Mạc Đình
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Mạnh Tường là một người
nổi tiếng là thông minh, vì mới 23 tuổi ông đã đỗ hai bằng Tiến sĩ luật
khoa và Tiến sĩ văn khoa
. Ông theo học ở trường Albert Sarrant ở Hà Nội, sau đó sang Pháp học ở
Montpellier . Sau khi về nước, ông được bổ dạy ở trường Bảo hộ . Bị bạc
đãi ông bỏ nghề dạy, ra làm trạng sư .
Năm 1946, ông được chính phủ Hồ Chí Minh cử đi dự Hội nghị Đà Lạt, nhưng
vì xung đột với Võ Nguyên Giáp, nên không được dự Hội nghị
Fontainebleau .
Từ 1947 đến 1950 ông làm trạng sư ở khu III . Trong khi bênh vực cho các
bị cáo trước tòa, ông hay dùng lời lẽ văn hoa
để "nói mát" chế độ, nên ông bị chuyển sang ngành giáo dục .
Ông bị coi là phần tử "ngoan cố", không chịu "lột xác" nên thường bị đả
kích . Có lần cán bộ đặt ra vở kịch nhan đề là "Phải hấp lại" để lăng mạ
ông, nhưng ông không thèm trả lời .
Từ 1952 đến 1954 ông dạy ở trường Dự bị Đại học, và sau ngày đình chiến,
ông được về dạy ở trường Văn khoa
Đại học ở Hà Nội . Chúng tôi giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường bằng hai
bài của ông . Một bài nhan đề " Vừa khóc vừa cười " để giới thiệu ông
Nguyễn Mạnh Tường Tiến sĩ văn khoa, và bài Những sai lầm trong Cải cách Ruộng Đất để giới thiệu ông Nguyễn mạnh Tường Tiến sĩ luật khoa .
Vừa khóc vừa cười
Trong 1 thiên anh hùng ca sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ XI, thi sĩ
tường thuật cuộc chiến đấu anh dũng của 2 anh hùng Roland và Olivier,
chống lại kẻ thù chung . Hai bạn chí thân giết được nhiều địch, nhưng
hai người đều bị thương cả . Dặc biệt Olivier , máu chảy nhiều, hoa cả
mắt, không nhận thấy gì nữa . Khi Roland la,i gần để giúp bạn, Olivier
tưởng nhầm là kẻ thù , bổ mấy nhát dao xuống, may không trúng đầu Roland
. Anh này bèn dịu dàng lên tiếng : "Tôi là Roland đấy mà . Sao anh đánh
tôi ?" Olovier xin lỗi bạn : "Mắt tôi hoa, không nhận ra anh nữa".
Khi Âu châu chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, trong thế kỷ
XVI, Rabelais kể chuyện Badebec, vợ của Gargantua, vừa sinh con xong
thì từ trần : "Cái thắc mắc làm cho Gargantua rối trí là hắn không biết
nên khóc vì vợ vừa chết hay nên cười vì con vừa sinh" .
Đến cuối thế kỷ thứ XVìI, khi cách mạng 1789 sắp bùng nổ, Figara một
nhân vật của Beaumarchais, sau khi kiểm điểm tình hình của 1 xã hội đã
thủ tiêu hết mọi tự do kêu lên : "Tôi vội vàng cười khì để tránh khỏi
khóc oà" Như thế không đúng .
Phải khóc trên cái hiện thời để cười đó cái ngày mai . Dù sao người trí
thức là người vừa khóc vừa cười . Khóc vì cái sai lầm phải chứng kiến
trong hiện tại, cười vì vui cái mới đang đến . Khóc vì đau khổ , cười vì
hy vọng . Khóc hôm nay để cười ngày mai . Trên quá trình biến đổi từ
cái khóc đến cái cười diễn ra cuộc tranh đấu tư tưởng của người trí thức
.
Người nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người
trí thức .
Ta ân cần với người trí thức ưa khóc . Ta phải chiếu cố nâng đỡ người ấy
. Người ấy đau khổ vì các thắc mắc căn bản và sâu sắc . Người ấy thành
khẩn . Người ấy không phải là thù, người ấy là bạn . Ta phải kiên trì,
cố gắng đưa cái khóc của người ta biến thành cái cười .
Ta dè dặt, có khi ngần ngại trước người trí thức ham cười . Ta hoan
nghênh cái cười chân thật, xuất phát từ đáy lòng, nẩy nở trên các giọt
lệ vừa khô . Nhưng ta khó chịu trước cái cười bình phong dùng để che đậy
các thắc mắc bản thân mình không muốn thú với mình . Ta ghét cái cười
dùng để mị trên lừa dưới, câu các kẻ ngây thơ, biểu lộ 1 ý chí tôn sùng,
hòng củng cố 1 điạ vị, hay mưu cầu 1 bổng lộc . Quần chúng cần đề cao
cảnh giác để khỏi mắc mưu cái cười ấy . Cấp lãnh đạo lại cần cảnh giác
hơn nữa vì cái cười nịnh hót nuôi dưỡng bệnh chủ quan mà cấp lãnh đạo
thường mắc .
Cái cười nguy hại này không nhất thiết biểu hiệu bằnng sự nhích môi . Nó
có thể là linh hồn của 1 cử chỉ, nội dung của 1 thái độ . Có người cười
bằng cái đầu nó gật, cái lưỡi nó tán thành, ủng hộ . Trong bao nhiêu
"tả khuynh", tôi nghe thấy vang tiếng cười ấy .
Tôi sợ người trí thức im lặng . Tôi nghi ngờ người trí thức cười . Tôi
thương người trí thức khóc . Tôi yêu người trí thức vừa khóc vừa cười,
khóc hôm nay để cười ngày maị "khóc lên tiếng cười"
TIN vẫn lợi hơn NGHI . Trong 10 người ta tin, có thể có 1 kẻ thù lẻn
vào/. Nhưng ta vẫn còn 9 người bạn . Và 9 người bạn này sẽ giúp ta tìm
kẻ thù ấy . Nếu ta nghi cả 10 người, khi ta giơ tay, chẳng ai bắt tay ta
. Ta không có 1 bạn bạn nào cả .
Đồng ý rằng phải phân chia rõ rệt địch, ta . Nhưng ta phải xác định thái
độ của ta với địch . Địch mưu hại ta và thực sự gây cho ta nhiều tổn
thiệt . Nhưng ta chớ nên buộc cho nó trách nhiệm về các tai hoạ căn
nguyên ở sự dốt nát, sai lầm, chủ quan của ta . Theo danh từ khá phổ
biến : "như thế không lợi" . Không lợi vì ta đề cao địch, ta không sữa
chữa được gì, không rút được bàihọc của kinh nghiệm . Từ trước tới nay
ta chỉ đặt vấn đề : ai là ta ? Tôi đề nghị đặt thêm vấn đề : do địch
làm, do ta phạm . Điểm trên, đề cao cảnh giácva cho phép ta đề phòng,
hoặc đối phó . Điểm dưới nêu cao tinh thần tự phê và giúp đỡ ta xây dựng
.
Con thỏ sợ đến cả bóng của nó . Con sư tử bất chấp mọi thú vật . Ta
không phải là sư tử và cũng không muốn là sư tử . Nhưng nhất định ta
không phải là thỏ .
Kẻ thù số 1 của trí thức : bọn chụp mũ . Kẻ thù số 1 của lãnh đạo : cấp
cán bộ chuyên cười và vỗ ngực và cả bọn chụp mũ nữa . Các cán bộ chuyên
môn cười, dựa vào bọn vỗ ngực trong quần chúng, ru ngủ cấp lãnh đạo .
Bọn chụp mũ nha hiểm hơn : họ gây thành kiến giữa lãnh đạo và quần
chúng, họ vô tình hay hữu ý xuyên tạc các nguyê,n vọng chính đáng, các
yêu cầu hợp tình hợp lý hợp pháp của quần chúng . Họ là Iago súc xiểm
Othello ghen vợ, giết vợ . Bị bao vây chặt chẽ như vậy, tài nào cấp lãnh
đạo hiểu biết được sự thật của quần chúng ?
Có 1 số người thấy phong trào quần chúng đòi hỏi ơ ? Đảnh lãnh đạo 1
chính sách cho trí thức (với các tự do dân chủ va ` mối quan hệ tốt giữa
chính trị và chuyên môn) đã tỏ thái độ "khó chịu" và phản ứng mạnh . Họ
nhắm mắt, lắc đầu , chép miệng, thở dài . Không thực sự cầu thị, chưa
điều tra nghiên cứu, chẳng tìm hiểu sự thật, họ chỉ mang đao to búa lớn
ra doạ nạt, họ là Don Quichote cầm giáo tiến lên đâm cối xay, họ quên lý
luận Cách mạng đã học tập . Họ là nàng công chúa quê thời kỳ gặp Thạch
Sanh trong hang .
" Tích tịch tình tang ..." Tiếng đàn của Thạch Sanh có nhắc lại được kỷ
niệm cũ không ? "Hỡi tuyệt thế giai nhân mà tôi yêu với 1 mối tình vô
hạn, nàng còn nhớ thuở đôi ta gặp nhau trong hang đá không ? Đôi ta
quyết tâm sống chết có nhau, với nhau/. Vì vậy ta thắng kẻ thù, ta
sống/. Bây giờ thời kỳ gian lao đã qua, nàng trở về dinh cơ huy hoàng,
lên xe xuống ngựa . Nàng nỡ lòng nào quê tình duyên cũ" (1)
Tôi muốn thân ái hỏi các bạn đang chép miệng thở dài : "Các bạn là những
người cách mạng . Thái độ của các bạn phản ứng đối phó (tôi không nói
đàn áp) trước 1 phong trào quần chúng đông đảo, đòi hỏi trên lập trường
cách mạng, những quyền lợi chân chính, thái độ ấy, phân tích, truy
nguyên nó, ta thấy gì ? Tôi run sợ trước kết luận tôi phải tiến tới .
Tôi ngừng bút . Tôi nhường lời cho tất cả các người cộng sản trên thế
giới, trong đó có các đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, có các bạn, để
các người ấy nhận định về thái độ nói trên , định danh cho nó, gọi nó
bằng tên cách mạng của nó (2). Để tránh khỏi mang tiến chụp mũ cho các
bạn, tôi dành quyền phán định cho giới có thẩm quyền .
Tôi xin nhắc lại rằng trong lịch sử cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, khi
giai đoạn kiến quốc tiến vào bước quyết liệt, chính thể cách mạng không
thể nào lạnh nhạt được vấn đề trí thức . Cuộc tranh đấu của trí thức
Việt nam hiện thời xen vào khuôn khổ cách mạng, phối hợp với phong trào
trí thức trên toàn thế giới . Coi nhẹ nó là 1 sai lầm . Giải quyết nó 1
cáh hời hợt, nông cạn với tinh thần của người lớn cho kẹo trẻ con để nó
khỏi khóc, là 1 sai lầm nghiêm trọng . Đối phó với nó, chống lại nó ...
tôi không tiếp tục vì tôi tin rằng không 1 chính thể cánh mạng naò lại
hành động như vậy .
Bằng chứng là báo Nhân Dân trong số 30-9-56 vừa đăng bài của đồng chí
Lục Định Nhất đọc ngày 26-5-56 với sự chậm trễ có 4 tháng thôi . Từ Bắc
kinh tới Hà Nội , đường dài hơn năm nghìn cây số , tốc độ của sự thật
như thế là nhanh rồi . Còn báo cáo của đồng chí Chu Ân Lai in từ ngày
30-1-1956, tôi không nhớ đăng báo Nhân Dân ngày nào . Dù các bạn thất rõ
là Đảng Lao Động Việt nam coi trọng vấn đề, như Trung quốc từ đầu năm
nay, như Liên xô từ năm 1936, Đảng lại còn phát động tinh thần dân chủ
trong quần chúng trong các giới, các cơ quan, và sở dĩ làm như vậy là để
thắt chặt liên lạc với quần chúng, đi sát với sự thật của quần chúng,
trưng cầu ý nguyện của quần chúng để xây dựng chính sách, lãnh đạo có
kết quả .
Vậy tai sao các bạn lại chép miệng thở dài ? Lại xuyên tạc ý nghĩa trọng
đại, lịch sử của 1 phong trào quần chúng, mà chính Đảng phát động ? Thế
các bạn tranh đấu cho ai, phục vụ cái gì ? Chủ trương của Đảng phát huy
dân chủ là 1 sáng kiến mà toàn dân hoan nghênh . Hạt đã gieo bây giờ
sắp đến lúc gặt hái . Cớ sao các bạn lại muốn truất quyền của Đảng gặt
hái cái mùa màng mà Đảng dã gieo hạt ?
Nhưng tôi hiểu các bạn . Các bạn là những người tốt . Chẳng qua các bạn
chỉ nặng về 1 số thành kiến mà thôi . tuy nhiên, các bạn thực sự cầu thị
: các bạn cho phép tôi tin như vậy . Phải không các bạn ?
(1) : Nên hiểu nàng công chúa là cán bộ lãnh đạo đảng Cộng sản và Thạch
Sanh là giới trí thức kháng chiến .
(2) Tác giả muốn nói : phản cách mạng
Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo
L. S. G. Ông Nguyễn Mạnh Tường đã đọc bài diễn văn này
trong một cuộc họp của Mặt trận tổ quốc Hà nội ngày 4 tháng 10 năm 1956
với tư cách đại diện cho trí thức ở Thủ đô .
Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức có tính cách "táp nham" mà chính quyền
Cộng sản thành lập với mục đích để lùa những phần tử "lừng chừng" vào
cho tiện bề kiểm soát . Nó là biến thân của Mặt trận Liên Việt (LV) ngày
xưa mà đã có người gọi là Mặt trận Lờ Vờ, hoặt tệ hơn nữa là : Mặt trận
Lông Vịt
Vì tính cách phức tạp của các hội viên mà đa số thuộc các thành phần
"bất kham" nên sự kiểm soát của Đảng không mấy khi được chu đáo . Trong
mấy tháng mùa Thu năm ngoái, vào lúc chính quyền đương bị giao động, thì
sự kiểm soát đó gần như mất hiệu quả . Đó là lý do khiến luật sư Nguyễn
Mạnh Tường có dịp lợi dụng cơ hội và hoàn cảnh đả kích kịch liệt chế độ
bằng bài diễn văn này .
Bài này không được đăng trên các báo xuất bản ở Hà Nội, nhưng không biết bằng cách nào đã lọt tới Rangơn, sang Paris .
Bài diễn văn của ông Tường đã làm rung động thế giới vì lần đầu tiên có một nhà luật học đứng trên lập trường pháp lý của các nước văn minh
lên án chính sách của ông Mao Trạch Đông về chương trình Cải cách Ruộng
Đất đề ra từ 1926 và áp dụng lần đầu tiên ở Hồ Nam . Ngày nay, vưà đúng
30 năm về sau, và dựa trên kinh nghiệm đau sót của Bắc Việt, ông Tường
lớn tiếng tuyên bố rằng chính sách đó quá ư dã man, không có mảy may
nhân đạo và hoàn toàn trái với các nguyên tắc căn bản của pháp lý mà
nhân loại công nhận hàng mấy ngàn năm nay .
Ông Tường cũng là người trí thức Việt Nam đầu tiên, sống dưới chế độ
Cộng sản, mà có can đảm lớn tiếng nói rằng : "Tôi là trí thức", không có
tự ti mặc cảm, không "mất khí thế của giai cấp"
Nhà văn hào
Nga Boris Pasternak trong tác phẩm (Bác sĩ Zhivago) của ông, cũng nhắc
lại một câu thơ của Puchkine : ;"Ta là tiểu tư sản, Ta là tiểu tư sản"
để nói rằng thành phần tiểu tư sản không có gì đáng hổ thẹn cả . Sự giác
ngộ và đoàn kết của cấp tiểu tư sản sẽ chận đứng và tiêu diệt chế độ
Cộng sản trong hậu bán thế kỷ hai mươi . Đó là ý kiến chung của giới trí
thức sống trong bức màn sắt .
-------------------------------
Thưa các quý vị
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải
cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy . Hôm nay tôi được đúc
kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong 10 ngày vừa qua, tôi đã
trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí
thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử
nước nhà .
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng lao động do ông Trường
Chinh đọc trước Hội nghị . Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi
của tôi, một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai
lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất . Tôi xin phép các vị
được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan,
không phải vì bàn tay của địch mà chính của chúng ta .
Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hy sinh, có
thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng, vì chết cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch . Họ chết vì địch,
cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà
Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở .
Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng
đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh . Chúng ta
đã xóa bỏ cái ô danh đó, những con cháu của các nạn nhân tài nào mà
không ngậm ngùi ? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ
cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được ? Nếu chúng ta
duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại, thì một phần nào, ta chuộc lại
được lỗi của ta . Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy
vật .
Do đó, cái nỗi khổ cực của họ, ta biết rõ rằng, bây giờ ta không thế nào
thủ tiêu được nữa . Quyền hạn của ta không tới đó . Nhưng cái gì ta có
thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của
các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi từ
trần, là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa
chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân .
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau
khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình
bày mấy ý kiến xây dựng . Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai
lầm trong Cải cách Ruộng đất nhưng theo ý tôi, các sai lầm này chỉ là
biểu hiệu điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo
của Đảng Lao Động . Do đó tôi xin phép được góp ý kiến xây dựng quan
niệm lãnh đạo của Đảng Lao Động .
Tại sao tôi lại tin như vậy ? Là vì, không những trong Cải cách Ruộg
đất, chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực
khác nữa . Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong
quần chúng đến cái chết thê thảm . Do đó nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm
chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm
khuyết với sự tín nhiệm của tất cả đảng viên Đảng Lao Động với sự mong
đợi của toàn dân . Chúng ta phải cương quyết không cho các sai lầm ấy
tái diễn và tác hại nữa . Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với
các người đã chết oan .
Tình hình nước ta hiện thời ra sao ? Tình hình ấy có bi quan không ? Đó
là vấn đề nhận định thôi . Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình
ấy với con mắt bi quan . Vậy sự thật khách quan như thế nào ?
Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ
biến . Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp
trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng .
Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho
chết chóc thê thảm những người hoặc già cả, hoặc thơ ấu mà ta không chủ
trương tiêu diệt . Ta chỉ cần đọc bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn
đăng trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện thời ra sao
.
Nhìn về các công xưởng công trường, ta thấy gì ? Cứ đọc báo Nhân Dân
thôi, ta thấy Chính phủ gởi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công
nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đề xuất
hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức . Lắng nghe dư luận đồng
bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có ít ra một doanh nghiệp quốc gia
lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh
nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ .
Về mậu dịch nữa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết . Nào
chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nhiêu nghìn triệu
khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động
cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính
mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc,
phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá
càng ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó . Có
thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch
.
Về hộ khẩu thì thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an
ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một
đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng
cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay
đắng của đồng bào Thủ đô, trong đại hội lần thứ 3 của nhân dân Hà Nội
vừa họp cách đây 2 tháng .
Nói về chính sách khôi phục kinh tế ta thấy gì ? Số vốn mà các nhà công
thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì . Trái lại ta thấy
tất cả một phong trào các nhà tư sản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc
"chuyển hướng" bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài
thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao
Động vì vấn đề công nhân, với sở Công Thương vì vấn đề đăng ký và nguyên
liệu sản xuất, với sở Tài Chính vì thuế khóa đặc biệt .
Thuế bổ xung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự
sát . Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều
tụy trong phố cũng "được" nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm
việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vải thước kiếm thêm
tiền độ thân .
Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước
đây sống . bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến,
chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần
uống thuốc độc để quyên sinh .
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không ? Ta cứ trông mặt mũi,
quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh
các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta
đủ hiểu khổ cực của họ . Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra
ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, số phận chính của họ, bi đát quá
nỗi ! Khổ cực nhất cho các anh chị em, là không nương tựa được vào đời
sống gia đình để khuây khỏa trong lúc thảm sầu .
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo
Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội
sau lần đại hội thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng,
nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các quý vị là các vị đủ
hiểu rồi .
Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ của Đảng
bị tổn thiệt rất nhiều . Thế tại sao đồng bào của chúng ta lại khổ cực ?
Phải chăng vì cán bộ của ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách
mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đòi hỏi
chính đáng của nó ? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của
cách mạng ?
Các điều đó là có, ta không hề chối và không thể chối cãi được . Nhưng
nhận định như vậy vẫn còn hời hợt . Ta phải đi sâu hơn nữạ Khi trong Cải
cách Ruộg đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan,
trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đã từng đóng góp phần không nhỏ vào
sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời, ở nông thôn, vẫn có người bị đánh
đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào,
thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách
Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm
và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ
quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao Động .
Do đó tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm
trong Cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, để đạt mấy ý
kiến về vấn đề lãnh đạo .
I . Vấn Đề Pháp Lý Trong Cải Cách Ruộng Đất
II. Các Nguyên Nhân Sai Lầm
III Phương Pháp Sữa Chữa Các Sai Lầm
I. Vấn đề pháp lý trong cải cách ruộng đất
Ta đa sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất , ta có thể tránh
được sai lầm ấy mà vẫn đảm bảo được đường lối căn bản của cách mạng
không ? Tôi xin giả nhời cương quyết rằng có .
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì ? Ruộng phải trở về người càỵ Điều
này rất đúng, không ai có thể chối cãi được . Nông dân là đại đa số
trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định
cách mạng không thể nào thành công được, nếu ta không thoả mãn nhu cầu
thiết yếu và cấp bách của nông dân . Không cần phải là một nhà chính trị
cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy . Chỉ cần nhìn lịch
sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi .
Như vậy nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất .
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không ? Nhất định là
không. Nông dân ta, trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột
phong kiến và một trăm năm nay, dưới chế độ thực dân . Đồng bào nông
thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người . Ta cần khôi
phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông
trên đất nước . Do đó, ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ
để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền
thế ở nông thôn .
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm . Sai lầm này, ông
Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ : ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính
quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết xử dụng nó, khai thác nó một cách
sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa
làm ta đau khổ hiện thời .
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường
chính trị . Các anh em tôi là nhừng nhà luật học,chỉ là nhà chuyên môn
và lý luận trên cơ sở chuyên môn mà thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay
từ khi chính sách phát động và Cải cách được đề ra . Tại sao ? Vì giải
pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn
toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng
.
Ta muốn gì ? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó .
Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng,
công lý của cách mạng muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách
mạng, phải biết đánh đúng địch . Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người
oan còn hơn để sót 1 địch" thì khẩu hiệu này không những quá tả một
cách vô lý, mà phản lại cách mạng là đằng khác nữạ Muốn chứng minh điều
này, ta chỉ cần nhìn thực tế : kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện
khẩu hiệu này, rất tổn thiệt uy tín của cách mạng và cho bản thân bao
nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là
gì ?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn : "Thà 10 địch sót còn hơn một người
bị kết án oan". Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không ? Không, vì ta
nắm chính quyền, vì cách mạng đã thành công . Như vậy kẻ thù của cách
mạng chẳng sớm thì chậm; nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ hoặc lọt vào
lưới của ta . Khẩu hiệu này lợi ở chỗ : không một người oan nào bị kết
án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời .
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi
mà bây giờ mới khám phá ra . Tại sao ? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó
giải quyết được. Tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có
người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích . Hơn nữa, sở dĩ hình luật
phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm pham vào trật tự xã hội : tác hại
cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng . Nhưng khi tội phạm
quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ,
tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương .
Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng
kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết . chính
xã hội thấy "quên" lợi hơn là "nhớ".
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình
phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia
đình. Nếu trách nhiệm trước hình luật của các người "có quan hệ" với
phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích
trong xã hội . Hơn 400 năm nay không một nước tây phương nào làm việc
đó nữạ Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà
thôi, Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá
già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niênđược chiếu cố .
Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người thì phải có bằng chứng
xác đáng . Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và
cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn . Một nhân chứng thôi chưa
đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau, mới
được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau
và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp
lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại .
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi
của tố nhân . Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi
thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là 1 trọng tội . Toà phải cử luật
sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình
độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước toà quyền lợi
của công tố viện ngang với quyền lợi của bị can, nghĩa là nếu công tố
viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan.
Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử
giữa công tố viện và luật sự Các vị thẩm phám ngồi xét xử phải là vô tư,
đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới
nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai
trong khi xét xử, chỉ biết xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài
liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tộị Người
thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình, mà không sợ ai
khiển trách hay gây khó khăn cho mình được.
Khi điều tra, thẩm vấn tuyệt đối không được dùng phương pháp tra khảo,
đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, doạ nạt hay dụ dỗ hắn.
Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án, thì
có quyền chống án lên toà trên. Nếu bị bị kết án tử hình, thì lại có
quyền xin ân giảm trước vị chủ tịch chính phủ. Con người của bị can,
trong tất cả quá trình truy tố và xét xử, phải tôn trọng triệt để, khi
bị can ra trước toà thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được
dùnh nhục hình đối xử với họ
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một
người khác, mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật . Tác hại
cho ai, thì chỉ nêu trách nhiệm, về phương diện dân sự nghĩa là bồi
thường thôi, của người đã tác hạị Muốn truy tố người ấy để thi hành luật
đối với hắn, thì phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm
vào một điều khoản nào quy định trong hình luật, và hình luật không bao
giờ có tác dụng đối với quá khứ cả : nếu hành động của một người diễn ra
trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là 1 tội, thì người không thể
bị mang ra truy tố được.
Không những bị can phạm 1 tội đã quy định rồi trong pháp luật, mà lại
còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy, bị can ó ý thức, có ý chí phạm
pháp không hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp
ấy khác nhaụ
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền
phức, phức tạp. dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là : ta có muốn giết
người vô tội không ?
Nếu không thì không thế nào làm khác được . Hơn nữa, muốn nhận định vấn
đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây
dưa với pháp luật, một người ở cương vị chính quyền. Ta phải đứng vào
cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi
thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các
nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải cách Ruộng đất của
ta, ta sẽ làm thế nào ? thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị
bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một toà án
nhân dân đặc biệt như ta đã làm, với tất cả sự thiếu sót về phương diện
pháp lý mà ta đã biết. Trái lại sau khi phát động tư tưởng của nông dân,
ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân
thường lập các hồ sơ, để toà án với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp
tục điều tra, kiểm tra, lấu cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử.
Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các
luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của
bị tố nhân . Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt, tội của nó đã phạm
thôi . Ta tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc
ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập
chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ
và kết quả của cuộc thẩm vấn .
II . Các nguyên nhân sai lầm
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngaỵ Sở dĩ mà khi nghiên cứu
chính sách Cải cách, ta không nghĩ đến đến giải pháp pháp lý đưa ra để
điều hoà với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải
pháp pháp lý ? Nếu không thì là sự thiếu xót nghiêm trọng của cấp lãnh
đạọ Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu . Sở dĩ ta không để ý đến
giải pháp pháp lý là vì 3 lý do :
1) Quan điểm ta địch, thù bạn của ta rất mơ hồ
2) Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn áp pháp lý
3) Ta bất chấp chuyên môn
a) Quan điểm bạn thù, ta địch mơ hồ --- Các hiện tượng trên trường quốc
tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt .
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những
điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hy sinh cho
sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng,
rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi đảng, tống giam, thậm
chí có khi bị giết nữạ Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được
khôi phục sống quyền, đang tịch, cương vị, người nào bị kết án tử
hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc
ghi tên muôn đời
Trong nước ta, qua cuộc Cải cách ruô,ng đất ta thấy bao nhiêu các chiến
sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người được gắn tới 2 huy chương
kháng chiến (ở ngoại thành Hà nội), bị kết án là phản động, cường hào
gian ác, và sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình . ấy là
không nói đến các người trong quần chúng bị hy sinh oan. Đối với các nạn
nhân này, ta có thể một phần nào, hiểu sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay
không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng
viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta
tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì ma ta gọi là lý tinh
không ? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hoá,
chỉ xử dụng cái lẽ phải của mình thôi , cũng không thể nào hỗn hợp
người xấu với kẻ tốt được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống
dưới, tham gia Cải cách ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng
không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoạị Nếu như thế thì ta gửi họ
đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến các công tố viện của
các toà án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậỵ Do đó, kết luận mà
ta tiến tới, dù muốn hay không là các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ
hồ về ta, thù, bạn địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe "ta đánh cả ta nữa". Nếu như vậy,
thì ta phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại
cái bài gần đây đăng trên báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan,
hoặc các đồng chí nói, hoặc không nói, nhưng ta đều phải hiểu các đồng
chí ấy bị nghi ngờ những người đã kết án các đồng chí, không phân biệt
được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu ? Phải chăng
ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà
ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng ?
Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấỵ Chủ yếu
là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù
bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sữa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm
thù bạn, một ngày kia ta phải khóc trên kỷ niệm của các vị có công nhất
với cách mạng, với nhân dân . Ta cương quyết không thể nào để tình
trạng ấy tái diễn ra được .
b) Bất chấp pháp luật : Giáo sư Ba lan Mahelli nói chuyện ở bộ tư pháp,
cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công các nhà chính trị
bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhiệm các
cương vị lãnh đạo trong nghành tư pháp, để bó buộc tư pháp triệt để phục
vụ chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý.
Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không cũng
cố được chính thể cách mạng, ngược lại tác hại qua nhiều gây bao nhiêu
khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy được uốn nắn kịp thời :
hoàn cảnh khách quan đã dạy 1 bài học cho chủ quan các nhà chính trị.
Sau đó phải giả lại cho tư pháp tính chất biệt lập của nó, và các nhà
chính trị, để lãnh đạo chuyên môn, phải nhập trườn học tập, trước non
hai năm, sau 5 năm để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm cho chúng ta ngạc nhiên . Trong giai đoạn đầu tiên,
chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu và dĩ nhiên, các thắng lợi ấy
vĩ đại -- lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện . Nhưng quản trị 1
nước, đặc biệt 1 nước đang xây dựng chính quyền cách mạng nghĩa là 1 cái
gì vô cùng mới mẻ, và khó khăn không giống như đường lối đề ra và khẩu
hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng.
Hai khu vực hoạt động ấy, tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi
nghành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao
biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử,
thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng
ta đau xót.
Trên con đường bao biện và tự mãn ấy các nhà chính trị bị thúc đẩy bởi
những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng
để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, pháp lý, chính giúp xe khỏi
lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên
pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn
rồị
Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì làm được, cái gì không được phép
làm, do đó nhân dân vững tâm biết rỏ đường mà đị Nhưng tâm hồn quần
chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rỏ rằng cái gì bó buộc
mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại khi pháp luật chỉ gò
bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền, thì nhà cầm quyền mỗi lúc
có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết.
Vì vậy quần chúng hoang mang : cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự
độc đoán của nhà cầm quyền, có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên
tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền
không những ảnh hưởng đến tương lai, mà lại ảnh hưởng cả về quá khứ nữạ
Đó là trường hợp nhà cầm quyền lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ
thái độ chân chính, đúng mực huống hồ là khi nhà cầm quyền xử dụng quyền
thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định.
quyền xử tử người 1 cách đơn giản như vậy trái với luật pháp : đó chỉ là
1 giải pháp chính trị mà thôi . Nếu mà các người xử dụng quyền ấy, lại
không xử dụng đúng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, xử dụng một
cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
c) Bất chấp chuyên môn : Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu
các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà
chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽyêu cầu các nhà
chính trị nên chú ý đến luật pháp, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy 1 tình trạng quái gở.
Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ "lập trường" làm ta mất
ăn mất ngủ. Nếu được dùng 1 hình ảnh "duy tâm", tôi ví lập trường như
cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có 1
điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến
lập trường trong sinh hoạt hàng ngàỵ Trái lại, các cán bộ và đảng viên
tiểu tư sản không lo ngại gì bằng mất lập trường.
Vì vậy để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồị Đó là tinh thần
tự ti của 1 giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ
cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc như
sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở : khi chọn 1 người
vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao
năm, ta chỉ hỏi : "Có lập trường không ?". Kết quả là 2 năm nay, riêng
trong thủ đô Hà nội, hằng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô
có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện, 1 bệnh
nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là : Bệnh nhân thành
phần giai cấp nào ? Chữa cho địa chủ thì "mất lập trường". Để nó chết
mới chứng minh mình có "lập trường giai cấp" (hiện tượng do B.S. Nguyễn
xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy ? Là vì chính trị chiếm
đóng, tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất
cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ cái chân
lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho
chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra
chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho
rằng chuyên môn là do văn hoá
và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là 1 sai lầm nghiêm
trọng chứng minh rằng các người chưa đọc Lê nin).
Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở từng lớp cơ
bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng khừng, lập
trường lỏng lẽo, dù là 10 năm nay, họ đã bước chân vào đường cách mạng
và chứnh minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc
kiến thiết quốc gia .
Theo ý tôi đây là 1 vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến
thường phàn nàn rằng Đảng Lao Động thiếu tín nhiệm họ . Họ đau khổ mà
nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao
nhiêu hy sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng chưa tin ở họ.
Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu ? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ
đâu ? Không.
Đại đa dố các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công
tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các
đảng viên . Họ chỉ thiết tha, đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và
kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi . Họ chỉ thiết tha mong
muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ
quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thứ mà thôi . Họ đã
từng nghe thấy đảng tuyên bố : Người trí thức là vốn quý của dân tộc .
Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quý quá, đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ
gìn nó trong 1 bán ảnh, một hoàng hôn trường cửụ Nếu ai có cho rằng tôi
nói không đúng, tôi đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các
cương vị công tác trong chính thể của tạ có chỗ nào mà người trí thức
ngoài Đảng nắm được thực quyền không ? Tác dụng "hiếu hỉ" hay "cười gật"
thì có, mà lại có nhiềụ Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò
hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền
nói gì, làm gì không, quần chúng đã biết và tôi miễn trả nhờị
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào ? xua đuổi người trí thức ra
ngoài con đường cách mạng ra sao ? lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh
nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu ìI tan vỡ vì chính
quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khi^?n của mình.
Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị
viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có
công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng
chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có 1 điều
làm ta suy nghĩ : sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu 1 chính
sách cho trí thức ? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công,
ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó,
làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang
chuyên môn ra phục vu, nhân dân ?
Trên đây tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người
trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm
trọng hơn nữạ Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn
bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước, đã khắc phục mọi
lo sợ, do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng tạ Ta để cho
cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách
nào sữa chữa sai lầm ta đã phạm với anh em .
ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa
đến cái danh từ bi đát làm chúng ta đau lòng : "họ Lưu, họ Kháng".
Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng
(ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh
em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương
lĩnh Mặt trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu
cực cái vốn chuyên môn của các anh en trí thức trong Thủ độ
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa ta thấy rằng sở dĩ có
những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua vì sự lãnh
đạo của ta thiếu dân chủ, xa lià quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các
vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng, như thế nào ; các vị đó làm được những
gì trong Hội đồng Chính phủ, trong các nghành chuyên môn mà các vị ấy
phụ trách, ta không nên đi quá sâu . Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công
việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe các tiếng than phiền của các cán
bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu .
Ta biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng
trong thực tế công tác mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ
trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như
không phải là quan trọng cho lắm . Nhận định như vậy, có lẽ ta nhầm đấỵ
Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có "dư luận" không ai chối cãi được.
Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng
mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà
chúng ta thấy tồn tại từ thời kháng chiến đến giờ. Những cũng có điều
chắc chắn, không ai chối cãi được, là các vị Bô, hay Thứ trưởng không có
trách nhiệm gì trước quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước
chính phủ mà thôi . Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ trưởng bị lật đổ cả.
Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy 2
vị thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng chính phủ. Các hiện tượng ấy
chứng tỏ rằng chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập hội
đồng chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất,
ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rỏ hơn nữạ 10 năm Quốc hội đã thành lập. Các
vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không,
quần chúng có tín nhiệm ở quốc hội nữa không, đó là 1 vấn đề. Nhưng dù
vấn đề ấy, ta giải quyết thế nào đi nữa, có 1 điều chắc chắn là 1 Quốc
hội già 10 năm rồi và vẫn tồn tại, ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự
lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị
truất quyền cử đại biểu của mình rồị
Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là 1 điều không làm
được. Và hiện thời Nam Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể
Quốc hội cũng khó khăn . Nhưng dù sao riêng các miền giải phóng này, nếu
ta chỉ chú ý đến quyền người dân cử dại biểu của họ, thì nhất định ta
phải cho phép người dân bỏ phiếu rồị Từ khi hoà bình trở lại, 2 năm đã
qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta
mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân, và bổ xung Quốc hộị
Nào có thế thôi đâu ? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực
hiện dân chủ với nó không ? Chắc chắn là không . Thỉnh thoảng ta mới
họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các
báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng hay các chính sách để Quốc hội
tán thành và bổ khuyết . Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu ? Quyền đề ra
đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm
của Chính phủ va các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội Đồng chính
phủ, bấy nhiêu quyền. Quốc hội có được hưởng dụng không ?
Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các
chính sách mà thôị còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường,
quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban thường trực của Quốc hộị Nếu quốc hội
là tổ chứ cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải
khách quan nhận thấy rằng với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện
thời quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ
chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có
thể để nó đóng vai trò của nó không ? Không, tác dụng của nó là động
viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về
phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín
nhiệm của Đảng và chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một
chiều thôi .
Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của
nó. Nó có thể là liên lạc "hai chiều" giữa quần chúng và Đảng, Chính
phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các
chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác nó có thể là cơ quan
phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc nguyện vọng của quần
chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiến nói của quần
chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp
lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và
quần chúng.
Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải "dân chủ" đối với nó,
nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến
của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh
đạọ Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậỵ Ta thấy khó chịu khi nó
thỏ thẻ chỉ thỏ thẻ thôi những lời làm ta một phút chốc, tỉnh giấc mộng
chủ quan mà ta, trong cấp lãnh đạo đang say sưa . Vì vậy ta chỉ thường
cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ hoạ ta, tán đồng ta với thái
độ của đứa con khen hay mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do
đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạọ
Thiếu dân chủ là gì ? Là xa vời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục
thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai
lầm nghiêm trọng như vậy được ?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất
ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén
sang phía tư bản. Ngay trong Thủ đô ta hiện thời, qua đại hội lần thứ 3
của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn
đi Nam .
Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở
về Hà nộị Nếu chính thể của ta tốt tại sao lại có người dụng ý xa lánh,
với trong lòng nỗi đau khổ bi đát ? Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh
sáng và hạnh phúc sao lại có người lo ngại trước cách mạng . Các người
ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc
thành phần cơ bản trong nhân dân như nông nhân, công nhân . Thế thì đâu
là chân lý ? Đó là 1 vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải
quyết được.
Bây giờ sau đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, sau các cuộc
bạo động ở Berlin, Pozoan, bên tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta
giải quyết được nó. chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại
hanh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua
là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lià quần chúng, thiếu
dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh
lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tàị
Thái độ một chiều không muốn, không cho phép, ai nói cái gì trái ngược
ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào
mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại
của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở
ta, trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động,
quả thực con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí,
khi ta nghe thấy 1 tiếng nào, từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm
như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch.
Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch,
chẳng qua vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi . Bây giờ ta
biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời, thì
trách nhiệm chính là Stalin phải chịụ Vì tự cao, tự đại,tự phụ, tự mãn,
Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch.
Kết quả thế nào ta đã biết : khẩu hiệu nêu lên, thét lên gào lên là : đề
cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì,
phạm tội ác như thế nàọ
Nếu không có quyết định của đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên
Xô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách ta chưa mở
mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối, thành sông,
bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau xót rời bỏ cách mạng. tuy
ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các
đau khổ của ta : ta thiếu dân chủ.
Phương hướng sửa chữa sai lầm
Qua lịch sử đấu tranh của quần chúng hai nghìn năm nay ta thấy cái gì mà
nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất đó là một đời sống vật
chất tương đối đày đủ êm ấm, đó là một tinh thần tương đối ổn định có
đảm bảo và tự do . Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ bản dân
sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây vấn đề dân quyền.
Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề
dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời
là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính
đáng của nhân bản . Từ cuộc cách mạng tư sản Hoa kỳ cuối thế kỷ thứ 18.
Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga,
quần chúng nổi dậy, mang xương máu để giành cho kỳ được chế độ dân chủ.
Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những
htành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ, và đặt các
nước văn minh trước
trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ . Đối
với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện
với những thiếu sót quan trọng .
Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện
trong các nước đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội
chủ nghĩạ Đại hội lần thứ 6 của hội quốc tế các luật gia dân chủ họp
trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng
trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến
pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng, thực hiện, đảm bảo
thực hiện các nguyên tắc dân chủ tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dầy
xéọ Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong hiến pháp cũng như trong
các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố. Nhưng qua
phong trào phát huy dân chủ mà chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân
dân thủ đô lần thứ 3, các đại hội mặt trận trung ương, Mật trận Thành,
qua thông báo của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng lao Động. của
Chính phủ .v.v... nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như chính phủ xác
nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiềụ Vì các thiếu sót ấy, ta phạm
các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất, như tôi đã trình bày
trên đâỵ Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết
được.
Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào cũng nơm nớp
lo sợ các hành động "lộng quyền" của nhà đương cục, vì ta thiếu một chế
độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi cụa mọi người,
đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữạ Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được
các sai lầm nghiêm trọng trong Cai cách ruộng đất, tổn thất cho xương
máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và chính phủ, là
vì người dân không có quyền, không có phương tiện, nói lên ý kiến của
mình, tham gia xây dựng các chính sách của chính phủ.
Do đó, phương hướng sữa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân
chính, một chế độ dân chủ thực sự
a) Một chế độ pháp trị chân chính -- ở đây chưa phải lúc vào chỗ để tôi
trình bày ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. ở đây tôi chỉ
muốn trình các qúy vị một nhận xét.
Đảng lao Động và Chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sữa
chữa các sai lầm trong Cả cách, phải "tăng cường chế độ pháp trị" của tạ
Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị
chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một "bà con
nghèo". chữ "tăng cường" là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta hiện
thời có 1 bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị
hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào
tôi trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính.
Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách sữa sai trong Cải cách này, tôi vẫn
thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết, bức thư của ông Hồ Viết Thắng
tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải
pháp chính trị mà thôi .
Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận
thấy rằng không ai "thông" về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng
trình bày cả. Riêng về phần tôi một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận
định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất
lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của
một người không đủ để quy định trách nhiệm của người ấỵ Trong Cải cách ,
khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra
trước nhân dân có người cũng nhận tội, trong khi biết mình là oan . Ta
nên rút kinh nghiệm vừa qua, sữa sai không phải là phạm các sai lầm
khác.
Do đó, đứng trên 1 lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập 1
ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao Động,
với sự cộng tác của cá c vị thẩm phán cao cấp, giầu kinh nghiệm, để lập 1
hồ sơ theo phương pháp pháp lý để nhận định, trên quá trình đi từ lãnh
đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào
và do ai phải chịụ Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân
tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm
chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành tòa án tối cao . Ai chịu
trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các toà án tư pháp. Dưới con măt
của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát
huy, không ai còn thắc mắc nữạ
Có người hỏi : làm thế để làm gì ? Tôi xin phép trả lờị Làm thế để rút
kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm
đâu . Chính trị không những lãnh đạo pháp lý - đó là đúng - nhưng vẫn
lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ viết
Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa
. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản của
người văn minh
. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì
các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý.
Một biện pháp chính trị xuề xoà, không thỏa mãn được ai . Bằng chứng ở
nông thôn ta được biết tình hình "căng thẳng". Phong trào trả thù, tự
xử, diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn
như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ
cần đọc lại báo Nhân Dân. tuy rằng các anh em kết thúc bài tường thuật
lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi nhưng các lời này không
làm ta quên được các lời phẩn uất, chua xót, cay đắng mà các em nói lại
với ta từ đầu bàị
Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn tang trắng chít trên đầu họ hàng
thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà,
các thởn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ,
nhắc lại hànhg năm, bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc
Cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có
tội phải đền tộị Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới,
từ dưới lên trên, phải được quy định rõ ràng, dứt khoát. Như thế, mới
yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch
sử dạy ta điều ấỵ Trong chính sách sữa chữa sai lầm, ta không thể quên
được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý.
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò
của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua, bó buộc ta
phải xây dựng lại quan điểm "địch" trên cơ sở pháp lý và pháp trị . Các
sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm, bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về
địch . Quan điểm ấy linh động quá "biện chứng" quá, nên ta không biết
phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữạ
Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định
theo hình luật thế nào là địch . Lúc đó, ta mới đánh đúng địch, và có
đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì
lại trật tự và an ninh ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần
chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của "lộng quyền",
bênh vực các quyền can bản và thiết yếu của con người
Tóm lại nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết lập
một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng
thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định
chính trị khôi phục được uy tín, và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ .
b) Một chế độ thực sự dân chủ : Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ ?
Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không
những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữạ Đây không phải là lúc, là
chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn
hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có 1
điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh
đạo, ý kiến của mìn về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị
lãnh đạo đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật . Bằng chứng là
điều tôi vừa nhắc lại đây .
Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất
nhiều, nhân dân ta chỉ có 1 yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng.
Tại sao nhân dân chỉ có 1 yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi ? Là vì nhân dân
thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn .
Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có 1 yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếụ tôi tin
rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậỵ
Ta không quên lời ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao Động tại
hội nghị nàỵ Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước hội nghị rằng
Trung ương Đảng đã sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng
qua báo cáo của các cán bộ Đảng viên mà thôị Ta phải nhận định rằng đây
là 1 sai lầm nghiêm trọng. Do đó cuộc Cải cách ruộng đất của ta đã gặp
các thất bại cay đắng . Trái với lời thường nói, ta đã thiếu dân chủ với
nhân dân .
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữạ Tôi xin
phép hội nghị góp 1 số ý kiến để chấm dứt tình trạng đó. Tôi không đặt
vấn đề dân chủ nói chung . Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện
thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi,
để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần 3 giải
pháp :
1) Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng ! không
tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo, trước
trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thật với
các khía cạnh của nó, với các ưu khuyết điểm của nó, rất tai hại . Cấp
lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất
chính của cán bộ muốn thi đua thành tic'h, vừa mị dưới, vừa lừa trên, do
đó đưa ra 1 hình ảnh quá hẹp của thực tế. Ta phải tiến tới giải pháp
nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính,
có thể truy tố về tội giả mạo được.
2) Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý
kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng
Lao Động như 1 cây rất to, lá rờm ra che hết ánh sáng của mặt trời,
khiến ngay 1 ngọn cỏ cũng không thể mọc dưới chân nó được . Vì vậy Quốc
hội cũng như Mặt trận Tổ Quốc, không thể đóng được vai trò của mình.
ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi . Các vị đã thấy
rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ Quốc, chúng
ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi .
Đó là 1 nhiệm vụ . Nhưng dù sao, chỉ có 1 chiềụ Ta là giây liên lạc giữa
các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc
giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ
ý kiến thắc mắc nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào
cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn .
Ta gắn liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế
hơn. tôi xin phép đặt mỗi ủy viên trước trách nhiệm của mình. chúng ta
ủng hộ chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. công tác
của chúng ta có 2 mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về 1 bên được. Quần
chúng không cho phép ta làm như vậy, muốn theo dõi công việc ta làm vì
chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần
chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy quyền
ấỵ Ta xử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta
Để đạt mục đích này tôi xin phép đề nghị : một là mỗi ủy viên phải có
nhiệm vụ phản ảnh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có
nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo đảng những phản ảnh của các ủy viên và
báo cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề sao, xử
dụng các phản ảnh như thế nàọ
Khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính ; để
quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các ủy
viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo
luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần
chúng và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc
biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc phải phản ảnh trung thành nội
dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các ủy viên
3) Một chế độ tự do ngôn luận xuất bản báo chí. Ta phải đề phòng trường
hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên của Mặt trận không phản ảnh ý
kiến của quần chúng. Do đó ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng
nói lên tiến nói của mình qua các báo chí. Có người lo ngại rằng tự do
ngôn luận này mà ai cũng cần thiết, có thể bị xử dụng 1 cách bừa bãi. Về
điều này ta phải suy nghĩ.
Mối lo ngại trên đây phát xuất từ động cơ nào ? Nếu là động cơ tốt nghĩa
là do 1 nhiệt tình đối với cách mạng gây ra, ta hoan nghênh . Nhưng ta
cũng sẽ trả lời rằng trong 1 chính thể dân chủ muốn xử dụng tự do nào,
dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người xử dụng tự do ấy, trước pháp
luật. Nếu xử dụng vớ tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền
kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng 1 cách vô trách nhiệm
ta đã có toà án để nghiêm trị . Vậy ta không lo ngạị
Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ 1 động cơ bất chính, nhằm mục đích
thủ tiêu các tự do dân chủ thì tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như
vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn 1 thế kỷ nay .
Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được 1 phong
trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ.
Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp phương
tiện để thực hiện các tự do ấỵ Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của
chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta
giúp đỡ cho các báo ấy giấy và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng cáo cho
các báo ấy là đàng khác nữạ Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta
không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy và khi nào các báo đó được hàng
vạn độc giả hoan nghênh, ta rất làm sung sướng vì trong thâm tâm ta , ta
là những người dân chủ.
Các biện pháp tôi đề nghị trên đây, đều nhằm mục đích cống hiến các cấp
lãnh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lãnh đạo không có điều
kiện biết đến 1 cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng, cấp
lãnh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng,
được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu .
Thưa các quý vị ,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, vì biết rằng
tôi là 1 người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân
tộc . Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ xin thành khẩn đề đạt
lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, 1 phần nhỏ mọn nhưng chan
chứa 1 niềm hy vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Luật sư NGUYễN MạNH TƯờNG
Hà nội, ngày 30-10-1956
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét