Nho giáo với lịch sử Việt Nam
- Cao Tự Thanh
Hiện
diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang
tính chất chính thống, một phương thức hoạt động và phát triển văn hóa đóng vai trò chủ đạo, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử và văn hóa
Việt Nam, những ảnh hưởng vẫn tiếp tục tác động tới đời sống xã hội
Việt Nam sau thế kỷ XIX.
Là một giá trị ngoại sinh được tiếp nhận và vận dụng như một học thuyết
chính trị để xây dựng và bảo vệ đất nước, một hệ thống chuẩn mực giĩp tổ
chức và quản lý xã hội, Nho giáo sau thời Bắc
thuộc cũng được khuôn nắn lại về nội dung và cơ cấu rồi trên cơ sở đó
trở thành một yếu tố vừa góp phần thực hiện vừa góp phần phản ảnh tiến
trình lịch sử Việt Nam. Tìm hiểu Nho giáo với con đường phát triển và
ảnh hưởng văn hóa
của nó trong lịch sử Việt Nam là góp thêm dữ kiện vào việc nghiên cứu
lịch sử Việt Nam nói chung cũng như lịch sử Nho giáo nói riêng.
Sau hàng ngàn năm bị đô hộ, xã hội Việt Nam bước ra khỏi thời Bắc
thuộc với một di sản nặng nề trong đó nổi bật là tình trạng chưa toàn
diện và đồng bộ của hệ thống quản lý xã hội. Tầng lớp trí thức còn mỏng
manh về số lượng, phân tán về học vấn và chưa có kinh nghiệm quản lý,
chưa đảm trách được vai trò người dẫn đạo tinh thần và điều hành đất
nước, tình hình này bộc lộ qua nhiều biến động chính trị dưới các triều Ngô Đinh và Tiền Lê. Trong khi đó các chính quyền ở Trung Hoa từ thời Đường mạt Ngũ đại đến thời Tống đều lăm le áp đặt lại ách thống trị của người Hán ở khu vực này, đồng thời những
xung động từ tình trạng phân tranh ở Trung Quốc trước đó cũng để lại dư
âm của nó ở một Việt Nam vừa giành độc lập, với không ít trường hợp sự
thống nhất quốc gia bị coi nhẹ hơn các lợi ích địa phương. Không phải
ngẫu nhiên mà các vua khai sáng bốn triều Ngô - Đinh - Lê - Lý đều là
những người xuất thân võ tướng. Nhu cầu khách quan trong hoạt động bảo
vệ chính quyền và quản lý xã hội đương thời đòi hỏi xác lập một mô hình chính trị, nhưng từ nhà nước tam giáo hòa đồng thời Lý - Trần tới nhà nước thế tục Nho giáo thời Lê
thì lịch sử pháp quyền và lịch sử tư tưởng ở Việt Nam đã không song
hành suốt mấy trăm năm. Sự phát triển quanh co của Nho giáo sau thời Bắc thuộc đến thế ky XV do đó ngoài ý nghĩa là kết quả của quá trình đấu tranh với phong kiến Bắc phương để gìn giữ sự độc lập chính trị và quyền tự quyết văn hóa
của dân tộc Việt Nam còn là bằng chứng về quá trình đấu tranh trong xã
hội Việt Nam để xác định mô hình phát triển của quốc gia phong kiến Đại
Việt. Song mặc dù đã có một Trần Nghệ Tông phê phán lối rập khuôn thể
chế Trung Hoa của “bọn học trò mặt trắng”(1), một Hồ Quý Ly chê bai
những cây đại thụ của Tống nho Trung Quốc là “học rộng nhưng ít tài”(2),
chính quyền cũng như giới trí thức Việt Nam thời Lý
- Trần và cả Hồ sau đó vẫn không đưa ra được một học thuyết chính trị
nào hoàn toàn độc lập với mô hình phương Bắc. Như một dòng chảy ngầm, sự
khủng hoảng tư tưởng ấy đã liên tục đặt xã hội Việt Nam vào tình trạng
bất ổn định về chính trị, kể cả sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
quân Minh. Cho nên sau những xáo trộn chính trị buổi đầu, nhà Lê đã dứt
khoát chọn Nho giáo như lý thuyết độc tôn, mô hình chính thống. Dĩ
nhiên hệ quả tất yếu của việc tiếp nhận Nho giáo là việc cải tạo xã hội
để tiếp nhận Nho giáo, điều này vô hình trung cũng tạo ra những khoảng
cách mới giữa tư tưởng chính thống với văn hóa
truyền thống, giữa xã hội và chính quyền. Học thuyết chính trị của
Khổng Tử chính là đặt vấn đề bổ sung và hoàn thiện mô hình xã hội tông
pháp chế định hình ở Trung Quốc từ thời Ân Thương, nhưng xã hội người Việt thời cổ
không hề có chế độ tông pháp với quy định nghiêm ngặt về dòng đích dòng
thứ như truyền thuyết bánh chưng bánh dày đã ít nhiều cho thấy. Việc
tiếp nhận Nho giáo do đó cũng vấp phải những trở ngại từ phía văn hóa truyền thống, chẳng hạn thiết chế làng xã cổ truyền Việt Nam với những tàn dư dân chủ nguyên
thủy đã chặn nhiều yếu tố Nho giáo chính thống lại ngoài lũy tre làng.
Quá trình dân tộc hóa như vậy khiến hệ thống Nho giáo quan phương thiên
về hoạt động quản lý của chính quyền trở thành chỗ hội tụ nhiều mâu
thuẫn xã hội và chính trị trong đất nước, nơi phản ảnh nhiều xung đột
quyền lợi và nhận thức của xã hội, mà bằng chứng điển hình là sự phân
hóa phức tạp của tầng lớp nho sĩ sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.
Cho nên cuộc đảo chính của Mạc Đăng Dung năm 1527 mặc dù mang cái hình
thức chính trị ít nhiều ngẫu nhiên cũng là một hệ quả tất yếu trên con
đường phát triển của văn hóa
dân tộc: sau Trần Thủ Độ - Trần Cảnh rồi Hồ Quý Ly, các lực lượng chính
trị trong quốc gia Đại Việt từ Mạc Đăng Dung rồi nhiều chúa Trịnh và
chúa Nguyễn sau đó đã liên tục kế tiếp nhau phủ nhận lý thuyết chính trị
thiên mệnh của Nho giáo chính thống, đưa lịch sử chính trị Việt Nam thời phong kiến trở về quỹ đạo phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất đương thời.
Cùng với việc mở rộng về phía nam của bản đồ Đại Việt và sự phát triển
của kinh tế thương nghiệp từ thế kỷ XVI, tình hình này là tiền đề xã hội
cho một giai đoạn phát triển khác, phong phú mà cũng phức tạp hơn của
Nho giáo ở Việt Nam.
Là
động lực tư tưởng dẫn tới cuộc chiến tranh trung hưng của nhà Lê sau
khi bị nhà Mạc cướp ngôi, lý thuyết chính trị Nho giáo cũng chịu tác
động của cuộc chiến tranh này như một động lực phản hồi tương ứng. Cho
nên mặc dù thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền thống trị với nhà
Mạc, nhà Lê Trung hưng vẫn không thể quay về với mô hình Nho giáo đời Lê
Thánh Tông. Xung đột Lê - Mạc chưa chấm dứt thì mâu thuẫn Trịnh -
Nguyễn đã nảy sinh, và tình hình không song hành giữa lịch sử pháp quyền
với lịch sử tư tưởng trước kia lại tiếp tục trình hiện qua sự phát
triển của Nho giáo. Như một sản phẩm bất khả kháng của thực tế lịch sử,
tổ chức quân chính lồng vào bộ máy quan liêu của các chính quyền từ Mạc,
Lê - Trịnh, họ Nguyễn Đàng Trong rồi Tây Sơn, Nguyễn ánh và cả nhà
Nguyễn đến đầu đời Minh Mạng luôn bộc lộ tính chất chông chênh trên
đường hướng trị đạo Nho giáo, còn với các ông vua không ngai trong vương
tộc họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Tùng, Trịnh Tráng..., thiết chế
“đã có vua lại có chúa” quái gở của chính quyền Lê - Trịnh đã thật sự là
một báng bổ đối với chuẩn mực chính trị Nho gia. Chính tình hình nói
trên đã làm dấy lên trào lưu thực học mà thật ra là sự đối phó học thuật
trong cuộc đấu tranh không cân sức với lực lượng phong kiến quân phiệt
của một bộ phận nho sĩ quan liêu ở Đàng Ngoài thế kỷ XVIII. Không lạ gì
mà sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, các bậc đại nho Việt Nam từ Lê Quý Đôn tới
Phan Huy Chú, Cao Xuân Dục... hầu như đều là các sử gia, các nhà bách
khoa chứ không có mấy người chuyên về triết học. Nguyên lý Nho giáo được
vận dụng một cách nửa vời đã hạn chế giới trí thức Nho học Việt Nam đi
sâu vào các vấn đề triết học và phương pháp luận, trong khi thực tiễn đồ
vương tranh bá lại khiến các tập đoàn phong kiến đều đề cao đạo đức
hiếu trung. Dưới áp
lực chính trị ấy, các chuẩn mực xã hội Nho giáo cũng tán phát sâu rộng
hơn vào sinh hoạt xã hội ở Việt Nam, dĩ nhiên cũng dễ chuyển hóa thành
tín điều hay sai lệch về nội dung vì không xác lập được mối quan hệ vững
chắc với lý luận. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục khoa cử đã bình thường
hóa sự hiện diện của Nho giáo trong đời sống xã hội, tầng lớp nho sĩ
đông đảo hơn trước trở thành lực lượng phổ biến Nho giáo trong sinh hoạt
làng xã, nên khác với giai đoạn trước được tiếp nhận chủ yếu bởi chính quyền và trí thức, từ thế kỷ XVI trở đi Nho giáo đã thấm sâu hơn vào nhiều cơ tầng của văn hóa
dân gian. Các bản hương ước ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thế kỷ
XVII - XVIII cũng như nhiều truyện Nôm khuyết danh thế kỷ XVIII - XIX
cho thấy điều này. Chính trên cơ sở đó mà hệ thống Nho giáo nhân dân hóa ở Việt Nam đã hình thành, hệ thống có thể coi như một dòng phái sinh không hoàn chỉnh trong ý nghĩa là một hệ thống chuẩn mực xã hội đồng thời không
thuần nhất trên phương diện là một hệ thống học thuật - lý luận song
lại có vai trò cũng như tác dụng xã hội phổ biến hơn so với loại Nho
giáo quan phương của giai cấp phong kiến. Quá trình nhân dân
hóa kế tiếp quá trình dân tộc hóa đã góp phần xác lập diện mạo của Nho
giáo ở Việt Nam, nhưng khác với Đàng Ngoài mà các quá trình xã hội luôn
bị kìm chế bởi nền kinh tế tự cấp tự túc kiểu tiểu nông, quá trình này
lại diễn ra một cách sinh động ở Đàng Trong, trạm trung chuyển quan
trọng đưa con người Việt Nam bước vào không gian Đông Nam Á.
Sau
khi cục diện Nam Bắc triều chính thức mở ra, các chính quyền phong kiến
ở Việt Nam đều phát triển theo xu thế quân phiệt hóa. Nhưng ở Thuận
Quảng thế kỷ XVI rồi Đàng Trong thế kỷ XVII trở đi thì sự khủng hoảng ấy
của mô hình quân chủ Nho giáo lại được giải quyết trong những điều kiện khác. Được kích thích bởi kinh tế ngoại thương, văn hóa Đông Nam á đương thời đã phát triển theo một quỹ đạo ngày càng xa lạ với mô hình Đông á. Cho nên sau khi bước vào môi trường văn hóa
Đông Nam á trong hoàn cảnh biệt lập về chính trị với Đàng Ngoài, chính
quyền Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII đã tiến tới thiết chế văn hóa
- tư tưởng “Nho Thích song hành”(3), một thiết chế khá gần gũi với mô
hình “chính trị - tôn giáo hợp nhất” phổ biến ở nhiều quốc gia trong khu
vực đương thời nhưng khác hẳn nếu không nói là trái ngược với lý thuyết chính trị Nho giáo. Nhưng mô hình này lại đẩy mạnh xu thế nhân dân
hóa của Nho giáo, vì vào thế kỷ XVII - XVIII thì Phật giáo đại thừa là
tôn giáo phổ biến nhất trong xã hội người Việt ở Đàng Trong. Sự phát
triển “lệch chuẩn” của bộ phận Nho giáo ở Đàng Trong vì thế đã đưa tới
những kết quả tích cực khách quan đối với lịch sử vùng đất phía nam đất
nước. Bởi vì nếu mô hình “quân bất quân thần bất thần” của Nho giáo ở
Đàng Ngoài luôn tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ cung đình, nuôi mầm biến loạn
thì yếu tố “vô thần” trong thiết chế Nho Thích hỗn dung của Nho giáo ở
Đàng Trong lại giúp chính quyền và nhân dân Việt Nam ở vùng này nhất hóa chứ không đồng hóa nhiều nhóm cư dân có nguồn gốc văn hóa và lịch sử, phong tục và tín ngưỡng khác nhau thành một cộng đồng. Phương thức phát triển hội tụ của văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong đã đưa tới cho Nho giáo ở vùng này một nguồn sinh lực mới, mà biểu hiện tập trung là quá trình nhân dân hóa qua thực tiễn xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa,
tổ chức xã hội và bảo vệ biên cương. Đáng chú ý là sự tan rã của đế chế
nhà Minh thế kỷ XVII đã đẩy nhiều di thần phản Thanh phục Minh Trung
Hoa tỵ nạn chính trị xuống Đông Nam á trong đó có Đàng Trong, và nhiều
yếu tố văn hóa
Hoa Nam trong đó có Nho giáo cũng được du nhập rồi tái tạo ở Đàng Trong
trong những điều kiện mới, chẳng hạn phong khí nho cổ (thương nhân là nhà nho) rất thịnh hành từ thời Minh
Thanh được du nhập đã ảnh hưởng tới Nho giáo ở Đàng Trong thế kỷ XVII -
XVIII. Các nho sĩ Minh hương trong Sơn hội Gia Định như Trịnh Hoài Đức,
Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn đều là con nhà thương nhân, đều từng đi buôn trước khi tham gia chính quyền Nguyễn ánh. Chính loại Nho giáo thương nhân tinh túy của hệ thống Nho giáo nhân dân
hóa ở Đàng Trong này đã chiến thắng loại Nho giáo sĩ tộc đỉnh cao của
hệ thống Nho giáo quan phương ở Đàng Ngoài trong nội chiến Tây Sơn -
Nguyễn ánh, giúp tập đoàn Nguyễn ánh nhập thân vào trào lưu thống nhất
đất nước cuối thế kỷ XVIII để đưa ngọn cờ phục thù của mình về lại Phú
Xuân rồi tiến tới Thăng Long.
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa hệ thống Nho giáo nhân dân
hóa với hệ thống Nho giáo quan phương thì việc thống nhất đất nước năm
1802 chỉ là một trong những kết quả. Sau 1832, những nỗ lực về chính trị
của Minh Mạng đã ít nhiều đưa Nho giáo quan phương ở Việt Nam trở vào
khuôn khổ Nho giáo chính thống, nhưng lúc bấy giờ thì hệ thống học thuật
- lý luận Nho giáo đã không còn khả năng phản ảnh chính xác và toàn
diện các quá trình xã hội trong đất nước nữa. Chính sách bế quan tỏa
cảng của nhà Nguyễn với lý luận “dĩ nông vi bản” trong bối cảnh kinh tế
thương nghiệp mà đặc biệt là ngoại thương ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX
là một ví dụ. Hệ thống Nho giáo quan phương vừa lạc hậu về học thuật -
lý luận vừa cực đoan về chuẩn mực xã hội của triều Nguyễn đã dẫn tới sự
bế tắc của ý thức hệ chính thống. Trong khi đó, mặc dù không thể vươn
tới chỗ trở thành một học phái thống nhất trên toàn quốc, hệ thống Nho
giáo nhân dân
hóa vẫn tiếp tục phát triển một cách tự phát với nhiều biến thái địa
phương. ở miền Bắc, nhà nho tiến bộ Cao Bá Quát nêu ngọn cờ “Bình Dương
Bồ Bản không Nghiêu Thuấn, Mục Dã Minh Điền có Vũ Thang” để đấu tranh võ
trang chống lại triều đình, còn ở miền Nam, nhà nho thương dân Nguyễn
Đình Chiểu đề xướng việc cải tổ chính quyền “Thái sư cách chức về nhà
làm dân” trong Lục Vân Tiên, đưa ra một chủ trương
chính trị dung hòa hơn để giải quyết các vấn đề xã hội. Cuộc đấu tranh
dằng dai giữa hai hệ thống này còn thể hiện qua nhiều hiện tượng, lãnh
vực và quá trình xã hội khác, gây ra nhiều trở ngại cho việc ổn định xã
hội cũng như thống nhất văn hóa sau 1802. Nhưng từ 1858 trở đi thì hệ thống Nho giáo nhân dân
hóa lại từng bước vươn lên chiếm phần ưu thắng. Từ ngọn cờ chống Pháp
“chẳng nghe Thiên tử chiếu” ở Nam Kỳ sau Hòa ước 1862 tới các cuộc vận
động Minh tân, Duy tân, Đông du, Đông kinh nghĩa thục đầu thế kỷ XX, hệ thống này đã quy tụ được lực lượng nhân dân
và sĩ phu yêu nước để tiến hành các hoạt động yêu nước và tiến bộ.
Trong điều kiện bị giới hạn về phương tiện lý thuyết của toàn dân tộc
trong cuộc đối đầu với phương Tây tư bản, hệ thống Nho giáo nhân dân
hóa này đã thay thế Nho giáo quan phương của giai cấp phong kiến, góp
phần kéo dài sự tồn tại của nhiều chuẩn mực xã hội Nho giáo trong sinh
hoạt xã hội ở Việt Nam thế kỷ XX.
Bên cạnh đó, tuy sau khi Minh Mạng xóa bỏ chế độ quân chính, bố trí các văn quan vào vị trí chủ chốt
trong bộ máy hành chính từ trung ương tới địa phương thì cuộc đấu tranh
dằng dai giữa hai lực lượng phong kiến quân phiệt và phong kiến quan
liêu từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đã bắt đầu ngã ngũ, nhưng được sử
dụng chủ yếu như một công cụ chính trị của các lực lượng quân phiệt trong một thời gian
dài như vậy, Nho giáo quan phương ở Việt Nam đã đi lệch khỏi quỹ đạo lý
thuyết chính trị thiên mệnh của Nho giáo chính thống, điều này tô đậm
thêm tình trạng phát triển không đồng bộ giữa hệ thống học thuật - lý
luận và hệ thống chuẩn mực xã hội của Nho giáo ở Việt Nam. Nho học quan
phương thời Nguyễn
mà đặc biệt là từ đời Minh Mạng lại hướng hoạt động giáo dục vào con
đường đào tạo đội ngũ cán bộ thừa hành, nên đã xảy ra tình hình áp đặt
các chuẩn mực chính trị vào đạo đức và mỹ học. Cho nên tìm hiểu Nho học ở
Việt Nam, dễ nhận ra sự phiến diện về nội dung và nghèo nàn về sắc
thái. Dường như ở Việt Nam, Nho học chỉ mới là lý thuyết về một khuôn
mẫu chính trị chứ chưa thực sự là một hệ tư tưởng, một thế giới quan.
Thiếu một căn bản vững chắc về triết học và phương pháp luận, nó không
phản ảnh được các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của hiện thực đời
sống, của tiến trình lịch sử một cách chính xác và toàn diện, và do đó
cũng dễ dàng trở thành một loại ý thức hệ tán dương. Ngoại trừ một số
lãnh vực có quan hệ trực tiếp với chính trị như sử học và văn chương,
ảnh hưởng của Nho học đối với nhiều lãnh vực sáng tạo tinh thần khác ở
Việt Nam cũng mờ nhạt và phiến diện, chẳng hạn ngoài một số nho sĩ Đàng
Trong thế kỷ XVIII và Minh hương Nam Bộ thế kỷ XIX như Ngô Nhơn Tịnh,
Trịnh Hoài Đức, Trương Hảo Hiệp giỏi cả cầm kỳ thư họa, nho sĩ Việt Nam
hầu như không có một truyền thống hội họa bác học. Tương tự, các bộ môn
nghệ thuật truyền thống khác như âm nhạc, điêu khắc, biểu diễn... dường
như cũng không được tổng kết và nâng cao bằng các chế định mỹ học của
Nho giáo chính thống, đây chính là nguyên nhân lịch
sử dẫn tới tình trạng ít nhiều giống như bị tách rời với truyền thống
của nhiều bộ môn nghệ thuật khi Việt Nam chính thức bước vào thế giới
hiện đại một cách bị động từ thế kỷ XX.
*
* *
* *
Khó mà tưởng tượng rằng nếu không có Nho giáo thì lịch sử và văn hóa
Việt Nam đã phát triển ra sao, nhưng sự cố kết xã hội chung quanh một
hệ thống quan niệm bên ngoài đưa tới như vậy tất yếu cũng dẫn tới việc
một quá trình cải tạo xã hội truyền thống. Bản thân sự cải tạo ấy mang
một tính chất hai mặt, nên kết quả của sự cải tạo ấy cũng mang một ý nghĩa hai
mặt. Việc tìm hiểu Nho giáo với lịch sử Việt Nam do đó vẫn còn là một
đề tài nghiên cứu lớn, bởi vì như người ta đã thấy, các yếu tố Nho giáo
mà đặc biệt là trong hệ thống chuẩn mực xã hội của nó vẫn tiếp tục song
hành với sự phát triển lịch sử và những biến động xã hội ở Việt Nam sau
1945 rồi sau 1975. Hơn thế nữa, quan sát việc tiếp thu chủ nghĩa xã
hội khoa học với việc tiếp thu Nho giáo, cũng dễ nhận ra những nét
tương đồng: Việt Nam không có chế độ tông thân pháp nhưng vẫn tiếp nhận
Nho giáo, cũng như không có giai cấp vô sản công nghiệp nhưng vẫn tiếp
thu chủ nghĩa M#c. Nho giáo là lý thuyết tổ chức xã hội nhưng được tiếp nhận để khẳng định chính quyền, chủ nghĩa M#ác
là học thuyết đấu tranh giai cấp nhưng được tiếp thu để giải phóng dân
tộc. Sự tương đồng trong việc chuyển hóa chức năng ở hai trường hợp này
cũng đáng được tìm hiểu trên nhiều phương diện, và trong ý nghĩa ấy,
việc tìm hiểu Nho giáo với lịch sử Việt Nam trong quá khứ cũng có thể
góp phần soi rọi nhiều khía cạnh trong hiện trạng và xu thế của lịch sử
hiện đại Việt Nam.
C.T.T
CHÚ THÍCH:
(1) (2) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.151 và 185.
(3) Xem Cao Tự Thanh: Nho giáo ở Gia Định, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1996, tr.22-28.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét