KHẢO LUẬN: NGUỒN GỐC KHOA TỬ - VI
* TRẦN-ÐOÀN CÓ PHẢI LÀ ÔNG TỔ TỬ-VI? HAY LÀ MỘT TIÊN ôNG? * Có THẬT CÁC SAO TỬ-VI Là TINH-ÐẨU? HAY THẦN THÁNH? * NHỮNG ÐIỀU TỬ-VI CẦN CHẤN-CHỈNH LẠI, SAU KHI XÉT ÐúNG NGUỒN GỐC TỬ-VI. G.S Hoàng-Quân A-Nguồn gốc khoa Tử-Vi -Tranh luận về khoa Tử -Vi hiện nay, người ta có ba giả-thuyết về nguồn gốc của nó: - Giả-thuyết thứ nhất: Nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử-Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó. - Giả-thuyết thứ hai: Khoa Tử-Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử-Vi không giải-thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy. - Giả-thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử-Vi là Dịch lý. Hi-Di tiên-sinh đã căn cứ vào Dịch lý mà san định ra Tử-Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử-Vi ít để ý đến lịch-sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch-sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả-thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn. Trở lại với nguyên lý khoa Tử-Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống-Thái-Tổ với Hi-Di tiên-sinh: “ . . . . Quả nhân đã đọc Tử-Vi Tinh-Nghĩa kinh do tiên-sinh ban cho. Tiên-sinh là Thần Tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên-sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy? Ðáp : - Không phải bần đạo đâu. Không phải bần đạo đâu. Khoa Tử-Vi uyên-nguyên từ đời Ðông-Tấn. Qua đời Lục-Triều vẫn chưa có qui-tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên-hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử-Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa Thiên-Văn, Lịch-Phổ, Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm và Hình-Tượng thấy cùng một gốc ở vũ-trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc-Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên-cứu ra đây . . . (Triệu-thi Minh thuyết Tử-vi kinh, chương 1). Như vậy, nguồn gốc khoa Tử-Vi rất xa, và nguyên-lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ-trụ. B–Sáu khoa tạo thành Tử-Vi Uyên-nguyên khoa Tử-Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn-hóa sơ khai của Trung-Hoa. Thời đại thượng cổ Trung-Hoa : Hoàng-Ðế, Hạ-Vũ, Tây-Châu, Xuân-Thu, tính ra khoảng 2502 năm ( Từ 2752 đến 250 trước Tây-lịch) nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên-hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu : Thiên nhân tượng dữ. Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau. Kinh-Thư nói : Thiên sinh chúng dân. Kinh-Thư nói : Duy Thiên âm chất hạ dân. Lễ-Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên - Trời có toàn quyền soi xÉt khắp nơi, trời có phÉp tắc trị muôn vật, làm khuôn phÉp cho mọi ngươì, tức là cái nền tảng đạo đức. Kinh-Thi nói : Thuợng đế lâm hạ hữu hách Giám quan tứ phương. Lại nói : Thiên giám tại hạ. Thiên sinh chúng dân. Hữu vật hữu tắc. Kinh-Thư nói : Thiên tự hữu điển. Thiên trật hữu lễ. Ấy bởi cái tư-tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan : Quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử-Vi vậy. a) Quan Chúc coi việc trời Thời cổ chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc Thần-quyền rất quan trọng. Như tại Ai-Cập có chức Pháp-Lão, Do-Thái có chức Tế-Tự-Trưởng. Ấn-Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là giòng Ðế-vương. Bà-la-môn chính là giòng Quan-Chúc. Tây-Tạng có chức Lạt-Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia Giáo-Hoàng La-mã còn có quyền trên cả vua chúa. Chúc quan Trung-Hoa có hai loại : * Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư-tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về giòng dõi chi lưu chức quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chÉp, khi Tào-Uế luận chiến sự với Lỗ-Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận. * Hai là Quan-Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xÉt việc trời để ứng vào nguời. Ðời Tam-Hoàng có sai quan Nam-Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc-Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi-Hòa-Kính thuận việc Trời xÉt về trình độ Nhật-Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xÉt máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính, tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần : -Hiệp định ngày, tháng, 4 mùa làm ra lịch. -Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu-Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch-Học. Thiên-Hồng-Phạm có nói về Ngũ-Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó. -Xem xÉt tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân-Thu, bọn Tì-Táo, Tử-Thận đều là giòng Chúc Quan coi việc lịch. Quan-Sử coi việc người Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại-Sử, Tiểu-Sử, Tả-Sử, Hữu-Sử, Nội-Sử, Ngoại-Sử. - Kinh-Thi, do quan Thái-Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão-Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ-Hạ-Sử. Trong Hán-Thư, phần Nghệ-Văn-Chí, sử-gia Ban-Cố cũng cho rằng phái Ðạo-Gia là do Sử-Quan mà ra. Tóm lại, tư-tưởng học thuật cổ Trung-Hoa, tư-tưởng “Thiên Nhân Tương Dữ” như sau : Quan Chúc coi việc Trời (nguồn gốc Tử-Vi): Quan Chúc coi việc tế tự. Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên-Văn học. Lịch số học, tức âm Dương. Chiêm-tinh-gia tức Phương-thuật). Quan-Sử coi việc nguời : Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho-gia). Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo-gia) Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc-Quan làm lịch. c) Thuật số cổ Trung-Hoa Trong bộ Hán-thư của Ban-Cố, phần Nghệ-Văn-Chí có đoạn : “Thuật số do các sử gia Thần-thoại là Hi-Hòa trong nhà Minh-Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân-Thu có Lỗ có Tân-Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử-Vi. Thời Chiến-Quốc, Sở có Cam-Công, Vệ có Thạch-Thông-Phủ. Hán có Ðường-Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”. Các khoa thuật số Trung-Hoa là sáu khoa mà Hi-Di tiên-sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên-lý. Tiên-sinh nhân học, rồi hiệp tinh-hoa thành khoa Tử-Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này. - Khoa Thiên-văn, trong bộ Sử-Ký 130 quyển của Tư-Mã-Thiên đã dành cả quyển 28 nói về Lịch, quyển 29 nói về Thiên-quan. Trong bộ Hán-Thư, Nghệ-Văn-Chí, Ban-Cố để một chương chÉp về khoa Thiên-văn. Theo Ban-Cố thì Thiên-Văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu. Khoa Tử-Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên-Văn. Kinh Dịch rút từ nguyên-lý vũ-trụ tuần-hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên-Văn, nên có câu: Quan Thiên-Văn dĩ sát thời biến. Nghĩa là ngắm tượng trời để xÉt sự thay đổi thời tiết. (Chu Dịch, Quẻ Bí) Nguyên-lý căn bản của Tử-Vi là Thiên-Văn. Thiên-Văn và Dịch đều có nguyên-lý là Vũ-Trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên-lý của Tử-Vi là Dịch lý cũng không lạ. -Về Lịch-Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi-Di không mấy chú ý đến tính chất Ngũ-Hành của các sao tại 12 cung. Mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó. -Ngoài ra, khoa Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm, Hình-Tượng cũng đều có nguyên-lý Vũ-Trụ mà Hi-Di tiên-sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con nguời. Tóm lại, nguyên-lý khoa Tử-Vi có thể tóm lược như sau: C-Khoa Tử-Vi và tiểu-thuyết thần thoại Vì sự thiếu sót của Tử-Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt-Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu-thuyết Thần-kỳ chí-quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử-Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông Thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử-Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung-Hoa và bị tiểu thuyết ảnh huởng đến độ tưởng thật (1) a) Trần-Ðoàn không phải là Tiên-ông. Trần Hi-Di là một đạo-gia tu ở Hoa-Sơn, đời Tống-sơ. Tất cả sách vở đều chÉp như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu-thuyết ra đời. Nhiều tiểu-thuyết gia biến Tiên-sinh thành Trần-Ðoàn lão-tổ, có phÉp tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu-thuyết gia cho Tiên-sinh sống từ đời Bàn-Cổ. Ðời Ðông-Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phÉp thu học trò. Tiên-sinh chỉ là Ðạo-gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm. Các Sao trong Tử-Vi và nhân vật Thần-Thoại : Từ sự lầm lẫn Hi-Di tiên-sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các Sao trong Tử-Vi với các vị thần trong Tiểu-thuyết. Rồi khẳng định rằng Hi-Di tiên-sinh căn cứ vào nhân vật Thần-thoại đời Thương-Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về Văn-Học-Sử và Sử Trung-Hoa. Có ba điều chứng minh rằng Hi-Di tiên-sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương-Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử-Vi : Thứ nhất: Các ngôi sao trong khoa Tử-Vi đều là những hành-tinh có thật trong Thiên-Văn. Ðọc bộ Tinh-Kinh của Cam-Hũu-Vu, hoặc của Lưu-Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên-Hà. Tiểu-thuyết gia lấy các sao trong Thiên-Văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là Thần của ngôi sao. Ðáng buồn thay, có những nhà Tử-Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu-thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng. Thứ hai: Khoa Tử-Vi được phổ biến vào năm Càn-Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu-thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ Trung-Quốc Văn-Học Sử của Dị-Quân-Tả Tự-Do thư xã ấn hành tại Hương-Cảng vào niên hiệu Trung-Hoa Dân-Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn-học, trang 397 có viết : “. . . . Minh-Sử, Nghệ-Văn-Chí chÉp có tới 127 bộ tiểu-thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn . . . Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu-thuyết có Trung-Quốc tứ đạo kỳ thư . . . Mà Tứ-Ðại kỳ-thư tiểu-thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong-Thần Diễn-Nghĩa hay còn gọi là Phong-Thần Bảng (2) . . “ Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong-Thần được bịa đặt ra sau Hi-Di tiên-sinh đến 200 năm. Thứ ba: Tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân-Thu, Tả truyện, Chiến-Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần-thoại trong Phong-Thần. Bộ Sử-Ký của Tư-Mã-Thiên: - Cuốn 4 nói về Thương Kỷ. - Cuốn 5 nói về Chu Kỷ. - Cuốn 33 nói về Lễ, Chu-Công thế-gia. - Cuốn 32 nói Tề, Thái-Công thế-gia. Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch-sử như : Trụ-Vương, Võ-Vương, Khương-Thượng. . .vân. vân . . . Không hề thấy nói đến Dương-Tiễn, Lý-Tĩnh, Lý-Na-Tra, Long-Kiết công chúa, Nguyên-Soái Trương-Quế-Phương .v.v. . . c) Kết luận. Tóm lại : -Khoa Tử-Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên-lý của nó là vũ-trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ-trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử-Vi có nguyên lý là Dịch lý. Tiểu-thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần-thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa-học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử-Vi. Hi-Di tiên-sinh là một đạo-gia, không phải là Tiên ông.
Tài liệu tham khảo:
SáCH CHỮ HáN:
-Tử vi tinh nghĩa: Trần Đoàn bản của cơ quan nghiên cứu Đông á Châu.
-Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh: Triệu Thị bản của cơ quan nghiên cứu Đông á Châu
-Trung quốc Văn học sử: Dị quân Tả
-Ẩm băng Thất văn tập: Lương Khải Siêu
-Trung quốc Triết học sử: Phùng Hữu Lang
- Trung quốc cổ đại xã hội nghiên cứu: Quách mạt Nhược
SÁCH TÂY PHƯƠNG:
-Pensee Chinoise: M. Granet.
-Naissance de la Chine: H.Glessner Greel.
KHHB số 74L1 |
ý nghĩa 12 cung trong số Tử vi quả
là tinh tế, huyền nhiệm nhưng cũng rất đơn giản, dễ hiểu vì 12 cung chỉ
là 1 vòng tròn mà trên đó, số mệnh con người được ấn định. Nếu hiểu
được Đạo mà vòng tròn là biểu tượng thì cái ý nghĩa 12 cung nó hiển lộ
ngay trên cuộc sống của mỗi
người. Vậy thì 12 cung, theo thứ tự, đã lần lượt chỉ cho ta thấy cuộc
đời mỗi người. Hiểu ý nghĩa sự sống, hiểu ý nghĩa nhân sinh, đạt được
cái mục d9ihc1 của đời người, đắc được cái Đạo Dịch Lý hoặc Đạo Thánh Hiền và riêng trong Tử Vi,
12 cung đã được Trần Đoàn sắp xếp có tôn ti trật tự, thiết tưởng ý
nghĩa đó không có gì là khó khăn, rắc rối, không có chi mà tăm tối, mông
lung…
Dù sao, cũng kinh nghiệm, cũng đã từng 1 sống 2 chết, thiết tha với Tử Vi lắm lắm mới có thể cả gan dám phát biểu như trên. Nhưng nói thì dễ, thực ra, qua mấy chục năm mà tôi vẫn chưa thấy Chân lý Tử Vi – đôi khi lại còn hoang mang, bực tức hoặc buồn phiền vì thấy những sự trái tai gai mắt trong làng tướng số. hoang mang cũng phải, vì khi thì thấy ông thầy này “bịa” ra ngôi sao Bắc Đẩu; ông thầy kia “phịa” ra ngôi sao Nam Tào và cho là khám phá mới; hoặc có thầy thì lại tuyên xưng cho mình những danh hiệu hết sức li kỳ. Cái long hoang mang của tôi không phải là thiếu lòng tin vào chính mình, mà thật ra là để nghi ngờ đúng theo tinh thần Tử Vi vậy
Nếu người ta có cuốn Tự điển về tinh tú Tử Vi thì có lẽ ngày nay phải in thêm vào đó những ngôi sao mới cho kịp đà tiến hóa của khoa Thiên Văn Học
NẾU LÀ NHÀ TƯỚNG SỐ ĐẮC TRUYỀN
Nói cho vui vậy thôi, chứ chính lý ra mỗi lá số chỉ có khoảng 108 vị sao và vài trăm cách tốt xấu. Cho nên, khi là nhà Tướng Số đắc truyền, chỉ cần xét cá nhân ấy được tốt về những sao nào hay xấu về mấy sao. Và nguyên tắc để minh chứng cho những điều khen hay chê, tốt hay dở về các sao đó đều phải băng vào quá khứ mấy ông thầy đoán đó.
Ví dụ như thầy bói khen là :
“Phúc đức của ngài lớn lắm! Nhờ vào cung này nên ngài….thế này….lại được thế kia….”
Hoặc lại biết than chủ học cao, chức vụ lớn, tiền tài to tát, tuổi lớn thì ông thấy càng nói được những điều tốt lành, hoặc khuyên nhủ, hoặc chê bai….
Còn trường hợp ông thầy cứ khen nức nở, đoán rồi sẽ giàu sang phú quý…tòa những chuyện tương lai …thì ai đoán chả được. hoặc những chuyện thường (??) lý thì ai nói cũng đặng
NóI BỪA TƯƠNG LAI
Có 1 điểm tệ hại là, thầy bói nào cứ căn cứ vào chuyện thị phi, lòng tham sân si của người cầu biết việc mai sau mà cứ dựa vào điểm đó để tha hồ nói nhăng nói cuội thì quả là 1 cái tội đáng bị…cụt lưỡi!
Nếu có người khách hỏi về con cái họ, tương lai của những trẻ mươi tuổi, thì phải căn cứ vào đâu mà đoán và phải dựa vào đâu để tối thiểu những lời đoán có minh chứng, có mạch lạc sáng sủa để người khách tin tưởng?
Xin trả lời là, trên căn bản của phép đoán, trước nhất phải xét đoán bậc cha mẹ, gia thế của người đó thuộc loại nào, như về công danh hoặc tiền bạc. Thứ đến là xét đoán về anh chị em đứa trẻ đó, nếu đứa trẻ đã mươi tuổi thì xét sức học của nó, tính tình và sức khỏe nó. Sau cùng mới dung đến phép luận đoán của tướng số mà nói về tương lai của đứa trẻ. Cứ nói theo khả năng của mình và đừng sợ sai. 10 câu đoán thì cũng phải 5 câu đúng. Vả lại, mục đích khi luận giải về tương lai trẻ là có ý để bố mẹ nó để ý đến việc giáo dục và đời sống nó, tức là chú tâm đến tương lai nó, dù tương lai đó sẽ tốt đẹp hoặc kém cỏi
VàI PHéP ĐOáN
Tôi chỉ xin bàn sơ về phép đoán, về nguyên tắc căn bản của Tử Vi. Mỗi lá số, dù chỉ được 1 hoặc 2 cách cũng đủ “cuộc đời lên hương”. Chỉ đắc 1 hay 2 cách thôi cũng ví như “1 viên kim cương nằm trong 1 nắm cát”, đủ làm cho cả lá số trở nên tốt đẹp. Trái lại, nếu xé vào cách xấu thì cả lá số đó cũng hư tuốt, cũng ví như 1 viên kim cương nằm trong nắm cát, viên kim cương đó bị nứt, bị sứt mẻ hoặc màu sắc loạn thì cũng vô giá trị
Tuy nhiên, số mạng còn cần có 1 yếu tố khác nữa là : gặp vận tốt hoặc hạn xấu hay không. Sự may rủi có đến đúng lúc, hợp thời thì mới ích lợi, chẳng hạn như giữa mùa hạn hán gặp 1 trận mưa rào đổ xuống còn quý hơn gấp vạn lần l;à mưa vàng, mưa bạc. hơn nữa, 1 bát nước đôi khi còn quý hơn 1 lạng vàng. Bởi vậy, 1 nhà Tướng số phải thấu triệt nhựng điểm căn bản đó, phải vượt qua những thành kiến của chính nghề mình và những thành kiến của khách thì những lời giải đoán của mình mới có thể tiến gần tới chân lý được.
12 CUNG SỐ
Bây giờ xin trở lại 12 cung số
Theo ngu ý của tôi, có lẽ Trần Đoàn đã ngầm gởi lại cái ý nghĩa của sự “tiếp nối” của con người, như ta có thể thấy trong 1 lá số Tử Vi:
Cung Phụ Mẫu ở ngay sau cung Mệnh, tức hàm 1 ý nghĩa là con người phải chịu 1 nguyên tắc cố định là do cha mẹ sinh ra. Nếu tính thuận thì cung Phụ Mẫu là vòng chính (thuận). Tại sao từ cung Mệnh trở đi lại theo vòng nghịch, cha mẹ sinh ra mình
Rồi sau cung Mệnh, chúng ta thấy cung Huynh đệ. Điều này cho ta nhận rõ là khi con người còn thơ ấu đã có lien hệ mật thiết với an hem ruột thịt cho tới lúc thành nhân và cho cả tới chết
Kế đến, khoảng thời gian từ 20-30 tuổi gặp ảnh hưởng cảu cung Phu/Thê, tức là thời kỳ hôn nhân. Đã thành vợ chồng rồi ắt là phải có con, và chúng ta thấy cung Tử tức nằm kề bên
Đã đeo mang vợ con gia đình thì phải tìm cách sống, phải thỏa mãn mọi nhu cầu. Cho nên khoảng 30-40 tuổi ta thấy cung Tài, tức cung tiền bạc. Cung này thật quan trọng, nó cho thấy người ta phải bon chen 1 cách lẹ làng, khôn ngoan…để có tiền
Thời gian ở cung Tài là thời hoạt động xông xáo, nắng mưa, cực nhọc và phiền não cho nên rất dễ đưa tới bệnh tật, đau ốm, bởi vậy ta thấy cung ách nó đi theo sát ngay sau
Và cũng bởi cần thỏa mãn như cầu của gia đình về tiền bạc và sức khỏe….để bảo toàn hạnh phúc, không phải chỉ ngồi 1 xó trong nhà mà có tiền, trái lại phải đi nơi này, chạy nơi khác, hết phố này đến đường kia, cho nên đã có ngay cung Di cho ta thấy đi đây đi đó như thế nào
Kế tiếp cung Thiên Di là cung Nô, cung bạn bè. Vì khi ra đời, đi đây đi đó, va chạm với mọi người thì phải lựa người mà chơi, kén bạn chọn bè. Có câu :”Giàu về bạn” thật chí lý
Nếu Thân ta giàu, công danh lớn, làm quan tướng hoặc nói theo ngày nay là làm tổng này tổng nọ thì bạn bè ta ắt cũng thuộc ngang như ta. Cho nên kế cung nô là cung Quan vậy
Khi đã công danh, quan tước là lúc có tiền bạc, sẽ tới việc mua nhà, tậu ruộng, lập vườn mở đất đai cho phì nhiêu phong phú. Vậy kế cung Quan là cung Điền
Nhà cửa, tiền tài, danh vọng đã có, tức là nền tảng đã chắc thì trong giai đoạn cuối này mới nói đến phúc đức. Lúc này đây mới biết rõ ai là người ngay chính, ai là kẻ gian tà, vì nếu trong giai đoạn này, nếu ai bị tán gia bại sản, con cháu lao đao lận đận thì có lẽ đó là cái quả phải chịu….Còn nếu an cư tuổi già 1 cách thanh tịnh, điềm đạm, con cháu hòa thuận, học hành tiến triển thì đó là cái quả được hưởng của cả 1 đời xây dựng, hoặc được con cháu tận tụy, dưỡng nuôi hiếu thuận
Dù sao cũng nên hiểu tất cả các cung điều chỉ là tương đối và đều ảnh hưởng vào nhau. Không có lá số nào là hoàn hảo, vô phúc hoặc đại phúc. Có thì chỉ là họa hoãn và đại phúc thì khó giữ được bền lâu
Có trời đất thì cũng có ta. Con người tuy nhỏ bé nhưng định mệnh dù đã được an bày, con người vẫn mãi mãi tồn tại trên Trái Đất trong sự tiếp nối vô tận. Định mệnh không hủy diệt được con người, chỉ con người mới tiêu diệt được đồng loại thôi
Và nên nhớ, 1 lá số đã được viết cho 1 người, mệnh kẻ đó đã được định thì đó là 1 đại phúc chứ không phải 1 tai họa. Nhất là giữa thời buổi tăm tối hiện nay, người ta không còn tin vào chính mình nữa nên mới tìm đến lý số thì cũng nên chờ đợi 1 hài nhi sang láng nào đó xuất hiện trên đời, thắp sang cây đuốc dẫn mọi người thoát khỏi si mê…
CáC NÉT TƯỚNG TRONG CƠ THỂ
. LƯNG, NGỰC, BỤNG, MÔNG & TAY CHÂN PHẢI THẾ NÀO MỚI TỐT?
. TƯỚNG VÚ CỦA ĐÀN ôNG & TƯỚNG RỐN CỦA ĐÀN BÀ
. QUÝ TƯỚNG CỦA ĐỔNG TRÁC, TỀ HOÀN CÔNG & LƯU BỊ.
- HOÀNG SINH -
Các phần trong cơ thể, trừ đầu và cổ ra thường được y phục bao bọc kín đáo, vừa gặp 1 người chỉ 1-2 lần, chÚng ta ít khi biết được. Người ta gọi đó là ẩn tướng. Nhưng thật ra nó chỉ ẩn với cặp mắt phàm nhÂn thôi, còn đối với các tướng thuật gia thì không nhiều thì ít, nó vẫn hiện ra như thường. Và từ đó, người ta có thể đoán được thịnh, suy, họa, phÚc. Nếu tục ngũ có cÂu nói :”Cái áo không làm nên thầy tu” thì ta cũng có thể nói :”Y phục không thể che dấu hay sửa đổi cốt cách của con người”. Bởi vì:
“Dục xuyên quý nhÂn y
Tu sinh quý nhÂn thế”
Nghĩa là:
“Muốn mặc áo của người sang
Phải có 1 hình tướng quý”
TƯỚNG NGỰC & LƯNG:
Ai đọc TÂy Hán Chí đều nhớ có đoạn Khoái Thông nói với Hàn Tín rằng:
“Tướng mặt của Ngài bất quá được phong Hầu nhưng tướng lưng của Ngài quý không thể nói hết được”
Khoái Thông muốn dung tướng lý để xui hàn Tín làm phản
Thật ra, lưng không có được 1 giá trị quan trọng như lời Khoái Thông nói. Lưng và ngực là phần them hay bớt chÚt đỉnh vào phần tướng mặt mà chÚng ta đã biết để xem điều đó chắc chắn hơn mà thôi. Lưng và ngực luôn đi liền nhau. Lưng phía sau thuộc Âm, ngực phía trước thuộc Dương. Lưng không nên lõm xuống, có rãnh ở giữa vì đó là Âm hữu dư, người suốt đời vất vả. Ngực không nên gồ lên cao vì đó là Dương hữu dư, người tính nóng nảy, hay gÂy sự với chòm xóm láng giềng.
PhÚ viết :”Ấp bối nga hung, ngã tử hà nan”
Có nghĩa là: “ lưng lõm như lưng vịt, ngực gồ như ngực ngỗng khó tránh được cảnh chết đói”
Những người có cuộc đời vất vả, nếu lưng không cong lõm xuống thì ngực cũng ưỡn ra là vì lẽ ấy. Lưng của ai nghiêng lệch còn hiếm con nữa. Điều này xÉt về phương diện y học rất đÚng: lưng nghiêng lệch là vì xương sống không thẳng, có bệnh. Mà xương sống có chứa những đường thần kinh lien quan đến cơ quan sinh dục. Do đó, ai muốn kÉn chọn vợ chồng, không thể không để ý đến điều này.
1 cái lưng tốt không những phải trò dày mà còn phải chắc chắn, rộng rãi nữa, không được mỏng manh, yếu đuối và nhất là bẹt như tấm ván. Người ta thường dung chữ “vai hùm lưng gấu” để chỉ những vị tu7o7ng1manh5 mẽ trong truyện Tàu thời xưa. Lưng của con gấu có bao giờ mỏng manh và phẳng bẹt đÂu
1 cái ngực tốt cũng phải rộng rãi đầy đặn, tăm sa (chỗ cuối xương mỏ ác) không được lõm xuống sÂu. Tăm sa lõm xuống sÂu cũng như lưng có rãnh, con người không thể sung sướng được. Những người nhiều tuổi, mập mạp, thịt ở trên ngực chảy sệ xuống trông như vÚ của đàn bà. Đó là quý tướng hay phÚ tướng thì đÚng hơn:
“Tam nhũ là tướng công hầu
Tứ nhũ là báu, đã giàu lại sang”
Nghĩa là những bắp thịt rũ xuống trông như càng có nhiều vÚ càng tốt. sang thì không nghiệm lắm, nhưng giàu là điều chắc chắn. ta cứ nhìn mấy ông Tàu chủ tiệm, bất cứ tiệm gì, lÚc ở trần thì rõ: suốt ngày họ chỉ có mỗi 1 việc là đếm tiền. Đối với đàn bà, vÚ cần lớn và chắc, đầu vÚ màu đỏ và hướng lên cao là tốt hơn cả. “Nhũ đầu chi địa” là tiện tướng của đàn bà. Ai đã xuống xóm chị em nhiều sẽ thấy điều này ứng nghiệm ngay.
TƯỚNG BỤNG
Đối với cổ nhÂn, bụng là chỗ thay cho khối óc để suy nghĩ. Người ta thường nói :”Suy bụng ta, ra bụng người” hay là :”Tôi nghĩ bụng rằng…”. Đối với nhà nho, bụng còn là chỗ chứa đựng sự khôn ngoan nữa. “Binh giáp tàng hung trung” (đồ đánh giặc chứa sẵn trong bụng) – ai mà quên được cÂu nói đó của Nguyễn Công Trứ
Thật ra, bụng chỉ là chỗ để chứa đựng và tiêu hóa đồ ăn nuôi sống cơ thể. Như vậy, bụng là nguồn gốc của sự sống, phía dưới bụng có huyệt đan điền cách rốn chừng 4 cm. Đó là chỗ tích tụ khí lực của con người. Các đạo gia khuyên chÚng ta muốn trường thọ và vô bệnh hãy thở bằng bụng chứ đừng thở bằng ngực (xin có 1 bài nói về đề tài này sau)
Như vậy, bụng nên lớn để chứa đồ ăn được nhiều. Đàn ông con trai bụng cần tròn, to chắc và nhất là xệ suống mới quý. Dáng đi khin đó sẽ trở thành oai nghi, bệ vệ. Danh sư hứa Phụ dạy rằng:
“ Đại phÚc thủy hạ danh mãn thiên hạ
Và
PhÚc như báo nhi vạn quốc danh đề”
Nghĩa là:
Bụng lớn và xệ xuống danh vang khắp nơi. Bụng như đàn bà có mang, cả thế giới biết tiếng. Nhưng bụng dù to cũng phải gọn gang, không được nÚng nính như chứa đầy mỡ. Ai có bụng đó, đầu lại to như quả muỗm, không có góc cạnh nữa thì đó lại là hạng tầm thường. Đó đÚng là cái tÚi đựng cơm, nếu không làm tôi tớ người khác thì cũng là hạng nhà quên ngu dốt hay quÂn cờ bạc hang điếm:
“Đầu đại vô giốc (góc cạnh) – phÚc đại vô thác (lớn sồ sề) bất thị nông phu, thị đổ bác”
BàN VỀ EO CỦA ĐÀN ÔNG & ĐÀN Bà
Ngoài bụng có rÚn. RÚn là cuống của nhau, nguồn gốc của sự sống từ lÚc còn nằm trong bụng mẹ. Từ đó ta thấy rÚn nên sÂu mới có phước lộc – gốc cÂy mà rễ cạn thì làm sao hÚt được màu cho tươi tốt được? RÚn nằm cao là người khôn ngoan, càng thấp xuống dưới càng kÉm hiểu biết. Đàn bà rÚn lại càng cần sÂu hơn nữa vì con cái sẽ nhờn vào đó, càng sÂu càng đông con, nếu có long lại càng tốt, sẽ sinh quý tử.
Trẻ con lÚc mới sinh ra, nếu rÚm lồi quá, nên nhờ mấy người ăn mày cầm cái gậy giả bộ chọc vào, dần dần nó sẽ xẹp xuống, dễ coin gay. Quý bà nếu có con, gặp trường hợp như vậy xin cứ thử xem, linh nghiệm phi thường. biết đÂu chỉ nhờ 1 vài cái chọc đó mà cuộc đời con mình khá hơn. Tướng số huyền bí là như thế đó)
Ngũ tạng trong bụng thong ra ngoài bằng rÚn nên rÚn là 1 vị trí quan hệ vô cùng. Có kẻ nói, gặp trường hợp 1 người bất tỉnh, ta chỉ cần dung kim chÂm vào rÚn (lể) là người đó sẽ tỉnh lại ngay. Điều này người viết xin để tồn nghi vì chưa được chứng kiến 1 lần nào
Nếu bụng to là tốt thì ta suy ra rằng cả đàn ông và đàn bà eo không nên nhỏ. Tôi nói đàn bà mà không nói thiếu nữ vì điều này chỉ áp dụng cho người đã lớn tuổi, lập gia đình rồi. Còn con gái mà đã sồ sề thì ai coi cho được? Ai có thắt lưng nhỏ, đàn ông thì cực khổ, không bao giờ ở địa vị chỉ huy, còn đàn bà, dù có dư tiền bạc cũng phải phong trần.
PhÚ viết:
“Nam nhi yếu tế nan chủ chủ phÚc tài”
Nghĩa là: “Con trai eo nhỏ kÉm phÚc kÉm tiền”
“Nữ tử yêu triết, bộ hành hoành, chung chiêu tÂn khổ”
Nghĩa là:” con gái eo gãy, bước đi nagng, đi hang hai, sớm chiều khổ cực”
Có cÂu :” Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khÉo chìu chồng lại khÉo nuôi con”
ĐÂy có thể là loại đàn bà xinh đẹp, đảm đang nhưng không thể là hạng người sung sướng. Đàn bà cần phải có cốt cách trọng hậu, mà cốt cách đó muốn có, eo cần phải tr2on, lưng cần phải dầy. Các bà mệnh phụ phu nhÂn có thể không xinh đẹp như ThÚy Kiều nhưng ai cũng yêu viên bối hậu cả. Đàn bà đẹp chưa phải là tướng tốt. Đa số các nhi kỷ nổi tiếng đều có nhan sắc diễm lệ nhưng chung than có tốt đẹp gì đÂu? Xấu như con ma Chung Vô Diệm vẫn là chánh cung của vua Tề Tuyên Vương trong tam cung lục viện. Cốt cách trọng hậu cần cho đàn bà như thế.
49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
TRAI ĐỨNG CHỮ QUÝ CÓ TÀI
GÁI ĐỨNG CHỮ QUÝ ĐI HAI LẦN ĐÒ
-TRẦN HẢI BÍCH
VĂN XƯƠNG CƯ SĨ –
Tôi đà theo dõi thường xuyên KHHB, nhất là khoa Tử Vi. Trong quý báo…., cụ Đẩu Sơn cÓ yêu cầu giải đáp 2 câu trên. Tôi xin giải đáp như sau:
· Những tuổi đứng chữ Quý gồm Quý Dậu, Quý Mùi, Quý Tị, Quý MÃo, Quý Sửu và Quý Hợi. Bây giờ chúng ta theo hệ thống Tử Vi thì biết :
- các tuổi đứng chữ Quý đều cÓ giáp Khôi giáp Việt;
- Quý Mùi cÓ them Đào hoa (cư TÍ);
- Quý Tị cÓ them giáp Hồng, Đào, giáp Long, Phượng;
- Quý MÃo cÓ them Đào hồng cư TÍ, đồng cung Long Phượng
- Quý Hợi cÓ thêm Đào Hoa (cư TÍ)
- Quý Dậu cÓ them hồng Đào đồng cung, Long Phượng đồng cung
Theo phú Trần Đoàn : Khôi Việt giáp vi Kỳ cách.
Chưa kể những cách hay khác của tuổi đứng chữ Quý:
- Khôi Việt cái thế văn chương
- Thiên Ất Quý nhân cách – tức là tọa Quý hướng Quý
- Khôi Việt đối chiếu. Giả Nghị niên thiếu đăng khoa
- Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri (giáp khôi Việt, giáp Long Phương, giáp hồng Đào đều là quý. Các tuổi đứng chữ quý phần nhiều là cÓ cách trên, cÓ tài năng. Chưa kể những cách giáp Tử Phủ, giáp Xương Khúc, giáp Khoa Quyền..vv…mà các tuổi đứng chữ Quý không cÓ)
- Khôi Việt phụ tinh vi phúc thọ
- Khôi Việt lâm mệnh vị chi tam thai (quyền cao chức trọng)
- Và những cách Long Phượng, hồng Đào theo phú Trần Đoàn:
- Long Trì Phượng Các thủ đắc quý nhân
- Khúc Xương Long Phương phát văn
- Giáp Long Phượng phú hữu lâu dài
- Đào hồng cư quan tảo tuế đắc quan hành chÍnh (đào hồng ở cung Quan sớm được làm công chức hành chánh). Khoa số tử vi của ta cÓ dịch :”
- Cung quan mà ga95p Đào hồng. thiếu niên đà thỏa tang bồng chÍ trai”
Theo những cách trên, trai hay gái đứng chữ Quý nhất định cÓ tài, cÒn ai phủ nhận nữa
Trai gái đều cÓ tài, nhưng gái đứng chữ Quý đi 2 lần đÒ, ý nÓi tình duyên đa truân. Đa truân thì cả 2 phái mới đúng vì cả trai gái đều cÓ những cách giống nhau, nhưng gái thì đa truân cÒn trai thì không, tôi sẽ trình bày trong đoạn sau:
Nghiên cứ về tuổi đứng chữ Quý đều cÓ Thiên mà ngộ Đà La (tọa hay xung chiếu) và Mà ngộ Tuần hay Triệt; Mà ngộ Tuyệt – Mà cư Hợi cung
Mà ngộ Đà là triết túc mà (ngựa què)
MÃ ngộ Tuần, Triệt, tuyệt là MÃ Tử (ngựa chết)
MÃ cư Hợi là MÃ cùng đường
(các cách trên ý nÓi gặp tai họa suy sụp, tang thương, chết choc hay thất bại. Mệnh, Phu hay hạn cũng thế)
Bị các cách trên, gái đứng chữ Quý thật là gian truân, vất vả, lao nhọc trăm đường. Lại them các cách Hồng Đào bất lợi cho phái nữ dù rằng cÓ tài hoa, tài năng tháo vát, siêng năng, tề gia nội trợ. Con gái tài hoa thường tài mệnh tương đố. Nguyễn Du mở đầu Truyện Kiều cÓ viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thÓi má hồng đánh ghen”
Và
“Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Theo phú Trần Đoàn:
:”Sở ai giả hồng Loan tứ mộ Phu cung”
Nghĩa là:
Hồng loan đÓng ở cung Phu tại Thìn, Tuất, Sửu , Mùi là số tang phu tức là chon chồng
“Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư phu cung bất hảo chi thập”
Nghĩa là:
“Cung Phu tốt 100% cũng giảm đi 1 nửa”
“Hồng Loan thủ mệnh chủ nhị phu”
Chưa kể:” Đào hoa phạm chủ vị chÍ dâm”
Trai gái cÓ Khôi Việt, Long Phượng, hồng Đào đều tài năng lả lướt, đa tình, tâm hồn nghệ sĩ. Gái thì gian truân, trai thì hạnh phúc
Tôi biết 1 vị thương gia ở ngoài Trung cÓ 2 vợ, mỗi vợ nhà cửa đàng hoàng, mỗi bà cÓ 15-16 người con. CÓ năm 2 bà cùng chửa, cùng đẻ, thật là hạnh phúc cho anh chồng này vô cùng. Trong gia đình chả bao giờ cÓ sự ghen tuông đố kị dù rằng 2 bà này ở cùng 1 phố. Vị thương gia này cũng tuổi chữ Quý
Nhưng trái lại, cô phụ nữ nào đa nhân duyên, 2-3 chồng cÓ dám sinh hoạt và sống đàng hoàng như ông này không? Dù rằng cÓ của và nhất là vấn đề con cái, giải quyết như thế nào?
Vậy các bạn trai chữ Quý, nếu chưa vợ, tôi chúc các bạn thành công trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tình cảm, tình duyên
49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
Các tuổi 49 và 53 đều cÓ các sao vào vận hạn như sau:
- Nam tuổi 49 gặp Thái Bạch, tán tận
- Nam tuổi 53 gặp Thái âm và Diêm Vương
- Nữ tuổi 49 gặp Thái âm và Huỳnh Tiền
- Nữ tuổi 53 gặp Thái âm và Thiên La
Ta cÓ câu: Thái Bạch sạch cửa nhà; tán tận tan gia bại sản; Diêm Vương, Huỳnh Tiền bệnh nặng, hồn quy địa phủ; Thái âm là tang khốc tinh;
“Thái âm đàn bà tai ách chẳng an
Nhất là sinh sản, bệnh mang hiểm nghèo”
Thiên La đề phÒng phu thê xa cách, lục đục
Nhưng cÓ phải cứ các tuổi 49, 53 đều vận hạn như thế không? Chắc là không. Chứng minh cụ thể vào tru7o7ng2ho75p của tôi. Tôi năm nay 61 tuổi, qua những năm 49 và 53 chẳng sao cả. CÓ lẽ vì tôi than cư Phúc Đức, lại tọa chiếu Tử Phủ, Sát, Phá Tham Vũ, tam hÓa nên không việc gì chăng?
Các bạn 49 và 53 tuổi, các bạn chẳng gì phải lo cho chÓng già. Muốn cẩn thận,t ất cả các bạn hÃy bắt đầu từ bây giờ, hÃy triệt để thực hiện c6am ngôn sau :”Đức năng thắng số” và “Dĩ đức báo oán: - thì cam đoan với các bạn là sẽ được:”
Tiêu tai diên thọ
Thường hoạnh cát tường
Viễn ly khổ hải
Tiêu tan nghiệp chướng
Vận bệnh tiêu trừ”
Trái lại, gieo giÓ ắt gặt bÃo. Xét hiện tại khả dĩ biết được phần nào quá khứ và suy ra phần nào tương lai (Vũ tài Lục)
NGƯỜI TA TUỔI NGỌ TUỔI MÙI
CÒN TÔI NGẬM NGÙI Vì ĐỨNG TUỔI THÂN
Cụ Đẩu Sơn cÓ giải thÍch về điểm:
- Tuổi Thân thuộc Kim, rất kỵ Linh hỏa, thương Sứ, dù mệnh ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên
- Tổi Thân chỉ cÓ Nhâm Thân thuộc Kiếm Phong Kim, cÒn Giáp Thân thuộc Tuyền Trung Thủy; BÍnh Thân thuộc Sơn hạ Hỏa; Mậu Thân thuộc Đại Trạch Thổ; canh Thân thuộc Thạch Lựu Mộc
- Sao Thiên thương bao giờ cũng ở Mộ cunug, Thiên Sứ bao giờ cũng ở ách cung thì làm sao mà: “dù mệnh an ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên?”
Theo tôi nhận xét, các tuổi Thân bao giờ cũng cÓ Kình Dương ngộ Lực Sĩ. Phú viết:
“Lý Quảng bất phong, Kình Dương phùng Lực Sĩ”
Vì sao Kình và Lực thủ mệnh thường là người giỏi giang, tháo vát nhưng lận đận. Cũng vì thế mà ông Lý Quảng, dù tài năng mà không được phong (Vũ Tài Lục). hạn hành Kình Dương Lực Sĩ công danh trắc trở, nếu cÓ quan chức cũng bị thải hồi và nếu cÓ công trạng cũng chẳng ai biết đến (VĐTTL)
Dù sao, cũng kinh nghiệm, cũng đã từng 1 sống 2 chết, thiết tha với Tử Vi lắm lắm mới có thể cả gan dám phát biểu như trên. Nhưng nói thì dễ, thực ra, qua mấy chục năm mà tôi vẫn chưa thấy Chân lý Tử Vi – đôi khi lại còn hoang mang, bực tức hoặc buồn phiền vì thấy những sự trái tai gai mắt trong làng tướng số. hoang mang cũng phải, vì khi thì thấy ông thầy này “bịa” ra ngôi sao Bắc Đẩu; ông thầy kia “phịa” ra ngôi sao Nam Tào và cho là khám phá mới; hoặc có thầy thì lại tuyên xưng cho mình những danh hiệu hết sức li kỳ. Cái long hoang mang của tôi không phải là thiếu lòng tin vào chính mình, mà thật ra là để nghi ngờ đúng theo tinh thần Tử Vi vậy
Nếu người ta có cuốn Tự điển về tinh tú Tử Vi thì có lẽ ngày nay phải in thêm vào đó những ngôi sao mới cho kịp đà tiến hóa của khoa Thiên Văn Học
NẾU LÀ NHÀ TƯỚNG SỐ ĐẮC TRUYỀN
Nói cho vui vậy thôi, chứ chính lý ra mỗi lá số chỉ có khoảng 108 vị sao và vài trăm cách tốt xấu. Cho nên, khi là nhà Tướng Số đắc truyền, chỉ cần xét cá nhân ấy được tốt về những sao nào hay xấu về mấy sao. Và nguyên tắc để minh chứng cho những điều khen hay chê, tốt hay dở về các sao đó đều phải băng vào quá khứ mấy ông thầy đoán đó.
Ví dụ như thầy bói khen là :
“Phúc đức của ngài lớn lắm! Nhờ vào cung này nên ngài….thế này….lại được thế kia….”
Hoặc lại biết than chủ học cao, chức vụ lớn, tiền tài to tát, tuổi lớn thì ông thấy càng nói được những điều tốt lành, hoặc khuyên nhủ, hoặc chê bai….
Còn trường hợp ông thầy cứ khen nức nở, đoán rồi sẽ giàu sang phú quý…tòa những chuyện tương lai …thì ai đoán chả được. hoặc những chuyện thường (??) lý thì ai nói cũng đặng
NóI BỪA TƯƠNG LAI
Có 1 điểm tệ hại là, thầy bói nào cứ căn cứ vào chuyện thị phi, lòng tham sân si của người cầu biết việc mai sau mà cứ dựa vào điểm đó để tha hồ nói nhăng nói cuội thì quả là 1 cái tội đáng bị…cụt lưỡi!
Nếu có người khách hỏi về con cái họ, tương lai của những trẻ mươi tuổi, thì phải căn cứ vào đâu mà đoán và phải dựa vào đâu để tối thiểu những lời đoán có minh chứng, có mạch lạc sáng sủa để người khách tin tưởng?
Xin trả lời là, trên căn bản của phép đoán, trước nhất phải xét đoán bậc cha mẹ, gia thế của người đó thuộc loại nào, như về công danh hoặc tiền bạc. Thứ đến là xét đoán về anh chị em đứa trẻ đó, nếu đứa trẻ đã mươi tuổi thì xét sức học của nó, tính tình và sức khỏe nó. Sau cùng mới dung đến phép luận đoán của tướng số mà nói về tương lai của đứa trẻ. Cứ nói theo khả năng của mình và đừng sợ sai. 10 câu đoán thì cũng phải 5 câu đúng. Vả lại, mục đích khi luận giải về tương lai trẻ là có ý để bố mẹ nó để ý đến việc giáo dục và đời sống nó, tức là chú tâm đến tương lai nó, dù tương lai đó sẽ tốt đẹp hoặc kém cỏi
VàI PHéP ĐOáN
Tôi chỉ xin bàn sơ về phép đoán, về nguyên tắc căn bản của Tử Vi. Mỗi lá số, dù chỉ được 1 hoặc 2 cách cũng đủ “cuộc đời lên hương”. Chỉ đắc 1 hay 2 cách thôi cũng ví như “1 viên kim cương nằm trong 1 nắm cát”, đủ làm cho cả lá số trở nên tốt đẹp. Trái lại, nếu xé vào cách xấu thì cả lá số đó cũng hư tuốt, cũng ví như 1 viên kim cương nằm trong nắm cát, viên kim cương đó bị nứt, bị sứt mẻ hoặc màu sắc loạn thì cũng vô giá trị
Tuy nhiên, số mạng còn cần có 1 yếu tố khác nữa là : gặp vận tốt hoặc hạn xấu hay không. Sự may rủi có đến đúng lúc, hợp thời thì mới ích lợi, chẳng hạn như giữa mùa hạn hán gặp 1 trận mưa rào đổ xuống còn quý hơn gấp vạn lần l;à mưa vàng, mưa bạc. hơn nữa, 1 bát nước đôi khi còn quý hơn 1 lạng vàng. Bởi vậy, 1 nhà Tướng số phải thấu triệt nhựng điểm căn bản đó, phải vượt qua những thành kiến của chính nghề mình và những thành kiến của khách thì những lời giải đoán của mình mới có thể tiến gần tới chân lý được.
12 CUNG SỐ
Bây giờ xin trở lại 12 cung số
Theo ngu ý của tôi, có lẽ Trần Đoàn đã ngầm gởi lại cái ý nghĩa của sự “tiếp nối” của con người, như ta có thể thấy trong 1 lá số Tử Vi:
Cung Phụ Mẫu ở ngay sau cung Mệnh, tức hàm 1 ý nghĩa là con người phải chịu 1 nguyên tắc cố định là do cha mẹ sinh ra. Nếu tính thuận thì cung Phụ Mẫu là vòng chính (thuận). Tại sao từ cung Mệnh trở đi lại theo vòng nghịch, cha mẹ sinh ra mình
Rồi sau cung Mệnh, chúng ta thấy cung Huynh đệ. Điều này cho ta nhận rõ là khi con người còn thơ ấu đã có lien hệ mật thiết với an hem ruột thịt cho tới lúc thành nhân và cho cả tới chết
Kế đến, khoảng thời gian từ 20-30 tuổi gặp ảnh hưởng cảu cung Phu/Thê, tức là thời kỳ hôn nhân. Đã thành vợ chồng rồi ắt là phải có con, và chúng ta thấy cung Tử tức nằm kề bên
Đã đeo mang vợ con gia đình thì phải tìm cách sống, phải thỏa mãn mọi nhu cầu. Cho nên khoảng 30-40 tuổi ta thấy cung Tài, tức cung tiền bạc. Cung này thật quan trọng, nó cho thấy người ta phải bon chen 1 cách lẹ làng, khôn ngoan…để có tiền
Thời gian ở cung Tài là thời hoạt động xông xáo, nắng mưa, cực nhọc và phiền não cho nên rất dễ đưa tới bệnh tật, đau ốm, bởi vậy ta thấy cung ách nó đi theo sát ngay sau
Và cũng bởi cần thỏa mãn như cầu của gia đình về tiền bạc và sức khỏe….để bảo toàn hạnh phúc, không phải chỉ ngồi 1 xó trong nhà mà có tiền, trái lại phải đi nơi này, chạy nơi khác, hết phố này đến đường kia, cho nên đã có ngay cung Di cho ta thấy đi đây đi đó như thế nào
Kế tiếp cung Thiên Di là cung Nô, cung bạn bè. Vì khi ra đời, đi đây đi đó, va chạm với mọi người thì phải lựa người mà chơi, kén bạn chọn bè. Có câu :”Giàu về bạn” thật chí lý
Nếu Thân ta giàu, công danh lớn, làm quan tướng hoặc nói theo ngày nay là làm tổng này tổng nọ thì bạn bè ta ắt cũng thuộc ngang như ta. Cho nên kế cung nô là cung Quan vậy
Khi đã công danh, quan tước là lúc có tiền bạc, sẽ tới việc mua nhà, tậu ruộng, lập vườn mở đất đai cho phì nhiêu phong phú. Vậy kế cung Quan là cung Điền
Nhà cửa, tiền tài, danh vọng đã có, tức là nền tảng đã chắc thì trong giai đoạn cuối này mới nói đến phúc đức. Lúc này đây mới biết rõ ai là người ngay chính, ai là kẻ gian tà, vì nếu trong giai đoạn này, nếu ai bị tán gia bại sản, con cháu lao đao lận đận thì có lẽ đó là cái quả phải chịu….Còn nếu an cư tuổi già 1 cách thanh tịnh, điềm đạm, con cháu hòa thuận, học hành tiến triển thì đó là cái quả được hưởng của cả 1 đời xây dựng, hoặc được con cháu tận tụy, dưỡng nuôi hiếu thuận
Dù sao cũng nên hiểu tất cả các cung điều chỉ là tương đối và đều ảnh hưởng vào nhau. Không có lá số nào là hoàn hảo, vô phúc hoặc đại phúc. Có thì chỉ là họa hoãn và đại phúc thì khó giữ được bền lâu
Có trời đất thì cũng có ta. Con người tuy nhỏ bé nhưng định mệnh dù đã được an bày, con người vẫn mãi mãi tồn tại trên Trái Đất trong sự tiếp nối vô tận. Định mệnh không hủy diệt được con người, chỉ con người mới tiêu diệt được đồng loại thôi
Và nên nhớ, 1 lá số đã được viết cho 1 người, mệnh kẻ đó đã được định thì đó là 1 đại phúc chứ không phải 1 tai họa. Nhất là giữa thời buổi tăm tối hiện nay, người ta không còn tin vào chính mình nữa nên mới tìm đến lý số thì cũng nên chờ đợi 1 hài nhi sang láng nào đó xuất hiện trên đời, thắp sang cây đuốc dẫn mọi người thoát khỏi si mê…
CáC NÉT TƯỚNG TRONG CƠ THỂ
. LƯNG, NGỰC, BỤNG, MÔNG & TAY CHÂN PHẢI THẾ NÀO MỚI TỐT?
. TƯỚNG VÚ CỦA ĐÀN ôNG & TƯỚNG RỐN CỦA ĐÀN BÀ
. QUÝ TƯỚNG CỦA ĐỔNG TRÁC, TỀ HOÀN CÔNG & LƯU BỊ.
- HOÀNG SINH -
Các phần trong cơ thể, trừ đầu và cổ ra thường được y phục bao bọc kín đáo, vừa gặp 1 người chỉ 1-2 lần, chÚng ta ít khi biết được. Người ta gọi đó là ẩn tướng. Nhưng thật ra nó chỉ ẩn với cặp mắt phàm nhÂn thôi, còn đối với các tướng thuật gia thì không nhiều thì ít, nó vẫn hiện ra như thường. Và từ đó, người ta có thể đoán được thịnh, suy, họa, phÚc. Nếu tục ngũ có cÂu nói :”Cái áo không làm nên thầy tu” thì ta cũng có thể nói :”Y phục không thể che dấu hay sửa đổi cốt cách của con người”. Bởi vì:
“Dục xuyên quý nhÂn y
Tu sinh quý nhÂn thế”
Nghĩa là:
“Muốn mặc áo của người sang
Phải có 1 hình tướng quý”
TƯỚNG NGỰC & LƯNG:
Ai đọc TÂy Hán Chí đều nhớ có đoạn Khoái Thông nói với Hàn Tín rằng:
“Tướng mặt của Ngài bất quá được phong Hầu nhưng tướng lưng của Ngài quý không thể nói hết được”
Khoái Thông muốn dung tướng lý để xui hàn Tín làm phản
Thật ra, lưng không có được 1 giá trị quan trọng như lời Khoái Thông nói. Lưng và ngực là phần them hay bớt chÚt đỉnh vào phần tướng mặt mà chÚng ta đã biết để xem điều đó chắc chắn hơn mà thôi. Lưng và ngực luôn đi liền nhau. Lưng phía sau thuộc Âm, ngực phía trước thuộc Dương. Lưng không nên lõm xuống, có rãnh ở giữa vì đó là Âm hữu dư, người suốt đời vất vả. Ngực không nên gồ lên cao vì đó là Dương hữu dư, người tính nóng nảy, hay gÂy sự với chòm xóm láng giềng.
PhÚ viết :”Ấp bối nga hung, ngã tử hà nan”
Có nghĩa là: “ lưng lõm như lưng vịt, ngực gồ như ngực ngỗng khó tránh được cảnh chết đói”
Những người có cuộc đời vất vả, nếu lưng không cong lõm xuống thì ngực cũng ưỡn ra là vì lẽ ấy. Lưng của ai nghiêng lệch còn hiếm con nữa. Điều này xÉt về phương diện y học rất đÚng: lưng nghiêng lệch là vì xương sống không thẳng, có bệnh. Mà xương sống có chứa những đường thần kinh lien quan đến cơ quan sinh dục. Do đó, ai muốn kÉn chọn vợ chồng, không thể không để ý đến điều này.
1 cái lưng tốt không những phải trò dày mà còn phải chắc chắn, rộng rãi nữa, không được mỏng manh, yếu đuối và nhất là bẹt như tấm ván. Người ta thường dung chữ “vai hùm lưng gấu” để chỉ những vị tu7o7ng1manh5 mẽ trong truyện Tàu thời xưa. Lưng của con gấu có bao giờ mỏng manh và phẳng bẹt đÂu
1 cái ngực tốt cũng phải rộng rãi đầy đặn, tăm sa (chỗ cuối xương mỏ ác) không được lõm xuống sÂu. Tăm sa lõm xuống sÂu cũng như lưng có rãnh, con người không thể sung sướng được. Những người nhiều tuổi, mập mạp, thịt ở trên ngực chảy sệ xuống trông như vÚ của đàn bà. Đó là quý tướng hay phÚ tướng thì đÚng hơn:
“Tam nhũ là tướng công hầu
Tứ nhũ là báu, đã giàu lại sang”
Nghĩa là những bắp thịt rũ xuống trông như càng có nhiều vÚ càng tốt. sang thì không nghiệm lắm, nhưng giàu là điều chắc chắn. ta cứ nhìn mấy ông Tàu chủ tiệm, bất cứ tiệm gì, lÚc ở trần thì rõ: suốt ngày họ chỉ có mỗi 1 việc là đếm tiền. Đối với đàn bà, vÚ cần lớn và chắc, đầu vÚ màu đỏ và hướng lên cao là tốt hơn cả. “Nhũ đầu chi địa” là tiện tướng của đàn bà. Ai đã xuống xóm chị em nhiều sẽ thấy điều này ứng nghiệm ngay.
TƯỚNG BỤNG
Đối với cổ nhÂn, bụng là chỗ thay cho khối óc để suy nghĩ. Người ta thường nói :”Suy bụng ta, ra bụng người” hay là :”Tôi nghĩ bụng rằng…”. Đối với nhà nho, bụng còn là chỗ chứa đựng sự khôn ngoan nữa. “Binh giáp tàng hung trung” (đồ đánh giặc chứa sẵn trong bụng) – ai mà quên được cÂu nói đó của Nguyễn Công Trứ
Thật ra, bụng chỉ là chỗ để chứa đựng và tiêu hóa đồ ăn nuôi sống cơ thể. Như vậy, bụng là nguồn gốc của sự sống, phía dưới bụng có huyệt đan điền cách rốn chừng 4 cm. Đó là chỗ tích tụ khí lực của con người. Các đạo gia khuyên chÚng ta muốn trường thọ và vô bệnh hãy thở bằng bụng chứ đừng thở bằng ngực (xin có 1 bài nói về đề tài này sau)
Như vậy, bụng nên lớn để chứa đồ ăn được nhiều. Đàn ông con trai bụng cần tròn, to chắc và nhất là xệ suống mới quý. Dáng đi khin đó sẽ trở thành oai nghi, bệ vệ. Danh sư hứa Phụ dạy rằng:
“ Đại phÚc thủy hạ danh mãn thiên hạ
Và
PhÚc như báo nhi vạn quốc danh đề”
Nghĩa là:
Bụng lớn và xệ xuống danh vang khắp nơi. Bụng như đàn bà có mang, cả thế giới biết tiếng. Nhưng bụng dù to cũng phải gọn gang, không được nÚng nính như chứa đầy mỡ. Ai có bụng đó, đầu lại to như quả muỗm, không có góc cạnh nữa thì đó lại là hạng tầm thường. Đó đÚng là cái tÚi đựng cơm, nếu không làm tôi tớ người khác thì cũng là hạng nhà quên ngu dốt hay quÂn cờ bạc hang điếm:
“Đầu đại vô giốc (góc cạnh) – phÚc đại vô thác (lớn sồ sề) bất thị nông phu, thị đổ bác”
BàN VỀ EO CỦA ĐÀN ÔNG & ĐÀN Bà
Ngoài bụng có rÚn. RÚn là cuống của nhau, nguồn gốc của sự sống từ lÚc còn nằm trong bụng mẹ. Từ đó ta thấy rÚn nên sÂu mới có phước lộc – gốc cÂy mà rễ cạn thì làm sao hÚt được màu cho tươi tốt được? RÚn nằm cao là người khôn ngoan, càng thấp xuống dưới càng kÉm hiểu biết. Đàn bà rÚn lại càng cần sÂu hơn nữa vì con cái sẽ nhờn vào đó, càng sÂu càng đông con, nếu có long lại càng tốt, sẽ sinh quý tử.
Trẻ con lÚc mới sinh ra, nếu rÚm lồi quá, nên nhờ mấy người ăn mày cầm cái gậy giả bộ chọc vào, dần dần nó sẽ xẹp xuống, dễ coin gay. Quý bà nếu có con, gặp trường hợp như vậy xin cứ thử xem, linh nghiệm phi thường. biết đÂu chỉ nhờ 1 vài cái chọc đó mà cuộc đời con mình khá hơn. Tướng số huyền bí là như thế đó)
Ngũ tạng trong bụng thong ra ngoài bằng rÚn nên rÚn là 1 vị trí quan hệ vô cùng. Có kẻ nói, gặp trường hợp 1 người bất tỉnh, ta chỉ cần dung kim chÂm vào rÚn (lể) là người đó sẽ tỉnh lại ngay. Điều này người viết xin để tồn nghi vì chưa được chứng kiến 1 lần nào
Nếu bụng to là tốt thì ta suy ra rằng cả đàn ông và đàn bà eo không nên nhỏ. Tôi nói đàn bà mà không nói thiếu nữ vì điều này chỉ áp dụng cho người đã lớn tuổi, lập gia đình rồi. Còn con gái mà đã sồ sề thì ai coi cho được? Ai có thắt lưng nhỏ, đàn ông thì cực khổ, không bao giờ ở địa vị chỉ huy, còn đàn bà, dù có dư tiền bạc cũng phải phong trần.
PhÚ viết:
“Nam nhi yếu tế nan chủ chủ phÚc tài”
Nghĩa là: “Con trai eo nhỏ kÉm phÚc kÉm tiền”
“Nữ tử yêu triết, bộ hành hoành, chung chiêu tÂn khổ”
Nghĩa là:” con gái eo gãy, bước đi nagng, đi hang hai, sớm chiều khổ cực”
Có cÂu :” Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khÉo chìu chồng lại khÉo nuôi con”
ĐÂy có thể là loại đàn bà xinh đẹp, đảm đang nhưng không thể là hạng người sung sướng. Đàn bà cần phải có cốt cách trọng hậu, mà cốt cách đó muốn có, eo cần phải tr2on, lưng cần phải dầy. Các bà mệnh phụ phu nhÂn có thể không xinh đẹp như ThÚy Kiều nhưng ai cũng yêu viên bối hậu cả. Đàn bà đẹp chưa phải là tướng tốt. Đa số các nhi kỷ nổi tiếng đều có nhan sắc diễm lệ nhưng chung than có tốt đẹp gì đÂu? Xấu như con ma Chung Vô Diệm vẫn là chánh cung của vua Tề Tuyên Vương trong tam cung lục viện. Cốt cách trọng hậu cần cho đàn bà như thế.
49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
TRAI ĐỨNG CHỮ QUÝ CÓ TÀI
GÁI ĐỨNG CHỮ QUÝ ĐI HAI LẦN ĐÒ
-TRẦN HẢI BÍCH
VĂN XƯƠNG CƯ SĨ –
Tôi đà theo dõi thường xuyên KHHB, nhất là khoa Tử Vi. Trong quý báo…., cụ Đẩu Sơn cÓ yêu cầu giải đáp 2 câu trên. Tôi xin giải đáp như sau:
· Những tuổi đứng chữ Quý gồm Quý Dậu, Quý Mùi, Quý Tị, Quý MÃo, Quý Sửu và Quý Hợi. Bây giờ chúng ta theo hệ thống Tử Vi thì biết :
- các tuổi đứng chữ Quý đều cÓ giáp Khôi giáp Việt;
- Quý Mùi cÓ them Đào hoa (cư TÍ);
- Quý Tị cÓ them giáp Hồng, Đào, giáp Long, Phượng;
- Quý MÃo cÓ them Đào hồng cư TÍ, đồng cung Long Phượng
- Quý Hợi cÓ thêm Đào Hoa (cư TÍ)
- Quý Dậu cÓ them hồng Đào đồng cung, Long Phượng đồng cung
Theo phú Trần Đoàn : Khôi Việt giáp vi Kỳ cách.
Chưa kể những cách hay khác của tuổi đứng chữ Quý:
- Khôi Việt cái thế văn chương
- Thiên Ất Quý nhân cách – tức là tọa Quý hướng Quý
- Khôi Việt đối chiếu. Giả Nghị niên thiếu đăng khoa
- Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri (giáp khôi Việt, giáp Long Phương, giáp hồng Đào đều là quý. Các tuổi đứng chữ quý phần nhiều là cÓ cách trên, cÓ tài năng. Chưa kể những cách giáp Tử Phủ, giáp Xương Khúc, giáp Khoa Quyền..vv…mà các tuổi đứng chữ Quý không cÓ)
- Khôi Việt phụ tinh vi phúc thọ
- Khôi Việt lâm mệnh vị chi tam thai (quyền cao chức trọng)
- Và những cách Long Phượng, hồng Đào theo phú Trần Đoàn:
- Long Trì Phượng Các thủ đắc quý nhân
- Khúc Xương Long Phương phát văn
- Giáp Long Phượng phú hữu lâu dài
- Đào hồng cư quan tảo tuế đắc quan hành chÍnh (đào hồng ở cung Quan sớm được làm công chức hành chánh). Khoa số tử vi của ta cÓ dịch :”
- Cung quan mà ga95p Đào hồng. thiếu niên đà thỏa tang bồng chÍ trai”
Theo những cách trên, trai hay gái đứng chữ Quý nhất định cÓ tài, cÒn ai phủ nhận nữa
Trai gái đều cÓ tài, nhưng gái đứng chữ Quý đi 2 lần đÒ, ý nÓi tình duyên đa truân. Đa truân thì cả 2 phái mới đúng vì cả trai gái đều cÓ những cách giống nhau, nhưng gái thì đa truân cÒn trai thì không, tôi sẽ trình bày trong đoạn sau:
Nghiên cứ về tuổi đứng chữ Quý đều cÓ Thiên mà ngộ Đà La (tọa hay xung chiếu) và Mà ngộ Tuần hay Triệt; Mà ngộ Tuyệt – Mà cư Hợi cung
Mà ngộ Đà là triết túc mà (ngựa què)
MÃ ngộ Tuần, Triệt, tuyệt là MÃ Tử (ngựa chết)
MÃ cư Hợi là MÃ cùng đường
(các cách trên ý nÓi gặp tai họa suy sụp, tang thương, chết choc hay thất bại. Mệnh, Phu hay hạn cũng thế)
Bị các cách trên, gái đứng chữ Quý thật là gian truân, vất vả, lao nhọc trăm đường. Lại them các cách Hồng Đào bất lợi cho phái nữ dù rằng cÓ tài hoa, tài năng tháo vát, siêng năng, tề gia nội trợ. Con gái tài hoa thường tài mệnh tương đố. Nguyễn Du mở đầu Truyện Kiều cÓ viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thÓi má hồng đánh ghen”
Và
“Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Theo phú Trần Đoàn:
:”Sở ai giả hồng Loan tứ mộ Phu cung”
Nghĩa là:
Hồng loan đÓng ở cung Phu tại Thìn, Tuất, Sửu , Mùi là số tang phu tức là chon chồng
“Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư phu cung bất hảo chi thập”
Nghĩa là:
“Cung Phu tốt 100% cũng giảm đi 1 nửa”
“Hồng Loan thủ mệnh chủ nhị phu”
Chưa kể:” Đào hoa phạm chủ vị chÍ dâm”
Trai gái cÓ Khôi Việt, Long Phượng, hồng Đào đều tài năng lả lướt, đa tình, tâm hồn nghệ sĩ. Gái thì gian truân, trai thì hạnh phúc
Tôi biết 1 vị thương gia ở ngoài Trung cÓ 2 vợ, mỗi vợ nhà cửa đàng hoàng, mỗi bà cÓ 15-16 người con. CÓ năm 2 bà cùng chửa, cùng đẻ, thật là hạnh phúc cho anh chồng này vô cùng. Trong gia đình chả bao giờ cÓ sự ghen tuông đố kị dù rằng 2 bà này ở cùng 1 phố. Vị thương gia này cũng tuổi chữ Quý
Nhưng trái lại, cô phụ nữ nào đa nhân duyên, 2-3 chồng cÓ dám sinh hoạt và sống đàng hoàng như ông này không? Dù rằng cÓ của và nhất là vấn đề con cái, giải quyết như thế nào?
Vậy các bạn trai chữ Quý, nếu chưa vợ, tôi chúc các bạn thành công trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tình cảm, tình duyên
49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
Các tuổi 49 và 53 đều cÓ các sao vào vận hạn như sau:
- Nam tuổi 49 gặp Thái Bạch, tán tận
- Nam tuổi 53 gặp Thái âm và Diêm Vương
- Nữ tuổi 49 gặp Thái âm và Huỳnh Tiền
- Nữ tuổi 53 gặp Thái âm và Thiên La
Ta cÓ câu: Thái Bạch sạch cửa nhà; tán tận tan gia bại sản; Diêm Vương, Huỳnh Tiền bệnh nặng, hồn quy địa phủ; Thái âm là tang khốc tinh;
“Thái âm đàn bà tai ách chẳng an
Nhất là sinh sản, bệnh mang hiểm nghèo”
Thiên La đề phÒng phu thê xa cách, lục đục
Nhưng cÓ phải cứ các tuổi 49, 53 đều vận hạn như thế không? Chắc là không. Chứng minh cụ thể vào tru7o7ng2ho75p của tôi. Tôi năm nay 61 tuổi, qua những năm 49 và 53 chẳng sao cả. CÓ lẽ vì tôi than cư Phúc Đức, lại tọa chiếu Tử Phủ, Sát, Phá Tham Vũ, tam hÓa nên không việc gì chăng?
Các bạn 49 và 53 tuổi, các bạn chẳng gì phải lo cho chÓng già. Muốn cẩn thận,t ất cả các bạn hÃy bắt đầu từ bây giờ, hÃy triệt để thực hiện c6am ngôn sau :”Đức năng thắng số” và “Dĩ đức báo oán: - thì cam đoan với các bạn là sẽ được:”
Tiêu tai diên thọ
Thường hoạnh cát tường
Viễn ly khổ hải
Tiêu tan nghiệp chướng
Vận bệnh tiêu trừ”
Trái lại, gieo giÓ ắt gặt bÃo. Xét hiện tại khả dĩ biết được phần nào quá khứ và suy ra phần nào tương lai (Vũ tài Lục)
NGƯỜI TA TUỔI NGỌ TUỔI MÙI
CÒN TÔI NGẬM NGÙI Vì ĐỨNG TUỔI THÂN
Cụ Đẩu Sơn cÓ giải thÍch về điểm:
- Tuổi Thân thuộc Kim, rất kỵ Linh hỏa, thương Sứ, dù mệnh ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên
- Tổi Thân chỉ cÓ Nhâm Thân thuộc Kiếm Phong Kim, cÒn Giáp Thân thuộc Tuyền Trung Thủy; BÍnh Thân thuộc Sơn hạ Hỏa; Mậu Thân thuộc Đại Trạch Thổ; canh Thân thuộc Thạch Lựu Mộc
- Sao Thiên thương bao giờ cũng ở Mộ cunug, Thiên Sứ bao giờ cũng ở ách cung thì làm sao mà: “dù mệnh an ở cung nào cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên?”
Theo tôi nhận xét, các tuổi Thân bao giờ cũng cÓ Kình Dương ngộ Lực Sĩ. Phú viết:
“Lý Quảng bất phong, Kình Dương phùng Lực Sĩ”
Vì sao Kình và Lực thủ mệnh thường là người giỏi giang, tháo vát nhưng lận đận. Cũng vì thế mà ông Lý Quảng, dù tài năng mà không được phong (Vũ Tài Lục). hạn hành Kình Dương Lực Sĩ công danh trắc trở, nếu cÓ quan chức cũng bị thải hồi và nếu cÓ công trạng cũng chẳng ai biết đến (VĐTTL)
10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI
Phần I:
1)CÁc sao Đức và Quí nhân
2)CÁc sao Tứ hóa
3)Ý nghĩa cung Thiên Di
4)Vòng ThÁi tuế ở đại hạn và tiểu hạn
5)Thế sinh nhập ở tứ sinh và tứ nguyệt.
Của giÁo sư Lê Trung Hưng – giảng viên Cao đẳng Nông Lâm Súc Bình Dương.
GiÁo sư Lê Trung Hưng là một nhà nghiên cứu về khoa Tử vi. ông thâu thập được rất nhiều kinh nghiệm, qua cÁc lÁ số của thân nhân, bạn bè, ông lại có biệt tài dẫn giải cÁc kinh nghiệm đó theo lối trình bày pha trộn cả Đông phương và khoa học Tây phương. Nhưng ông không có coi số cho thiên hạ.
Điều đÁng quÝ ở ông cũng như ở cụ Thiên Lương, là dẫn giải tường tận những kinh nghiệm đạt được trong Tử vi, hoặc là kinh nghiệm riêng, hoặc là kinh nghiệm được truyền thụ do cụ Thiên Lương, hoặc là những kinh nghiệm cũ được hiểu qua Ánh sÁng mới. Giai phẩm Khoa học Huyền Bí được hân hạnh đăng những bài dẫn giải của giÁo sư Lê Trung Hưng, và rồi sau này, sẽ còn trình giải thêm nữa về những điểm đã được nêu ra tại đây.
Đây là phần đầu của bài “10 điều soi sÁng cho khoa nghiệm lÝ Tử vi”. Phần thứ 2 sẽ đăng trong số giai phẩm sau. Kính mời quÝ bạn đọc thưởng thức.
I- PHẦN KHAI TỪ:
Khoa huyền bí Đông Phương thật vô cùng phong phú, nào bốc dịch, nào thần tướng diện, nào nhâm độn, nào địa lÝ … nhưng phải thành tâm mà nói thêm : Khoa Tử-vi Đẩu Số có những nét khả tín nhất. Bởi lẽ môn này đã căn cứ vào những yếu tố thời gian tương đối đặc thù của mỗi cÁ nhân : năm, thÁng, ngày và giờ sinh, tạo thành sử mệnh cho mỗi cÁ nhân một cÁch huyền diệu. Khoa Tử-vi mỗi ngày càng phơi bày nét chính xÁc của một ngành học nhuốm tính cÁch nghiệm lÝ và nhân văn, nó bộc lộ rõ rệt cÁi khuynh hướng của mỗi số mạng, nó chỉ vẽ dù là bàng bạc cÁi nghiệp của con người trong cuộc sống, cũng như thể hiện được tinh thần tự do của con người (Xưa nay nhận định thằng thiên cũng nhiều – Nguyễn Du). Định Mệnh trong Tử-Vi chỉ có nghĩa là một khuyến cÁo (hơn là một loan bÁo), kêu gọi chúng nhân tự điều chỉnh đời sống, công danh của mình, để hóa giải phần nào cÁi căn quả nhận chịu ở đời này (Đức năng thắng số), rồi từ đó tạo cơ duyên hạnh phúc trên căn bản tự giÁc tự tha. Tử-Vi có ưu điểm là phải luận giải (khoa Áo-Bí biện chứng) tích cực, chứ không phải phú đoÁn tiêu cực như cổ nho, vô tình làm làm cho Tử-vi bị du vào địa hạt huyền bí (hiểu theo nghĩa bao gồm những luận cứ viễn vông). Tư-Vi không thể hiểu theo nghĩa huyền bí thiếu xÁc tín, mà phải hiểu là khoa nghiệm lÝ (nghiệm cÁi lÝ của siêu việt tính). Thế nên những công trình nào quyết tâm đi tìm cÁi chân lÝ tiềm ẩn trong bản số Tử-vi, cũng nên quảng bÁ, truyền thông cho tha nhân cùng soi sÁng. Trong phạm vi bài tham luận này, kẻ viết chỉ xin triển khai một vài điểm kinh nghiệm đã thấy cảm ứng khÁ rõ rệt.
II- PHẦN KINH NGHIỆM THâM CỨU
Gồm có 10 chủ đề diễn Ý một cÁch tương đối nét tinh hoa của bản số Tử-vi
1/ Đức trọng qủy thần kinh : Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan và Thiên phúc.
2/ Huyền thọai của chính diệu : Tứ Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kị)
3/ Tha nhân là địa ngục : Thế tương quan Cung Mệnh – Cung Di
4/ Cơn bĩ cực hồi thÁi lai : Vòng ThÁi tuế trong đại hạn và tiểu hạn
5/Thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập ở Tứ sinh và Tứ tuyệt
6/Tham thì thâm : Thế lấn của vòng ThÁi tuế
7/ Đời là bể khổ : Vai trò của Thiên mã
8/ Chung thân đối khÁng: sao Thiên Tài
9/-Bản tính nhân chi sơ :người âm, Dương với cung âm, Dương
10/Thời thế tạo anh hùng : cÁc sao trong lưu niên tiểu hạn.
Đức trọng quỷ thần kinh
Trong hàng ngũ cÁc sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức (Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức và Long Đức) và bộ QuÝ nhân (Thiên Quan và Thiên Phúc). TÁnh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa). QuÝ vị cứ kiểm nghiệm mà xem: sau sao Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan, Thiên phúc luôn luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra. Nói cÁch khÁc, bộ Tứ đức và bộ Quí nhân không sợ sự kìm kẹp của Tuần không và Triệt lộ, ngược lại nhiều khi chính Tuần và Triệt bị chiêu hồi để giải tỏa cÁc hung tinh khÁc. Cho nên vào đại vận hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quí nhân trấn đóng, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai sao Tuần hay Triệt ở cung của đại hay tiểu vận (chính sao Tuần còn mở đầu cho một hanh thông nữa là đằng khÁc).
Huyền thoại của chính diệu:
Nhiều người say mê Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa khi đắc cÁch và cho rằng: Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thÁnh đem bóng dÁng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả cÁc chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay: Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lÝ (như cụ Thiên Lương chủ trương), nên bất cứ lúc nào cũng phải suy luận và kiểm nghiệm tÁnh chất của mỗi dữ kiện (được gọi là sao). Do lẽ ấy, bốn sao Tứ Hóa (Khoa Quyền Lộc Kỵ) chỉ là bộ mặt mới của cÁc chính diệu tính theo thập can của tuổi mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cÁch khÁc, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :
- Chủ về thi cử, phúc lành: Hóa Khoa.
- Chủ về địa vị: Hóa Quyền.
- Chủ về tiền của: Hóa Lộc.
- Chủ về sự thầm lặng: Hóa Kỵ.
Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta chỉ nên hiểu là chính tinh đã biến ảo ra, để lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt), mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thÁi của chính diệu tùy theo Thập can vậy.
Tha nhân là địa ngục
Trong vị trí tuần tự của 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau (xung chiếu), đây là Ý nghĩa thâm sâu của người sÁng chế ra khoa nghiệm lÝ này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sÁch đoÁn luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội (tích cực hay tiêu cực), thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó (ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cÁch này). Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong Ý nghĩa Dịch động ấy, ta lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh và cung Thiên Di. Thế tam hợp của 12 cung như sau:
–Cung Tị, Dậu, Sửu : Hành Kim
–Cung Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
–Cung Thân TÝ Thìn : Hành Thủy
–Cung Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Thiên Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trÁi lại, hành của cung Di Áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là số phận tôi mọi của thế nhân.
Thí dụ : Cung Mệnh an tại Tuất (hành Hỏa), cung Thiên Di an tại Thìn (hành Thủy) ta thấy ngay : tha nhân là Thủy luôn luôn làm tắt Hỏa là bản thân ta, tức là: đời ta là một chuỗi dài thua thiệt ở phút sau cùng mỗi khi tranh sống với thiên hạ. Mặt khÁc, khi cung Mệnh chế ngự được cung Thiên Di, lúc ấy mới mong được hưởng cÁc sao đẹp ở trong cung Thiên Di (có nghĩa như là những chiến lợi phẩm mà ta thâu đoạt được ở kẻ khÁc, ta lấy và ta hưởng)
Cơn bỉ cực, hồi thÁi lai
Mấy lúc gần đây, khi cụ Thiên Lương triển khai tầm quan trọng của vòng ThÁi Tuế, để giúp người xem Tử vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.
Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 ... Vòng ThÁi Tuế gÁc đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung của Vòng ThÁi Tuế, nếu gặp đầu cung :
- Có sao ThÁi Tuế là đắc thời một cÁch chÁnh đÁng.
- Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toÁn.
- Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thÁi quÁ vất vả.
Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận của Vòng ThÁi Tuế, được kể như đã tới hồi thÁi lai, thoải mÁi. Nhưng cẩn trọng đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới:
- Tiểu vận đến cung chứa sao ThÁi Tuế : đÁo tụng đình.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Quan Phù : thị phi, bị tai tiếng.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm, tai nạn.
Nói cÁch chung: Đại vận của Vòng ThÁi Tuế là hên, mà tiểu vận của vòng ThÁi tuế là xui rủi vậy.
Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong
Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khÁc nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luận ngũ hành của từng cung trên căn bản :
- 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
- 4 Cung Tứ Tuyệt : TÝ, Ngọ, Mão, Dậu.
Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khÁc nhau từng đôi một :
- Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
- Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
- Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung TÝ (Thủy)
- Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)
Vậy khi cÁc cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.
Thí dụ : Tuổi âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :
- Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
- Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
- Nhà đất (cung TÝ) không hạp với hàng con cÁi (cung Ngọ)
- Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)
CÁc sự xung khắc trên là một điều loan bÁo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều: Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con CÁi an toàn hay muốn Nhà đất khang trang.
Phần I:
1)CÁc sao Đức và Quí nhân
2)CÁc sao Tứ hóa
3)Ý nghĩa cung Thiên Di
4)Vòng ThÁi tuế ở đại hạn và tiểu hạn
5)Thế sinh nhập ở tứ sinh và tứ nguyệt.
Của giÁo sư Lê Trung Hưng – giảng viên Cao đẳng Nông Lâm Súc Bình Dương.
GiÁo sư Lê Trung Hưng là một nhà nghiên cứu về khoa Tử vi. ông thâu thập được rất nhiều kinh nghiệm, qua cÁc lÁ số của thân nhân, bạn bè, ông lại có biệt tài dẫn giải cÁc kinh nghiệm đó theo lối trình bày pha trộn cả Đông phương và khoa học Tây phương. Nhưng ông không có coi số cho thiên hạ.
Điều đÁng quÝ ở ông cũng như ở cụ Thiên Lương, là dẫn giải tường tận những kinh nghiệm đạt được trong Tử vi, hoặc là kinh nghiệm riêng, hoặc là kinh nghiệm được truyền thụ do cụ Thiên Lương, hoặc là những kinh nghiệm cũ được hiểu qua Ánh sÁng mới. Giai phẩm Khoa học Huyền Bí được hân hạnh đăng những bài dẫn giải của giÁo sư Lê Trung Hưng, và rồi sau này, sẽ còn trình giải thêm nữa về những điểm đã được nêu ra tại đây.
Đây là phần đầu của bài “10 điều soi sÁng cho khoa nghiệm lÝ Tử vi”. Phần thứ 2 sẽ đăng trong số giai phẩm sau. Kính mời quÝ bạn đọc thưởng thức.
I- PHẦN KHAI TỪ:
Khoa huyền bí Đông Phương thật vô cùng phong phú, nào bốc dịch, nào thần tướng diện, nào nhâm độn, nào địa lÝ … nhưng phải thành tâm mà nói thêm : Khoa Tử-vi Đẩu Số có những nét khả tín nhất. Bởi lẽ môn này đã căn cứ vào những yếu tố thời gian tương đối đặc thù của mỗi cÁ nhân : năm, thÁng, ngày và giờ sinh, tạo thành sử mệnh cho mỗi cÁ nhân một cÁch huyền diệu. Khoa Tử-vi mỗi ngày càng phơi bày nét chính xÁc của một ngành học nhuốm tính cÁch nghiệm lÝ và nhân văn, nó bộc lộ rõ rệt cÁi khuynh hướng của mỗi số mạng, nó chỉ vẽ dù là bàng bạc cÁi nghiệp của con người trong cuộc sống, cũng như thể hiện được tinh thần tự do của con người (Xưa nay nhận định thằng thiên cũng nhiều – Nguyễn Du). Định Mệnh trong Tử-Vi chỉ có nghĩa là một khuyến cÁo (hơn là một loan bÁo), kêu gọi chúng nhân tự điều chỉnh đời sống, công danh của mình, để hóa giải phần nào cÁi căn quả nhận chịu ở đời này (Đức năng thắng số), rồi từ đó tạo cơ duyên hạnh phúc trên căn bản tự giÁc tự tha. Tử-Vi có ưu điểm là phải luận giải (khoa Áo-Bí biện chứng) tích cực, chứ không phải phú đoÁn tiêu cực như cổ nho, vô tình làm làm cho Tử-vi bị du vào địa hạt huyền bí (hiểu theo nghĩa bao gồm những luận cứ viễn vông). Tư-Vi không thể hiểu theo nghĩa huyền bí thiếu xÁc tín, mà phải hiểu là khoa nghiệm lÝ (nghiệm cÁi lÝ của siêu việt tính). Thế nên những công trình nào quyết tâm đi tìm cÁi chân lÝ tiềm ẩn trong bản số Tử-vi, cũng nên quảng bÁ, truyền thông cho tha nhân cùng soi sÁng. Trong phạm vi bài tham luận này, kẻ viết chỉ xin triển khai một vài điểm kinh nghiệm đã thấy cảm ứng khÁ rõ rệt.
II- PHẦN KINH NGHIỆM THâM CỨU
Gồm có 10 chủ đề diễn Ý một cÁch tương đối nét tinh hoa của bản số Tử-vi
1/ Đức trọng qủy thần kinh : Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan và Thiên phúc.
2/ Huyền thọai của chính diệu : Tứ Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kị)
3/ Tha nhân là địa ngục : Thế tương quan Cung Mệnh – Cung Di
4/ Cơn bĩ cực hồi thÁi lai : Vòng ThÁi tuế trong đại hạn và tiểu hạn
5/Thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập ở Tứ sinh và Tứ tuyệt
6/Tham thì thâm : Thế lấn của vòng ThÁi tuế
7/ Đời là bể khổ : Vai trò của Thiên mã
8/ Chung thân đối khÁng: sao Thiên Tài
9/-Bản tính nhân chi sơ :người âm, Dương với cung âm, Dương
10/Thời thế tạo anh hùng : cÁc sao trong lưu niên tiểu hạn.
Đức trọng quỷ thần kinh
Trong hàng ngũ cÁc sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức (Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức và Long Đức) và bộ QuÝ nhân (Thiên Quan và Thiên Phúc). TÁnh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa). QuÝ vị cứ kiểm nghiệm mà xem: sau sao Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan, Thiên phúc luôn luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra. Nói cÁch khÁc, bộ Tứ đức và bộ Quí nhân không sợ sự kìm kẹp của Tuần không và Triệt lộ, ngược lại nhiều khi chính Tuần và Triệt bị chiêu hồi để giải tỏa cÁc hung tinh khÁc. Cho nên vào đại vận hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quí nhân trấn đóng, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai sao Tuần hay Triệt ở cung của đại hay tiểu vận (chính sao Tuần còn mở đầu cho một hanh thông nữa là đằng khÁc).
Huyền thoại của chính diệu:
Nhiều người say mê Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa khi đắc cÁch và cho rằng: Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thÁnh đem bóng dÁng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả cÁc chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay: Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lÝ (như cụ Thiên Lương chủ trương), nên bất cứ lúc nào cũng phải suy luận và kiểm nghiệm tÁnh chất của mỗi dữ kiện (được gọi là sao). Do lẽ ấy, bốn sao Tứ Hóa (Khoa Quyền Lộc Kỵ) chỉ là bộ mặt mới của cÁc chính diệu tính theo thập can của tuổi mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cÁch khÁc, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :
- Chủ về thi cử, phúc lành: Hóa Khoa.
- Chủ về địa vị: Hóa Quyền.
- Chủ về tiền của: Hóa Lộc.
- Chủ về sự thầm lặng: Hóa Kỵ.
Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta chỉ nên hiểu là chính tinh đã biến ảo ra, để lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt), mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thÁi của chính diệu tùy theo Thập can vậy.
Tha nhân là địa ngục
Trong vị trí tuần tự của 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau (xung chiếu), đây là Ý nghĩa thâm sâu của người sÁng chế ra khoa nghiệm lÝ này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sÁch đoÁn luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội (tích cực hay tiêu cực), thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó (ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cÁch này). Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong Ý nghĩa Dịch động ấy, ta lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh và cung Thiên Di. Thế tam hợp của 12 cung như sau:
–Cung Tị, Dậu, Sửu : Hành Kim
–Cung Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
–Cung Thân TÝ Thìn : Hành Thủy
–Cung Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Thiên Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trÁi lại, hành của cung Di Áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là số phận tôi mọi của thế nhân.
Thí dụ : Cung Mệnh an tại Tuất (hành Hỏa), cung Thiên Di an tại Thìn (hành Thủy) ta thấy ngay : tha nhân là Thủy luôn luôn làm tắt Hỏa là bản thân ta, tức là: đời ta là một chuỗi dài thua thiệt ở phút sau cùng mỗi khi tranh sống với thiên hạ. Mặt khÁc, khi cung Mệnh chế ngự được cung Thiên Di, lúc ấy mới mong được hưởng cÁc sao đẹp ở trong cung Thiên Di (có nghĩa như là những chiến lợi phẩm mà ta thâu đoạt được ở kẻ khÁc, ta lấy và ta hưởng)
Cơn bỉ cực, hồi thÁi lai
Mấy lúc gần đây, khi cụ Thiên Lương triển khai tầm quan trọng của vòng ThÁi Tuế, để giúp người xem Tử vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.
Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 ... Vòng ThÁi Tuế gÁc đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung của Vòng ThÁi Tuế, nếu gặp đầu cung :
- Có sao ThÁi Tuế là đắc thời một cÁch chÁnh đÁng.
- Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toÁn.
- Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thÁi quÁ vất vả.
Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận của Vòng ThÁi Tuế, được kể như đã tới hồi thÁi lai, thoải mÁi. Nhưng cẩn trọng đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới:
- Tiểu vận đến cung chứa sao ThÁi Tuế : đÁo tụng đình.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Quan Phù : thị phi, bị tai tiếng.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm, tai nạn.
Nói cÁch chung: Đại vận của Vòng ThÁi Tuế là hên, mà tiểu vận của vòng ThÁi tuế là xui rủi vậy.
Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong
Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khÁc nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luận ngũ hành của từng cung trên căn bản :
- 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
- 4 Cung Tứ Tuyệt : TÝ, Ngọ, Mão, Dậu.
Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khÁc nhau từng đôi một :
- Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
- Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
- Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung TÝ (Thủy)
- Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)
Vậy khi cÁc cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.
Thí dụ : Tuổi âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :
- Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
- Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
- Nhà đất (cung TÝ) không hạp với hàng con cÁi (cung Ngọ)
- Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)
CÁc sự xung khắc trên là một điều loan bÁo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều: Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con CÁi an toàn hay muốn Nhà đất khang trang.
10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI
Phần II:
6)Tham thì thâm, luật thừa trừ tính theo vòng ThÁi tuế
7)Đời là bể khổ: sao Thiên Mã là cỗ xe của cuộc đời
8)Chung thân đối khÁng: Vai trò độc đÁo của sao Thiên Tài
9)Bản tính nhân chi sơ: bản tính con người theo cung đóng Mệnh
10)Thời thế tạo anh hùng: Ý nghĩa của cung Lưu niên
Của giÁo sư Lê Trung Hưng
(Tiếp theo kỳ trước)
Tham thì thâm
Vòng ThÁi Tuế ngòai Ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy bÁu khÁc, là tìm biết căn tính của con người, cũng như thử thÁch của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để Ý:
- Tuổi âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.
- Tuổi âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
Cả hai cÁch trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
Thí dụ : Tuổi Tuất - Dương Nam, thì Vòng ThÁi Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cÁi TA - Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cÁi bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quÁ đÁng sẽ gặp "Thiên-Không ở cuối đường hầm" (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cÁi tai hại của nó).
Đời là bể khổ
Sao Thiên Mã là nghị lực của người đời nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những tương quan có tính cÁch cảnh cÁo hay nhẹ nhàng là bÁo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :
– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh: Chết vì tai nạn xe cộ.
– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh: Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người chủ thật đắc dụng .
– Hành Mệnh khắc hành của Mã: Xe cộ luôn ở trạng thÁi hư hao, gây tốn kém cho chủ.
– Hành Mệnh sinh hành của Mã: Coi chừng mất xe.
– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh: Bình thường mọi chuyện xe cộ, di chuyển.
Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần. Người Nhâm Ngọ (Mộc) Thiên Mã đóng ở cung Thân (Kim), nên cẩn thận lắm, Mã Kim chém Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cạnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.
Chung thân đối khÁng
Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đÁo, nó luôn luôn làm điều trÁi ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ, có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cÁch lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là "Thiên Tài" (gesnie) hiếm có vậy.
Bản tính nhân chi sơ
Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri cÁc điều công danh, thọ yểu,... của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lÝ thực nghiệm khÁ chính xÁc. QuÝ vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để Ý sự kiện (Đã được nghiệm lÝ) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :
- Người âm đóng cung âm : thế lưỡng âm nên thÁi quÁ nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan ...
- Người Dương đóng cung Dương : thế lưỡng Dương nên quÁ cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu ...
- Ngừơi Dương đóng cung âm : có thực lực nhưng kín đÁo nhún nhừơng, biết mình, biết người ...
- Ngừoi âm đóng cung Dương : người kém thực lực, sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn ...
Thí dụ : Người QuÝ Mùi (Mệnh âm) Cung Mệnh an tại Dần (Cung Dương), nên chưa cần phải nhìn sao, ta có ngay một Ý niệm là người không bản lãnh, biết ít mà phô trương nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn.
Thời thế tạo Anh-hùng
Tiểu hạn mỗi năm được xÁc định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoÁn vận hạn hên xui của một năm (giống như cÁch xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng ThÁi tuế, còn tiểu hạn một năm phải bÁm sÁt cÁc Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
- 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.
Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với cÁc hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để Ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loạt của cÁc sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).
Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung TÝ có cÁc sao :
-Hành Mộc : Đào Hoa, ân Quang, Hóa Quyền.
-Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
-Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
-Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
-Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.
Ta giải đÁp dễ dàng niên hạn của đương số như sau:
-Mùa Xuân : Có quÝ nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
-Mùa Hè : May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
-Mùa Thu : Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
-Mùa Đông : Tình cảm thoải mÁi, yên vui ...
Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp cÁc sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ, nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù ... thành ra cũng qua khỏi vào phút chót. Khi Áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sÁnh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của cÁc Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.
Qua thí dụ trên : Cung TÝ là Thủy, đương nhiên cÁc sao Hỏa đã bị kém hiệu lực, cÁc sao Mộc tăng cường lực, cÁc sao Kim bị suy nhược, cÁc sao Thổ bị trở ngại và cÁc sao Thủy khởi sắc nhất (Giang sơn nào anh hùng nấy)
Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sÁng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoÁi hóa) có giÁ trị cao độ của ngành nghiệm lÝ xã hội.
Phần II:
6)Tham thì thâm, luật thừa trừ tính theo vòng ThÁi tuế
7)Đời là bể khổ: sao Thiên Mã là cỗ xe của cuộc đời
8)Chung thân đối khÁng: Vai trò độc đÁo của sao Thiên Tài
9)Bản tính nhân chi sơ: bản tính con người theo cung đóng Mệnh
10)Thời thế tạo anh hùng: Ý nghĩa của cung Lưu niên
Của giÁo sư Lê Trung Hưng
(Tiếp theo kỳ trước)
Tham thì thâm
Vòng ThÁi Tuế ngòai Ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy bÁu khÁc, là tìm biết căn tính của con người, cũng như thử thÁch của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để Ý:
- Tuổi âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.
- Tuổi âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
Cả hai cÁch trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng ThÁi Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
Thí dụ : Tuổi Tuất - Dương Nam, thì Vòng ThÁi Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cÁi TA - Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cÁi bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quÁ đÁng sẽ gặp "Thiên-Không ở cuối đường hầm" (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cÁi tai hại của nó).
Đời là bể khổ
Sao Thiên Mã là nghị lực của người đời nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những tương quan có tính cÁch cảnh cÁo hay nhẹ nhàng là bÁo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :
– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh: Chết vì tai nạn xe cộ.
– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh: Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người chủ thật đắc dụng .
– Hành Mệnh khắc hành của Mã: Xe cộ luôn ở trạng thÁi hư hao, gây tốn kém cho chủ.
– Hành Mệnh sinh hành của Mã: Coi chừng mất xe.
– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh: Bình thường mọi chuyện xe cộ, di chuyển.
Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần. Người Nhâm Ngọ (Mộc) Thiên Mã đóng ở cung Thân (Kim), nên cẩn thận lắm, Mã Kim chém Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cạnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.
Chung thân đối khÁng
Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đÁo, nó luôn luôn làm điều trÁi ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ, có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cÁch lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là "Thiên Tài" (gesnie) hiếm có vậy.
Bản tính nhân chi sơ
Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri cÁc điều công danh, thọ yểu,... của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lÝ thực nghiệm khÁ chính xÁc. QuÝ vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để Ý sự kiện (Đã được nghiệm lÝ) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :
- Người âm đóng cung âm : thế lưỡng âm nên thÁi quÁ nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan ...
- Người Dương đóng cung Dương : thế lưỡng Dương nên quÁ cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu ...
- Ngừơi Dương đóng cung âm : có thực lực nhưng kín đÁo nhún nhừơng, biết mình, biết người ...
- Ngừoi âm đóng cung Dương : người kém thực lực, sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn ...
Thí dụ : Người QuÝ Mùi (Mệnh âm) Cung Mệnh an tại Dần (Cung Dương), nên chưa cần phải nhìn sao, ta có ngay một Ý niệm là người không bản lãnh, biết ít mà phô trương nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn.
Thời thế tạo Anh-hùng
Tiểu hạn mỗi năm được xÁc định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoÁn vận hạn hên xui của một năm (giống như cÁch xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng ThÁi tuế, còn tiểu hạn một năm phải bÁm sÁt cÁc Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
- 2 thÁng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
- 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.
Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với cÁc hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để Ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loạt của cÁc sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).
Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung TÝ có cÁc sao :
-Hành Mộc : Đào Hoa, ân Quang, Hóa Quyền.
-Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
-Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
-Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
-Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.
Ta giải đÁp dễ dàng niên hạn của đương số như sau:
-Mùa Xuân : Có quÝ nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
-Mùa Hè : May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
-Mùa Thu : Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
-Mùa Đông : Tình cảm thoải mÁi, yên vui ...
Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp cÁc sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ, nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù ... thành ra cũng qua khỏi vào phút chót. Khi Áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sÁnh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của cÁc Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.
Qua thí dụ trên : Cung TÝ là Thủy, đương nhiên cÁc sao Hỏa đã bị kém hiệu lực, cÁc sao Mộc tăng cường lực, cÁc sao Kim bị suy nhược, cÁc sao Thổ bị trở ngại và cÁc sao Thủy khởi sắc nhất (Giang sơn nào anh hùng nấy)
Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sÁng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoÁi hóa) có giÁ trị cao độ của ngành nghiệm lÝ xã hội.
TỬ VI: LÝ SỐ HAY TOÁN HỌC
Bài của Ân Quang
Gần đÂy phong trào xem Tử Vi lan rộng. SÁc Tử Vi xuất bản nhiều, và số người nghiên cứu Tử Vi cũng gia tăng. Nhiều người thích thú, vì nhờ vào sÁch Việt ngữ có thể thành lập một lÁ số Tử Vi, có thể đoÁn được đôi điều này, chút việc nọ. Từ chỗ thích thú như vậy, người nghiên cứu có thể ngộ nhận rằng Tử Vi là một môn toÁn học thuần túy, chỉ cần Áp dụng đầy đủ cÁc công thức bí truyền là có thể quyết đoÁn tất cả những tiểu tiết trong đời người. Ý nghĩ đó đưa đến việc cố gắng tìm tòi cÁc sÁch Tử Vi cổ truyền, sưu tầm cÁc công thức Tử Vi. Người nghiên cứu chỉ đi tìm cÁc công thức Tử Vi, cho rằng cứ đủ công thức là khÁm phÁ hết bí mật trong đời người.
Những gì thÂm thúy của Tử Vi đều bị gạt sang một bên.
Như Tử Vi Đẩu Số, Đẩu Số là cÁi gì? Như Mệnh Viên thì Viên là cÁi gì? Cuộc sống này vội vã quÁ, quÁ nhiều vấn đề cấp bÁch cần giải quyết. Ai hơi sức đÂu mà tìm hiểu những chuyện xa vời. Cứ cho rằng Tử Vi Đẩu Số là Số Tử Vi, cứ cho rằng Mệnh Viên là cÁc cung Mạng cho tiện.
Mã đầu đới kiếm là cÁi gì? Nhật xuất Phù Tang thì Phù Tang là cÁi gì? Hữu Bật khÁc Tả Phụ ra sao? Văn Khúc khÁc Văn Xương thế nào? Thai Phụ nghĩa là gì? Tam Thai nói về ngôi Tam Công (ThÁi Sư, ThÁi Phó, ThÁi Bảo) vậy thì còn BÁt Tọa là cÁi gì?
Cuộc sống này vội vã quÁ. Người nghiên cứu chỉ muốn biết ngay bộ Phụ CÁo chủ về cÁi gì, Thai Tọa chủ về việc gì, Phụ Bật chủ về những gì. Thế thôi. Cứ nói rằng Nhật xuất Phù Tang là quÝ cÁch, thế là đủ rồi, quÝ ra sao, quÝ thế nào, không thắc mắc cho lắm.
Người nghiên cứu có thể nóng lòng muốn Áp dụng ngay công thức Tử Vi để biết được rằng đường tài lộc năm nay ra sao. Nhu cầu kinh tế, tài chÁnh còn thúc bÁch bằng trăm lần cÁi việc đi tìm hình ảnh của một “Mã đầu Đới Kiếm”.
Cứ cÁi đà nghiên cứu vội vã, giản lược, trong một số công thức thì chẳng bao lÂu Tử Vi chỉ còn là một mớ những bài toÁn cộng, trừ, khô khan, không còn thÂm thúy. Và đến chừng ấy thì Tử Vi không còn là Tử Vi Đẩu Số theo đúng nghĩa cao siêu của khoa ấy.
Trước những băn khoăn về tương lai, nhiều người chỉ muốn biết ngay đÁp số cho cuộc đời mình, cho đỡ khắc khoải, thắc mắc. Một số người đã vội vã coi Tử Vi như một môn toÁn học giản dị.
Trước khi xét định chÂn giÁ trị của Tử Vi, chúng ta cũng nên biết qua rằng có bao nhiêu lÁ số Tử Vi.
- Nếu chỉ lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh. Từ GiÁp TÝ đến QuÝ Hợi thì chúng ta thì chúng ta chỉ có thể lập được sÁu mươi (60) lÁ số.
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh và thÁng sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12 = 720 lÁ số
Những năm nhuận tuy là có 13 thÁng, nhưng, tính theo Tử Vi thì cũng chỉ có 12 thÁng.
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng và ngày sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30 = 21 600 lÁ số
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày và giờ sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30x12 = 259 200 lÁ số
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày, giờ sinh và yếu tố Dương Nam, Âm Nam, Dương Nữ, Âm Nữ thì chúng ta sẽ lập được
259 200 x2 = 518 400 lÁ số
LÁ số của người sinh trên núi, trên song, nhà mở cửa hướng Bắc hay vào đầu giờ hay cuối giờ… đều không có thêm một vị sao nào khÁc. Do đó không thể nào lập hơn được 518 400 lÁ số Tử Vi.
Đến đÂy, chúng ta thấy rằng có rất nhiều người có lÁ số giống nhau. Nếu nói rằng ít người có lÁ số thượng cÁch, thì số người có lÁ số trung cÁch lại nhiều hơn.
Thí dụ như miền Nam chúng ta có 17 triệu người, thì vào khoảng (17 000 000 : 518 400 xấp xỉ 32) người có lÁ số giống nhau. Đó là tính trung bình. Nếu ít người có lÁ số thượng cÁch thì càng nhiều người có lÁ số giống nhau.
Cứ hết một vòng hoa giÁp 60 năm là lại có những ngày giờ sinh giống y như trước. Quả đất không ngừng quay, nhÂn loại không ngừng sinh sản vào những ngày giờ sinh của Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tính, Lã Hậu, Điêu Thuyền…
Từ xưa đến nay, cũng như hiện nay có rất nhiều người có ngày giờ sinh giống nhau.
Vậy thì Tử Vi nói lên những gì về số phận con người? Công dụng đích thực của Tử Vi ra sao?
Tử Vi nói về cÁi phần “phẩm” cÁi tính cÁch của vận số của mỗi người.
Thí dụ như “Tử Lộc đồng cung Phụ Bật chiếu, quÝ bất khả ngôn”. “QuÝ bất khả ngôn” cao sang hết chỗ nói, cao sang khó tả, vậy thì làm đến chức gì, làm Thủ Tướng hay làm vua? Tử Vi không qui định phần lượng. Còn tùy cÁc ảnh hưởng tương quan như Âm phúc, địa lÝ, dòng dõi. CÁi cao sang đÂy là nói tương đối, so với cÁi gia tộc của đương số. Nếu dòng dõi của đương số đã nhiều đời quÁ thấp kém, thì đến đời của đương số sẽ có những bước tiến vượt bậc so với trong dòng dõi, chứ không nhất thiết rằng “quÝ bất khả ngôn” phải là bÁ chủ thiên hạ.
Tử Vi chỉ nói đến đại phú, tiểu phú hay trung phú chứ không nói người này giàu có một tỷ bạc, người kia có mười triệu.
Tử Vi chỉ nói số thuộc về quÝ cÁch, phú cuộc, văn võ, tạp cuộc… thượng, trung, hạ cÁch… chứ nào có nói đến cÁch luận nhạc sĩ nào đÁnh dương cầm, nhạc sĩ kia đÁnh trống hoặc thổi kèn.
ít ra thì tại miền Nam chúng ta một lÁ số có thể Áp dụng để đoÁn cho khoảng 32 người, như chúng tôi đã chứng minh với những con toÁn kể trên.
Chẳng qua vì ngộ nhận Tử Vi chỉ có giÁ trị toÁn học thuần túy mà một vài người đã đem khuynh hướng riêng nhÂn sinh quan riêng của mình vào trong Tử Vi. Trước lÁ số của một vài người mà mình đã biết về cuộc đời, nghề nghiệp, thì cố móc sao nào, nối sao nọ, để giải đoÁn tiểu tiết nghề nghiệp hoặc để giải thích “phần lượng” của lÁ số.
Một cung chính, ba cung chiếu vào là bốn cung, kéo thêm một cung nhị hạp nữa là năm cung. Năm cung trên tổng số 12 cung bao gồm gần một nửa trong số 108 vị sao của lÁ số. Làm gì chẳng gặp một vài sao có tính chất tương tự để giải thích cÁi “phần lượng” của lÁ số theo quan điểm của mình.
Vậy thì cổ nhÂn lập ra Tử Vi để làm gì?
Việc đoÁn phú, quÝ, bần, tiện, thọ, yểu, việc đoÁn văn cÁch, võ cÁch, tạp cuộc… thượng trung hạ cÁch chỉ là một khía cạnh của Tử Vi.
Chúng ta không nên trụ vào khía cạnh đó mà xa rời cÁc công dụng cao quÝ của Tử Vi.
Tử Vi Đẩu Số, một công trình đúc kết bằng bao nhiêu ngàn năm kinh nghiệm, học thuật của cổ nhÂn nào phải nào phải chỉ nhằm mục đích giản dị để “coi bói” thỏa mãn tính hiếu kì về công danh, sự nghiệp, vận hạn.
Trần Đoàn tuy là có công đúc kết, bổ túc, hệ thống hóa cÁc khoa học xưa, lập ra Tử Vi Đẩu Số, nhưng phần lớn những yếu tố quan trọng trong Tử Vi là công trình của những người đi trước Trần Đoàn quÁ lÂu.
Những Thiên Can GiÁp, Ất, Bính, Đinh… những Địa Chi TÝ Sửu Dần Mão… những Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi, những thần sÁt như Thanh Long, Bạch Hổ, Mã, Lộc, Kình, Đà… đã có hàng ngàn năm trước Trần Đoàn.
Cả một học thuật hàng ngàn năm đúc kết lại, chỉ nhằm một mục đích toÁn học giản dị để đoÁn xem vị bÁc sĩ này chữa răng, vị bÁc sĩ kia chữa bịnh bao tử hay sao?
Người xưa tìm ra những lÝ thuyết về Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi tìm biết ảnh hưởng của những thiên thể trong vũ trụ đối với con người, cốt để tìm cÁch tổ chức đời sống cÁ nhÂn, xã hội sao cho thuận thiên lÝ, thêm phần êm đẹp, nhẹ phần gay go.
Tử Vi Đẩu Số cũng không đi ra ngoài cÁi mục đích tìm hiểu để tu thÂn, xử thế cùa người xưa.
ĐoÁn vận số trong đời người chỉ là một khía cạnh của Tử Vi. ĐoÁn vận số rồi còn liệu đường hành động cương nhu, tiến thoÁi theo một số nguyên lÝ, hoặc là liệu đường kết hợp, xa cÁch, ngăn ngừa…
Thí dụ trong việc hôn nhÂn. ĐoÁn Tử Vi không phải là chờ thời có người đến kết hợp với mình, mà chính là để xem có những năm nào nên lập gia đình.
Có một bạn trẻ, đem đến cho tôi xem một lÁ số Tử Vi, trong ấy ông thầy đoÁn là anh ta lập gia đình năm 25 tuổi, mà thật ra anh ta lập gia đình năm 27 tuổi, anh ta nghĩ rằng thầy Tử Vi đoÁn sai. Tôi giải thích rằng không hẳn là thầy đoÁn sai. Tử Vi nhằm mục đích xem những năm nào lập gia đình thì có lợi nhiều, chứ có ông sao nào trên trời sa xuống bắt ta phải đi lấy vợ đÂu.
Cùng tuổi Bính Tuất, thế hệ này lập gia đình năm 27 tuổi là vừa phải. CÁc thế hệ trước, cùng tuổi Bính Tuất, cũng năm, thÁng, ngày, giờ sinh ấy, người ta có thể lập gia đình năm 14, 15 tuổi. lại còn có trường hợp cÁc bậc trưởng thượng ngày xưa xem số mà lập gia đình cho con chÁu lúc được 12, 13 tuổi. Ấy là luận hình tính cÁc sao tốt trong từng niên vận mà dựng vợ, gả chồng cho có lợi về sau. Chứ trong lúc còn bé thì có ai đợi xem cÁc cÁch như là:
*Tướng ngộ CÁi Đào Mộc Khúc, thuần tước dÂm phong. Hạn ngộ Cơ Diêu vô phu nan tự khởi cô miên (không chồng thì khó dỗ giấc ngủ một mình).
hoặc là
*Âm tàng Hồng, Nhận, Kỵ, Diêu, tÂn liên hàm tiếu. Hạn phùng Xương Vũ, dÂm tứ, xuÂn tình liên xuất phÁt (***)
Hãy còn bé quÁ làm gì có chuyện ấy được. Chẳng qua là xem cÁi phần lÝ số để liệu đường kết hợp, tiến thoÁi, cương nhu, vậy thôi!
Tử Vi không đóng khung mọi chi tiết sinh hoạt trong một mớ công thức toÁn học. Tử Vi chỉ nói lên cả vận số tương đối của mỗi người. Vì thế mà mới cần xem Tử Vi để liệu đường hành xử.
Tuy nhiên cÁi vận số tương đối của mỗi người còn bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan, mà người nghiên cứu không nên hấp tấp võ đoÁn. Thí dụ như hiện nay một vị Quốc Trưởng tại một tiểu quốc có thể thừa phương tiện xuất ngoại đi Mỹ nhưng không thể xuất ngoại du ngoạn Bắc Kinh như Tổng Thống Nixon được cho dù trong cung Mệnh, Thiên Di, Đại Hạn, Tiểu Hạn, có nhiều sao tốt đến đÂu cũng không đi được. Vì cơ trời vận nước chưa thuận tiện.
CÁi phần LÝ Học của Tử Vi không phải chỉ giúp chúng ta thỏa mãn tính hiếu kỳ muốn biết một số bộ phận bị đóng khung từng tiểu tiết. Thí dụ như trong hôn nhÂn mà gặp cÁch “Nghi cầu trưởng nữ” thì chỉ có nghĩa là nên kết hợp với người trưởng nữ thì có lợi hơn. Chứ nào có nói rằng, trước sau tính toÁn thế nào cũng phải lấy người trưởng nữ.
Những tính cÁch “bất nghi viễn hành” chưa nhất quyết là không đi xa được, mà còn tùy vào Ý nghĩa của cÁc vị sao khÁc mà có thể là vẫn đi được nhưng không có lợi lộc gì, ở nhà thì đỡ mệt thÂn tÂm, an nhàn, thảnh thơi hơn.
Vì vậy mà việc tìm hiểu Ý nghĩa tên cÁc vị sao, Ý nghĩa cÁc điển tích trong Tử Vi cũng rất quan trọng giúp cho người nghiên cứu có một cÁch nhìn thÂm thúy về khía cạnh lÝ học, mục đích cao quÝ của Tử Vi, để liệu đường cÂn nhắc hành động, xuất xử ra sao.
(***) Chú thích của buiram tìm thấy trên internet, cÂu phú trên nghĩa là: ThÁi Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Diêu Kỵ người đàn bà đẹp như đóa sen mới nở, nhưng gặp hạn Văn Xương, Vũ Khúc tất sa ngã vì tình.
Bài của Ân Quang
Gần đÂy phong trào xem Tử Vi lan rộng. SÁc Tử Vi xuất bản nhiều, và số người nghiên cứu Tử Vi cũng gia tăng. Nhiều người thích thú, vì nhờ vào sÁch Việt ngữ có thể thành lập một lÁ số Tử Vi, có thể đoÁn được đôi điều này, chút việc nọ. Từ chỗ thích thú như vậy, người nghiên cứu có thể ngộ nhận rằng Tử Vi là một môn toÁn học thuần túy, chỉ cần Áp dụng đầy đủ cÁc công thức bí truyền là có thể quyết đoÁn tất cả những tiểu tiết trong đời người. Ý nghĩ đó đưa đến việc cố gắng tìm tòi cÁc sÁch Tử Vi cổ truyền, sưu tầm cÁc công thức Tử Vi. Người nghiên cứu chỉ đi tìm cÁc công thức Tử Vi, cho rằng cứ đủ công thức là khÁm phÁ hết bí mật trong đời người.
Những gì thÂm thúy của Tử Vi đều bị gạt sang một bên.
Như Tử Vi Đẩu Số, Đẩu Số là cÁi gì? Như Mệnh Viên thì Viên là cÁi gì? Cuộc sống này vội vã quÁ, quÁ nhiều vấn đề cấp bÁch cần giải quyết. Ai hơi sức đÂu mà tìm hiểu những chuyện xa vời. Cứ cho rằng Tử Vi Đẩu Số là Số Tử Vi, cứ cho rằng Mệnh Viên là cÁc cung Mạng cho tiện.
Mã đầu đới kiếm là cÁi gì? Nhật xuất Phù Tang thì Phù Tang là cÁi gì? Hữu Bật khÁc Tả Phụ ra sao? Văn Khúc khÁc Văn Xương thế nào? Thai Phụ nghĩa là gì? Tam Thai nói về ngôi Tam Công (ThÁi Sư, ThÁi Phó, ThÁi Bảo) vậy thì còn BÁt Tọa là cÁi gì?
Cuộc sống này vội vã quÁ. Người nghiên cứu chỉ muốn biết ngay bộ Phụ CÁo chủ về cÁi gì, Thai Tọa chủ về việc gì, Phụ Bật chủ về những gì. Thế thôi. Cứ nói rằng Nhật xuất Phù Tang là quÝ cÁch, thế là đủ rồi, quÝ ra sao, quÝ thế nào, không thắc mắc cho lắm.
Người nghiên cứu có thể nóng lòng muốn Áp dụng ngay công thức Tử Vi để biết được rằng đường tài lộc năm nay ra sao. Nhu cầu kinh tế, tài chÁnh còn thúc bÁch bằng trăm lần cÁi việc đi tìm hình ảnh của một “Mã đầu Đới Kiếm”.
Cứ cÁi đà nghiên cứu vội vã, giản lược, trong một số công thức thì chẳng bao lÂu Tử Vi chỉ còn là một mớ những bài toÁn cộng, trừ, khô khan, không còn thÂm thúy. Và đến chừng ấy thì Tử Vi không còn là Tử Vi Đẩu Số theo đúng nghĩa cao siêu của khoa ấy.
Trước những băn khoăn về tương lai, nhiều người chỉ muốn biết ngay đÁp số cho cuộc đời mình, cho đỡ khắc khoải, thắc mắc. Một số người đã vội vã coi Tử Vi như một môn toÁn học giản dị.
Trước khi xét định chÂn giÁ trị của Tử Vi, chúng ta cũng nên biết qua rằng có bao nhiêu lÁ số Tử Vi.
- Nếu chỉ lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh. Từ GiÁp TÝ đến QuÝ Hợi thì chúng ta thì chúng ta chỉ có thể lập được sÁu mươi (60) lÁ số.
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh và thÁng sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12 = 720 lÁ số
Những năm nhuận tuy là có 13 thÁng, nhưng, tính theo Tử Vi thì cũng chỉ có 12 thÁng.
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng và ngày sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30 = 21 600 lÁ số
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày và giờ sinh thì chúng ta sẽ lập được
60x12x30x12 = 259 200 lÁ số
- Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, thÁng, ngày, giờ sinh và yếu tố Dương Nam, Âm Nam, Dương Nữ, Âm Nữ thì chúng ta sẽ lập được
259 200 x2 = 518 400 lÁ số
LÁ số của người sinh trên núi, trên song, nhà mở cửa hướng Bắc hay vào đầu giờ hay cuối giờ… đều không có thêm một vị sao nào khÁc. Do đó không thể nào lập hơn được 518 400 lÁ số Tử Vi.
Đến đÂy, chúng ta thấy rằng có rất nhiều người có lÁ số giống nhau. Nếu nói rằng ít người có lÁ số thượng cÁch, thì số người có lÁ số trung cÁch lại nhiều hơn.
Thí dụ như miền Nam chúng ta có 17 triệu người, thì vào khoảng (17 000 000 : 518 400 xấp xỉ 32) người có lÁ số giống nhau. Đó là tính trung bình. Nếu ít người có lÁ số thượng cÁch thì càng nhiều người có lÁ số giống nhau.
Cứ hết một vòng hoa giÁp 60 năm là lại có những ngày giờ sinh giống y như trước. Quả đất không ngừng quay, nhÂn loại không ngừng sinh sản vào những ngày giờ sinh của Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tính, Lã Hậu, Điêu Thuyền…
Từ xưa đến nay, cũng như hiện nay có rất nhiều người có ngày giờ sinh giống nhau.
Vậy thì Tử Vi nói lên những gì về số phận con người? Công dụng đích thực của Tử Vi ra sao?
Tử Vi nói về cÁi phần “phẩm” cÁi tính cÁch của vận số của mỗi người.
Thí dụ như “Tử Lộc đồng cung Phụ Bật chiếu, quÝ bất khả ngôn”. “QuÝ bất khả ngôn” cao sang hết chỗ nói, cao sang khó tả, vậy thì làm đến chức gì, làm Thủ Tướng hay làm vua? Tử Vi không qui định phần lượng. Còn tùy cÁc ảnh hưởng tương quan như Âm phúc, địa lÝ, dòng dõi. CÁi cao sang đÂy là nói tương đối, so với cÁi gia tộc của đương số. Nếu dòng dõi của đương số đã nhiều đời quÁ thấp kém, thì đến đời của đương số sẽ có những bước tiến vượt bậc so với trong dòng dõi, chứ không nhất thiết rằng “quÝ bất khả ngôn” phải là bÁ chủ thiên hạ.
Tử Vi chỉ nói đến đại phú, tiểu phú hay trung phú chứ không nói người này giàu có một tỷ bạc, người kia có mười triệu.
Tử Vi chỉ nói số thuộc về quÝ cÁch, phú cuộc, văn võ, tạp cuộc… thượng, trung, hạ cÁch… chứ nào có nói đến cÁch luận nhạc sĩ nào đÁnh dương cầm, nhạc sĩ kia đÁnh trống hoặc thổi kèn.
ít ra thì tại miền Nam chúng ta một lÁ số có thể Áp dụng để đoÁn cho khoảng 32 người, như chúng tôi đã chứng minh với những con toÁn kể trên.
Chẳng qua vì ngộ nhận Tử Vi chỉ có giÁ trị toÁn học thuần túy mà một vài người đã đem khuynh hướng riêng nhÂn sinh quan riêng của mình vào trong Tử Vi. Trước lÁ số của một vài người mà mình đã biết về cuộc đời, nghề nghiệp, thì cố móc sao nào, nối sao nọ, để giải đoÁn tiểu tiết nghề nghiệp hoặc để giải thích “phần lượng” của lÁ số.
Một cung chính, ba cung chiếu vào là bốn cung, kéo thêm một cung nhị hạp nữa là năm cung. Năm cung trên tổng số 12 cung bao gồm gần một nửa trong số 108 vị sao của lÁ số. Làm gì chẳng gặp một vài sao có tính chất tương tự để giải thích cÁi “phần lượng” của lÁ số theo quan điểm của mình.
Vậy thì cổ nhÂn lập ra Tử Vi để làm gì?
Việc đoÁn phú, quÝ, bần, tiện, thọ, yểu, việc đoÁn văn cÁch, võ cÁch, tạp cuộc… thượng trung hạ cÁch chỉ là một khía cạnh của Tử Vi.
Chúng ta không nên trụ vào khía cạnh đó mà xa rời cÁc công dụng cao quÝ của Tử Vi.
Tử Vi Đẩu Số, một công trình đúc kết bằng bao nhiêu ngàn năm kinh nghiệm, học thuật của cổ nhÂn nào phải nào phải chỉ nhằm mục đích giản dị để “coi bói” thỏa mãn tính hiếu kì về công danh, sự nghiệp, vận hạn.
Trần Đoàn tuy là có công đúc kết, bổ túc, hệ thống hóa cÁc khoa học xưa, lập ra Tử Vi Đẩu Số, nhưng phần lớn những yếu tố quan trọng trong Tử Vi là công trình của những người đi trước Trần Đoàn quÁ lÂu.
Những Thiên Can GiÁp, Ất, Bính, Đinh… những Địa Chi TÝ Sửu Dần Mão… những Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi, những thần sÁt như Thanh Long, Bạch Hổ, Mã, Lộc, Kình, Đà… đã có hàng ngàn năm trước Trần Đoàn.
Cả một học thuật hàng ngàn năm đúc kết lại, chỉ nhằm một mục đích toÁn học giản dị để đoÁn xem vị bÁc sĩ này chữa răng, vị bÁc sĩ kia chữa bịnh bao tử hay sao?
Người xưa tìm ra những lÝ thuyết về Âm Dương, Ngũ Hành, BÁt QuÁi tìm biết ảnh hưởng của những thiên thể trong vũ trụ đối với con người, cốt để tìm cÁch tổ chức đời sống cÁ nhÂn, xã hội sao cho thuận thiên lÝ, thêm phần êm đẹp, nhẹ phần gay go.
Tử Vi Đẩu Số cũng không đi ra ngoài cÁi mục đích tìm hiểu để tu thÂn, xử thế cùa người xưa.
ĐoÁn vận số trong đời người chỉ là một khía cạnh của Tử Vi. ĐoÁn vận số rồi còn liệu đường hành động cương nhu, tiến thoÁi theo một số nguyên lÝ, hoặc là liệu đường kết hợp, xa cÁch, ngăn ngừa…
Thí dụ trong việc hôn nhÂn. ĐoÁn Tử Vi không phải là chờ thời có người đến kết hợp với mình, mà chính là để xem có những năm nào nên lập gia đình.
Có một bạn trẻ, đem đến cho tôi xem một lÁ số Tử Vi, trong ấy ông thầy đoÁn là anh ta lập gia đình năm 25 tuổi, mà thật ra anh ta lập gia đình năm 27 tuổi, anh ta nghĩ rằng thầy Tử Vi đoÁn sai. Tôi giải thích rằng không hẳn là thầy đoÁn sai. Tử Vi nhằm mục đích xem những năm nào lập gia đình thì có lợi nhiều, chứ có ông sao nào trên trời sa xuống bắt ta phải đi lấy vợ đÂu.
Cùng tuổi Bính Tuất, thế hệ này lập gia đình năm 27 tuổi là vừa phải. CÁc thế hệ trước, cùng tuổi Bính Tuất, cũng năm, thÁng, ngày, giờ sinh ấy, người ta có thể lập gia đình năm 14, 15 tuổi. lại còn có trường hợp cÁc bậc trưởng thượng ngày xưa xem số mà lập gia đình cho con chÁu lúc được 12, 13 tuổi. Ấy là luận hình tính cÁc sao tốt trong từng niên vận mà dựng vợ, gả chồng cho có lợi về sau. Chứ trong lúc còn bé thì có ai đợi xem cÁc cÁch như là:
*Tướng ngộ CÁi Đào Mộc Khúc, thuần tước dÂm phong. Hạn ngộ Cơ Diêu vô phu nan tự khởi cô miên (không chồng thì khó dỗ giấc ngủ một mình).
hoặc là
*Âm tàng Hồng, Nhận, Kỵ, Diêu, tÂn liên hàm tiếu. Hạn phùng Xương Vũ, dÂm tứ, xuÂn tình liên xuất phÁt (***)
Hãy còn bé quÁ làm gì có chuyện ấy được. Chẳng qua là xem cÁi phần lÝ số để liệu đường kết hợp, tiến thoÁi, cương nhu, vậy thôi!
Tử Vi không đóng khung mọi chi tiết sinh hoạt trong một mớ công thức toÁn học. Tử Vi chỉ nói lên cả vận số tương đối của mỗi người. Vì thế mà mới cần xem Tử Vi để liệu đường hành xử.
Tuy nhiên cÁi vận số tương đối của mỗi người còn bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan, mà người nghiên cứu không nên hấp tấp võ đoÁn. Thí dụ như hiện nay một vị Quốc Trưởng tại một tiểu quốc có thể thừa phương tiện xuất ngoại đi Mỹ nhưng không thể xuất ngoại du ngoạn Bắc Kinh như Tổng Thống Nixon được cho dù trong cung Mệnh, Thiên Di, Đại Hạn, Tiểu Hạn, có nhiều sao tốt đến đÂu cũng không đi được. Vì cơ trời vận nước chưa thuận tiện.
CÁi phần LÝ Học của Tử Vi không phải chỉ giúp chúng ta thỏa mãn tính hiếu kỳ muốn biết một số bộ phận bị đóng khung từng tiểu tiết. Thí dụ như trong hôn nhÂn mà gặp cÁch “Nghi cầu trưởng nữ” thì chỉ có nghĩa là nên kết hợp với người trưởng nữ thì có lợi hơn. Chứ nào có nói rằng, trước sau tính toÁn thế nào cũng phải lấy người trưởng nữ.
Những tính cÁch “bất nghi viễn hành” chưa nhất quyết là không đi xa được, mà còn tùy vào Ý nghĩa của cÁc vị sao khÁc mà có thể là vẫn đi được nhưng không có lợi lộc gì, ở nhà thì đỡ mệt thÂn tÂm, an nhàn, thảnh thơi hơn.
Vì vậy mà việc tìm hiểu Ý nghĩa tên cÁc vị sao, Ý nghĩa cÁc điển tích trong Tử Vi cũng rất quan trọng giúp cho người nghiên cứu có một cÁch nhìn thÂm thúy về khía cạnh lÝ học, mục đích cao quÝ của Tử Vi, để liệu đường cÂn nhắc hành động, xuất xử ra sao.
(***) Chú thích của buiram tìm thấy trên internet, cÂu phú trên nghĩa là: ThÁi Âm có Hồng Loan, Kình Dương, Diêu Kỵ người đàn bà đẹp như đóa sen mới nở, nhưng gặp hạn Văn Xương, Vũ Khúc tất sa ngã vì tình.
Nguyên tắc lấy số Tử Vi của làng Tử Vi Đài Loan
Đặt nặng vấn đề tiết khí để tính tháng
Đẩu Sơn
Tôi sẽ xin cống hiến làng tử vi Việt nam hai lá số: một của Tây Thái Hậu, một của bà thổng thống Kennedy; hai lá số này đều lấy trong ba lá số: Tử vi tam phương phả ở trong cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục bình giải”. Những lá số này được viết trên sách dùng làm số kiểu mẫu kinh nghiệm như số ”danh nhân” của ta. Ba phượng mà tôi loại ra một, còn giữ lại hai phượng, Tây thái hậu chắc độc giả K.H.H.B ai cũng biết vì trong báo có đăng một bữa tiệc bà đãi các Đại sứ các nước huy hoàng và tốn kém như thế nào. Bà là Hoàng hậu, vua Hàm Phong đã mất, vua Quang Tự còn nhỏ, bà làm phụ chính nên chính quyền của nước Tàu đều ở trong tay bà.
Còn bà tổng thống Kennedy người Việt Nam mình chắc hiểu biết nhiều lắm. Sau xin nói qua về tác già cuốn sách này:
ông Trương Diệu Văn là một người Trung Quốc, ông đã theo học bên Anh quốc nhiều năm có bằng Thạc sĩ về kinh tế học. Thửo nhỏ ông được thừa thụ gia học về thuật số. Khi ông theo học ở Luân Đôn, ông muốn phổ biến khoa Tử Vi cho các bạn hữu người Anh. Chẳng bao lâu danh ông nổi dậy như sóng cồn khắp châu âu, còn lan sang Mỹ nữa. Giới khoa học huyền bí âu Mỹ lấy làm lạ là sao trong tử vi biết được hình tướng đương số, hơn nữa lại còn biết cha mẹ anh em nhà cửa đương số nữa.
Nguyên tắc
Tôi lại xin lưu ý chư vị độc giả rằng nhà thuật số này đã lấy nhiều lá số cho người âu Mỹ không phải giản dị như ta tưởng: chỉ có đổi Dương lịch sang âm lịch rồi lấy bừa phứa đi tưởng là đúng. Phái tử vi này rất chú trọng đến khí tiết, nếu chỉ đổi sang âm lịch thì sai bét: vì phái tử vi này không công nhận tháng giêng âm lịch là tháng sau ngày lập xuân. Cũng bởi lẽ đó trong sách tử vi của họ có phụ thêm trước sau hiện thời là 100 năm gọi là ” Chiêm tinh lịch” làm theo đúng thời tiết. Nếu đổi sang âm lịch mà lấy bừa đi thì không đúng. ông là thạc sĩ về kinh tế học thì ông đâu có chịu làm như thế. ông sở dĩ muốn phổ biến môn khoa học này cho người âu Mỹ thì ông phải nắm chắc được một yếu tố gì để lấy lá số cho được chính xác. ông chọn các phái tử vi trong nước ông xem phái nào được quần chúng ham chuộng nhất và được chính xác hơn cả. Ở Trung Quốc hiện nay có nhiều phái tử vi, sau ông lựa chọn được ”Thấu phái” là hợp ý ông vì phái này được nhiều người trong nước tín dụng hơn cả và lấy số theo nguyên tắc phái này chính xác hơn cả, bởi lý lẽ rất tự nhiên là phái này lấy khí tiết làm then chốt cho vấn đề lập thành lá số. Bởi lẽ đó cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục” chú giải là ”Thấu phái bí bản”. Ta hãy đọc bài tựa cuốn sách của ông:
”Thường văn tử vi chư thư, dĩ xiển vi lập luận tối tinh. Dư nhiệt độc chi hậu, phương tri thử ngôn bất liêu. Cái tục bản giai dĩ Thái âm khởi mệnh , mỗi ngộ nhuận nguyệt, mâu thuẫn bách xuất, vô tòng giải quyết, xiển vi tắc mệnh dụng Thái Dương, thân dụng Thái âm, lập luận tinh xác, tiện vô nhuận nguyệt chi phiền, thực khố vi chư thư chi phạm.
Nguyên bản dĩ cửu, phá lạn bất kham. Mưu đa ca quyết, từ xáp ý thâm. Dự toại chú giải lệ biểu, trùng tán bài bản, dĩ tiện sơ học".
Nghĩa: Thường nghe các sách tử vi lấy sự xiển vi (xiển: mở rõ, bật mí, vi: những cái vi diệu) lập luận rất là tinh tế. Tôi nhiệt tâm đọc các sách ấy, sau tôi nhận thấy rằng lời nói kia không phải láo. Bởi lẽ các sách của người đời nay đều lấy Thái âm bắt đầu tính tháng an Mệnh Thân. Mỗi khi gặp tháng nhuận này ra trăm điều mâu thuẫn, không thể giải quyết được. Xiển vi tức là mệnh dùng Thái Dương, thân dùng Thái âm (Thái Dương là Dương lịch, Thái âm là âm lịch) lập luận như vậy thật là tinh xác, không còn có cái phiền của năm nhuận nữa, thực đáng là khuôn phép cho các sách.
Sách này nguyên bản cũ quá, rách nát nhiều, lại có ca quyết, lời lẽ rất đúng, ý đúng tinh thâm. Tôi chú giải thêm và lập thêm những bản, đem in lại để tiện cho người mới đọc. Đến khi an mệnh, sách này dạy như thế này:
Đại để nhân mạnh câu tòng. Dần thượng khởi Dần nguyệt.
Dần nguyệt là tháng giêng. Dần nguyệt ông chú thích như vầy: Dần nguyệt là tháng sau tiết lập xuân, tháng giêng âm lịch đã vị tất là Dần nguyệt. Đây thực là vấn đề then chốt cho phương pháp lấy lá số tử vi. Lấy lá số tử vi bao giờ an Mệnh cũng khởi tháng giêng từ cung Dần, sao đây lại không nhận tháng giêng là tháng Dần. Muốn rõ cho được tường tận ta phải hiều Dương lịch và âm lịch.
Dương lịch và âm lịch
Dương lịch tính theo bóng Thái Dương chiếu trên mặt địa cầu, âm lịch tính theo bóng Thái Ấm cứ ngày rằm trăng tròn.
Dương lịch một năm có 365 ngày kể từ xuân phân trước đến xuân phân sau là địa cầu chạy quanh mặt trời một vòng.
Một năm âm lịch có 354 ngày thành ra mỗi năm âm lịch kém Dương lịch là 11 ngày. Luôn 3 năm phải thiếu tới 33 ngày nghĩa là hơn 1 tháng. Như vậy hai thứ lịch càng lâu ngày bao nhiêu càng xa nhau bấy nhiêu nhất là về khí tiết.
Muốn cho số ngày trong hai thứ lịch bằng nhau hay xấp xỉ nhau, hoặc 3 năm hoặc 2 năm người ta đặt thêm 1 tháng nhuận thành ra hai thứ lịch không xê xích nhau mấy và khí tiết hợp với mùa của nó. Bởi các lẽ trên phái đẩu số Trung Quốc này đã lấy tiết lập xuân làm khởi điểm cho cách lấy lá số của họ. Tiết lập xuân là tiết đầu tiên trong 24 tiết của một năm:
Lập Xuân
Vũ Thủy
Kinh Trập
Xuân Phân
Thanh Minh
Cốc Vũ
Lập hạ
Tiểu Mãn
Mang Chủng
Hạ Chí
Tiểu Thử
Đại Thử
Lập Thu
Xử Thử
Bạch Lộ
Thu Phân
Hàn Lộ
Sương Giáng
Lập Đông
Tiểu Tuyết
Đại Tuyết
Đông Chí
Tiểu Hàn
Đại Hàn
(Giai phẩm K.H.H.B đã nói rõ các tiết và có đăng cả Vạn Niên Lịch nêu rõ các tiết)
Mỗi tiết lại có 3 hầu thì có tất cả 72 hầu.
Sở dĩ phái tử vi này được đồng bào của họ tính dụng nhiều và danh tiếng vang ra cả ngoại quốc nữa là vì những lá số của họ lấy ra đều đúng.
Yếu tố khí tiết quan trọng
Đúng là vì ba yếu tố cấu tạo nên con người thì phái này đã nắm được một để làm nền tảng xây dựng nên lý thuyết của họ. Ba yếu tố ấy là:
Huyết thống của cha mẹ
Các thức dinh dưỡng mà đương số đã dùng được chế biến ra da, thịt, xương của họ
Khí tiết
Tại sao khí tiết cũng quan trọng như hai yếu tố trên? Tôi nhận thấy rằng: mỗi khi khí tiết đến vạn vật trong trời đất này đều có biến cải xin lấy mấy tiết ra đây để làm chứng:
Lập xuân:
Đông phong giải đông (Gió tan giá) Vật vô tri cũng thay đổi
Trập trùng thể chấn (Trùng núp mới dậy) Động vật chuyển động
Ngư trắc phụ băng (Cá đeo băng giá) Động vật chuyển động
Vũ thủy:
Lại tế ngư: (Rái cá dưng cúng cá) Động vật chuyển động
Hồng nhạn Bắc (Chim Hồng nhạn trở về Bắc) Động vật chuyển động
Thảo mộc manh động (cây cỏ nứt mộng) Thực vật chuyển động
Kinh Trập
Đào thi hoa (Cây đào trổ bông) Thực vật chuyển động
Thương canh minh (Chim hoàng oanh hót) Động vật chuyển động
Ưng hóa vi cưu (Chim Ưng hóa thánh tu hú) Động vật chuyển động
Xin đón xem hai lá số (sẽ đăng số giai phẩm sau) : một của bà Tây thái hậu, một của bà thổng thống Kennedy mà tôi đã sao lại của họ rất đúng không thêm bớt một ly để giới thiệu với làng tử vi Việt Nam.
ít lâu nay tôi nhận thấy trên văn đàn Tử vi, mấy vị nghiên cứu về khoa này rất là tinh thâm. Tôi nhận thấy lập luận của phái này khác hẳn của các phái mà ta biết từ trước đến nay. Tôi cũng lại tin rằng bài này thêm một chút tài liệu đã nghiên cứu.
Đặt nặng vấn đề tiết khí để tính tháng
Đẩu Sơn
Tôi sẽ xin cống hiến làng tử vi Việt nam hai lá số: một của Tây Thái Hậu, một của bà thổng thống Kennedy; hai lá số này đều lấy trong ba lá số: Tử vi tam phương phả ở trong cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục bình giải”. Những lá số này được viết trên sách dùng làm số kiểu mẫu kinh nghiệm như số ”danh nhân” của ta. Ba phượng mà tôi loại ra một, còn giữ lại hai phượng, Tây thái hậu chắc độc giả K.H.H.B ai cũng biết vì trong báo có đăng một bữa tiệc bà đãi các Đại sứ các nước huy hoàng và tốn kém như thế nào. Bà là Hoàng hậu, vua Hàm Phong đã mất, vua Quang Tự còn nhỏ, bà làm phụ chính nên chính quyền của nước Tàu đều ở trong tay bà.
Còn bà tổng thống Kennedy người Việt Nam mình chắc hiểu biết nhiều lắm. Sau xin nói qua về tác già cuốn sách này:
ông Trương Diệu Văn là một người Trung Quốc, ông đã theo học bên Anh quốc nhiều năm có bằng Thạc sĩ về kinh tế học. Thửo nhỏ ông được thừa thụ gia học về thuật số. Khi ông theo học ở Luân Đôn, ông muốn phổ biến khoa Tử Vi cho các bạn hữu người Anh. Chẳng bao lâu danh ông nổi dậy như sóng cồn khắp châu âu, còn lan sang Mỹ nữa. Giới khoa học huyền bí âu Mỹ lấy làm lạ là sao trong tử vi biết được hình tướng đương số, hơn nữa lại còn biết cha mẹ anh em nhà cửa đương số nữa.
Nguyên tắc
Tôi lại xin lưu ý chư vị độc giả rằng nhà thuật số này đã lấy nhiều lá số cho người âu Mỹ không phải giản dị như ta tưởng: chỉ có đổi Dương lịch sang âm lịch rồi lấy bừa phứa đi tưởng là đúng. Phái tử vi này rất chú trọng đến khí tiết, nếu chỉ đổi sang âm lịch thì sai bét: vì phái tử vi này không công nhận tháng giêng âm lịch là tháng sau ngày lập xuân. Cũng bởi lẽ đó trong sách tử vi của họ có phụ thêm trước sau hiện thời là 100 năm gọi là ” Chiêm tinh lịch” làm theo đúng thời tiết. Nếu đổi sang âm lịch mà lấy bừa đi thì không đúng. ông là thạc sĩ về kinh tế học thì ông đâu có chịu làm như thế. ông sở dĩ muốn phổ biến môn khoa học này cho người âu Mỹ thì ông phải nắm chắc được một yếu tố gì để lấy lá số cho được chính xác. ông chọn các phái tử vi trong nước ông xem phái nào được quần chúng ham chuộng nhất và được chính xác hơn cả. Ở Trung Quốc hiện nay có nhiều phái tử vi, sau ông lựa chọn được ”Thấu phái” là hợp ý ông vì phái này được nhiều người trong nước tín dụng hơn cả và lấy số theo nguyên tắc phái này chính xác hơn cả, bởi lý lẽ rất tự nhiên là phái này lấy khí tiết làm then chốt cho vấn đề lập thành lá số. Bởi lẽ đó cuốn sách ”Tử vi xiển vi lục” chú giải là ”Thấu phái bí bản”. Ta hãy đọc bài tựa cuốn sách của ông:
”Thường văn tử vi chư thư, dĩ xiển vi lập luận tối tinh. Dư nhiệt độc chi hậu, phương tri thử ngôn bất liêu. Cái tục bản giai dĩ Thái âm khởi mệnh , mỗi ngộ nhuận nguyệt, mâu thuẫn bách xuất, vô tòng giải quyết, xiển vi tắc mệnh dụng Thái Dương, thân dụng Thái âm, lập luận tinh xác, tiện vô nhuận nguyệt chi phiền, thực khố vi chư thư chi phạm.
Nguyên bản dĩ cửu, phá lạn bất kham. Mưu đa ca quyết, từ xáp ý thâm. Dự toại chú giải lệ biểu, trùng tán bài bản, dĩ tiện sơ học".
Nghĩa: Thường nghe các sách tử vi lấy sự xiển vi (xiển: mở rõ, bật mí, vi: những cái vi diệu) lập luận rất là tinh tế. Tôi nhiệt tâm đọc các sách ấy, sau tôi nhận thấy rằng lời nói kia không phải láo. Bởi lẽ các sách của người đời nay đều lấy Thái âm bắt đầu tính tháng an Mệnh Thân. Mỗi khi gặp tháng nhuận này ra trăm điều mâu thuẫn, không thể giải quyết được. Xiển vi tức là mệnh dùng Thái Dương, thân dùng Thái âm (Thái Dương là Dương lịch, Thái âm là âm lịch) lập luận như vậy thật là tinh xác, không còn có cái phiền của năm nhuận nữa, thực đáng là khuôn phép cho các sách.
Sách này nguyên bản cũ quá, rách nát nhiều, lại có ca quyết, lời lẽ rất đúng, ý đúng tinh thâm. Tôi chú giải thêm và lập thêm những bản, đem in lại để tiện cho người mới đọc. Đến khi an mệnh, sách này dạy như thế này:
Đại để nhân mạnh câu tòng. Dần thượng khởi Dần nguyệt.
Dần nguyệt là tháng giêng. Dần nguyệt ông chú thích như vầy: Dần nguyệt là tháng sau tiết lập xuân, tháng giêng âm lịch đã vị tất là Dần nguyệt. Đây thực là vấn đề then chốt cho phương pháp lấy lá số tử vi. Lấy lá số tử vi bao giờ an Mệnh cũng khởi tháng giêng từ cung Dần, sao đây lại không nhận tháng giêng là tháng Dần. Muốn rõ cho được tường tận ta phải hiều Dương lịch và âm lịch.
Dương lịch và âm lịch
Dương lịch tính theo bóng Thái Dương chiếu trên mặt địa cầu, âm lịch tính theo bóng Thái Ấm cứ ngày rằm trăng tròn.
Dương lịch một năm có 365 ngày kể từ xuân phân trước đến xuân phân sau là địa cầu chạy quanh mặt trời một vòng.
Một năm âm lịch có 354 ngày thành ra mỗi năm âm lịch kém Dương lịch là 11 ngày. Luôn 3 năm phải thiếu tới 33 ngày nghĩa là hơn 1 tháng. Như vậy hai thứ lịch càng lâu ngày bao nhiêu càng xa nhau bấy nhiêu nhất là về khí tiết.
Muốn cho số ngày trong hai thứ lịch bằng nhau hay xấp xỉ nhau, hoặc 3 năm hoặc 2 năm người ta đặt thêm 1 tháng nhuận thành ra hai thứ lịch không xê xích nhau mấy và khí tiết hợp với mùa của nó. Bởi các lẽ trên phái đẩu số Trung Quốc này đã lấy tiết lập xuân làm khởi điểm cho cách lấy lá số của họ. Tiết lập xuân là tiết đầu tiên trong 24 tiết của một năm:
Lập Xuân
Vũ Thủy
Kinh Trập
Xuân Phân
Thanh Minh
Cốc Vũ
Lập hạ
Tiểu Mãn
Mang Chủng
Hạ Chí
Tiểu Thử
Đại Thử
Lập Thu
Xử Thử
Bạch Lộ
Thu Phân
Hàn Lộ
Sương Giáng
Lập Đông
Tiểu Tuyết
Đại Tuyết
Đông Chí
Tiểu Hàn
Đại Hàn
(Giai phẩm K.H.H.B đã nói rõ các tiết và có đăng cả Vạn Niên Lịch nêu rõ các tiết)
Mỗi tiết lại có 3 hầu thì có tất cả 72 hầu.
Sở dĩ phái tử vi này được đồng bào của họ tính dụng nhiều và danh tiếng vang ra cả ngoại quốc nữa là vì những lá số của họ lấy ra đều đúng.
Yếu tố khí tiết quan trọng
Đúng là vì ba yếu tố cấu tạo nên con người thì phái này đã nắm được một để làm nền tảng xây dựng nên lý thuyết của họ. Ba yếu tố ấy là:
Huyết thống của cha mẹ
Các thức dinh dưỡng mà đương số đã dùng được chế biến ra da, thịt, xương của họ
Khí tiết
Tại sao khí tiết cũng quan trọng như hai yếu tố trên? Tôi nhận thấy rằng: mỗi khi khí tiết đến vạn vật trong trời đất này đều có biến cải xin lấy mấy tiết ra đây để làm chứng:
Lập xuân:
Đông phong giải đông (Gió tan giá) Vật vô tri cũng thay đổi
Trập trùng thể chấn (Trùng núp mới dậy) Động vật chuyển động
Ngư trắc phụ băng (Cá đeo băng giá) Động vật chuyển động
Vũ thủy:
Lại tế ngư: (Rái cá dưng cúng cá) Động vật chuyển động
Hồng nhạn Bắc (Chim Hồng nhạn trở về Bắc) Động vật chuyển động
Thảo mộc manh động (cây cỏ nứt mộng) Thực vật chuyển động
Kinh Trập
Đào thi hoa (Cây đào trổ bông) Thực vật chuyển động
Thương canh minh (Chim hoàng oanh hót) Động vật chuyển động
Ưng hóa vi cưu (Chim Ưng hóa thánh tu hú) Động vật chuyển động
Xin đón xem hai lá số (sẽ đăng số giai phẩm sau) : một của bà Tây thái hậu, một của bà thổng thống Kennedy mà tôi đã sao lại của họ rất đúng không thêm bớt một ly để giới thiệu với làng tử vi Việt Nam.
ít lâu nay tôi nhận thấy trên văn đàn Tử vi, mấy vị nghiên cứu về khoa này rất là tinh thâm. Tôi nhận thấy lập luận của phái này khác hẳn của các phái mà ta biết từ trước đến nay. Tôi cũng lại tin rằng bài này thêm một chút tài liệu đã nghiên cứu.
ĐI THĂM NHà MẤY ôNG THẦY COI BóI ĐỜI NAY
*Cụ Ba La – ông thầy Canh – ông thầy Đà lạt. Một chuyện vui: Không Kiếp giáp Điền Trạch, nhà cửa bị trộm cướp, nhưng gởi tiền người có mạng Thiên Tướng là hết mất trộm * Một câu chuyện vừa coi Tử Vi vừa rờ tay đoán quẻ.
Hoàng Hạc
Nghề bói về Tử Vi thật là khó khăn hơn hết, vì nó đã chẳng những thuộc về Lí TRí mà còn rất nhiều thuộc về TRỰC GIáC. Trực giác là để ta nhận thấy những điều bí ẩn, tuy ẩn mà hiện, nhờ nhận thấy sự liên quan mật thiết giữa các cung, các sao, và nguyên tắc đoán rất là phức tạp nhưng rất tinh vi.
Lại có những khó khăn vì dễ sai lầm. Thứ nhất là năm tháng ngày giờ phải chọn thật đúng. Sai một li đi một dặm. Người mình í tai để ý giờ sinh, nhưng nó là quan trọng nhất. Có khi những đứa trẻ sinh ra mà cha mẹ lại để ít bữa sau mới đi khai sinh. Và dĩ nhiên ngày được ghi trong giấy khai sinh không thể chắc đúng được. Giờ đã sai, ngày lại sai nữa thì lá số Tử Vi sẽ không có giá trị gì cả.
Không hiểu được những cái khó ấy của những nhà đoán số Tử Vi, đã có biết bao nhiêu người cứ la lên rằng mấy thằng cha đoán số Tử Vi nói láo.
Lại nữa, phép xem Tử Vi thật là phức tạp. Việc an sao để có lá số Tử Vi là việc dễ, nhưng đoán mới lá khó, hết sức khó. Và mỗi người có khi đoán một cách hoặc thấp, hoặc cao tùy sở học của họ.
Cụ Ba La
Ở Sài Gòn, chả ai không nghe danh cụ Ba La. Cụ hiện nay hơn 100 tuổi, có một sở học vững chắc lắm. Tiếc là cụ hư mắt, nhưng cụ có một trí nhớ đánh sợ, cụ chỉ an lá số trong trí óc mà thôi mà không thiếu một vị sao nhỏ nào. Có những sao nhỏ mà vô cùng quan hệ. Thế mà cụ thấy cả lá số như mình mở trân trân đôi mắt nhìn vào lá số vậy… mà mình nhìn còn thiếu.
Các ông bị hư mắt phải học đến nhập tâm. Nhờ thiếu đôi mắt bên ngoài mà tâm tư được tụ vào bên trong, có thể nhờ thế mà các ông ấy có cái học nhập thần. Theo chỗ tôi biết thì còn có những ông giỏi Tử Vi như cụ Ba La mà cũng bị hư mắt. Một ông là thầy Canh ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Một ông khác ở Đà Lạt thỉnh thoảng lại về Sài Gòn, ngụ tại nhà một giáo sư dạy nữ công, vợ một vị thanh tra tiểu học ở Đà Lạt mà cũng có nhà ở Sài Gòn. Và thầy Minh Lộc ở đường Trần Quý Cáp.
Già nhưng còn minh mẫn
Cụ Ba La ngày nay coi có kém ngày trước, có thể là vì già quá cho nên suy kém. Nhưng hơn trăm tuổi mà được như thế là minh mẫn lắm rồi. Bây giờ cụ nói rất ít. Cụ cũng coi cả bói dịch. Hai cái học ấy thường phải đi đôi. Và đã là học Độn Lục Nhâm, hay là Kỳ Môn Độn Giáp hay là Tử Vi đều phải là tay giỏi về dịch học.
Tôi thán phục mấy ông hư mắt mà xem quẻ Dịch hay bất cứ kiểu xem nào. Chuyện hư mắt của các ông là một cái lợi, dù cũng là một thứ bất lợi.
Lợi là cái gì các ông đã học được lúc các ông còn sang mắt hoặc các ông được truyền khẩu thì các ông sẽ nhập tâm. Cái học được lại có bề sâu. Nhưng có cái bất lợi là các ông không thể học thêm các sách khác để cho con đường nghiên cứu được rộng rãi thêm.
Tôi có hỏi một số ông về nhiều bộ sách, các ông phải thừa nhận rất tiếc không được nghe nói đến, và khi tôi đề cập đến nhiều khía cạnh khác, các ông đã tặc lưỡi kêu trời là không có cơ hội tiếp xúc với những điều huyền vi mà con người học mãi không bao giờ hết.
Tuy vậy tôi cũng nhờ các cụ ấy rất nhiều về cái học tâm truyền.
Thầy Canh ở Nguyễn Thiện Thuật
Phần thầy Canh ở Nguyễn Thiện Thuật thì khác. ông này chưa gài, cho nnê trí nhớ chưa mờ. Ta có đến xem ở ông, nên cầm trong tay lá số của mình hay của người mình xem, để mà biết thêm và hỏi thêm – nếu bạn đã biết chút ít về Tử Vi. Thầy Canh chịu nói các cách trên lá số để mình biết.
Có vài ông có cái tệ
Có vài ông có cái tệ là khoái đặt vấn đề tiền. Người nào đến xem, có ông hỏi:
-Trả bao nhiêu?
Có nhiều giá, tùy ý muốn đưa bao nhiêu cũng được, nhưng có một giá chót. Nếu mình trả nhiều hơn thì ông nói nhiều hơn, mình trả ít thì ông nói ít hơn.
Hoàng Hạc tôi thường đi theo các bạn thích xem và thích trả tiền nhiều để học lỏm mà thôi. Trả tiền thật nhiều thì không mướn thư kí ghi vào tập sổ. Nhưng trả tiền thật nhiều thì mình tha hồ chất vấn. Có những ông giấu nghề kinh khủng, nhất là khi người chất vấn có nghề thì các ông trả lời gần như cùng một cách:
-Thì vậy đó, tôi học học sách, tôi chỉ nghĩ theo tâm linh. Thấy vậy đoán vậy.
Thế là đối với các ông đó, khó mà moi các ông được gì. Tuy vậy tôi từng học được rất khá khi tung ra chiến thuật nối móc trong quá khứ.
Một chuyện vui về một bà hay bị mất trộm
Có một người xem, nghe ông đoán:
-Bà ở đâu? Chỗ bà ở cũng toàn là nơi ăn trộm ăn cướp. Bà hãy dọn đi nơi khác là hay.
Bà kia nghe khen nức nở:
-Thầy nói quá đúng. Tôi đổi nhà có trên 3 lần rồi, tại sao đi đâu ban đầu đều thấy rõ là xóm lương thiện, nhưng rồi cũng bị trộm. Bây giờ phải dọn về đâu, xin ông chỉ cho.
ông thầy nói:
-Phải coi quẻ dịch mới được. Để ba trăm đồng cúng tổ đi.
Bà nọ nói:
-ông coi Tử Vi thì phải biết chứ còn phải coi thêm quẻ Dịch thì mắc quá.
-Ấy, quẻ Tử Vi làm sao biết được. Phải nhờ cái khác. Nếu bà không bằng lòng thì thôi.
Nghe như vậy, tôi mới nói:
-Quẻ Dịch làm gì biết được. Nếu biết được thì Tử Vi đã sai, bởi số trong Tử Vi là cung Điền Trạch bị giáp Kiếp, Không thì chỗ ở của bà này luôn luôn bị ăn cướp, ăn trộm rình mãi.
ông thầy nghe nói mới hất hàm hỏi:
-ông cũng biết về số Tử Vi à?
-Thì thấy lá số bà này như vậy? Đã là số thì làm sao cải số?
ông thầy nói:
-ông nói bậy. Số là số, nhưng mình cũng đổi số chứ.
- Nhưng cứ cái nghiệp người này thì cung Điền Trạch dù có đổi vào dinh thự lớn, có lính canh chừng, rồi thì cũng bị lính canh biến thành ăn trộm, và bà này rồi cũng bị bao vây bởi những người gian giảo. Không thế, thì cũng bị bà con họ ăn trộm. Chỉ khi nào bà đem tiền gởi nơi khác thì thôi chứ đem về nhà là có trộm rình, không trộm ngoài cũng trộm trong nhà, nhưng là bà con ở xa đến.
Bà đi xem Tử Vi cười to:
-ông này nói đúng! Tôi giữ trộm ngoài kĩ lắm, nhưng rồi cũng bị trộm bên trong, bà con họ đến chơi, họ lấy mất. Nói vậy, số tôi sẽ bị vậy mãi sao, thưa ông?
Tôi nói:
-Bà hỏi ông thầy, chứ sao lại hỏi tôi?
ông thầy nổi đóa:
-Xin lỗi ông, vậy theo ông phải làm thế nào cho bà này khỏi mất tiền?
Tôi trả lời:
-Có gì khó. Cung phụ mẫu của bà này có Thiên Tướng-Liêm Trinh và Sát Phá Tham hợp chiếu, thì cứ đem tiền gởi cho ông bà già là không sợ mất nữa.
-Tại sao?
-Trả tiền, tôi xin nói cho nghe.
-Ậy, giỡn hoài. ông nói thử. Nếu đúng lí, tôi kêu là sư.
-Có gì lạ. Kiếp Không chỉ sợ có Thiên Tướng, nên ăn trộm không dám lại.
Các ông này bị đụng tới là đổ quạu.
ông thầy Đà Lạt
Còn ông thầy Tử Vi nữa, mà cũng mù mắt, là ông thầy Đà Lạt (mà có lẽ nhiều người biết tiếng). Tôi được biết nhiều ông bộ trưởng, giám đốc các công sở, các nhà chính trị đến xem số Tử Vi của ông tận Đà Lạt.
Tôi gặp ông ở Sài Gòn, nơi nhà một bá giáo sư, mà tôi đã kể. ông ấy cũng có biệt tài là nhớ dai. Nhưng đặc sắc là ông lại xem tay nữa, nhưng hư mắt thì thấy gì mà xem? ông nắm tay mình, ông mò trên các chỗ nổi chìm của bàn tay… Vậy mà ông đoán nghe dễ chịu quá. Sau khi đó, ông lại hỏi tuổi, hỏi về tháng sinh và ngày giờ sinh. ông lấy Can Chi sắp theo lối xem Bát Tự.
Tôi nói thật cái lối rờ bàn tay mà nói tương lai, hiện tại… nhất là quá khứ và hiện tại, thì phải nhận là tài.
Một câu chuyện rờ tay đoán quẻ
Hồi thuở tôi được hai mươi, một người bạn thân của tôi rủ tôi đi qua Xóm Củi xem ông thầy hư mắt mà chuyên coi tay. ông này có hai cách xem: một là bói dịch, hai là coi chỉ tay.
Tôi và bạn tôi đến nhà, thấy ông đang nằm trên võng. Hỏi thì ông nói tôi là một người bà con hay anh em gì đây.
-Đúng! rồi sao nữa?
Thú thật, tôi học được ở ông thầy “mò” này nhiều cái hay về khoa học coi tay. Trước giờ coi tay tôi út chú ý đến các “gò” nổi của bàn tay. Chỉ biết rằng các “gò” có tính cách làm nổi lên khả năng của “gò” thôi, thật sự chả có ý nghĩa gì quan trọng hơn.
Đối với ông thầy này thì “gò” rất hệ trọng mà sách Tây Phương không đề cập. Gò Mộc Tinh, gò Hỏa Tinh, gò Thủy Tinh, gò Thổ Tinh, chẳng những có ý nghĩa nhiều về tánh tình, mà theo Trung Hoa, nó lại có ý nghĩa nhiều về số mạng.
ông Thầy mò mò cái gò Thủy Tinh của ông bạn tôi, thở ra:
-ông già, bà già ông thì sang cả, giàu có, nhưng ông thì chả hưởng bao nhiêu. Và sau này sự nghiệp tiêu tan cả.
Bạn tôi nói:
-Hay lắm. Cha mẹ tôi giàu. Cha tôi ngồi Quận (thuở ấy, ngồi Quận là số dách về uy quyền và tiền bạc). Nhưng sao ông biết?
-Thì tại tôi “thấy” trên bàn tay ông.
Tôi để ý nhìn. Thấy ông đang mò cái gò Thủy Tinh. Thấy gò ấy cao nhất trên bàn tay, nhưng nếu gò ấy cao là có gia tài to, mà có gia tài to thì dĩ nhiên cha mẹ giàu to. Nhưng sao lại biết rằng về sau gia tài ấy tiêu tan tất cả, mà anh ấy không được thụ hưởng?
Tôi xen vào để hỏi:
-Tại sao ông biết rằng về sau sạt nghiệp? Coi tay người này mà biết được người kia?
ông cười:
-ông này hỏi kì quá. Tôi thấy sao nói vậy.
Tôi biết là không hỏi gì được ông này.
Đến lúc sau, coi qua bàn tay của tôi, lúc ông mò đến gò Thủy tinh, ông nói:
-à, ông này thì khác. Cha mẹ thì nghèo, đủ ăn vậy thôi, ông không nhờ được gì cả, và sau này “thân lập thân”.
Nói khích để đi tìm sự thật
Tôi hỏi:
-Nói vậy, nếu gò này cao thì cha mẹ giàu, mà thấy thì cha mẹ nghèo. Vậy tại sao cao thì giàu nhưng lại cho rằng giàu không bền? Nói vậy thì mâu thuẫn, anh bạn tôi đây có gò này cao lắm kia mà, tôi không phục.
Bị nói khích, ông hất hàm bảo:
-à, thì tôi nói ông biết. Phải ông là tay biết xem tay không?
-Vâng, tôi là nhà coi tay mà thiên hạ coi là “đại tài”.
Bị nói khích, ông ta tức quá nói:
-Xin lỗi ông. ông tài coi tay, nhưng chỉ biết có một mà chẳng biết có hai. (ông bảo bạn tôi đưa bàn tay cho ông nắm rồi ông rờ chỗ gò ấy). Đây này, gò này tuy cao mà nghiêng về góc cạnh, này chỉ lăng nhăng cắt nát hết, kể là “lúa” rồi. Cho nên làm gì mà không sạt nghiệp? Cái bàn mà nghiêng như thế này, tiền bạc để đó làm gì mà chẳng đổ? Tôi nói “đổ” bể, bởi chỉ lăng nhăng loạn xạ đã phá nát đi rồi. Cho nên tôi đoán tiền phú hậu bần là vậy đó.
Tôi mừnh quá. Bèn nói:
-Xin lỗi ông, tôi quả là kẻ “tri nhất nhi bất tri nhị”. Quả là “múa búa trước cửa Lỗ Ban”. Vậy xin thầy bỏ lỗi. Xin bái phục tôn sư.
Trở lại chuyện ông thầy Đà Lạt
Nhờ câu truyện trên, tôi mới hiểu cái ông thầy bói hư mắt Đà Lạt không phải là không có cơ sở. ông này mò tay, lại thêm cả khoa Tử Vi nữa, nên ông đoán hay. Nhất là khi mình nghe ông có mùi rượu, thì ông có những cái “ông ứng” rất tài. Có nhiều ông lớn hồi bấy giờ có đến xem. Mà nói là “đến xem” thì sai, mà phải nói rằng các ônh cho mời đến tư thất để xem. ông coi bói Dịch cũng khá.
(Câu chuyện kể về ông thầy Đà Lạt đã từng được kể trong một kỳ trước).
*Cụ Ba La – ông thầy Canh – ông thầy Đà lạt. Một chuyện vui: Không Kiếp giáp Điền Trạch, nhà cửa bị trộm cướp, nhưng gởi tiền người có mạng Thiên Tướng là hết mất trộm * Một câu chuyện vừa coi Tử Vi vừa rờ tay đoán quẻ.
Hoàng Hạc
Nghề bói về Tử Vi thật là khó khăn hơn hết, vì nó đã chẳng những thuộc về Lí TRí mà còn rất nhiều thuộc về TRỰC GIáC. Trực giác là để ta nhận thấy những điều bí ẩn, tuy ẩn mà hiện, nhờ nhận thấy sự liên quan mật thiết giữa các cung, các sao, và nguyên tắc đoán rất là phức tạp nhưng rất tinh vi.
Lại có những khó khăn vì dễ sai lầm. Thứ nhất là năm tháng ngày giờ phải chọn thật đúng. Sai một li đi một dặm. Người mình í tai để ý giờ sinh, nhưng nó là quan trọng nhất. Có khi những đứa trẻ sinh ra mà cha mẹ lại để ít bữa sau mới đi khai sinh. Và dĩ nhiên ngày được ghi trong giấy khai sinh không thể chắc đúng được. Giờ đã sai, ngày lại sai nữa thì lá số Tử Vi sẽ không có giá trị gì cả.
Không hiểu được những cái khó ấy của những nhà đoán số Tử Vi, đã có biết bao nhiêu người cứ la lên rằng mấy thằng cha đoán số Tử Vi nói láo.
Lại nữa, phép xem Tử Vi thật là phức tạp. Việc an sao để có lá số Tử Vi là việc dễ, nhưng đoán mới lá khó, hết sức khó. Và mỗi người có khi đoán một cách hoặc thấp, hoặc cao tùy sở học của họ.
Cụ Ba La
Ở Sài Gòn, chả ai không nghe danh cụ Ba La. Cụ hiện nay hơn 100 tuổi, có một sở học vững chắc lắm. Tiếc là cụ hư mắt, nhưng cụ có một trí nhớ đánh sợ, cụ chỉ an lá số trong trí óc mà thôi mà không thiếu một vị sao nhỏ nào. Có những sao nhỏ mà vô cùng quan hệ. Thế mà cụ thấy cả lá số như mình mở trân trân đôi mắt nhìn vào lá số vậy… mà mình nhìn còn thiếu.
Các ông bị hư mắt phải học đến nhập tâm. Nhờ thiếu đôi mắt bên ngoài mà tâm tư được tụ vào bên trong, có thể nhờ thế mà các ông ấy có cái học nhập thần. Theo chỗ tôi biết thì còn có những ông giỏi Tử Vi như cụ Ba La mà cũng bị hư mắt. Một ông là thầy Canh ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Một ông khác ở Đà Lạt thỉnh thoảng lại về Sài Gòn, ngụ tại nhà một giáo sư dạy nữ công, vợ một vị thanh tra tiểu học ở Đà Lạt mà cũng có nhà ở Sài Gòn. Và thầy Minh Lộc ở đường Trần Quý Cáp.
Già nhưng còn minh mẫn
Cụ Ba La ngày nay coi có kém ngày trước, có thể là vì già quá cho nên suy kém. Nhưng hơn trăm tuổi mà được như thế là minh mẫn lắm rồi. Bây giờ cụ nói rất ít. Cụ cũng coi cả bói dịch. Hai cái học ấy thường phải đi đôi. Và đã là học Độn Lục Nhâm, hay là Kỳ Môn Độn Giáp hay là Tử Vi đều phải là tay giỏi về dịch học.
Tôi thán phục mấy ông hư mắt mà xem quẻ Dịch hay bất cứ kiểu xem nào. Chuyện hư mắt của các ông là một cái lợi, dù cũng là một thứ bất lợi.
Lợi là cái gì các ông đã học được lúc các ông còn sang mắt hoặc các ông được truyền khẩu thì các ông sẽ nhập tâm. Cái học được lại có bề sâu. Nhưng có cái bất lợi là các ông không thể học thêm các sách khác để cho con đường nghiên cứu được rộng rãi thêm.
Tôi có hỏi một số ông về nhiều bộ sách, các ông phải thừa nhận rất tiếc không được nghe nói đến, và khi tôi đề cập đến nhiều khía cạnh khác, các ông đã tặc lưỡi kêu trời là không có cơ hội tiếp xúc với những điều huyền vi mà con người học mãi không bao giờ hết.
Tuy vậy tôi cũng nhờ các cụ ấy rất nhiều về cái học tâm truyền.
Thầy Canh ở Nguyễn Thiện Thuật
Phần thầy Canh ở Nguyễn Thiện Thuật thì khác. ông này chưa gài, cho nnê trí nhớ chưa mờ. Ta có đến xem ở ông, nên cầm trong tay lá số của mình hay của người mình xem, để mà biết thêm và hỏi thêm – nếu bạn đã biết chút ít về Tử Vi. Thầy Canh chịu nói các cách trên lá số để mình biết.
Có vài ông có cái tệ
Có vài ông có cái tệ là khoái đặt vấn đề tiền. Người nào đến xem, có ông hỏi:
-Trả bao nhiêu?
Có nhiều giá, tùy ý muốn đưa bao nhiêu cũng được, nhưng có một giá chót. Nếu mình trả nhiều hơn thì ông nói nhiều hơn, mình trả ít thì ông nói ít hơn.
Hoàng Hạc tôi thường đi theo các bạn thích xem và thích trả tiền nhiều để học lỏm mà thôi. Trả tiền thật nhiều thì không mướn thư kí ghi vào tập sổ. Nhưng trả tiền thật nhiều thì mình tha hồ chất vấn. Có những ông giấu nghề kinh khủng, nhất là khi người chất vấn có nghề thì các ông trả lời gần như cùng một cách:
-Thì vậy đó, tôi học học sách, tôi chỉ nghĩ theo tâm linh. Thấy vậy đoán vậy.
Thế là đối với các ông đó, khó mà moi các ông được gì. Tuy vậy tôi từng học được rất khá khi tung ra chiến thuật nối móc trong quá khứ.
Một chuyện vui về một bà hay bị mất trộm
Có một người xem, nghe ông đoán:
-Bà ở đâu? Chỗ bà ở cũng toàn là nơi ăn trộm ăn cướp. Bà hãy dọn đi nơi khác là hay.
Bà kia nghe khen nức nở:
-Thầy nói quá đúng. Tôi đổi nhà có trên 3 lần rồi, tại sao đi đâu ban đầu đều thấy rõ là xóm lương thiện, nhưng rồi cũng bị trộm. Bây giờ phải dọn về đâu, xin ông chỉ cho.
ông thầy nói:
-Phải coi quẻ dịch mới được. Để ba trăm đồng cúng tổ đi.
Bà nọ nói:
-ông coi Tử Vi thì phải biết chứ còn phải coi thêm quẻ Dịch thì mắc quá.
-Ấy, quẻ Tử Vi làm sao biết được. Phải nhờ cái khác. Nếu bà không bằng lòng thì thôi.
Nghe như vậy, tôi mới nói:
-Quẻ Dịch làm gì biết được. Nếu biết được thì Tử Vi đã sai, bởi số trong Tử Vi là cung Điền Trạch bị giáp Kiếp, Không thì chỗ ở của bà này luôn luôn bị ăn cướp, ăn trộm rình mãi.
ông thầy nghe nói mới hất hàm hỏi:
-ông cũng biết về số Tử Vi à?
-Thì thấy lá số bà này như vậy? Đã là số thì làm sao cải số?
ông thầy nói:
-ông nói bậy. Số là số, nhưng mình cũng đổi số chứ.
- Nhưng cứ cái nghiệp người này thì cung Điền Trạch dù có đổi vào dinh thự lớn, có lính canh chừng, rồi thì cũng bị lính canh biến thành ăn trộm, và bà này rồi cũng bị bao vây bởi những người gian giảo. Không thế, thì cũng bị bà con họ ăn trộm. Chỉ khi nào bà đem tiền gởi nơi khác thì thôi chứ đem về nhà là có trộm rình, không trộm ngoài cũng trộm trong nhà, nhưng là bà con ở xa đến.
Bà đi xem Tử Vi cười to:
-ông này nói đúng! Tôi giữ trộm ngoài kĩ lắm, nhưng rồi cũng bị trộm bên trong, bà con họ đến chơi, họ lấy mất. Nói vậy, số tôi sẽ bị vậy mãi sao, thưa ông?
Tôi nói:
-Bà hỏi ông thầy, chứ sao lại hỏi tôi?
ông thầy nổi đóa:
-Xin lỗi ông, vậy theo ông phải làm thế nào cho bà này khỏi mất tiền?
Tôi trả lời:
-Có gì khó. Cung phụ mẫu của bà này có Thiên Tướng-Liêm Trinh và Sát Phá Tham hợp chiếu, thì cứ đem tiền gởi cho ông bà già là không sợ mất nữa.
-Tại sao?
-Trả tiền, tôi xin nói cho nghe.
-Ậy, giỡn hoài. ông nói thử. Nếu đúng lí, tôi kêu là sư.
-Có gì lạ. Kiếp Không chỉ sợ có Thiên Tướng, nên ăn trộm không dám lại.
Các ông này bị đụng tới là đổ quạu.
ông thầy Đà Lạt
Còn ông thầy Tử Vi nữa, mà cũng mù mắt, là ông thầy Đà Lạt (mà có lẽ nhiều người biết tiếng). Tôi được biết nhiều ông bộ trưởng, giám đốc các công sở, các nhà chính trị đến xem số Tử Vi của ông tận Đà Lạt.
Tôi gặp ông ở Sài Gòn, nơi nhà một bá giáo sư, mà tôi đã kể. ông ấy cũng có biệt tài là nhớ dai. Nhưng đặc sắc là ông lại xem tay nữa, nhưng hư mắt thì thấy gì mà xem? ông nắm tay mình, ông mò trên các chỗ nổi chìm của bàn tay… Vậy mà ông đoán nghe dễ chịu quá. Sau khi đó, ông lại hỏi tuổi, hỏi về tháng sinh và ngày giờ sinh. ông lấy Can Chi sắp theo lối xem Bát Tự.
Tôi nói thật cái lối rờ bàn tay mà nói tương lai, hiện tại… nhất là quá khứ và hiện tại, thì phải nhận là tài.
Một câu chuyện rờ tay đoán quẻ
Hồi thuở tôi được hai mươi, một người bạn thân của tôi rủ tôi đi qua Xóm Củi xem ông thầy hư mắt mà chuyên coi tay. ông này có hai cách xem: một là bói dịch, hai là coi chỉ tay.
Tôi và bạn tôi đến nhà, thấy ông đang nằm trên võng. Hỏi thì ông nói tôi là một người bà con hay anh em gì đây.
-Đúng! rồi sao nữa?
Thú thật, tôi học được ở ông thầy “mò” này nhiều cái hay về khoa học coi tay. Trước giờ coi tay tôi út chú ý đến các “gò” nổi của bàn tay. Chỉ biết rằng các “gò” có tính cách làm nổi lên khả năng của “gò” thôi, thật sự chả có ý nghĩa gì quan trọng hơn.
Đối với ông thầy này thì “gò” rất hệ trọng mà sách Tây Phương không đề cập. Gò Mộc Tinh, gò Hỏa Tinh, gò Thủy Tinh, gò Thổ Tinh, chẳng những có ý nghĩa nhiều về tánh tình, mà theo Trung Hoa, nó lại có ý nghĩa nhiều về số mạng.
ông Thầy mò mò cái gò Thủy Tinh của ông bạn tôi, thở ra:
-ông già, bà già ông thì sang cả, giàu có, nhưng ông thì chả hưởng bao nhiêu. Và sau này sự nghiệp tiêu tan cả.
Bạn tôi nói:
-Hay lắm. Cha mẹ tôi giàu. Cha tôi ngồi Quận (thuở ấy, ngồi Quận là số dách về uy quyền và tiền bạc). Nhưng sao ông biết?
-Thì tại tôi “thấy” trên bàn tay ông.
Tôi để ý nhìn. Thấy ông đang mò cái gò Thủy Tinh. Thấy gò ấy cao nhất trên bàn tay, nhưng nếu gò ấy cao là có gia tài to, mà có gia tài to thì dĩ nhiên cha mẹ giàu to. Nhưng sao lại biết rằng về sau gia tài ấy tiêu tan tất cả, mà anh ấy không được thụ hưởng?
Tôi xen vào để hỏi:
-Tại sao ông biết rằng về sau sạt nghiệp? Coi tay người này mà biết được người kia?
ông cười:
-ông này hỏi kì quá. Tôi thấy sao nói vậy.
Tôi biết là không hỏi gì được ông này.
Đến lúc sau, coi qua bàn tay của tôi, lúc ông mò đến gò Thủy tinh, ông nói:
-à, ông này thì khác. Cha mẹ thì nghèo, đủ ăn vậy thôi, ông không nhờ được gì cả, và sau này “thân lập thân”.
Nói khích để đi tìm sự thật
Tôi hỏi:
-Nói vậy, nếu gò này cao thì cha mẹ giàu, mà thấy thì cha mẹ nghèo. Vậy tại sao cao thì giàu nhưng lại cho rằng giàu không bền? Nói vậy thì mâu thuẫn, anh bạn tôi đây có gò này cao lắm kia mà, tôi không phục.
Bị nói khích, ông hất hàm bảo:
-à, thì tôi nói ông biết. Phải ông là tay biết xem tay không?
-Vâng, tôi là nhà coi tay mà thiên hạ coi là “đại tài”.
Bị nói khích, ông ta tức quá nói:
-Xin lỗi ông. ông tài coi tay, nhưng chỉ biết có một mà chẳng biết có hai. (ông bảo bạn tôi đưa bàn tay cho ông nắm rồi ông rờ chỗ gò ấy). Đây này, gò này tuy cao mà nghiêng về góc cạnh, này chỉ lăng nhăng cắt nát hết, kể là “lúa” rồi. Cho nên làm gì mà không sạt nghiệp? Cái bàn mà nghiêng như thế này, tiền bạc để đó làm gì mà chẳng đổ? Tôi nói “đổ” bể, bởi chỉ lăng nhăng loạn xạ đã phá nát đi rồi. Cho nên tôi đoán tiền phú hậu bần là vậy đó.
Tôi mừnh quá. Bèn nói:
-Xin lỗi ông, tôi quả là kẻ “tri nhất nhi bất tri nhị”. Quả là “múa búa trước cửa Lỗ Ban”. Vậy xin thầy bỏ lỗi. Xin bái phục tôn sư.
Trở lại chuyện ông thầy Đà Lạt
Nhờ câu truyện trên, tôi mới hiểu cái ông thầy bói hư mắt Đà Lạt không phải là không có cơ sở. ông này mò tay, lại thêm cả khoa Tử Vi nữa, nên ông đoán hay. Nhất là khi mình nghe ông có mùi rượu, thì ông có những cái “ông ứng” rất tài. Có nhiều ông lớn hồi bấy giờ có đến xem. Mà nói là “đến xem” thì sai, mà phải nói rằng các ônh cho mời đến tư thất để xem. ông coi bói Dịch cũng khá.
(Câu chuyện kể về ông thầy Đà Lạt đã từng được kể trong một kỳ trước).
TÌM HIỂU KHOA TỬ VI Ở TRUNG HOA VÀ VIỆT NAM
Nguồn gốc khoa Tử vi
Các môn phái Tử vi Trung Hoa: phái Triệu gia, phái HÀ Lạc, Phái Âm Dương
Bộ Tử vi đại toÀn thời CÀn Long
Giáo sư TRẦN QUANG ĐôNG
ĐôI LỜI GIỚI THIỆU: Một thÂn chủ gặp việc chẳng lÀnh, hoặc gặp việc phÂn vÂn khó giải quyết, tÌm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngÀy, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số lÀ dựa theo nét mặt vÀ cÂu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. ThÂn chủ dễ tính vội cho lÀ thần thánh.
Sự thực thÂn chủ muốn biết thầy có học đến trÌnh độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng nÀy cÂu hỏi. Nếu đoán đúng 3 cÂu lÀ tạm được. Nếu sai 3 cÂu lÀ chưa học đến trÌnh độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thÂn chủ 30 tuổi hỏi:
-Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
-Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
-Học tới đÂu?
-Lập gia đÌnh năm nÀo? Đã có mấy còn? Những năm nÀo có con?
-Chồng lÀ người thế nÀo? LÀm nghề gÌ?
Tùy theo cÂu trả lời của thầy sẽ biết thầy có lÀ người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mÌnh chưa học đến trÌnh độ sơ đẳng của khoa Tử vi. MÀ chỉ tÌm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử vÀ Trung quốc sử về khoa nÀy. Những thư tịch mÀ tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh lÀ những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đÂy. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương ĐÀi bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trÌnh bầy ra đÂy để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh nÀy còn dám viết sách lịch Tử vi vÀo đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐôNG
I.Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ rÀng. Căn cứ vÀo bộ Tử vi Đại toÀn do các văn thần nhÀ Thanh dÂng lên cho vua CÀn Long (1736-1796) vÀo niên hiệu CÀn Long thứ 41, bÀi tựa có chép:…”Bọn thần vÂng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vÀo niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau TÂy lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần ĐoÀn ở núi Phú Sơn vÀo chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toÀn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thÌ khoa Tử vi có từ trước năm 963 lÀ năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vÀo cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh vÀ đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau nÀy ông được tôn lÀ Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhÀ Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh vÀ Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mÀ Hi Di tiên sinh biết trước sau nÀy hai người con của Tống Thái Hậu lÀm vua:
…”Cuối đời Hậu ChÂu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ vÀ Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn vÀ Khuông Nghĩa) vÀo hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thÌ gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
-BÀ phúc đức lắm hai người con sau nÀy đều lÀ đấng minh quÂn bÌnh thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
-NgÀi nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đÂy. NgÀi có gÌ cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
-Sau nÀy hai con bÀ đều lÀm vua bÀ thiếu gÌ dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn nÀy của bÀ cả. BÂy giờ bÀ bán cho tôi hòn núi nÀy đi, để lấy 10 lượng vÀng mÀ tiêu.
Thái hậu đồng ý vÌ nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đÂu?
BÀ xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vÀo chiếc đũa bỏ vÀo ống đũa lÀm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vÀo niên hiệu CÀn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, vÀ nói rằng núi nÀy Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái Ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho lÀ bậc kỳ tÀi, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ vÀ văn thần võ tướng được ngÀi tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dÂng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoÀng tộc đều được học khoa nÀy, mỗi đời thêm vÀo các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mÀ dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II-Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra lÀm ba rõ rệt.
Vua CÀn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa nÀy tại Trung Hoa không phổ thông vÀ tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó lÀ:
-Phái Triệu Gia (con cháu nhÀ Tống),
-Phái HÀ Lạc (Học trò Hi Di tiên sinh đi về Bắc).
-Phái Âm Dương (Học trò Hi DI tiên sinh đi về Nam).
Sau đÂy chúng tôi xin lược trÌnh qua sự xuất hiện của các phái.
1-Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoÀng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoÀng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
-Chỉ truyền ho nhưng người thuộc tôn thất (Họ Triệu).
-Những người nÀo có tư chất thông minh mới được truyền.
-Nghiên cứu đến chỗ vi diệu, để dùng Tử vi trong việc sử dụng người. Tùy theo vận hạn mÀ mưu đại sự.
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhÀ Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhÀ Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu lÀ họ của nhÀ Tống mÀ gọi phái nÀy.
Sau đÂy lÀ một vÀi cÂu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ lÀ Trịnh Ân ra trấn cõi ngoÀi. NgÀi xem số thấy Trịnh ÂN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh Ân Thiên Tướng, Tướng quÂn thủ mệnh tại Tý. MÀ năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, NgÀi xuống chiếu gọi Trịnh Ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh Ân về kinh thÌ xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vÌ cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mÀ rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh Ân lÀ một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên lÀ ĐÀo Tam XuÂn, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang Ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam XuÂn vÂy hãm kinh đô, không cách thoát. HoÀng đệ lÀ Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
-Số của HoÀng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mÀ giết mất Trịnh Ân. BÂy giờ bị vÂy, tôi xem số của ĐÀo Tam XuÂn, Vũ khúc, Phá quÂn thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung TÀi Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đÂy không ai có thể thắng nÀng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nÀng lÀ khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoÀng huynh. Muốn lầm cho êm truyện nÀy, phải tuÂn theo điều kiện sau: Tam XuÂn có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tÌnh nhẹ dạ. Theo Tử vi thÌ chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quÂn, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quÂn. Tôi xin đề cử Cao HoÀi Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư vÀ Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục ĐÀo Tam XuÂn.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoÀi Đức thuyết phục ĐÀo tam XuÂn rút binh. Về sau con cháu Trịnh Ân phò nhÀ Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quÂn Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đÌnh tranh luận liên tiếp mấy ngÀy không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
-Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trÌ tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn lÀ chết. Nếu cử Đăng đi thÌ qua năm lại phải cử người khác.
-Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có HÌnh, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “HÌnh Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhÂn uy vũ trấn, động”. Nghĩa lÀ: Thiên hÌnh, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó lÀ cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. VÌ vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhÀ Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2-Phái HÀ Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra lÀm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi lÀ phái HÀ lạc. Họ thêm vÀo một số sao mới mÀ trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vÀo, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên TÀi, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vÀo 7 sao nữa thÀnh 12 sao.
Đa số người của phái nÀy dùng khoa Tử vi lÀm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. VÌ vậy lÂu ngÀy phái nÀy bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thÌ đÂu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai vÀ dạy thiếu nữa, thÌ hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trÌnh của phái nÀy còn chép trong bộ Tử vi Âm Dương chính nghĩa nam tông.
3-Phái Âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của Âm Dương sinh khắc ngũ hÀnh. Phía nÀy có khuyết điểm lÀ quá chú ý vÀo Âm Dương sinh khắc mÀ quên mất tinh yếu của khoa Tử vi lÀ Thiên văn. Đầu đời Mih một nhÂn vật quan trọng của phái nÀy lÀm quÂn sư cho Minh Thái Tổ. Đó lÀ Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái nÀy được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái nÀy rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thÀnh đạt cho lắm. Công phu của phái nÀy còn lưu truyền bộ Tử vi Âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhÀ Minh (1643), Lý tự Thanh đem quÂn đốt phá Bắc kinh, thÌ bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở VÂn Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ nÀy lọt vÀo tay các văn thần nhÀ Thanh.
4-Bộ Tử vi Đại toÀn
-Niên hiệu CÀn Long thứ 38 nhÀ Thanh, nhÀ Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vÀo bÀi bác mÌnh, chê bai Thanh triều lÀm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhÀ học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ DuÂn, lÀ việc trong viện Tử khố toÀn thơ. Công việc của viện lÀ tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hÀnh cho dÂn gian học. Bộ nÀy được gọi lÀ Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thÀnh bộ Tử vi Đại toÀn, gồm 9 cuốn như sau:
-Cuốn thứ nhứt: Bản nghiên cứu tổng quát, các bản chiếu biểu liên quan đến soạn thảo Tử vi đại toÀn. PhÀm lệ.
-Cuốn thứ nhÌ: Lịch sử khoa Tử vi Tiểu sử các nhÀ nghiên cứu Tử vi. Lịch sử các phái.
-Cuốn thứ ba: Nghiên cứu về khoa Thiên văn, ứng dụng vÀo Tử vi.
-Cuốn thứ tư: Cách an sao, an vận hạn, sao lưu niên.
-Cuốn thứ năm: Tính chất các sao.
-Cuốn thứ sáu: Đoán vận hạn, đoán 12 cung.
-Cuốn thứ bảy: Chú giải các bÀi phú của Hi Di tiên sinh, phái Triệu gia
-Cuốn thứ tám: Cử hiền, triệt ác (Căn cứ vÀo khoa Tử vi để cử người cho đúng, loại bỏ kẻ ác). Phá cách (Căn cứ vÀo số Tử vi để biết muốn hạ một người có số Tử vi thế nÀy thÌ lÀm sao).
-Cuốn thứ chín: Các lá số của danh nhÂn. Gồm 417 lá số với lời chú giải đầy đủ. Từ Chu Công, Thái Công, vua chúa, danh tướng phản tặc, văn thần, đạo gia trải qua các đời.
Đặc biệt cuốn thứ nhÌ có nói đến khoa Tử vi tại VN, lÀ công trÌnh nghiên cứu của nhÀ Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5-Khoa Tử vi Trung hoa ngÀy nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngÀy nay lại không thịnh hÀnh vÀ được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trÌnh bÀy trong một bÀi sau.
KHHB số 74G1
Nguồn gốc khoa Tử vi
Các môn phái Tử vi Trung Hoa: phái Triệu gia, phái HÀ Lạc, Phái Âm Dương
Bộ Tử vi đại toÀn thời CÀn Long
Giáo sư TRẦN QUANG ĐôNG
ĐôI LỜI GIỚI THIỆU: Một thÂn chủ gặp việc chẳng lÀnh, hoặc gặp việc phÂn vÂn khó giải quyết, tÌm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngÀy, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số lÀ dựa theo nét mặt vÀ cÂu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. ThÂn chủ dễ tính vội cho lÀ thần thánh.
Sự thực thÂn chủ muốn biết thầy có học đến trÌnh độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng nÀy cÂu hỏi. Nếu đoán đúng 3 cÂu lÀ tạm được. Nếu sai 3 cÂu lÀ chưa học đến trÌnh độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thÂn chủ 30 tuổi hỏi:
-Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
-Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
-Học tới đÂu?
-Lập gia đÌnh năm nÀo? Đã có mấy còn? Những năm nÀo có con?
-Chồng lÀ người thế nÀo? LÀm nghề gÌ?
Tùy theo cÂu trả lời của thầy sẽ biết thầy có lÀ người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mÌnh chưa học đến trÌnh độ sơ đẳng của khoa Tử vi. MÀ chỉ tÌm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử vÀ Trung quốc sử về khoa nÀy. Những thư tịch mÀ tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh lÀ những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đÂy. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương ĐÀi bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trÌnh bầy ra đÂy để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh nÀy còn dám viết sách lịch Tử vi vÀo đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐôNG
I.Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ rÀng. Căn cứ vÀo bộ Tử vi Đại toÀn do các văn thần nhÀ Thanh dÂng lên cho vua CÀn Long (1736-1796) vÀo niên hiệu CÀn Long thứ 41, bÀi tựa có chép:…”Bọn thần vÂng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vÀo niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau TÂy lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần ĐoÀn ở núi Phú Sơn vÀo chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toÀn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thÌ khoa Tử vi có từ trước năm 963 lÀ năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vÀo cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh vÀ đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau nÀy ông được tôn lÀ Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhÀ Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh vÀ Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mÀ Hi Di tiên sinh biết trước sau nÀy hai người con của Tống Thái Hậu lÀm vua:
…”Cuối đời Hậu ChÂu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ vÀ Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn vÀ Khuông Nghĩa) vÀo hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thÌ gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
-BÀ phúc đức lắm hai người con sau nÀy đều lÀ đấng minh quÂn bÌnh thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
-NgÀi nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đÂy. NgÀi có gÌ cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
-Sau nÀy hai con bÀ đều lÀm vua bÀ thiếu gÌ dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn nÀy của bÀ cả. BÂy giờ bÀ bán cho tôi hòn núi nÀy đi, để lấy 10 lượng vÀng mÀ tiêu.
Thái hậu đồng ý vÌ nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đÂu?
BÀ xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vÀo chiếc đũa bỏ vÀo ống đũa lÀm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vÀo niên hiệu CÀn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, vÀ nói rằng núi nÀy Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái Ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho lÀ bậc kỳ tÀi, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ vÀ văn thần võ tướng được ngÀi tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dÂng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoÀng tộc đều được học khoa nÀy, mỗi đời thêm vÀo các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mÀ dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II-Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra lÀm ba rõ rệt.
Vua CÀn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa nÀy tại Trung Hoa không phổ thông vÀ tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó lÀ:
-Phái Triệu Gia (con cháu nhÀ Tống),
-Phái HÀ Lạc (Học trò Hi Di tiên sinh đi về Bắc).
-Phái Âm Dương (Học trò Hi DI tiên sinh đi về Nam).
Sau đÂy chúng tôi xin lược trÌnh qua sự xuất hiện của các phái.
1-Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoÀng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoÀng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
-Chỉ truyền ho nhưng người thuộc tôn thất (Họ Triệu).
-Những người nÀo có tư chất thông minh mới được truyền.
-Nghiên cứu đến chỗ vi diệu, để dùng Tử vi trong việc sử dụng người. Tùy theo vận hạn mÀ mưu đại sự.
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhÀ Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhÀ Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu lÀ họ của nhÀ Tống mÀ gọi phái nÀy.
Sau đÂy lÀ một vÀi cÂu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ lÀ Trịnh Ân ra trấn cõi ngoÀi. NgÀi xem số thấy Trịnh ÂN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh Ân Thiên Tướng, Tướng quÂn thủ mệnh tại Tý. MÀ năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, NgÀi xuống chiếu gọi Trịnh Ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh Ân về kinh thÌ xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vÌ cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mÀ rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh Ân lÀ một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên lÀ ĐÀo Tam XuÂn, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang Ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam XuÂn vÂy hãm kinh đô, không cách thoát. HoÀng đệ lÀ Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
-Số của HoÀng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mÀ giết mất Trịnh Ân. BÂy giờ bị vÂy, tôi xem số của ĐÀo Tam XuÂn, Vũ khúc, Phá quÂn thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung TÀi Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đÂy không ai có thể thắng nÀng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nÀng lÀ khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoÀng huynh. Muốn lầm cho êm truyện nÀy, phải tuÂn theo điều kiện sau: Tam XuÂn có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tÌnh nhẹ dạ. Theo Tử vi thÌ chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quÂn, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quÂn. Tôi xin đề cử Cao HoÀi Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư vÀ Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục ĐÀo Tam XuÂn.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoÀi Đức thuyết phục ĐÀo tam XuÂn rút binh. Về sau con cháu Trịnh Ân phò nhÀ Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quÂn Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đÌnh tranh luận liên tiếp mấy ngÀy không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
-Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trÌ tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn lÀ chết. Nếu cử Đăng đi thÌ qua năm lại phải cử người khác.
-Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có HÌnh, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “HÌnh Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhÂn uy vũ trấn, động”. Nghĩa lÀ: Thiên hÌnh, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó lÀ cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. VÌ vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhÀ Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2-Phái HÀ Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra lÀm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi lÀ phái HÀ lạc. Họ thêm vÀo một số sao mới mÀ trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vÀo, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên TÀi, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vÀo 7 sao nữa thÀnh 12 sao.
Đa số người của phái nÀy dùng khoa Tử vi lÀm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. VÌ vậy lÂu ngÀy phái nÀy bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thÌ đÂu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai vÀ dạy thiếu nữa, thÌ hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trÌnh của phái nÀy còn chép trong bộ Tử vi Âm Dương chính nghĩa nam tông.
3-Phái Âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của Âm Dương sinh khắc ngũ hÀnh. Phía nÀy có khuyết điểm lÀ quá chú ý vÀo Âm Dương sinh khắc mÀ quên mất tinh yếu của khoa Tử vi lÀ Thiên văn. Đầu đời Mih một nhÂn vật quan trọng của phái nÀy lÀm quÂn sư cho Minh Thái Tổ. Đó lÀ Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái nÀy được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái nÀy rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thÀnh đạt cho lắm. Công phu của phái nÀy còn lưu truyền bộ Tử vi Âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhÀ Minh (1643), Lý tự Thanh đem quÂn đốt phá Bắc kinh, thÌ bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở VÂn Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ nÀy lọt vÀo tay các văn thần nhÀ Thanh.
4-Bộ Tử vi Đại toÀn
-Niên hiệu CÀn Long thứ 38 nhÀ Thanh, nhÀ Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vÀo bÀi bác mÌnh, chê bai Thanh triều lÀm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhÀ học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ DuÂn, lÀ việc trong viện Tử khố toÀn thơ. Công việc của viện lÀ tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hÀnh cho dÂn gian học. Bộ nÀy được gọi lÀ Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thÀnh bộ Tử vi Đại toÀn, gồm 9 cuốn như sau:
-Cuốn thứ nhứt: Bản nghiên cứu tổng quát, các bản chiếu biểu liên quan đến soạn thảo Tử vi đại toÀn. PhÀm lệ.
-Cuốn thứ nhÌ: Lịch sử khoa Tử vi Tiểu sử các nhÀ nghiên cứu Tử vi. Lịch sử các phái.
-Cuốn thứ ba: Nghiên cứu về khoa Thiên văn, ứng dụng vÀo Tử vi.
-Cuốn thứ tư: Cách an sao, an vận hạn, sao lưu niên.
-Cuốn thứ năm: Tính chất các sao.
-Cuốn thứ sáu: Đoán vận hạn, đoán 12 cung.
-Cuốn thứ bảy: Chú giải các bÀi phú của Hi Di tiên sinh, phái Triệu gia
-Cuốn thứ tám: Cử hiền, triệt ác (Căn cứ vÀo khoa Tử vi để cử người cho đúng, loại bỏ kẻ ác). Phá cách (Căn cứ vÀo số Tử vi để biết muốn hạ một người có số Tử vi thế nÀy thÌ lÀm sao).
-Cuốn thứ chín: Các lá số của danh nhÂn. Gồm 417 lá số với lời chú giải đầy đủ. Từ Chu Công, Thái Công, vua chúa, danh tướng phản tặc, văn thần, đạo gia trải qua các đời.
Đặc biệt cuốn thứ nhÌ có nói đến khoa Tử vi tại VN, lÀ công trÌnh nghiên cứu của nhÀ Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5-Khoa Tử vi Trung hoa ngÀy nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngÀy nay lại không thịnh hÀnh vÀ được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trÌnh bÀy trong một bÀi sau.
KHHB số 74G1
KHOA TỬ VI “THẦN SẦU “ ĐỜI NHÀ TRẦN
Chuyện kể trong sách Đông A di sự
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư đều lÀ tay Tử vi giỏi
Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn được truyền khoa Tử vi
Truyện ĐoÀn Nhữ HÀi vÀ số mạng rất lạ.
Các phái tử vi ở VN ngÀy nay.
Các cao thủ tử vi: Nguyễn Mạnh Bảo, Song An Đỗ Văn Lưu, Nguyễn Phát Lộc, HoÀng Quân, Nguyễn Văn Y, Việt Viêm Tử, Vân Điền Thái Thứ Lang.
Giáo sư Trần Quang Đông
KHOA TỬ VI TẠI VIỆT NAM
Khoa Tử vi truyền sang VN vÀo năm Đinh Tỵ (1.257) niên hiệu Nguyên – Phong thứ 7 đời Trần. Quan nhÀ Tống không chịu lệ thuộc nhÀ Nguyên sang xin nội thuộc VN. Trong số nÀy có HoÀng Bính mang 1200 người, tông thuộc xin theo vua Trần Thái Tôn. HoÀng Bính tiến cử con gái cho vua Trần, được phong lÀ Huệ túc phu nhân. HoÀng Bính có mang theo hai bộ sách Tử vi rất quí giá, đó lÀ bộ “Tử vi chính nghĩa” vÀ bộ “Triệu Thị Minh thuyết Tử vi kinh”. HoÀng Bính truyền khoa Tử vi cho ba người: “Một lÀ vua Trần Thái Tôn (như vậy vua Thái Tôn lÀ con rể của HoÀng Bính) hai lÀ Hưng Đạo Vương, ba lÀ Huệ túc phu nhân. Nhưng trong đời Trần có rất nhiều nhÀ nghiên cứu Tử vi thÀnh danh, hơn cả HoÀng Bính. Trong sách Đông A di sự kể lại những nhÀ nghiên cứu Tử vi đời Trần nổi tiếng lÀ: Chiêu minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật, Hưng nhượng vương Trần Quốc Tảng (Xin đừng lầm với HoÀi văn hầu Quốc Toản lÀ người bóp bẹp quả cam), Nhân huệ vương Trần khánh Dư, vÀ cháu nội Chiêu minh vương lÀ Trần nguyên Đán. Các công trình nghiên cứu của họ Trần được chép thÀnh bộ “Đông A di sự”. Đông A di sự lÀ bộ sách chép tất cả những gì xẩy ra trong đời Trần, nhưng đến nay bị thất truyền, chỉ còn phần chép về Tử vi lÀ còn lại, do con cháu nhÀ Trần lưu giữ (Chữ Đông với chữ A ghép thÀnh chữ Trần).
Phần cuối cùng của sách có chép: Năm Ất Sửu, niên hiệu Xương phù thứ 9 (1386) quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán tính số Tử vi thấy Thái thượng HoÀng Nghệ Tôn có Vũ Phá thủ mệnh, coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như ruột gan chắc chắn sẽ nghe Lê Quý Ly mÀ giết vua Trần Đế Nghiễn, thấy Quí Ly có Tử Phá thủ mệnh tại Mùi, biết y sẽ cướp ngồi, vÀ nhÀ Trần mất. Muốn bảo toÀn lấy giòng giống, ông kết thông gia với Quí Ly, rồi bỏ quan về ở ẩn. ông sáng tác rất nhiều thơ, chép thÀnh tập. Con rể ông lÀ Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại ông lÀ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi sưu tập thơ của ông, chú giải đặt tên lÀ Băng hồ thi tập (Băng Hồ lÀ tên hiệu của Trần Nguyên Đán). BÀi tựa Nguyễn Trãi viết nhan đề lÀ Băng Hồ di sự lục.
Công phu nghiên cứu Tử vi của nhÀ Trần được truyền qua Nguyễn Trãi. Một số con cháu nhÀ Trần khi thấy Lê Quý Ly cướp ngôi, mai danh ẩn tích đổi họ, sống trong dân gian, nhờ vậy bộ Đông A di sự còn được lưu truyền đến ngÀy nay.
Trong bộ Đong A di sự, ngoÀi việc chép công trình nghiên cứu Tử vi, còn chép rất nhiều lá số của các danh nhân đời Trần. Căn cứ vÀo đây ta có thể biết rõ ngÀy sanh tử của các vị nÀy
Chuyện kể trong sách Đông A di sự
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư đều lÀ tay Tử vi giỏi
Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn được truyền khoa Tử vi
Truyện ĐoÀn Nhữ HÀi vÀ số mạng rất lạ.
Các phái tử vi ở VN ngÀy nay.
Các cao thủ tử vi: Nguyễn Mạnh Bảo, Song An Đỗ Văn Lưu, Nguyễn Phát Lộc, HoÀng Quân, Nguyễn Văn Y, Việt Viêm Tử, Vân Điền Thái Thứ Lang.
Giáo sư Trần Quang Đông
KHOA TỬ VI TẠI VIỆT NAM
Khoa Tử vi truyền sang VN vÀo năm Đinh Tỵ (1.257) niên hiệu Nguyên – Phong thứ 7 đời Trần. Quan nhÀ Tống không chịu lệ thuộc nhÀ Nguyên sang xin nội thuộc VN. Trong số nÀy có HoÀng Bính mang 1200 người, tông thuộc xin theo vua Trần Thái Tôn. HoÀng Bính tiến cử con gái cho vua Trần, được phong lÀ Huệ túc phu nhân. HoÀng Bính có mang theo hai bộ sách Tử vi rất quí giá, đó lÀ bộ “Tử vi chính nghĩa” vÀ bộ “Triệu Thị Minh thuyết Tử vi kinh”. HoÀng Bính truyền khoa Tử vi cho ba người: “Một lÀ vua Trần Thái Tôn (như vậy vua Thái Tôn lÀ con rể của HoÀng Bính) hai lÀ Hưng Đạo Vương, ba lÀ Huệ túc phu nhân. Nhưng trong đời Trần có rất nhiều nhÀ nghiên cứu Tử vi thÀnh danh, hơn cả HoÀng Bính. Trong sách Đông A di sự kể lại những nhÀ nghiên cứu Tử vi đời Trần nổi tiếng lÀ: Chiêu minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật, Hưng nhượng vương Trần Quốc Tảng (Xin đừng lầm với HoÀi văn hầu Quốc Toản lÀ người bóp bẹp quả cam), Nhân huệ vương Trần khánh Dư, vÀ cháu nội Chiêu minh vương lÀ Trần nguyên Đán. Các công trình nghiên cứu của họ Trần được chép thÀnh bộ “Đông A di sự”. Đông A di sự lÀ bộ sách chép tất cả những gì xẩy ra trong đời Trần, nhưng đến nay bị thất truyền, chỉ còn phần chép về Tử vi lÀ còn lại, do con cháu nhÀ Trần lưu giữ (Chữ Đông với chữ A ghép thÀnh chữ Trần).
Phần cuối cùng của sách có chép: Năm Ất Sửu, niên hiệu Xương phù thứ 9 (1386) quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán tính số Tử vi thấy Thái thượng HoÀng Nghệ Tôn có Vũ Phá thủ mệnh, coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như ruột gan chắc chắn sẽ nghe Lê Quý Ly mÀ giết vua Trần Đế Nghiễn, thấy Quí Ly có Tử Phá thủ mệnh tại Mùi, biết y sẽ cướp ngồi, vÀ nhÀ Trần mất. Muốn bảo toÀn lấy giòng giống, ông kết thông gia với Quí Ly, rồi bỏ quan về ở ẩn. ông sáng tác rất nhiều thơ, chép thÀnh tập. Con rể ông lÀ Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại ông lÀ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi sưu tập thơ của ông, chú giải đặt tên lÀ Băng hồ thi tập (Băng Hồ lÀ tên hiệu của Trần Nguyên Đán). BÀi tựa Nguyễn Trãi viết nhan đề lÀ Băng Hồ di sự lục.
Công phu nghiên cứu Tử vi của nhÀ Trần được truyền qua Nguyễn Trãi. Một số con cháu nhÀ Trần khi thấy Lê Quý Ly cướp ngôi, mai danh ẩn tích đổi họ, sống trong dân gian, nhờ vậy bộ Đông A di sự còn được lưu truyền đến ngÀy nay.
Trong bộ Đong A di sự, ngoÀi việc chép công trình nghiên cứu Tử vi, còn chép rất nhiều lá số của các danh nhân đời Trần. Căn cứ vÀo đây ta có thể biết rõ ngÀy sanh tử của các vị nÀy
thanh giang - Nov 30, 2011 8:38 PM
KHOA TỬ VI VN NGÀY NAY
a)Các thư tịch còn lại
Điểm qua các sách ta thấy:
-Phái Triệu gia thừa hưởng chính thư của Tống Thái Tổ do Hi Di truyền lại. Trải qua các đời còn lưu giữ được nguyên vnej Phái nÀy có bộ “Triệu Thị Minh – Tuyết Tử vi kinh”. Cuối đời Tống bộ “Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi Kinh”, vÀ bộ “Tử vi tinh nghĩa” được HoÀng Bính truyền sang cho con cháu nhÀ Trần. Con cháu nhÀ Trần nghiên cứu thêm, chép thÀnh bộ “Đông A Di sự”
-Bộ “Đông A di sự” bị nhÀ Minh mang về Trung hoa. NhÀ Thanh căn cứ vÀo bộ:
-Tử vi tinh nghĩa
-Triệu thị Minh Thuyết tử vi kinh
-Đông A di sự
MÀ chép thÀnh bộ Tử vi Đại toÀn.
Các bộ sách trên đây được coi lÀ chính thư. Học rất mau hiểu vÀ đoán rất chính xác. Hiện nay một số con cháu họ Trần ở Nam Định di cư vÀo Nam, còn lưu truyền bộ Đông A di sự. Nhưng vì bộ nÀy không chép riêng khoa Tử vi, mÀ còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần, nên không mấy người được đọc. Bộ nÀy thực lÀ quý báu.
-Một số nhÀ nghiên cứu Tử vi ở VN, hiện tại lÀ nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách thực nhiều vô kể. Nhưng xét kỹ thì bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.
b)Sự khác nhau giữa chính thư vÀ tạp thư
-Về cách an sao: Như sao Hỏa tinh, Linh tinh phái HÀ lạc. âm Dương căn cứ vÀo Năm rồi lại căn cứ vÀo Tháng, Giờ mÀ an. Trong khi phái Triệu, Trần, Thanh lại chỉ căn cứ vÀo năm mÀ thôi.
Như sao Khôi, Việt, chính thư an ở Dần, Ngọ, cho tuổi Tân mÀ thôi. Tạp thư lại đi an cả cho các tuổi Canh nữa. Vòng Trường sinh chính thư vÀ phái âm Dương an ở bốn cung Thân, Hợi, Dần, Tỵ. Trong khi phái HÀ lạc lại đi an cả ở bốn cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu nữa. (Cung khởi cho sao Trường Sinh).
-Phái HÀ Lạc thêm vÀo rất nhiều sao nữa như đã nói ở trên.
-Về tính chất, vận hạn: Phải công nhận chính thư đúng, chính xác nhất. Những bÀi phú đoán văn chương, uẩn súc vô cùng của các vua nhÀ Tống của các vua nhÀ Trần còn lưu lại. Còn những câu phú của tạp thư có lẽ người Tầu họ cũng không thÀnh thực với nhau nên đã sửa đổi, thêm bớt đi khá nhiều.
Thí dụ: tính chất của sao Liêm Trinh, vÀ Tham Lang tại Tị, Hợi:
-Tạp thư ghi: Liêm Tham Tị Hợi hình ngục nan đÀo (Mệnh lập tại Tị, Hợi mÀ có sao Liêm Tham thủ thì thế nÀo cũng bị tù).
-Chính thư lại nói khác:
Liêm, Tham Tị Hợi tứ Sát hình trượng nan đÀo.
Nhược Bính Quí nhân chung thân khất cái.
Giáp Mậu Kỷ tuế vĩnh thế vô ưu
Nghĩa lÀ: Mệnh Liêm Tham lập tại Tị Hợi mÀ có tứ Sát mới bị tù.
Người tuổi Bính, Quí còn lang thang ăn mÀy cả đời. Người tuổi Giáp, Mậu, Kỉ thì cả đời vô lo (Sách Đông A di sự còn chú giải thêm: Tuổi Bính Quí bị thêm ĐÀ la, Kình dương, Hóa kị nên ăn mÀy, Tuổi Giáp có Hóa Lộc, tuổi Mậu Kỷ có Hóa Quyền thì tốt lắm).
Chỉ một câu trên ta thấy tạp thư bị cắt xóa đi nhiều. Nếu chép đầy đủ những dị biệt của hai phái ra phải mất vÀi ngÀn trang giấy.
c)Các nhÀ nghiên cứu Tử vi ngÀy nay
Theo chỗ chúng tôi biết, thì chưa có nhÀ nghiên cứu Tử vi nÀo đi đoán lấy tiền mÀ đoán cho ra hồn. Hầu hết học qua loa rồi đi bịp đời lÀm giầu mÀ thôi. Những nhÀ nghiên cứu đến nơi đến chốn họ thường khó tính, khi xem cho ai, tốt thì họ nói tốt, xấu thì họ nói xấu. Nên thường lÀm phật lòng thân chủ mÀ không cần chú ý. Hơn nữa những vị nÀy thường có địa vị nên đâu phải ai cũng nhờ họ coi dùm được, họ rất bận rộn.
Hiện VN có những nhÀ nghiên cứu thÀnh danh sau đây, đều không mở tiệm lấy tiền vÀ có địa vị khá ngoÀi xã hội:
-Nguyễn Mạnh Bảo (Kiến trúc sư)
-Đỗ Văn Lưu (tức Song An)
-Nguyễn Phát Lộc
-HoÀng Quân (giáo sư, ký giả)
-Nguyễn Văn Y (đại tá, cựu Tổng giám đốc CSCA).
-Việt Viêm Tử (học giả)
-Vân điền Thái Thứ Lang (Tu sĩ).
1-ông Nguyễn Mạnh Bảo: LÀ một kiến trúc sư, uyên thâm cổ học. Đem phương pháp chú giải sách Tây phương ra nghiên cứu Dịch kinh, Tử vi. ông chú giải sưu tầm tất cả công trình của hệ phái cụ bảng Đôn, tức lÀ phái âm Dương Trung hoa. Nhưng ông không chú giải kỹ nên kẻ nÀo mới vÀo nghề đọc sách của ông rất nhức đầu. ông bận rộn nhiều việc nên công trình của ông bỏ lửng. Công trình nghiên cứu của ông, được nhiều người ngoại quốc chú ý, vÀ sưu khảo. Phải nói rằng ông lÀm cho người ngoại quốc biết đến Tử vi VN vậy.
2-ông Đỗ Văn Lưu tức Song An: Con nuôi họ Trần ở Nam Định nên học được một phần của bộ Đông A di sự. Nổi tiếng từ năm 1930 tại Nam Định. ông có trước tác nhiều sách Tử vi. Nhưng vì ông không được truyền hết bộ Đông A di sự, nên tác phẩm của ông chưa đến chỗ tuyệt hảo. ông mất năm 1962 tại Vũng Tầu. ông không có con trai, nên kinh nghiệm của ông bị mất đi, thực đáng tiếc.
3-ông Việt Viêm Tử còn có tên lÀ HÀ lạc dã phu (Gã nhÀ quê nghiên cứu về HÀ lạc). Công trình nghiên cứu của ông nằm trọn trong bộ “Tử vi áo bí”. Đọc sơ qua cũng thấy ông trong phái HÀ lạc trung hoa. Bộ sách của ông có nhiều khuyết điểm vì nó có nhiều chỗ bị sai lạc, vÀ nhất lÀ điểm bắt độc giả phải chấp nhận những điều không hiểu tại sao. Trong khi khoa Tử vi có thể giải thích được. Hình như sách của ông do hai người viết, vì có nhiều đoạn hÀnh văn rõ ra người tân học, vÀ có đoạn lại hÀnh văn ra người cổ học. Sách của ông có nhiều đoạn dÀi dòng vô ích, như cách tìm Cục, tìm sao Tử vi, chỗ giải thích lôi thôi về âm Dương ngũ hÀnh. Nhưng sách của ông giới mới học rất thích.
Bốn nhÀ nghiên cứu trên đây nổi tiếng nhờ tác phẩm. Song 3 nhÀ nghiên cứu sau đây mới lÀ ba nhÀ nghiên cứu tinh vi, vÀ nổi tiếng nhờ tÀi giải đoán, dạy học trò: Nguyễn Phát Lộc, Nguyễn Văn Y vÀ HoÀng Quân. Ba người đều có địa vị lớn vÀ có dịp tiếp xúc với các danh nhân. Cả ba đều khó tính, vÀ hay nói thực lÀm mất lòng người nhờ coi, mặc dầu sự giải đoán đúng 100%.
4-Đại tá Nguyễn Văn Y: Cựu Tổng giám đốc CSCA hồi đệ nhất Cộng hòa. ông lớn tuổi, địa vị cao, ở vÀ tư thế đặc biệt, nên ông liếc mắt qua lÀ thấy một lá số nÀo bị: mất cắp, ở tù, bị lừa, bị đánh, bị cướp, bị bỏ, bị chết,…Hình như 100 lá số ông đoán trúng cả 100.
Người nghiên cứu tử vi lấy lÀm lạ lÀ ông không mấy chú ý đến phá cách, mÀ đáng lẽ ở địa vị của ông phải coi lÀ chính. Công trình nghiên cứu của ông hình như thuộc phái âm Dương, nhưng ông không quá chú ý vÀo lẽ âm Dương. Đưa một lá số của người bị tù ra hỏi ông, ông có thể đọc cho năm bị tù, bao lâu vÀ bao giờ được tha. Nhưng đưa một lá số của một người có địa vị ra hỏi ông rằng người đó đang mê muội, lÀm sao cho hết thì ông không quen.
5-Giáo sư HoÀng Quân: còn lÀ ký giả (Saigon có 2 HoÀng Quân). Một HoÀng Quân người Nam, không biết Tử vi cũng lÀ ký giả, lớn tuổi. Một lÀ HoÀng Quân trung niên, họ Trần, vì tránh tên cố Đại tá Trần HoÀng Quân nên ông bỏ họ đi Giòng giõi Hưng Đạo Vương, nên ông được thừa hưởng công trình của phái Đông A. ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm vÀ đậu cử nhân văn khoa, sau khi du học về báo chi. ông lÀm việc cho cơ quan nghiên cứu Đông á Châu, nên còn có đủ sách của các phái khác (?) Nhờ vÀo vị trí lÀm đại diện cho vÀi cơ quan nghiên cứu vÀ báo chí ngoại quốc nên ông có dịp tiếp xúc với hầu hết danh nhân đương thời, do đó ông đoán về bước thăng trầm danh vọng rất trúng. Cầm một lá số của vị Tướng, ông đọc được năm nÀo thăng cấp, năm nÀo bị phạt, bị thương, bị mất chức trong suốt đời binh nghiệp. Song ông chú ý đến phá cách nhiều hơn. Cầm một lá số của một thân chủ nÀo đó ông có thể trả lời ngay cho biết muốn lÀm cho đương số nghiêng ngửa thì dùng loại người nÀo vÀ cách dùng nÀo. Công trình nghiên cứu của ông độ 6000 trang in offset vÀ không phổ biến cho ai ngoÀi thân hữu vÀ huyết tộc.
-ông Nguyễn Phát Lộc: Giữ một trọng trách quan trọng, lÀ một bác học đa năng, ông đã trước tác một cuốn sách Tử vi. Song sách không phải lÀ đại diện cho công trình nghiên cứu của ông. Công trình của ông không nhất thiết theo phái nÀo. Song coi kỹ thì cách an sao của ông lại theo phái âm Dương, trong khi tính chất các sao khi thì có vẻ như phái Đông A, khi thì có vẻ như phái âm Dương. ông được mời lÀm giảng viên trường Đại học Chiến tranh chính trị về khoa Tử vi, nên công trình của ông có nhiều ảnh hưởng trong tương lai vÀo lớp người sau.
7-Vân Điền thái Thứ Lang: lÀ một Đại đức, tu tại ĐÀ lạt. ông có trước tác cuốn sách mang tựa đề “Tử vi đẩu số tân biên”. Cuốn nÀy của ông trình bÀy rất có phương pháp, mạch lạc. Đọc qua sách của ông, thấy ngay ông ảnh hưởng hai phái:
-Một lÀ phái âm Dương qua cụ Lê Quý Đôn.
-Hai lÀ bộ Đông A di sự.
ông qua đời trong một tai nạn xe hơi trên đường ĐÀ lạt Saigon.
V-Kết luận
Trên đây chúng tôi đã trình bầy sơ sÀi về khoa Tử vi ở VN để hướng dẫn những vị nÀo có trí thông minh, có sức kiên nhẫn muốn tìm hiểu khoa nÀy. Quí vị cứ thử nghiên cứu đi sẽ thấy mình mê ngay khoa nÀy. VÀ bấy giờ mới tỉnh ngộ: Hỡi ơi, mấy tên thầy bói nói láo bịp đời trong khi chẳng biết cái gì cả. Nếu độc giả nÀo không sợ bị sự thực mất lòng, thử tìm đến một trong ba nhÀ nghiên cứu trên mÀ xem, tôi xin cam đoan các bị đó sẽ nói đúng mọi sự quá khứ vị lai ra. Nhưng lÀm thế nÀo để quen được với các vị lÀ một điều khó (Tôi xin mách: Muốn tới Đại tá Y thì nên để cho người nÀo mÀ thân nhân có tai nạn hỏi xem có bị tù không? Tù bao lâu? Bao giờ tù? Bao giờ ra tù? Tới ông Nguyễn Phát Lộc thì các vị cứ nói rằng nghe tiếng nay có sự đến xin chỉ dẫn. Tới giáo sư HoÀng Quân thì nhờ mấy tờ báo lÀm trung gian (Tôi xin dặn trước rằng cả ba người đều ở vÀo địa vị nhiều tiền danh vọng cao…Xin chớ nói đến trả thù lao mÀ bị mắng liền).
KHHB số 74G2
a)Các thư tịch còn lại
Điểm qua các sách ta thấy:
-Phái Triệu gia thừa hưởng chính thư của Tống Thái Tổ do Hi Di truyền lại. Trải qua các đời còn lưu giữ được nguyên vnej Phái nÀy có bộ “Triệu Thị Minh – Tuyết Tử vi kinh”. Cuối đời Tống bộ “Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi Kinh”, vÀ bộ “Tử vi tinh nghĩa” được HoÀng Bính truyền sang cho con cháu nhÀ Trần. Con cháu nhÀ Trần nghiên cứu thêm, chép thÀnh bộ “Đông A Di sự”
-Bộ “Đông A di sự” bị nhÀ Minh mang về Trung hoa. NhÀ Thanh căn cứ vÀo bộ:
-Tử vi tinh nghĩa
-Triệu thị Minh Thuyết tử vi kinh
-Đông A di sự
MÀ chép thÀnh bộ Tử vi Đại toÀn.
Các bộ sách trên đây được coi lÀ chính thư. Học rất mau hiểu vÀ đoán rất chính xác. Hiện nay một số con cháu họ Trần ở Nam Định di cư vÀo Nam, còn lưu truyền bộ Đông A di sự. Nhưng vì bộ nÀy không chép riêng khoa Tử vi, mÀ còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần, nên không mấy người được đọc. Bộ nÀy thực lÀ quý báu.
-Một số nhÀ nghiên cứu Tử vi ở VN, hiện tại lÀ nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách thực nhiều vô kể. Nhưng xét kỹ thì bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.
b)Sự khác nhau giữa chính thư vÀ tạp thư
-Về cách an sao: Như sao Hỏa tinh, Linh tinh phái HÀ lạc. âm Dương căn cứ vÀo Năm rồi lại căn cứ vÀo Tháng, Giờ mÀ an. Trong khi phái Triệu, Trần, Thanh lại chỉ căn cứ vÀo năm mÀ thôi.
Như sao Khôi, Việt, chính thư an ở Dần, Ngọ, cho tuổi Tân mÀ thôi. Tạp thư lại đi an cả cho các tuổi Canh nữa. Vòng Trường sinh chính thư vÀ phái âm Dương an ở bốn cung Thân, Hợi, Dần, Tỵ. Trong khi phái HÀ lạc lại đi an cả ở bốn cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu nữa. (Cung khởi cho sao Trường Sinh).
-Phái HÀ Lạc thêm vÀo rất nhiều sao nữa như đã nói ở trên.
-Về tính chất, vận hạn: Phải công nhận chính thư đúng, chính xác nhất. Những bÀi phú đoán văn chương, uẩn súc vô cùng của các vua nhÀ Tống của các vua nhÀ Trần còn lưu lại. Còn những câu phú của tạp thư có lẽ người Tầu họ cũng không thÀnh thực với nhau nên đã sửa đổi, thêm bớt đi khá nhiều.
Thí dụ: tính chất của sao Liêm Trinh, vÀ Tham Lang tại Tị, Hợi:
-Tạp thư ghi: Liêm Tham Tị Hợi hình ngục nan đÀo (Mệnh lập tại Tị, Hợi mÀ có sao Liêm Tham thủ thì thế nÀo cũng bị tù).
-Chính thư lại nói khác:
Liêm, Tham Tị Hợi tứ Sát hình trượng nan đÀo.
Nhược Bính Quí nhân chung thân khất cái.
Giáp Mậu Kỷ tuế vĩnh thế vô ưu
Nghĩa lÀ: Mệnh Liêm Tham lập tại Tị Hợi mÀ có tứ Sát mới bị tù.
Người tuổi Bính, Quí còn lang thang ăn mÀy cả đời. Người tuổi Giáp, Mậu, Kỉ thì cả đời vô lo (Sách Đông A di sự còn chú giải thêm: Tuổi Bính Quí bị thêm ĐÀ la, Kình dương, Hóa kị nên ăn mÀy, Tuổi Giáp có Hóa Lộc, tuổi Mậu Kỷ có Hóa Quyền thì tốt lắm).
Chỉ một câu trên ta thấy tạp thư bị cắt xóa đi nhiều. Nếu chép đầy đủ những dị biệt của hai phái ra phải mất vÀi ngÀn trang giấy.
c)Các nhÀ nghiên cứu Tử vi ngÀy nay
Theo chỗ chúng tôi biết, thì chưa có nhÀ nghiên cứu Tử vi nÀo đi đoán lấy tiền mÀ đoán cho ra hồn. Hầu hết học qua loa rồi đi bịp đời lÀm giầu mÀ thôi. Những nhÀ nghiên cứu đến nơi đến chốn họ thường khó tính, khi xem cho ai, tốt thì họ nói tốt, xấu thì họ nói xấu. Nên thường lÀm phật lòng thân chủ mÀ không cần chú ý. Hơn nữa những vị nÀy thường có địa vị nên đâu phải ai cũng nhờ họ coi dùm được, họ rất bận rộn.
Hiện VN có những nhÀ nghiên cứu thÀnh danh sau đây, đều không mở tiệm lấy tiền vÀ có địa vị khá ngoÀi xã hội:
-Nguyễn Mạnh Bảo (Kiến trúc sư)
-Đỗ Văn Lưu (tức Song An)
-Nguyễn Phát Lộc
-HoÀng Quân (giáo sư, ký giả)
-Nguyễn Văn Y (đại tá, cựu Tổng giám đốc CSCA).
-Việt Viêm Tử (học giả)
-Vân điền Thái Thứ Lang (Tu sĩ).
1-ông Nguyễn Mạnh Bảo: LÀ một kiến trúc sư, uyên thâm cổ học. Đem phương pháp chú giải sách Tây phương ra nghiên cứu Dịch kinh, Tử vi. ông chú giải sưu tầm tất cả công trình của hệ phái cụ bảng Đôn, tức lÀ phái âm Dương Trung hoa. Nhưng ông không chú giải kỹ nên kẻ nÀo mới vÀo nghề đọc sách của ông rất nhức đầu. ông bận rộn nhiều việc nên công trình của ông bỏ lửng. Công trình nghiên cứu của ông, được nhiều người ngoại quốc chú ý, vÀ sưu khảo. Phải nói rằng ông lÀm cho người ngoại quốc biết đến Tử vi VN vậy.
2-ông Đỗ Văn Lưu tức Song An: Con nuôi họ Trần ở Nam Định nên học được một phần của bộ Đông A di sự. Nổi tiếng từ năm 1930 tại Nam Định. ông có trước tác nhiều sách Tử vi. Nhưng vì ông không được truyền hết bộ Đông A di sự, nên tác phẩm của ông chưa đến chỗ tuyệt hảo. ông mất năm 1962 tại Vũng Tầu. ông không có con trai, nên kinh nghiệm của ông bị mất đi, thực đáng tiếc.
3-ông Việt Viêm Tử còn có tên lÀ HÀ lạc dã phu (Gã nhÀ quê nghiên cứu về HÀ lạc). Công trình nghiên cứu của ông nằm trọn trong bộ “Tử vi áo bí”. Đọc sơ qua cũng thấy ông trong phái HÀ lạc trung hoa. Bộ sách của ông có nhiều khuyết điểm vì nó có nhiều chỗ bị sai lạc, vÀ nhất lÀ điểm bắt độc giả phải chấp nhận những điều không hiểu tại sao. Trong khi khoa Tử vi có thể giải thích được. Hình như sách của ông do hai người viết, vì có nhiều đoạn hÀnh văn rõ ra người tân học, vÀ có đoạn lại hÀnh văn ra người cổ học. Sách của ông có nhiều đoạn dÀi dòng vô ích, như cách tìm Cục, tìm sao Tử vi, chỗ giải thích lôi thôi về âm Dương ngũ hÀnh. Nhưng sách của ông giới mới học rất thích.
Bốn nhÀ nghiên cứu trên đây nổi tiếng nhờ tác phẩm. Song 3 nhÀ nghiên cứu sau đây mới lÀ ba nhÀ nghiên cứu tinh vi, vÀ nổi tiếng nhờ tÀi giải đoán, dạy học trò: Nguyễn Phát Lộc, Nguyễn Văn Y vÀ HoÀng Quân. Ba người đều có địa vị lớn vÀ có dịp tiếp xúc với các danh nhân. Cả ba đều khó tính, vÀ hay nói thực lÀm mất lòng người nhờ coi, mặc dầu sự giải đoán đúng 100%.
4-Đại tá Nguyễn Văn Y: Cựu Tổng giám đốc CSCA hồi đệ nhất Cộng hòa. ông lớn tuổi, địa vị cao, ở vÀ tư thế đặc biệt, nên ông liếc mắt qua lÀ thấy một lá số nÀo bị: mất cắp, ở tù, bị lừa, bị đánh, bị cướp, bị bỏ, bị chết,…Hình như 100 lá số ông đoán trúng cả 100.
Người nghiên cứu tử vi lấy lÀm lạ lÀ ông không mấy chú ý đến phá cách, mÀ đáng lẽ ở địa vị của ông phải coi lÀ chính. Công trình nghiên cứu của ông hình như thuộc phái âm Dương, nhưng ông không quá chú ý vÀo lẽ âm Dương. Đưa một lá số của người bị tù ra hỏi ông, ông có thể đọc cho năm bị tù, bao lâu vÀ bao giờ được tha. Nhưng đưa một lá số của một người có địa vị ra hỏi ông rằng người đó đang mê muội, lÀm sao cho hết thì ông không quen.
5-Giáo sư HoÀng Quân: còn lÀ ký giả (Saigon có 2 HoÀng Quân). Một HoÀng Quân người Nam, không biết Tử vi cũng lÀ ký giả, lớn tuổi. Một lÀ HoÀng Quân trung niên, họ Trần, vì tránh tên cố Đại tá Trần HoÀng Quân nên ông bỏ họ đi Giòng giõi Hưng Đạo Vương, nên ông được thừa hưởng công trình của phái Đông A. ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm vÀ đậu cử nhân văn khoa, sau khi du học về báo chi. ông lÀm việc cho cơ quan nghiên cứu Đông á Châu, nên còn có đủ sách của các phái khác (?) Nhờ vÀo vị trí lÀm đại diện cho vÀi cơ quan nghiên cứu vÀ báo chí ngoại quốc nên ông có dịp tiếp xúc với hầu hết danh nhân đương thời, do đó ông đoán về bước thăng trầm danh vọng rất trúng. Cầm một lá số của vị Tướng, ông đọc được năm nÀo thăng cấp, năm nÀo bị phạt, bị thương, bị mất chức trong suốt đời binh nghiệp. Song ông chú ý đến phá cách nhiều hơn. Cầm một lá số của một thân chủ nÀo đó ông có thể trả lời ngay cho biết muốn lÀm cho đương số nghiêng ngửa thì dùng loại người nÀo vÀ cách dùng nÀo. Công trình nghiên cứu của ông độ 6000 trang in offset vÀ không phổ biến cho ai ngoÀi thân hữu vÀ huyết tộc.
-ông Nguyễn Phát Lộc: Giữ một trọng trách quan trọng, lÀ một bác học đa năng, ông đã trước tác một cuốn sách Tử vi. Song sách không phải lÀ đại diện cho công trình nghiên cứu của ông. Công trình của ông không nhất thiết theo phái nÀo. Song coi kỹ thì cách an sao của ông lại theo phái âm Dương, trong khi tính chất các sao khi thì có vẻ như phái Đông A, khi thì có vẻ như phái âm Dương. ông được mời lÀm giảng viên trường Đại học Chiến tranh chính trị về khoa Tử vi, nên công trình của ông có nhiều ảnh hưởng trong tương lai vÀo lớp người sau.
7-Vân Điền thái Thứ Lang: lÀ một Đại đức, tu tại ĐÀ lạt. ông có trước tác cuốn sách mang tựa đề “Tử vi đẩu số tân biên”. Cuốn nÀy của ông trình bÀy rất có phương pháp, mạch lạc. Đọc qua sách của ông, thấy ngay ông ảnh hưởng hai phái:
-Một lÀ phái âm Dương qua cụ Lê Quý Đôn.
-Hai lÀ bộ Đông A di sự.
ông qua đời trong một tai nạn xe hơi trên đường ĐÀ lạt Saigon.
V-Kết luận
Trên đây chúng tôi đã trình bầy sơ sÀi về khoa Tử vi ở VN để hướng dẫn những vị nÀo có trí thông minh, có sức kiên nhẫn muốn tìm hiểu khoa nÀy. Quí vị cứ thử nghiên cứu đi sẽ thấy mình mê ngay khoa nÀy. VÀ bấy giờ mới tỉnh ngộ: Hỡi ơi, mấy tên thầy bói nói láo bịp đời trong khi chẳng biết cái gì cả. Nếu độc giả nÀo không sợ bị sự thực mất lòng, thử tìm đến một trong ba nhÀ nghiên cứu trên mÀ xem, tôi xin cam đoan các bị đó sẽ nói đúng mọi sự quá khứ vị lai ra. Nhưng lÀm thế nÀo để quen được với các vị lÀ một điều khó (Tôi xin mách: Muốn tới Đại tá Y thì nên để cho người nÀo mÀ thân nhân có tai nạn hỏi xem có bị tù không? Tù bao lâu? Bao giờ tù? Bao giờ ra tù? Tới ông Nguyễn Phát Lộc thì các vị cứ nói rằng nghe tiếng nay có sự đến xin chỉ dẫn. Tới giáo sư HoÀng Quân thì nhờ mấy tờ báo lÀm trung gian (Tôi xin dặn trước rằng cả ba người đều ở vÀo địa vị nhiều tiền danh vọng cao…Xin chớ nói đến trả thù lao mÀ bị mắng liền).
KHHB số 74G2
Bài viết rất hay, cảm ơn tác giả đã cho bạn đọc hiểu hơn về tử vi
Trả lờiXóa