Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt (Kỳ 2)
- Nguyễn Kiến Giang
V
Chắc hẳn tôi cũng mắc cái bệnh “bàn suông” này, nếu như không đưa ra được dù chỉ là một nét bản tính
nào đó của tộc người Việt. Nhưng dù chỉ làm như thế, cũng không hề được
tha cho sự đòi hỏi khắt khe của công việc nghiên cứu. Những gì tôi nói
dưới đây chỉ xin được coi là một giả thuyết làm việc (hypothèse de
travail). Tôi xin mạnh bạo nêu lên vài gợi ý về “phong cách tư duy” của người Việt.
Trong
đoạn mở đầu, tôi có nhắc tới “bộ lọc” của người Việt đối với các nguồn
ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, trong đó có cái được tôi gọi là “tâm
thức”, bên cạnh yếu tố “ứng xử” và “ngôn ngữ”. Ứng xử nói đây bao gồm
tất cả những hoạt động sống để một tộc người tồn tại và phát triển, vì
đó trước hết là những hoạt động sáng tạo của con người, của tộc người.
Ngôn ngữ là một yếu tố dễ hiểu hơn, vì nó có cái “vỏ vật chất” có thể
nắm bắt được, tất nhiên là trong những biến hóa ngày càng phong phú của
nó. Thế còn “tâm thức”? Khái niệm này tôi muốn hiểu đó là “lối tư duy”, “cách tư duy”, hay nói cho rõ hơn, “phong cách tư
duy”. (Từ tương ứng của “tâm thức” trong tiếng Pháp là “mentalité”,
được Petit Robert định nghĩa là “Trạng thái tinh thần, những năng lực
tâm lý hay đạo đức”, nhưng tôi muốn hiểu khái niệm này một cách hẹp hơn như đã nói trên).
Tôi sẽ không nói tới những điều mọi người đã biết về hoàn cảnh địa lý, về những điều
kiện lịch sử trong đó tộc người Việt chúng ta từng tồn tại hàng nghìn
năm (chỉ cần lấy hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhiều cuộc chiến tranh
xâm lược từ nhiều thế lực bên ngoài đến, cũng đủ hiểu bản lĩnh kiên cường của tộc người Việt phải lớn đến mức nào để nó có thể tồn tại đến hôm nay). Ở đây, vì nói đến “phong cách tư duy” nên chỉ xin đặc biệt nhấn mạnh tới những gì có liên quan trực tiếp.
1.
Có lẽ tộc người Việt từ thời xa xưa cũng đã có một thứ vũ trụ luận của
mình, giống như ở rất nhiều tộc người khác. Và có lẽ vũ trụ luận của
người Mường, như Trần Từ mô tả trong tác phẩm xuất sắc đã nhắc tới trên
đây của ông, cũng rất gần gũi, nếu không nói là giống hay gần giống với
vũ trụ quan của người Việt, nếu chúng ta chấp nhận những kết luận của
tộc người học Việt Nam, theo đó, thật ra tộc người Việt Nam và tộc người
Mường thời xa xưa chỉ là một, sau đó phân hóa thành hai. Chắc chắn
người Việt ngày xưa cũng thờ cúng tô-tem và vật linh, mà dấu vết vẫn còn
lại cho đến nay. Nhưng điều nổi bật ở tư duy về “sống-chết” này (như cốt lõi của mọi tín ngưỡng và tôn giáo), đó là không có sự ngăn cách tuyệt đối giữa người sống và người chết. Dù đó là một thứ vũ trụ “hai bên” đi nữa,
thì sự giao lưu giữa “hai bên” vẫn còn thân thiết và bền chặt, như Trần
Từ nói về người Mường: “chuyến đưa người chết từ thế giới bên này sang
thế giới bên kia là việc diễn ra giữa người và người, giữa người sống và
người chết, không có sự can thiệp của các nhân vật siêu nhiên bên trên
và bên dưới”. Chết không phải là hết, mà là chuyển từ trạng thái sống
này sang trạng thái sống khác, đó chỉ là sự “khuất núi”, nghĩa là vẫn ở
trên mặt đất này nhưng là ở bên kia núi, sự xa cách được
rút lại. “Ở đây, chúng ta bắt gặp thêm một nét quan trọng trong tâm
thức người Việt: cõi âm là cõi vĩnh hằng của con người… Không phải là đi sang cõi âm mà là về cõi âm. Về – từ này hàm nghĩa một sự trở về và là sự trở về nơi cũ. Về không chỉ là có cái gì đó tiếp nối sự sống sau khi chết, đó còn hơn là một sự tiếp nối
đơn thuần, đó là sự tồn tại vĩnh hằng sau khi chết…” (Lê Diên, Rồi ai
cũng về cõi âm, Đối thoại, số 4, 1994). Chết đối với người Việt không
phải là một sự trừng phạt ghê gớm, người ta coi đó là một điều
tự nhiên. “Người già lắm khi chứng kiến sự chuẩn bị cho cái chết sắp
tới của mình, rất bình thản. Đây, chiếc quan tài sắm trước đặt ngay dưới
bàn thờ, chưa sơn quét và còn dùng để chứa vài thùng thóc ngừa lúc giáp
hạt… Người già quen với cái chết cũng như quen với những ngôi mộ gần
gũi nằm giữa cộng đồng gần gũi, cũng như quen với dãy núi xanh lam ở
phương trời tây kia. Một vòng đời đi qua, cũng như một vòng đường từ nhà ra đồng, lên núi, rồi lại về nhà… Vậy đó!” (như trên).
Từ
quan niệm về “sống-chết” ấy, người Việt nói chung không thích lắm những
mặt đối kháng triệt tiêu, loại bỏ nhau, không sùng bái lối suy nghĩ
theo lối đối lập triệt để. Sống và chết có thể dung hòa, mọi mâu thuẫn
có thật và không có thật cũng có thể dung hòa. Những hành vi loại bỏ
nhau, giết hại nhau không thương xót, không được người Việt Nam đồng
tình. Lối nghĩ ấy nhiều khi còn được áp dụng cả cho những quan hệ thù
địch nhau. Kẻ thù, dù đã gây hại rất lớn cho mình, người Việt cũng sẵn
sàng tỏ thái độ nhân đạo. Người Việt sẵn sàng bỏ mình cho nghiệp lớn
được họ coi là chính nghĩa, nhưng không coi “cái chết nhẹ tựa lông hồng”
theo lối anh hùng hảo hán.
2.
Đến nay, vẫn chưa ai mô tả được thật chi tiết về những đối tượng tư duy
của người Việt cổ. Tài liệu quá hiếm hoi! Nhưng chắc chắn là người Việt
mang những tư tưởng rất phong phú, ít ra cũng đã được phản ảnh trong
folklore, về vũ trụ, đất trời, gia đình, làng nước, xã hội, làm ăn, tình
yêu v.v… Chỉ có điều
là những suy nghĩ ấy chưa bao giờ được tổng kết thành hệ thống để trở
thành những học thuyết, những kinh sách. Ngay cả thờ cúng tổ tiên, một
thứ tôn giáo sâu sắc của người Việt như L. Cadière xác định, thật ra đã
không thể trở thành một tôn giáo chặt chẽ, với giáo lý, giáo hội và giáo
trưởng của nó, ngoài việc tiếp nhận
một số nghi thức và bài trí du nhập từ Trung Quốc. Óc khái quát chưa
bao giờ là mặt mạnh của người Việt cả. Những đỉnh cao trí tuệ và tâm
linh, in đậm sức sáng tạo và tính độc đáo, gần như rất hiếm hoi, có lẽ
chỉ trừ lĩnh vực y học và đánh giặc, hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến
sống chết của con người. Năng lực tư duy của người Việt quá kém cỏi
chăng? Tôi không muốn nghĩ như vậy, vì trong lịch sử, thời nào cũng có
những trang tài giỏi mà năng lực tư duy không kém ai. Nhưng chính họ
cũng không đẩy được những kết quả tư duy của mình lên thành học thuyết,
thành hệ thống có tính phổ quát, mà nói chung, chỉ dừng lại ở trình độ
“vận dụng” như ta nói hiện nay, dù là “vận dụng sáng tạo” hay “vận dụng
tuyệt vời” đi nữa.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ cũng không phải ở sự “nhỏ bé” của
đất nước. Biết bao dân tộc và đất nước cũng nhỏ bé như chúng ta, thậm
chí còn nhỏ bé hơn, đã cống hiến cho loài người những tư tưởng đặc sắc
và có tính phổ quát cao.
Phải chăng đó là do vị trí địa lý và văn hóa của nước ta? Tôi muốn hiểu như vậy. Cách đây
khoảng 2000 hay 2500 năm, chẳng hạn, khi nền văn minh thời Văn Lang và
Âu Lạc (hay có người còn gọi là “văn minh sông Hồng”) đạt tới một trình
độ tương đối cao (có kỹ thuật đồ đồng khá tinh tế), thì tộc người Việt
đã bị những nền văn minh lớn, chủ yếu là của Trung Quốc và Ấn Độ, vượt
lên rất xa. Trong khi người Việt vẫn chưa có chữ viết (gần đây, có người
chủ trương rằng người Việt đã có chữ viết vào thời ấy, nhưng chưa có
sức thuyết phục), thì các nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ đã có cả
những tòa lâu đài đồ sộ về tư tưởng, kết tinh ở những tôn giáo, những
triết thuyết có sức mạnh phổ quát đến mức ngày nay người ta vẫn còn lấy
làm kinh ngạc trước sức sống của chúng. Chưa kịp xây dựng những hệ thống
tư tưởng riêng của mình, thì người Việt đã có sẵn những câu giải đáp về
đời sống tâm linh và hiện hữu của con người nằm sẵn trong những tôn
giáo và triết thuyết của hai nền văn minh khổng lồ ấy. Từ Trung Quốc
truyền sang (có kèm theo những đạo quân xâm lược hay không) nhiều học
thuyết khác nhau, chủ yếu là Khổng giáo và Đạo giáo. Phật giáo thì từ Ấn
Độ truyền sang bằng những con đường khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, với sức thuyết phục của nó là chính. Sự tiếp nhận văn hóa từ Trung Quốc tuy mang tính chất tiếp nhận
văn hóa đối kháng, theo thuật ngữ của G. Devereux, nhưng do chính sức
mạnh phổ quát của Khổng giáo và Đạo giáo, người Việt đã dần dần tìm thấy
ở đó những chỗ dựa cần thiết (một viên thái thú như Sĩ Nhiếp, vì có
công truyền bá tư tưởng Trung Quốc, chủ yếu là Khổng giáo, được người
Việt tôn sùng như một vị thần bản địa, dưới tên gọi Sĩ vương, là một ví dụ).
Nói một cách hình
ảnh, ảnh hưởng của những tư tưởng Trung Quốc và Ấn Độ giống như hai
bóng cây khổng lồ trùm phủ lên mảnh đất nước ta ngày xưa, khiến cho mọi
thứ “cây tư tưởng” của người Việt bị “cớm nắng”. Tình trạng này đưa tới
một hệ quả nặng nề: dựa dẫm vào những tư tưởng bên ngoài, và như vậy
trong gần hai nghìn năm. Sức sáng tạo tư tưởng bị còi cọc: lối suy nghĩ
giáo điều,
sao chép và học thuộc lòng sách vở nước ngoài trở thành một tâm thức
quá quen thuộc, như một thứ thuộc tính khó dứt bỏ. Phần được dành cho
sức sáng tạo về tư tưởng của người Việt rút lại chỉ là ở phần “vận
dụng”. Tuy sự vận dụng này không phải không đem lại những thành công nào
đó (như khi Nguyễn Trãi “vận dụng” tư tưởng nhân nghĩa của Khổng giáo
để chống trả và đánh thắng sự xâm lược của nhà Minh, chẳng hạn), nhưng
nếp nghĩ giáo điều
vẫn chi phối đời sống tư tưởng của người Việt (chính Khổng giáo càng
chi phối mạnh mẽ và sâu sắc hơn ở thời Hậu Lê, sau khi đánh thắng nhà
Minh). Nói như ngày nay, người Việt ngày xưa lấy Khổng giáo làm hệ tư
tưởng chính thống, tạo ra tâm thức phục tùng chính thống gần như vô điều kiện. Người ta không thể sống mà không dựa vào một hệ tư tưởng chính thống nào đó. Chính tâm thức này, cùng với bản thân các học thuyết mang tính phổ quát bên ngoài, làm cho sức sáng tạo về tư tưởng bị thui chột. Hàng trăm năm như thế.
Nói cho cùng, tộc người Việt có một ưu điểm lớn: không bài ngoại về tư tưởng, sẵn sàng tiếp nhận những tư tưởng bên ngoài nào phù hợp với mình. Nhưng cũng chính vì thế, tâm thức sùng ngoại về mặt này trở thành một nhược điểm
cố hữu. Trong quá trình hiện đại hóa hiện nay, có lẽ cần tỉnh táo nhất
về mặt này để không biến nước ta thành một “thùng nước gạo” bị đổ vào đó
mọi thứ thức ăn ngoại bang (những sự tiếp nhận văn hóa kiểu sùng ngoại hiện nay).
3.
Như đã nói, tâm thức “hệ tư tưởng chính thống” là một nét cố hữu của
người Việt, đặc biệt trong đời sống tư tưởng. Tâm thức này có mặt tốt:
những lúc đất nước đứng trước nguy cơ lớn đối với sự tồn tại của nó, một
“hệ tư tưởng chính thống” là cần thiết để có thể tập hợp tất cả những
sức mạnh của dân tộc thành một sức mạnh thống nhất có sức chiến đấu cao.
Nhưng chính tâm thức này đã cản trở không ít những sức mạnh sáng tạo về
tư tưởng. Mọi sáng tạo tư tưởng ít nhiều đều không ăn khớp, thậm chí
ngược lại với “hệ tư tưởng chính thống”. Nếu duy trì hệ tư tưởng chính
thống như cái gì duy nhất đúng, thì xin dùng lại hình ảnh trên đây, sẽ
tạo ra một thứ bóng cây trùm phủ lên tất cả và mọi tư tưởng sáng tạo
chắc chắn bị “cớm”. Phải chăng trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, khi
phải tìm kiếm
những con đường, những phương pháp để hiện đại hóa, sự thống nhất về tư
tưởng là cần thiết, nhưng chỉ nên thống nhất ở những mục tiêu, còn về
những con đường, những phương pháp thì nên để cho sức sáng tạo được phát
triển một cách tự do, dù có những cái không theo chính thống.
4.
Nhìn chung trong đời sống tư tưởng của người Việt, do nhiều nguyên nhân
xã hội và lịch sử, tâm thức duy cộng đồng luôn luôn chiếm ưu thế đối
với tâm thức duy cá nhân. Ở đây, xin nói rõ một điểm,
người ta thường cho rằng ở phương Đông, hay nói cụ thể hơn ở các nước
Đông Á, trong đó có Việt Nam, chỉ có tính cộng đồng mà không có tính cá
nhân, ngược lại với các nước phương Tây. Đó là một lối nói siêu hình,
tách cái cá nhân và cái cộng đồng thành những cái riêng biệt và đem đối
lập chúng với nhau một cách tuyệt đối. Không ở đâu có điều
đó cả. Ngay cả ở những xã hội cổ xưa, mà theo lời Marx, cá nhân chưa
cắt được “cuống rau” của nó khỏi tập thể, khỏi cộng đồng, cũng đã có sự
hình thành của cá nhân, của con người cá nhân rồi. Về vấn đề này, C.G.
Jung đã có một phân tích sâu sắc trong Biện chứng giữa cái tôi và cái vô
thức (Dialectique du Moi et de l’inconscient, Gallimard, Paris, 1986).
Theo ông, trong những xã hội này, nhân cách (personnalité)
mang hai bộ mặt. Một bộ mặt được gọi là persona, mà theo từ nguyên của
nó, đó là cái mặt nạ để làm cho mỗi người có những ứng xử phù hợp với
cộng đồng, với tập thể, nó là “một mảnh của tâm thần tập thể để chỉ vai
trò của nó trong tập thể, và về thực chất, nó thuộc về cái vô thức tập
thể, che giấu một phần của tâm thần tập thể”. Khi lật mặt nạ ấy lên,
người ta có thể thấy hiện lên con người cá nhân, hay nói cho đúng, tính
cá nhân, ở dưới dạng phác thảo của một sự phát triển cá nhân (ébauche
d’un développement individuel), dù rằng về căn bản,
nó gắn chặt với tập thể, mang tính tập thể (trong bài Có những quan
niệm về con người cá nhân ở phương Đông, tạp chí Văn học, số 5, 1995,
tôi đã trình bày rõ vấn đề này, xin không nhắc lại ở đây). Đúng là ở các
nước Đông Á, con người cá nhân đã hình thành ít ra như một tiềm năng
chực bùng nổ khi có điều
kiện, nhưng cũng đúng là con người cá nhân ở đây nói chung phụ thuộc
vào cộng đồng, bị cộng đồng chi phối gần như từ đầu đến cuối, từ lúc
sinh ra cho đến lúc chết đi. Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, theo cách hiểu
của tôi, tiêu biểu cho con người cá nhân giẫy giụa, chống đối, đập phá,
với khát vọng thoát khỏi cái cộng đồng làng xã từng hủy hoại nhân cách của y, nhưng theo lối tiêu cực, phá hoại. Từ đầu thế kỷ XX, trong những hoàn cảnh xã hội đã biến đổi, con người cá nhân có điều
kiện để phát triển hơn (với sự hình thành của các đô thị hiện đại, do
đó, của các tầng lớp xã hội hiện đại) và đòi hỏi giải phóng cá nhân cũng
trở nên mạnh mẽ hơn, không chỉ để đáp ứng với những khát vọng cá nhân,
mà còn với sự phát triển xã hội nói chung. Nhưng cả cho đến nay, cá nhân
ở nước ta vẫn chưa thoát khỏi cái “tổ kén” cộng đồng để trở thành những
cá nhân độc lập trong mối quan hệ mật thiết với cộng đồng kiểu mới văn
minh hơn. Vấn đề không phải là lựa chọn giữa cá nhân và cộng đồng (không
phải trong cộng đồng thì cá nhân sống ở đâu, phát triển ở đâu và dùng
những năng lực của nó vào đâu?). Vấn đề là đảo ngược vectơ của mối quan
hệ này: thay “cá nhân vì cộng đồng” bằng “cộng đồng vì cá nhân”, hay nói
đúng hơn, cá nhân và cộng đồng cùng phát triển. Nếu không như vậy, con
đường hiện đại hóa của nước ta sẽ bị tắc tị. Gần đây, có những người đề
xướng lấy những giá trị làng xã làm nền tảng cho sự phát triển xã hội,
với lý lẽ “nguồn gốc của văn hóa dân tộc là ở nông thôn”, vì làng xã có
tất cả những ưu điểm lớn nhất: đoàn kết, tương trợ, tự chủ, dân chủ… Tôi xin được phép không tin vào những lý lẽ hoài cổ rất mùi mẫn ấy.
5. Xin nói trước, về điểm này tôi chưa đi sâu để có thể nêu thành một tâm thức của tộc người Việt, nhưng vì đó là luận điểm do một học giả uyên bác đưa ra, nên cũng xin giới thiệu ở đây với tất cả sự dè dặt (và chính tác giả của luận điểm
này cũng coi đó là một “giả thiết làm việc”). Đó là tinh thần “nhu đạo”
của người Việt do Cao Xuân Huy đưa ra trong bài Một “giả thiết làm
việc” trong quá trình nghiền ngẫm về lịch trình tư tưởng dân tộc (trong
Tư tưởng Đông phương – Gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nhà xuất bản Văn
học, 1995). Ông nhắc lại lời Lão tử: “Trong thiên hạ không có gì nhu
nhược bằng nước, thế mà trong tất cả những cái gì công phá được những
vật kiên cường, không có cái gì hơn được nó”, và nói: “Tôi nghĩ rằng
tinh thần lập quốc của chúng ta chính là cái tinh thần nhu đạo”. Theo
ông, sở dĩ người Việt chiến thắng được bao nhiêu thiên tai, địch họa (mà
ông gọi rất đúng là “một hoàn cảnh thiên nhiên ác liệt” và “sức đồng
hóa kinh khủng của một dân tộc khổng lồ”), đó là “nhờ ở chỗ dân tộc ta
có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước”…
Thậm chí ông còn đi tới
chỗ coi nước “lại còn dễ tính đến nỗi khi người ta rót nó vào chai, thì
nó ngoan ngoãn rập khuôn theo hình dạng của chai, rót vào bầu, vào ấm
cũng vậy”. Nhưng ông khẳng định: “Đó không phải là vì nó không có cá
tính. Trái lại, đó là khả năng thích ứng vô hạn của nó, mà chính cái khả
năng thích ứng đó là cái tinh ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân
tộc ta”. Ông cũng nhấn mạnh tới đặc tính của nước là cái “quân thế”
(équilibre) tuyệt vời của nó, (cái “quân thế”, tức thế cân bằng, này thể
hiện trong kiến trúc đình chùa, nhà cửa, trong niêm luật lục bát của
thơ ca, trong trật tự xã hội và tình cảm cá nhân…).
Những nhận định ấy hẳn có nhiều phần đúng, nhưng lẽ nào người Việt chỉ có “mềm” (nhu) mà không có “cứng” trong ứng xử, chỉ có “quân thế” mà không có “mất quân thế”? Ở đây, chúng ta đụng tới tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự phát triển của các tộc người. Tộc người nào cũng tồn tại và phát triển trong tính liên tục cũng như qua tính đứt đoạn. Khi dòng chảy mang tính liên tục thì ứng xử của người ta thường “mềm”, thường “cân bằng”, nhưng khi dòng chảy bị đứt đoạn thì khó mà không “cứng” trong ứng xử, không “mất quân thế”. Dường như tộc người nào cũng mang theo bản thân nó những nguyên lý đối lập nhau, vì bản chất con người chính là được tạo nên bằng những nguyên lý đối lập nhau ấy? Nó vừa hướng tới cái tuyệt đối, cái tâm linh, vừa hướng tới cái trần tục, cái hiện hữu, vừa hướng tâm, vừa ly tâm, vừa Đạo vừa Đời. Tác giả người Nga N.F. Rakhmankulova khi bàn về triết học Ấn Độ đã đưa ra một nhận xét rất lý thú: “trong thế giới quan triết học Ấn Độ, có sự kết hợp của chủ nghĩa duy lý (trong việc mô tả “cấu trúc thế giới” và “công nghệ giải cấu trúc thế giới”) và chủ nghĩa tâm linh thần bí (theo hướng tồn tại siêu lý trí)” (Các giá trị và sự xuất hiện của truyền thống triết học dân tộc (Ấn Độ và Trung Quốc), Bản tin Trường Đại học Tổng hợp Moskva, Triết học, số 1, năm 2000).
Những nhận định ấy hẳn có nhiều phần đúng, nhưng lẽ nào người Việt chỉ có “mềm” (nhu) mà không có “cứng” trong ứng xử, chỉ có “quân thế” mà không có “mất quân thế”? Ở đây, chúng ta đụng tới tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự phát triển của các tộc người. Tộc người nào cũng tồn tại và phát triển trong tính liên tục cũng như qua tính đứt đoạn. Khi dòng chảy mang tính liên tục thì ứng xử của người ta thường “mềm”, thường “cân bằng”, nhưng khi dòng chảy bị đứt đoạn thì khó mà không “cứng” trong ứng xử, không “mất quân thế”. Dường như tộc người nào cũng mang theo bản thân nó những nguyên lý đối lập nhau, vì bản chất con người chính là được tạo nên bằng những nguyên lý đối lập nhau ấy? Nó vừa hướng tới cái tuyệt đối, cái tâm linh, vừa hướng tới cái trần tục, cái hiện hữu, vừa hướng tâm, vừa ly tâm, vừa Đạo vừa Đời. Tác giả người Nga N.F. Rakhmankulova khi bàn về triết học Ấn Độ đã đưa ra một nhận xét rất lý thú: “trong thế giới quan triết học Ấn Độ, có sự kết hợp của chủ nghĩa duy lý (trong việc mô tả “cấu trúc thế giới” và “công nghệ giải cấu trúc thế giới”) và chủ nghĩa tâm linh thần bí (theo hướng tồn tại siêu lý trí)” (Các giá trị và sự xuất hiện của truyền thống triết học dân tộc (Ấn Độ và Trung Quốc), Bản tin Trường Đại học Tổng hợp Moskva, Triết học, số 1, năm 2000).
Xin nhắc lại một lần nữa: tất cả những điểm
nói trên về “tâm thức Việt Nam” chỉ là những giả thuyết, và chắc chắn
còn phải làm rất nhiều việc để chứng minh, để kiểm chứng và khẳng định
và cũng là để bác bỏ nữa. Đối với sức một người không chuyên như tôi,
thế là đã quá mạo muội.
*
Cũng như cách đây
mươi lăm năm, khi bàn tới vấn đề này, bây giờ tôi vẫn cảm thấy như đứng
trước một cái gì vừa mơ hồ, vừa rõ rệt, vừa vô hình, vừa hữu hình, vừa
thuộc về vô thức, vừa thuộc về hữu thức. Một vấn đề (hay hệ vấn đề) như
vậy không thể được giải quyết nhanh chóng bởi một người hay thậm chí một
nhóm người. Tôi chỉ tự nhủ: khi bàn về vấn đề này, cần tránh hai cực
đoan: chủ nghĩa dân tộc chật hẹp, đi tới
một thái độ tự say mê với dân tộc mình (narcissisme national), tự coi
mình là “nhất thiên hạ”, đồng thời cũng tránh rơi vào chủ nghĩa hư vô
dân tộc (nihilisme national), với mặc cảm tự ti dân tộc, không tính đến
những giá trị dân tộc (dù có nghèo đến đâu cũng rất quý giá).
Con
người, theo tôi hiểu, bao giờ cũng tồn tại và phát triển theo ba trục
gộp thành một (lại “ba mà một”), hay ba cấp độ lồng vào nhau: cá nhân,
dân tộc và tộc loại. Bỏ quên một mặt nào trong ba mặt ấy, “không thể
thành người”, như lời một bài hát đầy rung cảm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2000
Nguồn: Văn hoá Việt Nam - đặc trưng và cách tiếp cận (Lê Ngọc Trà tập hợp và giới thiệu, NXB Giáo dục, 2001).
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa