làm cho người xem thời
nay cũng phải hiểu được. Ngôn ngữ phim lịch sử - cổ trang nằm giữa bạch
thoại và văn cổ, tạo cho người xem có cảm giác đó là cổ xưa. Trong
phương thức tạo hình, có thể chọn hình thức tả thực hoặc tượng trưng sao
cho phù hợp.
Ngôn
ngữ các nhân vật trong phim lịch sử - cổ trang là biểu hiện tính cách
của các nhân vật, mối quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật kia. Vì thế
mỗi giai tầng khác nhau trong xã hội nói gì, nói như thế nào rất cần
nhận diện để phân biệt rõ. Ngôn ngữ có mối liên quan mật thiết với tiết
tấu phim. Thời đại khác, ngôn ngữ và tiết tấu khác nhau. Ngay cả chữ
viết, ngôn ngữ nói… đều có những hàm ý khác nhau. Nhân vật lịch sử là
người đóng vai, được xây dựng từ những căn cứ lịch sử hoặc có tên trùng
với nhân vật lịch sử… Một bộ phim hay là nhờ những chi tiết đắt giá,
những sự kiện điển hình từng được truyền tụng hàng trăm năm, vậy có thể
làm theo cách nhìn mới, có sáng tạo ít nhiều nhưng đừng quá lạm dụng hư
cấu, tùy tiện sửa đổi.
Đối
với các đề tài đụng chạm đến những giai đoạn lịch sử lớn của dân tộc,
không phải cứ có nhiều tiền đầu tư mà làm được. Trước hết, dự án phải
được sự đồng thuận của các cấp quản lý nhà
nước, phải kiểm tra nội dung kịch bản và năng lực đội ngũ làm phim. Khi
tìm chọn diễn viên, phải căn cứ vào khả năng trình độ hoàn thành vai
diễn, ảnh hưởng của uy tín và sự hâm mộ của tên tuổi đó đối với người
xem trong nước như thế nào. Tất nhiên đôi khi có diễn viên ngoại hình và
khả năng diễn xuất phù hợp với vai diễn, nhưng lại chưa có tiếng tăm và
ngược lại.
Đạo
diễn Trịnh Hoa trao đổi về ngôn ngữ biểu đạt phim truyện, trong đó có
đề tài lịch sử - cổ trang, nhấn mạnh việc tạo hình bối cảnh, đạo cụ,
nhân vật (hóa trang, phục trang, hành động võ thuật…) và tạo hình ống
kính. Theo ông, những quang cảnh tự nhiên mang màu sắc Á Đông như rừng
trúc (ở Quảng Tây, Quế Lâm), tre, dừa, cọ, quế, hồi… cùng các công trình
kiến trúc ở Tân Cương, Cam Túc…, hệ thống trường quay phong phú tại
Hoành Điếm, Diên Hoa, Hà Nam, Ngân Xuyên… là môi trường vô cùng thuận
lợi cho các cảnh quay. Những động tác võ thuật, cung kiếm gần như là đặc sản
của Trung Quốc cùng màu sắc, ánh sáng… như cách biểu đạt ký hiệu của
đạo diễn, họa sĩ, quay phim, diễn viên… và những người làm phim tạo nên
ấn tượng thị giác đối với người xem.
Phim
lịch sử - cổ trang hấp dẫn rất cần các cảnh quay thực xen lẫn với những
cảnh hư cấu. Việc tham gia của kỹ xảo từ công nghệ vi tính tạo thêm cho
ta hiệu quả vạn năng nhờ quá trình thao tác dây chuyền (quay hình ảnh,
sơ khảo trên máy tính, tạo hình trên máy, gia công hiệu quả kỹ thuật số
trên máy, phối kết hợp những cảnh đã quay, chỉnh ánh sáng, màu sắc,
chỉnh tiêu cự cho mờ ảo, tổng hợp hoàn thành cảnh quay). Tuy nhiên không
nên lạm dụng kỹ xảo nhiều quá sẽ làm cho thị giác khán giả mệt mỏi.
Tìm chọn phương thức sáng tác phù hợp với phân kỳ lịch sử
Theo biên kịch Lâm Tây Bình,
với điều kiện và hoàn cảnh của mình, các nhà làm phim Trung Quốc rất
coi trọng việc phân kỳ lịch sử để chọn lựa phương pháp sáng tác. Từ
triều đại Mãn Thanh năm 1911 trở về trước gọi là phim lịch sử và cổ
trang. Từ 1911 đến khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949
gọi là lịch sử cận đại. Từ 1949 đến nay được xem là hiện đại.
Mỗi
thời kỳ lịch sử đòi hỏi phương thức sáng tác riêng, nhưng dù ở thời nào
cũng cần có kịch bản hay và nhân vật sinh động. Khi làm phim lịch sử và
cổ trang thường dễ bị xăm soi, phê bình là
thiếu chân thực, hoặc lợi dụng lịch sử bôi xấu hiện tại, hoặc không
đúng không khí lịch sử, hoặc nặng hơn là có vấn đề về sai lầm về tư
tưởng cần uốn nắn. Do đó, việc minh định rõ giữa quan hệ lịch sử và phim
đề tài lịch sử như thế sẽ giúp người làm phim có phương pháp sáng tác
tương ứng, vừa giúp người làm phim biết tránh những khô cứng khuôn sáo,
nhưng đồng thời lại biết chủ động hư cấu sáng tạo nghệ thuật để hướng
tới khán giả.
Vì thế, giới điện ảnh Trung Quốc xác định rõ phương thức làm phim một cách khoa học.
Một là, loại phim chính sử nghiêm túc nói về người thật việc thật
lấy bối cảnh thật và nhân vật thật của lịch sử trong đó 70% là thật và
30% là hư cấu nghệ thuật. Loại phim này thường tận dụng bối cảnh thật và
nhân vật thật của lịch sử, thông qua thủ pháp biểu hiện, đặc trưng của
ngôn ngữ điện ảnh để tái hiện lịch sử. Vì thế phải có cơ sở vững chắc về
mỗi nhân vật, từng sự kiện và rất nghiêm cẩn trong việc khảo nghiệm
những tư liệu lịch sử, không thể mơ hồ, tùy tiện sáng tạo và không được
phép thay đổi những sự kiện lịch sử lớn. Loại phim này đòi hỏi những
chuẩn mực kinh điển và nghệ thuật thể hiện cao, thông qua những trải
nghiệm lịch sử để giải đáp những quan tâm của thời hiện đại nhằm tìm
hiểu và phát hiện những giá trị về nhận thức lịch sử, đưa vào tác phẩm
giá trị nghệ thuật và nhận thức cao, đưa đến cho người xem sự trân trọng
và yêu mến lịch sử. Thí dụ phim Khổng Tử được các nhà làm
phim tái hiện bối cảnh và diện mạo nhân vật với phục trang, đạo cụ và
không khí lịch sử cách đây hơn 2000 năm, thông qua giai đoạn lịch sử để
nhận thức xã hội ở mức độ cao. Với chi phí sản xuất hơn 100 triệu nhân
dân tệ (NDT), bộ phim đã đạt doanh thu bán vé trên 230 triệu NDT.
Hai là, loại phim lịch sử - cổ trang hư cấu nửa thật nửa giả
trên nền lịch sử nhất định, hoặc nhân vật thật, người thật nhưng sự
kiện hư cấu, hoặc sự việc có thật nhưng nhân vật hư cấu, với tỷ lệ 30%
thật, 70% hư cấu. Các phim này thường hướng đến việc đáp ứng thị hiếu
thẩm mỹ cao, kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật và yếu tố thương mại để
phim có thể dễ dàng bán được, có doanh thu cao. Thí dụ, phim Trận Xích Bích
của đạo diễn Ngô Vũ Sâm xây dựng trên cơ sở sự kiện có thật thời Tam
Quốc nhưng những nhân vật trong phim đều được hư cấu. Hay phim Quan Vân Trường vừa có giá trị nghệ thuật vừa có giá trị thương mại, đạt doanh thu trên 200 triệu NDT.
Ba là, loại phim có bối cảnh lịch sử mơ hồ, câu chuyện hoàn toàn sáng tạo bằng sự tưởng tượng bởi tất cả các nhân vật, sự kiện đều được hư cấu
với khoảng 90% hư cấu và 10% hoặc rất ít là sự kiện lịch sử có thật. Cả
nghệ thuật thể hiện lẫn sự hấp dẫn về nội dung đều tuân thủ đòi hỏi của
thị trường với mục đích giải trí. Thí dụ, phim Tam thương bức án truyền kỳ,
đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựa hẳn vào cốt truyện của một bộ phim hình sự
của Mỹ cách đây 30 năm, để chuyển thể thành phim lịch sử cổ trang.
Trên
thực tế loại phim thứ nhất đã nêu trên đây luôn đòi hỏi tiêu chuẩn nghệ
thuật cao, vừa hoành tráng, kinh điển, công phu nhưng lại không được
phép khô cứng; loại phim thứ hai kết hợp giữa đòi hỏi thị trường và yếu
tố nghệ thuật hấp dẫn; loại phim thứ ba đáp ứng đòi hỏi thị trường từ
nội dung và hình thức thể hiện nghệ thuật. Với cách phân loại rõ ràng
như thế, nếu như dùng nhân vật và tình tiết hư cấu cho loại phim thứ
nhất chắc chắn sẽ là sai lầm và dễ bị phê phán. Hoặc nếu dùng người thật, việc thật để xử lý hoàn toàn hư cấu, quá nhấn mạnh tính lịch sử và yêu cầu thị trường thì rất khó thành công.
Giải quyết mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và nghệ thuật tưởng tượng (hư cấu)
Ngoài
việc căn cứ vào những tư liệu lịch sử, khi sáng tác, người làm phim còn
phải dựa vào năng lực hư cấu. Một bộ phim lịch sử không thể biểu hiện
như một cuốn sách lịch sử. Phim phải có xung đột, phải có chi tiết biểu
hiện mà nhiều khi ngay cả trong sách giáo khoa lịch sử cũng không có. Đề
tài lịch sử - cổ trang phải cần đến hư cấu, nhưng cần phải xác định rõ
là lấy tư liệu lịch sử làm chính hay hư cấu nghệ thuật làm chính và
chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm.
Ở
loại phim người thật việc thật 70% và 30% hư cấu, những người làm phim
cần coi chân thực lịch sử quan trọng hơn hư cấu nghệ thuật và coi đó là
nguyên tắc trong sản xuất, thẩm định và đánh giá. Chỉ hư cấu những chi
tiết nhỏ, không hư cấu những sự kiện lịch sử quan trọng. Không tùy tiện
thay đổi diện mạo, hình thức của những nhân vật chính.
Ở
loại phim 30% là thật, 70% hư cấu thì cốt truyện lại quan trọng hơn sử
liệu. Loại này tương đối phù hợp với phim dã sử. Có thể sử dụng những
giai thoại, truyền thuyết dân gian xưa để sáng tạo. Loại này luôn cần
cốt truyện hay chứ không cần tư liệu lịch sử chính xác, nhưng vẫn đảm
bảo phim phải có không khí, đặc điểm lịch sử thời đó. Không thể đem
không khí lịch sử cách đây 300 năm trước vào thời cách đây 800 năm,
không thể lấy trang phục nhân vật, kiểu cách xưng hô… của thời này cho
thời kia để tùy tiện sáng tạo. Tuy nhiên, có những đạo diễn giỏi như
Trương Nghệ Mưu trong bộ phim Anh hùng đã tự biết tạo cho
mình một không gian sáng tạo lớn khi định vị tư liệu và giai đoạn lịch
sử mà bộ phim nhắm tới, rồi mặc sức tự do sáng tạo, chủ động đưa vào
những yếu tố thị trường.
Ở
loại phim hư cấu 90% người giả, việc giả, 10% là lịch sử, những người
làm phim có thể khoác lịch sử vào những nhân vật và sự kiện hư cấu.
Nghĩa là từ không có gì có thể tưởng tượng sắp đặt ra gần như toàn bộ
hoặc từ câu chuyện hiện đại mà cổ trang hóa với nguyên tắc: vui, hấp dẫn
không cần cao nhã; dễ xem, thỏa mái có tính hài hước khi dung tải những
câu chuyện hư cấu; mượn cổ nói kim; thông qua hài để thỏa mãn nhu cầu bình dân; kết hợp ca ngợi cái thiện, đả kích, lên án cái ác; mượn chuyện người khác, nói chuyện mình…
Giải quyết mối quan hệ giữa quan điểm lịch sử và quan điểm nghệ thuật
Làm
phim là để cho người xem. Thực tế cho thấy, có những bộ phim lịch sử
rất chân thực nhưng chưa chắc đã bán được và có đông người xem. Nếu
không có khán giả thì dù phim có cao siêu đến mấy cũng là thất bại. Vì
thế quan điểm lịch sử trong phim phải phù hợp, hữu ích với xã hội hiện
đại. Lịch sử là tấm gương phản chiếu, là công cụ giúp cho người xem phản
tỉnh, nhận thức xã hội và tự điều chỉnh. Tất nhiên, không phải lúc nào
mọi giá trị lịch sử đều có ích cho hiện đại, vì lịch sử là cái đã qua,
có thể không còn phù hợp với hiện tại, đôi khi trở thành hủ bại, lạc hậu
nên khi tiếp nhận cũng cần tỉnh táo phê phán. Nghĩa là, không phải mọi vua, chúa, quan lại… đều có thể đưa lên màn ảnh. Thí dụ, phim Hoàng Kim Giáp của
Trương Nghệ Mưu hoàn toàn là giải trí thương mại với những âm mưu, thủ
đoạn, tham vọng, dã tâm đen tối và chém giết đẫm máu. Bộ phim được dàn
dựng hoành tráng, công phu với mức đầu tư khá lớn, đạt doanh thu cao
nhưng hiệu quả về tuyên truyền, giáo dục đạo đức xã hội yếu vì quá ít
yếu tố lành mạnh và vì thế chưa thể gọi là một bộ phim hay.
Như
vậy, cảm giác tao nhã, đẹp đẽ phải được đề cao, yếu tố giáo dục và lan
truyền tác động xã hội phải được nhấn mạnh. Dù vui vẻ, hài hước, phim
cũng cần đưa người xem đến hào hứng, phấn khởi, hướng tới những tình cảm
lành mạnh.
Người
xem luôn luôn thích sự mới mẻ, mạo hiểm, thỏa mãn sự hiếu kỳ với những
câu chuyện hấp dẫn, những nhân vật có da có thịt, có tính cách, phẩm
chất con người, mà không thích cách trình bày sáo mòn với hình tượng khô
cứng.
Những
đối tượng khán giả có trí tưởng tượng phong phú luôn đòi hỏi ở bộ phim
mình xem những ấn tượng thị giác mạnh mẽ bởi những hình ảnh xung động
mạnh, những khuôn hình đặc tả ấn tượng và sức hấp dẫn lớn từ âm nhạc mà
mình chưa bao giờ được xem. Do đó, muốn làm phim lịch sử - cổ trang thu
hút người xem, người ta thường chú ý đến việc: chọn đề tài có sức truyền
cảm lan rộng, nhân vật có tính thời đại và đang được thời đại quan tâm,
hình thức thể hiện mà quần chúng ưa thích, những diễn viên ngôi sao mà
khán giả đang mến mộ…
Cần nhận thức tỉnh táo
Không
nên áp đặt các giá trị đạo đức hiện đại đối với người xưa và các nhân
vật lịch sử, không nên chiều chuộng bằng mọi giá khẩu vị của người xem
thời hiện tại mà bất chấp các sự kiện lịch sử, không nên đi ngược lại
quan điểm duy vật lịch sử.
Cần thận trọng nếu như có ý định làm một việc không nên là đánh giá lại lịch sử và kết luận, phán
xét lại lịch sử vì hầu như tất cả những sự kiện lớn đều đã được đánh
giá, kết luận. Có nhiều nhà điện ảnh không chấp nhận những cái đã có mà
muốn nhìn nhận lại lịch sử theo quan điểm của mình, thậm chí muốn lật
lại những giá trị cũ, là điều cần hết sức tỉnh táo. Cần có sự kiến giải
thông minh của người làm nghệ thuật không phải là việc xét lại lịch sử
mà là biết bảo lưu quan điểm của mình với tinh thần trách nhiệm.
Bằng kinh nghiệm trừng trải, đạo diễn Viên Thế Kỷ và nhà quay phim
Triệu Hoa đã mạnh dạn thừa nhận là các nhà làm phim Trung Quốc thường
tránh không dùng tác phẩm của mình để đánh giá lại, hay kết luận lại
lịch sử, vì đó là công việc của những sử gia. Nếu định vị sáng tác sai,
phim rất khó thành công, thậm chí dễ bị phê phán
hoặc khó được kiểm duyệt. Không thể nhân danh lịch sử, cổ trang để làm
ra những sản phẩm độc hại, không có tác dụng giáo dục, phê phán
hay đề cao đạo đức nhân văn. Cũng không nên áp đặt một cách thô thiển
các giá trị đạo đức hiện đại đối với lịch sử và người xưa, lại càng
không thể mang khoản đầu tư lớn để làm phim rồi phải cất vào kho vì phim
bị cấm chiếu.
Dễ hay khó là tùy thuộc vào đạo diễn; có nhiều kinh nghiệm sẽ rất dễ
Trả lờiXóa