Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 1
Thế là tôi đã bỏ nhà ra đi, từ giã người vợ ba mươi mốt năm xưa đã lấy theo chỉ thị. Tôi đã còn cuộc đời này bằng hai bàn tay trắng, và sắp tới sẽ trở về thế giới bên kia bằng sự trắng tay. Đầu vào và đầu ra, như vậy là huề. Cuộc đời đã tước đoạt của tôi cũng có nghĩa là tôi đã trả hết nợ nần trong suốt năm mươi tám năm sống nhạt nhẽo và dối trá.
Bây
giờ tôi đang ngồi trong một xó tối, dưới ánh đèn đỏ như đom đóm đực,
rọi xuống trang giấy cái bóng đèn dài như một cây sào đi biển của chiếc
bút bi. Nếu gọi chỗ tôi ngồi là căn phòng thì quả là một sự xúc phạm ngôn từ một cách ghê gớm. Nó là cái hầm chứa đồ cũ, tôi nì nèo xin xỏ mãi ông chủ tịch hội văn nghệ mới cho mượn. Như vậy là tốt với tôi lắm rồi, đủ trải một chiếc chiếu nằm, một cái bàn trà làm
bàn viết, vài ba cái ghế đầu, đặt cái bếp điện cùng một lũ ba bốn cái
niêu, cái chén đũa con. Gia tài của tôi chỉ độc chiếc vali đựng ít sách
vở bản thảo cùng mấy bộ quần áo tàng tàng. Tôi kê mấy hòn gạch lên để
biến cái vali thành cái bàn lý tưởng. Ngồi trên chiếc ghế đẩu, nghe gián
bay rào rào xung quanh, tôi hăm hở viết những dòng này, ngõ hầu được
trình bày với các bạn về kinh nghiệm thất bại của đời tôi, một kễ cầm
bút đã ít ra một lần bị đời rủa là bịp, là xạo. Chẳng nói giấu gì các bạn, trong ba chục năm qua, tôi đã được in hàng chục cuốn sách. Có khi tôi còn được người ta tung hô là nhà văn lớn, một tài năng hiếm có về sự minh họa đường lối chính sách.
Nhưng tại sao bây giờ tôi lại cho rằng những tác phẩm đã được báo chí lăng-xê kia chẳng qua chỉ là những cuốn sách cực dở? Ôi cay đắng cái thằng tôi là nhường nào khi phải nhắc lại câu nói người xưa văn mình, vợ người. Trong một trăm ông viết văn, có tới chín mươi chín ông tự cho mình là hay, là nhất. Chỉ có tôi tuyên bố văn chương mình là hạng bét mà thôi.
Dù
sao, tôi cũng cần phải cám ơn số phận. Rằng tôi một con thỏ năm mươi
tám tuổi vẫn còn được trời thương ban cho một tí mật gấu và tôi đã liều
mạng nuốt chửng cái ân huệ này.
Có thể bất cứ lúc nào công an văn hóa cũng sẽ gõ cửa phòng tôi: xin mời ông đi.
Vâng, tôi cũng đang chuẩn bị cho mình cái khả năng ngồi tù đây. Ba mươi
mốt năm qua, từ ngày gắn bó với bà ấy, gắn bó với nghề văn, tâm hồn tôi
rõ ràng đã phải ngồi tù.
Bây giờ đến lượt thể xác vào ngục Basti ấy thì có gì mà cuống cà kê lên. Chuyện đâu còn đó, tôi cứ viết đến khi nào người ta không cho tôi viết nữa. Vả lại, vào tù, biết đâu lại là chuyện hay cho tôi. Xưa nay, biết bao vĩ nhân đã phải ở tu. Bao nhiêu người đã trước tác trong gông xiềng để gởi lại hậu thế những trang văn thơ cao đẹp thấm đẫm tình người.
Tôi đã toan bẻ bút, vĩnh biệt cái nghề văn bạc bẽo sinh nghề tử nghiệp, xin hưu về quê làm cái anh cắm câu đơm lờ đặt đó, thậm chí đi hoạn lợn hay làm bõ coi chùa. Nhưng ông bạn Hai Giỡn can:
- Bậy, anh mà bẻ bút là tôi bẻ giò anh đó. Viết đi, chưa muộn đâu cha nội ơi.
Tôi biết Hai Giỡn từ ngày ông ra tập kết năm 1954 và đã thành bạn thân với tôi từ đó. Hai Giỡn ăn sóng nói gió thế thôi, chứ nếu tôi có về quê đơm đó hay hoạn lợn thiệt thì không những ông không bẻ giò tôi mà còn tìm mọi cách giúp đỡ tôi là đằng khác. Lúc ấy, tôi uống cạn ly rượu hỏi:
- Viết, hừ, từ năm 1955 đến nay, tôi chả viết khối ra là gì, đã ngốn của trời cả mấy chục tấn giấy để rốt cuộc chỉ gặt về toàn sự sỉ nhục đấy thôi. Giờ ông lại còn bắt tôi viết gì nữa nào Hai Giỡn?
- Viết về chính ông ấy.
- Đời tôi á, mười phần thì đã có tới chín phần dối trá rồi còn đâu mà viết với chả lách.
Hai Giỡn lên mặt dạy:
- Thì ông cứ trình bày sự dổi trá của mình một cách thành thực chính là văn chương đó Trần Hưng ạ. Hãy kể lại đời mình từ đầu chí cuối, chả cần bịa làm chó gì đã hay lắm rồi. Suốt ba mươi năm qua, ông đã bịa ra bao nhiêu chuyện nhưng vẫn chỉ là tô
vẽ theo ý đồ của kẻ khác, bất chấp sự thật, chỉ cốt để vừa lòng cấp
trên, hầu như chả có tí gan ruột máu huyết của mình trong đó cả. Đó là thứ văn chương xu thời, bẻ cong ngòi bút viết cho kẻ cầm quyền đọc chứ nào phải viết cho nhân dân.
Tôi biết, từ xưa đến nay, thời nào cũng nhan nhản bọn viết mướn, làm
cái thứ văn chương cung đình, cốt để vui cho vua chúa và quan lại chốc
lát. Ngày nay người ta gọi cái đám ăn theo a dua này bằng một cái tên
rất khó nghe là bồi bút. Hãy tha cho tôi Hai Giỡn ạ. Tôi không thích
viết nữa. Hình như lương tri đã từ bỏ tôi như tôi đã từ bỏ nó. Tôi đã
chán tất cả, muốn quên đi tất cả, về hưu hay vào tù với tôi bây giờ không có gì khác nhau.
- Vào tù, đỡ phải lo cơm Hai Giỡn ạ.
Hai Giỡn làm ra vẻ cực kỳ quan liêu quát:
-
Tù cái đếch á. Sao đầu hàng sớm quá vậy cha nội. Hãy cứu lại danh dự
của anh lần cuối cùng. Tôi cho anh một cơ hội viết. Anh hãy viết về
chính cuộc đời mình, kể lại đầu cua tai nheo vì đâu mình nói dối, viết dối. Hãy thành thực như đang làm bản kiểm thảo với bạn đọc của mình về tất cả mọi chuyện. Nếu không,
dù có xuống lỗ rồi, người ta vẫn còn réo tên anh ra để chưởi, rằng cái
thằng nhà văn Trần Hưng sống cốt để viết ra những cuốn sách bịp.
Trúng ý. Tôi bèn vỗ đùi cái đét, cụng ly với Hai Giỡn rồi khà một cái rõ to hể hả:
- Hay, ý kiến hay. Viết một bản kiểm thảo về đời mình với độc giả. Trình bày mọi dối trá và lầm lẫn một cách thành thật, không thèm hư cấu với hư chí gì ráo. Đó chính là văn chương.
Tôi phục ông Hai Giỡn.
Hai Giỡn đắc ý cười ha hả, rót tiếp rượu rồi gắp bỏ vào miệng tôi cái phao câu con vịt xiêm tơ. Hai chúng tôi sôi sục bàn chuyện văn chương viết lách.
Đời tôi có lẽ đã phải làm
mấy nghìn bản kiểm thảo dâng cấp trên như một con chiên ghẻ thú tội,
xưng tội trước vị linh mục với những tín điều hết sức nghiệt ngã. Tôi
xin được một lần cuối cùng làm bản tự kiểm này trước các bạn, những người đã đọc và chưa đọc tôi, như lời tự thú của kẻ cóc chết, ba năm quay đầu về núi này.
Hai Giỡn còn hứa sẽ nuôi tôi cho đến khi nào viết xong tập Ly thân này. Hai Giỡn năm nay sáu mươi hai tuổi, đã từng làm cục trưởng, về hưu được ba năm, làm nghề nuôi ong nên cũng khá. Ông có căn nhà đẹp, vườn rộng ở ngoại ô thành phố An Hải thuộc tỉnh Sơn Giang này, tài sản của ông già vợ cho.
Hai Giỡn bảo tôi về nhà tớ mà ngồi
viết, cơm bưng nước rót sướng hơn tiên. Tôi cám ơn lòng tốt của bạn,
xin phép được ngồi một mình trong cái hầm tối này để đối diện với gián
và trang giấy. Như vậy tiện hơn, lại cực kỳ im lặng với không khí của một người sám hối.
Hai Giỡn rút túi đưa tôi sáu nghìn đồng, bảo: để ăn phở, uống cà phê sáng. Còn cơm, cứ ngày hai bữa ông sẽ sai sắp nhỏ mang tới. Tôi từ chối cám ơn bạn nhưng Hai Giỡn quát: bộ khinh tao hả Trần Hưng. Tao thương mày tao mới giúp. Còn nếu sau này đọc bản nháp của mày thấy viết không thành thật, một là tao đòi lại tiền, hai là bẻ giò chịu không?
- Chịu. Tôi chịu.
Khi tuổi tác chúng tôi đã sáu mươi, có cháu nội cháu ngoại cả rồi mà còn xưng hô mày tao như thế này, tức là cái sự thân tình không thể tìm được nơi nào đủ giấu cất nổi nữa. Tôi xúc động tận lòng về sự chăm sóc vô tư của ông bạn. ấy, cái ông Hai Giỡn
bạn tôi suốt cuộc đời toàn dọa nạt thiên hạ, hết tao bẻ giò đến tao
đánh cho nhừ xương, để rồi rốt cuộc chả dám đánh ma nào, toàn bị cuộc
đời nó đánh cho thừa sống thiếu chết. Thì ra, cái anh hay đánh người ta
bằng lỗ miệng, thế nào cũng bị người ta nện cho bằng roi.
Chuyện quan trọng nhất của nhà văn Việt Nam ta khi ngồi viết là cái
ăn, để cho dạ dày đừng có lộn xộn nhảy lên thay thế vị trí não bộ và
ngược lại. Trong trường hợp của tôi lúc này, thật hạnh phúc, hai bữa ăn đã được ông bạn
vàng Mạnh Thường Quân lo cho tới khi nào viết xong bản nháp. Suốt ba
mươi năm qua, gần như tôi đã phải sống cầm hơi để viết theo yêu cầu,
viết theo chỉ thị của bề trên. Nhiệm vụ ba thập niên lãnh đạo giao cho
những cuốn sách của tôi, nói không ngoa, chỉ cần dăm bài báo là giải quyết xong. Vậy mà tôi đã đai ra tới hàng nghìn trang sách, toàn những chuyện dông dài vô bổ, cốt tô son vẽ phấn lên cái bộ mặt tèm lem có tên là cuộc đời này. Nay, lần đầu tiên tôi được ông bạn thân nuôi cho ăn no, cốt chỉ để viết lại sự thật của đời mình, dù sự thật ấy kể ra sẽ làm mất lòng bao nhiêu người đang cố bấu víu vào sự giả trá để tồn tại và để trục lợi.
Trước mắt mọi người, hiện nay tôi đã mất tất cả: vợ con, sự nghiệp, cửa nhà. Đứa con gái út xinh đẹp hai mươi bốn tuổi, niềm hy vọng cuối cùng của tôi vào cuộc đời vừa bỏ nhà ra đi để lại bức thư vĩnh biệt.
Trước
ngày biến mất, con gái tôi từ bệnh viện tỉnh Sơn Giang về gặp bố. Vì
đau khổ tới mức gần như mất trí, con gái tôi phải nằm trong bệnh viện
gần ba tháng trời. Tôi hiểu rằng sau khi người yêu, người chồng chưa
cưới của nó bị giết chết, cuộc đời đã đẩy con bé vào con đường không lối thoát. Nó nằm trong bệnh viện suốt thời gian dài như vậy với sự câm lặng đáng sợ.
Tôi
nhớ hôm ấy trời mưa to lầm. Gió thổi ầm ầm vặt trụi lá cây, ném xuổng
phòng tôi như vãi trẩu. Tôi đang ngồi đọc lại bài ca ngợi rất dơ dáy do
tôi viết về tập thơ Đêm mặt trời của tác giả Hoài Bão tức bí thư tỉnh ủy
Tràng Giang, với những dòng bốc thơm rất sáo rỗng và buồn cười hồi
trước, với bài thơ tứ tuyệt:
Mặt trời nghị quyết chói muôn nơi
Hạnh phúc tung bao ánh thác cười
áo cơm từng đến theo chỉ thị
Thiên đường đã thấy rõ mười mươi.
Tiếng gọi cửa rất khẽ khiến tôi sững người, rùng mình, y hệt có ai đang bắt gặp tôi làm một điều phi pháp vậy. Suốt cuộc đời, tôi sợ đủ thứ, nhất là những tiếng gõ cửa. Biết đâu, đây là tiếng gõ cửa cuối cùng của định mệnh, của cái ác xấu đến bắt tôi. Kinh nghiệm đã dạy tôi không được tin vào bất cứ điều gì trên đời.
Đằng sau sự bình yên kia là bão tố. Bên trong nụ cười có vẻ thành thật kia là dối lừa và cạm bẫy.
Tuy
vậy, tôi vẫn lẩy bẩy như con lật đật, run run tay cầm chìa khóa hồi hộp
mở cửa. Trời ơi, Trần Thị Vương Thi, con gái cưng, con gái rượu của
tôi. Hồi sinh cháu, tôi đang làm thơ như điên, từng ôm mộng thi hào thi bá nên đặt tên con gái là Vương Thi - vua thơ mà.
Vương Thi mặc chiếc áo mưa màu trang rất tang tóc, trông nó
giống bức tượng cổ Hy Lạp đứng trước mặt tôi. Nó ướt như chuột lột,
nhìn tôi bằng con mắt khác lạ, nửa nảy lửa, nửa băng giá, nửa thân
thuộc, nửa hững hờ. Tôi định ôm chầm lấy đứa con gái thân yêu nhưng lại
thôi, nhẹ nhàng dìu cháu vào nhà. Nó khẽ chào tôi một tiếng rất nhỏ, rất
cộc: bố. Tôi bảo nó vào buồng trong thay ngay quần áo không cảm lạnh chết, nhưng nó lắc đầu bảo ngồi chút là đi ngay. Tôi chạy vào buồng lấy cái khăn bông tắm
khô đưa cho con, giúp nó cởi áo mưa ra, rót đưa cho nó một ly trà đường
rất nóng. Tôi hoảng sợ trước tình trạng kiệt quệ của con gái, nhất là bị cơn mưa thế này lúc đang nằm bệnh viện điều dưỡng.
Vương Thi ngồi xuống chiếc ghế mây cũ kỹ đã xơ xác, lau sơ mặt và tay, nhấm một hớp trà hỏi tôi:
- Mẹ đâu?
- Bận đi họp.
- Kỳ thật. Suốt đời mẹ toàn có họp là họp. Nghị quyết này chưa kịp triển khai, trên đã nhét vào tay nghị quyết mới. Rốt cuộc, toàn có nói suông, phí cả cuộc đời cho những trò phiếm. Rõ khổ thân cho mẹ.
Tôi đốt điếu thuốc, bảo con:
- Vì mẹ con làm phó giám đốc trường Đảng, bận lắm. May mà còn chưa phải họp hai mươi bốn trên hai mươi bốn tiếng đấy
Con gái tôi bĩu môi:
- Thế thì mẹ sinh ra để làm cán bộ lãnh đạo chứ đâu phải để làm người vợ, người mẹ. Điều con không thể hiểu là tại sao mẹ lại cuồng tín đến như vậy nhỉ?
Tôi tính lờ đi không trả lời con gái, nhưng rồi lại làm ra bộ bênh mẹ nó, mặc dù tôi rất ngán bà ấy:
- Thời đại mà con. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Thời thế làm bố mẹ ra thế, biết làm thế nào?
Con bé nhìn tôi rất dữ, đay nghiến:
-
Thời thế. Cái gì bố cũng đổ cho thời thế. Thời thế nào cũng bắt đầu từ
mỗi con người, mọi con người. Chính các người đã tạo ra thời thế quỷ
quái này rồi đổ oan cho nó. Rằng thời đại nhiễu nhương bùa chú, biến cải
các người. Chính các người đã góp phần đẩy anh ấy, một người trung thực
tài năng tỉnh táo nhất vào nhà thương điên rồi bóp cổ tới chết.
Con gái tôi thở gấp với một thái độ căm giận. Tôi hiểu tâm hồn nó đang tan nát.
- Vương Thi, sao hôm nay con gay gắt với bố thế? Bố đã làm gì đến nỗi con phải lên án dữ vậy nào? Hay bố không thương con, bỏ bê con, con đau bệnh không thăm nom chiều chuộng?
Nó im lặng, nhíu mày. Mặt con gái tôi tái nhợt, môi thâm lại chứng tỏ nó lạnh vì mưa ướt. Tôi giục con:
- Con bị cảm lạnh rồi. Vô nhà thay quần áo đi.
Vương
Thi ngoan ngoãn vô nhà thay đồ. Từ hôm ngất xỉu trước cái chết thê thảm
của Trần Khuất Nguyên, phải vào bệnh viện cấp cứu, tôi đã đến nơi con
gái ở dạy học để lấy vali đồ đạc về nhà này. Nó lục vali lấy một ít đồ,
một cuốn album cho vào giỏ xách để ngoài salông. Xong, ngồi xuống ghế, nó bảo tôi:
- Suốt mấy tháng nằm viện, con đã có dịp nghĩ nhiều đến cách thương của bố mẹ. Rằng cái tình thương yêu ấy không đi cùng sự thật, nói cho văn hoa là không có bóng dáng của lẽ phải và chân lý.
- Nghĩa là con bảo bố mẹ dối trá?
- Vâng, ít ra là với con.
- Về những điều gì?
- Về tất cả.
- Cụ thể.
-
Như niềm tin, như lý tưởng chẳng hạn. Con biết bố chẳng tin vào những
điều bố nói, bố viết. Sao bố lại dạy con tin vào những điều ấy?
- Sao con biết bố không tin vào những điều mình nói, mình viết?
-
Con đã đọc cuốn nhật ký của bố viết từ xưa. Trong đó với chính mình, ít
ra bố cũng đã nói đến tám mươi phần trăm sự thật. Tất cả đều ngược với
những gì bố nói và viết công khai.
Tôi giật mình như vừa ngồi vào ghế điện vậy. Lẽ nào mẹ nó lại đưa cuốn nhật ký của tôi bị bà ấy bắt làm tù binh của tình yêu từ khi nó chưa ra đời cho con gái đọc ư?
Tôi vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh hỏi:
- Con đọc cuốn nhật ký đó ở đâu?
- ở trên bàn làm việc của phó giám đốc trường Đảng.
Trời,
cuốn nhật ký nhỏ bé tôi đã giấu rất kỹ trong ba lô từ Tây Bắc về. Nhưng
cuối cùng đã lọt được vào tay bà vợ, cho đến ngày nay chưa trả lại. Bà
ấy đưa ra một điều kiện bất nhẫn trói buộc tôi: hoặc là tôi bỏ vợ con hoặc là cuốn
nhật ký này vào tay tổ chức. Tôi đã viết sự thật, ý nghĩ thật hàng ngày
lên trang nhật ký kia hệt như một tên trộm. Tôi đã phải giấu giếm sự
thật theo kiểu con mèo giấu cái sự bê bối của nó. Nhưng rốt cuộc, sự
thật nhỏ nhoi kia vẫn bị đánh cắp.
Tôi ngồi lặng hồi lâu trên ghế, trước cái nhìn có điện của con gái. Như thể chính tôi là cuốn nhật ký bí mật, đang bị lật lên từng tờ, để con gái vừa đọc vừa giễu cợt ông bố có hai ba bộ mặt.
Tôi chợt nhớ lại những giai đoạn
của đời mình, có khi chỉ cần ngồi lặng nghĩ đến những gì ngược với các
giáo điều, các chỉ thị, hay khám phá ra cái nghịch lý của nghị quyết,
cái đối lập giữa tuyên truyền và hiện thực là tôi
đã sợ toát mồ hôi. Như thể có hàng trăm tên mật vụ đang nấp trong các
khe hở của những suy tư trong đầu, rình rập ghi chép các ý nghĩ kia để
đi báo cáo vậy.
Thế là tôi
lại nguyền rủa mình, hay nói đúng hơn, nguyền rủa cái bộ óc hay suy tư
nghĩ ngợi của mình, vốn hay đi tìm cái ngược đời cái nghịch lý trong mọi
sự, để rồi không giải quyết được gì, có khi còn mang vạ vào thân. Hãy tiếp tục sống theo các chỉ thị, làm theo ý cấp trên, đã có người khác nghĩ thay thì cần chó gì đến cái đầu óc của mày nữa, hỡi tên công dân
tội nghiệp kia. Cho hay, có trí thức một tí, có suy nghĩ biết phải trái
một tí, có ý kiến cá nhân một tí, sống trên đời này mệt thật, nguy hiểm
thật. Hèn chi Mao Trạch Đông,
Pôn Pốt chủ trương giết sạch trí thức, Stalin giết các đồng chí cộng
sản chân chính để dễ bề độc tài quân phiệt, hay Tần Thủy Hoàng đốt sách
giết học trò đi để dễ cai trị không phải là điều khó hiểu.
Vương Thi đổi thế ngồi, uống gần hết ly trà đường đã nguội, rồi phá tan sự im lặng bằng một câu hỏi của quan tòa:
- Tại sao bố mẹ không yêu nhau mà vẫn phải sống với nhau, đôi khi còn phải giả vờ yêu nhau, phải đóng kịch với nhau như những nhân viên trong nghề phản gián để làm gì hả bố?
Tôi đớ người. Con gái tôi đã đánh trúng huyệt của đời tôi.
Nó đọc nhật ký tôi nên biểt tất cả. Tôi không thể dùng ngụy lý để trả lời một câu hỏi đã nốc ao tất cả sự dối trá đã làm nên đời mình. Câu hỏi của đứa con gái gói toàn bộ bi kịch của đời tôi.
Trả lời nó tức là phủ nhận hết đời mình, ném vào vực thẳm tất cả những năm tháng vô nghĩa, như ném cái ly thủy tinh vào núi đá.
Tim tôi đập cấp gió mười hai, toàn thân đang toát mờ hôi hột. Tôi là kẻ tội lỗi đang phải đứng trước Chúa Trời trong ngày phán xét cuối cùng trên đồng Araphat. Thà tôi không được
sinh ra trên cõi đời này còn hơn. Dù sao, tôi cũng cần phải trả lời đứa
con gái quấy quá cho qua chuyện, phải dùng mẹo vặt của kẻ liều thôi:
- Dù sự việc có thật như thể đi chăng nữa thì rốt cuộc, bố mẹ đã sinh ra con đấy Vương Thi ạ.
Con gái tôi cười phá lên. Nó tiếp tục tấn công, quyết đuổi con thỏ già bị thương này vào đường cùng, để thỏa mãn sự tức tối, hay để khuây khỏa cái đau mà nó phải chịu quá sức mình:
- Con hoàn toàn không muốn được sinh ra bởi một tình yêu dối trá. Con bị sinh ra chứ không phải
được sinh ra, để rồi bố mẹ đẩy con vào hoàn cảnh tuyệt vọng này đây.
Con nguyền rủa cuộc sống tàn ác này. Giá khi sinh ra, bố mẹ làm cho con mù và điếc có hay hơn không.
Tôi rùng mình kinh sợ. Bạn hãy đặt mình vào cương vị tôi lúc này, mới thấy hết cái đau đớn nhục nhã, cái xót xa của kẻ làm cha mẹ bị con mình nguyền rủa. Tôi đã không sòng phẳng với cuộc đời, để rồi cuối cùng, cuộc đời đang sòng phẳng với tôi đây.
Trong thâm tâm, đời đang bảo tôi: mày đã ăn quỵt tất cả của tao Trần Hưng ạ, giờ mày phải trả. Tao chính là lương tâm của mày. Hãy trả cho tao ý nghĩa của tồn tại.
Vương Thi lau nước mắt. Tôi như kẻ vô hồn, chả khác gì con voi sứ mình đang ngồi. Hai bố con, hai thế hệ cùng im lặng.
Nó đang nhìn vào đáy của đời tôi, của cội nguồn nó với một nỗi cô đơn tuyệt vọng. Còn tôi chợt nhớ lại cái đêm mùa đông năm
1961, sau gần ba năm đi lao động cải tạo trên Tây Bắc về với cuốn nhật
ký và mười mấy bài thơ con con giấu kỹ trong ba lô. Nhưng mẹ nó, bà Lê
Thị Mộng Ruộng đã lục được và giấu biến.
Nguy
rồi. Vì ghen, vì thù ghét tôi, cô ấy có thể nộp cái của lạ này cho tổ
chức bất cứ lúc nào. Những trang nhật ký, những bài thơ nói về nỗi cô
đơn, nỗi buồn đau, về những nghi vấn trước những hiện thực xã hội, trước
những tuyên bố hay ho về dân chủ, tự do nhưng sao việc làm lại toàn là một
biện pháp trấn áp... Tất cả cái đám chữ nghĩa lôm côm vô tổ chức kia,
lúc bấy giờ đồng nghĩa với phản động. Tôi phải dụ dỗ, phải đóng kịch yêu
đương với vợ mình, con người tôi đã lấy theo chỉ thị của tổ chức. Tôi
đã phải chiều chuộng, đã phải ăn nằm với cô ấy để cốt đòi lại cuốn nhật
ký nguy hiểm kia, nhưng tôi đã thắt bại. Vợ tôi cũng như tổ chức, đã học
được phương pháp làm kẻ khác phải yêu mình vì sợ.
Sau hai mươi lăm năm, đứa con gái đã nói toẹt ra sự thật một cách không hề thương xót. Sự thật nhìn từ góc độ nào đấy, đôi khi thật tàn nhẫn, thật đau đớn. Có lẽ vì vậy mà mọi người đều sợ sự thật và tìm cách tránh né nó. Nhưng tai hại
thay, con người càng tìm cách chạy trốn sự thật, thì sự thật càng đuổi
theo con người, dẫu người ta chết lâu rồi, sự thật vẫn tìm cách sống
dậy. Con người ta có thể bị chôn vùi, nhưng sự thật quyết không bị chôn vùi. Nó cần tồn tại cùng với sự sống trên trái đất này. Sự thật nói cho cùng chính là ánh sáng mặt trời vậy.
Thấy tôi toát cả mồ hôi, chắc Vương Thi thương hại bố, hay ít ra nó cũng thấy là không nên đẩy một kẻ khốn khổ vào đáy vực làm gì. Khi phải mủi lòng, chính kẻ ban bố lòng thương hại cũng chẳng thấy sung sướng, thậm chí còn bẽ bàng khó chịu là đằng khác.
Vương Thi bao phủ lên tôi bằng một cái nhìn bớt gay gắt hơn. ánh mắt của nó có chút gì thương xót và cảm thông. Dù sao nó là giọt
máu của tôi. Lúc này tôi càng thấy con gái mình đẹp quá. Nó giống hệt
mẹ tôi tức bà nội nó: cũng mũi cao, môi trái tim, mặt trái xoan, mắt lá
răm sáng và sắc, vầng trán rộng phủ dài lọn tóc đen. Với vẻ mặt thiên
thần ấy, với dáng người thon thả, cao ráo ấy, chính nó được ra đời để
sống trên thiên đường chứ không phải để chứng kiến những cảnh đời địa ngục vừa qua.
Đứa
con gái đã dịu dàng hỏi tôi như ngày thơ ấu nó hay hỏi vặn, quyết truy
nguyên sự vật đến cùng, tới khi tôi hết trả lời nổi mới thôi:
- Trên đời này còn lòng tốt và cái đẹp không hả bố? Chân lý có thật không hay chỉ là trò bịa đặt của con người, chỉ là cái lá chắn, là bình phong để người đời làm điều càn quấy?
-
Có chứ con. Cái tốt đẹp, ngay cả chân lý cũng đều có thật. Nó tồn tại
trong chúng ta, ngủ quên trong chúng ta, phải khó khăn lắm mới thức tỉnh
được nó dậy. Nó chính là lương tri của con người.
Cô con gái rượu vẫn chưa chịu tha ông bố. Nó vẫn đẩy tôi vào thế bí, cái thế của sự thật đôi khi đến cạn tàu ráo máng, làm tiêu tan mọi thứ thể tất của con người:
- Cụ thể như bố chẳng hạn, nó nằm ở đâu trong đời sống của bố, cái lương tri ấy?
Tôi
điếng người, nghiến chặt răng. Rõ ràng cuộc đời và sự thật vừa mượn lời
con gái tôi để tát vào mặt tôi một cái tát thần sầu quỷ khốc đến tối mày tối mặt. Lẽ ra, theo thói thường, để tự vệ, để lấp đi cái thế yếu của mình, tôi đã dùng quyền làm cha để chưởi cho nó một trận, hoặc liều lĩnh hơn phải tát cho nó một cái theo kiểu có đi có lại. Rằng mày là con láo, dám vặn vẹo bố hả, đồ con nhà mất dạy, thà đẻ ra con mực để nướng nhậu chơi còn hơn đẻ ra cái thứ mày.
Nhưng tôi đã ngồi im chịu hình phạt của hậu thế. Đáng đời cái thằng
tôi, dù có gieo sự dối trá, tôi vẫn cứ phải gặt hái sự thật, có điều cái
sự thật giết người này kinh khủng quá. Chính ra phải phản ứng một cách
vô lối bằng sự đàn áp của kẻ bề trên, tôi lại bình thản đến không ngờ trả lời câu hỏi của con gái:
- Lương tri của bố ư, nó nằm trong sự sám hối đấy con ạ.
Thật tai hại, nói xong câu đó tôi bật khóc, tất nhiên là cái
khóc kín đáo âm ỉ của người già. Tôi vội quay đi, lấy tay áo quệt nước
mắt, theo kiểu trẻ con quệt nước mũi khi nó thò lò xuống môi. Vương Thi
cũng làm ra vẻ giả lơ, coi như nó không thấy cái chuyện khóc lóc âm thầm của ông bố để ông ta đỡ quê. Dù vậy, nó vẫn tỉnh bơ không xúc động.
- Trái tim của mày đâu vậy con Bố là con thú bị thương, đừng dồn bố vào đường cùng nữa.
Con gái tôi vẫn ngồi trên ghế thẩm phán. Nó truyền:
- Riêng sự sám hối cũng không tìm thấy lương tri đâu bố ạ. Sám hối thì tốt rồi, nhưng phải hành động.
Tôi thành thật trả lời con:
- ừ, con khuyên bố như vậy là đúng. Bố sẽ hành động chứ không chỉ sám hối suông.
ừ suốt cuộc đời tôi chỉ quen làm cha nó, dạy dỗ lên lớp nó, sai phái nó hết chuyện này đến chuyện khác. Đến lượt con cái hậu thế nó dạy mình thì mình lại cho nó là láo, là trứng khôn hơn rận. Làm như mình hay hớm lắm, đúng lắm ấy. Đột nhiên con gái tôi tuyên bố một cách thật rùng rợn:
- Bố ơi, con không thiết
sống nữa. Con đã bị cuộc đời lừa dối cướp đi tất cả từ tình yêu đến sự
trong trắng, niềm tin, lý tưởng, tâm hồn... hết thảy đã bị cuộc sống này
gạt gẫm lấy đi hết cả rồi. Con sống để làm gì hả bố? Để nhìn thấy hết sự bịp bợm này đến sự bịp bợm khác của những người tự cho mình quyền đại diện cho nhân dân, cho công lý, những người của cái thế hệ bố mẹ lấy đạo đức giả làm nền tảng xã hội ư?
Vương Thi im lặng. Đoạn nó thò ngón tay cái lên miệng, khẽ lấy răng nhần nhần theo kiểu thỏ ăn rau. Tôi khuyên con không được tuyệt vọng, còn trẻ, còn đẹp, đời còn dài...
Chợt Vương Thi vừa khóc nấc lên vừa hỏi:
- Vậy thì ai là người
phải trả lại Trần Khuất Nguyên cho con hả bố? Mỗi lần mở mắt ra, con
lại nhìn thấy anh ấy gục chết trong nhà thương điên vì bị người ta bóp
cổ. Ôi, ngay cả đến bố mẹ, tất cả các người, những kẻ dối trá thờ ơ với
cái xấu cái ác hiện nay, đều góp phan giết chết anh ấy. Mảnh đất này
dường như không còn chỗ cho người trung thực, người lương thiện nữa bố ơi.
Nhìn con gái khóc, tôi hốt hoảng quá. Con gái tôi đã ngất lịm đi tưởng không thể cứu sống khi nhìn thấy người yêu bị giết chết trong bệnh viện tâm thần. Suốt hai tháng
mất hồn vía, con gái tôi mới dần dần lấy lại trí nhớ. Cách đây ba tuần,
lần đầu sau cơn ngất xỉu kinh hãi kia, nó mới bật khóc và gào thét gọi
người yêu.
Tôi càng khuyên nhủ, con gái càng khóc dữ. Cuối cùng rồi nó cũng nín. Nó rút từ trong túi ra một tờ giấy đưa cho tôi:
- Nhờ bố chuyển cho trường con cái đơn xin thôi việc.
Tôi kinh ngạc hỏi:
- Rồi con sẽ làm gì sống, Vương Thi?
Nó hỏi lại tôi:
- Bố tưởng lương dạy học sống được đấy à? Hừ, thế mà người ta cũng gọi là lương với chả bất lương. Với cái đồng lương khôi hài và phỉ báng con người ấy, con ăn xôi sáng còn chưa đủ. Vậy thì còn hai bữa chính, con phải cạp đất ăn để lên lớp, dạy một thứ chính trị trá hình gọi là môn
văn, cốt nhét vào đầu học trò tất cả những mỹ từ sặc sụa son phấn về
chế độ ta tốt đẹp, hơn hẳn mọi thứ chể độ xã hội trên đời. Thật là mỉa mai, trong khi người ta trả lương cho cán bộ công nhân viên như vậy, nhưng lại to mồm tuyên bố tư bản phương Tây bóc lột công nhân
thậm tệ. Bố có biết con nhục nhã thế nào, khi mỗi sáng lên lớp phải
xách theo cái bị quà vặt, để vừa dạy học, vừa bán cho học sinh không? Trường con ai cũng phải làm như thế, nếu không muốn ngồi chết đói. Trước ngày anh Nguyên bị giết, con đã bị nhà trường khiển trách nặng nề. Nguyên do là hôm ấy con dạy mẫu bài văn của bố trích trong tiểu thuyết Lúa reo. Bài văn mô tả cuộc sống ấm no hạnh phúc của một hợp tác xã nông nghiệp ngoài miền Bắc. Con đã dặn trước học trò là giờ văn mẫu, có khách lạ và quan trọng tới dự giờ, tuyệt đối không được em nào mua quà ăn trong giờ học. Nhưng khi dặn, có đứa học trò nghỉ không biết. Đang tới đoạn phân tích về sự sung sướng của người nông dân
chính thằng bé ấy giơ tay xin phát biểu. Con tưởng nó góp ý bài giảng,
nào ngờ nó nói tỉnh queo: Thưa cô bán cho em trái ổi ạ. Trời ơi, con run
bắn cả người, tái mặt bảo thằng bé ngồi xuống nhưng nó vẫn cứ lặp lại là xin mua một trái ổi thôi. Từ ông to
bà lớn và tất cả mọi người dự giờ con giảng văn bữa đó đều biết tình
trạng này đối với những giáo viên khó khăn quá mức về đời sống, nhưng
con vẫn bị phê bình cảnh cáo vì cái tội công khai hóa cái việc bán quà của giáo viên cho học sinh. Đấy bố coi cái lôgic của họ có tức cười không nào.
Trường con có giáo viên nam đi đạp xích lô gặp học trò mình vẫy giữa
đường đấy bố ạ. Thầy đạp xích lô, trò ngồi chễm chệ trên xưa nay ai có coi đặng không chứ... Vậy thì con xin thôi việc là có lý đó bố ơi.
Trưa
đó, cơn mưa đã tạnh, tôi giữ con gái ở nhà ăn cơm nhưng nó xăm xăm vô
bệnh viện điều dưỡng. Sau đó một tuần lễ tôi đến bệnh viện thăm con.
Người ta cho hay Vương Thi đã về năm sáu hôm rồi. Tôi chạy còn phòng
riêng của nó tại trường tìm cũng không thắy.
Tôi mất hết hồn vía nghĩ đến cái hồ ở ngoại ô thành phố An Hải này. Nơi
con Vương Thi trong cơn tuyệt vọng đã một lần nửa đêm lao xuống tự vẫn
nhưng may mắn được cứu thoát. ít ngày sau đó, tôi nhận được thư của con
gái theo đường bưu điện:
Bố mẹ kính mến
Con rất đau lòng báo cho bố mẹ biết là con đã ra đi. Mặc dù anh Nguyên đã bị giết chết, nhưng con vẫn đi tìm anh ấy dù biết anh không thể nào tìm được niềm tin yêu lớn nhất của đời con.
Nhưng
con hy vọng bằng tinh thần của Nguyên, con sẽ tìm được một nơi để được
sống thật với chính mình và mọi người, được quyền nói lên điều mình
nghĩ, viết ra điều mình nghĩ không bị ai ngăn cấm và đe dọa. Ngoài ra. con còn muốn làm một người trung thực, một người tốt đẹp trên đời. Dường như ở cái tỉnh Sơn Giang của chúng ta bây giờ, người lương thiện không có cơ hội để tồn tại. Cái chết của Nguyên đã khẳng định điều khiến cho người xưa phải trẫm mình tự vẫn: đời đục không cho phép mình trong, đời ngủ không cho phép mình thức. Con không muốn chìm nghỉm trong dối lừa và sợ hãi mãi mãi. Đối với con bây giờ, cái không có thể phải trở thành có thể, con phải tìm ra Nguyên mặc dù anh ấy đã bị người ta sát hại.
Một lần nữa con xin bố mẹ tha lỗi cho con. Con nhờ bố mẹ chuyển dùm lời cám ơn đặc biệt đến bác Hai Giỡn
cùng các chú bác anh chi ở câu lạc bộ về hưu và câu lạc bộ những người
kháng chiến cũ đã hết lòng thương yêu đùm bọc anh ấy, lo cho anh ấy mồ
yên mả ấm, đồng thời chăm sóc con suốt gần ba tháng trời một cách hết
sức tận tình. Xin bố mẹ cứ coi con không còn nữa, hoặc đã đến một xứ sở khác tốt đẹp. Y như cái lý thuyết bố mẹ theo đã vẽ vời ra.
Vĩnh biệt bố mẹ. Đứa con bất hiếu
Vương Thi
Tôi đã đau đớn nát ruột gan từ hôm Vương Thi đi mất.
Chiều chiều, tôi lại ra cái hồ định mệnh ngồi mà ứa hai hàng nước mắt. Thế là tôi đã mắt hết, mắt cả tuổi già và tuổi về hưu.
Từ nay, vĩnh viễn tôi là kẻ
cô đơn trên cõi đời này. Tôi đã bỏ nhà và người vợ đang hoạt động ráo
riết để vào tlnh ủy, đến chui vào cái hầm này ngồi viết theo sự hướng
dẫn và gợi ý của người bạn vàng là ông Hai Giỡn. Ngày hôm qua, vợ tôi mò đến đây để đưa cho tôi một tối hậu thư: hoặc là tôi về nhà, vì một người sắp vào tỉnh ủy không thể bị chồng bỏ, hai là cuốn nhật ký cách đây hai mươi mấy năm của tôi do bà ẩy vẫn bí mật cất giữ, để làm cái răn đe giữ tình yêu của tôi sẽ nằm trong tay công an văn hóa. Tôi bảo vợ rằng hiện nay đối với tôi như vậy là đã mất hết, vào tù được là may
lắm. Bởi vì mấy chục năm qua sống với nhau trong các loại nỗi sợ, thực
ra tâm hần tôi đã phải ở tù. Bà ấy đứng dậy đi thẳng, nhưng khi ra còn
cửa tôi nghe thắy tiếng bà ấy sụt sịt. Tôi bảo bà vợ rằng, một người sắp
vào tỉnh ủy không nên và không được
phép khóc trước bất cứ tình huống nào. Tôi hiểu rằng những hoạt động
chính trị sôi nổi và cuồng nhiệt của vợ tôi thực ra chỉ là cái vỏ bên ngoài, để che đi nỗi đau khổ của một người đàn bà có chồng, có con mà vẫn không được yêu. Bi kịch của vợ chồng chúng tôi, nói cho cùng, chính là cái bi kịch của xã hội mà hai chúng tôi đều là nạn nhân. Thành ra, về một mặt nào đó, vợ tôi đáng thương hơn là đáng giận. Bây giờ thì nỗi đau khổ tới tận cùng, sợ hãi tới tận cùng đã khiến tôi thành người miễn dịch. Tôi không còn chỗ để lùi, để đau và để sợ nữa rồi. Tôi vốn không ưa triết lý của anh A.Q. và hành động của anh Chí Phèo, nhưng hiện nay tôi hoàn toàn là một kẻ liều mạng, một người uống mật gấu. Xin bà ấy cứ nộp những ý nghĩ thật của tôi cho công an. Nếu nói lên, viết lên những ý nghĩ thật của cá nhân mình trước mọi sự một cách có chính kiến mà bị quy là phản động, thì tôi xin chấp nhận tất cả.
Vâng, tôi cần phải lý giải hơi dài dòng với các bạn vì sao cuộc đời đã đẩy tôi vào kết cục này ở tuổi năm mươi tám. Tôi có thể làm lại từ đầu được không?
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 2
Thực ra, tên cúng cơm của tôi là Trần Húng chứ không phải Trần Hưng.
Sau này lớn lên đi học, thấy cái tên Húng kỳ cục, tôi van nài cha tôi
mãi mới được đổi từ Húng sang Hưng. Chỉ cần bỏ cái dấu sắc đi để thêm
vào chữ u một cái dấu ư là cuộc đời tôi mang một ý nghĩa khác. Số là bố
tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chỉ mê một món thịt chó. Nghe đâu, trong một
cuộc thi ăn thịt chó với bạn bè hồi trẻ, chỉ một ngày ông đã ăn hết sạch
hai con cầy tơ. Từ đó, bố tôi có biệt danh là ông Hai Cầy.
Bố
mẹ tôi sinh được cả thảy bốn người con. Ông lấy các món ăn trong bữa
thịt cầy để đặt tên cho con cái mới kỳ khôi chứ. Chị cả tôi là Trần Thị
Mơ, gọi trong nhà là chị lá mơ, cái thứ lá mà khi xơi thịt cầy, nếu
không có nó, thịt cầy không còn là thịt cầy nữa. Tôi là Húng, một thứ
rau thơm quan trọng không kém lá mơ của bữa thịt cầy. Đó là húng lìu hay
húng chó, trong Nam kêu là rau quế. Con em gái tôi được vinh dự mang
một cái tên trong món ăn bố khoái nhất là rựa mận, cô Trần Thị Mận. Còn thằng em út tên của nó mới khiếp chứ, thằng Trần Chìa,
tức chả chìa. Cái tên của cậu em tôi mới nghe cứ tưởng nó gầy teo, ốm
nhách, lòi cả xương sườn ra nhưng nào ngờ nó lại mập ú. Bố tôi bảo mẹ
tôi sinh cho ông một đứa nữa, dù trai hay gái, ông nhất định sẽ đặt tên
cho nó là Tửu, cứ nam văn nữ thị mà kêu Tửu ơi Tửu, bố sai cái này là
thế nào cũng có cút rượu nhắm. Có lẽ vì vậy mẹ tôi sợ quá nên không dám
sinh nữa. Thành ra cuộc đời bố tôi luôn luôn thèm rượu và thiếu rượu. Cứ
mỗi lần đặt tên con, mẹ tôi lại gây gổ với bố. Nhưng bố tôi quyết đặt
tên con cái theo ý của mình, dù trời can cũng không nổi. Cuối cùng mẹ
tôi đành khóc lóc nhượng bộ. Khóc xong, bà ngồi một mình ca cẩm phàn nàn
thật tội nghiệp. Rằng ông đùa giỡn suốt đời không chán hay sao mà còn
lấy cả con cái ra để bỡn cợt. Tội nghiệp các con, tên với chả tuổi, kêu
lên toàn là món nhắm, e rằng sau này không có cái bỏ vào lỗ miệng đâu.
Bố an ủi mẹ rằng tên con cái hay như thế còn không chịu, đang đói kêu
lên một loạt: này con lá Mơ, này thằng Húng chó, này con rựa Mận, hỡi
đứa chả Chìa là thấy no cái bụng, sướng cái miệng liền. Tiếc bà không
sinh cho tôi một thằng cu Tửu, khi buồn chỉ cần gọi tên con là đã say
rồi, đỡ phải mắt tiền ra quán mua rượu bà ơi. Đôi lúc có tí ngà ngà, bố
tôi lại nằm đu đưa trên võng ngâm Kiều, đọc thơ Tú Xương, Nguyễn Khuyến.
Kết thúc cuộc ngâm vịnh, thế nào ông cũng hát ồ ề câu: sống trên đời ăn
miếng giồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?
Tôi
nhớ hồi bố tôi lên mạn ngược buôn bán, khi về mang theo hai con chó
con, một bạch một vàng. Ông bảo thứ chó này quý lắm, mau lớn, to con,
giữ nhà thì bố trộm cũng không dám bén mảng, lại thịt ngon, nếu có khách
ngả ra lúc nào cũng tiện.
Về chó, từ xưa
ông bà ta đã có câu: nhất bạch nhì vàng, tam khoang, tứ đốm. Như thế,
riêng trong nhà mình, ông đã có đến hai con chó nhất nhì thiên hạ rồi.
Rất hay là đôi chó này lại một đực, một cái. Hôm đưa hai con chó quý này
về, bố tôi nhờ ngay ông hàng xóm sang bắt nghiến con chó vện đực nuôi
trong nhà ra thịt, để mừng hai công tử chó, khiến hai kẻ ấu thơ kia nhìn
thấy mà xanh mặt. Bố tôi đặt con bạch là mẻ, con vàng là riềng, hai thứ
gia vị thiết cốt nhất của thịt chó. Thiếu hai thứ này, thịt chó coi như
bỏ. Hai con chó con dần dần cũng quen với tên gọi của mình, nào biết
đâu riềng với mẻ đã ám mình từ ngày bé tí.
Mấy
tháng đầu, con riềng và con mẻ kể cũng có hơi lớn. Nhưng tụi nó lớn rất
chậm, mặc dù cơm thừa canh cặn hai cu cậu lúc nào cũng chén căng rốn.
Nhưng rồi cả năm sau, con riềng với con mẻ mỗi lúc một mỏi mòn đi, ốm
nhom ốm nhách không cách gì nở nang ra được. Mấy ông hàng xóm bảo bố tôi
đổi tên cho hai con chó này đi, chứ lấy riềng và mẻ mà đặt cho nó, thì
còn bố nó cũng sợ toát mồ hôi hột, sợ còn chết khiếp được nữa là tụi nó.
Họ còn bàn ra tán vào rằng dù là
con vật, nhưng nó cũng biết chứ, lúc nào cũng bị cái ám ảnh vào nồi, bị
cái hình ảnh riềng với mẻ, mùi thơm của riềng với mẻ hành hạ, thì thử
hỏi làm sao mà yên tâm sống được cơ chứ. Bố tôi gật gù nghe lời bèn đổi
tên cho hai con riềng con mẻ, nhưng nó vẫn cứ lì ra, không chịu lớn thêm
một tẹo. Càng ngày hai con chó càng da bọc xương mặc dù chúng ăn thùng
bất chi thình. Mấy ông hàng xóm lại góp ý với bố tôi là phải đổi tên của
bốn đứa con đi, họa may hai con chó mới đỡ sợ, đỡ mất vía mà yên tâm
lớn. Lúc nào trong nhà cũng nghe gọi nào lá mơ, nào húng, nào rựa mận
với chả chìa thì còn khiếp đảm hơn là riềng với mẻ ấy chứ. Hừ, đời nào
chỉ vì cái chuyện lớn hay không lớn của hai con chó con mà bố tôi lại đi
đổi tên bốn đứa con. Ông bèn bán quách hai con chó ốm cho hàng xóm.
Nghe đồn khi được nuôi ở nhà khác với tên khác, hai con chó ma mãnh và
non gan kia lớn nhanh còn không ngờ. Cho hay là cái nỗi sợ ở đời gớm
thật. Đến con chó còn bị nỗi sợ hành cho còn mòn mỏi, để thân tàn
ma dại như vậy, nữa là con người suốt một đời phải đối diện với muôn
nghìn nỗi sợ trước cái chết, trước bạo quyền, trước những tai bay vạ gió
rủi ro... Tồn tại phải chăng là cuộc chiến đấu âm thầm quyết liệt của
sinh vật nói chung, của con người nói riêng trước bao nhiêu nỗi sợ hãi?
Thuở
nhỏ, bố tôi học chữ nho, thi mãi không đậu, phẫn chí về đi cày rồi sắm
thuyền đi buôn. Có lẽ vì ông là người có học nhất của cái làng Bình Hải
bấy giờ, nên bọn cường hào chức sắc rất ghét. Mặc dù trong bụng không ưa
gì kẻ sĩ, nhưng bọn cầm quyền phải làm ra vẻ ta đây quý người có chữ,
trọng kẻ nhân tài.
Bọn họ hay mời
cha tôi tham gia những cuộc chè chén ngoài đình làng, hay trong nhà quan
nhà hào phú, cốt để gài cho ông say mà lộ rõ cái chân tướng vẫn giấu
trong vẻ ngoài dân dã. Mặc dù bố tôi chúa ghét cái thời thế đảo điên
này, nhưng ông lấy sự im lặng làm thượng sách, biết cách dùng cái nhu
thắng cái cương. Vả lại, thỉnh thoảng có tí men vào, ông thường nói với
mẹ tôi rằng ông đếch thèm chấp với cái đời chó đẻ này, còn chưởi ông
cũng không thèm nữa là, có chưởi nó cũng chỉ bẩn cái miệng mình thôi. Có
khi nửa đêm ông tỉnh dậy ngồi đối diện với ánh trăng suông, nghe chó
sủa ma, rồi hít một hơi dài thuốc lào bằng cái điếu cày gia truyền, đoạn
nói thầm một mình rằng cuộc đời láo lếu này ạ, chưởi chúng mày thà ông
về chưởi chó còn hơn. Có điều gì buồn bực với thế cuộc là tụi tôi biết
ngay, thế nào đêm ấy ông cũng ngồi chong mắt nhìn đêm, rít thuốc lào, rì
rầm mắng mỏ cái bàn cái ghế. Có lần tên lý trưởng bảo bố tôi miệng hến.
Ông nhấp ly rượu cười: hừ miệng hến chính là miệng tôi.
Có
lẽ chính vì thái độ nén mình đó mà trong xã hội phong kiến nhố nhăng,
bố tôi đã tránh được bao tai bay vạ gió. Bố tôi dân mèo mù vớ được cá
rán. Ông lấy được mẹ tôi vừa đẹp người, đẹp nết. Suốt đời bà lấy sự hy
sinh cho chồng con làm 1ẽ sống. Hồi tôi mới sinh, nhà nghèo lắm, gặp dịp
đói kém bữa cháo bữa rau. Mùa đông rét cắt thịt, nửa đêm nước sông rạch
cạn, mẹ một mình một bóng gọi mấy bà mấy cô lối xóm dậy đi mò cá. Làng
tôi như một hòn cù lao nằm giữa vùng sông rạch, cá tôm tương đối nhiều.
Có đêm, chỉ bằng hai bàn tay, mẹ tôi đã mò được cả chục ký lô cá. Bàn
tay mẹ đầy vết nứt nẻ, rỉ máu vì vết gai cá trê, cá úc, cá hau đâm nát.
Một lần nửa đêm, chị Mơ lay tôi gọi dậy:
- Húng, dậy đi, mẹ chết rồi.
Tôi
tỉnh dậy, nghe nóI mẹ chết liền lăn đùng ra khóc, gọi mẹ khản cả tiếng.
Chị tôi dìu tôi ra nhà ngoài, nơi có rất đông người vây quanh một đống
lửa. Mẹ tôi đang nằm bên đống lửa như một xác chết. Mẹ tôi bị chết cóng
khi đang mò cá dưới sông, rét quá cứng đờ cả tay chân. Mẹ bị cấm khẩu
trợn tròn đôi mắt. Mấy bà mấy cô cùng mò cá vội khiêng mẹ về. Những
người khiêng mẹ vừa đi vừa ngã dúi dụi vì rét run như cầy sấy. Trời rét
đến bảy tám độ vẫn ngâm mình dưới nước mò cá, sao không chết cóng được.
Nhưng thật may man, bằng cách sưởi mẹ bên ngọn lửa, bằng hô hấp nhân
tạo, bằng cách cạy miệng mẹ đổ vào cả tô nước tiểu trộn gừng giã nhỏ,
cuối cùng người ta đã cứu sống được mẹ tôi. Vậy mà chỉ ít đêm sau, mẹ
lại nai nịt vào người mấy cái mền rách, theo mấy bà xuống sông mò cá.
Ngày
bé, tôi là đứa trẻ nghịch ngợm nổi tiếng trong làng. Mỗi lần nghịch
phá, bị hàng xóm đến nhà la rầy, hoặc phàn nàn kêu ca với mẹ, mẹ tôi lại
ngồi khóc. Hóa ra tôi sợ nước mắt mẹ hơn đòn roi của bố. Nhìn mẹ khóc,
tôi thấy quá đau lòng, còn hơn những con lươn của bố hằn trên hai mông
đít tôi. Trong nhà, tôi quý nhất con Mận, tức rựa mận, em kế tôi.
Con
bé dại lắm. Mà kẻ dại bao giờ cũng được người khôn mê. Lại vì ở với kẻ
dại lời lắm, tha hồ cho ta gạt gẫm. Ai đời, lớn tới bốn tuổi mà Mận vẫn
chưa biết đếm. Mẹ tôi đi chợ về chia cho chúng tôi mỗi đứa mười củ lạc.
Tôi ăn cái vèo hết phần mình. Nhưng Mận để dành. Nó bóc củ lạc bỏ miệng
toan nhai, nhưng sợ hết, lại nhả ra cầm trên tay. Nó lấy ước mơ của mình
ra để đếm hay sao mà mười củ lạc rõ ràng, lại đếm thành ra hai mươi mốt
củ. Tôi ngồi cạnh Mận làm thân. Đột nhiên, tôi chỉ tay lên mái nhà hô:
- Mận ơi, nhìn kìa. Con chuột công mất con mèo nhà ta rồi.
Con bé tưởng thật, vội ngẩng mặt nhìn lên trần nhà,
ngơ ngác hỏi với cái giọng ngọng nghịu: âu... âu...? Xưa nay, nó mới
chỉ biết một vế thật là mèo tha chuột. Hôm nay, ông anh quý hóa bỗng
phát hiện ra điều kỳ lạ của vế thứ hai, dù thật ngược đời, nhưng đang
xảy ra trên trần nhà:
chuột công mèo, lẽ nào nó không ngó cổ lên nhìn cho được. Vậy là tôi
tranh thủ lúc con em mất cảnh giác, thò tay sang phần quà cho nó, thó
mất dăm sáu củ lạc rang chứ ít gì đâu. Tuy vậy, khi không nhìn thấy điều
anh vừa chỉ, nó lại cúi xuống đám lạc, vẫn còn hai mươi mốt củ mới lạ
chứ. Bằng những cách thức lừa mị như vậy, tôi đã dụ dỗ và bóc lột gần
hết số lạc của em gái mới thôi. Trong ký ức tuổi thơ của Mận, vẫn mơ hồ
có một con chuột tha con mèo, nhưng nó đã không nhìn thấy. Sau này lớn
lên, tôi đã học được cái đức tin thơ ngây của đứa em gái, để suốt đời
ngơ ngác đi tìm cho ra một con chuột vô hình vừa tha mất con mèo đời
sống. Con người từ bao đời nay, hình như vẫn chưa chịu tuyệt vọng, vẫn
dùng hết cách để cố tìm ra cái chưa có thực bằng cả nhiệt tình của mình.
Mận là cô bé thật lạ. Mỗi lần ăn xôi đậu đen, nó vẫn băt tôi nhặt hết đậu ra mới chịu ăn. Nó bảo:
- Xôi gì mà toàn ruồi là ruồi.
Trời,
đậu đen, những hạt vừa bùi vừa béo ngon vậy mà em gái tôi cho toàn là
ruồi. Tôi thì vô cùng thích xơi cái giống ruồi béo ngậy đó. Tôi không
giải thích dài dòng làm gì cho mệt, rằng đậu đen ngu ạ, ruồi biết bay cơ
mà, thứ này cũng đen cũng bé như vậy, nhưng đâu có biết bay. Nhưng tôi
biết tính con nhóc này, nó đã phán là ruồi, thì có chết, đậu đen vẫn cứ
phải là ruồi.
Tôi nhanh nhẹn nhặt hết ruồi trong đĩa xôi em gái, rồi cho vào miệng, nhai hết sức ngon lành, thỏa mãn.
Con Mận kinh ngạc reo lên:
- Mẹ ơi, khiếp quá, anh Húng nhai ruồi.
Tôi
vừa ăn vừa buồn cười đến phát nghẹn, vừa thương hại đứa em gái ngốc ơi
là ngốc. ở đời, nếu là ruồi đi chăng nữa, mà ngon thì cũng cứ nên chén.
Từ đó, Mận phục tôi đến sát đất. Nó đi khoe với bọn trẻ con hàng xóm
rằng anh Húng nhà tao tài hơn cả thánh, đã ăn bao nhiêu là ruồi. Thấy
đám trẻ con lâu la bốn năm tuổi của tôi tròn xoe mắt thán phục, nên tôi
càng khoái chí, tự vỗ ngực tao ăn ruồi đấy, khiếp chưa? Nhưng sau cái
hãnh diện là đến cái tai hại. Con Oanh, bạn thân nhất của tôi, nhìn tôi tởm quá, tuyên bố không thèm chơi với cái thằng ăn ruồi nữa.
Tôi
đã phải đi cải chính, đi giải thích đến khản cả tiếng, đến suýt đánh
nhau với bọn trẻ con hàng xóm, rằng tôi ăn hạt đậu đen trong xôi, chứ
không phải ăn ruồi, nhưng chúng dứt khoát không nghe. Tôi đi tới đâu
cũng bị trẻ con gọi: ê thằng Húng chó ăn ruồi. Đến nỗi sau này thành
danh rồi, có người già vẫn kể về tôi cho con cháu rằng ở tại làng Bình
Hải này, ngày xưa có một cậu bé toàn xơi ruồi là nhà văn Trần Hưng
đấy. Bởi vì đậu đen đã biến thành ruồi từ thời thơ ấu của tôi. Một
thằng oắt con như tôi, dám bắt ruồi ăn, thì thử hỏi trên đời này, còn
thứ gì hắn trừ mà không cho vào miệng. Sau này khi đã lớn, đôi lúc tôi
vẫn nhìn đời bằng con mắt của Mận nhìn vào đĩa xôi thuở nhỏ.
Tôi
nhớ đến mười lăm mười sáu tuổi, con Mận mới dám ăn bún. Ngày nhỏ, nó
cho bún là giun sán. Tôi đã có kinh nghiệm về cái vẻ ruồi tai hại kia,
nên không còn thích tham dự vào chuyện bún hay giun của con bé muốn đặt
tên lại các sự vật theo sở thích của mình.
Hồi
con Mận đi khoe khắp bàn dân thiên hạ rằng anh nó có tài ăn ruồi, tôi
đã lo sợ và buồn vì con bé Oanh không thèm chơi với mình nữa. Nhưng nghĩ
lại, tôi không bỏ lỡ cơ hội, tội gì lúc thiên hạ đang phục mình như
vậy, lại không xưng vương. Tôi bèn xưng mình là vua. Em gái tôi, tức con
Mận làm hoàng hậu. Hoàng hậu năm tuổi mặc quần giải yếm. Đám quan lại
lính lác đa số cởi truồng, thò lò mũi, áo xống vá chằng vá đụp. Thằng
Tỏi, Lê Xuân Tỏi, con ông Lê Xuân Rồng, giàu nhất làng bên xóm cây đa,
hơn tôi hai tuổi, một lần tìm đến. Tỏi là con thứ tư của ông Rồng, một
ông để râu cá trê, đi đâu cũng gặp toàn ma là ma. Ông Rồng kể rằng một
lần đi đêm, ma đưa ông vào ngồi giữa bụi tre gai, đến độ sáng sớm cả
làng kéo ra dùng dao phát tre mới lôi ông ta ra được. Ông Rồng còn kể vô
khối chuyện ma tà chỉ nghe đã muốn ù té chạy, nổi da gà, sởn tóc gáy.
Thầy pháp khuyên ông nên dùng một thử vũ khí trừ ma rất hữu hiệu là tỏi.
Do vậy, ông nhai tỏi như người ăn trầu, mùi tỏi xông lên hôi hơn cú,
tanh tanh nhẩn nhẩn rất khó chịu. Bất kể lúc ngủ hay khi thức, trong túi
ông lúc nào cũng có một củ tỏi làm bùa hộ mệnh.
Nghe
nói từ khi sử dụng món tỏi ấy, ma cũng đỡ hành ông. Cho nên đứa con thứ
tư ông đặt tên là Tỏi, âu cũng là dễ hiểu. Tỏi mặc cái quần đùi xanh đã
bạc nhưng chưa hề thủng đít.
Làng tôi
thời đó, trẻ con chỉ cần bận một cái quần không thủng, không vá đã là sự
kiện rồi. Ngoài ra Tỏi còn mặc cái áo màu nâu non rất mới. Một điều
khiến tụi tôi há hốc miệng là Tỏi còn đi đôi guốc gỗ sơn xanh có vẽ hoa,
gõ loong coong lên đường đất rất vui. Đám trẻ con xóm cây thị của tôi
từ khi sinh ra đến giờ, chưa một lần được xỏ chân vào guốc dép. Cả bố mẹ
chúng cũng suốt đời đi chân đất đó thôi. Tỏi dắt theo năm sáu đứa con
trai, đứa nào cũng suýt soát tuổi tôi.
Tôi
đang chơi trò vua chúa, thấy bọn Tỏi tới liền bãi trào. Tỏi tuy lên
chín, lớn hơn tôi hai tuổi, nhưng tướng hắn nhỏ thó, vẻ ốm yếu, còi cọc,
chỉ duy hai con mắt la sáng quac, khiến gương mặt hắn trở nên rất tinh
khôn.
Bọn con gái phe tôi đa số ở truồng,
thấy Tỏi diện quá, bèn trơ mắt ếch ra ngó. Chắc chúng đang thèm khát một
bộ đồ lành lặn như Tỏi, lại mơ có cả guốc đi nữa chứ.
Thằng
Tỏi trao guốc cho một đứa mà tôi đoán chắc là lính hầu. Thằng bé kia
cũng dân mặc quần thủng đít như tôi, ôm guốc của chủ áp vào bụng rất lễ
phép.
Tỏi gọi tôi:
- Húng ơi.
Nó khôn thật, không dám gây sự với đám tôi nên không thèm kêu tôi là Húng chó như đứa khác.
Con Mận nhanh nhẩu bảo Tỏi:
- Vua chứ, anh Húng đang làm vua đấy nhá.
- Gớm, vua mà phải để thiên hạ nhắc, người ta mới biết đấy là vua, thì cũng chỉ là thứ vua hạng bét.
Tỏi bèn nhỏ nhẹ, gọi cho em gái tôi vừa lòng:
- Vua ơi.
Tội gì mà tôi không nhận danh hiệu ấy. Tôi trả lời:
- Ơi!
Tỏi nói tiếp:
- Xin mời vua ra đây nói chuyện riêng với dân.
Tôi sợ gì mà không ra. Vua mà.
Khi
Tỏi dắt tôi tới sát gốc cây bàng, xa đám thần dân đang ăn tiệc bằng đất
và các thứ lá, Tỏi hỏi tôi không còn kiêng nể gì nữa:
- Tao nghe mày ăn được ruồi hả Húng?
Tôi giận quá, tính thoi cho Tỏi một quả vào mặt để biết thân. Rằng mày đừng có xách mé, lúc vua, lúc mày, không còn trên dưới gì nữa. Nhưng thấy quân lính của Tỏi quá mạnh nên tôi đành thôi. Tôi đáp cho bù lại cái uy vừa bị hắn xúc phạm:
- ừ đấy vua thì cái gì mà không ăn được.
Tỏi
cười. Cái cười rất lâu. Hắn móc trong túi áo ra một cái sâu kèn to bằng
ngón tay. Đoạn Tỏi đổ từ sâu kèn ra giữa lòng bàn tay mình có đến hàng
chục con ruồi thật đã chết, bảo tôi:
- Biếu mày đắy. ăn đi vua.
Tôi
hoảng quá, xanh cả mặt. Cái thằng cu Tỏi này ranh ma quá, đâu có dễ tin
như đứa trẻ khác. Điều gì cũng cứ phải thử cái đã, xem thực hư ra sao.
Tôi bèn đánh bài lờ:
- Vua no rồi.
Tỏi cười ngất, trừng mắt:
- Mày nói dối đúng không?
Nó vừa hỏi vừa liếc nhìn cái đám đệ tử hùng hậu của mình, có ý đe nếu mày không khai thật, hãy coi chừng nhừ xương đó con.
Tôi đành phải gật đầu, ngầm thú nhận mình bịp. Tuy vậy, tôi vẫn chữa thẹn:
- Tao ăn hạt đậu đen trong xôi cơ. Tại em gái tao bảo tao ăn ruồi đấy chứ.
Thằng Tỏi nghĩ một lúc bảo:
- Tao sẽ báo cho tất cả biết mày nói dối. Tao sẽ bắt mày ăn ruồi thật trước đám lính của mày. Căi đồ chỉ quen ăn ruồi giả.
Tôi van nài nó:
- Đừng, mày đừng làm vậy Tỏi ơi. Tao nhường cho mày làm vua đấy.
Tỏi được nước, bèn sỉ nhục tôi:
- Tao ỉa vào làm vua ấy.
Tôi xuống nước:
- Từ nay tao cũng không dám làm vua nữa đâu.
Tỏi khuyên:
- Thôi, bỏ cái chuyện ruồi với vua đi. Tao vẫn để cho mày được cái tiếng ăn ruồi nghe chưa!
Tôi gật đầu. Có mỗi cái tài ăn ruồi, mà nó khui ra là bịp, thì tôi còn gì để làm oai với thiên hạ?
Thằng Tỏi lại vỗ vai tôi:
- Mày có thích đi guốc không?
- Thích.
- Thỉnh thoảng tao cho mày mượn đi vài bước nghe chưa.
Ôi
chao, được xỏ chân vào đôi guốc có sơn hoa của nó mà đi vài bước, với
tôi lúc đó cỏn gì bằng, thật là một đặc ân. Tỏi ra lệnh tiếp:
- Nhưng tao đi đâu mày phải theo sau đấy. Rồi mày còn phải xách guốc cho tao nữa chứ. Chịu không?
- Chịu.
Tỏi bảo tôi:
- Mày cứ làm vua nước mày đi, tao không cấm đâu.
Thì
ra, Tỏi đã dùng đôi guốc dụ khị được bao nhiêu đứa đi theo. Chính nó
cũng quý đôi guốc hơn vàng. Đi học, nó bỏ guốc vào cặp xách, tới trường
mới xỏ guốc vô. Trẻ con làng tôi ngày đó, có lẽ duy nhất chỉ có Tỏi là
có guốc đi. Bọn tôi chỉ vì mê đi guốc mà chấp nhận làm nô lệ cho nó.
Riêng đối với tôi lúc đó, Tỏi còn có một thâm ý. Rằng mày cứ việc làm
vua đi, nhưng là đồ vua xách dép.
Cho tận lúc con Oanh xinh đẹp, bạn thân của
tôi bỏ tôi vì ghê tởm cái tật ăn ruồi. Tôi gặp thằng Tỏi nhờ nó cải
chính giùm cho, nhưng chính nó còn thề với Oanh là đã chứng kiến cảnh
thằng Húng chó ăn hết ba mươi ba con ruồi đực, mười hai con ruồi cái
trong một nháy mắt. Từ đó, Tỏi đã dụ được đứa con gái xinh nhất xóm cây
Thị, đi theo phe xóm cây Đa của tụi nó.
Tỏi hay sang nhà tôi chơi. Trưa mẹ tôi đi chợ về, có quà vẫn chia đều cho mọi đứa. Tỏi cũng có phần nên càng thân với tôi hơn. Có lần buổi trưa tôi đang chơi bên nhà hắn, bỗng nhiên Tỏi hét tướng:
- Húng, mẹ mày đi chợ đã về kìa, tới đầu ngõ rồi đó. Về nhanh không trẻ con nó chén hết bánh đó.
Tôi
chạy hớt hải về nhà, nhưng tìm mãi không thấy mẹ mình đâu. Tôi bèn chạy
qua nhà nó, thì thấy mẹ nó đã đi chợ về, chia bánh cho nó và nó đã ăn
sạch. Sau này tôi mới hiểu là khi nhìn thấy bóng mẹ nó sắp về, nên bịa
ra chuyện mẹ tôi, để tôi cút cho rảnh. Vì nó sợ sự có mặt của tôi, khiến
mẹ nó phải cho bớt quà đi. Trò chơi gì Tỏi cũng bày đầu, cũng tổ chức.
Nó đã có cái máu cầm quyền, máu ưa thống trị kẻ khác từ khi còn để chỏm.
Cho
hay quyền lực đâu chỉ hấp dẫn thế giới người lớn. Bằng đôi guốc và sự
mưu mẹo, thằng Tỏi đã chinh phục được gần hết trẻ con làng tôi ngày bé.
Nó đã biết cách trở thành lãnh tụ khi còn trong tuổi đái dầm.
Tôi
nhớ một lần tên Tây đoan trên tỉnh về làng khám rượu. Bọn tôi đang chơi
nặn đất thì thấy trẻ con, người lớn ùn ùn chạy ra phía bờ sông như ong
vỡ tổ. Không biết chuyện gì, bọn tôi cũng chạy vù đi. Có người nào đó
hô: xe đạp, xe đạp. Tiếng hô như ngòi pháo châm vào đám trẻ con đang
chen nhau chí chết đổ ra bờ sông. Tôi và hai ba đứa con gái rơi xuống bờ
mương ướt hơn chuột lột, mãi mới bò lên chạy tiếp được. Thế rồi tôi
cũng chen được ra bờ sông nhìn sang bên kia. ôi chao, một sự lạ lùng.
Ông Tây đoan mặc quần soọc, đội mũ cát, đi xăng đan đang đạp cái xe gì hai bánh lao vùn vụt. Bọn tôi phục quá, vỗ tay ầm lên.
Tên
Tây đoan dừng lại, dựa xe vào hông, giơ tay vẫy. Chúng tôi càng vỗ tay
tợn. Mấy người lớn thi nhau giải thích cho đám trẻ con biết đấy là cái
xe đạp, máy móc ghê lắm, phải có bùa phép mới cỡi lên được. Bữa đó có
hai đứa trẻ con rơi xuống sông tí chết đuối vì chen nhau xem xe. Đấy là
lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cái xe đạp. Không biết bằng cách
nào, một ngày sau, thằng Tỏi đã dụ được tên Tây đoan cho ngồi trên
pocbaga để nó chở đi đến cả chục mét.
Từ
đó, uy tín thằng Tỏi càng lên cao một cách khủng khiếp, trong thế giới
trẻ con trong làng. Nó đã trở thành thần tượng của đám trẻ con nghèo khổ
chúng tôi.
Đến bảy tuổi tôi mới
được học vỡ lòng do một ông giáo già dạy dỗ. Hôm đầu tiên xếp hàng vào
lớp, tôi được xếp đứng trước cô bé Oanh. Oanh là con gái bác phó Lãm
chuyên hàn nồi niêu và làm lò rèn gần nhà tôi. Trước kia, tôi với Oanh
chơi thân nhau lẫm. Nhưng từ khi nghe đồn tôi ăn ruồi, nó khiếp quá.
Thấy
tôi, nó toàn nhổ nước miếng ra vẻ kinh tởm. Oanh nghỉ chơi với tôi để
sang chơi với cánh thằng Tỏi. Con bé xinh xắn cho nên đi đâu cũng sướng.
Thằng Tỏi cho Oanh mượn guốc đi có khi cả tiếng đồng hồ. Một bên dễ
thương, một bên có guốc, chơi với nhau thành ra hai bên đều có lợi. Tôi
giận Oanh từ đó. Cái đồ tham phú phụ bần, mới thấy đôi guốc đã hoa mắt
lên như vậy, huống hồ trước những bả vinh hoa thật thì còn mê đến mức
nào. Thấy Oanh, tôi làm lơ, coi như không có. Nhưng thật khổ thân tôi, con bé vẫn có, vẫn tí tởn. Thấy tôi nó còn nhăn mũi lên, thiếu điều bảo thẳng vào mặt tôi là cái đồ ăn ruồi.
Hôm
lần đầu xếp hàng vào lớp học, Oanh đứng sát sau tôi mà không biết. Có
lẽ có đứa quái quỉ nào nghịch, xô hàng lên, khiến Oanh dúi vào tôi, đạp
cả chân lên chân tôi nữa trời ạ. Đạp xong, con bé vẫn rút bàn chân nhỏ
nhắn, trang trẻo của mình về một cách tỉnh bơ, coi như không có chuyện
gì xảy ra vậy. Thực tình, tôi chả thấy đau là gì cả, có khác gì bàn chân
mèo êm như nhung đạp phải chân mình đâu. Nhưng khi đó, tôi đang ghét
Oanh. Trò đời khi yêu củ ấu cũng tròn, ghét thì bồ hòn cũng méo. Sau
này, mỗi lần hồi tưởng lại chuyện đó, tôi chắc chắn Oanh vô tình đạp
phải chân tôi chứ nào phải cố ý. Nhưng tôi cho rằng đây là âm mưu của
Oanh để làm nhục tôi. Tôi tính đá cho con bé một cú, nhưng thấy bọn con
trai trong hàng đứa nào cũng muốn nịnh nọt, muốn lấy lòng để được về phe
nó chỉ vì mặt mũi nó đẹp. Tôi vỡ lẽ ra rằng đứa con gái đẹp nào cũng
lắm kẻ hầu hạ, nhiều lính tráng lâu la. Tôi dẹp ngay ý định dùng võ lực
với Oanh bữa đó. Nhưng tôi để bụng. Tôi là thằng thù dai nhất trần đời
à mày dám đạp vào chân ông hử? Nhớ lấy nhé, thế nào rồi ông cũng tìm
được cách trả thù đích đáng cho nó có đi có lại. Suốt một tuần lễ sau
đó, ngày nào xếp hàng vào lởp, tôi cũng tìm cách đứng sau Oanh, nhưng
không lại với những đứa khác. Dù đám con trai mới bằng hạt mít đi nữa,
nhưng đã rất thích, rất quý trọng, tìm cách đứng gần đứa bạn gái xinh
đẹp. Cuối cùng, tôi đã tìm được cách đứng sát sau Oanh để tìm cách trả
thù. Tôi lừa lừa giơ thẳng bàn chân đầy đất cát, đạp hết ga xuống mu bàn
chân của đứa con gái sáu tuổi. Thắng lợi rồi, thù đã trả xong, tôi hí
hửng đứng nhìn Oanh mếu máo khóc. Chắc là con bé đau lắm, khóc rên rỉ
mãi. Nó quay lại vừa chùi nước mắt vừa bảo tôi: Đồ ác, què chân người ta
rồi này. Trời ơi, nhìn gương mặt con bé lúc đó, sao tôi thấy nó đẹp làm
vậy, dễ thương làm vậy. Những giọt nước mắt của nó làm tôi tan nát cõi
lòng. Chính là tôi đau đớn quặn thắt chứ không phải nó. Quả là tôi ác
với nó quá. Tôi muốn quỳ xuống đắt, nâng bàn chân bé bỏng của Oanh lên
mà vuốt ve, xoa nan cho hết cơn đau. Nếu chỉ có hai đứa chắc tôi đã quỳ
xuống thật. Nhưng trước đám đông, dù sao tôi cũng tự ái.
Oanh
ngồi xuống lấy tay xoa bàn chân đau. Đoạn nó đứng lên, mắt còn ngấn
nước, bảo tôi: Đền chân cho tao đi. Tôi buột miệng trả lời: ừ, tao đền.
Tôi nhìn như muốn nuốt sống Oanh vào đôi mắt ốc nhồi của mình. Bao nhiêu
thù hận của tôi với Oanh từ trước đến giờ, bỗng rơi mất hết, chỉ còn
toàn thương cảm. Có nỗi gì lâng lâng từ gan ruột dâng lên nghẹn lấy họng
tôi, khiến tôi trở thành câm điếc. Chắc con bé đã hết đau, lấy tay áo
vá quệt nước mắt rồi đứng lên theo hàng vào lớp. Tôi cúi xuống trộm ngam
bàn chân phải của Oanh, nơi tôi vừa đạp thẳng cánh với tất cả sức vũ
phu trâu bò của đứa con trai bảy tuổi. Bàn chân ấy hơi ửng đỏ lên như
đôi má lúc xấu hổ vậy. Oanh bảo tôi phải đền chân cho nó. Nếu Oanh cần
bàn chân của tôi, giá có thể chặt được tặng nó tôi cũng vui lòng. Dường
như giây phút ấy đã ảnh hưởng còn toàn bộ ý nghĩa cuộc đời tôi. Tôi đã
mắc nợ Oanh bàn chân để suốt đời phải trả. Sau này lớn lên, khi có tình
yêu, tôi mới hay rằng trong hành trình trần thế,
con người ta luôn luôn được đi bằng đôi chân của một người nào đó như
là mẹ ta, bạn bè ta hay người con gái ta yêu. Bữa đó vào lớp học, việc
đầu tiên là tôi phải tự trừng phạt bản thân mình. Hừ, sao mày dám đạp lên bàn chân của Oanh một cách ác độc như vậy hả? Tôi dùng bàn chân trái tự đạp thật mạnh vào
bàn chân phải của mình cả chục cái, đau ứa cả nước mắt. Làm như vậy,
tôi thấy an lòng hơn. Tôi đã tự mình trả thù cho Oanh theo kiểu như vậy
đó.
Cũng lạ, từ ngày đó,
Oanh không bao giờ gọi tôi là thằng Húng chó ăn ruồi nữa. Tôi nghĩ chắc
con bé sợ cú đạp chân trời giăng kia. Rằng đừng chọc cái thằng quỷ sứ ăn
ruồi ấy, có ngày nát chân, lấy gì để đi học, đi chơi. Oanh giận tôi
đúng một năm, không thèm nhìn, không thèm nói chuyện, dù tôi đã xuống
nước đến mức ê mặt. Bấy giờ chúng tôi đã lên lớp một. Nhà hai đứa gần
nhau, cùng đi một đường, nhưng cô bé không bao giờ chịu đi chung với
tôi.
Một lần đi học về, tôi đi trước chờ
Oanh ở ngã ba cây thị. Chả là cách đây mấy tiếng đồng hồ, không hiểu sao
Oanh đánh nhau với hai con bé trong lớp giờ ra chơi, nếu không có tôi
xông vào bênh, chắc là con bé đã bị cào mặt, bị giật hết tóc tới mức
trọc đầu, vì hai con quạ con kia dữ dằn quá. Vì vậy, sau lần lập công
chuộc tội, tôi đã có cớ làm lành với Oanh. Thấy tôi đứng chờ, Oanh có vẻ
cảm động. Nó ngồi xuống vệ cỏ, quay mặt ra con mương, tay bứt cọng cỏ
chỉ đưa lên miệng nhấm. Tôi liều mạng, gần như nín thở, dịu dàng tới sát
con bé gọi:
- Oanh ơi.
Oanh vẫn tỉnh bơ, không thèm nhìn tôi, ngúng ngoẳng:
- Không ai thèm thưa đâu mà gọi.
Tôi biết sau hơn một năm, cô bé con này vẫn còn tức tôi.
Tôi hỏi tiếp:
- Chắc cậu giận tớ năm ngoái đạp vào chân chứ gì?
Oanh cộc lốc:
- Không thèm.
Tôi hạ mình xuống tới mức, có thể biến thành con chó con ngay bây giờ:
- Húng xin lỗi Oanh.
Oanh nhìn tôi, hai mắt tròn xoe, cười:
- Đừng có xin, tớ không cho đâu.
Tôi
chợt thấy cần phải làm một hành động gì ghê gớm, để chứng tỏ sự chân
thành hối cải của mình. Tôi bèn nhặt ngay một cái vỏ ốc biêu vỡ bên
cạnh, bảo Oanh:
- Oanh hãy nhìn tớ trừng phạt cái bàn chân gây ra tội lỗi này.
Không hiểu lúc đó ông trời vì sao lại phú cho thằng lỏi con là tôi một sức mạnh lạ lùng đến thế. Tôi liều mạng, nghiến răng, dùng cái cạnh sắc nhất của vỏ ốc vỡ, rạch một cái thật mạnh vào
bàn chân phải của mình, cái bàn chân năm ngoái đã đạp vào chân Oanh để
gây ra mối thù suốt hơn một năm nay. Mọi việc xảy ra trong nháy mắt
trước cái nhìn kinh ngạc của Oanh. Sau này, nhìn lại hành động rất Chí
Phèo ấy, tôi vẫn chưa thể lý giải nổi. Phải chi cái dũng khí này theo
tôi cho đến giờ, chắc chắn cuộc đời tôi đã không kết thúc đau buồn và vô
nghĩa như thế. Cho hay, cuộc đời ta thành hay bại, tốt hay xấu, nhiều
khi lại do những tác động của người con gái nào đó...
Thấy
tôi rạch chân mình chảy máu, để trả thù cho Oanh thì ít, mà để cô bé
mủi lòng thương hại thì nhiều, Oanh sợ quá, khóc ầm lên. Xong, cô xé một
tờ giấy trắng trong quyển vở học của mình ra băng bó bàn chân cho tôi,
nhưng máu vẫn chảy. Vậy là, cuối cùng hai đứa, tôi tám tuổi và Oanh bảy
tuổi, đã ngây thơ cào đất bột trên đường để đắp vào vết thương. Do chiến
thắng lừng lẫy của cú ăn vạ rạch chân ấy, hai đứa tôi chơi lại với nhau
từ đó. Lớn lên, chúng tôi đều được gia đình gởi lên tỉnh học hết đệ nhị
rồi đệ tam cấp. Nhớ hồi mẹ tôi cùng với mẹ Oanh dẫn chúng tôi lên tỉnh
tìm nhà trọ học. Lần đầu tiên, hai đứa bé nhà quê mới thấy thành phố,
thấy điện, thấy nước máy. Việc đầu tiên của hai bà mẹ là tìm mua cho
chúng tôi mỗi đứa một đôi guốc, chứ lên thành phố ai lại đi chân đất như
ở nhà quê, người ta sẽ chả khinh cho bằng rác ấy. Lần đầu tiên đi guốc
đối với chúng tôi thật là cực hình. Lúc đau quai guốc làm bàn chân chúng
tôi bị lột da rồi rớm máu.
Đi được vài
đường phố, hai chúng tôi đành phải xách guốc, vừa đi vừa nhìn chân y hệt
hai quân ngố rừng. Thấy hàng bán kem que, hai bà mẹ mua cho chúng tôi
mỗi đứa hai cây ăn cho biết. Mặc dù từ bé đến giờ đã biết kem kiếc là
cái quái gì đâu, bèn ra vẻ ta đây trước mặt Oanh, cầm que kem cắn cái
rụp. Trời ơi, hai hàm răng tôi tưởng rụng hết, buốt đến váng óc. Tôi
phải nhăn mặt nhổ hết kem ngậm trong miệng ra đường, kêu nóng quá, nóng
quá. Đoạn, tôi cầm que kem còn lại thổi phù phù cho nguội. Mẹ tôi cười
quá. Oanh cũng cười theo. Cô bé vẫn chưa chịu ăn cái của lạ này, chờ xem
cái đã. Mẹ Oanh bảo tôi: Kem lạnh chứ không phải nóng đâu cháu ạ. Lúc
đầu bác ăn kem cũng vậy, cứ tưởng nó nóng đến bỏng mồm bỏng miệng, ai
ngờ nó lại lạnh buốt đến mức ấy.
Tôi quê
quá, đỏ mặt. Mười ba tuổi rồi mới cầm que kem, đã không biết thì hỏi
người ta, lại hay làm ra bộ ta đây sành sỏi, rõ cái thằng không biết
ngượng. Tôi tự rủa mình: cái đồ chỉ được nước giỏi ăn ruồi thôi. Trong
làng năm ấy chỉ có tôi và Oanh được lên tỉnh học. Số là ba năm trước, bố
tôi phất lên được nhờ đi vô tận xứ Mèo, mua được hàng trăm cái mật gấu
với giá rẻ, đưa về tỉnh bán lời quá. Từ đó, bố tôi có vốn khá, buôn bán
phát đạt, số cho ông được giàu. Ông bèn mua cả chục mẫu ruộng, cho người
ta phát canh thu tô. Thoắt một cái, gia đình bố mẹ tôi đang từ chó nhảy
lên voi. Gia đình Oanh số trời cũng ủng hộ. Lò rèn của bác phó Lãm, bố
của Oanh suốt ngày đêm phì phà phì phò như voi thở, bếp than rực hồng và
tiếng búa đe chí cha chí chát. Bác phó Lãm thuê cả chục người thợ, cung
cấp dao cuốc, búa liềm cho khắp cả vùng quê rộng lớn.
Thằng
Lê Xuân Tỏi cũng học trên tỉnh, hơn chúng tôi hai lớp Lúc tôi gặp Tỏi
trên trường, cậu ta đã mười lăm tuổi gần như một chàng trai tỉnh thành
đi xăng-đan, quần tây xanh, sơ mi trang bỏ trong quần, đầu chải rẽ đôi
bóng mượt, nhìn chúng tôi cười cười vẻ chế giễu. Cuối năm 1944, tôi
không gặp Tỏi trong trường nữa. Việc Tỏi và một số bạn khác bị đuổi học
làm xôn xao anh chị em chúng tôi. Có người đồn vì Tỏi chủ mưu hại hai bà
giáo người Pháp dữ như hai con cọp cái, tính cực đoan, hay chưởi dân An
nam mít dốt đặc, tuổi đã lớn nhưng chưa có chồng. Nghe đâu Tỏi đã dắt
theo hai trò khác lẻn vào chỗ phơi đồ của hai bà giáo bí mật xát ớt,
loại ớt hiểm chỉ thiên cay nhất thế giới vào hai cái coọc-xê của hai bà
giáo, khiến suốt một tuần hai bà giáo phải nghỉ vào bệnh viện điều trị.
Một số đứa thề là đã nhìn thấy hai nạn nhân này, với hai cặp vú sưng to
gần bằng bốn quả đồi. Nhưng có nguồn tin nói Tỏi vào hội kín bị đuổi
học. Sau này tôi mới biết Tỏi bị cảnh binh Nhật truy lùng khắp nơi. Khi
Cách mạng tháng Tám thành công, tôi mới biết Tỏi đã hoạt động Việt Minh
từ đó.
Khi tới tuổi mười lăm, tôi
bỗng nhiên trở thành một người khác; hiền lành, ít nói, thậm chí còn có
vẻ e lệ nữa là đằng khác. Tôi đã cao lớn, ra dáng một trang nam nhi. Sau
bao nhiêu lần nì nèo, xin xỏ, bố tôi đã cho phép tôi đổi tên từ Trần Húng sang thành Trần Hưng.
Chỉ cần bỏ đi dấu sắc, thêm cái dấu ư là tôi đã từ thằng Húng chó ăn
ruồi nghịch ngợm thành ra một thằng Hưng rồi nghe cuộc đời. Cứ vài ba
tháng, tôi lại từ tỉnh về làng xin tiền bạc hoặc để thăm gia đình bà
con. Ai gặp tôi cũng ngó, không sao nhận ra cái thằng ngày xưa ăn ruồi
nữa. Chả bù cho ngày nào vì thằng Húng chó thù ông Giáp Lộng không cho
câu cá, đã lẻn vào bè sạch cam non trên ba cây cam sành nhà ông, tuyệt
nhiên không lấy một quả, mà xếp tất cả cam dưới gốc cho ông già biết
tay. Húng chó từng rình cho đám trẻ chăn trâu mười ba mười bốn tuổi nhảy
sông tắm truồng, mê trò chơi lấy bùa sơn cùng người làm quỷ, bỏ mặc
đống quần áo hôi như cú trên bờ. Vậy là Húng chó lẻn tới theo kiểu lính
đặc công, ôm cả mớ áo quần ấy giấu tít lên ngọn cây bàng, khiến các cu
cậu phải ngâm mình dưới sông chờ tối mới dám mò về nhà. Húng chó tổ chức
đám trẻ con vào chùa ăn cắp tượng Phật, lấy bẹ chuổi đóng quan tài đặt
tượng, kéo nhau đi như kiến làm đám ma. Húng chó bắt rắn nước buộc vào
đuôi chú bê nhà ông Thả, khiến đứa con gái út nhà ông khi gọi bê về
chuồng, nhìn thấy sợ quá ngất xỉu. Húng chó giấu cây gậy vạn năng của
ông Y, bõ nhà thờ, còn rình bên gốc cây gạo lúc chập tối, giả làm ma dọa
ông già bảy mươi, khiến cụ vắt giò lên cổ chạy thục mạng, té đái ra
quần. Húng chó bỏ hàng chục trái ké ngựa giấu trong túi áo, rồi thừa cơ
xoa lên đầu bọn con gái, khiến chúng phải mệt công lắm mới gỡ nổi trái
ké kia ra khỏi tóc. Trời ơi, chuyện nghịch phá của Húng chó tôi có kể
thâu đêm suốt sáng cũng không hết. Đến nỗi bất kỳ vẻ nghịch ngợm của bất
cứ đứa nào trong làng, người ta đều đổ tội cho nó. Thành ra, tôi bị
tiếng oan nhiều lắm, bị đánh chửi nhiều mà nghịch chẳng bao nhiêu.
Thậm
chí nhớ hồi lên tỉnh học rồi, về quê chơi, gặp dịp thuận lợi, tôi vẫn
còn nghịch. ấy là lần đi qua sân nhà ông Khoản, thấy đang phơi tượng ông
thánh An-rê bằng gỗ mít với nước sơn tuyệt đẹp. Chắc là chủ nhân mang
ngài xuống để lau chùi sạch bụi, lại để đầu ngài một nơi, thân ngài
một nẻo. Thấy vậy không hiểu ma quỷ cám dỗ làm sao, trông trước trông
sau không thấy ai, tôi bèn thó ngay cái đầu ông thánh bỏ vào túi, chuồn
mất. Tôi công phu quành xuống chùa ông Lý Đào, bỏ đầu thánh An-rê vào
chiếc bát nhang trước tượng Phật Thích Ca. Ông Khoản thấy đầu vị thánh
thiêng liêng không cánh mà bay, bèn quỳ xuống làm dấu đọc kinh líu cả
lưỡi, đấm ngực mình thùm thụp, tuyên bố là đầu ngài đã bay lên trời,
khiến cả làng kéo tới khấn vái om sòm. Chủ nhân bê vị thánh cụt đầu đặt
lên bàn thờ, sợ một phép, đi ra lạy, đi vào vái, rồi mời bà con có đạo
trong làng đến đọc kinh tập thể hàng mấy chục đêm. Tín đồn nhà ông Khoản
có phép lạ bay đi khắp vùng. Người ta ở khắp nơi kéo nhau đến nhà ông
Khoản, khấn khứa vị thánh cụt đầu đến độ chen nhau bẹp ruột. Cha xứ bèn
nghĩ ra cái kế làm thùng đựng tiền để bà con bổn đạo đóng góp cung phụng
thánh An-rê. Nghe nói tiền ấy thu được khá nhiều, nhà thờ và chủ nhân
chia nhau. Sau này, một lần thắp hương trước tượng Phật, ông sư ấm chùa
Lý Đào thấy tượng đầu ông Tây bằng gỗ, râu ria tùm lum, mắt nhìn không
chớp, hoảng hồn la làng. Khi định thần lại, sư ấm kéo cả vãi, cả tiểu
vào chùa quỳ xuống lạy đầu ông Tây như lạy tà, làm cả tuần cúng bái.
Người xóm đạo nghe tin, tới coi biết ngay là đầu thánh An-rê nhà ông
Khoản, bèn nói ngài bay vào chùa giảng đạo cho Phật Thích Ca nghe. Ông
Khoản, cha xứ kéo cả họ đạo tới chùa, mang kiệu, xin sư ấm cho rước đầu
ngài về, nhập lại với thân đứng
bơ vơ suốt mấy tháng không đầu. Đám rước đầu ông thánh đạo có cả sư ấm
chap tay đi theo, với tiếng cha cố hát tiếng Latinh, tiếng con chiên đọc
kinh vang cả góc trời.
Ngay
bố mẹ tôi còn kinh ngạc vì sự thay đổi tính nết của tôi, huống nữa người
ngoài. Từ một đứa trẻ quá quất và oái oăm đó, bỗng nhiên tôi lành như
con búp bê, dễ thương và đứng đắn đến độ người làng còn phải nghi ngờ,
cảnh giác. Tất nhiên, có nhiều yếu tố làm thay đổi tâm tính tôi. Nhưng
cái tác động mạnh nhất,
điều cải hóa tôi hữu hiệu nhất chính là Oanh, người bạn gái cùng xóm,
cùng học một trường từ thuở tấm bé. Khi Oanh sang tuổi mười bốn, mái tóc
nàng bỗng dài kỳ lạ, đen óng ả có thể soi gương được. Môi Oanh chưa hề
đánh son mà lúc nào cũng đỏ cháy như màu hoa lựu. Má nàng ửng hồng, cặp
mắt lúc nào cũng ươn ướt, lấp lánh, sâu hút còn hơn cả một đời người.
Oanh có một chiếc răng khểnh mà thiếu nó, cô có thể mất đi hơn một nửa
cái duyên ngầm. Nhiều khi tôi trộm nghĩ một cách dông dài rằng, nhờ
chiếc răng khểnh ấy của nàng, mà tôi còn có chỗ bám víu, để vịn vào,
không phải trôi tuột đi trong cái cõi đời như trò chơi leo cột mỡ này.
Đôi môi Oanh mỏng nhưng lạ là cô rất ít nói. Từ khi sang tuổi mười ba,
tôi đã thấy Oanh toàn nói bằng mắt. Dường như mỗi tia nhìn của Oanh là
một tín hiệu, tôi đã học được bằng một phương pháp đặc biệt của linh
cảm, không cần qua cái miệng phiên dịch. Sống mũi Oanh cao nhưng hơi
ngắn, có người đoán rời sau này sẽ khổ vì tình. Oanh càng lớn càng đẹp,
một vẻ đẹp hiền hậu, thùy mị của một thôn nữ biết kết hợp với nét đẹp
sắc sảo, nhạy cảm của cô gái thị thành. Đến đây, chả giấu gì các bạn,
tôi xin khai thật là mình đã yêu Oanh không biết tự khi nào. Tình yêu
biến cải con người hơn mọi phép lạ. Tmh yêu chính là động lực sống của
tôi suốt tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Hồi còn thiếu nhi, chúng tôi
kêu nhau lúc mày tao, lúc cậu tớ, lúc Oanh Oanh Húng Húng.
Đến
khi sang tuổi thanh niên, xưng hô với nhau là gì cũng thật ngượng
ngùng. Chúng tôi bèn cứ gọi trống không cho tiện rằng có cuốn truyện mới
của Nguyễn Công Hoan hay lắm gởi cho để đọc đây. Hoặc sáng mai nghỉ học
về quê, có đi không? Hay mẹ gởi lên cho ít trái na, ăn đi...
Tuổi mười bảy mười sáu ngày xưa sao đẹp vậy. Hai đứa ngồi bên nhau trên băng ghế chiếc ca-nô đang thả xuôi dòng, đã từng quen thân nhau
từ hồi mới tập đi, vậy mà vẫn không dám ngồi sát vào nhau, vẫn để một
kẽ hở đủ con mèo chui lọt. Chỉ còn khi hành khách chen nhau, đẩy hai đứa
sát vào nhau khiến nàng dúm người lại như phải bỏng. Oanh mặc quần lụa
đen, áo cánh trắng, tóc kẹp đuôi gà, hai tay ôm cặp sách để trong lòng,
má đỏ ửng, mắt ngó lơ cửa sổ con tàu. Tôi ngồi cạnh nàng, nửa phần sung
sướng hồi hộp, nửa phần ngây ngô, nghiêm trang, mắt lúc nào cũng nhìn
thẳng, đến mỏi cả cổ cũng không dám quay ngang quay ngửa. Nếu lúc bấy
giờ người quen gặp chúng tôi, chắc chắc đoán hai đứa giận nhau, vì cô
ngoảnh đi đàng cô, cậu ngoảnh đi đàng cậu. Trên dòng sông quê hương,
chúng tôi đã cùng lên xuống bao lần. Những làng xóm bên sông với mái rạ
màu đất, tháp chuông nhà thờ cao, khóm tre gù lưng kẽo kẹt. Tháng sáu
vào hè, chúng tôi ra bờ lúa ngắm trăng buổi tối. Hai đứa cứ tần ngần như
khách lạ. Chỉ có trăng, có gió, có hương lúa biết chúng tôi nghĩ gì.
Đối với tôi suốt thời ấy, mọi hình ảnh chính là Oanh hóa thân và ngược lại.
Cách
mạng tháng Tám năm 1945, tất cả học sinh chúng tôi đều tham gia đoàn
biểu tình lao vào tòa thị chính, cướp chính quyền từ tay Nhật Pháp. Rồi
giặc Pháp chiếm lại thành phố quê hương. Tôi chưa kịp lấy bằng tú tài đã
theo đoàn vệ quốc lên chiến khu chống Pháp. Tôi mặc quân phục lính vệ
quốc quân, áo trấn thủ, mũ calô, đi giày đinh lộp cộp, vai khoác súng
trường đến tìm Oanh chia tay trong tiếng đại bác ban ầm trời. Oanh trọ
học trong một nhà bà con tại khu phố nhỏ. Lúc ấy tối rồi, trời rét như
cắt, trăng non lờ nhờ trong sương, phố xá không ánh điện. Thấy tôi đến,
Oanh hớt hải chạy ra liền. Nàng mặc một chiếc áo len mỏng, cổ quàng khăn
vuông màu tím, quần lụa Hà Đông, kéo chiếc guốc lộc cộc hỏi trong hơi
thở:
- Anh đi hả?
Tôi trả lời cộc lốc:
- Đi! Oanh nhìn đó, súng ống đạn dược đủ cả.
Chính
ra, lúc ấy, tôi cần phải ôm lấy nàng, để suốt đời không bị cái buổi tối
buốt giá tháng mười hai ấy theo ám ảnh giày vò mãi.
Không hiểu vì rét hay xúc động, tôi thấy Oanh run lập cập.
Tôi đứng sát vào Oanh bên cạnh cái cột điện gãy như kẻ chết đói, nói rất nhanh, hổn hển:
- Tạm biệt em.
Nói
xong, tôi run bắn lên, như thể cục cao su bật ra khỏi chỗ đứng. ấy là
lần đầu tiên tôi kêu nàng bằng em một cách nghiêm chỉnh và trang trọng
như không khí của những ngày tháng ấy.
Oanh nói như khóc trong tiếng gió bấc:
- Nhớ viết thư cho em.
Vừa nói Oanh vừa cầm tay tôi như nâng đỡ một đứa bé.
Bàn tay nàng ấm áp như con chim trốn tuyết của Pôn Galucô tôi vừa đọc, đã đậu vào tay tôi.
Trong
đêm tối của chiến tranh và giá rét, tôi nắm chặt lấy tay nàng, cúi
xuống hôn ngấu nghiến vào từng ngón tay búp măng tuyệt đẹp, rồi bỏ chạy
như thể một kẻ chết đói cướp để ăn. Tôi nghe tiếng Oanh chạy đuổi theo
sau lưng một đoạn mới chịu dừng lại, để nhòa vào bóng tối của đêm tháng
chạp biệt ly rét đến nỗi, những thanh sắt bên đường han rỉ cũng phải quằn quại lên, cong queo lên.
Chạy
đến đầu phố, tôi ngoái lại, chìa tay ra vẫy, nhưng chỉ có những tiếng
nổ ghê rợn của đạn đại bác, đạn moọc-chê của quân Pháp vạch tửng đường
đỏ lừ như máu từ phía sông ban vào thành phố đáp lại.
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 3
Tôi sẽ là một kẻ vô ơn bạc nghĩa,
là tên vô lại, nếu tôi đang tâm phủ nhận quãng đời đẹp nhất, ý nghĩa
nhất đã hình thành nên nhân cách, nên vẻ đẹp tâm hồn tôi là giai đoạn
kháng chiến chống Pháp. Chín năm sống chết gian khổ đỏ, chính là tình
yêu của tôi với Oanh. Giờ đây, hơn bao giờ hết, trong lúc đau buồn gần
như tuyệt vọng, tôi cần ngoảnh lại giai đoạn này để tìm lại những điều
thiêng liêng đã mất, tìm lại cái ánh sáng cao cả từ mắt bao đong đội tôi
đã vuốt trước khi chôn cất họ, đặng vịn vào những ước mơ nửa vời ấy,
hoài vọng gãy cánh để gượng dậy sau bao nhiêu vấp ngã và thất bại. Cuối
năm 1953, tôi đang là đại đội trưởng một đại đội bộ binh mũi nhọn thọc
sâu trong chiến dịch Tây Bac thì bị thương nặng, phải đưa về tuyến sau
điều trị. Khi tôi ra viện cũng là lúc chiến dịch Điện Biên Phủ đang bước
vào giai đoạn ác liệt nhất.
Dù cố
nằn nì xin về đơn vị chiến đấu, tôi vẫn bị phân công về làm phóng viên
của tờ báo sư đoàn đang ém quân bên kia Phú Thọ. Chả là từ năm 1948 tôi
đã viết lách, đã cộng tác với một vài tờ báo, tờ tạp chí của đơn vị và
của trung ương. Tôi đã gởi đi in báo những mẩu tin, bài báo, thơ và
truyện. Thành ra, tên Trần Hưng
đã ít nhiều người biết đến, nhất là các vị chủ báo đơn vị đang săn lùng
những bạn viết. Hôm ấy trời lác đác mưa. Cơn mưa đầu mùa đến quá sớm,
khi sương mù chưa kịp rút đi sau những tàn cọ xoè Việt Bắc. Tuy nhiên,
trời vẫn còn hoe hoe lạnh. Tôi về đến đơn vị lúc trời đã chập choạng
tối. Người ta dẫn tôi vào cái lán nhỏ lợp lá cọ, núp dưới bóng rừng cổ
thụ. Đấy chính là tòa soạn báo Chiến Thắng của sư đoàn, đơn vị công tác
mới của tôi.
Một người cao to
mặc quân phục chỉnh tề, mũ lưỡi trai vải mềm, xanh-tuya to bản, đeo
súng lục gọn gàng, đi giày vải theo kiểu chí nguyện quân Trung Quốc giúp
Triều kháng Mỹ, tay xách chiếc đèn chai có chụp to, đến chào hỏi tôi
với một giọng thân mật:
- Xin chào đồng chí Trần Hưng.
Tôi đứng nghiêm chào lại, xưng tên tuổi cấp bậc rồi ngồi xuống bên cạnh người ấy.
Anh
tự giới thiệu mình là Nguyễn với bút hiệu Tràng Giang, chủ nhiệm kiêm
tổng biên tập tờ báo. Trời ơi, té ra ông Tràng Giang, người đã viết khá
nhiều bài báo, nhiều ký sự lý thú mà tôi đã được đọc ngay từ những năm
đầu kháng chiến. Thật may mắn cho đoạn đời đầu làm báo làm văn của tôi,
lại có được một người thủ trưởng mình từng phục, từng biết. Tràng Giang
với râu quai nón cạo xanh biếc, ăn nói mềm mỏng, có duyên, giọng Hà nội
rặt, đi đứng khoan thai, tự chủ, đủ biết anh xuất thân từ
một gia đình dòng dõi. Tràng Giang hơn tôi đúng mười tuổi. Trước kia
anh là sinh viên luật, ngày toàn quốc kháng chiến từng ở đội cảm tử
quân. Anh đã bị thương nhiều lần mới lên được quyền chính ủy trung đoàn,
được cử đi Trung Quốc học về khoa lãnh đạo chính trị trong khâu báo chí
văn nghệ.
Nghe anh em nói, cấp
trên đưa anh về phụ trách tờ báo sư đoàn này cốt để thực tập, đặng mai
mốt sẽ giữ những chức vẻ trọng yếu hơn.
Sau
khi lo chỗ ăn chỗ nghỉ cho tôi, Tràng Giang bèn tập họp cả cơ quan gồm
phóng viên, biên tập, in ấn, phát hành, hậu cần chừng hơn chục mạng
quanh bàn trà để mừng người lính mới.
Anh giới thiệu tôi với mọi người thật trân trọng. Rằng đồng chí Trần Hưng
tuy mới viết nhưng đã chứng tỏ là một cây bút có tài năng, nhạy bén
trong thể ký và sâu sắc trong truyện ngắn. Hóa ra, Tràng Giang đã đọc
tất cả những gì tôi đã viết. Chính anh đã chủ động đặt vấn đề với sư
đoàn xin tôi về làm báo. Tôi được giao lo phần văn nghệ của tờ báo, cụ
thể mỗi tuần phải kiếm được vài bài thơ, ít bài ca dao, vài mẫu truyện
ngắn. Tôi lao vào công tác với tất cả nhiệt tình của tuổi hai mươi sáu
tràn đầy mơ ước.
Trong cuộc
sống, Tràng Giang bao giờ cũng rất mẫu mực, đi đầu, không như đa số các
loại cấp trên hiện nay chẳng bao giờ chịu thực hiện những điều mình nói,
mình hứa. Sáng anh dậy sớm hơn mọi người, tối ngủ muộn hơn mọi người.
ăn uống có một tí anh cũng nhường nhịn, luôn giành phần việc nặng làm.
Tràng Giang gần như không còn cái gì của riêng mình, kể từ ngày vợ và
con anh bị bom Pháp giết chết. Tất cả cuộc đời anh từ vật chất đến tinh
thần đều là của tổ chức, của tập thể. Anh sống quy tắc, đúng giờ giấc
còn hơn cả đồng hồ. Ngày nào cũng như ngày nào, từ việc rửa mặt, vệ sinh
còn các động tác của cơ thể, dáng đi, nếp đứng đều dập theo một nguyên
tắc bất di bất dịch, lặp đi lặp lại theo một thói quen, một quy luật.
Anh cũng yêu cầu mọi người phải giữ nguyên tắc trong từng nếp nghĩ, nếp
cảm. Với anh, tất cả đều phải có tổ chức, dù là những điều sâu kín nhất
của con người. Thậm chí, trong một buổi họp, anh tuyên bố ngay cả những
giấc mơ trong lúc ngủ cũng không được miên man dông dài, nhất nhất phải
có tính tổ chức, tính kỹ luật. Sau hai tháng sống, làm việc bên cạnh
Tràng Giang, tôi thấy anh tốt như một vị thánh của cách mạng. Anh giải
thích cho chúng tôi về mục đích của chủ nghĩa cộng sản là dần dần sẽ
tiêu diệt cho bằng hết cái ác trên mặt đất. Thế giới đại đồng chính là
một thiên đường thực sự. Sau này, trải qua nhiều cay đắng, ngoảnh nhìn
lại luận điểm ấy của Tràng Giang, tôi thấy nó phi biện chứng một cách
tức cười, ảo tưởng và ấu trĩ quá. Đúng, hành trình của con người luôn
luôn là một hành trình chiến đấu với cái ác trong bản thân mình
và đồng loại. Tồn tại, chính là một quá trình tự hoàn thiện. Chính
thiên nhiên đã mách bảo con người điều đó. Nhưng tham vọng diệt trừ hoàn
toàn cái ác trên đời này là điều không thể nào đạt được. Bởi vì, không
có cái ác thì cũng chẳng có cái thiện, cũng như không có bóng đêm thì
làm sao có nổi ban ngày. Chính quy luật đối lập để tồn tại này Hê-ghen
đã dạy chúng ta. Đã bao nhiêu nghìn năm từ ngày xuất hiện Do Thái Giáo,
Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo... nhân loại đã có nhiều tôn giáo.
Hàng tỉ người đã giành cả cuộc đời mình, đã hy sinh cả hạnh phúc tình
yêu, sống cuộc đời hành xác cốt để đạt được thiên đường sau khi chết,
một thiên đường bịa đặt không có thật. Không, đã đến lúc đừng biến chủ
nghĩa cộng sản thành ra tôn giáo với đầy những tín điều và các vị thần
linh của nó, xui người ta chiến đấu hy sinh cho một ảo tưởng, một thiên
đàng không bao giờ có khả năng xuất hiện trên mặt đất. Chủ nghĩa cộng
sản nói cho cùng là chủ nghĩa nhân đạo mới, là lý thuyết giải phóng cá
nhân và xã hội, giúp con người thoát khỏi những gánh nặng của số phận,
tự giải thoát mình và đồng loại khỏi mọi áp bức, nô lệ, huyền hoặc, thói
kiêu ngạo và đạo đức giả. Chủ nghĩa cộng sản không đi tìm chân lý tuyệt
đối như người ta tưởng, mà nó luôn luôn tiếp cận, tiệm cận cái hoàn
thiện. Chưa có một lý thuyết nào trên đời tự vỗ ngực nhận mình là chân
lý tuyệt đối, cho dù là lý thuyết của Mác đi chăng nữa. Phải chăng cái
đẹp nhất của một lý thuyết là hành động đi tìm chân lý. Chỉ có Chúa mới
dám cho mình là tuyệt đối, Phật tự phong mình là duy ngã độc tôn mà
thôi.
Mọi giá trị trên đời này đều
có thời của nó. Lịch sử tiến hóa của nhân loại phải chăng là lịch sử của
những lầm lẫn được rút kinh nghiệm để không phải lặp lại? Có những điều
cách đây ba mươi, bốn mươi năm người ta cho là đúng, nhưng giờ đã sai
bét rồi. Cho hay, thời gian bao giờ cũng là bạn đường của lẽ phải. Kẻ
biết cách tính tuổi thọ của các loại chân lý chính xác nhất cũng chính
là thời gian.
Tôi còn nhớ ánh mắt Tràng
Giang đầy xúc động khi trao cho tôi một tài liệu in rônêo trong một buổi
trưa chiến khu. Anh vỗ vai tôi nói nhỏ:
- Cẩm nang của đồng chí đây. Hãy học thuộc những lý luận kinh điển này, đồng chí có thể sẽ trở thành nhà văn lớn đấy.
Tôi
chưa dám mở bửu bối ra, xúc động quá, cầm tay vị anh thậm chí người ta
còn lạm dụng từ ngữ đến kỳ cục khi phê bình nhau rằng trong tư tưởng,
đồng chí là kẻ theo chủ nghĩa ăn tạp, hoặc đồng chí là đầy tớ của bọn
theo chủ nghĩa đa ngôn...
Tôi hí
hửng như ngô được vàng, vội ôm tập cẩm nang thủ trưởng vừa cho mượn, đọc
nhanh mai đã phải trả, mở ra coi mới hay là cuốn Mao Chủ tịch bàn về
văn nghệ trong đó phần chính là bài nói ở hội nghị Diên An. Tôi đọc ngấu
nghiến như kẻ đói lâu ngày vớ được con gà mái dầu luộc. Tôi thức trắng
đêm chép lại tập sách mỏng này chính xác đến từng dấu phảy. Hôm sau,
Tràng Giang hỏi tôi tuyệt chứ? Tôi gật đầu. Anh mỉm cười bằng nụ cười
mãn nguyện và ngây thơ. Anh nhấn mạnh ý
nghĩa triết học của những lập luận về văn nghệ của Mao. Anh giải thích
tường tận cho tôi một số khái niệm như mâu thuẫn luận, súng đẻ ra chính
quyền, quan hệ giữa hồng và chuyên, chuyên chính và dân chủ, chính trị
và văn nghệ. Anh tóm lại bài giảng chớp nhoáng, một thứ trường chính trị
bỏ túi rằng, từ khi loài người có giai cấp, chính trị đã là thống soái,
là linh hồn của các thời điểm, thời đại. Cho nên, văn nghệ, đạo đức,
triết học, thần học, các loại học vân vân đều là công cụ, đều phục vẻ
chính trị. Suốt ba mươi mấy năm, tôi đã vác ngòi bút đi theo những lời
thần chú ấy, nhưng sao các tác phẩm của tôi vẫn chna đạt được giá trị và
sức sống. Có thể là tôi bất tài, nhưng còn bao nhiêu bè bạn, bao nhiêu
đồng nghiệp của tôi, lẽ nào họ đều là một lũ bất tài vô tướng?
Đơn
vị là gia đình, hơn nữa là một cơ thể sống nên từ ý nghĩ, tình cảm,
hành động của mỗi người phải thật thống nhất mọi người hóa thành một
người. Tràng Giang dạy chúng tôi hãy biết quên mình đi, quên ưu điểm,
quên thành tích đi, nhưng khuyểt điểm thì phải nhớ, phải trình bày công
khai trước tập thể. Anh còn dạy chúng tôi: cá nhân tính bao giờ cũng đối
lập với tập thể tính. Rằng mấy cái anh cá như cá nhân, cá thể, cá biệt,
cá tính, mấy cái cá đối bằng đầu ấy là sản phẩm của chữ tôi đáng ghét,
cản đường đến với chữ ta là chủ nghĩa tập thể.
Thường
ngày, cứ chín đến mười giờ tối, cơ quan tôi đều có mục phê bình tự phê
bình để trước khi đi ngủ, người chiến sĩ cách mạng được rửa tội trước
tập thể, trước cấp trên mà trở nên trong sạch. Người nào cũng phải trình
bày tội lỗi của mình từ trong tư tưởng đến lời nói, việc làm. Đôi khi,
tôi gần như phải bịa ra tội để qua truông. Nếu không, mọi người sẽ vây
lấy anh, đấu anh cho đến khi phải thú tội mới thôi. Có người bạn đã phê
bình đồng chí Phong Thi (người làm thơ nhanh như gió trong tờ báo), rằng
trên đường đi, đồng chí Phong Thi gặp hai cô gái Nùng xinh đẹp, đã liếc
đến rách mắt, toan tán tỉnh nếu không có tôi, chắc đồng chí đã thay vì
theo cách mạng, đã đi theo gái mất rồi. Vậy là chàng Phong Thi, sau một
hồi bị kiểm điểm, đã bị quy cho tội kêu là tiền hủ hóa. Kinh nghiệm của
những cuộc phê bình và tự phê bình tràng giang đại hải ấy là, nếu khuyết
điểm anh một, anh cứ nhận ngao lên thành một rưỡi hoặc hai, mọi người
sẽ hài lòng cho mình là thành khẩn, không ai còn nỡ quy kết mình nữa.
Ngược lại, tội anh đáng mười mà anh chỉ nhận có bảy tám, lập tức cái tội
ấy sẽ bị quy lên thành hai ba mươi cũng không biết chừng.
Trong
cuộc sống, tôi luôn cảm thấy có bao nhiêu con mắt vô hình vây quanh,
kiểm tra mình kể cả trong tư tưởng, như thể tổ chức lúc nào cũng đặt ở
sau gáy anh cái máy vạn năng biết hết mọi sự. Rằng tôi nhìn thấy tất tần
tật đấy nhá, liệu mà khai báo xem đồng chí thành thật tới đâu. Không,
chẳng cần tổ chức, chẳng cần anh em, tôi đã tự biến thành công an của
chính mình. Tự mình rình rập mình, ghi chép để báo cáo lên cấp trên cả
những giấc mơ vô tổ chức, vô kỷ luật. Trong những năm tháng dài dằng dặc
ấy, tôi luôn luôn mang mặc cảm phạm tội. Tự mình khinh ghét mình, dù
sống tốt đẹp tới đâu cũng vẫn thấy mình chưa xứng đáng với tổ chức. Sau
chiến thang Điện Biên Phủ, tôi được Tràng Giang phân công về trung đoàn
ba một tháng viết chuyện anh hùng. Tôi mừng đến nỗi xuýt vỡ ngực, nhưng
vẫn cố kìm lại được. Nơi tôi đến công tác chỉ cách trường Y khoa Việt
Bắc, nơi Oanh đang học một ngày đường đi bộ. Lúc lấy giấy tờ đi đường,
tôi gặp riêng Tràng Giang:
- Báo cáo Thủ trưởng, cho phép tôi kết hợp công tác với chết việc riêng tư được không ạ?
- Nhưng đồng chí có việc gì nào?
Tôi
trình bày người yêu của tôi ở chỗ ấy chỗ nọ, rằng gần hai năm nay chúng
tôi chưa được gặp nhau. Rằng tôi xin phép gặp người yêu một lần thôi,
nói chuyện một tiếng đồng hồ rồi lại lao vào công tác liền.
Thần
tượng của tôi ngồi im lặng hút thuốc. Anh vẫn đội chiếc kết vải mềm, áo
trấn thủ sờn vai, dây lưng to bản đeo súng ngắn, giày vải cũ nhưng sạch
sẽ ngăn nắp đến độ, nguyên tắc đến độ chưa hề thấy cách buộc giây giày,
cách cài cúc áo của anh có lần nào sai quy củ. Một trăm lần là một trăm
lần giống nhau như đúc. Tôi có cảm tưởng từng cái chớp mắt, cách hút
thuốc, cách thở khói, cách nghiêng đầu, gạt tàn thuốc của anh không một
động tác nào thừa, tất cả đều được đưa lên chương trình từ trước, đều được lãnh đạo và tổ chức từ trước.
Một lúc lâu, Tràng Giang khẽ nhìn tôi gật đầu:
- Được thôi. Này, đồng chí đã hôn người yêu của mình bao giờ chưa?
Tôi thành thật báo cáo:
- Dạ chưa ạ.
-
Vậy là tốt. Kháng chiến còn gian khổ, ta còn cần phải hy sinh. Khi nào
chiến thắng, hòa bình thì tha hồ cho các tướng. Còn bây giờ ta phải biết
chế ngự, biết dừng lại. Chứ hôn hít nhau vào rồi nhớ nhung sầu muộn
lắm, có khi còn thất tình thất tung, vừa khổ thân,
vừa liên lụy đến kháng chiến. Xã hội ta tự do luyến ái, không ai cấm
các đồng chí chuyện tình cảm cả. Nhưng trong hoàn cảnh gian khổ này,
ngay đến chuyện yêu đương nhau, thậm chí chuyện hôn hít nhau cũng cần
phải có tổ chức, có lãnh đạo.
Tôi ngồi im lặng nghe giáo huấn. Tràng Giang vừa cười ruồi vừa rút thuốc lá mời tôi. Người thủ trưởng tiếp:
- Này, nhớ nhá đồng chí Trần Hưng, chuyến này công tác là chính, yêu đương là phụ thôi đấy. Đừng có hôn hít nhau sớm quá. Hứa đi, yêu trong sáng thôi nhé.
- Dạ tôi xin hứa yêu trong sáng thôi. Những chuyện nào không trông sáng chờ hòa bình, chờ về Hà nội ạ.
- Tốt, đồng chí thấm nhuần lập trường luyến ái vô sản rồi đó. Chúc đồng chí viết tốt, quên việc riêng tư đi để phục vụ tổ chức.
Vậy là tôi trên đường đi đến trung đoàn ba.
Nhớ
cuối năm 1947, tôi bị thương tương đối nặng phải vào quân y viện điều
trị. Suốt cả tháng nằm liệt giường vì chân bị bó bột. Nằm điều trị, tôi
buồn khổ, lòng tan nát lắm. Số là trước khi bị thương trên đường chiến
dịch tôi bỗng gặp một anh người làng đi dân công. Anh ta cho tôi biết
một ít tin nhà. Chị Lá Mơ đã lấy chồng sau khi tôi thoát ly.
Em gái Rựa Mận mới mười bảy tuổi cũng đã làm đám hỏi với người làng
bên. Thằng Chả Chìa mười lăm tuổi đang đi học. Làng tôi giờ là vùng tề.
Bác phó Lãm bố của Oanh trào Việt Minh làm chủ tịch xã, nay lại có chân
trong hội đồng tề. Tôi hỏi về Oanh nhưng anh người làng im lặng. Một lúc
sau, rít xong hơi thuốc lào, anh mới cho biết Oanh đã đi lấy chồng đâu
ngoài Hà nội. Nghe nói chồng của Oanh là chàng công tử bột đẹp trai, con
nhà giàu nhưng học hành phải nói là dốt. Nghe chuyện ấy xong, tai tôi ù
đặc. Tôi như đánh mất mọi cảm giác, đầu óc rỗng như ruột bí ruột bầu,
tim như cũng chang thèm đập nữa trời ạ. Tôi như kẻ bị phục kích, bất ngờ
bị nện một búa khai sơn vào gáy. Oanh đi lấy chồng có nghĩa là cuộc đời
tôi đã chấm dứt. Oanh vừa là sự sống, vừa là môi trường sống của tôi.
Tôi bị chứng mất ngủ hành cho cả tháng. Người tôi thành da bọc xương,
hai mắt như hai cái hố đạn moọc-chê. Tôi biến thành một thằng ngố rừng,
vô hồn, vô nghĩa. Chính trị viên đại đội biết tôi thất tình, có nỉ non
vào tai tôi mấy bài chính trị, thứ chính trị mưa dầm, thoang thoảng
hương lài dai dang. Tôi đâm ra muốn chết, cho thoát khỏi nỗi đau khổ,
càng nhanh càng tốt. Tôi trở thành kẻ liều mạng trong các trận đánh. Tôi
xông vào nơi bom đạn như vào chỗ không người. Đại đội trưởng chưa kịp
hô xung phong, tôi đã có mặt trên mũi nhọn. Trong khi tôi muốn chết,
thích chết thì trớ trêu thay, đạn tây nó tránh tôi trời ạ. Ngược lại, có
nhiều anh nhát gan, xông trận cứ ru rú ở đằng sau, thì lại bị đạn tây
xơi ngọt. Chính vì vậy, tôi được biểu dương, được khen thưởng, được ca
ngợi hết lời vì lòng dũng cảm vô song, một thứ liều mạng có tên là anh
hùng. Trong một đêm công đồn thắng lợi, trước lửa cháy, khói tỏa, xác
địch lẫn xác bộ đội còn chưa thu dọn, mùi máu hòa mùi thuốc đạn còn nồng
nặc, tôi chợt thấy chính trị viên đại đội mời tôi đến một góc đồn.
Người ta xếp tôi đứng vào hàng, trước đảng kỳ, rồi hô nghiêm và kết nạp
tôi vào đảng Lao động Việt Nam một cách hết sức bất ngờ. Cho hay là cái
anh thất tình đâm ra chán đời tuyệt vọng, muốn chết không phải bao giờ
cũng dở, ít ra là trong trường hợp của tôi.
Sau
mấy tháng trời, nỗi đau nguội dần, tôi có vẻ tỉnh ra. Có lúc tôi vô cớ
làm một chiến dịch nguyền rủa Oanh. Rằng nàng là quân giết người, đồ
phản bội, đứa không tim, con quạ mổ. Thậm chí tôi quy tội cho Oanh là đồ
phản động vì dám bỏ một anh vệ quốc quân, để lấy một tên buôn bán ở
vùng tề. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình thật vô lý. Oanh đã hứa hẹn gì
với tôi đâu nào, thậm chí tôi cũng chưa một lần tỏ tình với nàng nữa.
Tôi đâm ra nguyền rủa mình là đồ hèn. Bao năm đi học với nhau, yêu nhau
muốn chết, mà cấm dám mở miệng ra tỏ tình, rằng anh yêu em đến đời đời
kiếp kiếp, chết rồi dẫu có hóa thành rắn rết cũng cứ tìm em để quấn
quít...
Tôi tự mạt sát mình cả
tháng trời. Rằng hỡi thằng ăn ruồi kia, sao mày cứ nhe răng ra mà sống
vô tích sự đến vậy. Rồi tôi bị thương, phải đi điều trị. Nhớ sáng hôm ra
viện về đơn vị, tôi hẹn được anh bạn cho đi nhờ một đoạn ô tô. Người
bạn lái xe vận tải hẹn tôi ở cổng rừng của quân y viện. Năm giờ sáng tôi
đã dậy. Tiếng gà rừng gáy le te uể oải. Rừng vắng đến độ tôi phải hắng
giọng lên để đỡ trống trải. Chợt tiếng vượn hú như thể tiếng kèn thời
nguyên thủy hiện về thức dậy trong lòng người lính cô độc tất cả những
gì là quá khứ. Kỳ lạ quá, chỉ trong vòng một nháy mắt, toàn bộ cuộc đời
mười chín tuổi của tôi hiện lên rõ ràng đến mức không sao tin nổi. Đọng
lại mọi hình ảnh ấy rốt cuộc vẫn là gương mặt Oanh xâm chiếm cả lòng
tôi. Chợt từ phía lối mòn bệnh viện có tiếng chân người đi, tiếng nói
chuyện rì rầm. Trời đã sáng rõ. Nang đã hoe vàng trên các tàn cổ thụ.
Qua một khúc cua, tôi nhìn thấy bốn năm y tá bệnh viện đang tiến ra phía
ngã ba, nơi ở một góc tôi đang ngồi chờ xe. Các cô gái thấy một chàng
trai, có ý trêu chọc, nói xa nói gần, cốt sao để tôi phải ngứa mồm lên
tiếng. Tôi cúi xuống ra vẻ không thèm nhìn, ra vẻ quân tử không để ý đến
bọn nhãi ranh. Nhưng kỳ thực tôi đang đóng vai thằng lác mắt mặt quay
đi một nơi, mắt liếc về một nẻo. Tôi thấy hết từng cô một. Ví như cái cô
đi đầu mập tròn, mắt nhìn tôi ranh mãnh và thách thức. Cô thứ hai gầy
nhom, cao kều, mặt nhỏ choắt lại mà có duyên đáo để... Đến cô thứ tư,
tôi hoảng quá, hoa cả mắt. Trời ơi cái răng khểnh của đời tôi. Có lẽ nào
đây lại là cô bé có đôi mắt với những tia nhìn xuyên suốt mười chín năm
tôi đã sống? Tôi toát mồ hôi hột. Đời luôn luôn tặng tôi những ngẫu
nhiên vĩ đại. Cô gái cũng sững lại, mặt tái mét, đóng tia mắt vào người
tôi như một cái đinh của định mệnh, khiến tôi mãi mãi được gắn chặt với
mặt đất này, đến nỗi, cho dù sức mạnh của cái chết, của hư vô cũng không sao có thể hất tôi vào vực thẳm được. Tôi gọi khẽ:
- Oanh.
Cô ấy bước đến cầm tay tôi như kẻ bị thôi miên, rồi đứng sững lại, đôi môi run rẩy như đang lên cơn sốt:
- Anh.
Tôi
quên khuấy mất chuyện đứng lên, cứ ngồi trên gốc cây, há hốc miệng nhìn
người yêu đờ đẫn, ngây dại như thể vừa bị sét đánh chết.
Oanh
khóc. Còn tôi thì thở dốc, làm như bị cọp đuổi đến đường cùng không
bằng. Ba cô gái kia cũng đứng như trời trồng nhìn cảnh gặp gỡ kỳ lạ. Hóa
ra các cô đi tải thuốc về cho bệnh viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp
Oanh tại chiến khu Việt Bắc. Oanh bị gia đình ép lấy chồng, trốn nhà lên
chiến khu vừa tham gia kháng chiến, vừa để có cơ hội tìm ra tôi. Oanh
vừa lên đây được bốn tháng, là y tá ở khu A, nhưng trời lại bắt tôi nằm
tại khu B nên hai đứa không tìm thấy nhau.
Mãi
đến đầu năm 1949, nghĩa là sau gần một năm rưỡi tôi mới gặp lại Oanh.
Lúc đó nàng đã vào học trường Y khoa kháng chiến. Lần ấy chúng tôi hành
quân qua trường Y khoa, đóng cách trường chừng một tiếng đồng hồ cuốc
bộ. Tôi viết mấy chữ, nhờ người quen ở nhà trường gặp trên đường, hẹn
Oanh gặp nhau gần chỗ đóng quân. Oanh ra nơi hẹn thật. Nhưng oái oăm
thay, khi Oanh tới thì đơn vị tôi vừa nhổ trại chừng mươi phút.
Nhìn
dấu vết, nàng đoán hướng chúng tôi đi. Oanh nhắm mắt nhắm mũi theo lối
mòn chạy đuổi theo đoàn quân. Sau này Oanh kể lại, cô đã chạy cả tiếng
đồng hồ, khi mệt đứt hơi lại ngồi xuống thở. Cuối cùng nàng cũng đuổi
kịp tiểu đoàn chúng tôi.
Khi nhìn
thấy tôi, Oanh đã ngã dúi xuống đất vì mệt quá. Tôi cúi xuống, đỡ Oanh
lên, trước cái nhìn thán phục của đồng đội. Người Oanh ướt đẫm mồ hôi,
như thể vừa vớt lên từ dưới nước, mặt dù trời rét cắt ruột. Chúng tôi
đang hành quân, không thể dừng lại được. Tôi dìu người yêu đi theo đoàn
quân đến chừng mười lăm phút, trước những đôi mắt tò mò kèm những lời
trêu chọc bóng gió. Chúng tôi chỉ còn cách nói với nhau bằng ánh mắt.
Tôi bảo Oanh về, trời sắp tối rồi. Cuối cùng nàng cũng phải đứng lại,
ánh mắt rưng rưng, đưa bàn tay bé tí như cái quạt vẫy tôi và đoàn quân.
Tôi quay lại phía sau, đi giật lùi một đoạn dài cho tới khi không còn
nhìn thấy Oanh nữa. Nhưng rồi Oanh bỗng lại chạy vụt đến chỗ tôi. Nàng
rút từ túi áo ngực, trao cho tôi một tấm ảnh nhỏ chụp nàng đang mỉm
cười. Phía sau bức ảnh là nét chữ run run như đời nàng: mãi mãi của anh.
Oanh còn chạy theo tôi mấy chặp như vậy mới chịu chia tay. Tám giờ tối
hôm đó, thân gái
dặm trường, Oanh mới về tới đơn vị. Còn tôi đi giữa hàng quân với ý
nghĩ: nếu có phải đi ngược cả cuộc đời để được ngắm nàng, tôi cũng sẵn
sàng đi giật lùi mãi. Chiều hôm ấy, trong gió rét, lá rụng đầy. Hoàng
hôn màu hạt dẻ với chết nắng phai tàn cứ níu lấy tôi không chịu rút vào
rừng. Những bông hoa rừng tôi nhìn thấy hầu như đều giấu một chiếc răng
khểnh.
Năm 1951 và năm 1952, chúng
tôi còn được gặp nhau hai lần nữa, nhưng lần nào cũng vội, cũng trước
đám đông, chưa có dịp riêng tư hò hẹn. Bây giờ đã sang giữa tháng năm
năm 1954, Tràng Giang cử tôi đi viết chuyện anh hùng trong một tháng.
Khi về đến trung đoàn ba, tôi lao ngay vào công việc. Tôi viết thư báo
cho Oanh biết, rồi hai đứa tôi hẹn địa điểm gặp gỡ.
Tôi
dừng lại trên vạt đồi thoai thoải mọc đầy cây giẻ, hồi, trẩu xen lẫn
những loài gỗ tạp ít người biết tên. Con suối cuối xuân cạn nước, giấu
kín trong rừng, chạy rồng rần dưới chân đồi, vẫn không sao bí mật nổi vì
tiếng róc rách của mình. Từ ngã tư có tên là ngã tư con khỉ, lội bộ
theo chiều nước chảy chậm lắm cũng chỉ mất ba mươi phút là tới đây, chỗ
chúng tôi hẹn nhau sáng chủ nhật. Nơi đây có lần Oanh từng đến nhặt hạt
dẻ. Dưới tàn cây kín đáo, tôi ngồi trên vạt cỏ mềm bên suối, có mấy bụi
mẫu đơn nở hoa lúc trắng lúc đỏ, chờ người yêu. Có tiếng bì bõm từ phía
đầu con suối. Tim tôi đập cuống lên. Oanh tới?
Nàng
dặn tôi không cần phải đón, cứ đợi ở chân đồi hạt dẻ này. Dù vậy, tôi
vẫn men suối đi lên. Nhìn mãi không thấy người đâu? Hay là nàng nấp đâu
đó để hú hòa cho tôi sợ. Lại tiếng bì bõm. Tôi căng mắt quan sát. Hóa
ra, không phải người yêu mà là một con rái cá. Tôi lấy hòn sỏi ném và
con vật chìm trong nước.
Hơn tiếng đồng hồ
sau Oanh mới tới. Nàng bảo họp đột xuất và hai giờ chiều lại họp nữa,
mặc dù là ngày chủ nhật. Người ta đã tìm ra cách giết thời gian một cách
tàn nhẫn là tổ chức các cuộc họp liên miên. ừ, các nhà tổ chức cũng có
lý của họ chứ. Để cho các người nghỉ ngơi rồi rãi một chết là y như sinh
chuyện, lại có vấn đề tư tưởng cho mà xem, nhàn cư vi bất thiện, chi
bằng cứ họp là thượng sách. Oanh mặc chiếc áo gụ đã sờn, chiếc quần đen
vải thô dày còn khá mới, đi đôi dép cao su mỏng như cái lưỡi mèo, vai
đeo cái túi thổ cẩm đựng ít kẹo, mấy viên đường phèn và vài gói thuốc bổ
nàng dành dụm cho tôi. Oanh xắn quần cao quá đầu gối, bước bì bõm theo
tiếng suối róc rách. Đôi cặp giò nàng thon dài, trắng hong đung đưa bàn
chân khỏa nước, mỗi bước chân òa vỡ. trong veo từng chùm bong bóng
trắng. Thấy tôi lao ra đón, nàng cười ngượng nghịu, mặt đỏ nhừ. Tôi vừa
kêu tên nàng vừa bế thốc người yêu trên tay. Oanh chống cự cho phải
phép, miệng không ngớt kêu đừng, đừng, nhưng đôi tay mảnh khảnh, mềm như
hai dây kẹo kéo của nàng cứ quấn chặt lấy cổ tôi có trời gỡ ra. Tôi đặt
Oanh ngồi trên võng, lấy chiếc khăn bông khô lau từ đầu gối tới bàn
chân nàng. Oanh giả vờ như không biết, khẽ xoa bàn tay lên cái mụn vá
trên vai áo lính bạc màu của tôi. Trưa ấy, chúng tôi hì hục đào bếp
hoàng cầm bên suối, nấu cơm dã chiến ăn với cá hộp chiến lợi phẩm tôi
mang theo. Con suối dùng cặp mắt mèo của mình nhìn chúng tôi không chớp.
Có tiếng lá rụng mơ hồ. Vài tia nắng lọt qua tán lá rừng rơi xuống, có ý
định làm bạc đầu hai đứa chúng tôi. Ngồi bên Oanh, tôi cảm động, hồi
hộp đến mức tí khóc. Đôi mắt Oanh, mở to sáng và mọng nước, vừa như chứa
đựng toàn bộ niềm vui và nỗi buồn, chứa đựng cả hạnh phúc và bất hạnh
của cuộc đời tôi. Ăn cơm uống nước xong, sắp đến giờ chia tay, tôi đặt
Oanh ngồi trên võng nghỉ. Tôi ngồi dưới võng, ôm lấy đôi chân người yêu.
Từng ngón chân Oanh non nớt đến tội nghiệp, với những móng chân vảy ốc
lúc hồng nhạt, lúc lại óng ánh lên cái ánh sáng bí ẩn mà chỉ những người
đàn bà đang yêu mới có. Đôi gót chân son của nàng có khi lại chuyển
sang màu mận chín, có khi trắng như hoa cau, chứng tỏ nàng đang cảm
động. Tôi thương bàn chân Oanh đến nghẹn ngào. Đôi bàn chân nhung lụa
này đã phải đi qua chiến tranh và chết chóc, vượt qua bao nhiêu tai
ương, bất hạnh. Tôi bỗng nhận ra mình đã đi bằng đôi chân của nàng, từ
độ ngày đầu vào lớp học vỡ lòng, tôi đã trả thù nàng bằng cách đạp vào
bàn chân nàng, khiến nàng đau phát khóc. Ngồi dưới võng, tôi vuốt ve bàn
chân người con gái, khiến nàng co chân lên như tính bỏ chạy. Tuy vậy,
tôi đã chộp lại được bàn chân nàng như chộp được con ếch tuổi thơ. Và
nhanh như chớp, tôi cúi xuống hôn lên bàn chân đầy tín ngưỡng, đầy phép
lạ này. Oanh cười bẽn lẽn, co chân lên võng, lảng sang chuyện khác:
- Này anh, ngày ấy sao em ngốc quá vậy. Em nhất định tin anh thích ăn ruồi và ngày nào cũng ăn cả vốc.
Đột nhiên, Oanh nhảy từ võng xuống, ngồi xuống cạnh tôi.
Nàng tỏa vào tôi độ ấm của cả một đời tôi cộng lại. Có một dòng điện bí ẩn đang truyền từ thân thể
nàng sang con người tôi, khiến tôi lơ lửng, như sắp đóng thành băng
tuyết và như sắp bốc cháy. Tôi ôm chặt lấy Oanh. Hai đứa cứ ngồi như vậy
thật lâu nhìn suối chảy. Tôi bỗng quên hết mọi thứ trên đời: chiến
tranh, các nghị quyết, những tín điều, kể cả lời dạy dỗ của Tràng
Giang... Trên thế gian này dường như chỉ còn hai đứa chúng tôi ngồi lại.
Chúng tôi là đôi tình nhân đầu tiên và cuối cùng của tráỉ đất Dường như
nhân loại đã biến đi đâu hết, bỏ lại chúng tôi trong vườn địa đàng của
chiến tranh này. Họ đi tìm chiến thắng, tìm quyền lực, bạc vàng và danh
vọng. Hai đứa tôi vẫn ôm lấy nhau, cùng ngắm nhau trên dòng suối. Bóng
của chúng tôi cứ đung đưa không ngừng, chuyển động không ngừng. Gió
rừng, một kẻ mai mối hay tuyệt, bỗng thổi bay từng lọn tóc Oanh sang cổ
tôi, xòa lên mặt tôi nhột nhạt. Hay thật, ông trời đang dùng tóc nàng
cột lấy đời tôi, như cột trâu vào cọc. Chính những lọn tóc lòi tói kia
đã kéo sát hai gương mặt chúng tôi sát vào nhau. Sát, sát nữa, sát tới
mãi mãi không cùng tận, không có bờ bến.
Và
tự nhiên, như trời đất ấy, đôi môi chúng tôi tìm tới nhau, vùi vào nhau
trong một cơn sốt con người. Cái hôn đầu này chính là dấu son, đóng vào
trái tim tôi sự xác nhận của giấy giới thiệu vào đời. Đấy, mày cứ cầm
cái giấy có con mộc của nàng mà đi Hưng ạ. Mày sẽ vượt qua tất cả. Đến
ngay vị đắng cũng sẽ giúp mày tìm ra chất ngọt. Nỗi đau cũng có thể làm
mày sung sướng, sự nghèo khó khiến mày học được cách trở nên giàu có.
Nếu không có tiếng máy bay phóng pháo của quân Pháp xẹt ngang bầu trời
rừng trưa yên tĩnh, có lẽ đôi môi chúng tôi đã dính chặt lấy nhau đến độ
không thể nào gỡ nổi. Tôi hôn hít chưa từng có kinh nghiệm, vụng về quá
làm môi Oanh chảy máu. Nhưng rồi chúng tôi lại hôn nhau. Tôi nghe trong
đầu lưỡi có vị mặn của máu.
Hạnh phúc nào
không bắt đầu từ một vết thương, một vết rớm máu? Cái ý nghĩ sắp phải
chia tay giúp tôi thêm dũng khí. Tôi vùi đầu vào ngực người yêu để tìm
lại hình ảnh người mẹ thời bú mớm. Bàn tay tôi chạm phải hai đầu vú nóng
bỏng của nàng, như cố tìm nơi để bấu víu vào cái thế giới trơn tuột đầy
vực thẳm này. Oanh hất tay tôi ra, mặt đỏ bừng, vặn người như con rắn,
quay đầu thở hổn hển thì thầm:
- Chết em mắt, ôi, anh, chết em mất:...
Tôi
tỉnh táo lại, trở về giới hạn của mình. Tôi vuốt bàn tay lên mái tóc
nàng như có ý xin lỗi, Oanh vẫn xấu hổ vùi mặt vào cánh tay tôi kêu chết
mất. Tôi im lặng nói thầm: chết làm sao được em ơi. Lẽ nào những người
yêu nhau lại có thể chết? Chỉ có những kẻ không biết yêu, không được yêu
mới chết, mới hốt hoảng, sợ hãi nhìn ra thế giới thăm thẳm cô đơn này
như nhìn vào nghĩa địa. Gió đã thả những lọn tóc của Oanh ra khỏi mặt và
cổ tôi. Rừng thở ngây ngất một điệu lá xào xào xa vắng. Nàng đã lách
qua suối làm bạc tóc chúng tôi. Oanh không còn kêu chết mất nữa. Nàng im
lặng nhìn tôi. Mắt Oanh hoang vằng và mê dại, như người đã khóc thầm
một mình trong đêm vắng. Tôi nhìn thấy vệt môi dưới của Oanh mọng chín,
sưng lên, đỏ rực như màu hoa lựu. Hậu quả của cái hôn đầu của tôi, một
kẻ vụng về nhất trần đời, thô bạo nhất trần đời đã hôn vào đôi môi mềm mại của người yêu theo kiểu cu trâu ngoặm bắp ngô non.
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 4
Kính thưa các đồng chí, kính thưa
tập thể và tổ chức. Trải qua tám năm kháng chiến trường kỳ, xét bản thân, tôi thấy mình còn quá nhiều khuyết nhược điểm, nhiều tội lỗi. Theo sự hướng dẫn của cấp trên về đợt tổng kiểm thảo chỉnh
cán rèn quân này, chúng ta không nhac đến thành tích và thắng lợi, vì
cái đó thuộc về kháng chiến, về tập thể. Do vậy, tôi chỉ xin trình bày
những sai lầm, những tội lỗi của bản thân mình
để nhờ các đồng chí đấu tranh xây dựng cho tôi. Như chúng ta đã biết,
chính trị là thống soái, là linh hồn của mỗi cá nhân và mỗi thời đại.
Nếu không có ánh sáng của chính trị do tổ chức soi rọi, tâm hồn chúng ta
mãi mãi chìm trong u tối. Vậy mà, có lúc tôi chưa biến được chính trị
ra ánh sáng của mình. Có khi, trước trang nghị quyết, tôi chưa có cái
rung động mãnh liệt, chưa say mê đến mức hoa mắt, đến nổi gai gốc, đến
mức hồi hộp như kẻ si tình đứng trước ý trung nhân. Thật là nhục nhã và
xấu hổ cho tôi, thì ra trước những trang nghị quyết, trước những chỉ thị
sáng ngời của cấp trên, tôi đã không bị chinh phục, như thời thanh niên
từng bị đứa con gái phàm tục chinh phục. Tóm lại, chừng nào tôi chưa
biến chính trị thành tình yêu, thành tim óc, máu thịt, thì chừng đó, tôi
còn là một người lính tồi của cách mạng, là con chiên lạc đàn của đảng.
Trời ơi, có những lúc tôi thật đáng nguyền rủa, vì chong đèn đọc các
tác phẩm kinh điển của Mác, Lênin, Xtalin, Mao Trạch Đông... Tôi đã
không lãnh đạo nổi mình, để đến mức ngồi ngủ gật. Tôi đã thành một phần
tử hữu khuynh tồi tệ, vì đã không thắng được con ma ngủ vốn là đồng minh
của để quốc và phong kiến. Như vậy, khác nào tôi đã mắc tội xúc phạm
đến các vị lãnh tụ mà mình hằng tôn thờ. Đầu năm 1947, khi quân Pháp
phản công quyết liệt, khi phải dự nhiều trận ác chiến đầy hy sinh tổn
thất, có lúc tôi đã nghi ngờ ngày chiến thắng của chúng ta. Dè đâu, chỉ
trong vòng tám năm, bằng một cái chớp mắt, chúng ta đã làm nên Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu, khiến quân Pháp phải bại trận. Một lần nữa, tôi
đã tự biến mình thành phần tử hữu khuynh nguy hiểm. Mới đây thôi, khi
hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tôi thấy lòng không vui, còn thắc mắc
sao đang đà thắng lợi, lại dừng đánh để đàm, đến nỗi phải chia đôi đất
nước ra làm vậy? Điều đó, chứng tỏ tôi là phần tử tả khuynh ngu ngốc và
điên rồ nhất. Con người tôi còn chưa vô sản hóa, ý nghĩ và tình cảm còn
bị yếu tố tiểu tư sản chinh phục. Rất nhiều khi ngồi trước buổi chiều tà
tôi lại thầy buồn buồn, nhớ lại những mổi tình lãng mạn đầy chất tiểu
thuyết trước cách mạng. Có đêm nằm ngủ, tôi đã mơ thấy mình yêu đương
nhăng nhít với cô sinh viên ngày nào. Thậm chí tôi còn nằm mơ thấy mình
ôm ấp người vợ của một đồng chí nữa mới tồi tệ các đồng chí ạ, y hệt như
giấc mơ của tên đế quốc vậy. Đã là người cách mạng thì ngay đến cả giấc
chiêm bao cũng phải có tổ chức, có kỷ luật. Tôi thành thật lên án và
phỉ nhổ bản thân mình
trước các đồng chí. Nhớ hồi gian khổ, đói khát quá, có một lần mâm cơm
tập thể dọn lên, tôi đã nhìn trước xem miếng gì ngon đến khi vào bàn là
nhanh như chớp gắp liền. Chỉ cần một hành động này thôi, tôi cũng đã mắc
hai tội lớn với cách mạng. Thứ nhất, tôi không có lòng hữu ái giai cấp.
Thứ hai, tôi đã thành tên địa chủ tham ăn, cướp giật từng miếng ngon
của người khác, một sự bóc lột trang trợn, dã man. Một miếng ăn bé nhỏ
như vậy mà tôi không biết nhường cho đồng chí, thì làm sao khi cần
thiết, làm sao tôi dám hy sinh tính mạng vì lý tưởng...
Tràng Giang ngừng lại giữa chừng bài kiểm thảo viết
sẵn, vì xúc động quá mức truớc những tội lỗi tày trời của mình với cách
mạng. Anh đang sám hối ăn năn đến rơi nước mắt. Người thủ trưởng của
tôi chân thành tới mức, tôi nghi là có những tội anh đã bịa ra để chứng
tỏ mình là con chiên số một của tổ chức. Bởi vì thời ấy, anh càng xưng
ra nhiều tội thì càng có công với cách mạng. Mỗi người trong đơn vị tờ
báo Chiến Thắng chúng tôi phải kiểm điểm ít nhất là một ngày, công khai
hết tội lỗi đã giấu tập thể từ ngày tham gia cách mạng. Đây là đợt chỉnh
cán, rèn quân, bài phong, đả thực, đấu gian quy mô nhất từ trước tới
nay. (Bài phong: bài phong kiến, đả thực: đả thực dân, diệt cá: diệt chủ
nghĩa cá nhân, đấu gian: đấu gian dối...)
Tràng Giang là thủ trưởng kiêm bí thư chi bộ cơ quan nên phải kiểm điểm trước làm gương. Mới nghe anh đọc một phần tư bản kiểm thảo mà
tôi đã xúc động nổi da gà. Anh tốt quá, trung thực quá, dám phanh phui
đến tận cùng bí mật đời sống mình để tìm cho ra những cái tội vốn chưa
có tên gọi. Tôi nhìn anh ngồi lặng, người cứ rung lên trong cơn giận dữ
bản thân mình.
Anh khổ sở và hối hận đến tội nghiệp, đến tái mét mặt lại, đôi môi,
khoé mắt cứ giần giật như kẻ lên đồng. Nhìn anh tôi vừa phục vừa thương
hại. Một con người tốt như anh, gương mẫu như anh mà vẫn còn phải run
rẩy trước vành móng ngựa của tổ chức, huống hồ là lũ chúng tôi. Tràng
Giang tiếp tục đọc nốt ba phần tư bản tự kiểm đầy ắp lời thú tội đến
thảm hại của một con rệp, chứ không phải con người, đang tự tố giác mình
trước tập thể. Trời, anh lôi ở đâu ra nhiều tội lỗi thế người anh em?
Rặt những thứ tội ở trong óc, trong tim, trong giấc ngủ chưa kịp biến
thành lời nói hay hành động. Anh có thể chia số tội này cho cả một tiểu
đoàn cũng còn dư bị kỷ luật cảnh cáo. Sau đó, mọi người, kể cả tôi đều
đóng góp phê bình cho anh. Ngay đến một kẻ ác ý với anh nhất, cũng không
tìm đâu ra bằng cứ để kết tội anh, dẫu chỉ bằng một phần trăm lời mạt
sát của anh với bản thân mình.
Chúng tôi đã quần anh suốt một ngày và một đêm. Cuối cùng, anh tự phong
kỷ luật: cảnh cáo ghi lý lịch. Một người tốt đẹp như Tràng Giang mà
phải cảnh cáo ghi lý lịch, chắc tụi tôi phải lôi ra ban tuốt mới xứng
đáng à trời? Chúng tôi phải dùng biểu quyết đa số để ép Tràng Giang chịu
một thử kỷ luật nhẹ như bấc, thứ kỷ luật tượng trưng, là phê bình trước
đơn vị. Hành động dũng cảm của Tràng Giang khi kiểm thảo cứ thôi miên tôi, quay tôi như chong chóng, khiến tôi phải xét lại bản thân mình. Mới cách đây mấy tháng, tôi đã được vinh dự là em kết nghĩa của đồng chí Tràng Giang. Hôm đó, sau buổi kiểm thảo thường nhật chín giờ tối, Tràng Giang gọi tôi ra bờ suối, rút từ xách cốt ra tờ báo, soi đèn pin lên trang giữa nói:
- Này, chúc mừng đồng chí đấy Trần Hưng
ạ. Truyện ngắn Từ quả tim đến quả lựu đạn của đồng chí được đăng trên
tờ Văn nghệ Việt Bắc. Đây là tờ của sư đoàn cho tôi, xin tặng đồng chí
đấy.
Tôi cảm ơn anh, xúc động vô
vàn, có cảm giác mình đã trở thành nhà văn thực sự. Đây là truyện ngắn
đầu tiên của tôi được đăng trên tờ báo văn nghệ uy tín nhất thời đó.
Truyện kể lại mối tình của đôi nam nữ du kích vùng địch hậu đêm đánh
Tây, tặng nhau một quả lựu đạn để làm quen. Từ quả lựu đạn ấy, ai ngờ họ
đã gián tiếp tặng nhau trái tim mình. Họ yêu nhau, gặp nhau qua những
đêm chống càn, những ngày nhổ bót. Một lần người con gái bị quân Pháp
phát hiện ra hầm bí mật. Chúng vừa khui chị lên thì bằng quả lựu đạn
cuối cùng, quả lựu đạn kỷ vật của người yêu vẫn đeo bên hông, chị đã
chia nửa với quân thù, khiến ba tên giặc phải đền tội. Tất nhiên chị đã
hy sinh để không rơi vào tay giặc. Người con trai được tin rất đau khổ
và tăng thêm lòng căm thù giặc. Anh quyết định lấy trái tim mình ra
không chỉ để làm một quả lựu đạn, mà để biến thành quả bom tiêu diệt đồn
Tây ngoài chợ quê anh.
Tràng Giang rất
khen truyện ngắn này của tôi. Anh động viên tôi viết khỏe hơn nữa, cả
truyện dài, nếu cần, anh sẽ xin sư đoàn cho tôi điều kiện và thời gian
để sáng tác. Trong ánh trăng lờ mờ ngoài bờ suối, tôi lặng ngắm gương
mặt người thủ trưởng của mình đang tỏa sáng. Tôi run run đề nghị một
điều hằng ấp ủ trong lòng:
- Đồng chí Tràng Giang ạ, tôi xin phép được nói với đồng chí điều này, riêng tư thôi, có được không?
- Riêng tư à? Nếu điều ấy không ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể thì xin đồng chí cứ nói.
Tôi trịnh trọng:
-
Ngoài tình đồng chí, quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới ra, từ lâu, tận
trong tim gan, tôi vẫn luôn luôn coi đồng chí là một người anh lớn, một
người ruột thịt.
- Ôi, chỉ cần hai từ đồng chí làm tên gọi cho mọi mối quan hệ trên đời này là đủ lắm rồi đồng chí Trần Hưng ạ. Nếu có dịp lấy vợ lại, tôi cũng thích gọi người mình yêu là đồng chí mà thôi.
Sau
này, chủ nghĩa cộng sản, các thế hệ sau sẽ xưng hô bằng đồng chí hết
cho tiện và đẹp: đồng chí con, đồng chí mẹ, đồng chí vợ, đồng chí chồng,
đồng chí người yêu, đồng chí nội, đồng chí ngoại...
- Nhưng tôi muốn được nhận đồng chí là anh trai của đời mình. Tôi là con trai cả, chưa từng biết đến tình anh trai lớn là gì.
Tràng Giang ngồi im lặng. Đột nhiên, anh khẽ hít thật sâu khí trời vào ngực. Đoạn anh nói nhỏ:
- Được thôi. Tôi cũng rất yêu mến đồng chí. Làm anh một người có tài viết văn như đồng chí khó lắm Trần Hưng ơi.
- Như vậy là đồng chí đã chắp nhận tôi là em trai của mình.
- Tất nhiên.
Tôi vui mừng đến độ muốn nhảy phắt xuống suối. Tràng Giang nắm bàn tay tôi:
-
Không cần phải làm lễ kết nghĩa gì sất. Ta cứ thầm giúp đỡ nhau, thương
mến nhau như hai anh em ruột, có trách nhiệm với cuộc đời nhau là đủ
lắm rồi.
Tôi ôm choàng lấy cổ người anh trai:
- Em cám ơn anh.
Khi chia tay nhau về lán, Tràng Giang bảo:
- Trần Hưng
phải giữ nguyên tắc này mới được. Thứ nhất, chúng ta chỉ xưng hô anh em
với nhau ngoài giờ làm việc, trong giờ hành chính vẫn cứ xưng hô với
nhau là đồng chí. Thứ hai, khi có người thứ ba bên cạnh, dù là lúc được
phép gọi nhau là anh em đi nữa, vẫn cứ xưng hô là đồng chí.
Tôi
ghi tạc quy ước này để giữ gìn tình anh em kết nghĩa với Tràng Giang.
Tôi hiểu anh là một người đặt nguyên tắc lên trên hết. Đêm ấy, duyệt lại
bản kiểm thảo của
mình, trước tình cảm anh em với Tràng Giang, nhất là trước tấm gương
sáng tự kiểm đến lạ lùng của anh, tôi thấy mình phải viết lại bản kiểm
điểm, để ngày mai trình bày trước tập thể. Dưới ánh đèn dầu trẩu, tôi đã
viết một mạch bản tự thú dài dằng dặc trong ba tiếng đồng hồ. Theo tinh
thần của Tràng Giang, tôi hoàn hoàn bị thôi miên trong không khí chỉnh
cản rèn quân rất đồng bóng ấy. Tôi kể ra hàng loạt những khuyết điểm,
tội lỗi của mình một cách đầy vẻ khoe khoang và tự mãn. Tôi đã học được
cách mạt sát mình một cách thậm tệ, biến mình thành con vật thảm hại
trước tổ chức kiểu Tràng Giang. Có những điều là khuyết điểm, thời ấy kể
ra thì gọi là chân thành, là thiêng liêng, thì ngày nay lại là hài
hước. Chẳng hạn như vì không kìm được cái tính tham ăn, vốn là bản chất
của bọn bóc lột, mà mấy lần đi qua thôn xóm, thấy chó của đồng bào chạy
rông, đã có ý nghĩ bắt trộm được, thêm tí riềng mẻ vào chỉ có nhất. Hoặc
có khi tôi đã mắc tội nhớ nhà, đâm ra yếu đuối, khiến tâm hồn bay nhảy
lung tung theo kiểu tiểu tư sản. Hoặc đôi khi nhớ những trang sách của
Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, hay thơ Xuân Diệu, Thế Lữ... chưa
xóa được cái buồn rớt, vốn là kẻ thù của giai cắp. Vâng tôi đã kể ra bao
nhiêu những tội kiểu đó. Cuối cùng, tôi đã viết những trang kiểm thảo vừa
chân thành, vừa sâu sắc, về cái vụ đi viết truyện anh hùng kết hợp thăm
người yêu. Rằng tổ chức dặn tôi yêu trong sáng, tôi đã yêu không trong
sáng. Thay vì hứa với thủ trưởng Tràng Giang chỉ gặp người yêu một tiếng
đồng hồ, tôi đã ngồi với người yêu tới gần bốn tiếng.
Tôi đọc bản kiểm thảo đúng
một tiếng rưỡi đồng hồ. Các đồng chí phê bình góp ý đã gần hết một
ngày. Nhưng đến buổi tối, tình hình bỗng xoay chuyển, khi phó thủ trưởng
cơ quan là nhà báo Sao Chổi, người điều khiển buổi kiểm thảo tôi, hỏi cho rõ:
- Yêu cầu đồng chí Trần Hưng
giải thích rõ hơn về hành động vô tổ chức vô kỷ luật trong khi đi công
tác ghé thăm người yêu? Tôi chưa kịp trả lời thì Phong Thi, người làm
thơ nhanh như gió, để theo:
- Tôi tán thành ý kiến của đồng chí Sao Chổi. Đề nghị Trần Hưng
giải thích câu tổ chức dặn yêu trong sáng, tôi đã yêu không trong sáng.
Như vậy, có phải là thứ tình yêu phi vô sản, tội lỗi, mang đầy mầm mống
phản động hay không?
Mọi ánh mắt
nhìn thẳng vào tôi, sẫn sàng trừng phạt tôi. Như người nhảy lên lưng
cọp, tôi không còn đường xuống nữa. Tôi đã chân thành, nhưng tôi không
thể chân thành nửa vời được. Tôi phải khai ra hết, khai một cách cụ thể
nôm na:
- Tôi xin thành thật kiểm thảo sâu sắc bản thân trước
tập thể. Tôi đã hứa với lãnh đạo chỉ gặp người yêu có một tiếng đồng
hồ, nhưng tôi đã ăn gian của kháng chiến thêm ba tiếng đồng hồ nữa. Tôi
đã yêu theo kiểu lãng mạn tiểu tư sản, chứ không theo kiểu trong sáng
của giai cấp vô sản. Tôi ngừng lời, đầu cúi xuống thắp, với thái độ
thành khẩn nhận tội. Trong thâm tâm, tôi muốn người ta đừng chất vấn
nữa. Hãy cứ kết tội đi, tôi sẽ nhận tuốt tuồn tuột, nhưng xin đừng bát
bẻ tôi mãi vì những chuyện ngồi với người yêu. Tôi bắt đầu cảm thấy là
mình dại dột khi khui cái vụ này ra. Thì ra chân thành quá mức đôi khi
cũng thật nguy.
Hồng Nhân
giơ tay xin phát biểu. Anh ta là phóng viên nhưng ham sáng tác, đã mấy
lần đưa truyện và thơ để đăng, nhưng tôi trả lại vì kém quả. Có lẽ vì
vậy, anh ta thù tôi. Nay thời cơ phục thù đã tới, anh ta nhảy ra vồ lấy
cơ hội, với một gương mặt bất nhẫn, vừa tò mò vừa thỏa mãn. Anh ta chậm
rãi nói:
- Tôi xin được hỏi đồng chí Trần Hưng nhé. Đồng chí ngồi với người yêu trong hoàn cảnh nào, ở đâu, có ai chứng kiến không?
- Không có ai cả. Chỉ có hai chúng tôi bên dòng suối vắng, dưới chân đồi hạt dẻ.
Hồng Nhân tiếp tục hỏi:
-
Vậy thì đồng chí đã làm những gì trong bốn tiếng đồng hồ thơ mộng và
ngây ngất ấy. Lẽ nào đồng chí quên rằng toàn dân tộc đang còn hy sinh
gian khổ cho kháng chiến? Trong thời gian ấy, chúng tôi tâm sự rồi nấu
cơm ăn chung.
- Nhưng đồng chí vừa nói rằng mình đã yêu đương không trong sáng. Đồng chí đã làm gì người yêu mình đến độ phi vô sản như vậy?
- Tôi đã hôn cô ấy đến nỗi giập cả môi ra.
-
Vậy là rõ rồi phải không các đồng chí. Một người vệ quốc quân lại hôn
hít đến chảy cả máu môi của một người phụ nữ cũng đang tham gia kháng
chiến như chúng ta. Các đồng chí có tin rằng sự việc chỉ dừng lại ở chỗ
đó không ạ?
Hồng Nhân chưa kịp hỏi hết thì Phong Thi đã xin phát biểu:
-
Vấn đề này chắc chắn còn phải đi xa hơn nữa. Nam nữ ở bên nhau bốn năm
tiếng đồng hồ, lại không có ai dòm ngó, nấu cơm ăn chung, còn hôn hít
nhau đến chảy cả máu môi người ta như vậy, thì thử hỏi còn điều gì đồng
chí Trần Hưng của chúng ta không làm cơ chứ?
Có nhiều tiếng xì xào trong bóng tối: đúng, đúng. Thủ phó Sao Chổi hỏi:
- Đồng chí đã khai thật chân thành hết mọi chuyện với tổ chức chưa Trần Hưng?
- Báo cáo, sự việc chỉ có thể thôi ạ.
Đám
Sao Chổi, Phong Thi, Hồng Nhân đã lôi kéo được hàng chục người khác ủng
hộ họ trong lập trường bắt tôi phải khai ra thậm chí có những điều mình
chưa làm, chưa có. Họ thi nhau phát biểu chất vấn tôi, quy chụp, lên án
tôi bao nhiêu điều. Thì ra, được thủ trưởng cơ quan yêu quý, có khả
năng viết lách, làm được việc, luôn được bầu là chiến sĩ xuất sắc như
tôi quả thật bất lợi, quả là cái gai đâm vào mắt thiên hạ. Giậu đổ, bìm
leo, nhân cơ hội này, họ hùa nhau quyết hạ cho được thằng Trần Hưng dại dột. Đã mười giờ tối, Sao Chổi cho anh em đi ngủ để mai còn lấy sức kiểm thảo Trần Hưng.
Nhất là ngày mai, chỗ dựa của tôi là Tràng Giang đi họp gấp vắng mặt
trong buổi sáng, nếu tôi chọn được một giải pháp khôn ngoan, có thể sẽ
bị hất khỏi lưng cọp. Đêm đó, tôi nằm trằn trọc tới sáng. Kinh nghiệm
của những cuộc kiểm thảo liên
miên đã dạy cho tôi một bài học xương máu: nếu khuyết điểm anh mười
phần nhưng anh ngoan cố chỉ nhận tới tám, anh sẽ bị quy chụp tới chết,
sẽ bị quy lên thêm cái tội tày đình là gian dối, không chân thành trước
tập thể. Thà rằng, tội anh một, nhưng anh cứ phóng đại lên, nhận thêm
lên tới mức thành một rưỡi đi, tức khắc tập thể sẽ vừa lòng, anh đã
thành khẩn tới mức đó thì ai còn nỡ truy anh nữa, người ta sẽ tha, sẽ lờ
anh đi. Tôi tính, nếu sáng mai các đồng chí cứ truy bức mãi về cái vẻ
ngồi với người yêu, cứ bắt mình khai ra cái điều chưa có ấy mãi, mình cứ
nhận đi cho nó qua truông. Sáng hôm sau, Hồng Nhân chi ủy viên điều
khiển cuộc kiểm thảo.
Suốt bốn tiếng đồng hồ, anh ta tập trung gần hết anh em họp lại, tranh
thủ mọi người, phát biểu chất vấn, truy bức về cái chuyện yêu đương
không trong sáng của tôi, tới mức tôi hết chịu nổi. Tôi đành nhắm mắt
đưa chân để sự việc kết thúc mau đi, để người ta đừng làm nhục tôi bằng
cách quy chụp cho cái tội giấu giếm, không thành thật với tập thể, rồi
muốn kỷ luật tôi sao thì kỷ luật. Tôi quyết định nhận cái tội mình chưa
phạm ấy, nghĩa là cái hành động ăn trái cấm của Ađam, mà thực ra thì tôi
chưa từng nếm. Kinh nghiệm qua các kỳ đấu đá liên chi hồ điệp dạy tôi
rằng mày hãy cứ nhận tội đi, xong rồi người ta sẽ tha cho, bởi vì cái
tội ấy khi người ta muốn mày phạm, dù mày chưa hề phạm đâu có quan trọng
gì, miễn là để tập thể vỗ ngực cho rằng sự phân tích của mình từ hôm
qua đến giờ là đúng. Đằng nào thì trước sau tôi cũng lấy Oanh. Không
trước thì sau cũng sẽ xảy ra cái điều cuối cùng ấy cơ mà. ừ, xin phép
Oanh, cứ cho tôi nói trước làm sau cái hành động yêu đương cuối cùng ấy
để tập thể đừng truy tôi nữa. Rằng đồng chí cứ màn thưa che mắt thánh
mãi sao, đã có gan yêu không trong sáng mà lại thiếu gan nhận à, dũng
cảm lên một tí xem nào đồng chí Trần Hưng
quý mến. Đấy toàn là những lời như vậy thôi, miệng mình nhỏ, còn miệng
tập thể thì quá lớn, cãi làm sao cho lại. Thôi đằng nào cũng vậy cả, tôi
quyết định nhận cái điều mình chưa phạm để tập thể hài lòng, để cho tôi
mau mau thoát nạn, rồi muốn ra sao thì ra:
- Vâng, thưa các đồng chí, vì bản chất tiểu tư sản yếu đuổi hèn kém không đấu tranh nổi với bản thân mình,
không thắng được cơn sóng dục vọng nổi lên đánh chìm con thuyền ý thức
giai cấp, nên tôi đã mê muội quá đến mức sau khi hôn người yêu chảy máu
môi, tôi đã đè cô ấy xuống bờ suối vắng mặc dù cô ấy phản đối. Tôi đã
làm cái chuyện nhơ nhuốc đó với người yêu theo kiểu kẻ cướp, y như một
tên đế quốc. Tôi xin thành thật nhận tội trước tổ chức, rất mong tập thể
thông cảm và tha thứ cho tôi, vì đằng nào chúng tôi cũng sẽ cưới nhau
làm vợ chồng.
Tôi nói chưa
dứt lời đã gục đầu xuống để cầu mong lòng thương hại của cách mạng. Mọi
người ồ cả lên, trố mắt kinh ngạc, gương mặt ai cũng đầy vẻ thỏa thuê,
vui thích. Họ thay nhau phát biểu quy chụp mọi tội lỗi trên đời cho tôi,
làm như chính vì chuyện yêu đương bậy bạ của tôi hôm đó mà kháng chiến
nửa chừng phải bỏ dở, đành phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ vậy. Người ta đã
ghép tôi vào tội hủ hóa ghi lý lịch. Trời ơi, tôi tí nữa ngất xỉu. Trên
đời này có cái tội hủ hóa với người yêu không nhỉ? Có lẽ đấy là bài học
cay đắng nhất của tôi, về lòng chân thành trước tổ chức và tập thể. Tôi
không sao cải chính được nữa. Kỷ luật là kỷ luật, không thể đùa với tổ
chức và tập thể được nghe chưa, hỡi con người quá ấu trĩ vì sự thành
thật đến mất mạng của mình. Tôi bước ra khỏi cuộc họp mà thấy đồi núi
quay cuồng. Cây rừng Việt Bắc đổ ngổn ngang trong mắt tôi. Tôi quằn quại
như con chim trong bão. Tôi căm thù mình vì đã mắc tội với Oanh, làm ô
uế tình cảm thiêng liêng của nàng. Tôi, thằng Húng chó ăn ruồi, tên Trần Hưng hủ hóa bị kỷ luật ghi lý lịch. Ai bảo mày Hưng ơi, dại thì chết.
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 5
Chỉ còn ít ngày nữa, chúng tôi đã
phải tạm biệt rừng chiến khu về xuôi, tiếp quản thành phố theo hiệp
định Giơ-ne-vơ. Chúng tôi không còn phải đối phó với bom pháo nữa, vì
hòa bình đã được lập lại. Tờ báo Chiến Thắng của chúng tôi vẫn ở lán
trại trong rừng. Chúng tôi đã phát được khoảng sân rộng, thoáng đãng ánh
mặt trời để làm sân sinh hoạt, thể thao văn nghệ hay họp mít-tinh, sáng
sáng điểm danh chào cờ. Đang tuần trăng sáng, sắp tới rằm trung thu năm
Ngọ 1954. Do đó, ngay từ thượng tuần, anh em đơn vị chúng tôi sau khi
học tập kiểm điểm xong, thường tập trung vài ba người từng nhóm uống
trà, đàn hát hoặc ngắm trăng. Một lần, tối mười ba âm lịch, ăn cơm chiều
xong, Tràng Giang bảo tôi:
- Trăng đẹp
thế này mà sinh hoạt xong, có nhiều anh em chuồn vào giường ngủ mất. Có
lẽ anh em đó buồn gì chăng, chứ hòa bình thắng lợi rồi đến trăng sao còn
phấn khởi, đua nhau tỏa sáng. Mai kia về thành phố điện sáng, lấy trăng
đâu mà ngắm chứ.
Tôi ngây thơ hỏi nhà chính trị tài ba:
- Sao dưới phố không có trăng hả anh?
-
Ôi, điện nó lắp mất hết trăng còn đâu mà ngắm. Với lại, cuộc sống hòa
bình với bao nhiêu nhu cầu, đòi hỏi, con người ta còn thời gian đâu để
nghĩ đến trăng với sao. Nhân có thủ phó cơ quan đứng gần đó, Tràng Giang
mời lại nói luôn:
- Các đồng chí ạ, con
người ta vốn dĩ hay quên lắm, khi sướng là quên ngày khổ, khi vinh hiển
không nhớ thuở cơ hàn, lúc no đủ đâu nhớ ngày đói khát. Nếu không làm
tốt công tác chính trị, chỉ cần bước chân ra tới cửa rừng là anh em ta
quên béng mất chiến khu, quên kháng chiến. Tôi và anh Sao Chổi đã bàn
với cấp ủy, tối mai ta tổ chức cho anh em ngắm trăng tập thể. Chớ để
vầng trăng đẹp đẽ như thế này hóa thành cá thể, thành tư hữu mất.
Tối mười bốn âm lịch, sau khi anh em họp thảo luận chính trị rồi kiểm thảo thường
nhật xong, đang tính về lán ngủ thì nghe tiếng kẻng dài tập họp. Tờ báo
lúc đó phát triển khá, biên chế hơn ba chục con người. Tất cả ùa ra tập
hợp dưới ánh trăng, trên sân vận động của cơ quan, xếp làm bốn hàng
ngay ngắn, riêng Tràng Giang và Sao Chổi là hai người phụ trách tờ báo
không phải xếp hàng, mà đứng ngoài điều khiển. Tràng Giang cho anh em
ngồi xuống, đoạn nói:
- Thưa các
đồng chí, chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta phải bùi ngùi tạm biệt chiến
khu để về tiếp quản thành phố ở vùng xuôi. Chia tay với rừng, chân chúng
ta đi mà lòng ở lại. Về xuôi, chúng ta gởi lại đây hương hồn bao nhiêu
đồng chí đồng bào đã lấy máu xương mình làm nên chiến thắng. Tôi nghĩ
rằng, những hồn tử sĩ ấy đã hóa thành ánh trăng tuyệt vời chói sáng trên
đầu chúng ta kia, soi cho ta nhìn rõ tâm hồn mình, để mỗi cảm nghĩ, mỗi
việc làm chúng ta đều thấm đẫm hơi thở của tinh thần giai cấp. Để khi
về xuôi rồi, chúng ta còn mãi giữ lại một ấn tượng sâu đậm cuối cùng của
chiến khu Việt Bắc, không phút giây xao nhãng quên đi tám năm kháng
chiến trường kỳ gian khồ, chi ủy và ban biên tập tờ báo quyết định mời
các đồng chí ra sân cùng xếp hàng ngắm trăng tập thể trong ba tối kể từ
tối nay. Thời gian ngắm là một tiếng rưỡi đồng hồ. Đến ngày mười bảy âm
lịch, nếu không có gì thay đổi, chúng ta sẽ chuyển căn cứ về vùng phụ
cận Việt Trì. Mấy tối nay, ban lãnh đạo thấy các đồng chí cũng có ra sân
ngắm trăng nhưng chia thành từng tốp, thậm chí có người ngồi ngắm trăng
một mình có vẻ cô độc và tiểu tư sản quá. Chỉ có giai cấp bóc lột, bọn
thực dân phong kiến mới thu mình vào vỏ ốc cá nhân ngay cả khi vui chơi,
khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Còn chúng ta là những người theo chủ
nghĩa xã hội. Mà chủ nghĩa tập thể của chúng ta thì không có vầng trăng
tư hữu. Với chúng ta, dù trăng sao hoa lá cũng phải có tổ chức, có kỷ
luật. Cho nên dù là chuyện vui chơi, nghỉ ngơi, giải trí của chúng ta
cũng phải cần có lãnh đạo. Thôi bây giờ tôi xin nhường lời cho đồng chí
chính trị viên tuyệt vời của chúng ta đêm nay là vầng trăng nói chuyện
với các đồng chí. Các đồng chí hãy cố gắng mang theo vầng trăng tập thể
này làm hành trang đi suốt đời mình. Nào xin mời các đồng chí ngồi
xuống, im lặng, chúng ta cùng ngắm trăng. Giờ ngắm trăng bắt đầu, ngắm.
Tất
cả hơn ba mươi con người ngồi bó gối, xếp theo hàng, im lặng cùng hướng
mặt lên vầng trăng đêm mười bốn đang tỏa sáng xuống núi rừng Việt Bắc.
Bài nói của Tràng Giang đã chấm dứt nhưng vẫn còn âm vang trong lòng
tôi. Tôi thầm phục anh và ban lãnh đạo tờ báo đã nghĩ ra một công tác
chính trị tuyệt vời như thế này. Biến cả ông trăng thành ra đồng chí
chính trị viên. Tôi ngồi ở cuối hàng, mặc dù phải chú ý tới nhiệm vụ
chính là ngắm trăng, nhưng cũng vẫn liếc mắt nhìn thấy hết những người
khác. Tất cả mấy chục con người đều ngồi một dáng ngoẹo đầu, hất mặt lên
mặt trăng y hệt như Tràng Giang đang ngồi như tượng đá, bên trên hàng
quân làm mẫu mực cho việc ngắm trăng. Tôi trộm nghĩ một cách lếu láo,
giá có muỗi hay ruồi vàng đất đau nhói đi chăng nữa, chắc chắn Tràng
Giang vẫn quyết cắn chặt môi, nghiến răng chịu đựng không thèm gãi hay
xua đuổi, vì anh đã bị ông trăng thôi miên rồi. Đêm rừng yên lặng một
cách hoang dã. Tôi nghe có tiếng sương rơi từ phía những tàn lá góc sân.
Vầng trăng mười tư còn hơi meo méo, gác trên phía đông trời, đối diện
với bốn hàng người trên sân cỏ.
Dưới
ánh trăng mờ ảo, nhưng con người trước mặt tôi như vừa bị hóa thạch,
như từ thời tiền sử trôi dạt về đây. Ai biết từng người trong bọn họ
nghĩ gì, mắt ngắm mà lòng chưa chắc đã có trăng. Nhưng mỗi con người
chúng tôi chỉ là một hạt bụi trong cái thế giới mênh mông có lãnh đạo,
có tổ chức này. Ngay cả vầng trăng kia cũng không thoát được số phận bị
lãnh đạo ấy. Tôi cũng có mặt trăng riêng của mình. Mặt trăng ấy chính là
gương mặt Oanh. May mắn thay cho mỗi cá nhân chúng ta, vì chúng ta còn
biết tư tưởng. Cái cõi ấy cũng vô tận như bầu trời đầy trăng này. Đã bao
đời nay, bao nhiêu vĩ nhân, bao nhiêu bậc thánh thần hoặc lãnh tụ đã có
tham vọng chinh phục cái cõi không thể chinh phục được là tư duy con
người. Nhưng tất cả những vị siêu nhân kia dường như đã bất lực, dù có
dùng sức mạnh tàn
khốc để đe dọa, để làm con người sợ hãi cũng không sao xiềng xích được
tư tưởng con người vào gót chân mình. Sự hoạt động của đại não mà người
ta tạm gọi là tư tưởng chính là nguồn cội của tự do. Tôi mặc kệ vầng
trăng tập thể và sự thiêng liêng của Tràng Giang, Oanh đang hiện ra
trước mặt tôi với tất cả vẻ u buồn của nàng, vì tình yêu kia đã bị cuộc
kiểm thảo chân
thành một cách lếu láo của tôi vừa qua bôi nhọ. Và trước mặt tôi, ánh
trăng mờ dần đi để cuối cùng trên bầu trời còn lại một mặt trăng đen.
Đêm hôm sau, từ tám giờ tối, tiếng kẻng báo hiệu ngắm trăng vang lên
giòn giã. Chúng tôi lại ra sân xếp hàng ngắm trăng tập thể. Trăng trung
thu sáng rỡ như một đám cháy lớn góc rừng. Cảnh anh em trong đơn vị ngồi
như những mô đất, hệt tối hôm qua, nhưng sao vẫn không thật, như là
mình mắc bệnh mộng du. Trước khi vào ngắm trăng, Tràng Giang phê bình
một số người hôm qua ngủ gật:
-
Tối hôm qua, khi cả tập thể đang say sưa ngắm trăng một cách thiêng
liêng thì một vài đồng chí lại ngồi bó gối ngủ gật. Đến nỗi tôi ngồi
đằng trước mà vẫn nghe tiếng ngáy khò khò như Trương Phi ấy. Những đồng
chí nào ngủ gật khi ngắm trăng tối qua yêu cầu ngày mai tự giác làm bản
kiểm điểm. Tôi xin thay mặt ban lãnh đạo tờ báo biểu dương tinh thần
ngắm trăng của đồng chí Hùng Thắng, mặc dù bị sốt đến liệt giường, vẫn
đòi ra sân bằng được để cùng toàn đơn vị ngắm trăng. Đến nỗi, như các
đồng chí thấy, đồng chí Hùng Thắng phải ngồi dựa lưng vào đồng chí chúng
ta, để ngắm bằng được trăng rằm đêm nay. Tôi xin các đồng chí vỗ tay
tán thưởng tinh thần của đồng chí Thắng. Nào, tất cả chúng ta cùng ngắm
trăng, ngắm.
Không khí lại rơi vào
chết lặng. Tôi chìm vào tiếng lá rừng trở giắc xạc xào. Gió than vãn gì
trong cây không rõ, làm ánh trăng sáng đến rợn người. Tôi cảm thấy bị
lóa mắt, khẽ cúi xuống, nhưng lại sợ tình nghi là phần tử ngủ gật, bèn
vội ngẩng đầu lên. Mặt trăng dù đang có cả một tập thể đông đúc lặng
ngắm, nhưng sao vẫn đơn độc, như một trái tim bị tình phụ giữa trời.
Sáng nay, tôi vừa nhận được thư Oanh. Nàng thông báo bằng một giọng buồn
đau chua chát, rằng đã nghe người đơn vị tôi nói tôi vừa bị kỷ luật ghi
lý lịch vì tội hủ hóa. Oanh nói cô đau khổ vả nhục nhã lắm, nếu đó là
sự thực. Nàng nói đang xác minh sự việc, nếu chuyện này không chỉ là tin
đồn thì chúng ta phải chia tay nhau thôi. Tôi hoang mang quá, lơ mơ mất
người yêu như chơi. Tôi quyết định sáng mai sẽ viết thư kể hết nguồn
cơn cho Oanh. Rằng lòng chân thành quá đỗi đã dẫn tôi đến sự thể bi hài
khi kiểm thảo ra
sao. Ôi, cuộc sống, lẽ nào người lại đẩy tôi vào hoàn cảnh trớ trêu
này? Tôi còn lòng dạ nào mà ngắm với chả nghía trăng với sao.
Hùng
Thắng ngồi dựa vào hai người, ngắm trăng cùng anh em, nhưng lên cơn sốt
cao quá, ngã vật ra đành phải khiêng vào nhà. Sau sự cố này, không khí
lại trở về im lặng. Trong không khí ngắm trăng tập thể nghiêm trang tới
mức tôn giáo, thì không hiểu kẻ phá hoại, tên phá bĩnh nào ẩn núp như
sâu bọ trong hàng ngũ, kẻ liên minh với giai cấp bóc lột như tiếng gọi
thời đó, bỗng bất ngờ phóng ra một cái trung tiện kêu ngang pháo lép.
Như một cơn thọc lét tập thể, ngay sau khi tiếng rắm mất lịch sự đầy
chất đế quốc phong kiến kia, mọi người bỗng phá ra cười sằng sặc. Tiếng
cười nổi lên như trận bão, làm mọi người ôm bụng nghiêng ngã như vừa bị
đốn sóng xoài. Hình như mặt trăng cũng cười lên hềnh hệch, cười đến méo
cả miệng chị Hằng, méo cả miệng thằng Cuội. Tôi cười đến chảy nước mắt
nước rãi. Như một cơn hoang tưởng tập thể, nhờ sự giận dữ gào thét lập
lại trật tự của Tràng Giang và Sao Chổi, đến gần hai phút tiếng cười bản
năng vô ý thức mới dứt. Cuộc ngắm trăng đang cơm lành canh ngọt, sắp
tới lúc kết thúc, liền bị giải tán, tìm cho ra tên phản động đã phát
tiếng rắm phá hoại vừa rồi.
Suốt cả
tiếng đồng hồ sau, không ai nhận là tác giả của tiếng bom láo lếu phạm
thượng ấy. Cuối cùng, Tràng Giang phải cho giải tán, kêu gọi lương tâm
và trách nhiệm, cố khui ra kẻ phá thối kia. Suốt ngày hôm sau, chúng tôi
phải làm bản kiểm điểm vì tiếng cười vô ý thức, vô tổ chức kỷ luật bùng
ra tập thể trong một không khí cực kỳ trang nghiêm. Dầu có làm gì đi
nữa, cuối cùng ban lãnh đạo tờ báo cũng không tìm ra tên đế quốc ném bom
đêm rằm ấy. Ban lãnh đạo quyết định đêm mười sáu âm lịch, anh em chúng
tôi phải ngắm trăng đền hôm trước, thay vì ngồi dưới sương tiếng rưỡi
đồng hồ, chúng tôi được vinh dự ngắm trăng tới ba tiếng. Nhưng oái oăm
thay, đến bảy giờ tối thì trời lại giáng xuống một cơn mưa dài và dai
dẳng đến quá nửa đêm, thành ra chúng tôi được thoát nạn ngắm trăng.
Tràng Giang buồn và căm lão trời lắm. Không biết trong giấc mơ đêm, anh
ta có leo lên trời bắt Ngọc Hoàng Thượng Đế làm bản kiểm thảo hay không?
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 6
Tràng Giang được điều về làm phó
ban cải cách tỉnh X., chỉ cách một cây cầu qua con sông nhỏ là tới tỉnh
quê tôi. Anh xin tôi về làm trưởng phòng tuyên truyền của ban cải cách
tỉnh. Tràng Giang giao nhiệm vụ cho tôi xong bảo:
- Cố gắng công tác nghe Trần Hưng.
Tổ chức đề bạt đồng chí đấy. Tôi muốn Hưng tham gia vào cuộc cách mạng
vĩ đại này để viết một tác phẩm văn học xứng đáng với giai cấp bần cố
nông. Ngày hôm sau, một người nhỉnh hơn tôi một hoặc hai tuổi là cùng,
mặt vuông chữ điền, mắt sắc như mác, miệng rất tếu, tướng mạo tầm thước
đến tìm tôi:
- Đồng chí là Trần Hưng
phải không? Nghe giọng nói, tôi biết anh là cán bộ miền Nam mới tập kết
ra Bắc. Tôi gật đầu, chìa tay ra bắt tay anh. Người lính mới bỏ balô,
giơ tay chào:
- Báo cáo, tôi là
Nguyễn Văn Giỡn, tức Hai Giỡn, được tổ chức cử về đây làm phó cho đồng
chí. Tôi quen Hai Giỡn từ đó. Anh quê đâu Bạc Liêu hay Rạch Giá gì đó.
Tính tình anh bộc trực, có sao nói vậy, có vẻ phổi bò nhưng lại sâu đậm.
ở chung với anh vui tối ngày, cái gì cũng có thể bông phèng được. Ông
già anh theo Tây học, suốt đời chăm chỉ cần mẫn nhưng không thành công
đành bất đắc chí về quê mần ruộng, tức khí nên khi đẻ con trai đầu lòng
mới đặt tên là Giỡn cho đời biết mặt. Hai Giỡn nhà không nghèo lắm,
nhưng cũng chả bao giờ giàu có nên được học hành tương đối tử tế.
Cách
mạng tháng Tám, anh vào thanh niên tiền phong rồi đi kháng chiến mút
mùa. Anh đánh nhau khá nhiều, bị thương mấy lần nhưng đều vào phần mềm
nên cũng đỡ. Hai Giỡn chưa kịp có người yêu thì đã tập kết ra Bắc. Hai
Giỡn hợp với tôi nhiều điểm. Ngoài những điểm khá căn bản của cuộc đời,
chúng tôi còn hạp nhau ở cái khoản mê nhậu thịt cầy, thích thơ, ưa thể
thao bơi lội và nói dóc vô hại để cười chơi.
Một
lần họp giới thiệu lính mới với thủ trưởng cơ quan là đồng chí Hoàng
Thanh, người từng đi thực tập cải cách ruộng đất bên Trung Quốc về, nghe
giới thiệu đến một người tên là Giỡn, bèn bảo:
- Theo ý kiến tôi, đồng chí nên đổi tên đi thì hơn.
Hai Giỡn hỏi lại:
- Thưa đồng chí trưởng ban, tên cha mẹ đặt cho, làm sao lại phải đổi ạ?
-
à tên đồng chí nghe không nghiêm chỉnh. Nguyễn Văn Giỡn nghe không lọt
tai. Xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta là một xã hội nghiêm trang,
không thể chấp nhận một cán bộ đảng viên mang cái tên đùa cợt như vậy
được. Chỉ cần gọi tên đồng chí lên nghe đã không đứng đắn rồi. Chúng ta
làm cách mạng, thay đổi cả thế giới chứ đâu phải trò đùa nghe chưa đồng
chí Giỡn. Theo tôi, đồng chí nên bỏ dấu ngã để tên mình là Giơn có phải
hay không. '
Sau đó, chi bộ biểu quyết bắt
Hai Giỡn đổi tên, bỏ đi một dấu ngã thôi mà. Có người còn tính kiểm
điểm anh nữa. Hai Giỡn tức quá, cóc biết sợ là gì, phang tới:
-
Kỳ cục, Giỡn thì đã làm sao mà phải đổi nào. Tên là Giỡn mà tính tình
nghiêm chỉnh là được chứ. Có mỗi dấu ngã, mỗi cái quyền được ngã cũng
cấm cản là cớ làm sao?
Dù có lồng lên
chăng nữa, cuối cùng Hai Giỡn cũng phải để cho cán bộ tổ chức dùng tẩy,
tẩy đi một dấu ngã trên cái tên mình trong lý lịch, biến thành Nguyễn
Văn Giơn. Tuy nhiên đến thời sửa sai, anh lại tìm tổ chức đòi lại dấu
ngã của tên mình, đòi lại cái quyền được ngã của đời mình. Rốt cuộc, anh
là Giỡn vẫn hoàn Giỡn.
Tỉnh X. là tỉnh
cải cách ruộng đất vào loại đầu tiên của vùng đầng bằng Bắc bộ. Tỉnh quê
tôi năm sáu tháng sau mới phát động cải cách. Nhân một lần cùng đoàn
công tác có Hai Giỡn cùng đi về công cán ở huyện gần quê tôi, chỉ cần
qua cái cầu, đi chưa đầy hai chục cây số nữa là đến nhà bố mẹ tôi. Mặt
khác, trước khi đi, tôi đã báo cáo cho Hoàng Thanh và Tràng Giang xin về
thăm gia đình vài hôm. Đường về quê tôi sau chiến tranh có sửa chữa
nhưng rất khó đi. Chiếc xe zép chiến lợi phẩm cứ lồng lên chồm chồm như
con cóc. Năm người chúng tôi ngồi trên xe cứ lắc lư như người say rượu,
xe xóc va đầu vào nhau sưng tếu. Con đường xuyên qua những cánh đồng đã
bước đầu hồi sinh, đâu đó bên những bót đồn nằm chỏng chơ hoang lạnh,
những lớp rào thép gai còn bò ngoằn ngoèo như những loài cây dây leo
quái gỡ của chiến tranh. Những gác chuông nhà thờ nhọn hoắt, đóng đinh
vào bầu trời tất cả vẻ u tịch thâm nghiêm của những xóm làng rêu mốc.
Tất cả làng mạc như vừa được nhúng vào nước biển, nằm chỏng chơ phờ phạc
trong những lũy tre. Trên đường về làng, tôi hình dung đến bố mẹ và các
anh chị em. Mẹ tôi chắc tóc đã bạc nhiều. Bố tôi, ông Hai Cầy thích ăn
thịt chó, có ít nhiều ruộng tư điền, nhà ngói năm gian, sân gạch, sập
gụ, giường lim... liệu sắp tới có bị quy lên địa chủ không? Chị lá Mơ,
em rựa Mận đã con bồng con bế. Còn thằng chả Chìa không biết giờ ra sao?
Mười năm, một khoảng cách vô cùng, tôi như một kẻ đã chết hồi sinh tìm
về mái nhà xưa. Tôi đập vào vai Hai Giỡn đang thiu thiu:
- Làng tôi đó.
Hai Giỡn giật mình, sờ tay vào báng súng ngắn, y như sắp có giặc vậy. Tôi chỉ về phía bóng đa lờ mờ:
- Đấy ông thấy bóng đa lờ mờ đó chứ?
- Thấy. Làng ông chắc nhiều chó dữ. Ta làm con cầy tơ với đĩa tiết canh dồi chó nhậu lai rai với ông già chứ?
Tôi
gật đầu cười. Chiếc xe chở chúng tôi đã tới đầu làng với trạm gác dân
quân có barie chan ngang. Sau cái rào chan ấy, tôi thấy năm sáu nam nữ
dân quân khoác súng trường xếp hàng ngang.
- Cho xem giấy tờ.
Một
anh dân quân mũ nan, chân đi dép cao su, trạc ngoài hai mươi tuổi, lưng
đeo ba bốn quả lựu đạn chày, khoác súng vừa nói vừa tiến về phía xe
chúng tôi. Tôi nhảy xuống xe, báo cáo sơ qua rồi đưa giấy. Người xét
giấy không xem, ra vẻ quan liêu, truyền:
- Đợi đó. Tôi cho người trình đội.
Anh
ta sai một dân quân trẻ, cầm giấy giới thiệu của tôi, co cẳng chạy
thẳng vào làng. Thì ra làng tôi đang lúc cải cách ruộng đất Nhất đội nhì
trời, mọi cái nhất nhất phải chờ lệnh của ông đội.
Hai Giỡn nhảy xuống xe bảo nhỏ tôi:
-
Coi bộ căng rồi đó. Chờ xem. Chắc họ giải quyết thôi. Hai tỉnh là láng
giềng mà. Với lại mình dân ở đây. Lính đánh Tây mười năm về thăm nhà lẽ
nào làm khó dễ. Hai Giỡn dặn hai người khác và lái xe:
-
Chuẩn bị nghe tụi bay. Lái xe phải cho ngon. Đồng chí Thảnh kéo ngay
khẩu tiểu liên ra phòng bất trắc. Tôi dặn anh em chớ có khiêu khích,
phải hết sức nhu mì, cứ để tôi giải quyết.
Chúng
tôi chờ một lúc thì thấy hai người súng ống nai nịt đi ra cùng với anh
dân quân cầm thư lúc nãy. Họ nói nhỏ với những người đứng gác điều gì có
vẻ hệ trọng. Một người mới ra vẻ lãnh đạo, tiến gần đến xe chúng tôi: -
Ai là Trần Hưng?
- Có tôi.
- Thì ra anh là con đại địa chủ Hai Cầy?
- Bố tôi sao thành địa chủ được. Quá lắm là phú nông.
-
Bố anh là địa chủ cường hào đấy. Hai Cầy đang bị bao vây nhà, vài ngày
nữa sẽ bị tịch thu tài sản. Lệnh của đội cải cách xã Thúc Kháng mời Trần Hưng ở lại. Còn đoàn xe cho đi.
-
Chúng tôi cùng đi, sẽ cùng về. Tôi là con em xã này đi kháng chiến trở
về thăm gia đình. Tôi cũng là cán bộ cải cách ruộng đất của tỉnh X. ngay
cạnh tỉnh ta.
Người đại diện dân quân vẫn tỉnh bơ:
- Giấy giới thiệu này không có giá trị.
- Vì sao?
- Vì xã này không nằm trong tỉnh X. Mời Trần Hưng vào làm việc với đội cải cách. Còn yêu cầu xe rời khỏi xã chúng tôi.
Hai Giỡn tức đỏ mặt, nói nhỏ vào tai tôi:
- Bọn này muốn bắt anh đó. Ghê thiệt.
Tôi vẫn ăn nói rất dịu dàng, không tỏ ra ăn năn hay giận dữ:
- Xin các anh thông cảm cho xe chúng tôi vào làng, tôi chỉ thăm cha mẹ một chút rồi đi thôi.
Vị đại diện đội cải cách xã vẫn sắt thép:
- Không được. Đây là lệnh của đội. Trần Hưng ở lại, còn xe rời khỏi đây ngay. Tôi cổ kìm nhưng vẫn cứ bật ra:
- Các anh không có quyền giữ tôi. - Không lý sự. Đây là lệnh. Các anh đang ở trên đất của chúng tôi. Anh có chấp hành không?
Tôi nổi cáu:
- Nếu các anh không cho tôi thăm nhà thì chúng tôi đi.
Tay dân quân vẫn cương quyết:
- Không được. Chỉ cho xe đi. Còn anh phải ở lại gặp ban đội
- Có nghĩa là các anh định bắt tôi?
- Thì sao nào.
Tôi định quay xe thì người này bèn nhanh chóng nắm lấy cánh tay tôi ra lệnh:
- Nào, anh em, giữ tên Trần Hưng ngoan cố này lại. Nếu các người chống cự, chúng tôi bắt buộc phải dùng võ lực.
Lập tức Hai Giỡn nhảy phắt xuống xe, quát:
- Đừng có làm bậy. Các người có biết đồng chí Trần Hưng là ai không?
Người vẫn nắm cánh tay tôi nói tỉnh bơ:
- Không biết. Chúng tôi chỉ làm theo lệnh. Tôi rút phắt cánh tay mình khỏi tay người dân quân. Anh ta đỏ mặt, chỉ vào Hai Giỡn:
- Các anh biết điều thì cút ngay. Để Trần Hưng lại. Du kích, trói ngay tên ngoan cố này lại cho đội.
Hắn vừa nói vừa chỉ tay vào mặt tôi.
Năm sáu anh du kích súng lăm lăm trong tay theo tư thế chiến đấu xông vào bắt tôi.
Hai Giỡn nhanh như chớp, rút súng lục chĩa thẳng vào ngực người chỉ huy dân quân:
- Nếu các anh dám đụng tới đồng chí Trần Hưng, tôi sẽ bắn bỏ ngay anh này. Các người nên biết tôi là cán bộ miền Nam tập kết, nói sao làm y như vậy.
Đám du kích xã ngừng lại. Người chỉ huy dân quân sợ tái mặt. Tôi can Hai Giỡn:
- Thôi đi ông Hai, họ không dám bắt mình đâu.
Hai Giỡn vẫn chĩa súng vào người con tin này, miệng quát lớn:
-
Tụi bay, Thảnh và Vũ chuẩn bị phát hỏa hai khẩu tiểu liên. Đồng chí lái
xe vừa chuẩn bị xe tốt, vừa gọi điện đài về bộ chỉ huy đội và bộ chỉ
huy tỉnh quân khu. Xong, chuẩn bị lựu đạn.
Thực ra, chúng tôi đâu có máy bộ đàm. Hai Giỡn bịa ra để dọa đảm này thôi. Hai Giỡn vẫn dùng đòn ngoại giao hạng nặng:
-
Các anh nên nhớ tụi tôi còn hai xe nữa đang trên đường tới đây. Toàn
lính thiện chiến Điện Biên Phủ cả. Nếu các anh khai hỏa trước, chắc chắn
sẽ không còn mống nào chạy thoát đâu.
Tay chỉ huy du kích mặc dù đang đứng trước mũi súng của Hai Giỡn, vẫn cố làm ra vẻ:
- Anh em du kích chuần bị chiến đấu.
Hai Giỡn quát:
- Đừng có bậy. Nếu anh ra lệnh bắn, tôi sẽ thịt anh trước.
Tôi bình tĩnh:
- Thôi, hai bên các anh hãy tự kiềm chế. Nếu ai nổ súng trước, người đó sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi
thấy Thảnh xách tiểu liên nhanh như cắt nhảy từ trên xe xuống đất, lăn
tròn mấy vòng ngoạn mục, chiếm lĩnh gốc cây cụt, chĩa tiểu liên về phía
đám du kích. Vũ ôm súng trường, đeo đầy lựu đạn, nhanh chóng chiếm lĩnh
một mô đất.
Tôi ra lệnh:
- Khi nào họ khai hỏa trước, anh em mới có quyền bắn kẻ nào liều lĩnh nổ súng trước nghe chưa.
Không khí căng thẳng như thể chúng tôi đang ngồi trong lò thuốc súng.
Hai Giỡn thật nhanh trí. Anh như ra lệnh cho tôi:
- Xin mời đồng chí Trần Hưng lên xe. Nếu có kẻ nào dám liều lĩnh bắn đồng chí lãnh đạo này thì tất cả các anh ở đây đều phải đền mạng.
Hai Giỡn vẫn chĩa súng uy hiếp người đại diện du kích xã.
Tôi
đi giật lùi trở lại xe. Người lái xe đã nổ máy. Hai Giỡn vừa đi giật
lùi vừa tiếp tục chĩa mũi súng lục vào người ra lệnh bắt tôi đang đứng
như trời trồng. Hai Giỡn kêu lớn:
- Đồng chí Vũ và Thảnh lên xe.
Vũ
một tay cầm lựu đạn, một tay ôm súng trường vừa đi giật lùi vừa lên xe.
Thảnh cũng làm như thế. Khẩu tiểu liên chĩa ra sau xe để canh chừng.
Chiếc zép rú ga chồm lên như con sư tử giận dữ. Đám du kích xã không dám
động tĩnh gì cả. Chúng tôi được một bữa hú vía. Khi xe chúng tôi chạy
đã khá xa mới nghe có tiếng súng trường bắn đuổi. Tôi lo cho cha mẹ và
các em quá. Chắc chắn gia đình tôi sẽ bị bọn chúng trả thù. Không khéo
chúng sẽ lôi ra bắn hết cũng nên. Vì đội cải cách có toàn quyền sinh
sát, không cần huyện tỉnh gì cả. Khi xe ngoặt sang đường rải đá, tôi
buồn bã nhìn lại quê mình. Bóng đa mờ mờ oằn xuống như tấm lưng còng,
cõng mặt trời bợt bạt đã gác qua chiều. Làng quê tôi chỉ còn là giải
xanh xao, nâu dần rồi tím nhạt như vệt tím bầm trên mặt quê hương. Chắc
giờ này gió tai họa đang nổi trận cuồng phong úp chụp lên đầu những
người thân của tôi. Tôi đau xót và cay đắng quay nhìn Hai Giỡn. Anh cũng đang ngồi lặng im như pho tượng.
Mắt
anh trũng sâu xuống như vừa có năm sáu tuổi thổi qua mặt. Hơn một tháng
sau vẻ rac rối về thăm quê này, Hoàng Thanh, trưởng ban cải cách ruộng
đất tỉnh gọi tôi lên:
- Trần Hưng, chúng tôi bắt buộc phải bãi chức đồng chí. Giấy quyết định đây.
Tôi giật mình, cầm tờ quyết định trên tay như cầm bản án tù. Tuy vậy, tôi vẫn ngờ nghệch hỏi:
- Thưa đồng chí Trưởng ban, tôi bị mắc tội gì ạ?
-
A, vì đồng chí là con nhà đại địa chủ mà. Đội cải cách xã quê đồng chí
vừa gởi công văn tới đây thông báo về đồng chí, đồng thời triệu hồi về
nhưng chúng tôi còn đang xét. Địa phương muốn mời đồng chí về đấu tố bố
mình. Đồng chí có đồng ý về xã một tháng không? Tôi ngồi ngẫm nghĩ, cố
gắng tìm ra một giải pháp tốt nhất nhưng chưa được. Về xã, tự tay đấu tố
bố mình ư? Ngay dù bố tôi có là cường hào ác bá đi chăng nữa thì chuyện
đó tôi không thể chắp nhận. Đằng này, bố tôi xưa nay là người hiền lành
tử tế chỉ có mỗi tội là dám có nhà ngói sân gạch với gần chục mẫu
ruộng, hai con trâu. Tôi trả lời ông truởng ban:
- Thưa thủ trưởng, tôi không thể về tự tay đấu tố bố mình được đâu ạ. Tình phụ tử mà thưa cắp trên, xin các đồng chí xét cho.
Hoàng Thanh bảo tôi:
-
Để tôi bàn với anh Tràng Giang xem sao. Theo tôi, đồng chí nên về theo
yêu cầu của đội cải cách ruộng đất xã. Tôi sẽ làm công văn yêu cầu tỉnh
bạn bảo vệ an toàn cho đồng chí.
Tôi về cơ quan, xin một chỗ nằm. Hai Giỡn được bổ nhiệm thay tôi. Anh vẫn đối với tôi rất tốt, rất thân tình.
Hai Giỡn an ủi tôi rất nhiều. Rằng, giai đoạn ngược ngạo này rồi sẽ qua
thôi, cứ đà này có mà tan hoang cả đất nước, tan nát cả dân tình. Anh
bảo rồi mấy ông trung ương cũng sẽ nghĩ lại thôi, cứ để cho cái đám đội
cải cách nó tự tung tự tác, chỉ vài năm nữa là người tốt, người tài
giỏi, lương thiện sẽ bị giết sạch sành sanh cho coi. Một buổi sáng, có
ông già làng tới tìm, giúi vào tay tôi lá thư:
- Anh làm cách nào cứu bố anh đi, sợ họ đem ra bắn thì nguy lắm. Họ sắp tổ chức đấu tố ông cụ rồi: vu cho cụ rất nhiều tội lỗi
Lá thư của em trai Trần Chìa
viết, Bố đã bị bắt, trói nhốt trên đình làng chờ ngày đấu tố. Mẹ và em
bị đuổi ra khỏi nhà. Người ta đã chia ngôi nhà ngói cho bần cố nông làm
năm phần. Họ đã đập phá bán sạch hết. Mẹ và em mỗi người chỉ được mang
ra khỏi nhà một cái bị. Em đã dựng tạm cho mẹ một cái lều ở chân đồi.
Hàng ngày em đi chăn vịt thuê, còn mẹ đi mò cá bán đong gạo. Một lần đi
bắt cua bắt ốc về mệt quá hoa mắt, gặp mấy đứa trẻ chăn trâu quên khoanh
tay chào thưa ông thưa bà như quy định của đội, liền bị một thằng nhãi
con mười ba tuổi ngồi chễm chệ trên mình trâu lấy roi mây quật một lằn
chí tử vào mặt mẹ, để lại một con lươn nhoè máu vat ngang mặt. Mẹ đau
lắm, mặt sưng tấy lên, đành ứa nước mắt cắn răng về lều. Người nhà, vợ
con địa chủ ra đường theo quy định, dù gặp một đứa trẻ con cũng phải
khoanh tay cúi đầu chào thưa ông, thưa bà. Cái vệt roi bữa đó trên mặt
mẹ đã hơn một tuần vẫn còn tím thẫm, em đã bóp dầu, bóp gừng cho mẹ
nhưng không biết đến bao giờ nó mới tan. Nghe nói phong phanh có thể họ
sẽ bắn bố anh ạ. Anh là cán bộ lớn làm sao giúp bố thoát được nạn này?
Mẹ nhắn anh đừng có về làng, đội ở đây dữ hơn hùm sói, có thể nó sẽ bắt
anh đấy. à, em cũng vừa viết thư lên Hà nội báo cho chị Oanh đừng có về
quê. Bác phó Lãm bị quy lên là đại việt gian quốc dân đảng. Người ta bảo
chắc chắn bác phó sẽ bị bắn...
Tôi
đọc lá thư của cậu em mấy lần nhưng chưa dám tin là sự thật. Tất cả như
là trong mộng mị, như là truyện Liêu Trai, như đời sống này chỉ là sự
huyền hoặc khôn cùng của ma quỷ. Lẽ nào sự thật lại tàn nhẫn với tôi và
Oanh nhường này? Tối ấy trời mưa tầm tã. Chớp như những lằn roi điện
quất nát bầu trời. Sấm sét kinh thiên động địa. Tràng Giang gọi tôi lên
phòng anh ở. Anh là phó ban cải cách một tỉnh lớn, thời ấy như vậy là to
lắm. Nhưng anh cũng chỉ ở một cái phòng tuềnh toàng, nhỏ nhắn, nhỉnh
hơn cái phòng của Hai Giỡn mà thôi. Trong khi đó trưởng ban Hoàng Thanh
thì chiếm một biệt thự đẹp nhất thị xã. Còn tôi là nhân viên chưa được
bố trí việc làm nên ở chung ba anh một phòng. Tràng Giang pha trà ngon,
có thuốc thơm, có kẹo bánh mời tôi.
Sau
giờ hành chính, vả lại không có người thứ ba, theo quy định của anh em
kết nghĩa chúng tôi, như vậy, lúc này không phải xưng hô với nhau là
đồng chí. Anh nhìn tôi vừa trìu mến, vừa thông cảm:
-
Trường hợp của chú giờ hơi gay đấy. Đội cải cách xã quê chú vừa gửi lên
đây một bản sao dày cộm lời đấu tố của bà con bần cố nông về ông cụ.
Đây, chú thử xem qua. Tôi cầm một xấp giấy đánh máy đến hơn năm sáu chục
tờ ghi lại những lời đấu tố của bần cố nông về bố tôi. Trong số những
người tố khổ, có nhiều tên tuổi tôi quen; có người còn là bà con, có
người từng là tá điền của bố tôi. Những tội tố ra đây về bố tôi thật
rùng rợn, đủ cả từ hiếp đáp, đánh đập, cướp của, giết người, cấu kết với
thực dân phong kiến bóc lột nông dân thậm tệ...
Nếu
đúng tội như thế thì sự bắn bố tôi nghe ra vẫn còn nhẹ. Sau này sửa sai
về làng, tôi mới hay số tội lỗi rùng rợn của bố tôi đều do bọn đội cải
cách bịa ra, bắt bà con lối xóm học thuộc rồi thực tập nhiều lan để
chuẩn bị cho ngày đấu tố. Ai không nhận đứng ra tố khổ bố tôi những tội
gian dối ấy sẽ bị đội cải cách trù dập, đe dọa... Khi tôi đọc xong tập
hồ sơ tố khổ, Tràng Giang hỏi:
- Sao, chú thấy thế nào?
- Em không thể tin ông cụ lại phạm những tội lỗi như thế này. Có chăng chỉ là chuyện phát canh thu tô.
Tràng Giang nhíu mày:
- Chả lẽ giai cấp bần cố nông lại nói điêu à?
Tôi im lặng. Khi người ta đã dùng hai chữ giai cấp ra với mình, tốt nhất là lắng tai mà nghe.
Tràng Giang hỏi:
- Vậy chú có định về quê tham gia đấu tố bố mình không?
- Xin anh tha cho em. Em không thể làm như thế được. Thà chết anh ạ. Em biết bố mình bị oan.
-
Bố chú oan hay không thì tôi chưa biết, nhưng thôi, tôi sẽ bàn lại với
anh Hoàng Thanh. Tôi rất thương chú, nên anh em mình phải bàn trước về
mọi tình huống có thể xảy ra. Này, cô Oanh giờ sao rồi?
-
Kể từ năm 1953 đến nay, chúng em chưa gặp lại nhau. Hiện nay, Oanh đang
giận em vì cái vụ hủ hóa ghi lý lịch. Em đã viết bao nhiêu thư kể lể
nhưng cô ấy vẫn không tin. Cô ấy nhất định cho rằng em đã phản bội tình
yêu. Tinh thần Oanh sa sút lắm, nghe đâu đang nằm bệnh. Em chỉ mong ít
bữa nữa xin phép ra Hà nội giải quyết cho ổn thỏa và xin tổ chức cho làm
lễ thành hôn.
- à, chuyện chú lấy cô Oanh hơi khó đấy.
Tôi giật mình, y như vừa nuốt phải điện vậy:
- Sao thế anh?
-
Đội cải cách xã chú báo lên cho chúng tôi biết phó Lãm, cha của Oanh là
tên đại việt gian quốc dân đảng. Hắn đã chui rúc vào hàng ngũ đảng ta
để làm nội gián phá hoại. Tên này trước sau gì rồi cũng bị bắn.
- Nhưng em sợ bác ấy bị oan.
-
Thì địa phương họ báo cáo lên phải tin chứ. Lẽ nào cấp tỉnh lại bủa về
các xã làm thay. Như vậy, vắn đề đặt ra là: giữa Oanh và Đảng, Trần Hưng
chỉ có quyền được chọn một. Một người chiến sĩ, một đảng viên như chú
không thể yêu và lấy con một tên việt gian quốc dân đảng. Tương lai,
cuộc đời chú, tùy chú chọn lựa.
Tôi cố ý nhắc lại để Tràng Giang nhớ:
- Thưa anh, Oanh cũng từng tham gia kháng chiến như chúng ta. Cô ấy đã thoát khỏi ảnh hưởng của gia đình.
-
Nhưng ai đảm bảo với chú bọn việt gian quốc dân đảng không gài Oanh vào
kháng chiến làm nội gián nào? Tôi im lặng. Tôi có thể căn vặn một người
anh nhưng tôi không có quyền căn vặn và chất vắn một đồng chí lãnh đạo.
Lòng tôi buồn nản đến tan nát. Tôi không còn thiết nghĩ, thiết nói nữa.
Tất cả trong tôi như một khoảng trống không đáy, một con số không. Nếu
không lấy được Oanh làm vợ, đời tôi đã mất hết ý nghĩa.
Tràng Giang nói như ra lệnh:
-
Nếu còn theo Đảng, ít ra chú phải làm bản đấu tố bố mình để chúng tôi
gởi về xã. Chỉ có làm như thế mới có cớ cứu được ông cụ thoát khỏi nguy
kịch đến tính mạng. Thôi anh cho chú hai ngày suy nghĩ để trả lời đấy.
Tôi
về phòng nằm bẹp như con chó ốm hai ngày. Người tôi như bị xẻ làm hai
mảnh đi về hai hướng ngược nhau. Đảng và Oanh, cách mạng và tình yêu, cả
hai tôi đều muốn cả. Nhưng trời oái oăm thay, tôi chỉ có quyền chọn
một. Còn với bố mình, tôi phải viết lời đấu tố gởi về xã để tôi đọc cho
bà con nghe, chứng tỏ rằng họ đúng. Lẽ nào tôi có thể làm được những
điều đó Nhưng đấy là chỉ thị, là lệnh của tổ chức, của cấp trên, của
người anh kết nghĩa. Không, dù bố tôi có gian ác đến như vậy đi chăng
nữa, tôi vẫn không đủ dũng khí đấu tố ông. Không, cho dù tai bay vạ gió,
tôi cũng không từ bỏ tình yêu với Oanh. Tôi sẽ lấy nàng làm vợ dù có
phải đi ăn mày, đi làm nô lệ, làm đầy tớ cho thiên hạ cũng cứ cam lòng.
Hai ngày sau, Tràng Giang gọi tôi đến hỏi:
- Trần Hưng đã nghĩ kỹ chưa? Muốn tiến bộ, phải biết từ bỏ những gì không cần thiết. Có khi, một bước tiến, phải làm tới hai bước lùi.
Tôi im lặng một lúc mới trả lời:
-
Xin anh thông cảm cho, em không thể bỏ Oanh được. Cô ấy chính là tình
yêu cả một thời kháng chiến của em. Còn việc đấu tố bố em, em cũng không
thể làm được. Tràng Giang hỏi:
- Chú có phải là đảng viên không?
- Tất nhiên ạ.
Vậy
chú phải sống theo nguyên tắc. Không được để trái tim chỉ đạo cái đầu.
Một người cộng sản không được phép lấy con gái một tên việt gian quốc
dân đảng, một người cộng sản không thể đi cùng với kẻ bóc lột, dù kẻ ấy
là cha mình đi nữa. Người cộng sản phải đặt quyền lợi của giai cấp, của
đảng trên quyền lợi của cá nhân. Anh cần phải yêu thương và căm thù một
cách có tổ chức, có lãnh đạo. Tôi im lặng như kẻ đứng trước vành móng
ngựa. Có lẽ, tôi không đủ lý sự để bào chữa. Trái tim tôi đang gào thét
bất tuân thủ mệnh lệnh cái đầu.
Tràng Giang hỏi tôi, không xưng hô theo kiểu tình cảm nữa:
- Đồng chí có muốn cứu bố mình không?
- Thưa muốn ạ.
Chúng
tôi chỉ có thể can thiệp với tỉnh bạn giảm mức án cho bố đồng chí, nếu
đồng chí chịu viết bản đấu tố gởi về kèm với công văn của chúng tôi. Hãy
biết sử dụng bắt cứ biện pháp gì, miễn là đạt được mục đích. Cứu cánh
sẽ biện minh cho hành động đồng chí Trần Hưng ạ.
Tôi
rùng mình. Có thể tôi đang vô lý, bỏ mất cơ hội cuối cùng giủp bố mình
thoát khỏi thảm họa. ừ mục đích tốt nhưng phương pháp xấu một tí đã sao.
Tuy vậy, tôi vẫn chưa chịu thỏa hiệp với Tràng Giang.
Hai ngày sau, người ta tổ chức họp chi bộ để khai trừ tôi ra đảng. Hoàng Thanh nói:
- Tôi rất buồn vì Trần Hưng không muốn làm đồng chí với chúng ta nữa, không chịu từ bỏ giai cấp bóc lột là nguồn gốc xuẩt thân của mình. Ngoài ra, một đảng viên như Trần Hưng
lại quyết lòng lấy con gái một tên quốc dân đảng từng được gài trong
hàng ngũ chúng ta. Lẽ nào một người cộng sản lại đi gọi một tên phản
động quốc dân đảng bằng bố? Vì vậy, chi ủy đề xuất ý kiến với chi bộ:
một người như Trần Hưng
liệu có đủ lý do đứng trong tổ chức của chúng ta hay không? Hầu như cả
chi bộ đều tán thành ý kiến của xếp. Tôi hoang mang đến phát run rẩy.
Tôi như vừa đánh mất cuộc đời không chỉ của mình mà còn cả của cha mẹ.
Tôi bị khai trừ đảng. Sau đó, rồi sẽ ra sao? Tôi trở thành người đối lập
với bao nhiêu sinh mạng đã chết cho lý tưởng này? Tôi không chịu đấu tố
bố, không chịu bỏ tình yêu với con kẻ phản động. Lẽ nào tôi, một cá
nhân lại có thể đúng trước sự sáng suốt của tập thể? Tôi như bị đánh mất
trí nhớ, chỉ còn trơ ra cái xác không hon. Giờ đây, đến ngay một con
kiến cũng có thể lôi tôi đi đến cùng trời cuối đất. Tôi sợ hãi toát mồ
hôi. Người tôi co dúm lại. Ra khỏi đảng vì bị khai trừ, biết đâu rồi tôi
lại chả bị bắt bớ. Tôi hoang mang tới mức cảm thấy mình không còn là
mình nữa. Tôi là một kẻ khác rồi. Một kẻ khác, nghĩa là không phải con
trai địa chủ Hai Cầy, không phải là người yêu của cô Oanh con nhà Việt
gian phản động.
Tràng Giang nhìn thấy hết chất con gián của tôi đang bộc lộ trong ánh mắt thất thần. Anh phát biểu:
- Thưa các đồng chí, chúng ta rất đau lòng khi phải biểu quyết khai trừ đồng chí Trần Hưng ra khỏi đảng. Nhưng hãy còn ít phút cho Trần Hưng nhận thức lại bản thân mình.
Nếu đồng chí Hưng cứ khăng khăng không chịu tuân theo những nguyên tắc
bất di bất dịch của tổ chức, bắt buộc chúng ta phải làm như vậy. Nhưng
riêng bản thân tôi, tôi tin là Trần Hưng sẽ thay đổi ý kiến, sẽ nhận ra lẽ phải để từ bỏ thành phần xuất thân không xứng đáng, từ bỏ thứ tình cảm lãng mạn, tình yêu không đúng chỗ.
Vừa nói, Tràng Giang quay sang nhìn tôi lúc đó chỉ còn là một con lật đật, một con rệp mà thôi:
- Có phải không đồng chí Trần Hưng?
Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc:
-
Vâng, tôi sai. Tập thể bao giờ cũng đúng. Tôi xin nói lại: xin từ bỏ
những quan niệm sai lầm, đồng ý viết bản đấu tố cha mình để nhờ ban lãnh
đạo can thiệp với tỉnh bạn cho cha tôi được giảm tội. Thứ hai, tôi xin
từ bỏ trái tim đau khổ lầm lạc vì yêu thương của mình. Tôi xin từ bỏ
vĩnh viễn tình yêu với cô Oanh. Làm sao một người cộng sản như tôi lại
đi gọi kẻ thù của đảng là bố vợ phải không thưa các đồng chí
Cả
chi bộ cùng reo lên trong một tiếng đáp gọn lỏn: phải. Người ta hoan hô
tôi như chào đón một người anh hùng. Tôi vừa từ bỏ chính bản thân mình
để đi theo tổ chức. Một hy sinh lớn lao và một chiến thằng vĩ đại. Tôi
đã trót dại phóng lao thì suốt cuộc đời phải chịu theo lao. Mọi việc xảy
ra tuần tự như tiến: bản đấu tố của tôi được gởi kèm với công văn của
Hoàng Thanh ký gởi về xã tôi và ban cải cách tỉnh bạn nhờ giảm mức án
cho gia đình một cán bộ đảng viên đã dứt khoát nêu gương sáng ngời về
tinh thần tố khổ. Thứ hai, cơ quan tôi đã chính thức gởi công văn cho
trường đại học Y khoa nơi Oanh đang học và gởi cả cho Oanh báo tôi đã
chính thức từ bỏ tình yêu với đứa con gái kẻ phản động trước toàn thể
chi bộ. Như vậy, Tràng Giang hiểu là đỡ cho tôi phải viết thư, hay phải
đối diện với nàng.
Cái giá tôi phải
trả cho sự chiến thắng của lý trí thật quá đắt. Trái tim tôi héo hắt và
sầu muộn. Tôi sống như một tên ấm ớ, một kẻ dở người. Giữa lúc đó,
Hoàng Thanh và Tràng Giang cùng gọi tôi lên giao nhiệm vụ. Hoàng Thanh
biểu dương:
- Đồng chí tốt lắm hạt giống
đỏ của cách mạng ạ. Bây giờ đảng giao cho đồng chí một nhiệm vụ thật
vinh dự và cũng thật khó khăn, có lẽ ngoài đồng chí ra, khắp tỉnh ta
không ai làm nổi. Đồng chí có đồng ý nhận trách nhiệm mới không nào?
- Dạ, tôi xin nhận với bất cứ việc gì dù là đi hót rác.
- ấy ai lại đưa đồng chí, một đứa con yêu quý của đảng đi làm cái việc không cần thiết ấy. Bây giờ, đồng chí phải viết.
- Vâng, tôi sẽ viết. Không phải viết kiểm thảo mà là sáng tác ra một tác phẩm văn học.
- Trời, sáng tác văn học. Liệu tôi có đủ khả năng làm được không ạ.
-
Được, đồng chí làm được. Chúng tôi tin tưởng. Đồng chí Tràng Giang sẽ
trao nhiệm vụ cụ thể cho đồng chí. Còn bây giờ, tôi phải về trung ương
họp.
Sau khi Hoàng Thanh đi rồi, trong căn phòng rộng rãi sang trọng của ban cải cách tỉnh, Tràng Giang chỉ thị cho tôi:
- Trần Hưng
hãy viết một cuốn sách chừng trăm rưởi trang in về cải cách ruộng đất.
Hãy viết về chính cuộc đấu tranh sinh tử của đồng chí để từ bỏ trái tim
sai lầm vừa rồi. Đồng chí hãy lấy chính bản thân mình
làm nhân vật trung tâm. Đạí thể nhân vật từng trót yêu con địa chủ, con
phản động rất say đắm, đến mức nếu không lấy được có thể thất tình đến
tự tử. Nhưng rồi đến lúc nhân vật phải chọn lựa: Đảng hay đứa con gái
nguy hiểm ấy. Cuộc chiến đấu nội tâm của nhân vật vô cùng ác liệt và
điêu linh trong việc lựa chọn trái tim và khối óc. Nhưng nhờ sự giúp đỡ
tận tình của tập thể cuối cùng giai cấp vô sản trong nhân vật chính đã
chiến thắng đứa con gái đại diện cho kẻ thù. Kẻ thù nhìn chung bên ngoài
đều dễ thương cả, nhưng bên trong chính là một cái bẫy. Mâu thuẫn thứ
hai giằng xé nhân vật là sự lựa chọn hoặc bố mình, một tên địa chủ gian
ác cáo già và một bên là giai cấp bần cố nông gian khổ. Nhân vật phải
làm cuộc lột xác thứ hai là từ bỏ nguồn gốc xuất thân.
Tất nhiên là nhờ sự giúp đỡ của tập thể, của giai cấp vô sản, nhân vật
đã chiến thắng, đã dám dũng cảm chưởi vào mặt bọn bóc lột dã man, dù kẻ
bóc lột có là cha mình đi chăng nữa. Trong tác phẩm của đồng chí cũng
không thể thiếu yếu tố hấp dẫn là tình yêu lứa đôi có lập trường, có
giai cấp và có tổ chức. Đại khái là sau hai cuộc đấu tranh dữ dội để
thoát khỏi con người cá nhân của mình, nhân vật của chúng ta mệt mỏi đến
rã rời, đuối sức. Nhưng trước mắt anh ta, giai cấp vô sản chợt phái đến
một người con gái xuất thân từ
bần cố nông tuy không đẹp lắm nhưng chân thật, biết căm thù thực dân đế
quốc sâu sắc và rất dũng cảm trong đấu tố. Và tình yêu giữa hai người
xuất hiện trong vòng tay chăm sóc của tổ chức. Tất nhiên tình yêu này
không có những biểu hiện bay bướm dối trá kiểu tư sản thối tha. Nói tóm
lại, nếu có một tác phầm văn học như thế để tung ra kịp thời bây giờ thì
tác dụng của nó rất lớn. Một trăm rưởi trang in, đồng chí có thể hoàn
thành trong hai tháng được không? Một tháng in nữa là vị chi chỉ cần ba
tháng, chúng ta sẽ có một tác phẩm văn học tầm cỡ bán ngay tại thủ đô.
Tôi
chấp hành chỉ thị để viết cuốn truyện. Ngay hôm sau, cấp trên bố trí
cho tôi một phòng viết tuyệt vời. Phòng viết với bàn ghế đánh véc-ni
bóng nhoáng, có cả rađiô để nghe tin tức, báo chí, sách vở đầy đủ, lại
có hoa tươi, có phích nước, thuốt hút với trà ngon. Tổ chức hứa sẽ tìm
cho tôi một người phục vụ ưng ý. Tôi sẽ được phép ăn ngay tại phòng làm
việc. Tôi nhắm mắt trút bỏ cơn sầu khổ ngoài căn phòng để bước vào bàn
viết, tiếp tục cái nghiệp văn chương vốn
hằng say mê. Tôi đã viết như một kẻ tâm bệnh, một dạng thần kinh. Tác
phẩm viết theo chỉ thị, theo đề cương Tràng Giang đã vạch ra có tên là
Vượt bão. Hai phần ba cốt truyện là đời tôi, chỉ còn một phần ba hư cấu.
Tôi phải bịa ra cái tình yêu lứa đôi theo kiểu mới, kiểu bần cố nông.
Nhưng trong đời, tôi chưa từng đọc và từng biết một tình yêu theo kiểu
bần cố nông ấy.
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 7
Tôi nghĩ bụng: cứ đà này, viết
văn có lẽ là nghề sướng nhất. Này nhá: tư tưởng chủ đề đã có cấp trên
phát cho. Thậm chí, đến đề cương, cốt truyện cũng do lãnh đạo phát ra
cho nữa chứ. Anh chỉ việc triển khai ngôn từ, thêm mắm thêm muối, kéo
cho dài cốt truyện ra, một tí thắt nút, một tẹo tình yêu, kết thúc bao
giờ cũng là ta thắng địch thua, tập thể bao giờ cũng uốn được cá nhân
lầm lạc. Tuy nhiên, lúc đầu cũng cần một chết ngộ nhận nơi độc giả: cái
tiêu cực lúc đầu có vẻ dữ lắm, lấn át lầm, song le cuối cùng cái tích
cực vẫn thắng, vẫn cứ là xu thế theo công thức bất di bất dịch hiện
tượng tuy có mặt này mặt nọ, nhưng tựu trung bản chất tốt.
Căn
phòng tôi ở có cửa sổ mở ra vườn tược đẹp mắt. Người phục vụ tôi là cô
gái chừng hai mươi mốt hăm hai. Toàn bộ người con gái thuộc loại không
đẹp không xấu này tỏa ra một sức sống căng nhựa. Gương mặt nàng tròn
tròn, mắt to hai mí, môi mỏng, mũi ngắn nhưng đặc biệt bộ ngực và đôi
mông phát triển quá cỡ. Tay và chân nàng to và thô, chứng tỏ thành phần
xuất thân cơ
bản, không vô sản thì cũng bần cố nông thứ thiệt. Lần đầu tiên nàng
xuất hiện trước mắt tôi vào buổi trưa ngày đầu ngồi viết văn theo chỉ
thị. Với đôi mắt sáng, nước da bánh mật, quần lĩnh đen, đầu thắt khăn mỏ
quạ, áo sơ mi màu gỗ gụ, tóc kẹp sau lưng, có phần bẽn lẽn e lệ.
-
Báo cáo đồng chí nhà văn, đây là khẩu phần ăn trưa của đồng chí gồm ba
lạng cơm, một đĩa thịt gà luộc, một đĩa thịt lợn kho tàu, một bát canh
mướp nấu lòng gà và hai quả chuối ạ.
Tôi
cám ơn người con gái phục vụ. Nhìn kỹ mâm cơm, tôi biết mình được cấp
trên duyệt cho ăn tiểu chuẩn tiểu táo trong những ngày viết văn phục vụ
kịp thời cuộc cách mạng vĩ đại cải cách ruộng đất. Khi tôi ăn cơm xong,
toan tự tay bưng xuống nhà ăn nhưng cô phục vụ đã đon đả xách phích nước
mới lên thay, vừa dọn chén bát vừa tự giới thiệu:
- Báo cáo đồng chí Trần Hưng,
cấp trên giao nhiệm vụ cho em ngoài một số công tác văn phòng, còn làm
nhiệm vụ phục vụ nhà văn trong những ngày đồng chí ngồi viết ạ.
Tôi trang nghiêm hỏi lại cho biết:
- Xm lỗi, nữ đồng chí có thể cho tôi biết tên họ được không?
Cô gái ngúng nguẩy như phải bỏng:
-
ấy chết, đồng chí có lỗi gì mà xin ạ. Em tên là Lê Thị Mộng Ruộng ạ. Em
vừa từ cơ sở về Ban cải cách tỉnh làm văn thư. Đồng chí có lệnh của Thủ
trưởng Hoàng Thanh là không phải xuống nhà ăn tập thể. Một ngày ba bữa
có em bưng cơm nước lên đúng giờ quy định. Có gì cần, đồng chí cứ bảo em
ạ.
Người con gái đi khỏi, để lại phòng
tôi cái mùi vị đặc biệt rất khó gọi tên chỉ toát ra từ những cô gái đang
tính lấy chồng. Tôi viết như một cái máy, hai tiếng đồng hồ giải lao
một lần bằng cách ra vườn đi tha thẩn. Những lúc tôi đi ra ngoài, Ruộng
mới ý tứ vào dọn quét lau lại phòng ốc. Tôi đang sống cuộc đời người
viết văn hay sống cuộc đời của ông hoàng hả các bạn? Một buổi tối sau
hai mươi ngày sống cách biệt với mọi người, chỉ thông qua người con gái
phục vụ mà nối với tổ chức. Ruộng tới bảo đồng chí Tràng Giang vừa đi
thăm Trung Quốc nửa tháng về, gởi biếu tôi một gói trà Tân Cương hạng
nhất. Tôi pha trà, lịch sự mời cô găi phục vụ ngồi uống chơi. Ruộng từ
chối mãi mới chịu nhận lời. Thú thực từ hai mươi ngày ngồi viết như bị
giam lỏng này, tôi rất muốn được nói chuyện với người khác. Tôi hỏi cô
gái về cái tên có vẻ độc đáo ấy. Ruộng vừa cầm chén trà vừa trả lời tôi:
- Thưa đồng chí nhà văn, cha mẹ em suốt
một đời nghèo khổ, chỉ mơ một thửa ruộng để cấy cày. Vì vậy khi sinh ra,
em được đặt tên là Ruộng. Đến khi đội cải cách ruộng đất về xã, các anh
ấy mới thêm cho em một chữ mộng vào đến cho vừa hoa mỹ, vừa ý nghĩa. Lê
Thị Mộng Ruộng có nghĩa là tất cả bà con nông dân đều mơ ước có được
ngày cải cách ruộng đất này để được cách mạng chia ruộng đất.
Sau
buổi nói chuyện đầu tiên với Ruộng, tôi đã có một sơ yếu lý lịch của
cô. Bố mẹ Ruộng là cố nông, nghèo nhất làng, quanh năm làm thuê cấy
mướn. Khi Ruộng vừa lẫm chẫm tập đi đã phải theo mẹ đi cất vó tép, đi mò
cua bắt ốc về bán đong gạo. Ngôi nhà của gia đình cô chỉ là một cái
chòi cất tạm bên bãi tha ma. Tháng ba đói năm ất dậu, bố mẹ Ruộng chết
đói, bỏ cô lại mồ côi mồ cút lúc mười hai tuổi đầu. Có người nhặt Ruộng
về nuôi rồi sau bán lại cho tên địa chủ Háp. Năm 1952, lúc Ruộng mười
chín tuổi, tên địa chủ Háp gọi cô lên phòng toan giở trò hãm hiếp. May
mắn quá, Ruộng đã vùng chạy thoát vào một đêm tối. Ruộng đi lang thang
trong đêm toan nhảy sông tự tử. Chính lúc đó, Ruộng gặp du kích xã và cô
tham gia chiến đấu trong đội du kích cho đến cuối năm 1954. Trong cải
cách ruộng đất, Ruộng là nhân tố tích cực nhất trong đấu tranh tố khổ
với bọn địa chủ xã. Ruộng được học bình dân học vụ ngay khi vào du kích,
đến nay cô vừa thi tốt nghiệp cấp một. Ruộng được chia nhà, chia ruộng
nhưng phải bán đi để lên tỉnh công tác theo sự điều động của lãnh đạo.
Vài hôm sau, tôi lại mời Ruộng ở lại uống trà chơi nói chuyện, vừa để
khuây khỏa một ngày ngồi chúi đầu vào bản thảo như
con bổ củi đập đầu liên hồi vào gỗ đá, thêm vào đó qua sự kể lể của
Ruộng, tôi biết thêm ít tin tức cơ quan và phong trào cải cách ruộng đất
ở nông thôn mà tôi đang rất cần vốn sống cho tác phầm. Ruộng biếu tôi
chục cam sành bảo là để bồi dưỡng khi viết. Tôi cương quyết không nhận,
nhưng khi thấy Ruộng xịu mặt xuống sắp khóc, nên tôi không dám từ chối
nữa. Trên đời này, ma quỷ tôi cóc sợ, bom đạn chết chóc coi khinh, chỉ
sợ nhất cái món nước mắt đàn bà con gái. Cái của nợ ấy với tôi có khi
còn mạnh hơn
cả bom nguyên tử. Cô nào bà nào phát hiện ra cái tật này của tôi, cứ
oanh tạc vào lòng tôi ít giọt nước mắt là đời tôi có nguy cơ sụp tiệm.
Ruộng pha trà, tôi bổ cam. Chúng tôi vừa ăn vừa uống vừa trò chuyện.
Cuộc đời Ruộng tội nghiệp quá. Nghe cô ấy kể, tôi sợ mình bị mủi lòng sẽ
thể hiện ra một cái gì đại loại như tình cảm an ủi cảm thông, dễ gây
hiểu lầm cho đối tượng. Khi Ruộng sắp sửa đứng dậy ra về, tôi hỏi:
- Bây giờ đời đổi mới, đồng chí Ruộng chắc là sung sướng hạnh phúc lắm?
Ruộng ngước mắt nhìn tôi hỏi lại:
- Thế đồng chí bảo em được hạnh phúc gì ạ? - Hạnh phúc gia đình chứ còn gì nữa. Gia đình nào cơ?
-
Gia đình đồng chí ấy. Đại loại như chồng con chẳng hạn. Ruộng đột nhiên
cúi mặt xuống đất, một bàn chân di di trên đôi guốc nhỏ, trả lời rất
bé:
- Đồng chí đừng nghĩ oan cho em. Em làm gì đã có... Ai mà thèm để ý tới em.
Tôi hỏi một câu phải nói là vô duyên thượng hạng:
- Vậy thì ra đồng chí vẫn sống một mình à?
- Chứ còn gì nữa ạ. Ngồi một lúc, Ruộng ngầng mặt lên, tránh nhìn tôi nói:
- Em nào đâu được như đồng chí. Tôi ngứa mồm thanh minh:
- Ơi hay, tôi cũng đã có gì đâu nào.
Ruộng đay nghiến một cách hết sức vô lý:
- Em biết rồi. Bà bác sĩ ngoài Hà nội ấy chứ gì.
Tôi
im lặng, lòng đau còn hơn hoạn. Tôi đang lao vào viết truyện như điên
cũng cố để quên Oanh. Tôi cần có thời gian để nỗi đau được nguôi ngoai.
Nhưng tôi càng cố dứt bỏ hình ảnh Oanh lại càng thương nhớ mối tình ấy
đến quằn quại. Thấy mặt tôi buồn như đưa đám, Ruộng nói như dỗi, thái độ
thật không bình thường:
- Thôi em xin lỗi về, để đồng chí ngồi nhớ người ta.
Ruộng đi rồi, tôi lặng ngồi nhìn từng trang bản thảo vừa
viết toàn thấy giun dế, rắn rết bò loằng ngoằng chứ không phải là những
dòng chữ. Vết thương tình yêu của tôi tưởng đã ăn da non, nào ngờ chỉ
cần một sợi gió thổi qua, máu lại chảy, lại xót xa đau thắt. Thời gian
viết đã đi qua một tháng, chỉ còn một tháng nữa tôi phải nộp một trăm
rưởi trang in cho lãnh đạo. Tôi như con lợn được nhốt trong chuồng để vỗ
béo, sắp đến ngày phải lên bàn cân để đem ra đấu giá.
Một buổi tối, Ruộng đặt lên bàn viết của tôi một cân bột san trầng tinh, một cân đường phèn cũng trắng gói trong giấy bóng hong hồng:
-
Người làng vừa gởi cho em hai cân bột sắn. Em xin biếu đồng chí một
cân. Đường phèn này em mua, chả đáng là bao, vì đường của tổ chức bồi
dưỡng cho đồng chí hơi đen, uống bột sắn sẽ mất ngon đi.
Tôi
giãy nãy lên không nhận. ăn hoài quà cáp của người ta, lấy gì mà trả.
Nhưng vừa rồi người ta cho cam thì nhận, tại sao bột san với đường thì
chê? Ruộng xịu mặt xuống như sắp khóc:
-
Em biết mà. Đồng chí chê của em. Đồng chí đâu thích uống bột sắn với
đường phèn của bọn bần cố nông chúng em. Đồng chí quen ăn uống với bọn
địa chủ trí thức giả dối rồi mà.
Hệt như
người ăn vạ, tự nhiên tự lành, Ruộng khóc hu hu thành tiếng. Tôi sợ hết
hồn. Tôi sợ có ai nghe thấy lại quy cho thằng văn nghệ sĩ này đánh đập
giai cấp bần cố nông thì bỏ bố. Nước mắt đàn bà con gái là cái món khủng
khiếp nhất với tôi. Tôi có thể nhận bất cứ điều kiện nào để cho cô phục
vụ lạ lùng đừng khóc nữa. Tôi chép miệng:
- Nín đi. Tôi sẽ nhận hết, tất tần tật, cả đường cả bột sắn, chịu chưa?
Người con gái quệt nước mắt đáp:
- Chịu.
Hơn
một tuần sau, tôi vẫn cắm cúi viết, bữa ăn Ruộng vẫn đem cơm lên cho
rồi sau đó dọn dẹp lẳng lặng ra về. Một buổi tôi buồn quá, khác gì người
bị cấm cung, tôi rất thèm có người ngồi nói chuyện. Cho nên, khi Ruộng
mang phích nước sôi lên thay cho tôi, tôi đã mời cô ấy ở lại chơi uống
trà. Ruộng từ chối cho có mẽ, nhưng rồi vẫn ngồi xuống trả lời những câu
hỏi của tôi về tình hình cơ quan. Khi sắp cạn tuần trà, Ruộng chuyển
sang đề tài khác:
Em nghe các thủ trưởng bảo đồng chí Trần Hưng viết văn tuyệt hay. Giá mà em được đồng chí đọc cho nghe một đoạn chắc sướng hơn tiên. Nhưng mà ai lại đi đọc văn chương cho cái con dốt đặc cán mai mới lớp bốn như em.
Tôi trả lời qua quít:
- Đồng chí Ruộng đừng nói thế. Văn của tôi có ra cái gì đâu.
- Em biết là đồng chí nói khiêm tốn thôi.
Tôi
im lặng pha bột sắn của Ruộng cho mời Ruộng. ờ, người ta cho mình hết
cam sành đến đường rồi bột sắn, mình chẳng có ma gì cho lại. Người ta
yêu cầu mình đọc truyện đang viết cho nghe, có mất gì nào, đôi khi còn
thêm hứng khởi để viết. Mình cũng cần biết điều, có đi có lại chứ. Tôi
đồng ý đọc cho Ruộng nghe mấy đoạn văn mới viết. Ruộng thích chí vỗ tay.
Cô đã quen với không khí hội họp tập thể, hơi một tí là vỗ tay vỗ chân,
hơi tí là múa tập thể, là hát tập đoàn.
Ruộng ngồi vào cái ghế bên bàn viết, sát cạnh tôi lắng nghe tôi đọc chương đầu
của truyện vừa Vượt bão. Tôi đọc được mười trang thì dừng lại nhìn
Ruộng. Hai má cô đỏ ửng như chợt mùa rét đã về, mắt long lanh ươn ướt.
Cô làm ra vẻ nghẹn ngào khó nói, như thể vừa bị hóc xương vậy. Đoạn
Ruộng hắng giọng, thều thào:
- Em cảm động quá đi mất. Nói không phải, chắc đồng chí viết về cuộc đời mình phải không ạ?
- Cũng na ná như vậy. - Ôi chao, đồng chí viết hay quá, tài quá. Tối mai, em xin được nghe một đoạn nữa được không?
Tôi
gật đầu. Tối hôm sau, tôi lại đọc mười trang nữa cho Ruộng nghe. Cô lại
xúc động rưng rưng, lại sững sờ. Và cái quan trọng là cô khen tôi không
tiếc lời. Tối hôm sau nữa, Ruộng mắc họp chi đoàn. Tôi uống hết ba tuần
trà ngồi vào bàn nhưng không sao viết được. Ruột gan tôi cồn cào vì nhớ
những lời khen. Thiếu nó, những lời khen ấy, tôi thấy cuộc sống mình,
những trang văn của mình hẫng đi, méo đi. Lòng tôi buồn buồn. Cho hay
không chỉ bọn viết văn viết về trên đời này, mà hết thảy chúng sinh đều
ghiền một thứ ma túy ghê gớm là những lời khen ngợi, nịnh hót. Không
riêng gì những cô gái đẹp, bọn nhà văn chúng tôi đôi khi cũng bị chết
nhăn răng vì những lời khen bịp. Cho đến một buổi tối, khi Ruộng làm
xong công vụ toan về thì tôi hỏi:
- Hôm nay đồng chí Ruộng có bận họp hành gì không?
- Em rảnh rỗi lắm ạ.
Chao ôi, những lời khen của Ruộng mới buông ra nửa chừng sao bỏ dở. Tôi hỏi:
- Đồng chí còn muốn nghe đọc truyện nữa không?
- Dạ, muốn lắm, nhưng em sợ.
- Sợ cái gì?
- Sợ làm mất thời gian vàng ngọc của đồng chí.
- Không, thời gian quý là thời gian được đọc bản thảo để nghe đồng chí góp ý.
Tôi đã nói không thật. Chính ra phải nói rằng: Thời gian quý nhất là thời gian được đọc bản thảo truyện
vừa đang viết cho cô nghe để cô khen là tuyệt tác. Ruộng vui vẻ ở lại.
Cô giúp tôi pha trà. Tôi tiếp tục đọc thêm mười lăm trang nữa. Tôi đọc
đoạn nhân vật Hùng, người cán bộ kháng chiến đang quằn quại đấu tranh để
thoát khỏi trái tim mình, thoát khỏi tình yêu với đứa con gái nhà địa
chủ mà anh đã trót yêu. Tôi đọc truyền cảm. Nhân vật Hùng với tâm trạng
tội nghiệp, cô đơn. Anh đang phải đứng ở ngã ba đường. Đầu óc anh của tổ
chức, của cách mạng, nhưng trái tim anh oái oăm thay lại đang nằm trong
tay của đứa con gái trời đánh con nhà địa chủ xinh như mộng kia. Nó
đang dùng bùa ngải của mắt, của môi, của mông, của ngực và tất cả sự
đỏng đảnh, lẳng lơ của thứ văn hóa tư sản để dụ dỗ nhân vật Hùng. Trái
tim Hùng đang bị bàn tay phù thủy có những móng tay được tô chuốt, được
tô sơn của nó bóp nát. Nhưng tổ chức, bằng sự sáng suốt, sự tỉnh thức
của cảc nghị quyết và chỉ thị, bằng tập thể đông đúc đang giằng lấy Hùng
từ bàn tay của kẻ thù giai cấp xinh đẹp kia. Hùng đang cần bất cứ sự
giúp đỡ nào từ phía bần cố nông, phía đội cải cách ruộng đất. Thật may
mắn, một người con gái mồ côi sau nạn đói 1945, phải đi ở cho nhà địa
chủ kia, phải làm nữ tì cho cô con gái hắn kia đã dùng tình yêu của giai
cấp, của tập thể đến cứu Hùng. Bằng sự chân thành, người con gái đi ở
kia đã dần dà lấy bớt những mê hoặc của trái tim Hùng, giúp anh thoát
khỏi mê cung. Tuy nhiên, Hùng tỉnh táo dần song anh đã ngất xỉu. Bấy giờ
thì cô gái bần cố nông kia tên là Mộng đang ở bên Hùng giúp anh hoàn
tất cuộc chiến đấu giai cấp trên mặt trận tình yêu.
Tôi
đọc say mê quá đến nỗi quên mất có Ruộng đang ngồi nghe. Khi dừng lại
để lấy hơi, tôi thấy có điều gì âm ấm và ươn ướt đang thấm vào vai mình,
lưng mình. Tôi chợt quay lại và thấy Ruộng đứng sát sau lưng, đến nỗi
hai bầu ngực căng mẩy của cô chỉ cần tôi hơi cựa quậy là động phải. Mặt
Ruộng ngây dại, tuôn rơi từng dòng nước mắt xuống vai tôi. Tôi hoảng sợ.
Cô đang thương nhân vật Hùng trong truyện của tôi vừa đọc hay chính là
cô thương tôi? Hình như cô đã thấy bóng dáng mình trong nhân vật Mộng
qua những trang tôi vừa đọc. Những dòng nước mắt và sự xúc động mạnh mẽ
của Ruộng như đang thôi miên tôi, khiến tôi như bị co rút lại. Gương
mặt của Ruộng làm tôi sợ. Đôi mắt cô như hai thỏi nam châm đang hút tôi
vào. Tôi cố chống cự lại. Tôi là nắm rơm đang ở sát bên ngọn lửa. Chỉ
cần tôi cựa quậy hay làm bất cứ động tác nào là đời tôi sẽ cháy bùng
lên. Tôi hiểu Ruộng đã yêu tôi và có thể tình yêu này là sự bố trí của
tổ chức. Tôi đứng lên, lưng chạm vào bộ ngực rắn chắc của cô gái. Cô vẫn
đứng bất động như pho tượng. Và cái động tác đứng lên của tôi thật tai
hại. Hai chúng tôi đứng sát vào nhau đến mức kiến cũng không thể chui
lọt. Rất tự nhiên, Ruộng áp mặt vào vai tôi:
- Em thương Hưng quá, em thương đồng chí anh quá.
Nắm
rơm tôi đã bị đốm lửa nhai dần. Đột nhiên, Ruộng dùng hai tay bíu lấy
cổ tôi như người chết đuối bám vào cọc. Tôi quên hết mọi sự, quên béng
mình là ai và đang làm gì. Tôi đáp ngay lại sự mở đầu của Ruộng bằng
cách ôm choàng lấy cái thân thể
rắn chắc của người thôn nữ đã được cách mạng hóa. Trời ạ, tôi còn biết
làm gì nữa đâu. Ngày xưa ông bà ta khuyên trai gái thụ thụ bất thân không phải là không có lý.
Ruộng cũng ôm choàng lấy tôi, chặt còn hơn cô đang dùng lạt để bó lúa. Rồi cô áp mặt mình vào mặt tôi kêu:
- Anh Hưng.
Tôi
chưa kịp trả lời thì đôi môi cô đã lấp đầy đôi môi tôi từ lúc nào. Một
lúc thật lâu, chúng tôi mới rời nhau ra. Ruộng hổn hển làm bộ ngực của
cô rung lên như địa chấn.
- Em thương đồng chí lắm. Em...
Cô ấp úng một lúc rồi hỏi:
- Đồng chí có thương em không?
Tôi
gật đầu. Tôi không còn con đường nào khác. Nếu tôi lắc đầu, có thể
Ruộng sẽ ngay lập tức chạy lên báo cáo cấp trên. à, đồng chí không
thương người ta sao dám ôm hôn hả? Đồng chí định lợi dụng, định chơi bời
con em giai cấp bần cố nông hả? Đồng chí không biết nữ đồng chí Lê Thị
Mộng Ruộng là bông hoa đẹp nhất của phong trào cải cách ruộng đất của
tỉnh ta hả? Rồi tôi sẽ phải lãnh nhận kỷ luật ghê gớm. Ngày hôm sau,
Ruộng diện áo cánh trang, quần lụa đen, đi guốc có sơn bông hoa xanh đỏ,
tóc tết hai bím như con gái Tàu, đưa suất ăn sáng cho tôi:
- Anh ơi.
Tôi đáp cộc lốc:
- Ơi
Cô hớn hở đến sát người tôi, mặt vui như Ngô được vàng, choàng hai tay lên vai tôi nói nhỏ:
- Sáng sớm nay, em đã đến gặp đồng chí Hoàng Thanh.
Tôi hỏi:
- Ruộng gặp đồng chí Hoàng Thanh có chuyện gì?
- Để em báo cáo chuyện chúng mình.
- Báo cáo.
- Vâng, em báo cáo rằng hai đứa mình đã thương nhau.
-
Ôi, sao nhanh vậy, sao đồng chí không bàn gì với tôi trước đã. Anh đừng
gọi em là đồng chí nữa. Tôi đuối lý đành đứng im chịu trận. Tôi không
còn đường rút. Tôi và cô ấy đã hôn nhau, có trời chối. Nhanh hơn cả chớp
Ruộng đã tranh thủ tối đa báo cáo tổ chức. Tôi đành phải tuân theo
chiều gió thổi, lầm lũi đi theo số phận như con chó con đi theo người
chủ nó. Thấy tôi buồn buồn, Ruộng tức tối hỏi lại:
- Anh không thích chúng mình xây dựng với nhau à?
Tôi
gật đầu. Mất Oanh, tôi có thể nhắm mắt mà gật đầu với bất kỳ người khác
phái nào hỏi câu ấy, cần quái gì yêu với chả đương. Ruộng chủ động hôn
vào môi tôi cái chụt. Cách hôn hít của cô có vẻ nghề như một cô gái tư
sản trí thức đã sành sỏi, chứ không phải là cái hôn vụng về của một cô
bần cố nông còn chưa biết chi sự đời.
Hôm sau Ruộng bảo tôi:
-
Các đồng chí lãnh đạo cơ quan đã đồng ý cho phép chúng mình yêu nhau
anh ạ. Cấp trên rất mừng. Lãnh đạo nhắc anh hãy cứ viết truyện thật của
chúng ta vào cuốn sách anh đang viết. Thời gian trôi qua với sự viết
lách của tôi, với những tối ôm Ruộng vào lòng hôn hít. Sau mỗi lần vuốt
ve âu yếm Ruộng, tôi thấy rất buồn và hối hận. Tôi thấy mình đang phản
bội Oanh, mặc dù dưới sức ép của tổ chức, tôi đã phải từ bỏ nàng. Oanh
cứ chập chờn trong mọi xó xỉnh, mọi góc tối của tâm hồn và thân xác tôi. Tôi biết rằng tâm hồn tôi mãi mãi thuộc về Oanh. Nhưng thân xác
tôi từ nay phải trao gởi vào tay một cô thôn nữ từng là cốt cán của
cuộc cải cách ruộng đất này. Tôi biết Ruộng là sứ giả của tổ chức phái
tới để dụ tôi ra khỏi tầm ảnh hưởng của Oanh, khiến tôi được vô sản hóa
tình yêu của mình. Nhưng con người lạ lùng thay, tổ chức có cái lý của
tổ chức, nhưng trái tim lại có cái lý của trái tim. Cho hay trái tim con
người là giống bất trị, sẽ rất khó lòng lãnh đạo nổi nó bằng các chỉ
thị và nghị quyết. Chỉ có tình yêu mới ra lệnh được trái tim. Hai tháng
trôi qua, tôi đã vượt chỉ tiêu viết văn được cấp trên giao theo kế
hoạch.
Bản thảo truyện
vừa tôi viết ra để minh họa cho cải cách ruộng đất cả thảy được gần hai
trăm trang in. Sau khi duyệt, lãnh đạo khen rối rít, chỉ phải sửa chữa
đôi ba chỗ cho có vẻ. Bản thảo được
lệnh in gấp làm tài liệu tuyên truyền. Tràng Giang, Hoàng Thanh gọi tôi
và Ruộng tới để tặng một phần thưởng theo như lời của các xếp: tổ chức
đám cưới của hai chúng tôi một cách rầm rộ để tuyên truyền. Đám cưới
chúng tôi tổ chức theo đời sống mới, có chào cờ, hát quốc ca, lãnh tụ
ca, hát cả hồn tử sĩ, hô khá nhiều khẩu hiệu đả đảo địa chủ thực dân
phong kiến và muôn năm lãnh tụ...
Phòng
viết của tôi được bố trí là phòng hạnh phúc. Ngày cưới của tôi hay của
ai tôi không biết nữa. Đêm động phòng hoa chúc với tôi có cảm giác như
phải lên đoạn đầu đài. Tôi phải bị chém đầu mới đúng vì đã phản bội
Oanh, đã không có dũng khí đương đầu với hoàn cảnh, giữ lấy tình yêu có
một không hai trên cuộc đời mình. Từ đêm nay, tôi phải ngủ chung với một
người đàn bà do tổ chức cấp phát và đạo diễn. Tôi chui vào giường ngủ
sớm. Ruộng rón rén vào nằm cạnh tôi. Cô hỏi chuyện và tôi trả lời ú ớ.
Tôi mệt đến rũ rượi và ngủ biến đi từ lúc nào. Sáng ra mở mắt dậy, tôi
thấy Ruộng nằm bên, giả vờ ngáy gỗ.
Đêm
hôm sau, lần đầu tiên tôi ân ái với Ruộng nhưng lòng chỉ nghĩ đến Oanh.
Ruộng không còn trinh tiết nữa. Sau này tôi tế nhị hỏi, Ruộng đã khai
thật về chuyện đó. Rằng chính tay đội trưởng đội cải cách ruộng đất xã,
mặc dù đã có vợ, vẫn dụ dỗ lừa đảo cô, đưa cô vào bẫy để cướp đi cái
trinh tiết thời con gái. Và để đền bù cho Ruộng, tên Sở Khanh kia tìm
cách tiến cử cô lên tỉnh công tác ở đây. Tôi nghĩ mình cũng có khác gì
Ruộng đâu. Hai đứa đều là nạn nhân của một bọn lừa đảo núp dưới chiêu
bài tổ chức, chiêu bài cách mạng. Tôi chẳng mảy may buồn hay đếm xỉa vì
cái sự không còn trinh tiết của vợ, vì tôi đâu có yêu cô ấy. Tuy vậy,
tôi rất thương hại Ruộng. Cô ngây thơ, ít học nên dễ sai bảo, để trở
thành cuồng tín. Vả lại, có lúc nghĩ ngợi, tôi cũng cảm động vì tình cảm
cô dành cho tôi. Một tháng sau, cuốn sách viết theo chỉ thị của tôi
được phát hành. Báo chí, đài phát thanh quảng cáo hết lời. Tại thủ đô,
Vượt bão của tôi được tái bản với số lượng lớn. Tôi được lăng-xê gần như
một hiện tượng. Tôi được mời đi nói chuyện khắp nơi. Tên tôi nổi như
cồn. Ruộng hãnh diện lúc nào mặt cũng tươi như hoa, hay cười nói toe
toét. Tôi thu được số tiền nhuận bút khá lớn, bí mật chia làm đôi, một
nửa đưa cho Ruộng, một nửa gởi về giúp mẹ và em đồng thời gởi cho bố tôi
đang bị tù. Bố tôi trong trại cải tạo nghe nói tiền của tôi giúp, cương
quyết không nhận. Ông bảo cái thằng tố cha ấy không còn là con ông nữa.
Tôi buồn thối ruột. Đáng đời nhà mày Trần Hưng
ạ. Chỉ được cái tài giỏi đấu tố bố là không ai bằng thôi. Rồi sau này
người ta sẽ nhổ vào mặt mày cho mà xem. Đồ con nhà bất hiếu, bất nhân
bất nghĩa vậy mà cũng đòi viết văn với viết vẻ
Sau
đó, tôi nhận được một tin dữ. Bác phó Lãm bố của Oanh bị xử bắn tại xã
vì tội Việt gian quốc dân đảng chui vào hàng ngũ cộng sản. Nghe nói khi
bị bịt mắt trói vào cọc trước mũi súng của dân quân, bác đã hô Việt nam
muôn năm át cả tiếng súng bắn vào ngực mình. Khi đầu gục xuống, miệng
bác còn hô Hồ chủ tịch muôn năm. Sau khi cha bị xử bắn, Oanh không nhận
được bằng bác sĩ dù đã học và thi xong một cách xuất sắc. Tôi cũng nghe
nói Oanh bị ốm nặng vì đau đớn, vì mất tinh thần, hết người yêu ruồng
rẫy đến tin cha bị bắn. Ngược lại, Ruộng được thăng chức làm phó văn
phòng ban cải cách ruộng đất của tỉnh, được kết nạp đảng và lấy được một
người nếu không có cải cách, chắc chắn đã thành chồng của một người con
gái khác.
Trần Mạnh Hảo
Ly Thân
Chương 8
Tôi khao Hai Giỡn một bữa thịt
chó ra chó. Anh khen ngon rối rít. Tôi gọi hai cốc rượu Làng Vân. Tối
nay, Ruộng có công tác xuống huyện. Hai Giỡn vừa đi học dài hạn trên Hà
nội về. Anh vẫn còn sống độc thân.
Do vậy, tối nay, trăng thượng tuần, nhậu thịt cầy xong, ra bờ đê ngồi
nhìn sông chảy, chúng tôi nói với nhau bằng thích. Chúng tôi nói thầm
như hai con dế mái. Chúng tôi xả ý nghĩ trong đầu ra cho nhau, khỏi phải
giữ riêng cho mình nguy hiểm. Thời buổi tai vách mạch rừng, đâu đâu
cũng có người rình rập theo dõi. Hở một tí là bị quy thành phản động,
thành địch như chơi. Hai Giỡn vừa hút điếu thuốc thơm hiệu Thủ đô vừa
chép miệng:
- Bậy quá ông ơi, cải cách ruộng đất bắt ẩu, ban ẩu quá xá. Chả có luật lệ con mẹ gì ráo trọi.
- Tôi cũng nghĩ vậy đó ông Hai.
-
Tôi có ông bạn đi cải cách ruộng đất dưởi xã về kể. Ai đời ông nội nhà
ai vậy không, tối tối, gia đình nào có tí cơm ăn cũng không dám rửa
chén, sợ động, hàng xóm nghe được đi báo đội rằng gia đình ấy còn khả
năng, tức là còn có của. Nuôi được con gà bắt làm thịt ăn cũng phải ăn
dắm ăn dúi, bí mật như đi ăn cắp ăn trộm của ai vậy, lòng chôn một nẻo,
xương vứt một nơi. Như vầy, xã hội rồi sẽ thành cái con tổ mẹ gì hở ông?
Bọn đội cải cách coi trời bằng vung, toàn quyền sinh sát, tác oai tác
quái còn hơn giặc. Vậy mà tôi đọc sách của ông, toàn tốt là tốt, các ông
đội là những nhà từ thiện, suốt ngày hầu hạ, quét nhà, gánh nước, bổ
củi giùm nhân dân, không thấy ăn thấy uống, chỉ thích rửa chén giùm.
Tôi cố cãi cối cãi chày lại:
- Nhưng Hai Giỡn quên rằng bần cố nông được chia ruộng đất, chia nhà cửa, không lẽ không vui sướng lắm sao.
-
ừ, thì cũng có điều đó thật. Nhưng cái trật nó lớn quá, lắn át mẹ nó
cái trúng. Tất cả mọi người đều phải nói giống nhau, cắp trên bảo sao
nghe vậy, không có quyền tranh luận, bảo sống là sống, chết là chết,
khiến thiên hạ sợ quá, ớn thấy ông bà ông vải. Một tí là tù, một tí là
đấu tố, là ban. Đến tụi mình còn sợ co vòi vào nữa là.
Hai Giỡn quẹt diêm hút thuốc. Anh ngồi nhìn trăng trên cao thở dài.
Tôi đổi chuyện qua đề tài khác đỡ nguy hiểm hơn:
- Này, ra Hà nội, ông đã kiếm được cô nào chưa. ở một mình buồn chết.
-
Có đấy Hưng ạ. Nhưng giờ tan rồi. Tổ chức không cho tớ lấy vì cô ta dân
Công giáo. Tổ chức bây giờ còn dữ dằn hơn các cụ thời phong kiến với
con gái xưa: đặt đâu ngồi đấy, không có quyền lựa chọn. Mình yêu nhưng
quyết định có được lấy nhau không lại do người khác, kỳ cục thế là cùng
Hưng ơi.
Rồi Hai Giỡn kể cho tôi nghe mối tình của anh.
-
Ngày ấy cách đây sáu tháng, leo lên tàu hỏa ra Hà nộl, mình lò mò tìm
số ghế ở toa thứ hai. Vừa đến nơi suýt nữa thì ngất xỉu vì có một nàng
xinh đẹp tuổi vừa đôi mươi ngồi bên cửa sổ, đang lơ đãng ngó ra ngoài.
Mình rón rén ngồi vô, tim đập loạn cào cào châu chấu. Tớ thầm cám ơn
trời: chắc là đời thằng Giỡn này trúng số độc đắc. Lòng hồi hộp nhưng
không dám thở mạnh.
Tuy nhiên, tớ vẫn làm bộ tỉnh queo, không thèm ngó ra vẻ ta đây đâu để ý
gì đến cái nhà cô. Con gái đẹp nó kỳ lắm ông ơi, mình dòm hắn, chiêm
ngưỡng hắn, hắn khinh khi liền, coi mình còn không bằng cóc nhái đâu
ông. Chắc cô ta cũng đã thấy hết bộ gió mình bèn lơ đãng dòm qua cửa sổ,
ra cái điều ta đây khó lắm đó, đừng có hòng liếc với lung, tán tỉnh
khéo mà quê, ê mặt đó. Tớ đoán chắc cô ta cũng là dân học thức, mặt mũi
sáng láng như thiên thần vậy ông ơi. Mình bảo bụng: đừng lộ cái sự thích
ra quá sớm. Mình mặc cho hai anh chàng ngồi băng dưới tán trèo lên, nói
bóng nói gió về chuyện yêu đương rất khiếp. Mình thầm bảo: tụi bay có
mà Tết ma-rốc, thả dê như tụi bay chỉ có nước công cốc. Khi tàu chạy, tớ
mới lấy một cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Pháp ra đọc nhá. Tuy nhiên,
đuôi mắt mình vẫn theo dõi cô ta không bỏ sót một cử động. Cô ta thấy
hành động khoe chữ của mình liền cười ruồi rất nhẹ. Đoạn cô ta thò bàn
tay trầng
hồng vào cái làn mây lấy ra một cái gì như kẹo hay ô mai, bỏ vào miệng
vừa nhai vừa tủm tỉm. Tàu đi được chừng ba mươi phút, tớ thấy cái trò
đọc truyện Tây không ăn, bèn bỏ sách vào cặp. Tớ đổi qua chiến thuật
huýt sáo hết bài dân ca ý đến Thiên Thai rồi Suối Mơ. Cô gái vẫn tỉnh
bơ, không thèm có một phản ứng gì. Tớ thôi ngay, ai lại đi tán gái bằng
cách thổi sáo miệng linh tinh như vậy, vừa mất sức vừa buồn cười. Thật
hết cách. Bây giờ tự nhiên quay sang hỏi cô ta đây là đâu để cốt bắt
chuyện, sẽ bị cô ta coi khinh cho bằng rác bằng cách lắc đầu không biết.
Tàu hỏa đi được tiếng đồng hồ thì mình phát hiện ra cô ta ngủ gật Hưng
ạ.
Mình thất vọng quá. Thì ra cô
ta cỏ để ý gì mình đâu, coi mình như mọi người trên tàu vậy, nên mới
tỉnh bơ mà ngủ gật chứ. Cô ta ngủ gật rất khiếp, hết va đầu bên này lại
va đầu vào bên kia. Có lúc cô ta lại tựa đầu vào vai mình nữa nhá. Mình
sướng rơn, khẽ vươn vai ra nói thầm: xin mời em cứ tựa đầu vào vai anh
mà ngủ, dẫu ngủ suốt đời như vậy anh Hai cũng chẳng có mỏi đâu nghen.
Nhưng cô ta chỉ tựa sang phía mình tí chút, rồi lại ngoẹo đầu vào cửa sổ
mà ngủ. Tàu tiếp tục đi. Cô gái tiếp tục ngủ. Mình bồn chồn lóng ngóng
quá không biết làm gì, bèn cúi xuống tháo dép cao su bốn quai ra cho đỡ
căng tức mu bàn chân. Tay mình tự nhiên đụng vào chân cô, nơi gót son ấy
ông ạ. Người mình choáng váng như bị điện giật. Tự nhiên, không biết ai
xui khiến, mình bèn nghĩ ra một kế hoạch tấn công đối phương tương đối
mạo hiểm. Mình bắt đầu thực thi diệu kế bằng cách giả vờ ngủ gật. Bằng
cách này, thỉnh thoảng mình lại được va đầu vào đầu cô gái, vì cô ta ngủ
gật thật, còn mình ngủ gật vờ. Mình rất nhẹ nâng bàn chân lên, êm như
nhung, liều mạng đặt lên bàn chân của cô gái. Trời ơi, sướng hết biết
ông ạ. Cô gái này ngủ gật dữ quá, chân mình chứ trời sập xuống bàn chân
cũng cóc có biết.
Mình biết tàu sap vào ga Hàng Cỏ, nên ấn mạnh bàn
chân xuống chân đối phương. Như phép thần, cô ta tỉnh dậy thật, cựa
quậy bàn chân rồi nhìn xuống trong lúc mình đang tiếp tục giả vờ ngủ
gật. Chợt mình thấy cánh tay cô ta huých nhẹ hông mình và một tiếng nói
thỏ thẻ như oanh vàng cất lên: Xin lỗi, anh để bàn chân lên bàn chân
tôi, ê ẩm quá, mong anh nhấc chân lên giùm cho ạ. Tôi mở mắt nhìn sang
cô ta thương quá, giả vờ chống chế: Xin lỗi chị, tôi nhầm, tôi cứ tưởng
mình đặt bàn chân lên bàn chân mình đó ạ. Người con gái nhếch mép cười:
Lạ cho anh thật, chân người ta mà lại tưởng chân mình, phục anh đấy, anh
bộ đội miền Nam ơi. Thì ra, qua giọng nói, cô biết tôi là người Nam bộ.
Tôi biết cô gái này là người lịch sự, có học hành và con nhà, chứ nếu
dân hàng tôm hàng cá thì từ nãy đến giờ đã tuôn vào tôi bao nhiêu là từ
ngữ khó nghe. Vậy là kế hoạch của tôi đã thành công mỹ mãn, người ta đã
bắt chuyện với tôi Tôi tranh thủ thời cơ bằng vàng này để nói chuyện, để
hỏi han đủ thứ về Hà nội, nhân đây mà làm quen rồi tán tỉnh. Cô gái tên
là Mỹ Thư, đang học một trường Sư phạm tại Hà nội. Nhà cô ở tại đường
Cổ Ngư, đi thăm bà ngoại ở lối ga Gềnh về. Chuyện tôi làm quen rồi yêu
Mỹ Thư, ông đừng đưa vào tiểu thuyết nghe chưa, cô ấy đọc được sẽ rủa
tôi là kẻ lắm chuyện.
Hai Giỡn im
lặng thở dài. Trăng đang rào rào trên sóng nước ngoài sông bỗng im lặng.
Tiếng cá quẫy thảng hoặc nghe đùng đục phù sa.
Sau
đó Hai Giỡn còn tiếp tục kể cho tôi nghe về mối tình tuyệt vời của anh.
Hai Giỡn ngỏ lời cầu hôn và gia đình cô ấy tuy là Công giáo, nhưng cũng
đã ưng thuận. Mỹ Thư còn tuyên bố, nếu gia đình bắt ép Hai Giỡn giở lại
đạo mà không đồng ý cho họ lấy nhau, cô sẽ từ bỏ tất cả, kể cả Chúa để
theo anh.
Nhưng khi báo cáo chuyện yêu
đương và hôn nhân của mình, tổ chức đã không đồng ý cho anh lấy Mỹ Thư,
kẻ theo đạo Thiên Chúa giáo. Tuy vậy, Hai Giỡn vẫn nằng nặc xin Hoàng
Thanh cho phép mình lấy Mỹ Thư, nhưng cấp trên đã từ chối quyết liệt,
còn xạc cho anh một trận về tinh thần giai cấp, về ý thức đấu tranh với
kẻ thù...
Suốt những ngày đó, Hai Giỡn
chỉ còn biết thở than với tôi. Tôi lấy chuyện Oanh ra an ủi anh, nhưng
Hai Giỡn chỉ càng thêm đau buồn. Mỹ Thư dám vì tình yêu từ bỏ ngay cả
tôn giáo của mình. Nhưng Hai Giỡn, một cân bộ miền Nam tập kết, không
dám vì tình mà từ bỏ tín ngưỡng của mình là tổ chức, là kỷ luật thép của
đảng. Lẽ nào Oanh và Mỹ Thư không thể đi cùng đường với chúng tôi? Tôi
bỗng có một ý nghĩ quái dị là viết lên bầu trời này một khẩu hiệu vĩ
đại: hãy tin yêu con người. Tổ chức nào, tập thể nào không xuất phát từ
quyền lợi của mỗi cá nhân, không lấy hạnh phúc của mỗi con người cụ thể
làm mục đích, thì tổ chức đó, tập thể đó chỉ là khải niệm trừu tượng vô
hồn, không sức sống, không thể tồn tại và đi tới lẽ phải cùng chân lý
được. Chỉ khi nào cứu cánh và phương tiện đồng bộ, cùng xuất phát từ
thiện căn, đi tới thiện căn mới có thể là lẽ phải, là chân lý. Cách mạng
phục vụ con người chứ không phải ngược lại. Chủ nghĩa gì, lý thuyết gì
đi nữa cũng chỉ là phương tiện đi tới sự hoàn thiện của con người. Chính
con người mới là mục đích của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải ngược
lại như người ta đã làm. Chính kiến cá nhân thời đó đối với chúng tôi
thật là nguy hiểm, khi chỉ có tổ chức mới độc quyền về chân lý mà thôi.
Tôi phục Hai Giỡn sát đất. Điều anh dự đoán đã tới. Nhà nước cách lnạng
đã biết nghĩ lại, nhận ra cuộc cải cách ruộng đất đã tả khuynh, đã đi
quá đà đến mức không thể kiểm soát nổi. Nhà nước đã tuyên bố quốc sách
sửa sai. Các đội cải cách quá khích bị giải tán. Người ta xác lập lại
trật tự, lập lại chính quyền cơ sở, tổ chức lại chi bộ đảng trên cái nền
hạ tầng cơ sở như đống gạch hoang tàn bị cuộc cải cách tầm bậy đập phá.
Trần Chìa,
em trai tôi viết thư từ xã lên cho biết, bố tôi được hạ xuống từ địa
chủ thành trung nông lớp trên, đã trở về từ nhà tù huyện. Bố mẹ tôi đưa
con trở về mảnh đất cũ giờ đây chỉ còn là đống gạch vẻn mọc đầy cỏ dại.
Bác phó Lãm cha của Oanh được minh oan, không phải là quốc dân đảng phản
động như đã bị tố, mà chính bác là đảng viên cộng sản trung kiên được
tổ chức gài vào hội đồng tề xã. Nhưng than ôi, với bác phó Lãm, mọi thứ
minh oan bây giờ chỉ là trò đùa, vì bác đã bị đội cải cách ruộng đất xử
tử. Bao nhiêu người tốt đẹp đã bị bắn oan như bác phó Lãm trong cuộc cải
cách loạn xà ngầu này? Không một chính sách sửa sai thiên tài nào làm
họ sống dậy được nữa. Ôi mạng sống con người có khác gì thân phận
con sâu cái kiến. Ai là người chịu trách nhiệm vì sự xóa nhòa ranh giới
giữa thiện và ác, tạo ra những kẻ cơ hội mang chiêu bài lẽ phải để tiêu
diệt lẽ phải? Cách mạng không thể và không bao giờ được sử dụng như
những phòng thí nghiệm để xem xem cái lý thuyết này, triết lý kia chủ
nghĩa nọ là sai hay là đúng, ấu trĩ hay khôn ngoan, tả khuynh hay hữu
khuynh...
Một tin từ Hà nội
cho hay: Oanh đã được trở về trường đại học Y khoa để làm tiếp luận án
tốt nghiệp. Nàng như một cái bóng, lặng im và âm thầm như một nữ tu. Có
lẽ nào cuộc xáo trộn vừa qua đã lấy mắt của nàng niềm tin vào con người?
Ban cải cách ruộng đất của tỉnh X. thành
ban sửa sai. Nông thôn đang dần dần lấy lại sinh khí sau một hồi bị
xoay tít đèn cù trong đấu tố. Người ta đã rỉ tai nhau về những trò bịp
bợm, gian lận thay trắng đổi đen của các ông đội trời con. Khi luật lệ
được thực thi bằng trắn áp thì chỉ còn nỗi sợ, chứ làm gì còn niềm tin
yêu. ' Cô Ruộng, vợ tôi một buổi tối mang bầu lặc lè từ cuộc họp về, tay
cầm một tờ băo đặt lên bàn viết của tôi sợ hãi:
- Nguy rồi anh ơi. Anh đọc đi này. Em sợ quá.
Ruộng
khó nhọc ngồi trên giường, thở ngang với bễ lò rèn. Tôi mở tờ báo đọc, ở
trang ba, mục văn hóa văn nghệ có bài báo với dòng tít không lớn lắm:
Vượt bão, hay là câu chuyện của một phần tử tả khuynh!.
Tôi toát mồ hôi hột. Bỏ cha mày rồi Trần Hưng
ơi. Mày đã bị người ta đổ thừa rồi: chỉ vì những cuốn truyện như thế
này bày đầu mà dẫn đến sự sai lầm của cải cách ruộng đất. Tôi đọc lướt
qua bài báo. Y như điều tôi dự đoán. Người viết bài phân tích hết sự quá
khích này đến sự quá khích nọ của nhân vật Hùng. Rằng anh ta lấy tư
tưởng tả khuynh làm kim chỉ nam cho hành động. Rằng hắn là tên đồ tể của
bọn tả khuynh chủ nghĩa. Cuối truyện, cuối cùng mới vỡ ra là người viết
có thâm ý xúi đội cải cách và giai cấp bần cố nông làm bậy, làm liều.
Tôi càng đọc càng rụng rời chân tay, hoa cả mắt. Tôi cầm tờ báo đi tìm
Tràng Giang, người đã sai tôi viết để nhờ ông phó ban sửa sai này che
chở, nhưng ông ta đã xuống huyện họp. Tôi chạy tìm Hoàng Thanh, ông
trưởng ban sửa sai tỉnh, nhưng ngài đã đi họp trung ương. Hình như nhiệm
vụ chính cách mạng giao cho họ là họp và họp, họp suốt cả đời. Họp đã
trở thành cái nghề của những nhà lãnh đạo. Tôi cầm tờ báo đến Hai Giỡn
tìm sự an ủi, nhưng anh cũng phải cử đi họp mất tiêu rồi. Một tuần sau,
báo chí Hà nội đã bắt đầu phê phán chất tả khuynh nặng nề trong cuốn
truyện Vượt bão của tôi. Có tờ báo còn đề nghị thu hồi cuốn sách của tôi
vì nó phổ biến căn bệnh quá khích trong đảng. Tất cả những bài báo kia
đều có ý ngầm bảo: chính cuốn sách sâu bọ của tay Trần Hưng
này đã phần lớn gây ra sự sai lầm của cải cách ruộng đất. Vợ tôi khóc
hu hu. Cô ấy sắp sinh con đầu lòng nên sợ tôi phải đi tù. Chi bộ đấu tôi
một trận tơi bời khói lửa. Tôi bị chụp mũ là phần tử tả khuynh nguy
hiểm. Nếu không có ý kiến của Tràng Giang và Hai Giỡn đỡ giùm, có khi
tôi còn bị khai trừ đảng, biết đâu còn bị bắt nữa là khác. Tôi bị kỷ
luật cảnh cáo trước chi bộ. Chính đồng chí Hoàng Thanh và Tràng Giang đã
chỉ thị, thậm chí vạch ra chủ đề lẫn cốt truyện cho tôi viết, chính nhà
in của nhà nước in ra, nhưng giờ thì tôi phải một mình chịu trách nhiệm
lấy. Chính các tờ báo vừa phê phán tôi dữ dội, đã từng ít ra là một lần
khen cuốn truyện của tôi hết lời. Cá nhân dù đúng một trăm phần trăm đi
nữa vẫn cứ thua tập thể sai trăm phần trăm. Cái nghề cầm bút của tôi
sao bạc bẽo vậy hả trời? Cái hôm Ruộng đau đẻ thật dễ sợ. Cô vật vã tới
hai ngày mới sinh nổi. Trong cơn đau đẻ cùng cực, rất nhiều lần cô ấy đã
réo tên tôi ra chưởi, rằng chỉ tại cái thằng tả khuynh.
Ly Thân
Chương 9
Sau ba năm được cử đi thâm nhập
thực tế, thực chất là đi cải tạo lao động, sáng nay một số anh em văn
nghệ sĩ trí thức chúng tôi được trở về nhà. Tôi ngồi trên xe trên đường
về Hà nội mà lòng buồn vui khó tả. Con trai tôi giờ đã hơn ba tuổi rồi.
Hồi Ruộng sinh cháu mới được ba tháng thì tôi đi. Chuyện đặt tên cho con
đã xảy ra một vụ cãi vã dữ dội của hai vợ chồng tôi. Cuối cùng, cô ấy
phải nhượng bộ với cái tên con là Trần Văn
Văn, ghi nhớ một kỷ niệm cay đang hồi tôi ngồi viết cuốn Vượt bão. Hồi
đó, sau sửa sai, Tràng Giang được điều về ban tuyên huấn trung ương.
Tràng Giang đã tìm cách đưa vợ chồng tôi ra công tác ngoài Hà nội. Tôi
làm phóng viên báo, còn Ruộng về ban tuyên huấn rồi được cử đi học đào
tạo cốt cán sau này. Hôm tiễn tôi lên Tây Bắc, Tràng Giang với tư cách
anh kết nghĩa, đã mời tôi lên ăn bữa cơm gia đình. Anh chỉ bảo tôi,
hướng dẫn ngòi bút tôi đi về tương lai. Anh dặn:
-
Lên đó chú phải tranh thủ viết. Phải viết cuốn tiểu thuyết về kháng
chiến chống Pháp. Cứ viết hết sức mình, cốt sao dựng lại được hiện thực
của cuộc kháng chiến.
Sự gợi ý của
anh thật trúng ý tôi. Tôi đã thề với anh là sau ba năm từ Tây Bắc về,
cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành. Hôm tiễn tôi lên tàu, Ruộng bế con im
lặng không nói, chỉ dặn dò tôi mấy câu. Thấy cô em dâu, vợ chú Trần Chìa sụt sùi khóc, Ruộng khuyên em:
- Có gì mà thím khóc. Anh ấy đi thực tế dài hạn chứ có phải đi tù đâu. Ba năm lại về Hà nội thôi mà. Chìa hồn nhiên:
- Em phục chị thật. Chị gan lì bình tĩnh quá. Thảo nào người cứng rắn như chị mới làm chính trị được.
-
Chú bảo tôi không thương yêu anh ấy à? Hỏi anh chú thì biết. Chả lẽ tôi
phải gào lên như con mẹ mất gà ư? Giai cấp vô sản không biết khóc đâu
nhé. Khóc nhục rên hèn van yếu đuối.
- Chú có biết câu đó của ai không?
Chìa im lặng. Chú ấy làm sao biết câu thơ này của Tố Hữu.
Tàu
sắp chuyển bánh. Tôi ôm lấy mọi người từ biệt, hôn má con trai rồi lên
tàu. Tôi không dám nhìn những người đưa tiễn, vội quay mặt đi. Tiếng còi
tàu hét lên rùng rợn như tiếng hú dài của con khủng long thời tiền sử.
Những con người như cái bóng nhòe nhoẹt, nhập nhằng. Tất cả như không
còn nhân dạng, diện mạo. Một bầy đoàn như kiến cỏ, duềnh lên, chìm xuống
với triều dâng. Gió thổi như kiếm sắc chém vào thành tàu, ngỡ những bàn
tay rơi lả tả.
Trong hàng trăm đội khai
hoang từ xuôi lên mở mang Tây Bắc có chúng tôi, những văn nghệ sĩ và trí
thức đi cải tạo lao động. Trong số này, chỉ có vài ba anh em là phần tử
tả khuynh như tôi.
Người đội trưởng đội lao động của chúng tôi là một cán bộ tuyên huấn, tập hợp anh em bên bờ suối tuyên bố:
-
Rừng vàng núi bạc đang chờ các đồng chí khai thác. Chúng ta phải chứng
tỏ với công nông binh rằng chúng ta cũng là những người lao động chân
chính, không phải suốt đời ăn bám đâu. Chúng ta cũng biết cách làm ra
lúa gạo, trâu bò, gà lợn như nông dân. Nào chúng ta hãy bắt tay vào sáng
tạo ra của cải vật chất làm cơ sở cho những sáng tạo tinh thần sau này.
Chúng tôi lao vào dựng lán và nhận cuốc xẻng. Nhiều anh em coi sự lao
động chân tay này là thử thách lớn, nhưng với tôi, đôi tay vốn đã chai
từ ngày chống Pháp thì có ăn nhằm gì. Lúc đầu chúng tôi sống chung với
nhau kể cũng có những trục trặc. Ví dụ như trường hợp nhạc sĩ V., một
người từng nổi tiếng và khá lớn tuổi, có dính dáng đến vụ Nhân văn. Bữa
ăn bốn người ngồi một mâm. Nhạc sĩ V. ngồi đâu là anh em khác đứng lên
hết. Ông đành ngồi một mình, nhờ anh nuôi sới riêng cho một suất. Tôi
hiểu anh em sợ ngồi với ông, một con người bị tổ chức coi là nguy hiểm.
Người ta sợ liên lụy, tốt nhất là tránh voi đâu xấu mặt nào. Biết đâu
lên rừng rồi, ông ta vẫn còn bày những trò chống đối cấp trên tinh vi
đến độ khó mà bắt lỗi.
Một bữa ăn,
thấy những người khác bỏ ông, tôi lại ngồi cạnh người nhạc sĩ. Lạ thay,
ông nhạc sĩ V. bị tẩy chay lại tẩy chay tôi trời ạ. Ông không thích ngồi
ăn chung với tôi, còn sợ tôi hơn người ta sợ ông nữa. Sau này quen thân nhau rồi, ông cho biết, ông chúa ghét bọn tả khuynh.
Những
ngày sốt rét suýt chết, thiếu thuốc, tôi đã từng nuốt sống giun đất
theo bài học gia truyền của ông nội tôi để lại. Những ngày đó nhiều khi
tôi buồn chán kinh khủng. Nhất là ban đêm nghe tiếng con cu li kêu thảm
thiết, hoặc sáng ra nghe vượn hót nỉ non nhn những bài kinh cầu hồn của
rừng già, đưa tiễn linh hồn suối nguồn về thượng giới. Thỉnh thoảng tôi
cũng viết nhật ký cho đỡ tẻ nhạt. Tôi đâm ra mê làm thơ mới khiếp chứ.
Tôi nhớ Oanh và đứa con trai đến có khi phải chạy tót vào rừng như bị ma
đuổi, nằm lăn ra một tảng đá ủ ớ lên như một thằng điên. Tôi viết những
bài thơ nhỏ vào sổ tay, đôi khi đọc cho vài ba anh em ở đội khai hoang
nghe trong những đêm rừng lạnh quây quần quanh đống lửa. Tôi xin chép ra
cho các bạn vài bài thơ hồi ấy đọc chơi, thứ thơ này ngày đó nếu đăng
lên, hay đến tai tổ chức, thế nào tác giả cũng nhừ đòn vì sao buồn quá,
mà xã hội chúng ta vốn không có chỗ cho nỗi buồn tồn tại.
Đêm Rừng
Trăng liềm con cá cắn câu
Giật lên đỉnh núi đêm đau trăng tàn
Sương giăng giăng lạnh làm màn
Chiếu chăn rừng thẳm, đêm hàn giường êm
Chim Oanh còn đậu bên thềm
Trái tim một nấm cỏ mềm người ơi
Bão giông thổi nát một thời
Mắt ai lá rụng bên trời lửa thiêu
Đêm rừng cọp rống tình yêu
Cu li khóc kể những điều ngày xua
Rừng ơi đừng có dối lừa
Trái tim anh vốn đong đưa suốt đời.
Một bài thơ khác:
Chúng ta học làm người
Chúng tớ toàn những thang lớ ngớ
Văn chương bị gậy tiến lên rừng
Thời nay học làm người thật khó
Cuốc xẻng chi hồ tay rộp sưng
Học làm nông dân đâu có dễ
Văn nghệ văn gừng thứ các anh
Nghe ho một tiếng run bằng giẻ
Bút giấy lơ mơ đụng mảnh sành.
Trong những năm này, tôi đã tranh thủ viết xong bản thảo cuốn
tiểu thuyết về kháng chiến chống Pháp Sống bên những người đã chết.
Bằng cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh này, tôi muốn tái dựng hiện
thực một cách chân thật. Chính vì vậy, nhiều tình tiết, nhiều mẩu đời bi
kịch đã được dựng lên bằng cái chết. Chiến tranh không phải là trò vui
chơi, càng không phải là trận đánh giả, mà là những thảm kịch. Nhưng
cuộc chiến tranh bên trong của người lính mới là cuộc chiến tranh dữ dội
nhất: ấy là cuộc chiến đấu với nỗi hèn nhát, tính ích kỷ của con người.
Trong cuộc chiến đấu ấy, không phải bao giờ người lính cũng thắng.
Trong cuốn sách của tôi, có người lính đã đánh chín mươi chín trận anh
hùng. Nhưng đến trận thứ một trăm, anh không chiến thắng được nỗi hèn
nhát của mình, đã đào ngũ chạy sang đầu hàng địch. Ngược lại, có những
người lính ngụy chạy sang hàng ngũ kháng chiến, khi lâm trận rất gan dạ,
nhưng vẫn không chinh phục được lòng tin của tổ chức, vẫn bị những con
mắt hẹp hòi ấu trĩ nghi ngờ. Cuốn truyện có nhiều mạch chảy, nhiều éo le
trắc trở bi kịch như chính cuộc chiến tranh tôi đã tham gia. Cuốn
truyện không kết thúc có hậu như sách vở đương thời. Và hôm nay, sau ba
năm, tôi vui mừng đã có một bản thảo đầy
đặn mang về từ Tây Bắc báo cáo anh Tràng Giang. Xuống bến xe Kim Liên,
tôi đi bộ như chạy về căn phòng mười mét vuông nơi vợ con đang sống. Tôi
leo lên lầu một, tìm số phòng gõ cửa, nhưng Ruộng đi vắng. Một bà già
hàng xóm trao chìa khóa phòng cho tôi và giải thích rằng vợ tôi gởi, cô
ấy biết chiều nay tôi về nhưng bận họp. Tôi mở cửa vào căn phòng với đồ
đạc hết sức nghèo nàn, sơ sài. Tôi tắm giặt, thay quần áo, còn bốn tiếng
đồng hồ nữa mẹ con Ruộng mới về. Tôi ôm tập bản thảo tiểu
thuyết Sống bên những người đã chết đến nộp cho một nhà xuất bản lớn Hà
nội. Xong, tôi đến cơ quan tìm anh Tràng Giang. Anh đã được điều vào
công tác tại chiến khu miền đông Nam bộ từ năm 1959. Hai Giỡn đã đi học
đại học tại Liên Xô. Tôi về tới nhà thì đã thấy vợ con. Tôi ôm chầm lấy
thằng bé Văn, nó sợ quá khóc thét lên. Khi tôi đi, thằng bé còn ẵm ngửa,
mà nay đã chạy vun vút như chú gà con. Ruộng đã lục ba lô của tôi rồi
xếp thứ nào vào thứ ấy. Thấy cô ấy đang lúi húi làm gì trong bếp, tôi
bước vào chào vợ. Cô trả lời nhát gừng vâng cộc lốc. Mặt cô nặng như
chì, không một chút thiện cảm.
Tôi hỏi:
- Em làm sao vậy Ruộng?
Ruộng không thèm nhìn tôi, gay gắt:
- Làm sao hả? Anh hỏi cuốn nhật ký của anh thì biết.
Tôi
giật thót mình còn hơn bị bò cạp chích. Ruộng đã lục đồ, lấy cuốn nhật
ký của tôi ra đọc. Trong cuốn nhật ký này, tôi dành cho Oanh bao nhiêu
thương nhớ và ân hận. Tôi bình tĩnh hỏi vợ:
- Tại sao em đọc nhật ký của anh khi chưa được phép?
Ruộng gầm lên:
- Tôi có quyền. Tôi là vợ.
Tôi nổi nóng:
- Cô phải biết tôn trọng tôi chứ.
Vợ
tôi điên tiết, nổi cơn tam bành, nghiến răng kèn kẹt, xông thẳng vào
tôi, túm lấy ngực áo, gầm lên như một con sư tử Hà Đông chính hiệu:
- Trời ơi là trời, anh lấy tôi mà hồn vía lúc nào cũng ở với nó. Đồ đểu. Đồ lừa dối, bẩn thỉu. Đồ tư sản trí thức thối tha.
Tôi im lặng gỡ tay bà vợ ra, dùng phép nhu thắng cương, nhỏ nhẹ:
- Em bình tĩnh lại đã nào. Để từ từ rồi anh giải thích.
Với
bàn tay vững chãi của giai cấp vô sản, hơn nữa với ý chí sat thép của
một cán bộ chính trị, bất chợt, Ruộng giơ tay tát thẳng cánh vào má tôi
đến nảy đom đóm mắt:
- Đồ phản động. Thằng tả khuynh.
Tôi nổi cáu, toan nện cho con mẹ này một trận ra sao thì ra.
Song
le, lỗi này thuộc về tôi. Vả lại, còn một món đồ gần như một thứ quốc
cấm là cuốn nhật ký của tôi, Ruộng vẫn còn giữ. Tôi ngồi xuống giường
bất lực lặng im. Ruộng ôm con đứng nhìn qua cửa sổ khóc thút thít. Đến
nỗi, bà hàng xóm phải sang can gián, khuyên nhủ. Bi kịch này ai tạo ra
cho tôi vậy trời? Nếu tổ chức không cấm tôi lấy Oanh thì mọi sự đâu có
như vầy. Vâng, bi kịch này cũng chính là do sự hèn nhát của tôi lựa
chọn. Tôi là con gián bò trên đời này. Vì không dám đương đầu với số
phận, tôi đã từ bỏ Oanh, chấp nhận cuộc hôn nhân với Ruộng do tổ chức
sắp đặt. Nhìn Ruộng đứng khóc, tôi tan nát cõi lòng. Ruộng chỉ là nạn
nhân của vở bi kịch này. Cô hoàn toàn không có lỗi. Xét về vai trò người
vợ, người mẹ, thật khó lòng chê bai được cô. Vả lại, Ruộng đâu có xấu
xí gì cho cam. Dáng cô khỏe mạnh, thân hình
chắc nịch tương đổi hấp dẫn. Ruộng lại có địa vị xã hội, đang học lớp
chính trị trung cao ra làm nghề lãnh đạo. Nhưng tình yêu, một hình ảnh
gần gũi nhất của tạo hóa, vốn ít khi chiều theo ý muốn con người. Tổ
chức có thể làm được mọi thứ, trừ việc bắt người ta phải yêu nhau. Tình
yêu là yếu tố tự thân,
tự nguyện, tự híến, tự giác, đôi khi đồng bóng, bí ẩn. Thực lòng, tôi
cũng muốn quên Oanh đi cho rồi. Nhưng hình ảnh cô như hồn ma bóng quỷ,
càng xua đuổi, càng cố quên đi lại càng tưởng nhớ, kể cả trong giấc mơ.
Chính vì vậy, cuộc sống của tôi là cuộc sống của kẻ thất tình, luôn luôn
bị đau khổ và dằn vặt. Tôi là kẻ phản bội lớn nhất trên đời Tôi phản
bội tất cả mọi người, phản bội Oanh, phản bội Ruộng, phản bội cả tổ chức
và gia đình...
Ruộng bỗng quay lại phía tôi, chìa thằng bé đang bấu chặt lấy vai áo mình cho tôi, nói tức tưởi:
- Bố con đấy Văn.
Tôi
đỡ lấy thằng bé. Nó vẫn bám chặt lấy mẹ như kẻ leo núi, khiến tôi không
sao rứt nó ra được. Ruộng lại bế thằng bé, ngồi xuống cái ghế đẩu hỏi:
- Ai là mẹ thằng bé này anh Hưng?
- Em chứ còn ai.
- Sao anh viết trong nhật ký là con Oanh, cái con quỷ cái ấy sinh ra thằng bé Trần Văn Văn này.
Ơi
hay, tôi lại điên đến mức này khi viết ra những chữ ấy trong nhật ký.
Oanh ơi, Ruộng ơi, tôi là kẻ sinh ra làm khổ các người. Sao tôi không
chết đi, không bị tù tội chung thân cho
rảnh? Suốt ba ngày đêm liền sau đó, trừ lúc nào Ruộng đi họp hay đi học
thì thôi, còn ở nhà, hai đứa chúng tôi lại cãi nhau như mèo với chó.
Tôi đòi lại cuốn nhật ký nhưng cô ấy trả lời đốt rồi. Tôi không tin là
cô ấy đã đốt những dòng năm tháng của tôi. Với trái cấm này, người ta
rất sợ nhưng lại rất thèm ăn. Vả lại, tôi biết cô ấy mới đọc sơ sơ. Tôi
đoán Ruộng đã giấu cuốn nhật ký của tôi ở một nơi nào bí mật. Khi Ruộng
đi làm, tôi đã mất công lục mọi xó xỉnh trong nhà nhưng không sao tìm
thấy cuốn nhật ký chỉ nhỉnh hơn bàn tay. Tôi hoảng sợ. Những ý nghĩ thật
của mình mà lọt vào tay người thứ ba là nguy hiểm, là bỏ bố. Người ta,
một thời đại, chỉ quen nghe những lời mòn sáo, dối trá, mọi người nói
năng suy nghĩ giống y như nhau. Cái món chính kiến chính cỏ này, những
suy nghĩ thật riêng tư về nhiều vấn đề này, những mảnh đời riêng cần
giấu giếm này sẽ là tiếng bom với những lỗ tai quen nghe lời nịnh hót,
là độc dược với những cái lưỡi a dua bao giờ cũng chỉ ưa nói lời kẻ
khác. Tôi sẽ dùng mọi biện pháp để dụ Ruộng trả lại cuốn nhật ký. Chính
vì vậy, tôi phải lộ dần chất đê tiện của một con rệp từ trong người ra.
Tôi thay đổi chiến lược và chiến thuật với Ruộng, trở thành người dễ
thương, biết chăm sóc vợ con một cách tỉ mỉ, tế nhị. Đồng thời, tôi bắt
đầu chiến dịch nịnh hót vợ. Tối đó, từ hơn ba năm, vợ chồng chúng tôi
ngồi ăn cơm chung với nhau. Đứa con đã quen, đã gọi tôi bằng bố. Tôi
dùng Văn làm cái cớ nói chuyện với Ruộng, gắp thức ăn cho cô trong bữa
ăn, pha trò khiến cô ấy đã tủm tỉm cười. Đêm ấy, mặc dù trong bụng tôi
vẫn còn giận cô giấu cuốn nhật ký của tôi, đã ghen tuông kiểu hàng tôm
hàng cá, nhưng tôi vẫn phải làm màn tán tỉnh yêu đương ăn nằm với cô.
Ngay trong lúc chăn gối này, tôi vẫn chỉ nghĩ đến Oanh và cuốn nhật ký
bị đánh cắp. Tôi tin là đứa con gái Vương Thi của tôi được hoài thai
trong lần ân ái này. Ngay sau chuyện đó, khi hai đứa còn chưa kịp mặc
lại quần áo, tôi tranh thủ hỏi Ruộng:
- Em yêu, trả anh cuốn nhật ký đi.
Ruộng bèn ngồi thằng dậy, đùng đùng nổi giận:
-
Chỉ vì cái cuốn sổ chết rấp đó mà anh phải ăn nằm với tôi ư? Tôi biết
mà, anh đâu có yêu tôi bao giờ đâu. Anh chỉ lợi dụng tôi thôi.
Khi đứa con ngủ, chúng tôi nhất trí là phải làm đơn ly dị. Tôi thảo xong tờ đơn, cô ấy ký liền. Đoạn, tôi bỏ hết đồ đạc vào ba lô, đeo lên vai, hôn con rồi cầm tờ đơn ly dị bỏ vào túi, bước ra cửa.
Đột nhiên, Ruộng kéo tay tôi lại hỏi:
- Anh bỏ mẹ con tôi thật ư?
- Thật, em đã đồng ý để tôi đi rồi còn gì?
Ruộng chổng hai tay vào hông như nữ tướng, truyền:
- Hưng, anh ở lại đây. Anh đừng hòng thoát khỏi mẹ con tôi đâu. Giữa hai cái, xin anh cứ việc mà chọn lấy một: đi tù hay ly dị.
Tôi
giật thót người. Rõ là cái thằng sợ tù nhất nước. Một con cáy chứ không
phải người đàn ông từng mặc áo lính, từng giương lê lao vào đồn Tây như
vào chỗ không người. Tôi dừng lại, vặn cái con người đang đứng thách
thức mình, đã là vợ mình:
- Tôi bị tù? Vì sao nào? Tôi giết người phỏng?
-
Cuốn nhật ký của anh tôi không bao giờ đôdt đâu. Nếu anh thích ngồi tù
thì cứ việc đi, cứ việc bỏ mẹ con tôi mà bám váy cho cái con bò cái biết
khám bệnh ấy.
Mắt tôi nhảy lửa. Trời ơi,
nếu con mẹ điên này nộp cuốn nhật ký ấy cho tuyên huấn hay công an văn
hóa, coi như đời tôi đi đứt. Tôi làm hòa, thay đổi giọng điệu. Phương
pháp chính trị, cách sai khiến người của vợ tôi phải chăng là cách trị
người của thời đại: chỉ khi nào ta làm cho người sợ thì người mới thuộc
về ta?
- Tình nghĩa vợ chồng với nhau, dù sao chúng ta cũng đã có một thằng con trai. Sao em nỡ nói như thế?
Ruộng
nắm được cái thóp của tôi rồi, như nhà cai trị nắm đuợc cái thóp của
đám đông: nỗi sợ. Từ nay, cô sẽ dễ dàng điều khiến tôi như điều khiến
một con rối.
- Anh phải thề quên con mụ tư sản thối tha bác sĩ đó đi.
Tôi nói như máy:
- ừ, quên.
- Anh thề đi.
Tôi tiếp tục như máy:
- Anh thề.
- Anh hứa yêu thương mẹ con em mãi đi.
- Anh hứa.
Từ
đó, chúng tôi như thể có thỏa thuận ngầm, không nói về cuốn nhật ký
nguy hiểm ấy nữa. Tôi hiểu rằng vợ tôi đã dùng cái bùa này để buộc đời
tôi vào chân cô như buộc một con chó. Tôi cũng lờ đi luôn, coi như chưa
từng có cuốn nhật ký ghi đầy rẫy chính kiến về mọi chuyện của một thằng
ngứa tay, ngứa miệng, ngứa óc. Tôi phải biết cách sống trong khuôn phép
của Ruộng, của tổ chức. Tôi trở thành kiểu mẫu cho thứ tình yêu có lãnh
đạo, theo kiểu hôn nhân theo chỉ thị.
Nhà
xuất bản cho biết cuốn tiểu thuyết Sống bên những người đã chết của tôi
vào kế hoạch xuất bản năm 1961. Tôi báo cho vợ là sắp có một món tiền để
đón đứa con thứ hai chào đời.
Ruộng đã biết cưng chiều, săn sóc tôi. Bề ngoài, gia đình tôi ai dám bảo là không có hạnh phúc? Thời ấy, người ta chấp nhận cái
Ly Thân
Chương 10
Ruộng sinh đứa con thứ hai, là gái.
Tôi
đang mê làm thơ, ôm mộng thi hào thi bá nên đặt tên con là Trằn Thị
Vương Thi. Tiểu thuyết của tôi đang chạy ở nhà in với số lượng gần chục
ngàn cuốn. Rồi Sống bên những người đã chết in xong. Tôi hồi hộp mượn
nhà in một cuốn mẫu về đọc thử. Nhưng một tin
sét đánh đến với tôi giữa lúc tôi đang hí hửng chắc ăn trăm phần trăm.
Bát cơm đã đưa lên tới miệng nhưng bị giằng ra: có lệnh giam toàn bộ số
sách của tôi, không được giao cho phát hành. Tôi hoảng hồn, rõ là cái số
ăn cám. Tôi chạy ba chân bốn cẳng tới nhà xuất bản thì được biết lệnh
cắm này của công an văn hóa. Trời, tôi như Từ Hải chết đứng. Công an
văn hóa, chỉ nghe thấy mấy từ này là người cầm bút đã dúm vào như giẻ
rách. Huống hồ đây là lệnh cấm nhãn tiền của họ. Đối với những người cầm
bút, lệnh của công an văn hóa là lệnh ông trời. Chỉ cần một cú điện thoại của người trong cơ quan công an văn hóa đến là các nhà xuất bản, các nhà báo và cả hội nhà văn nhà vẻ đều xanh mặt. Bởi vì công an ở ngoài mọi luật pháp chính thức đã được công bố. Người viết không được xử bằng luật thành
văn mà là thứ luật lệ xử lý nội bộ. Cái đáng sợ nhất là ở chỗ đó. Anh
không được bảo hiểm lao động như những ngành lao động chân tay. Người
viết văn bị tước mất quyền được sai lầm, quyền được vắp ngã. Tôi đành
mang tin dữ này về nhà với cái mặt đưa đám. Tôi không dám nói với Ruộng
vì sợ cô hoảng hồn bị sản hậu. Tôi nằm gác hai chân lên vách nhà suy
nghĩ lung tung. Chết cha, năm nay tôi ba mươí ba tuổi, vừa bằng tuổi
Chúa Jêsu bị đóng đinh câu rút. Nhưng Jêsu là một thiên tài, còn tôi chỉ là một con rận. Mấy ngày sau, có giấy mời tôi lên công an văn hóa. Tôi giấu Ruộng nói dối là đi họp.
Người công an
chừng nhỏ hơn tôi vài tuổi, dáng vẻ xởi lởi, nhanh nhẹn mời ngồi uống
nước, hút thuốc nữa. Đoạn ông ta ngồi đối diện với tôi, tay cầm bút lăm
lăm hỏi:
- Anh có biết vì sao chúng tôi mời anh lên đây không?
- Tôi đoán là vì cuốn sách bị cấm phát hành.
- Đúng, còn vài chuyện khác chúng ta sẽ bàn sau. Bây giờ yêu cầu anh trả lời chúng tôi một cách thành thật. Anh viết cuốn tiểu thuyết Sống bên những người đã chết nhằm mục đích gì?
-
Thưa các ông, tôi chẳng có mục đích gì ngoài việc phục vụ cách mạng.
Như các ông đã biết, tôi từng tham gia kháng chiến. Hiện nay, tôi vẫn là
đảng viên của đảng.
Chúng tôi biết rồi.
Anh qua mặt được nhà xuất bản chứ không qua mặt được chúng tôi đâu. Đọc
xong cuốn sách của anh, ngưởi ta thấy cuộc kháng chiến chống Pháp thật
là bi thảm, đầy rãy những bi kịch và chết chóc.
- Đúng như vậy, thưa các ông. Chiến tranh là như thế thật.
- Nhưng các ông chỉ nói đến phía bi kịch, phía hy sinh trong cuốn sách mà quên đi chất anh hùng ca, chất lãng mạn cách mạng.
- Vì chất anh hùng ca đã bị cái bi thương làm mờ hết.
-
Chúng tôi xin nói thẳng nhé: cuốn sách của anh tuyên truyền cho tinh
thằn sợ chiến tranh, hòa bình chủ nghĩa. Chiến tranh không như anh tả
đâu. Nó đơn giản hơn nhiều. Mọi người học nghị quyết, thắm nhuần lòng
yêu nước, căm thù giặc, xông lên và cuối cùng là ta thắng địch thua.
Chiến tranh không bi kịch và khốc liệt như anh xuyên tạc đâu. Các anh cứ
mượn văn với chương, mượn cái tình người chung chung để vẽ chuyện.
- Đấy là quan niệm đơn giản, một chiều
muôn thuở của các ông. Chiến tranh là ngày hội, là cuộc liên hoan,
người người vui vẻ lao vào chẳng khác những con thiêu thân. Hiểu như
vậy, chúng ta vô tình đã hạ thắp giá trị của chiến thắng, xúc phạm xương
máu của bao người. Tại sao địch dễ đánh như vậy, hèn nhát, đụng đâu
chạy đó như vậy mà cuộc kháng chiến nào cũng cứ trường kỳ gian khổ?
- Anh không có quyền hỏi lại chúng tôi. Chúng tôi mời anh đến đây là để trả lời nghe chưa?
- Vâng, tôi biết phận mình ạ.
- A, anh đừng có quen thói châm chọc nhé.
- Xin các ông hỏi tiếp.
- Trong một đoạn văn, anh dám bôi nhọ quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Anh viết rằng có một chiến sĩ chiến đấu nhiều trận rất anh dũng, nhưng rồi một hôm chạy sang đầu hàng địch.
-
Tôi không bôi nhọ quân đội ta. Thực tế có những kẻ phản bội đầu hàng vì
sợ hãi, vì ham sống, vì coi sinh mạng mình cao hơn sinh mạng đất nước.
Lẽ nào trong đời sống có những trường hợp ấy mà văn học không được quyền
đề cập đến?
- Anh lại hỏi chúng tôi rồi?
Văn học là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình nghe chưa? Anh
viết chiến sĩ ta đầu hàng tức là quân đội ta đầu hàng.
- Các ông có quyền nên muốn chụp mũ, quy kết gì cho tôi cũng được cả. Có điều, sự thật không phải như vậy.
- Chúng tôi đã đi đến kết luận: cuốn Sống bên những người đã chết anh viết theo chỉ thị của bọn xét lại.
-
Trời, từ bé đến giờ, tôi đã nhìn thấy bọn xét lại xét đi gì đâu. Chính
anh Tràng Giang đã chỉ thị cho tôi viết cuốn này ca ngợi cuộc kháng
chiến chống Pháp.
- Anh nghe đài của bọn xét lại nhiều rồi chứ?
- Thưa các ông, tôi có đài, nhưng chỉ bắt được đài Hà nội thôi.
-
Ai mà biết được anh bắt thêm bóng bán dẫn vào rađiô lúc lén nghe đài
của bọn xét lại. Bọn xét lại đang tuyên truyền cho tư tưởng sợ chiến
tranh, sợ Mỹ, mê hòa bình. Tác phầm của anh viết ra phục vụ ý đồ bọn xét
lại chứ không phải viết ra để phục vụ cách mạng Việt Nam.
- Tôi không công nhận kết luận của các ông.
- Anh đừng có mà bướng. Rồi chúng tôi sẽ có cách làm cho anh phải khai ra toàn bộ sự thật.
Sau đó, bằng lối suy diễn chủ quan của mình, người công an đã phân tích, quy kết hai bài thơ tôi làm trên Tây Bắc mà có người đã chép được để báo cho họ. Tôi trình bày cho ông công an hiểu hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ nhỏ tâm sự riêng tư ấy là bài Đêm rừng và bài Chúng tớ học làm người. Ông công an
đọc thuộc lòng hai bài thơ của tôi, rồi phân tích từng câu. Trong bài
Đêm rừng anh viết: Trăng liềm con cá cắn câu. Giật lên đỉnh núi đêm đau,
trăng tà. Anh biết mặt trời, mặt trăng, căc ngôi sao biểu tượng cho cái
gì không? Cho đảng, cho cách mạng và các lãnh tụ. Vậy mà anh dám viết
trăng là con cá cắn câu. Anh bảo ai cắn câu hả. Tất nhiên không phải anh
rồi, vì anh đâu có phải mặt trăng. Vậy thì còn ai ngoài những biểu
tượng thiêng liêng cao quý kia nữa. Tôi chưa phân tích mấy từ giật lên
đỉnh núi mà chỉ nói đến hai từ đêm đau. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa
của chúng ta, ngày lao động hát ca, đêm ngon giấc, làm gì có chuyện đêm
đau. Rõ là anh vu cáo rồi nhá. Chỉ có bọn bóc lột, bọn trí thức tư sản văn nghệ sĩ chưa chịu cải tạo mới thấy đau đớn về ban đêm, vì chúng đang bị giai cấp bần cố nông tấn công từ
mọi phía. Hai câu lục bát tiếp anh viết rằng: Sương giăng giăng lạnh
làm màn. Chiếu chăn rừng thằm, đêm hàn giường êm. Anh muốn vu cáo chế độ
tốt đẹp của chúng ta là màn trời chiếu đất chứ gì. Lại vu cáo nữa, bôi
nhọ nữa. Khổ thứ hai của bài thơ, anh viết: Chim Oanh còn đậu bên thềm.
Trái tim một nấm
cỏ mềm người ơi. Chim Oanh, vừa là cô Oanh con tay quốc dân đảng, vừa
là biểu tượng cho những cái cũ đã mắt mà anh hằng tơ tưởng, nghĩa là anh
còn mơ thời kỳ lãng mạn tư sản phong kiến kia trở lại phải không? Anh
viết: Trái tim một nấm cỏ mềm, trái tim đã chết thành mồ mả. Thật là tang thương, xã hội trong câu thơ của anh là một xã
hội chết, đến trái tim người cũng xanh cỏ mộ. Đấy phải chăng là sự ca
ngợi chế độ ta hả anh Trần Hưng? Còn hai câu tiếp: Bão giông thổi nát một thời.
Mắt ai lá rụng bên trời lửa thiêu. Anh ước muốn giông bão thổi nát thời
đại cách mạng của chúng ta hả? Thật là tinh vi và nguy hiểm. Trong một xã hội mà mắt người như lá rụng bên trời rồi bị lửa thiêu thành tro bụi hết, thì xã hội đó ắt là ngày tận thế. Anh muốn xã hội ta, cuộc sống ấm no hạnh phúc có chăn bông, phích nước của chúng ta tận thế ư? Tôi xin đọc tiếp bốn câu thơ cuối của anh:
Đêm rùng cọp rống tình yêu
Cu li khóc kể những điều ngày xưa
Rừng ơi, đừng có dối lừa
Trái tim anh vốn đong đưa suốt đời.
Trời
ơi, tình yêu là khái niệm đẹp nhất của giai cấp vô sản mà anh lại để
cho cọp nó rống? Anh nói ai là cọp, ai rống? Lại còn con cu li khóc kể
lể về ngày xưa, tiếc nuối ngày xưa. Anh khóc, anh tiếc nuối thời thực
dân phong kiến còn chưa đủ sao Trần Hưng, lại còn bắt cả con cu li cũng
phải khóc, phải kể lể nuối tiếc. Câu thứ ba, tôi chỉ xin hỏi rằng ai đưa
anh lên rừng khai hoang, có phải đảng không nào. Vậy mà anh trách rừng
lừa dối anh, cũng có nghĩa là anh vu cáo đảng lừa dối. Trời ơi, tội anh
nặng lắm. Câu cuối cùng của bài thơ, anh chả cần úp mở mà tuyên bố một cách hết sức trắng trợn, rằng trái tim tư sản của anh đong đưa suốt đời. Phải rồi, anh, các anh, những phần tử thuộc thành phần trí thức thì
làm sao có được lập trường kiên định của giai cấp vô sản vĩ đại. Các
anh nghiêng ngả chao đảo như con sứa, như phù du, không chết kiên định,
lúc địch lúc ta, rất là nguy hiểm.
Cứ một đà
phân tích ấy, ông ta còn hàm hồ quy kết bài thơ thứ hai của tôi đến nỗi
với tất cả những tội lỗi mà ông ta đã phán, có thể phải đem tôi ra mà
chém đến trăm lần cũng chưa xứng đáng với tội đã phạm.
Tôi đã bị gọi lên chất vấn, tra hỏi đến chục lần. Lúc đầu còn sợ són đái nhưng rồi dần dà thành ra liều, thành
quen đi. Vâng, miệng người bé nhỏ mỏng manh của tôi làm sao cãi nổi
miệng súng được hả trời? Nhờ sự can thiệp của nhà xuất bản, của một số
anh em trong đó có mấy anh ở ban tuyên huấn trung ương, tôi mới khỏi bị
ngồi tù vì tội viết tiểu thuyết theo chỉ thị của bọn xét lại và làm thơ
chống đối chế độ. Cho hay, làm nghề viết văn trong xã hội ta phải biết
uống mật gấu, phải có một tí
chất Chí Phèo. Từ đó, mỗi khi giận dữ vì ghen tuông, lúc cãi nhau với
vợ, tôi lại phải nghe Ruộng rống lên sầu thảm: ôi chao, đời tôi sao khổ
thế này, lấy ai không lấy, lại đi lấy phải cái thằng chồng xét lại!
Ly Thân
Chương 11
Trò đời thật hay, hết bĩ cực đến
thái lai là chuyện có thật đấy các bạn ạ. Sau ba năm nằm thâm nhập thực
tế dưới nông thôn đang tập thể hóa. Trong sáu tháng đầu năm 1963, cuốn
tiểu thuyết của tôi được in ra và phát hành rộng rãi. Cuốn sách có tựa
đề là Lúa reo. Nhờ trời, một lần nữa, tôi lại được báo chí tung hê. Lên
voi xuống chó, xuống chó lại lên voi là hành trình viết văn của tôi. Một
vị trong ban tuyên huấn trung ương đã viết bài ca ngợi. Rằng tác phầm
Lúa reo là cuốn sách phục vụ chính trị kịp thời, sâu sắc và hấp dẫn.
Rằng, Lúa reo đã minh họa cho đường lối tập thể hóa nông thôn của đảng
ta là vô cùng đứng đắn. Cuốn sách này, vẫn theo nhà phê bình kia nói,
rằng nếu nhà văn không biết hòa mình với công nông binh, hóa thành vô
sản, thì không thể có tác phẩm lớn. Sau đó, các báo thi nhau viết bài ca
ngợi cuốn Lúa reo, đến nỗi có bài đọc xong tôi ngượng đỏ cả mặt vì sự
bổc quá đáng, gọi tôi là Sôlôkhốp của Việt Nam. Tôi được cắp trên ban
cho ân sủng, được đi thăm hai nước đàn anh vĩ đại là Trung Quốc và Liên
Xô.
Số là năm 1961, năm đỉnh cao muôn
trượng, năm miền Bắc thiên đường của các con tôi như một vị thi sĩ lãnh
đạo từng tuyên bố, tôi sống rất mỏi mệt vì không khí nghi kỵ, rình rập
xung quanh. Một hôm Ruộng từ cơ quan về bảo:
- Em đã gặp đồng chí phó ban tuyên huấn trung ương, người đã cứu anh trong cái vụ xét đi xét lại ấy.
- ừ, rồi sao nữa?
- Em thưa là tinh thần nhà em xuống quá. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị quy chụp bắt bớ.
Tôi thở dài:
-
Thực ra, cái sợ của anh đã hết cỡ rồi nên không còn sợ nữa. Chỉ có điều
buồn quá. Thật phi lý, ai cũng nghi ngờ, ai cũng có khả năng phản động
cả hay sao vậy?
Ruộng gạt đi bảo tôi đừng phát biểu vô tổ chức. Cô tiếp tục khoe thành tích với tôi:
Nghe
kể về anh, đồng chí phó ban rất thông cảm. Anh ấy còn bảo chồng cô có
tài đấy, nhưng chỉ phải cái tội xuất thân từ thành phần trí thức tiểu tư
sản. Anh ấy bảo em là vô sản chính cống phải luôn giúp đỡ anh về tư
tưởng cách mạng tấn công. Ruộng còn kể con cà con kê nữa mới gút lại:
-
Đồng chí phó ban hỏi em có sản lòng để anh đi thâm nhập nông thôn hợp
tác hóa dài hạn không? Em suy nghĩ rồi trả lời rằng tuy một nách hai
con, ai lại muốn chúng đi xa, nhưng nếu vì nhiệm vụ cách mạng thì em sẵn
sàng. Đồng chí ấy nói là ngày mai sẽ làm giấy giới thiệu với đồng chí
bí thư tỉnh ủy tỉnh X., nơi anh và em tham gia cải cách ruộng đất ấy, để
anh xuống đó ba năm tìm hiểu thực têd viết sách phục vụ giai cấp. Tôi
gật đầu:
- Tốt. Nhờ em báo cáo với đồng chí phó ban là anh sẵn sàng đi ngay khi có giấy giới thiệu xuống tỉnh.
Hai
hôm sau, tôi lên đường xuống địa phương. Bí thư tỉnh ủy tỉnh X. tiếp
tôi như thượng khăch. Họ đã mời tôi tiệc tùng ăn nhậu suốt mấy tuần lễ.
Bí thư tỉnh ủy gọi điện cho bí thư huyện tiến tiến nhất tỉnh, dặn dò kỹ
lưỡng về việc đón tiếp vị nhà báo kiêm nhà văn về huyện. Bí thư huyện ủy
lại tổ chức tiệc lớn tiệc nhỏ, khách một mà chủ nhà có dễ hàng trăm, ăn
uống tiệc tùng linh đình cả tuần lễ. Rồi bí thư huyện trực tiếp dẫn tôi
xuống xã.
Về sau tôi mới biết vì sao
Ruộng trực tiếp gặp ban tuyên huấn đặt vấn đề để tôi đi thực tế nông
thôn dài hạn. Vì Ruộng điều tra và biết được Oanh hiện chưa lấy chồng,
đang làm bác sĩ ở một bệnh viện thủ đô. Cô đã đến tận cơ quan Oanh, quan
sát người yêu sống yêu chết của tôi cho biết mặt. Ruộng sợ tôi ở thủ đô
sẽ móc nối lại với Oanh vì nhất cự ly, nhì cường độ mà trời, cái trò
yêu đương ai chả biết điều đó.
Xã Thành
Công có tám hợp tác xã nông nghiệp, là lá cờ đầu năm tấn của tỉnh X.
Tỉnh, huyện đã dặn người có, dặn thư có, dặn miệng có rằng đồng chí Trần
Hưng là nhà văn, nhà báo quan trọng của trung ương cử về tỉnh, các đồng
chí vinh dự lắm mới được đón tiếp.
Khi xe
huyện ủy đưa tôi về tới đầu xã, Tấn bí thư và Thêm cỡ tuổi tôi là chủ
tịch, mang cả dàn cán bộ đông đảo ra đón rước có đủ khẩu hiệu, cờ xí, cả
trống ếch thiếu nhi nữa mới khiếp chứ. Tôi hoảng hồn, làm như họ đón
một vị lãnh đạo cao cấp chứ không phải một thằng nhà văn quèn như tôi.
Tấn bí thư đội mũ nồi đen, người thắp, béo híp cả mắt, chân đi đôi dép
nhựa Hải Phòng tráng bóc, quần xanh kaki Nam Định, sơ mi trắng lốp, bắt
tay tôi rồi ôm hôn tham thiết theo kiểu lãnh tụ đón lãnh tụ.
-
Báo cáo bác nhà báo, Thành Công chúng em sẵn sàng. Báo cáo bác bí thư
huyện ủy, báo cáo bác phó chủ tịch huyện tất cả đều tốt ạ.
Bí
thư xã Tấn, tuy ngót nghét bốn mươi nhưng toàn xưng em với tôi thôi,
xưng em với bất cứ anh cán bộ vắt mũi chưa sạch nào từ trên rót xuống.
Bữa liên hoan đầu tiên đón tôi và hai căn bộ lớn nhất nhì của huyện làm
tại ủy ban xã. Khách ba, kể cả lái xe là bốn, nhưng chủ nhà thì có tới
hàng trăm vị. Thôi thì heo gà, vịt cá đủ cả. Rượu quốc lủi có tới hàng
trăm chai. Cỗ bàn người ngợm cứ lênh láng một cái nhà ủy ban. Tôi phải
làm màn bắt tay đến mỏi rã rời. Ai cũng một giọng báo cáo bác, chúng em
sẵn sàng như cách nói của Tấn. Chủ tịch xã Thêm dáng người cao gầy, lông
mày sâu róm, mắt sâu hoắm, mũi khoằm khoằm làm bài diễn văn long trọng
mừng khách. Tiệc xong thì xe bí thư huyện về. Tôi ở lại với đám đầy tớ
của nhân dân vừa no say bí tỉ. Tấn kể:
-
Thưa bác nhà báo, xã em có tám hợp tác xã, mỗi hợp tác xã bình quân có
sáu đội sản xuất, vị chi có tới bốn mươi tám ông cán bộ đội trưởng rồi.
Như vậy, cũng có nghĩa là có bốn mươi tám ông thư ký đội. Em chưa kể
hàng ngũ đội phó sản xuất. Bốn mươi tám với bốn mươi tám là bao nhiêu hở
đồng chí thống kê. à, thưa bác, riêng dưới hợp tác xã đã có chín mươi
sáu cán bộ chủ chốt. Ngoài ra còn các loại cán bộ như thống kê, kế toán,
kế hoạch, kỹ thuật, bảo vệ, đội cày, đội cấy, đội bừa, thủ kho, thủ
quỹ, tài vụ vân vân, tính ra có cả trăm nữa ạ. Đấy là chưa kể hàng ngũ
chủ chốt chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác xã. Ngoài ra, trên xã, cán bộ
các ngành nghề của ủy ban, cán bộ cấp ủy từ đảng ủy đến tổ đảng, vị chi
cũng ngót nghét hai trăm đồng chí cốt cán. Bây giờ em xin báo cáo bác
nhà báo, con số cán bộ làm tròn là chín mươi sáu cộng một trăm, cộng hai
trăm là bao nhiêu rồi ông thống kê? à thưa bác, cán bộ chủ chốt xã cả
thảy là ba trăm chín mươi sáu đồng chí ạ. Nếu tính hết hền hệt có tới
bảy trăm cán bộ tất cả. Tôi hỏi Tấn:
- Dân số xã là bao nhiêu?
-
Báo cáo bác, bao nhiêu vậy ông thống kê, à sáu nghìn dân ạ. Sáu nghìn
dân mà có tới bảy trăm ông cán bộ liệu có hơi nhiều không đồng chí Tấn?
Tấn cười nịnh híp cả mắt:
- Theo em là số
cán bộ còn hơi ít đấy. Chúng em dự tính sẽ đề bạt lên cán bộ vài trăm
nữa để có nguồn lãnh đạo dự trữ. Bây giờ nhường lời cho đồng chí chủ
tịch xã làm việc với bác. Ông chủ tịch xã, dân bộ đội phục viên có khác,
rất bài bản.
- Báo cáo đồng chí Trần
Hưng, đại diện cho giai cấp nhà văn nhà báo nước ta. Khi nhân dân xã
chúng tôi được chỉ thị của huyện ủy và ủy ban huyện cho biết, chúng tôi
được vinh dự hơn các địa phương khác đón rước đồng chí về viết báo, viết
văn. Chúng tôi đã ba lần họp đảng ủy, ba lần họp ủy ban xã, các hợp tác
xã cũng họp cỡ đó để bàn việc tiếp đón đồng chí. Tất cả bảy trăm đồng
chí cán bộ xã đều tự nguyện làm đơn lên đảng ủy và ủy ban, xin được tiếp
đãi đồng chí, ít nhất là một ngày, để mời đồng chí ăn bữa cơm dưa muối,
cho thắm tình trung ương địa phương. Như vậy, đồng chí phải ở đây với
xã chúng tôi hai năm mới thăm viếng được hết cán bộ và gia đình cán bộ
xã. Ngoài ra còn bà con nông dân khác, họ cũng đang ùn ùn làm đơn mời
đồng chí. Bên cạnh ủy ban xã Thành Công có một vườn cây, một ao cá đầy
hoa súng đỏ hình bán nguyệt. Một ngôi nhà ngói ba gian xây đẹp, sân
gạch, giếng nước, phòng tắm, nhà vệ sinh sạch sẽ, tịnh không có một con
ruồi. Đấy là nhà khách của xã. Tôi được Tấn và Thêm dẫn vào ở tại căn
phòng đẹp nhất, giường Hồng Kông, bàn viết đánh véc-ni có bình hoa đẹp,
một sa lông nhỏ dùng làm bàn trà với đầy đủ tiện nghi của thời đó. Tôi
nghĩ bụng, xã điển hình có khảc, còn hơn ở Hà nội nhiều. Chỉ thiếu mỗi
cái điện. Đi thực tế kiểu này khác gì lên thiên đường. Tôi bảo Tấn và
Thêm:
- Xin hai đồng chí cứ để tôi được tự nhiên. Mai tôi xin làm ~ việc với các đồng chí một ngày rồi sẽ xuống dân.
Tấn bảo tôi:
-
Thưa bác nhà báo, nguyên tắc bảo vệ cán bộ trung ương của tỉnh huyện
chúng em rất nghiêm ngặt. Dù không có chuyện gì xảy ra nữa nhưng vẫn cứ
phải đề phòng. Thằng địch còn lặn trong dân nhiều lắm, y như lươn trạch
lẩn trong bùn. Vì vậy, khi bác nhà báo đi đâu, chúng em sẽ cử ít nhất là
một đồng chí trưởng hay phó công an xã đi kèm. Hoặc là chính em hoặc
đồng chí Thêm chủ tịch sẽ tháp tùng nhà bác ạ.
Từ
đó, suốt hơn hai năm ở xã Thành Công, tôi đi đâu cũng có công an xã đi
kèm, làm môi giới để tôi tiếp xúc với dân. Chỗ tôi ở được bảo vệ bằng
người canh gác suốt ngày đêm và rào thép gai xung quanh gỡ ở đồn Tây về.
Suốt những ngày tôi sống ở đây, bữa nào cũng rượu thịt, cũng cơm gà cá
gỏi, hoặc tiết canh heo thịt cầy, că chép ba ba. Mỗi bữa lại một ông cán
bộ chủ chốt mời tôi, khách một mà chủ nhà có đến hàng trăm, đủ dàn bí
thư, chủ tịch, chủ nhiệm, công an, xã đội...
Lần
nào tôi về Hà nội thăm gia đình, xe huyện, tỉnh cũng đưa rước. Rồi thì
quà cáp chật cả xe, chối không được, đành phải lấy tượng trung dăm cặp
gà, một tạ gạo nếp đặc sản, mấy đòn chả lụa để gọi là không phụ lòng ưu
ái của địa phương. Ngày đầu tiên thâm nhập thực tế của tôi là ngày bí
thư Tấn, chủ tịch Thêm cùng gần hết ban ngành xã, các chủ nhiệm hợp tác
xã... dẫn tôi đi thăm đồng. Chúng tôi men theo bờ ruộng ra xem bà con
cấy cày tập thể. Ôi chao, ai bảo sản xuất tập thể buồn nào, ai bảo kinh
để xã hội chủ nghĩa thua kêm kinh tế tư nhân nào? Hãy đến đây chứng kiến
cảnh lao động lạ lùng, kỳ vĩ của giai cấp nông dân tập thể xã Thành
Công. Năm ấy đã gặt xong lúa, đang cày bừa làm lúa vụ chiêm nhưng trời
ắm lạ. Trước mắt tôi và dàn cán bộ thăm đồng có lẽ ngót một trăm các
chị, các bà thợ cấy tới xẩp xỉ bằng những người tham quan đang cấy tập
thể. Các bà các chị vừa cấy vừa hát tập thể bài quan họ tình bằng có cái
trổng cơm ầm vang cả góc trời. Hát xong, bên điệp khúc lại với tiếng vỗ
tay giòn giã, khiến bùn bắn tứ tung, bẩn lắm cả mặt mày người hát vì
cấy lúa thì phải cắm bàn tay xuống bùn. Có chị thợ cấy sát bờ ruộng, vỗ
tay bôm bốp khiến bùn bắn vào áo tôi, làm ông công an xã đứng kề tôi
lườm chị có ý bảo vỗ tay thì phải tránh xa xa một tí chứ, khiến chị thợ
cấy kia sợ tái cả mặt, cúi xuống hát, hết dám vỗ tay. Chúng tôi tạm biệt
những người cấy đang vừa cúi xuống vừa lấy hơi hát tập thể tiếp bài ca
ngợi đảng Hừng trời đông ảnh hầng soi sáng bình minh, đàn bồ câu phắp
phới.... Tôi có cảm tưởng họ phải rút cả ruột gan để hát trong khi cấy,
chứng tỏ phong trào hợp tác hóa vui đến mức nào. Phái đoàn cán bộ xã dẫn
nhà báo tham quan đồng, như đàn kiến cỏ kéo sang xem các bác, các cụ
thợ cày thợ bừa. Họ, những ông lão, những bác trung niên đang cày bừa
tập thể hàng mười con trâu trên một mẫu ruộng. Cả mấy chục con người vừa
cày bừa vừa hát tập thể bài kết đoàn, khiến những con trâu sợ quá đứng
nghển cổ lên một lúc mới dám bước. Tiếng hát tập thể của phái đàn ông ồ
ề, khàn khàn nghe buồn nhiều hơn vui. Tôi thấy có bác vừa nâng cày lên
trở xá, vừa hát toát mồ hôi. Trời ơi, nơi sản xuất, nơi cày sâu cuốc bẫm
nghìn đời đang được biến thành sân khấu hội diễn văn nghệ. Sau đó là
đến tiết mục hò khoan giữa các chị thợ cấy và các bác thợ bừa. Toàn là
những câu diễn ca về chủ trương chính sách được hò đối đáp khiến cánh
đồng cứ sôi lên. Tấn chỉ tay cho tôi nhìn về phía xa một chết:
- Báo cáo bác nhà báo, bác có nghe rõ tiếng hát chèo tập thể không ạ?
- Có tôi nghe.
-
Thưa đấy là đám nam nữ thanh niên đang nhổ mạ đấy. Mặc dù nhổ mạ mệt
lắm, nhưng nếu họ không hát tập thể với nhau sẽ không sao chịu được. Hát
xướng với bà con nông dân chúng em khi lao động nặng nhọc cũng cần
thiết như hơi thở, như ăn uống vậy.
Tôi
gật đầu phục lăn bà con nông dân ở đây. Chỉ có thánh mới sánh nổi họ mà
thôi. Thêm chợt dìu tôi ra một bên, chỉ tay về phía bờ ruộng cách chừng
hai trăm thước. Tôi thấy cỡ bốn chục thanh niên đang gánh phân theo hàng
dọc. Họ vừa gánh dập dìu vừa lấy tay vẫy chúng tôi, miệng cười như hoa.
Thêm bảo:
- Gánh phân nặng, phải bước dập
dình nên họ chỉ vẫy tay cười với nhà báo được thôi. Nếu hứng lắm cũng
không hát được, vì nếu hát, phân tro sẽ đổ hết. Nhưng xin nhà báo chờ
một lúc nữa khi họ quảy sọt về làng lấy phân tiếp, rồi nhà báo xem, hát
xướng điếc cả tai cơ đấy.
Nhất, trưởng
công an xã, cỡ nhỏ tuổi hơn tôi, người thấp, chắc như con cua gạch, đầu
húi cua, da ngăm đen, môi tái nhợt, đi giày bộ đội, quần tây màu nước
dưa, sơ mi xanh bạc, đeo xắc cốt một bên, súng lục một bên, lạch bạch
chạy đến chen sát vào tôi nói:
- Anh ạ,
còn nhiều tiết mục hay lắm. Biến cánh đồng thành sân khấu, người nông
dân thành diễn viên. Thời thế sướng muốn chết. Chả bù cho cái thời cá
thể, cứ bì bà bì bõm như con cò con vạc ấy.
Tôi đế vào:
- Đúng. Lao động thế này thì thích thật. Mệt thế quái nào được nhỉ?
Nhất
khoe: - Quanh năm ngày nào nông dân ra đồng cũng vui như hội thế này đó
anh ạ. Anh biết chỉ còn thiếu tí chút gì nữa thì nông dân ta sẽ hơn
thành thị không?
- Một tị điện. - Đúng, có tí điện nữa là dân thành phố chen nhau về đây xin đi gănh phân, đi cày bừa bằng hết.
Tối
hôm đó, vẫn một vai đeo xắc cốt, một bên hông xệ khấu súng lục Nhất dẫn
tôi đi thăm mấy gia đình xã viên. Chúng tôi đến thăm chừng mươi gia
đình. Có đôi ba nhà xây nho nhỏ, còn toàn nhà vách đất mái rạ đen xỉn,
mà nhà nào cũng có giường mô-đéc, bàn ghế, tủ, phích nước Trung Quốc,
đài Hungari Oriôngtông hay đài Seng Mao Trung Quốc. Tôi đến nhà nào cũng
nghe một giọng đài tiếng nói Việt Nam mở hết cỡ, đang phát thanh hoặc
ca nhạc. Đèn bão, đèn tọa đăng thắp sáng ngang với điện. Tôi hỏi chuyện
bà con ai ai cũng nói y một giọng: rằng nhờ đảng, nhờ ơn chính phủ đời
sống sung sướng cả, chỉ thương đồng bào miền Nam đang quằn quại đói khổ
dưới áp bức của Mỹ Diệm. Ai cũng khen làm ăn tập thể là tuyệt vời, cơm
ăn không hết, gà vịt, lợn chó thịt ăn không thiếu, chè ngon thuốc thơm
cũng nhiều khi thoải mái. Nhà nào cũng nằng nặc mời nhà báo ở lại ăn với
chúng em bữa cơm dưa muối, khiến trưởng công an xã Nhất cứ phải thay
tôi cám ơn và chối đây đẩy. Tôi chưa thấy một ai mặc áo vá, đến nỗi có
những cụ già còn diện cả những cái áo hoa xanh đỏ lòe loẹt dài quá khổ
vì thợ may vụng. Suốt cả tháng, tôi lội theo đoàn cán bộ xã đi thăm hết
cánh đồng hợp tác này đến cánh đồng hqp tác khác. Tất cả không khí lao
động, hát hò tập thể đủ bài, từ sẩm soan đến điệu cò lả vang lên có lúc
còn sôi nổi hơn cả ngày đầu tôi được chứng kiến. Tối đến, tôi lại theo
đồng chí trưởng hoặc phó công an xã dẫn vào thâm nhập quần chúng. Tôi
được dẫn đến toàn nhà xã viên ban đêm, còn nhà cán bộ để ban ngày, vì
tôi phải ăn cơm dưa muối với mỗi gia đình cán bộ từng ngày một. Tôi phục
bà con nông dân xã Thành Công sát đất, nhà nào cũng nhiều đồ đạc và lắm
tiện nghi, từ xe đạp đến đài... Tuy nhiên, nhiều ngôi nhà bé nhỏ và xác
xơ cái vỏ bên ngoài, nhưng cái ruột thì phải biết. Tôi ghi vào sổ tay:
hợp tác xã ăn rồi, nhất rồi, cứ đà này đến năm 1965 là toàn bộ nông thôn
miền Bắc sẽ được điện khí hóa, sẽ biến thành thành phố. Một lần, sau
buổi tối rượu đã ngà ngà, Nhất và Phát là trưởng phó công an xã, tiếp
tục dẫn tôi đi thâm nhập quần chúng. Tôi hỏi hai đồng chí phụ trách công
an xã:
- Xã ta còn hộ nào làm ăn cá thể
không? Nhất thưa: Còn anh ạ. Năm tên lý lịch xấu xin mãi mà chúng tôi
không duyệt. Cho chúng mày ở ngoài tập thể đến mục xương cho biết thân.
Phát thêm:
- Còn tám hộ nữa chứ anh Nhất. Nhất cười trừ:
-
Quên béng nó ba hộ ngoan cố. Tôi đề nghị bắt cha chúng nó nhốt hết nhà
báo ạ. Dọa cho các con vài trận vãi đái ra quần là sẽ làm đơn xin vào
tập thể tuốt.
Tôi can:
- ấy chết. Phạm chính sách đẩy. Để họ tự nguyện vào chứ.
-
Tự nguyện có mà đến đời mục thất. Em xin nói nhỏ với nhà báo nhé, xã
này mà không có công an chúng em là chúng nó còn ở ngoài làm ăn cả thể
có đến ba phần tư dân số. Dân ở đây ngu lắm anh ơi, lại cứ mê làm ăn cá
thể mới khổ chứ. Chỗ sướng muốn chết không ưa, lại ưa dọa đi tù. Em với
thằng Phát đây không làm dữ, xã Thành Công muôn năm cũng chẳng được điển
hình tiên tiến đâu anh.
Tôi bảo hai ông bạn công an đang đi bên cạnh, trên đường
làng trăng non lờ mờ như sương muối:
- Tôi sợ các đồng chí làm ăn quá tả đấy.
Nhất vỗ vai tôi, phả hơi rượu vào mặt tôi:
-
Tả thể chó nào được anh. Nông thôn lạc hậu lắm. Em nói thật, không đe
bắt là không trị được dân đâu anh ạ. Thời nào cũng thôi. Nếu cứ như ông
bụt cả thì nhà nước sinh ra công an, quân đội, viện kiểm sát, bảo vệ an
ninh làm quái gì?
Phát đế vào:
-
Em cũng nghĩ vậy anh nhà báo ạ. Chính quyền là cứ phải nghiêm chỉnh.
Không có oong đơ gì hết. Phải có uy chứ anh. Nghệ thuật lãnh đạo là
người cầm quyền phải học được cách làm cho dân nó sợ. Dân nó sợ rồi là
cứ một phép nhá, răm rắp,. bảo sao nghe vậy nhá. Bảo hát là hát, bảo
cười là cười, bảo khóc là dân phải khóc, có thế mới lãnh đạo được chứ.
Bảo họ lao động hăng đi bà con là họ ào xuống đồng như vịt cả ấy.
Hai
ông bạn tôi thở phì phò, ghê vào nhà dân uống nước cho giã rượu. Tôi
hỏi sao không dẫn tôi cùng vào mà lại để đứng ngoài đường, thì họ nói
nhà này đang có vấn đề, mình vô giả vờ uống nước xem nó làm gì?
Sáng sớm hôm sau, hai anh phụ trách công an xã đến nhà khách ủy ban tìm tôi rất sớm, cười cười xởi lởi:
- Tối qua, hai đứa em say quá phải không anh Hưng?
- Say ít thôi.
- Khi say là đến ông trời cũng cứ thích nói bậy. Anh bỏ quá cho chúng em nhá.
Tôi không biết tối qua họ nói thật hay nói bậy, nhưng cứ xem phép trị dân ở đây thì thấy tổ chức quá tài giỏi.
Tôi
lại lội ra đồng thăm bà con lao động sản xuất. Có nhiều người hát xướng
hăng quá đến độ giọng khàn như vịt đực. Trời ơi, làm ruộng mà vui
sướng, hân hoan đến cỡ này, thì tôi cá trên đời này, đến các nông trang
tập thể của Liên Xô, các công xã nhân dân của Trung Quốc cũng Tết ma rốc
bằng được. Tôi xúc động thực sự trước đời sống mới tập thể hóa quá hạnh
phúc của nông thôn, điển hình là xã Thành Công này, một cái nền của
cuốn tiểu thuyết lớn của tôi. Ba tháng đầu ở đây, tôi đã viết được mấy
bài báo chững chạc, đầy số liệu thuyểt phục. Tôi gởi đi Hà nội, nửa
tháng sau thấy in liền. Xã Thành Công, một điển hình tiên tiến kỳ diệu
cả nước biết tiếng, cả nước đòi về học tập. Tỉnh, huyện, đánh xe xuống
xã nói mời tôi lên làm việc nhưng kỳ thực là để tiệc tùng chúc tụng và
tặng quà cáp. Họ lại thưởng nhiều bằng khen cho Thành Công nữa chứ. Tôi
trở thành ân nhân của cả tỉnh.
Dịp Tết
Nguyên đán năm 196l, tôi viết hai bài tùy bút về Thành Công, một in báo
đảng, một in Văn Nghệ. Hai bài báo đều được phát trên đài phát thanh đêm
giao thừa và đêm mùng một Tết. Thành Công trở thành niềm hãnh diện cho
tỉnh X., trở thành niềm tự hào cho phong trào hợp tác hóa tuyệt vời của
toàn miền Bắc. Khỏi phải nói, dưới con mắt của cán bộ Thành Công, tôi
được kính trọng gấp nhiều lần hồi mới tới đây. Tháng ba năm 1962, tôi
lại về nằm vùng ở Thành Công. Xã, hợp tác xã thì lao động giỏi, tôi lại
tuyên truyền hay, quả xứng đào xứng kép. Tôi lại được ăn uống sung sướng
gấp nhiều lần. Đến nỗi, tôi phải than với bí thư xã rằng, ăn uống thế
này, thì lợn gà vịt cá tôm sao kịp sinh, kịp lớn để có cái ăn tiếp. Tấn
vỗ vai tôi cười hì hì:
- Ôi, bác cứ hay
lo xa. ở đây, từ quan chí dân ăn uống sung sướng tất tần tật như vậy đấy
bác ơi. Nếu cứ xét lý thuyết và thực tế, thì Thành Công chúng tôi gần
tới sát nách chủ nghĩa cộng sản đại đồng rời, tức là làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu. Bác tiếp xúc với cán bộ chúng em rồi đó, thích làm
là làm, khi nào thích ăn thì cứ sai người ra trại chăn nuôi bắt gà vịt
lợn ngan, xuống ao hợp tác vớt cá, tha hồ ăn, nhiều vô kể. Mình chén,
người phụ trách trại chăn nuôi họ càng mừng anh ạ, không chật chỗ, lấy
chuồng trại đâu mà thả gia cầm, gia súc.
Tôi phục lăn:
- Khiếp nhỉ. Căc đồng chí tiến nhanh còn hơn gió.
Tấn đế vào:
- Vâng, gió ăn thua gì.
Một
lần, Tấn, Thêm, Nhất, bộ ba chủ tịch, bí thư, công an dẫn tôi đi ba
ngày lội ruộng đến mệt phờ. Họ giới thiệu với tôi những cánh đồng cao
sản, thả dày đặc bèo hoa dâu, lúa tốt bời bời. Tôi xúc động đến cháy
lòng. Tiếng của cả cánh đồng lúa xanh đang thì con gái reo lên cùng gió
lời tụng ca về hợp tác xã nông thôn. Tôi liền nảy ra tên của cuốn tiểu
thuyết. A, Lúa reo. Tên cuốn sách đầy chất thơ, vừa vui, vừa hàm súc. Ba
ông cán bộ lớn nhất Thành Công dẫn tôi đi xem ruộng của đám làm ăn
riêng lẻ. Thêm chỉ tay xuống từng ruộng lúa:
-
Đấy, thực tế chứng minh, không có lại bảo chúng tôi báo cáo láo. Đồng
chí nhà báo xem xem có phải lúa của bọn cá thể này vàng vọt hơn cả râu
ngô không nào? Đấy, lúa chẳng ra lúa, èo uột chả ra làm sao, hàng lối
thì xiêu vẹo. Đúng là cái quân không có lập trường, không có lãnh đạo,
có tổ chức nên cấy hái xiên xẹo, lúa má đứng bơ vơ, ông chẳng bà chuộc.
Còn ruộng hợp tác xã đồng chí thấy đấy, luôn luôn có lãnh đạo, có tổ
chức tới từng cây lúa, nên hàng lối ra hàng lối, chẳng khác gì toàn quân
duyệt binh. Chúng tôi cấy chăng dây mà nhà báo. May mắn thay, tôi ghi
vội những lời đồng chí chủ tịch xã vào sổ tay làm chủ đề cho cuốn tiểu
thuyết Lúa reo của mình. Tấn chờ tôi ghi chêp xong, huơ tay:
-
Đấy, bác xem, ruộng cá thể nước cũng cóc có, bờ bụi rò rỉ hết nước rồi.
Trong khi lúa tập thể nước non thừa mứa, phân gio bồi dưỡng lia lịa,
thuốc trừ sâu trừ xia phun tối ngày. Đảng ta nâng cây lúa như nâng
trứng, hứng như hứng hoa ấy chứ. Có vậy mới năm tấn rồi bảy tấn mười
tấn. Bọn cá thể đâu có biết làm ăn, bỏ công ra toàn công cốc cả. Đấy bác
coi, lối làm ăn nào thắng lối làm ăn nào?
Tôi gọn lỏn:
- Tất nhiên là lối làm ăn tập thể rồi.
Tấn vênh mặt, ra vẻ tự đắc. Nhất thì thì thầm rủa sả:
- Vậy mà cái bọn ngu độn trên thế giới vẫn còn mê làm ăn tư bản. Em mà sang đó á, cứ là bắt hết hền hệt.
Ba
chúng tôi phì cười cho cái nói của anh trưởng công an xã phổi bò, chỉ
có được cái tài năng bắt bớ. Tháng bảy năm 1962, tôi ngồi tại nhà khách
xã Thành Công viết cuốn tiểu thuyết Lúa reo. Đến tết dương lịch năm 1963
thì tôi viết xong. Cuối năm 1963, tiểu thuyết Lúa reo của tôi in xong,
tạo ra một sự kiện văn học thời đó. Đầu năm 1964, sau chuyến đi thăm hai
nước bạn về, tỉnh ủy tỉnh X. lại đánh xe con lên Hà nội mời tôi xuống
thăm các huyện khác. Đồng chí phó bí thư kiêm trưởng ban tuyên huấn tỉnh
bảo tôi:
- Anh Trần Hưng ơi, các huyện
trong tỉnh đều trách tỉnh ủy nhất bên trọng, nhất bên khinh, có một đồng
chí nhà văn nhà báo lớn như vậy, sao chỉ một mình xã Thành Công được
hưởng? Họ đòi tỉnh phải mời bằng được anh xuống các huyện cho bà con
nông dân tập thể biết mặt người viết Lúa reo, đồng thời được nghe nhà
văn nói chuyện về cuốn sách.
Vậy là tôi
đồng ý đi tám huyện còn lại của tỉnh X. để nói chuyện và thăm hỏi nhân
dân. Một buổi chiều, sau khi ăn xong bữa cơm dưa muổi có yl'n sào của
tỉnh ủy chiêu đãi, tôi xin phép anh bảo vệ nhà khách đi dạo phố một mình
cho thư thái tâm hồn, cũng cốt để tiêu cơm. Tôi đi về phía công viên
thị xã, trên con đường Nguyễn Du với hai hàng cây cổ thụ bên đường rợp
bóng. Tôi đi chầm chậm, thả hồn trong từng chiếc lá rơi, cám cảnh cho
cái sự sinh diệt ở đời. Bỗng có một cậu thanh niên mới lớn, khoảng mười
bảy mười tám là cùng, từ phía sau chạy lên trước mặt tôi chào:
- Cháu chào chú nhà văn. Tôi vui vẻ thưởng thức sự nổi tiếng của mình:
- Ô, chào anh bạn. Sao cậu biết tớ?
- Cháu biết rõ chú quá đi chứ lỵ. Chú là nhà văn Trần Hưng vừa viết cuốn Lúa reo nổi như cồn, báo chí ca ngợi hết lời đó thôi.
Tôi
sướng rơn. Té ra cái nghề văn bạc bẽo đôi khi cũng có cái thú của nó
đấy chứ. Cậu thanh niên vẫn đi bên cạnh tôi, thỉnh thoảng nhìn tôi có vẻ
chiêm ngưỡng. Đang buờn buồn, bỗng dưng tôi vui hẳn lên, cảm ơn trời
cho một vệ tinh đến bay liệng xung quanh ca ngợi. Tôi hỏi một cách tự
mãn:
- Cậu đọc sách của tớ chưa?
- Rồi. Cháu đọc vèo một cái hết liền.
- Cậu thấy Lúa reo thế nào?
-
Xin chú để tí nữa cháu nói. Này chú Trần Hưng, nếu chú không chê một
độc giả bé con như cháu, thì xin mời chú vào công viên cùng ngồi trên
ghế đá, cháu sẽ xin thưa với chú một ít về tác phẩm Lúa reo.
- Tốt. Nào chúng ta cùng vào. '
Công
viên buổi hoàng hôn còn mấy cái ghế đá bỏ trống. Hoa lá xanh tươi đứng
răm răm theo hàng lối. Tàn cây cổ thụ rac lá xuống đầu chúng tôi như
những mảnh bản thảo màu vàng nhạt bị xé vứt tứ tung. Chúng tôi ngồi trên
băng đá. Tôi hỏi chàng thanh niên:
- Cậu quê ở đâu nhỉ?
- Thưa, cháu dân xã Thành Công, cháu biết chú từ năm 1961.
- Giờ cháu làm gì?
- Học kỹ thuật trên thị xã.
- Cháu tên gì, con ai ở Thành Công?
Bố
mẹ cháu là nông dân xã viên quèn, chả ai thèm biết tên tuổi cả. Cán bộ
xã và các chú gọi những người xã viên dốt nát, nghèo khổ như bố mẹ cháu
là nhân dân. Cho nên cháu là con của nhân dân chú ạ. Tên tuổi cháu cũng
chẳng ai cần biết làm gì.
- Thôi, cậu giấu tên với tớ cũng được đi. Cứ tạm gọi cậu là con nhân dân chứ gì.
- Đúng chú nhà văn ạ. Vì nhân dân đối với các chú, đối với tầng lớp lãnh đạo, chỉ là cái đám kiến cỏ vô danh.
- Thôi, ta vào đề nhá. Cậu muốn nói với tớ cái gì về cuốn Lúa reo?
- Nhưng cháu xin chú đừng có giận đấy. Chú thề đi.
- ừ thề.
-
Cuốn sách của chú viết chưa hay đâu. - Vì sao? - Vì nó rất giả tạo. Mà
văn chương theo cháu, trước hết là phải thành thật. Bà con nông dân ở xã
Thành Công đọc cuốn sách của chú xong, nói thầm vào tai nhau: Trần Hưng
là cái thằng bốc phét. Đúng là nhà văn nói láo, nhà báo nói điêu.
- Ô, cậu nhầm hay sao ấy chứ, báo chí cả nước người ta đang ca ngợi cuốn Lúa reo của tớ rầm lên ấy.
- Báo chí họ cũng nói dối nốt chú ạ.
- Ơi hay, cậu lấy bằng chứng ở đâu để bảo chúng tớ bốc phét?
-
Xin chú hãy kiên nhẫn nghe cháu nói sự thật nhé. Nhưng xin chú đừng có
nổi nóng hay vu cáo cháu là phản động đấy. Nếu trong xã hội mà mỗi người
dân chưa được quyền nói thật lòng với nhau, nói thật lòng với nhà nước
thì cháu tin xã hội đó chưa tốt, chưa đẹp. Vì khi nhà nước nói dối dân,
dân lại phải đối phó lại bằng sự nói dối. Đó là một xã hội giả. Mà giả
thì không bao giờ tiến bộ được đâu chú ạ.
- Ôi sao cậu triết lý dữ vậy? Học lớp mẩy rồi hở ông con nhân dân.
-
Lớp bảy, giờ học trung cấp kỹ thuật hai năm rồi. Cháu rất mê đọc sách
văn học. Cháu có làm cả thơ nữa đấy chú ạ. Thôi để cháu nói chú Trần
Hưng nghe nhá. Cán bộ xã Thành Công họ lừa chú đấy. Chú bị bịt mắt bắt
dê mà không hay biết. Suốt hai năm rưỡi chú nằm thâm nhập và viết ở
Thành Công, đám người đói khổ lam lũ được gọi là nhân dân kia đã bao giờ
được tiếp xúc thực sự với chú đâu. Mỗi lần chú đến tìm hiểu thực tế tại
nhà dân, đều có trưởng hay phó công an xã đi kèm, hoặc ít ra là chủ
tịch bí thư. Thế thì bố bảo nhân dân dám nói thật với chú. Họ phải trả
lời những câu hỏi của chú một cách có tổ chức, có lãnh đạo, nghĩa là
nhất nhất một lời nói đều có cán bộ sắp đặt trước để dân nói với chú. Lỡ
một ai nói sự thật với chú, khi chú đi rồi chỉ có nước chết với họ. Đói
thì phải bảo là no lắm, sướng lắm. Rách nát thì phải khoe là lành lặn,
xênh xang áo quần. Rau cháo qua ngày thì phải hô lên mỗi lần chú tới là
thịt cả ăn thả cửa. Bị trù dập, đàn áp, truy bức đến sợ vãi đái ra quần,
khi chú đến thăm thì phải khoe là quá sức tự do, vô cùng dân chủ, phấn
khởi tự tin tuyệt vời... Khi chú đến nhà dân đen, mỗi tối đều thấy nhà
nào cũng lụp xụp, mái rạ, vách đất xác xơ, nhưng bên trong toàn đồ quý
phải không? Chú thấy nhà nào cũng có đài mở oang oang, có giường tây, tủ
đứng, bàn ghế choáng lộn, chăn bông phích nước tươm tất chứ gì. Bịp chủ
cả đấy thôi. Mỗi tối họ dẫn chú đến bảy tám nhà dân đã định trước, đã
bố trí và sắp đặt trước. Họ cho dân khiêng đồ đạc, mượn đài phích,
giường tủ từ nhà các ông bà cán bộ đến trang trí, sau khi chú đi rồi,
dân lại phải hì hục khiêng vác suốt đêm trả lại nhà cán bộ. Chú thấy nhà
các ông cán bộ xem nhà nào chưa xây sân gạch, đồ đạc đủ hết không.
Người dân làm ra bao nhiêu họ ăn đầu ăn đuôi hết rồi còn gì. Chú thấy
cán bộ và vợ con họ rồi đấy, ông bà nào cũng béo đỏ lên, ăn trắng mặc
trơn quen rồi. Còn nông dân, người làm ra lúa gạo như bố mẹ cháu thì đói
khổ, rách rưới tàn mạt.
Tôi hoang mang quá, nhưng cũng rán vớt vát lại niềm tin không có cơ sở của mình bằng một câu hỏi:
- Cậu nói làm sao chứ, năm nào Thành Công cũng bảy, tám đến mười tấn một hécta.
-
Ôi chú Trần Hưng ơi, thành tích ma thành tích cuội đấy. Họ báo cáo láo
cả thôi. Làm chó gì có bảy, tám đến mười tẩn thóc một hécta hả chú? Cháu
làm ruộng mãi cháu biết. Họ bốc phét để tuyên truyền đấy chú ơi.
-
Này, cứ cho là sự thật như vậy cả đi. Nhưng tớ từng được chứng kiến
cảnh nông dân Thành Công lao động trên đồng vui vẻ như tết, hò hát tập
thể vang lừng, có ai đau khổ như cậu nói đâu. Vỗ tay hát xướng bằng
thích.
- Ôi chú ngây thơ thật ấy. Cái trò
hề kia sao chú vẫn còn tin là sự thật ư? Họ bắt bà con ra đồng đông như
kiến cỏ, tập dượt hai ba ngày, vừa gò lưng xuống cấy, vừa cày bừa, vừa
nhổ mạ, vừa đi gánh phân vừa hát tập đoàn. Chú thử hình dung xem, cúi
xuống cấy lúa đã mệt đứt hơi còn phải hát phải hò tập thể, tay chân toàn
bùn là bùn vẫn phải vỗ đôm đốp để biểu diễn cho quan khách coi, đến nỗi
bùn đất bắn đầy vào mặt nhau cứ như hề cả ấy. Họ bắt tình bắt tội bà
con nông dân tập dượt mấy ngày mới đem biểu diễn khoe chú đó. Chả có
người nào điên như vậy nếu không bị cán bộ bắt buộc. Sau mỗi lần chú đi,
có nhiều bà con phát ốm, phát ho phát hen vì vừa làm vừa phải gào bài
hát đến khản cả tiếng. Nhiều người oán chú lắm mà chú không biết. Đảng
ủy xã, ủy ban xã bày trò thắt đức này không chỉ cho riêng chú để viết
báo viết văn, mà còn để biểu diễn cho các vị lãnh tụ về thăm xã, chứng
tỏ rằng đường lối của họ đúng đắn và nông thôn thực sự đã biến thành
thiên đàng. Ôi trời, vậy mà trong tiểu thuyết, chú tả những đoạn hát
xướng tập đoàn trên đồng ruộng một cách rất say mê, rất chân thành,
khiến cháu đọc qua cứ ôm bụng bò ra mà cười. Một đoàn thanh niên nam nữ
vừa gánh phân đi hàng dọc vừa hát sẩm soan tập thể, tếu thật chú ơi.
Tôi như kẻ đi buôn bị mắt hết vốn:
- Chả lẽ họ lại lừa tớ đến như vậy sao?
- Ôi sao chú vẫn còn ngây thơ quá.
- Ơi, nhưng tớ thấy lúa hợp tác xã tốt thực sự. Còn lúa của đám cá thể vàng vọt gầy teo.
-
Chú có biết không, công an xã đêm đêm cho người bí mật đến các ruộng cá
thể, tháo nước ra hết để lúa chết khô. Họ còn phun thuốc trừ sâu liều
cực nặng vào lúa cá thể cho cây lúa chết héo, chứng tỏ lối làm ăn tập
thể thắng thế theo kiểu ấy đấy chú ơi. Còn lúa hợp tác xã đúng là tốt
thật. Nhưng đến mùa gặt về, trả nợ nhà nước đến tám bảy phần rồi: nào
tiền cày máy, tiền phân hóa học, tiền thuốc trừ sâu, tiền kỹ thuật, tiền
giống, tiền bèo dâu, tiền giao tế chi phí, tiền chi cho liên hoan mừng
lãnh đạo, báo chí hay quan khách về thăm. Sau đó, lại còn thóc nộp thuế
nữa. Thành thử, trừ đi các khoản chi, có khi người làm ra hạt lúa bị lỗ
nữa chú ơi. Lúa thu về không đủ trả nợ. Vậy thì xã viên ăn cái quái gì
để sống chú. Nhịn là thượng sách thôi. Phải làm sao kiếm được củ khoai
củ từ mà vượt qua ngày ba tháng tám. Chú về xã cháu hai năm rưỡi, thử
hỏi ngày nào không ăn uống như vua. Tiền ấy, cái đám nhân dân phải è cổ
ra chịu cả đấy chú ạ. Vậy mà trong tiểu thuyết Lúa reo chú mô tả nông
dân xã viên còn sung sướng hơn cả tiên nữa. Thử hỏi viết dối trá như
thế, bà con nông dân họ đọc, đến hiền như bụt còn phải chưởi nữa huống
chi là những người khốn khổ. Chú bị đám cán bộ ma giáo ấy lừa rồi đấy.
Tôi
im lặng vì đau đớn, vì xấu hổ, nhưng dù sao lúc ấy, sự thật tệ hại đến
vô chừng này khiến tôi chưa đủ sức tin nổi, tôi vẫn cần phải vớt vát sự
biện minh cho mình:
- Tôi không hoàn toàn tin hết những điều cậu nói.
-
Dạ, chú không tin thì tùy chú. Nhưng tiểu thuyết của chú viết ra là để
phục vụ bảy trăm ông bà cán bộ xã Thành Công, chứ không phải vì lợi ích
của đám đói rách nhếch nhác là sáu nghìn người vô danh, mà các chú từng
phong cho họ cái tên thánh đẹp đẽ là nhân dân.
Tôi
đớ người ra, hoang mang như vừa đi lạc vào một thế giới không phải trái
đất. Cậu thanh niên đứng lên chào tôi rồi đi thẳng. Dù sao, tôi cũng
phải nén lại nỗi đau, niềm tức giận vừa bị hat nước lạnh vào mặt, để làm
ra vẻ lịch sự:
- Cám ơn anh bạn trẻ nhé.
Cậu ta quay lại, vẫy tay, mỉm cười:
- Đừng bao giờ viết như vậy nữa nhá chú Trần Hưng.
Tôi
im lặng ngồi một mình trên ghế đá. Tôi chợt thấy mình cô đơn đến vô
cùng. Tôi như kẻ bị cả và loài người phản bội. Trên đầu tôi, lá cũng
không thèm rơi xuống. Gió đã cuốn gói đi khỏi thị xã này. Bóng tối từng
cục một từ các xó xỉnh của cuộc đời đang rơi xuống tôi. Đêm đang xuống
để lấp dần đi mọi khoảng cách. Tất cả cửa nhà, cây cối, đường xá và tôi
cùng được nhúng vào cái bình mực vĩ đại là bầu trời đêm. Thị xã đoạn này
không có điện. Tôi sợ hãi đến mức muốn co cẳng chạy khỏi mọi sự dổi trá
đang vây bủa xung quanh. Tuy vậy, với cái cảm giác sợ ma, tôi không
chạy, mà đi thật chậm để cố gắng cưỡng lại cái cảm giác sợ hãi đang rùng
rùng trong tôi. Tôi đi về phía ánh điện của khu dinh thự mà những người
gọi là đày tớ nhân dân đang ở. Từ đêm ấy và nhiều đêm sau tôi không sao
ngủ được. Tiểu thuyết Lúa reo và cậu thanh niên xã Thành Công cứ xoáy
vào tôi bao nhiêu mũi tên trái ngược. Lẽ nào, những điều cậu tả kể đã là
sự thật? Nhưng nếu sự thật lại trần trụi, tàn nhẫn và quải gở như vậy
thì sao? Tôi tự nhận mình là người có văn hóa cơ mà. Nhưng đâu rồi lương
tâm của tôi, cậu bé kia hay cái đám nông dân vừa phải lao động vừa phải
gào tập thể những bài hát, cái nào là sự thật? Phải chi tôi đừng gặp
cậu ta hôm đó thì sẽ được yên ổn hơn nhiều. Lương tâm, sự thức tlnh, lẽ
hướng thiện của chúng ta phải chăng là chính nỗi đau, là niềm ân hận, là
sự tự đày ải tâm hồn mình? Lẽ nào niềm vinh quang của Lúa reo mang đến
cho tôi lại là thứ vinh quang giả tạo. Niềm vinh quang của người này
phải chăng là nỗi nhục nhằn của kẻ khác? Lẽ nào những trang văn viết về
hạnh phúc của tôi lại là sự bất hạnh của đám đông? Lẽ nào hàng trăm nam
nữ thanh niên xã Thành Công vừa gánh những gánh phân nặng trĩu lại không
có khả năng hát chèo tập thể? Hàng trăm câu hỏi như chiếc vòng kim cô
của Tôn Ngộ Không cứ thắt chặt lấy đầu tôi. Nó xiết chặt đến nỗi, đầu
tôi cứ bé dần bằng quả trứng và cuối cùng chỉ còn bằng cái trứng sâu.
Văn
học và cuộc sống, sự thật và sự lừa bịp, tiểu thuyết Lúa reo và cậu
thanh niên xã Thành Công tôi vừa gặp ở công viên thị xã. Lương tri và ti
tiện, vinh quang và nhục nhã. Từng cặp, từng cặp cứ hành hạ tôi, đến độ
ăn không ngon, ngủ không yên. Suốt một tháng sau đó, tôi gầy rạc cả
người. Tôi trở về quê thăm mẹ già. Bố tôi đã mất vì đau buồn từ năm
1958. Trước khi tắt thở, nhờ mẹ nói, bố tôi mới tha cho tôi cái tội làm
đơn đấu tố ông gởi về từ trên tỉnh. Đó là sự đấu tố lếu láo, a dua, với
một ngụy lý vì để tội của cha mình giảm đi mà con phải đấu tố người đẻ
ra mình. Ôi, anh lý luận hay nhỉ. Bố tôi bảo tôi như vậy. Đến cha mình
mà các anh còn đấu tố, thì thử hỏi trên đời này còn cái gì các anh tha,
còn cái gì cho các anh trọng nể?
Mẹ tôi ở
với vợ chồng em Chìa, tức thằng chả Chìa hồi nhỏ. Căn nhà đã được xây
lại từ năm 1960. Mẹ tôi dành cả buổi kể cho tôi nghe chuyện hợp tác xã
quê nhà:
- Hưng ạ, mẹ nói thật con đừng
giận nhá, ở đây, có nhiều người đọc cuốn Lúa reo của con, đã bảo thẳng
với mẹ là con bác viết văn nịnh, văn bồi. Mẹ buồn lắm. ở đây chỉ có cán
bộ là sống sung sướng vì họ ăn chặn hết của dân. Chung nhau vào tập thể
là để cho bọn nam quyền nó dễ đục khoét, dễ ăn cắp của dân. Dân đói khổ
lắm, nhục nhã lắm, chả được như cái đám dân ăn tráng mặc trơn như con tả
trong sách đâu. Mẹ thấy quái lạ thật, sao báo chí, sách vở của chúng
mày chỉ ưa nói ngược lại những điều có trong đời thực. Trời ơi, tôi sẽ
còn gầy rạc ra nữa vì cái vinh quang của tôi không đi kèm với lương tri.
Cuối cùng, cái lý của cậu thanh niên xã Thành Công đã đo ván toàn bộ
tác phẩm Lúa reo của dòng văn học tô hồng mà tôi là đại biểu.
Ly Thân
Chương 12
- Sao anh cứ đến đây ngồi trước
mộ em làm gì? Tối rồi, về đi anh. Em sợ tình yêu lắm. Tình yêu, với em
đồng nghĩa với cái chết. Đừng, đừng ngồi nán lại phút nào nữa, hãy để em
được yên.
- Đừng xua đuổi anh tội nghiệp.
Cho phép anh được ngồi bên em lâu một chết. Khi nào bóng tối bao phủ
quả đồi này, che lắp nghĩa trang và nắm đất này, anh mới đi.
Thôi
được, tùy anh. Vì anh còn ngồi đây, chúng ta phải đối thoại. Như vậy,
khổ em lắm. Em chết rồi, đừng bắt em chịu đau đớn nữa.
- Em thân yêu, từ hơn một tuần nay, em có biết vì sao mỗi sáng mỗi chiều, anh lại lên đây trò chuyện cùng em không?
- Vì anh thương hại em chứ gì. Dù em đã bị vùi dưới đất cả chục ngày nay, em cũng không thích ai thương hại mình kể cả anh nữa.
- Không, anh kính phục em vô chừng. Anh đang thương hại bản thân mình đây. Khi nghe tin em hy sinh,
anh biết rằng cuộc đời anh đã không còn ý nghĩa. Hay nói đúng hơn đã
mất hết mọi giá trị tồn tại, mắt hết mọi thuộc tính, mắt hết mọi tên
gọi.
- Anh đừng tuyên
bố lớn tiếng như vậy. Sự đại ngôn thường bao hàm yếu tố ít thành thật
bên trong. Nghĩa là, anh muốn nói khi nghe em hy sinh, anh đã mẩt hết hồn vía và đau khổ chứ gì?
- Đúng. Từ khi em ngã xuống, anh không còn trái tim nữa.
- Vậy thì nó ở đâu, trái tim anh ấy?
-
Từ lúc yêu em, anh đã tặng em trái tim mình và gởi nó vào lồng ngực em
đấy. Khi em nằm xuống, bị đất vùi lên, trái tim anh trong ngực em cũng
nằm xuống, cũng bị đất vùi lên. Và giờ đây, nó hóa thành nắm đất mang
bia mộ là tên em.
- Xin anh đừng phức tạp hóa những điều đơn giản. Trái tim anh đang đập trong ngực anh kia kìa.
- Không, nó không còn là trái tim nữa. Nó chỉ còn là một cái van bơm máu để gìn giữ hệ tuần hoàn.
-
Sao người sống các anh ưa gọi sự vật bằng nhiều tên vậy? Lúc cần thì
bảo là trái tim, là linh hồn của tình yêu. Lúc không cần thiết chuyện
cao cả nữa thì kêu là cái van bơm máu. Cứ cho rằng trái tim anh đã chết
cùng với em đi. Như vậy, hóa ra anh là người sống không cần trái tim à?
-
Không riêng gì anh. Bao nhiêu kẻ đang sống trên đời này không cần trái
tim, không có trái tim đấy em ạ. Trên ngực trái của họ chỉ là sự vận
động của cái van bơm máu. Họ phủ nhận những quy luật tình cảm của con
tim. Họ tôn thờ bộ óc. Họ thần thánh hóa lý trí. Họ cười cợt chê bai
tính lãng mạn. Họ phủ nhận yếu tố huyền ảo và thiêng liêng của con
người. Họ chà đạp lên cái phần mơ mộng của đời sống.
- Vậy thì họ đã tặng cho ai trái tim mình? Giống như kiểu anh cho trái tim anh cho em và em giấu vào trong lồng ngực vỡ nát ấy?
-
Họ chẳng cho ai cả. Họ bảo rằng trái tim là cách gọi làm dáng của cái
van bơm máu. Rằng trái tim là điều bịa đặt của con người. Tức là họ phủ
nhận nó em ạ. Họ bảo trái tim nếu có thì nó lại nằm trong vỏ đại não cơ.
Thôi kệ họ anh ạ. Từ nay, có lẽ anh phải gia nhập vào thế giới của
những người không tim.
- Không, anh muốn
mang một trái tim trong ngực mình. Đa số con người sống trên trái đất
này đều mang trong lồng ngực mình trái tim khác. Hãy để trái tim anh
được chết cùng em, được vùi dưới đất cùng em. Còn trái tim nhân loại của
em, bằng tình yêu, từ nay, xin phép em, cho anh được mang trong ngực
trái mình, để sống hết những năm tháng còn lại.
- Trời ơi, anh không nhớ ư? Anh đã từ bỏ cái quyền được mang trái tim em ngay từ hỏi cải cách ruộng đất.
Lúc đó, người ta đã tách em ra khỏi cách mạng, mặc dù em chính là cách
mạng. Em đã dành cả tuổi xuân mình cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhưng đùng một cái, những nhà lý lịch chủ nghĩa, mạo danh cộng sản, đã
tách em ra thành đối tượng, thành đối lập với đảng. Em biết, người ta đã
đưa cho anh một sự lựa chọn cuối cùng: em hay đảng, tình yêu hay tổ
chức? Anh đã chọn một. Anh đã từ bỏ tình yêu, trả lại em trái tim khốn
khổ. Rồi anh lấy vợ theo chỉ thị, viết văn theo chỉ thị. Chung quy là
anh sợ mắt chỗ đứng trong xã hội, sợ bị khai trừ đảng, sợ bố anh bị bắn,
nghĩa là anh sợ đủ thứ. Anh không còn là anh thời đánh Pháp nữa. Anh đã
dám dấn thân nơi
mặt trận của súng đạn, nhưng anh đã đầu hàng trên mặt trận lương tâm.
Anh biến thành kẻ hèn nhát sợ hãl. Nhưng trời ơi, tình yêu có bao giờ đi
chung đường với các loại nỗi sợ đâu anh.
- Tha lỗi cho anh. Anh chỉ là một kẻ quả sức tầm thường, không dám sống thực với bản thân mình. Anh hiểu rằng, sống không chỉ là lựa chọn. Sống còn là sự dám đánh đổi, dám mất, dám hy sinh để đạt được cái cốt lõi nhất, cái mà vì nó mình có mặt trên đời này. Anh được sinh ra bởi tình yêu cha mẹ chứ không phải sinh ra
bởi các nghị quyết, bởi tổ chức hay tập thể. Khi gặp em, anh đã nhận ra
rằng, chỉ có thông qua tình yêu của em, anh mới có thể thoát khỏi sự
hữu hạn của mình để đạt tới cái vô hạn của thế giới. Chỉ có thông qua
đôi mắt em, anh mới biết mình là ai. Nhưng than ôi, anh đã là một thằng
hèn, đã phải quy phục cái lý trí lạnh lùng của những người khác để rồi
từ bỏ em. Từ đó trong hành trình đời sống, trái tim anh đã bỏ trốn, chia
tay với lý trí kia để lẵng nhảng đi sau em như một con chó bất hạnh.
Phải chăng, cái lý của thời anh sống mãi mãi là một đường thẳng song
song với tình yêu của trái tim con người.
-
Anh ạ, đấy là sự nhầm lẫn của cả một giai đoạn. Tại sao em và đảng,
tình yêu và tổ chức lại không có khả năng nhập làm một trong anh? Chủ
nghĩa cộng sản cần phải biết cách trở thành tình cảm của con người, chứ
không chỉ thuần là những chỉ thị lạnh lùng, những mệnh lệnh xơ cứng mang
tính áp chế. Nỗi sợ hãi và chủ nghĩa cộng sản không thể đi chung một
con đường. Thực tế đời anh đấy, người ta không thể bắt anh yêu người đàn
bà đang ở với anh, dù anh và bà ấy đã có hai con.
-
Em nói đúng. Nỗi sợ hãi không thể đi đôi với tình yêu. Giả sử bây giờ
em sống dậy, anh có dám từ bỏ mọi cái để yêu em và sống với em không?
- Không phải dám nữa mà là hành động. Anh sẽ ôm chầm lấy em để đưa em đi cùng trời cuối đất.
- Thế còn đảng của anh và vợ của anh đâu?
- Đảng không còn cấm anh yêu em nữa.
- Thế còn vợ anh?
- Anh đã bao giờ yêu cô ấy đâu.
- Em biết. Nhưng em nói vậy thôi. Em làm sao sống dậy được nữa để anh có cơ hội biểu diễn tình cảm và hành động của mình.
- Nhưng trái tim em vẫn đập trong ngực anh đây.
-
Chỉ có trái tim thôi thì làm sao thành sự sống, thành cuộc sống hở anh?
Phải chăng, người ta lại thích yêu cái gì người ta từng chối bỏ?
- Anh thề rằng chưa có thời khắc nào anh không nghĩ đến em, nhớ thương và day dứt vì em.
- Chỉ có ý nghĩ và nỗi nhớ không thôi, chưa thể thành tình yêu đâu anh ạ.
- Đúng vậy. Nhưng chẳng lẽ lại không có một tình yêu trong những mối giây bí ẩn của đời sống tinh thần?
-
Ôi người sống các anh sao duy tâm quá. Còn người chết chúng em lại rất
duy vật. Tình yêu tinh thần chỉ là một cách nói, một cách hoãn binh, an
ủi, vuốt đuôi. Tinh thần là gì nếu không phải là chính vật chất được đốt
cháy và thăng hoa. Em đã mất anh chứ không phải ngược lại. Hôm nay, một
lần nữa, cái chết lại đánh mất em của anh. Lần này là mắt vĩnh viến.
Bản chất của anh là thế, liệu có thay đổi được không anh? Tại sao anh cứ
phải sống cuộc đời người khác chứ không phải sống cuộc đời của chính
mình? Hãy thử sức lần cuối cùng xem anh? Hãy dũng cảm thách thức và
đượng đầu với số phận. Em tha thứ cho anh tất cả. Bây giờ cho dù cả nỗi
tuyệt vọng của thời đại cũng không dừng lại trước mồ em. Anh về đi, trời
tối rồi đấy.
- Cám ơn em. Ngay khi em chết rồi, vẫn cứ còn độ lượng.
Em chính là ngọn lửa thiêng, là niềm tin yêu gọi anh bươn bả đi về phía trước. Anh sẽ đi, sẽ dắn thân vào hành động để tìm cho ra vẻ đẹp của lẽ phải. Anh tin rằng ở nơi đó, có trái tim em trong ngực mình.
-
Nếu được như vậy, em sẽ còn có mặt trong đời sống của anh. Em sẽ vui vì
mình vẫn tồn tại sau khi chết. Sau cuộc chiến tranh này, em tin rằng
thời đại sẽ bớt khắc nghiệt hơn. Lý tưởng của chúng ta ai dám bảo là
không tốt đẹp? Nhưng cái thực sự tốt không chỉ là những lời hứa suông,
những chiếc bánh vẽ dụ khị kẻ ngây thơ. Chả lẽ, thời đại chúng ta, đất
nước chúng ta, cách mạng của chúng ta lời nói và việc làm lại không có
khả năng đi chung đường như anh với em, như tình yêu và đảng? Bây giờ.
giữa anh và em, mãi mãi là mối quan hệ giữa sống và chết. Bản tính con
người bao giờ cũng sợ chết cả. Chỉ có tình yêu họa may mới có thể chiến
thắng được điều đó. Em mong anh tìm được tình yêu ấy.
- Nhưng em đâu còn nữa.
- Thì anh vừa nói rằng trái tim em trong ngực anh đó sao. Cám ơn em đã cho anh niềm hy vọng.
- Tạm biệt em.
- Tạm biệt anh.
Trước
khi tắt, hoàng hôn bỗng hát lên một vầng sáng khác thường, như hơi thở
lần cuối cùng của con người trước khi an giấc nghìn thu. Cái luồng sáng
cuối cùng cố gắng chống chọi với bóng đêm đang đến chừng nào hay chừng
ấy, phủ lên quả đồi cát mọc đầy dương liễu và phi lao một màu vàng nghệ.
Con người thường dùng nghệ để xát lên vết thương đang ăn da non, đặng
xóa đi vết sẹo mai sau. Nhưng cái ánh hoàng hôn của mặt trời dù mỗi ngày
lại xát màu nghệ vàng lên nghĩa trang, hy vọng vết thương của quả đồi
sẽ lên da non. Nhưng đối với người đàn ông ba mươi bảy tuổi đang quỳ bên
nấm mồ mới đắp này, dù có lấy toàn bộ số nghệ của thế gian, cũng không
sao làm cho vết thương quả đồi là nấm đất này lên da non được. Năm tháng
sẽ qua đi, nhưng với chàng, nỗi đau này còn lại.
Nàng
ba mươi sáu tuổi, một nữ bác sĩ còn trinh bạch đã tình nguyện rời Hà
nội vào phục vụ tuyến lửa Vĩnh Linh Quảng Bình từ đầu năm 1965, nơi
không quân Mỹ ngày đêm đánh phá ác liệt. Trước đây gần chục ngày, nàng
đến chỗ vừa bị đánh bom, cấp cứu cho mấy ca bị thương nhưng không được.
Lập tức, máy bay Mỹ trở lại dội bom. Nàng chưa kịp vào hầm trú ẩn thì
một mảnh bom bằng bàn tay tử thần xuyên qua ngực nàng. Người con gái đẹp
người đẹp nết, vị nữ bác sĩ giỏi giang đã vĩnh viễn nằm xuống đất này
khi vừa tròn ba mươi sáu. Người ta đã chôn cất nàng cùng với những người
hy sinh hôm ấy trên quả đồi cát bên đường mọc đầy dương và phi lao.
Lúc
đó, chàng, một nhà báo tình nguyện vào Quảng Bình đã biết tin nàng đang
phục vụ một bệnh viện dã chiến. Chàng luôn luôn theo sau nàng, tuy
không hề lộ mặt, như nhà thám tử Sê Lốc Hôm đi truy tìm trái tim mình bị
thất lạc. Chàng âm thầm đi sau nàng như đi theo số phận của mình. Nàng
không hề quay lại vì nàng sợ quá khứ. Nếu quay lại sau lưng, biết đâu
nàng đã nhìn thấy chàng lẽo đẽo và tội nghiệp làm cái đuôi của chính
mình. Nàng với chàng, phải chăng là mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể,
giữa một người và mọi người, giữa cái tôi và cái ta. Người ta, có lúc
đã dạy chàng: cái tôi không phải là cái ta. Nàng, hay tình yêu của nàng
chính là cái tôi đáng ghét. Tình yêu của họ dù mạnh hơn cái chết, nhưng
éo le thay, nó lại không thắng được nỗi sợ. Chàng sợ cái tôi bị xóa sổ
nên đã chia tay với trái tim mình để nhập vào cái ta lớn lao quần thể.
Đến khi chàng phát hiện ra rằng, cái tôi kia chính là cái ta, tình yêu
kia chính là lý tưởng đời chàng thì sự thể đã quá muộn. Khi nghe nàng hy sinh,
chàng đang ở cách đó hơi xa, đã đi bộ, đã chạy từng đoạn, đã nhờ xe, đã
vượt qua bom đạn đêm tối để mau kịp đến, hy vọng được nhìn thấy mặt
nàng ở phút cuối cùng. Nhưng chàng đã chậm trễ. Người ta đã chôn cất
nàng. Chàng không khóc lóc vật vã. Chàng im lặng tìm hoa dại và khó nhọc
đi kiếm được ít nén hương về thắp bên nấm đất này. Chàng ngồi bên cạnh
nàng như vậy suốt mấy ngày, cứ lặng im như một pho tượng đá. Qua lớp
đất, chàng nhìn thấy nàng rõ nhất, thấu suốt tận tâm hồn. Như một sự
thôi miên đầy quyền phép, chàng thấy nàng vừa từ bỏ giấc ngủ miên viễn,
vén mái tóc dài, ngồi dậy bên chàng như ngày xưa bên bờ suối Việt Bắc xa
xôi. Hay đấy chính là chàng đang nhìn vào đáy nỗi cô đơn, nhìn vào đáy
vô thức của mình và gặp nàng trong đó. Sống, phải chăng là sự hóa thân liên tục?
Bằng tình yêu, con người phân thân, được hoán vị thân xác
và tâm hồn mình với tha nhân, với kẻ khác. Có khi, chúng ta được sống
trong kẻ khác nhiều hơn, mãnh liệt hơn, sâu sắc và đam mê hơn rất nhiều
trong chính bản thân mình. Còn chính bản thân chúng
ta, đôi khi, oái oăm thay, lại rất tẻ nhạt, vô hồn, rỗng tuếch như một
hình nhân. Có khi, cuộc đời người khác âm thầm sống trong chúng ta, làm
nên cái phần lớn hạnh phúc và đau khổ, thành công và thất bại của chính
chúng ta mà chúng ta chẳng nhận biết. Có khi, chúng ta chợt phát hiện ra
rằng, tâm hồn mình mang gương mặt người khác, một gương mặt rực rỡ tươi
đẹp đến phát choáng ngợp, đến phát sợ. Chúng ta, có khi bèn chối bỏ và
xua đuổi gương mặt ấy, cũng có nghĩa là chúng ta chối bỏ chính tâm hồn
mình, chính tình yêu của mình. Đừng xua đuổi và chối bỏ vẻ đẹp, sự hoàn
thiện của những người khác trong tâm hồn của chúng ta. Bởi vì bằng tình
yêu hay sự thù ghét, bằng cái thiện hay cái ác, chúng ta luôn luôn thâm
nhập vào thế giới nội tâm của bao người và ngược lại. Hãy để lài tình
yêu, vẻ đẹp, sự thiêng liêng của đời sống trong tâm hồn của kẻ khác, và
hãy mang theo những gia tài như vậy của họ để làm nên chính đời sống
chúng ta. Nói cho cùng, con người là một sinh vật ký sinh, cộng sinh, đa sinh kỳ
diệu nhất. Cái có khi chúng ta tưởng là chính mình, rốt râo lại không
phải, lại chỉ là những mảnh vỡ vẻn của tha nhân họp lại. Suốt cuộc đời,
có khi chúng ta nói thầm với mình: tôi đang sống vì kẻ khác, cho kể
khác, xả thân, hy sinh cho nhân quyền xã hội, kỳ thực, chúng ta đang sống cho chính bản thân mình, vì chính bản thân mình.
Chỉ tình yêu mới có khả năng hòa đồng hai yếu tố đó vào một, như qua
trái tim mình, dòng máu đen lại là dòng mău đỏ và ngược lại. Ta hay
mình, mình hay ta, không còn được đặt ra nữa khi con người có tình yêu.
Đang có hai thân xác,
hai tâm hồn, một đang nằm dưới mộ và một trong lòng chàng. Một nửa cuộc
đời đang hóa thành cát bụi, một nlĩa đang hóa thành đời sống, nhân
cách, nỗi đau, niềm vui sống trong bản thân chàng.
Chàng vừa nhận thức ra những điều trên khi ngồi bên mộ nàng. Tiếng nói
của nàng cắt lên từ một thế giới vô thanh, vô sắc, vô hình, vô thức. Một
thế giới vô thủy vô chung, ch ỉ tình yêu và cái chết mới có thể chạm
tay vào được. ỡ, cái thế giới đó ở trong chàng. Từ trước tới giờ, chàng
cử tưởng nó ở đâu xa lắm, hoàn toàn không thể với tới được. Hóa ra, tất
cả vũ trụ, mọi vực thẳm hư vô, những cái vô bờ bến ấy đang ở trong
chàng. Suốt cuộc đời, con người phải kiếm tìm mình bằng cách hướng
ngoại, cũng chính để nhằm tìm ra phương cách hướng nội giản dị nhất để
tới được thế giới tâm linh của mình. Cõi ấy, mới là cõi đích thực. May
thay, nhờ có nàng, cuối cùng, chàng đã phát hiện ra cái thế giới bí ẩn
muôn màu sắc, muôn âm thanh vô cùng sống động ở trong chàng. Hóa ra,
bằng tình yêu và nỗi khổ, nàng đã vào cái thế giới bí mật của chàng
trước chàng. Bây giờ, từ cái thế giới đó chứ không phải dưới nắm mộ bé
nhỏ, nàng trìu mến nhìn chàng và hỏi:
- Anh ơi, từ nay, ai là người sống tiếp cuộc đời em, để làm cho nó không biến khỏi mặt đất?
-
Chính anh, bằng tình yêu, sẽ sống tiếp cuộc đời của em, cố gắng chống
chọi lại hư vô, để giữ em lại mặt đất. Em tin như vậy, cố gắng tin như
vậy. Vì em biết ngay cả lúc chối bỏ em, anh cũng vẫn dành tình yêu tuyệt
vọng cho em. Người ta càng cố xóa bỏ em trong anh, em càng tồn tại.
Người ta có thể lãnh đạo được đời sống vật thể con người, đưa nó vào
khuôn phép tổ chức. Nhưng đời sống nội tâm, đời sống tinh thần thì không
thế. Vị lãnh tụ, ngài thống soái của thế giới tâm linh kia chỉ có thể
là tình yêu thôi anh nhỉ? Đúng đó em ạ. Em hãy yên nghỉ bình yên, cuộc
đời em đang đập trong ngực anh từng giây từng phút.
-
Nhưng một mai, anh cũng sẽ phải chết đi. Lúc đó, đời sống tinh thần của
em, tình yêu của em cũng sẽ phải chết trong anh. Rốt ráo, không trước
thì sau, em cũng sẽ phải biến mất khỏi mặt đất. Sẽ không còn một ý nghĩ,
một nỗi nhớ, một hình ảnh, một rung động, một chết mảu thịt nào mang
tên em, mang gương mặt em.
- Khi đó, đứa con trai và con gái anh sẽ sống tiếp, cuộc đời anh sẽ mang hình ảnh em sống trong tâm hồn chúng.
-
Chuyện đó không thể nào xảy ra. Vì chúng nó không phải là con của em.
Em không đẻ ra chúng nó bằng tình yêu của anh. Đừng nói với em điều đó.
Em chết rồi, anh đừng tiếp tục lừa dối em.
-...
-
Sao anh im lặng thế? Thiên chức của người đàn bà là được làm mẹ. Họ chỉ
được bất tử trong con cái mình. Ai đã cướp mất sự bất tử của em hả anh?
- Anh.
- Không phải.
- Tổ chức?
- Không phải.
- Trái bom Mỹ?
-
Phải mà không phải. Vì hồi đó, nếu tổ chức không cấm cản chúng mình, em
được yêu, được lấy anh làm chồng, đến bây giờ ba mươi sáu tuổi, ít nhất
em cũng đã có một bầy con hai ba đứa. Và như vậy, mảnh bom Mỹ chỉ cướp
mất thân xác em chứ không thể cướp mất sự bất tử của em được.
-...
- Sao anh không trả lời em? Những người sống các anh hay thật, khi không còn lý lẽ nữa thì trả lời bằng sự im lặng.
Chàng
khóc. Một giọt lệ bé như hạt sương bật ra từ khoé mắt đã xơ cứng của
chàng. Nhưng sự im lặng của thế giới này không có nước mắt. Sự im lặng
thật phi lý và phi nghĩa đang đối diện với tiếng nói của nàng. Chân lý
không trả lời bằng im lặng. Chân lý sẽ trả lời nàng, trả lời chúng ta
bằng hành động hướng thiện, của sự hình thành nhân cách nhân loại trong
nỗi thổng khổ tận cùng của cõi sống. Con người cần phải đối thoại với
quá khứ, lục vấn quá khứ, cho dù quá khứ ấy im lặng một cách đáng sợ.
Hãy hỏi quá khứ, hỏi nỗi đau khổ của nàng về sự biến mất hình ảnh của
tương lai trong hiện tại. Chúng ta đang đi về tương lai hay đang ngược
lại quá khứ? Chàng có dám thay nàng làm nhà giải phẫu, một người bác sĩ
tận tụy? Có khác chăng nàng giải phẫu bằng dao kéo, còn chàng, phải dùng
ngòi bút để giải phẫu căn bệnh thời đại. Có đại ngôn và huyễn hoặc lắm
chăng hỡi những nấm đất mang tên mỗi con ngưởi nằm rải rác suốt hành
trình lịch sử? ánh sáng hắp hối của hoàng hôn đã tắt. Cát đang trang
xóa, chợt vàng dần như da người sốt rét, rồi đen thẫm lại tất cả. Thiên
nhiên đang thay đổi màu áo cho mọi thứ, trừ nàng. Nàng không hóa thành
thiên nhiên. Nàng cao hơn thiên nhiên, cao hơn quả đồi này, cao hơn
những thước đo giá trị của đời sống. Nàng đã đến thế giới này để yêu
thương nhưng đã bị thù ghét. Nàng đã đến thế giới này để chung thủy
nhưng đã bị phản bội. Nàng đã đến thế giới này để được làm đàn bà, nhưng
mãi mãi nàng vẫn chỉ là một cô gái. Cái chết đã cướp đi sự trinh tiết
của nàng. Nàng đến cuộc đời này để làm mẹ, làm vợ, làm bà nhưng tình yêu
tuyệt vọng đã không cho nàng ân sủng ấy. Nàng đến đây để bất tử, để
không phải biến mắt, nhưng nàng đã chết, phải hóa thành nắm đất cô đơn
vô nghĩa này. Cho dù tất cả tình yêu của đàn ông dần về đây cho nàng,
cũng không đủ sức giúp nàng sống dậy được nữa.
Chàng
đứng lên vĩnh biệt nàng. Sớm mai, chàng lên đường về nơi công tác. Chỉ
còn nàng nằm lại đây với thế giới này mãi mãi. Hình như có tiếng nàng
vọng ra:
- Anh đừng vĩnh biệt em.
- Không, em thân yêu.
Giữa chúng ta không có sự vĩnh biệt. Có bao kẻ đang sống đấy thôi nhưng
thực sự họ đã vĩnh biệt nhân cách mình, vĩnh biệt điều tốt đẹp, vĩnh
biệt lý tưởng cao cả mà họ chỉ theo bằng cái mồm. Em vẫn luôn luôn ở
trong anh, ở phía trước anh, ở phía sau anh, nâng anh lên sự tốt đẹp
trên đời Oanh ạ.
Ly Thân
Chương 13
Cuối năm 1974, trước chiến dịch
Hồ Chí Minh, tại chiến khu miền Đông Nam bộ, với cương vị phóng viên
chiến trường kiêm nhà văn quân giải phóng, một đơn vị mời tôi dự buổi
tổng kết trao đổi kinh nghiệm về công tác chính trị viên đại đội sau
trận thắng Phước Long vừa qua. Bỗng một anh cán bộ dự hội nghị đến bên
tôi hỏi:
- Chào chú nhà văn. Chắc chú quên cháu rồi phải không?
Tôi vắt óc nhở mãi không ra người này là ai. Cuối cùng, anh chính trị viên đại đội trẻ tuổi này đành phải tự giới thiệu:
- Chú có nhớ một buổi chiều ở công viên thị xã tỉnh X. không?
- Chịu.
Chú có nhớ câu chuyện về tác phẩm Lúa reo bị cháu chê là không hay, là giả không?
Tôi cười vang:
- Nhớ
rồi, nhớ rồi, chào ông con của nhân dân. Tôi mời đồng chí về lán tôi
chơi một chút có được không? Anh bạn trẻ cũng cười vang nhận lời. Tôi
kéo người bạn xưa về lán của mình ở cơ quan cục chính trị mặt trận. Tôi
pha trà, lấy thuốc lá Sông Cầu ra mời người bạn cũ. Chúng tôi vui vẻ nói
đủ chuyện về xã Thành Công, quê hương của anh ta và là nơi tôi từng
thâm nhập thực tế viết tiểu thuyết.
Tôi vui vẻ hỏi:
- Nào anh chính trị viên đại đội, bây giờ thì đồng chí có tên rồi chứ.
- Dạ,
chả nói giấu gì chú, tên cháu là Nguyên, Trần Khuất Nguyên ạ. Này, tên
hy đấy. Nhưng nếu không có cái họ Trần gan đằng trước, người ta lại nghĩ
cậu là tâc giả Ly Tao đấy.
Nguyên cười rổn rảng, uống trà, hút thuốc thật tự nhiên:
- Thực
ra tên khai sinh của cháu là Trần Nguyên. Nhưng đến khi làm thơ, khi đi
bộ đội, cháu khoái ông Khuất Nguyên bên Tàu quá, bèn ăn cắp chữ Khuất
của ông làm tên lót của mình. Thành thử, nó cứ vận vào người thể nào ấy
chú Hưng ạ. Cái ông Khuất Nguyên xưa sống thẳng lưng không chịu khuất.
Thiên hạ ngủ cả thì cụ lại thức, thiên hạ đục thì mình cụ trong, thành
ra cái số của cụ bị đời nó triệt. Nói như ngôn ngữ bây giờ, cụ là kẻ
không biết hòa mình với tập thể, sống không đồng bộ với khách quan, nên
cuối cùng đành phải nhảy xuống sông Mịch La mà chết cho nó thẳng thắn
cái con người. Nếu cụ cứ tiếp tục sống, thời cuộc nó nhất định bễ cụ
cong như con tôm cho coi. Mày dám trong khi chúng ông đục hả? Dám thức
khi các quan ngủ hả? Láo. Cho đến bây giờ gần ba nghìn năm rồi mà cụ vẫn
thẳng đuột như cái thước vậy chú Trần Hưng ơi.
- Ôi, sao cậu tự nhiên dốc ra triết lý kinh thế? Chắc học giỏi văn lắm hả?
- Cũng
đỡ chú ạ. Báo cáo chú năm 1967, cháu thi học sinh giỏi văn đứng thứ nhì
miền Bắc đấy. Nhưng không có giải nhất thì nhì cũng có nghĩa là nhất
chú nhỉ?
- Sao hồi đó cậu bảo tớ là cậu học trung cấp kỹ thuật?
- Cháu
phải cắn răng nói dối chú vì kẹt. Nếu cháu khai đúng tên tuổi, trường
lớp, chú về xã Thành Công hỏi, cán bộ xã họ biết cháu tâu sự thật với
chú, có mà đời cháu chỉ có nước đi theo hà bá. Hồi gặp chú, cháu mới
mười lăm tuổi, học lớp bảy, lên tỉnh thi học sinh giỏi văn lớp bảy toàn
quốc.
- Cậu học giỏi thế sao không đi đại học?
- Ôi,
vô thế quái nào được chú. Ngày xưa học tài thi phận nhưng bây giờ học
tài thi lý lịch chú ạ. Nghe đâu mẹ cháu là con ông lính lệ ngày xưa. Bộ
giáo dục, ty giáo dục đều bảo cháu: em đứng sợ, học giỏi thế, bét cũng
vào được đại học văn khoa. Cháu tí tửng chờ giấy gọi đại học nhưng cuối
cùng đành tuyệt vọng. Ông trưởng công an nội chính phê cuối bản tự khai
lý lịch của cháu: lý lịch xấu, không thể vào đại học. ở các địa phương,
công an mới là người thực sự lãnh đạo chú ơi. Mẹ cháu khóc suốt một
tháng ròng. Bà cứ dọa can lưỡi chết cho rồi. Vì bà đã làm lụng vắt vả
suốt đời, mong cái thằng con trai theo bà là học giỏi nhất nước được vào
đại học, sau này có danh có phận, đỡ phải chân bùn tay lấm như bố mẹ.
Trong khi đó, con em mấy ông cán bộ xã học dốt đặc cán mai vẫn được gọi
đi đại học nước ngoài. Suốt một năm ở nhà, tay chủ nhiệm hợp tác xã học
mới lớp một nên chúa ghét mấy thằng học cao, hắn đì cháu muốn chết, đưa
cháu vào cái tổ nhào phân bắc để trộn đất bột bón lúa. Khi kẻ dốt nát có
quyền, sự tự ti mặc cảm sẽ đẩy họ tới thành độc ác. hắn tuyên bố: cái
thằng Khuất Nguyên, khuất mắt kia, mày học giỏi nhất nước hả, ông cho
mày biết thân,
về đây cứ là đi bốc cứt cái đã. Cháu phải làm một công việc kinh bỏ xừ
đi ấy. Ngày nào cũng cùng vài ba người đến nhà xã viên, khui hổ xí, lấy
thùng phân bắc còn tươi nguyên đưa ra đồng nhào với đất bột. Tất cả mọi
động tác đều làm bằng tay cả chú ạ. Mỗi trưa chiều về, châu dùng lá ổi,
lả mơ, lả chanh, phèn chua, bờ hòn, xà phòng đủ cả, đánh tay cả tiếng
đồng hồ đến rớm máu, đến bóc cả da tay đi nhưng cái mùi kinh khủng như
mùi xác người chết vẫn cứ bám lấy không chỉ hai bàn tay mà còn thắm vào
khắp da thịt. Có những sự thật không cách gì bịa nổi cho dù có đầu óc
hay tưởng tượng như chú đi nữa.
Tôi phục tính khí bộc trực của Nguyên, thông cảm với cuộc đời lận đận của cậu ta. Dường như lúc liên hoan, Nguyên có uống vài ba ly rượu
nên hơi ngà ngà. Vốn tính tình cởi mở, lại có tí hơi men, gặp người gặp
cảnh, cậu ta bèn trút bầu tâm sự như mùa thu trút lá. ừ, mang cái bầu
tâm sự trong người mãi, có nước vỡ bụng ra mà chết thôi. Cứ để cho cậu
ấy tự bộc bạch mình. ít ngày nữa Nguyên ra trận, biết đâu lại không còn
cơ hội kể lể về mình với người khác. Tôi hỏi tiếp:
- Nguyên đi bộ đội năm nào?
- Dạ,
năm 1968. Cuối năm 1967, cháu tình nguyện đi bộ đội vào Nam chiến đấu
nhưng xã không cho. Tay chủ nhiệm hợp tác xã bảo tay xã đội: nó kiêu
lắm, cậy học cao, khinh cán bộ ta ít học, lại lý lịch xấu, cho gánh
phân, bốc cứt vài năm cải tạo đã. May thay, cháu có một người bà con
trên tỉnh đội. Cháu phải cắt máu tay làm đơn xin đi bộ đội vào Nam, rồi
lên tỉnh đội, đi cửa sau, nhờ người quen can thiệp mới được thoát khỏi
cái xã Thành Công oái oăm của chú đó. Chú thấy lạ không? Đi vào chỗ bom
đạn, chết chóc mà phải nài nỉ, phải viết đơn bằng máu. Còn xã Thành Công
của Nguyên từ hồi ấy ra sao?
- Dàn
cán bộ gồm các ông Tấn, Thêm, Nhất, Phát... những nguyên mẫu văn học
của chú, những thần tượng của Lúa reo đổ lâu rời chú ạ. Tấn, Thêm bị mất
chức vì ăn cắp của công quá nhiều, lại còn tội hủ hóa với mấy cô, mấy
bà vợ bộ đội, nên đã bị khai trừ đảng. Ông Nhất, Phát công an xã đi tù
về tội đánh chết người. Cháu nói thật nhá, giá bây giờ cháu có cuốn Lúa
reo của chú để đọc cho anh em chiến sĩ nghe để cười vỡ bụng, đỡ phải làm
công tác chính trị chú ạ. Tuy cay đắng và xấu hổ, nhưng tôi đành phải
thú nhận trước Trần Khuất Nguyên, anh chính trị viên đại đội trinh sát
dũng cảm này:
- Cám ơn Trần Khuất Nguyên nhiều. Chính nhờ vô tình gặp cháu ở công viên thị xã mà chú có dịp soát lại bản thân mình,
so sánh sách vở và đời sống, nói và làm, thật và giả, lương tri và đê
tiện. Chú đã nhận thấy mô hình Thành Công của đời mình là thắt bại. Lúa
reo chỉ là cuốn truyện giả tạo, đi ngược lại sự thật đời sống. Sự thật
dù bé nhỏ, dù lễ loi, dù có cơ phải lẩn trốn như Nguyên lúc đó, sớm muộn
gì rồi cũng trở thành sức mạnh chiến thắng.
Ly Thân
Chương 14
Xếp của tôi, một quan chức van
nghệ có cỡ, gọi tôi lên nhân chuyện tôi xin về Hà nội thăm gia đình. Ông
hơn tôi mười tuổi, cỡ năm mươi
tám, người nhỏ thó nhưng bụng lại phệ, mặt mũi hồng hào, luôn có nụ
cười nửa mùa trên mép, hay xét nét người khác nhưng lại làm vẻ hào phóng
và độ lượng. Ông ta thuộc loại nhà văn hạng ba, tức là dưới tôi một
hạng. Tuy nhiên, vì ông làm lãnh đạo, nên đương nhiên được xếp vào hạng
nhà văn thứ nhất. Tuy văn ông ta dở lắm, song le lại cứ thích sửa văn
cho tôi. Rằng cậu viết thế này chưa sâu, chưa đạt được tầm cao tư tưởng
thời đại. Rằng đoạn này cần phải say khướt thì cậu lại đánh queo, đoạn
kia cần lạnh lùng sắc sảo thì cậu lại tít cung mây...
Ông chưa thấy tôi vô đã cười hì hì:
- Đã quá Trần Hưng ơi. Chín năm xa
vợ con, chuyến này về chỉ có nước cảm động ngất xỉu luôn. Chúng tớ bố
trí cho cậu đi máy bay đây. Nhà văn nổi tiếng cần phải bay trên bầu trời
đất nước sau ba mươi năm chiến tranh chứ.
- Tôi đi máy bay rồi anh Ba ạ. Nhưng bây giở tôi xin đi đường bộ, có người bạn ra Hà nội cho đi nhờ xe con.
- Dại, máy bay không đi, lại đòi đi ô tô.
- ấy cũng đến xin anh cái giấy đây.
- Giấy tờ ông chúng tôi làm đủ rồi mà.
- Anh cho tôi xin cái giấy giới thiệu với địa phương Quảng Bình xin xây mộ cho người thân.
- Ai vậy?
- Em gái.
- Viết liền, tên gì?
- Vũ Thị Oanh, liệt sĩ bác sĩ hy sinh năm 1965.
- Cậu họ Trần cơ mà.
-
Vậy thì cứ bắt tất cả em tôi đều họ Trần như tôi ư? Báo cáo anh Ba,
Oanh là em con cô con cậu ruột, lại là con nuôi của bố mẹ tôi. Thành ra
hai lần em đấy.
- à!
Tôi
phải nói dối mới xin được cái giấy giới thiệu xin phép xây mộ cho người
yêu. Mừng quá. Tôi toan chào xếp mai lên đường thì ông bảo:
- Ưu tiên cho cậu đây. Đảng đào tạo cán bộ quản lý văn nghệ.
Xếp giúi vào tay tôi cái giấy cho đi học trường chính trị trung cao cấp ngắn hạn hai năm.
Tôi
giật bắn người. Tôi mà lãnh đạo thế chó nào để được đi đào tạo. Chắc là
trung ương ép xuống, chẳng có ma nào chịu đi, người ta đẩy tôi đi cho
yên chuyện. Sài gòn vừa giải phóng, nhà cửa tiện nghi như thiên đường,
dại gì ra Hà nội sống chui rúc chật chội. Từ Đồng Hới, tôi xuống trình
ủy ban tỉnh xin phép xây mộ cho người thân.
Trước khi đi, tôi đã lấy được tiền nhuận bút hai cuốn sách một vừa in
ngoài Hà nội, một vừa in trong Sàigòn. Từ Đồng Hới, tôi qua các chặng
xuống huyện rồi xuống xã, và cuối cùng
đã tới quả đồi có Oanh yên nghỉ. Oanh vẫn nằm đó, chẳng đi đâu. Nấm mộ
chỉ còn khum khum như một cái mu rùa, giống hình cái mũ cối gài lá ngụy
trang. Tấm bia bằng gỗ đã mục, chỉ còn trơ ra một cái cọc đen đen như
bàn tay cái chết chìa lên xin phát biểu ý kiến. Tôi đã già đi, bốn mươi
tám tuổi rồi. Nàng thì vẫn ba mươi sáu tuổi, trẻ mãi. Trong thời gian
xây mộ cho Oanh, tôi ở trọ trong nhà một người đàn bà góa, tuổi cỡ chưa
đến bốn mươi nhưng già xọm đi trước tuổi nhiều.
ở
cái làng cát Quảng Bình gần ngã ba quốc lộ này, hầu như đàn ông thanh
niên đã hy sinh gần hết, hoặc đi đánh giặc chưa kịp về, nên toàn chỉ có
đàn bà con gái. Tôi ở bên cạnh Oanh, chờ cho ngôi mộ xây khô cứng mới
trở ra Hà nội. Tôi tìm đến căn phòng cách đây chín năm tôi
đã ra đi.Tôi gõ cửa và hồi hộp chờ đợi. Một cô bé mười lăm tuổi xinh
xắn, mắt to đen nhánh, lặng đứng nhìn tôi. Tôi suýt ứa nước mắt: con gái
mình đây. Gương mặt của nó đúc ra từ gương mặt mẹ tôi. Tôi sung sướng
đến lặng người. Hóa ra mẹ tôi đã sống lại trong cô cháu nội này. Tôi vẫn
đứng lặng. Đứa con gái nhìn tôi trân trân:
- Thưa, bác hỏi ai ạ?
Nó không nhận ra cha mình. Khi tôi đi, con bé mới lên sáu tuổi. Tôi lặng người một lúc, bỏ ba lô xuống hỏi bình thản:
- Mẹ với anh Văn đâu?
Nó vẫn không nhìn ra bố mình:
- Thưa bác, mẹ cháu đi công tác dưới tỉnh tháng sau mới về. Còn anh Văn đi đă bóng ạ. Tôi không còn bình tĩnh được nữa, hỏi:
-
Vương Thi, con không nhận ra bố à? Nó ngước mắt nhìn tôi chớp chớp.
Đoạn nó khóc òa, nhào đến ôm chầm lấy tôi kêu bố. Hai bố con vào nhà.
Vương Thi vẫn còn sụt sịt:
- Vậy mà mẹ bảo bố không về nữa.
Gần
tối, thằng Trần Văn Văn mới về. Nó đã mười tám tuổi, cao bằng bố rồi.
Nó không tỏ ra cảm động như đứa con gái, mà đối xử với tôi như cánh đàn
ông với nhau. Suốt một tháng trời, tôi sống với hai đứa con thật hạnh
phúc. Chiều chiều, tôi chở Vương Thi trên xe đạp, thằng Văn đạp xe theo,
đi hết phố này đến phố khác. Khi tôi nộp giấy tờ để vào trường trung
cao chính trị thì Ruộng đi công tác địa phương đã về. Ruộng bước sang
tuổi bốn mươi ba. Tôi không ngờ cô lại béo ra đến mức ục ịch thế. Hồi
trước, người thon thả, nhìn Ruộng còn thấy đỡ. Giờ cô phình ra trong cái
tuổi trung niên tứ tuần, trán đã nhăn, cằm đã sệ, hông chẳng còn một tị
eo óc, y như một bà nhà quê ra tỉnh bán bánh đúc mắm tôm. Gặp lại chồng
sau chín năm xa
cách, Ruộng không khóc, không cười. Cô cũng không tỏ ra mừng rỡ quá hay
lạnh nhạt quá. Cô chăm sóc chúng con hết nghĩa vẻ người vợ. Nhìn cô,
sao tôi luôn luôn nghĩ đến nắm mồ của Oanh. Tôi buồn buồn nhưng không tỏ
ra lạnh lùng với cô, tội nghiệp. Xét ra, trong thời gian tôi đi B, cô
có lỗi gì đâu. Cô nuôi nấng dạy dỗ con cái học hành đến nơi đến chốn.
Nhưng nghĩ đến cuốn nhật ký ngày xưa, tôi thấy cô mà ghê ghê sờ sợ. Hay
cô là công an mật vụ chìm được cấp trên gài vào giả vờ làm vợ để theo
dõi tư tưởng và hành tung của tôi? Tôi mừng cho sự tiến bộ của Ruộng. Từ
một cô gái học lớp bốn bình dân học vụ hồi cải cách ruộng đất, giờ đây
cô đã có bằng đại học chính trị, đã là cán bộ đảng với chức vụ khá cao,
từng sang nước ngoài nghiên cứu sinh, từng đi các địa phương giảng chính
trị. Địa vị xã hội của cô đâu phải chuyện đùa. Vậy mà, cái số cô đen
đủi, tổ chức lại làm mai cho để lấy phải cái thằng tôi. Cái thằng mà
trái tim nó đã trót tặng cho một cô gái khác. Nếu Ruộng lấy một người
khác chứ không phải tôi, chắc chắn cô đã có hạnh phúc. Chỉ tại ông Tổ
chức xe lầm duyên cho cô. Tôi biết Ruộng yêu tôi thực sự. Vì vậy, cô mới
khổ sở vì ghen tuông với Oanh. Đêm đầu tiên sau chín năm xa
cách, nằm bên vợ mà hần vía tôi để ở cái đời cát Quảng Bình. Nghe vợ
nói ríu ran bên tai mà tôi chỉ thấy Oanh. Cô may một bộ đồ pigiama màu
đỏ rực, còn mới toanh, bảo chờ tôi về mới mặc. Cô bảo màu đỏ này là màu
cách mạng, mặc nằm ngủ bên chúng con sẽ ấm áp hơn. Ruộng bảo cái thứ
váy, rốp hớ hênh chỉ dành cho bọn bóc lột. Rằng giai cấp vô sản là cứ
phải kín đáo, dứt khoát không có khoe đùi hay khoe vú như mấy con nặc nô
tư sản. Trong những lời tâm tình với chồng con, vợ tôi thường dùng
những từ ngữ của các bài giảng chính trị. Chẳng hạn khi sinh hoạt, ăn
uống, cô hay xài mấy từ như tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn nọ... Người đi
theo lý thuyết về sự công bằng xã hội nhưng lại đẻ ra quả nhiều thang
bậc khi hưởng thụ như sổ nọ, sổ kia, phiếu A, phiếu B, ưu tiên một, ưu
tiên hai, cho đến ăn uống miếng thịt miếng cá còn chia ra tiểu táo,
trung táo, đại táo... từ bệnh viện, cửa hàng, nhà ăn, phòng chiếu bóng,
sân khấu cũng đều theo cắp bậc sang hèn thì lạ thật. Tôi như một tảng
băng nằm bên cạnh bà vợ sồn sồn.
Nửa đêm, Ruộng ôm lấy tôi khóc. Tôi hiểu lắm chứ. Bốn mươi ba tuổi đầu, xa chúng đã chín năm nín nhịn. Giữa cái tuổi hời xuân bốc lửa, lại có phần béo tốt khỏe mạnh, sự khao khát hạnh phúc bao năm như
ngọn thác bị chặn lại. Giờ thác vỡ bờ là cái lẽ dĩ nhiên. Tôi tự rủa
mình: mày là đồ tàn nhẫn, chẳng ra mặt đàn ông. Cô ấy có phải là vợ mày
đâu nào. Cô ấy giờ chỉ còn là nắm đất. Vợ mày đó, kẻ như đang chết đuối
trên biến hạnh phúc vừa nam tay được vào cái cọc kia. Nhưng không phải
cái cọc mà là một sợi bún, Ruộng đang có cơ bị chết đuối thật sự. Nước
mắt của vợ đã làm tảng băng của tôi tan dần. Tôi an ủi, động viên khen
ngợi cô. Tôi lau nước mắt cho cô, rồi hôn hít vuốt ve, tình tứ lắm.
Người Ruộng bồng bềnh như một núi hla. Nbưng trời ơi, sao tôi vẫn là một
tảng băng, là một sợi bún? Suốt hai tiếng đồng hầ, dù tôi cố hết sức
mình, dù Ruộng có vuốt ve động viên tôi rất dịu dàng, mùi mẫn, tôi vẫn
không sao làm được chuyện đó với cô. Gần hết đêm đó, vợ tôi đã dùng hết
cách, tôi đã dùng hết cách, đã tập trung lấy lại nội lực, đã tự nhiên,
đã bình tĩnh nhưng tôi vẫn chẳng làm được cái nghĩa vụ cuối cùng của một người chồng đối với vợ sau chín năm đi
B. về. Hai ngày hôm sau cũng vậy, dù vợ tôi mua bao nhiêu trứng gà con
so, cả huyết chim sẻ về pha rượu cho tôi uống, nhưng người đàn ông trong
tôi vẫn không chịu thức dậy, vẫn lịm ngủ như một con gà rù. Đến ngày
thứ ba thì Ruộng hỏi:
- Sao vậy anh?
- Anh đâu có biết.
-
Hay là vì anh không yêu em nên nó không hứng khởi, không lên được... Em
biết anh chỉ thương hại em mà thôi. Anh đâu có yêu gì em.
Tôi
vừa buồn vừa tức, vừa xấu hổ với vợ. Ruộng lại khóc thút thít. Tội
nghiệp Ruộng quá. Dù sao, cô ấy cũng là vợ tôi, đã sinh cho tôi hai đứa
con đẹp đẽ khỏe mạnh. Trước nay tôi là người đàn ông bình thường cơ mà?
Hay là, do chín năm ở
rừng rú, đói khát, sốt rêt, bệnh tật, cộng với một tâm lý đau khổ tự
dằn vặt khôn nguôi về nỗi bất hạnh của hai người đàn bà tôi đã gây ra,
khiến tôi bị tổn thương về sinh lý, để giờ đây thành ra kẻ bắt lực? Hay
là hồn vía Oanh đã ám tôi, mang toàn bộ sinh lực của tôi về thế giới bên
kia? Ô hay, tôi từng tuyên bố rằng tâm hồn tôi, trái tim tôi đã được
chôn vùi cùng với thân xác Oanh là gì.
Suốt
mấy tuần sau, tình trạng của tôi cũng không khá hơn gì. Nghĩa là người
đàn ông trong tôi vẫn chưa tỉnh thức, vẫn ỉu xìu như bánh đa nhúng nước.
Ruộng buồn bã, đêm nằm khó ngủ, thở dài thườn thượt. Tuy vậy, có lần
Ruộng an ủi tôi, ngay lúc này, tư duy của cô vẫn còn nặng mùi chính trị:
-
Thôi anh ạ, ta sẽ đi khám bác sĩ. Nhưng cần gì chuyện đó, mi~n là ở bên
nhau thôi anh ạ. Giai cấp vô sản sinh ra để làm cách mạng thay đổi thế
giới, chứ không phải để chăm chăm làm cái chuyện chăn gối đáng xấu hổ ấy
đâu.
Ruộng dẫn tôi đến một bà bác
sĩ chuyên về bệnh sinh lý và tình dục. Sau mấy ngày khám xét, bà bác sĩ
bảo vợ tôi về đại thể, bộ máy của thiên nhiên trong tôi hiện tượng thì
có lúc khiếm khuyết thật, nhưng cơ bản mà xét thì vẫn cứ tốt. Tự bản thân,
tôi cũng biết điều đó. Bà bảo Ruộng là do tôi bị mắc bệnh về tâm lý về
thần kinh, cái trí không an nên ảnh hưởng đến đời sống sinh lý. Bà bác
sĩ bảo nhỏ vào tai vợ tôi, sau này cô ấy thuật lại rằng nó chỉ hỏng khi
cần thiết, còn những lúc bình thường, kể cả khi ngủ có khi vẫn cứ chạy
tốt... Điều đó thì tôi xác nhận là hoàn toàn đúng. Ruộng lại tìm cho tôi
mấy ông đông y giỏi nhất Hà nội, cắt cho tôi bao nhiêu thuốc bổ dương,
phù thận. Cô ngâm cho tôi một hũ rượu toàn vị quái quỷ. Nhưng rổt cuộc,
tôi vẫn chẳng làm nên cơm cháo gì. Từ đó tôi thấy tính tình Ruộng dần
dần đổi khác. Cô hay cáu gắt một cách cực kỳ vô lý. Hơi một tí là cô lên
lớp chính trị, chỉnh chồng con ra trò, hét tướng lên như mụ tam bành
ấy.
Hôm tiễn cô đi học chính trị bên Liên Xô, tôi bảo:
-
Em ạ, anh bị như vậy là tội em lắm. Em không có hạnh phúc. Sang bên ấy,
anh cho phép em hoàn toàn tự do. Em cần phải sống cho mình một chết.
Gặp người nào vừa mắt, em cứ tận hưởng đi. Anh mong em được sung sướng.
Nếu sau này về nước, có ai yêu thương, em cứ sống với họ. Anh không hề
có ý kiến ý cỏ gì cả. Anh cho em hoàn toàn tự do.
Vợ tôi gào lên:
-
Anh muốn ruồng bỏ tôi phải không? Tuổi già như tôi, không còn đẹp nữa,
lại làm công tác chính trị thì làm sao còn người nào có thể yêu thương
nổi. Anh xui tôi đi với trai để anh tự do rồi anh xin ly dị
cho dễ à. Trời ơi, chồng ơi là chồng. Anh giả vờ bị bất lực với tôi để
mong tôi chản thả anh ra phải không? Đừng có hòng. Khi nào con Ruộng này
còn sống trên đời, thì chừng đó anh không giở trò trống gì được đâu
nhá. Anh đừng hòng bịp được tôi, đừng hòng thoăt khỏi tay tôi.
Tôi vẫn dịu dàng:
- Nhưng anh thương hại em.
- Không khiến.
-
Anh nói một lần nữa, nếu ai thương em, em cứ việc tự nhiên. Nhất là
sang bên Tây, cái chuyện đàn ông đàn bà nó bình thường như ăn cơm uống
nước ấy mà.
- Ruộng nghiến răng, trợn mắt:
- Anh là chồng tôi mà lại đi xui tôi ngoại tình à? Đồ phản đảng.
Ly Thân
Chương 15
Số tôi rốt cuộc có ai ngờ vậy mà
sướng mới vui chứ. Bạn bè trong ngoài giới gặp tôi bắt tay xong đều chép
miệng: nhất anh. Tôi cười cười nghĩ bụng, không nhất thì cũng cóc có ai
hơn. Điều gì xảy ra mà tôi đã vội vênh mặt lên vậy? ối dào thư thả, tôi
sẽ kể cho các bạn nghe. ở đời, khi cái may nó tới, có lúc ngăn không
kịp, đóng cửa vào, nó vẫn tràn qua khe cửa, thẩm thầu qua tường mà vô.
Lúc đó, chẳng cần anh phải há miệng, sung nó vẫn cứ rụng vào thấu dạ
dày. Từ cuối năm 1979 đến nay, tôi đúc ra được một điều hay lắm: ừ, khi
anh có tài thì cũng tốt đấy, nhưng nếu không nắm được quyền lực trong
tay, cái tài ấy, xin lỗi quý vị nhá, cũng cú coi như đồ bỏ. Bởi vì, nếu
anh không có chức có quyền mà lại cả gan có tài, coi như tự rước họa vào thân. Cứ thể lấy vài ví dụ trong địa hạt văn chương,
cỡ như bác Đỗ Phủ bên Tàu xưa ai dám bảo là không thiên tài nào, người
ta gọi là thánh thi khi bác còn sống đấy. Vậy mà bác thi sĩ Đỗ Phủ đã
phải chết đói trên thuyền. Chung quy bởi vì dù bác là thánh thi chăng
nữa, nhưng không có một tí quyền trong tay, may là không bị chém đầu. ở
ta, như bác Tú Xương tài thơ ai hơn nào? Nhưng suốt đời bác Tú Xương
rách như tổ đỉa, đói khát đến ma chê quỷ hờn vì thi mãi không đậu, nằm
mơ cũng chẳng thấy mình làm quan. Hoặc gần đây, như bác Nguyễn Bính, một
nhà thơ lớn với những dòng lục bát mượt như ca dao, khiến dân gian
thuộc làu như thuộc kinh vậy. Nhưng đời bác Bính trào nào cũng rứa, chỉ
là cái anh không xu dính túi, bị đám cầm quyền hành cho tàn đời, cuối
cùng khi chết, miệng vẫn còn thèm cơm. Tôi có thể lấy ra hàng nghìn dẫn
chứng như vậy không phải để minh họa cho thuyết tài mệnh tương đố đã
từng ám ảnh bao thời, từng làm bạc tóc Nguyễn Du. Tôi xin mạn phép góp ý
với hương hồn các vị thiên tài trong quá khứ rằng, các vị sở dĩ cực, sở
dĩ chết đói, chết chém chung quy vì các vị không tìm cách nắm lấy quyền
lực, cái mà ngày nay người ta gọi là cán bộ lãnh đạo chính trị ấy mà. Ơ
hay, đi sau kể ra cũng có cái lợi, học được những bài học nhãn tiền
không phải trả học phí. Thật là câu hậu sinh khả úy nghe ra cũng có lý
lắm. Tài thì dù mọn đi chăng nữa nhưng tôi cũng đã có, mà quyền hành thì
chưa. Nhưng nay thì thời thế đổi rồi các bạn ạ. Tôi vừa được đề bạt làm
cán bộ lãnh đạo. Các bạn thông cảm cho tôi, tôi đã theo chủ nghĩa khiêm
tốn mấy chục năm rồi, làm thân con
sâu cái kiến biết cầm bút mấy chục năm rồi. Sau hai năm học xong khóa
chính trị trung cao, năm 1979, tôi và gia đình được điều vào miền Nam
công tăc. Tôi leo lên máy bay, ngồi một lúc đã thấy tới Đà Nẵng. Mấy ông
cán bộ chính trị ngồi bên tôi sướng quá, chuyện vãn quá rôm rả. Họ bàn
luận đủ điều về một tương lai tươi sáng, về tốc độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội vùn vụt đâu có kém tốc độ máy bay. Rằng, mới đây, đầu năm 1976, tại
thành phố Nam Định, lãnh tụ đã hứa: chỉ vài năm nữa thôi, đảng sẽ lo
cho gia đình nào cũng có ti-vi, tủ lạnh. ừ phải tiến như vậy cho Mỹ nó
sợ chứ, cho Tây, Nhật đừng khinh chúng ta không biết làm kinh tế chứ. Về
đến cơ quan, tôi được thủ trưởng giao nhiệm vụ:
- Đồng chí có biết quốc sách của ta hai năm qua cụ thể là gì không?
Tôi hùng hồn trả lời theo kiểu học sinh trả bài:
- Là đánh tư sản, thu sạch sành sanh các cơ sở kinh tế của chúng, gom vào kinh tế quốc doanh. Cái đám tư sản mại bản kia chỉ có tài bóc lột, còn làm kinh tế thì dở ẹc phải không anh?
-
Thì đúng đấy, mới có một nửa vấn đề. Còn một nửa nữa Trần Hưng ạ. Đó là
chính sách kinh tế mới, giãn dân thành phố về các vùng quê, giải tỏa
nhà ổ chuột.
Người phụ trách giải thích cho tôi một thôi một hồi về chính sách kinh tế mới, đoạn truyền:
- Tổ chức cử đồng chí đi thâm nhập thực tế đề tài này để viết một tác phẩm tầm cỡ. Hãy làm một cái gì như Đất vỡ hoang của Sôlôkhốp ấy.
Sau
ba tháng vừa đi thực tế, vừa ngồi viết, tôi đã xuất xưởng một cuốn tiểu
thuyết mang tựa đề Làng vui. Cuốn sách khi in ra đã tới gần bốn trăm
trang. Tôi coi đây như lần thử sức cuối cùng với tiểu thuyết. Thắng cũng
là đây, bại cũng là đây. Tôi chọn mấy chương đọc cho xếp nghe trước khi sách in ra. Hình như sợ tôi tra tấn thêm mấy chương nữa hay sao ấy mà ông vội gạt phát đi bằng một câu khen ghê người:
-
Quá lớn. Khỏi phải đọc thêm, để mai kia đọc bản in cho sướng. Sách in
ra, tôi đến nhà in mượn trước một cuốn về đọc thử. Tôi vừa đọc vừa hút
thuốc mà sướng phát run lên. Tôi bị vinh quang làm mê man hơn cả say
rượu. Đến nỗi, thấy mình trong chiếc gương dài trên tủ, tôi cứ tưởng ai,
bèn cúi chào tới hai ba lần. Quái, sao cái ông bạn kia còn lễ phép hơn
cả tôi. Tôi chào một, ông ta chào một cứ như là tên bắt chước hay kẻ
nhạo báng. Tôi bực quá xấn tớ: xem gã là ai, đụng vào cái gương, suýt
vỡ. Bấy giờ tôi mới biết mình nhầm. Rõ khỉ, mình còn không nhận ra bản
mặt mình thì ai nhận ra mình được nữa? Trời ơi, hay là vinh quang đã làm
tôi mắc bệnh vĩ cuồng? Từ đó, đến mấy tháng sau, tôi không thèm soi
gương nữa. Cho hay, cốc rượu vinh quang nhiều khi lại là độc dược, có
thể làm người ta tới chỗ khùng điên. Hèn chi, có những thiên tài khi lên
tới chót đỉnh vinh quang lại đi tự tử, hoặc phát rồ. Tôi đã đọc đi đọc
lại đến năm lần bảy lượt tiểu thuyết Làng vui ca ngợi sự thành công
không tưởng tượng được của chính
sách kinh tế mới, giãn dân về rừng rú hay nơi phèn chua nước mặn. Cho
hay, văn mình, vợ người là câu tục ngữ vĩ đại nhất dành cho những kẻ cầm
bút. Suốt một tháng, tôi ngồi phấp phỏng chờ đợi sự tiếp nhận ồn ã của báo chí và sự hoan nghênh cuồng nhiệt của độc giả. Nhưng rồi thời gian đi qua, Làng vui như bị ném vào vực thẳm. Chẳng có ma nào thèm bàn bạc hay nhắc đến tiểu thuyết của tôi.
Trong khi đó, một ông lớn cho in một tập thơ dở ẹc, thua cả vè, chỉ là
thứ diễn ca thô thiển và dung tục những chủ trương chính sách thì báo
chí lại hùa nhau ca lên mây, biến nó thành tác phẩm lớn. Nhưng tôi vẫn
không thể nào chắp nhận được cái lý quá khích của một
ông bạn nhà văn, cho rằng giới phê bình nước ta bao năm rồi chỉ là đám
theo voi ăn bã mía, theo đóm ăn tàn. ừ, cứ thử để Trần Hưng này trong
một cương vị lãnh đạo nào đó coi, khối kẻ sẽ la làng lên rằng Làng vui
là một đóng góp quan trọng cho nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Cho hay là thể nhân, hay dở không phải do tác phẩm của anh, mà do anh ngồi ở vị trí nào trong nấc thang quyền lực. Nhưng nhờ trời, cái số của tôi
chưa mạt, trước sau gì rồi cờ cũng đến tay thôi. Vấn đề là phải biết
phất lên như thế nào để ngọn cờ mình phấp phới. Suốt năm mươi hai năm
trời sống trên mặt đất này, tôi đã kiên nhẫn núp vào bình phong của sự
trí trá để mai phục số phận. Có công rình rập, có ngày vớ to phải không
đời? Tự nhiên tự lành trời ạ, còn hơn thằng lớ ngớ vớ được mỏ vàng.
Tôi
vừa đến cơ quan thì thủ trưởng làm mặt nghiêm kéo ra một góc khiến tôi
hết hồn, nổi gai ốc, ngờ là mình có chuyện gì với công an. Thủ trưởng
nói rất thầm vào tai tôi như lời quốc cắm:
- Đồng chí được bí thư mời.
Tôi giật thót người, tái mét mặt. Bỏ cha, bí thư mời là thế nào, chắc lại có chuyện động trời gì đó. Xếp của tôi trấn an:
-
Đừng lo. Tin vui ông ạ. Không phải bí thư tỉnh ủy cũ đâu. Ông ta bị bay
rồi, mất chức vì thu về nhà cả chục ký vàng do bán bãi, bán quyền vượt
biên. Đồng chí bí thư mới vừa được điều về mấy ngày, đã cho mời ông lên
chơi. Thư của văn phòng tỉnh ủy đây
Tôi
đang sợ cuống cuồng bỗng mừng méo mặt. Ân huệ gì đây cha mẹ ơi. Tôi đọc
ngấu nghiến cái thư mời in bằng giấy trắng dày và cứng. Tôi sẽ được gặp
mặt đồng chí bí thư tỉnh ủy tỉnh Sơn Giang chiều mai. Tôi về nhà với
bàn chân kẻ mộng du đi mây về khỏi. Tôi vốn dĩ là kẻ hay xúc động. Từ
lúc biết tôi được đồng chí Hoài Bão, bí thư tỉnh ủy mới mời đến nhà
riêng chơi, mọi người trong cơ quan tôi đã nhìn tôi bằng con mắt hoàn
toàn khác. Trong ánh mắt của đồng
nghiệp, tôi nhìn thấy nêt kính nể và dè chừng, đượm chết khúm núm ân
hận vì đã từng coi tôi như cỏ rác. Trong những ánh mắt đầy vẻ tự hạ mình
trước tôi kia, tôi biết họ đang tự nói với mình: lơ mơ thằng Trần Hưng
lên lãnh đạo một cái là gay, tốt nhất là nên chuẩn bị thái độ từ bây
giờ, cứ xuống nước với hắn trước, tránh voi đâu xấu mặt nào.
Suốt
đêm đó, tôi không sao ngủ được. Tôi hình dung ra cảnh gặp gỡ đồng chí
bí thu tỉnh ủy với hàng trăm tình huống. Tôi tưởng tượng ra những ân
sủng được ban phát. Tôi có thể được thăng quan, một thứ quan văn nghệ
hạng bét nhưng có còn hơn không, nó vẫn cứ là quan. Tôi sẽ dạy cho bọn
đồng nghiệp ngổ ngáo khinh người, coi trời bằng vung học được cách kính
trọng Trần Hưng này. Tôi hồi hộp còn hơn cô dâu trinh bạch trước đêm
động phòng hoa chúc.
Đúng hẹn, thư ký của bí
thư tỉnh ủy ngồi trong một chiếc Vonga đen bóng hơn bôi mỡ đến cơ quan
đón tôi. Nhà riêng bí thư tỉnh ủy là dinh đốc phủ sứ thời Tây, được cải
tạo và xây dựng thành dinh tỉnh trưởng trào Mỹ. Xe chúng tôi vượt qua
barie chặn lối vào khu phố đầy biệt thự lớn nhỏ của gia
đình các đồng chí trong tỉnh ủy và ủy ban tỉnh. Đây là đường phố đẹp
nhất thành phố: nhiều cây cổ thụ, vắng vẻ. Trên đường phố đặc biệt của khu
thâm nghiêm kín cổng cao tường này, cứ mươi thước lại có bóng một anh
công an cầm súng gác. Thảng hoặc, tôi lại thấy một khẩu hiệu kẽ đẹp, sơn
trắng hoặc đỏ trên các bức tường đại loại như: Cán bộ là đày tớ của nhân
dân hoặc Người cán bộ đảng viên khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ...
Nhà riêng bí thư tỉnh ủy ở giữa khu đặc biệt này, tường quanh là đá hoa
theo kiểu các lâu đài cổ. Đó là tòa biệt thự đẹp tới mức tôi chưa từng
thấy. Chúng tôi qua một cổng sắt, một trạm gác nữa mới vào được khuôn
viên của tòa
nhà. Đó là công viên thu nhỏ với những loài cây quý tỏa bóng mát. Những
ghế đá hoa cương rải rác trong vườn. Một hố nhân tạo thả sen Nhật Bản
điểm xuyết vài con thiên nga vừa đen vừa trầng đang bơi êm ru như mộng.
Một con gấu ngựa trong chiếc lồng sắt giữa vườn đang ngoạm một đõ ong
mật. Tòa biệt thự ba tầng với những ban-công chìa ra bao chậu hồng rực.
Ngôi nhà kiểu Pháp được tân trang lại, xây thêm một căn kiểu Mỹ nhỏ bên
cạnh trông rất hài hòa. ở một góc là nhà của những
gia đình đày tớ nói theo kiểu cũ, còn bây giờ người ta gọi là những cán
bộ phục vụ, những nhân viên nhà nước làm nghề loong toong như thư ký,
bảo vệ, tiếp tân... Dáng những tàn tùng bách tán nhọn hoắt đâm lên như
muốn đỡ lấy vòm trời sắp tối. Điện xanh đỏ được bật lên trong vườn xem
đến vui mắt. Thật là cảnh thiên đường Tây và Mỹ có nhã ý làm sẵn cho
đồng chí nào được làm bí thư tỉnh ủy đến mà hưởng, bù đắp cho bao nhiêu
năm nằm gai nếm mật, ăn bụi, ngủ rừng.
Tôi được đờng chí Quát, thư ký riêng của bí
thư tỉnh ủy dẫn đi dạo quanh vườn trước khi gặp nhà lãnh đạo mà tôi
chưa từng được biết mặt. Tôi mê mệt ngắm hết cây quý này đến chậu kiểng
hiếm kia. Tôi ngắm con gấu chén mật ong mà chảy cả nước miếng. Kể ra,
được làm con gấu cho bí thư tỉnh ủy cũng sướng.
Quát
dẫn tôi vào phòng khách chờ. Anh bấm nút thang máy rồi chui vào cái hộp
do chiếc ròng rọc cao quý kéo lên. Năm phút sau, Quát xuống tìm tôi:
- Đồng chí bí thư mời nhà văn lên phòng khách lầu ba.
Tôi
đi theo Quát như một con lật đật. Tôi đứng trong hộp thang máy và cảm
thắy hãnh diện vô cùng, như thể mình vừa hóa thành món hàng đắt giá được
đóng hộp gởi đi xuất khẩu lấy ngoại tệ về cho nhân dân tỉnh nhà.
Thang máy vừa dừng, tôi theo Quát bước ra. Anh ra lệnh:
- Cởi dép.
Tôi cởi dép.
Quát lại bảo:
- Soi gương.
Tôi
soi vào chiếc gương quá lớn bên tường. Lần đầu tiên trong đời, tôi được
thấy mình trong gương từ gót chân lên tới đỉnh đầu. Tôi vừa tranh thủ
thời gian vàng ngọc ngắm nghía dung nhan, vừa sửa lại cổ áo, vuốt lại
tóc, liếm lại môi cho đỏ, y hệt như người cung nữ trước giờ tiếp quân
vương.
Quát lại dặn:
- Đồng chí bí thư mời nhà văn dùng cơm chiều. Sau đó xem phim ở phòng bên cạnh.
Tôi gật đầu cám ơn. Quát lại dặn:.
- Đừng uống rượu nhiều, sợ nói năng vô ý.
Quát
dẫn tôi vào một phòng khách sang hết ý, với bộ sa-lông bọc da chỉ nhìn
cũng đã thắy muổn dính chặt mắt vào rồi. Tất cả đều là những đồ đạc cực
kỳ đat tiền và hiếm có, đến nỗi có nhiều thứ tôi chưa từng trông thấy,
chưa từng biết nó được gọi là gì.
Tôi
chợt thấy một ông già ngoài sáu mươi nhưng tóc đã điểm bạc, bụng phệ,
trán nhăn, thịt trên hai má tròn vo cứ muốn chảy xuống cằm. Ông mặc sơ
mi trang muốt, thắt cravat, đi giày phăng-túp thứ dùng trong nhà. Tướng
ông cao to, có phần đẹp lão, trông thật có uy, đúng với tư thế của người cầm quyền. Thấy tôi ông đứng lên cười:
- Ôi Trần Hưng!
Tôi cảm động đến nỗi chỉ một tí là ngã kềnh ra. Bí thư tỉnh ủy Hoài Bão tưởng là ai té ra là đồng chí Tràng Giang của tôi
trời ạ. Từ năm 1958 đến nay, nghĩa là đã hai mươi hai năm, lần đầu tiên
tôi mới được gặp lại người anh kết nghĩa, người lãnh tụ của đời
tôi, người đã lấy tôi từ đơn vị về tờ báo sư đoàn Chiến Thắng ngày xưa,
người đã từng chỉ thị cho tôi viết về cải cách ruộng đắt, viết về kháng
chiến chống Pháp.
Tràng Giang liền
ôm lấy tôi, đỡ người học trò mình ngồi vào ghế vì tôi sung sướng quá đã
bủn rủn cả chân tay. Tôi vẫn chưa hoàn hồn vì hạnh phúc lớn này, miệng
chỉ biết lí nhí:
- Anh là đồng chí bí thư tỉnh ủy Hoài Bão ạ?
Tràng Giang cười lớn:
- ồ chú em khờ quá. Tràng Giang hay Hoài Bão cũng chỉ là một người chiến sĩ cách mạng năm xưa thôi. Hoài Bão là bí danh của tôi khi vào Nam từ hơn hai mươi năm trước. Hôm nay, mời nhà văn đến chơi, chỗ anh em ngày xưa chia củ sắn lùi Việt Bắc
Tôi cám ơn lòng tốt của người thủ trưởng một thời của đời tôi Chính anh đã chỉ thị cho tôi sống, chỉ thị cho tôi viết văn và lấy vợ.
Một
cán bộ phục vụ gái chừng hai mươi tuổi, xinh đẹp, mặc áo dài xanh, quần
lụa trang, thướt tha đến bên bàn, bóc bao thuốc ba số năm, loại anh-tẹc
mời tôi hút. Đoạn cô gái pha trà, thứ trà Tàu thực sự, theo bí thư tỉnh
ủy nói là một người đàn em vừa đi Hồng Kông mua về biếu. Tràng Giang
hỏi tôi về Ruộng và hai cháu Văn và Vương Thi hồi này ra sao. Ông bảo sẽ
thư thả đề bạt vợ tôi lên chức phó giám đốc trường đảng của tỉnh.
Im lặng một chút, uống xong hớp trà, hút một hơi thuốc nhẹ, Tràng Giang bảo tôi bằng cái giọng khi làm việc:
-
Tôi vẫn hằng theo dõi đồng chí từ khi đi B. năm 1959 đến giờ. Hầu như
tất cả các tác phẩm đồng chí viết ra để phục vụ các giai đoạn cách mạng,
tôi đều có đọc. Sáng tác của đồng
chí cơ bản là tốt. Tôi cũng vừa tranh thủ xem cuốn Làng vui. Nghiêm túc
mà nói, cuốn này chưa lớn nhưng khá, đáng biểu dương. Thông qua cuốn
sách, đồng chí đã làm cho người ta yêu mến hơn những thành tựu vô cùng
to lớn của cuộc cải tạo xã hội ở lãnh vực kinh tế mới. Hôm nay, tổ chức trao cho đồng chí một trọng trách khác, đồng chí có nhận không?
- Báo cáo đồng chí bí thư tỉnh ủy, tôi rất sẵn sàng.
-
Tốt. Hôm qua, tôi có gợi ý cho ban tổ chức, cho ban tuyên huấn cử đồng
chí về phụ trách tờ bảo văn nghệ tỉnh Sơn Giang chúng ta, thay đồng chí
Đoàn Hứa đi chữa bệnh. Nói chung, không ai phản đối ý kiến của tôi.
Tôi
sướng quá, run ban lên, đến nỗi phát ra một tiếng ho nhỏ. Số phận ơi,
thật là có công há miệng, có ngày rụng sung. Tôi cám ơn Tràng Giang bằng
những lời cảm động suýt khóc.
Trong xã hội mà chính trị là thống soái của chúng ta, thử hỏi có người cầm bút nào không mơ ước được lên làm lãnh đạo chứ?
Vẫn biết rằng quyền lực của các
anh quan văn nghệ là thứ quyền lực cò con, nhưng có được thì quả là số
zách. Nhà văn mà có quyền, viết tới đâu in liền tới đó, dù dở ẹc thiên
hạ vẫn cứ xúm vào mà khen lấy khen để. Rồi thì các thứ bổng lộc sẽ ùn ùn
kéo tới Nào giải thưởng, nào đi nước ngoài tì tì. Đi Tây, chỉ cần khôn
ngoan bỏ vào vali cải da báo, ít đồng hồ điện tử, vài chục cái quần xlíp
đàn bà, dăm cái quần gin... sang nước bạn có đàn em thảy ra chợ trời
thu lại vốn, số lời khằm kia sẽ biến thành hàng hóa hai chiều, tha hồ
khuân về nào tủ lạnh, nào nồi áp suất, bàn ủi, tivi màu, thuốc lá hay
bét cũng một ôm dây mai-so... Lại còn tiêu chuẩn bạn cho từng ngày ăn
không hết, phong bì bạn thí cho tiêu vặt, một cuộc phỏng vấn, một bài
viết nhỏ, lại phong bì. Trời ơi, rồi còn tiệc tùng khách sạn khách sung,
các cuộc gặp gỡ, tiếp tân quốc tế, có khi còn được đọc diễn văn, được
ba hoa múa mép trước các nhà văn thế giới. Giờ đây, cơ hội đã tới, cờ đã
tới tay, mày trúng số dài dài rồi Trần Hưng ơi.
Xong
cái chuyện làm việc, Tràng Giang đưa tôi xuống lầu hai ăn tối. Tôi thắy
một thiếu phụ trên dưới bốn mươi, son phấn trang điểm vừa phải, mặc rốp
đỏ chói, đi tất mỏng màu kem sữa, dáng cao to, phốp pháp, mông và ngực
loại ômêga tiền hô hậu ủng. Tràng Giang giới thiệu:
-
Đây là nhà văn nổi tiếng Trần Hưng mà anh vẫn kể. Tràng Giang chỉ vào
người đàn bà có đôi mắt rất sắc như lưỡi lam đang cứa vào tôi, như muốn
giải phẫu cả cuộc đời tôi trong giây phút:
- Còn đây, xin giới thiệu với Trần Hưng, đây là Thùy Linh, vừa là đồng chí, vừa là tiểu đội trưởng của tôi, là mẹ của đứa con tôi.
Mọi người đều cười xã giao, cái cười rất nhạt. Tôi khẽ cúi chào bà chị của người
anh kết nghĩa năm xưa. Thùy Linh nói giọng Bắc di cư, tiếng bà ta cứ
véo von cao thấp như thể lúc nào cũng cần phải sắm một vai diễn gì đó
trên sân khấu:
- A, xin hân hạnh
chào anh Trần Hưng. Anh Tràng Giang quý anh lắm, nhắc hoài. Nay anh về
làm bí thư tỉnh ta chắc là anh Hưng thích chứ? Thôi, xin mời các anh vào
bàn cho, không nguội hết đo ăn bây giờ.
Bữa ăn dọn thật sang theo kiểu Tây. Người nữ phục vụ mặc áo dài bưng lên hết dĩa này đến đĩa khác. Cô khui chai săm-pa của Tây
chính hiệu khai vị. Đoạn, cô mở tiếp một chai mạc-ten. Chúng tôi vừa ăn
vừa cười nói ríu rít. Tràng Giang và Thùy Linh tế nhị giới thiệu mối
tình của hai
người. Năm 1975, Tràng Giang từ rừng về gặp Thùy Linh là cơ sở nội
thành hoạt động hợp pháp. Họ yêu nhau ba tháng rồi làm đám cưới. Sáu
tháng sau, một cậu quý tử ra đời. Theo một vài người nói nửa kín nửa hở,
rằng thời nay trẻ sơ sinh trong bụng mẹ không thích nằm tới chín tháng
mười ngày lâu lắc như xưa. Chúng đòi chui ra làm người khí sớm. Bằng
chứng là hầu hết các cặp vợ chồng cưới nhau có khi mới được ba bốn
tháng, hoặc khá hơn là sáu tháng như vợ chồng ông bí thư này, đã có thể
sinh con. Mà quái lạ, mặc dù đứa trẻ ra đời sớm đến ba bốn tháng như
vậy, vẫn đầy đủ tóc tai và lớn lên như thổi. Thùy Linh vừa ăn vừa liếc
tôi như chớp. Mắt bà ta, môi bà ta toát ra một cái gì có vẻ như chưa
biết thỏa mãn, như thể chưa có sức mạnh dương tính nào đủ sức giúp bà ta
vượt qua cái hữu hạn của bản thân mình, để đạt tới cái đam mê, cái vô cùng của vô thức. Thùy Linh, theo con mắt trần tục của tôi,
xin lỗi các bạn, bà ta là loại đàn bà sinh ra để làm cái việc trên
giường hơn là làm cách mạng. Hiện nay, bà ta cùng với Quát là hai thư ký
riêng của bí thư tỉnh ủy. Ông anh kết nghĩa của tôi tướng tá lệt bệt hom hem, vừa già vừa phệ thế kia, làm sao đáp ứng cho được một thân thể rực cháy, lênh láng nguồn sống của bà
vợ nhỏ hơn ông cả hai chục tuổi này. Tôi trộm nghĩ, một người làm chính
trị, nhất là một cán bộ cao cấp như Tràng Giang, lấy vợ quá trẻ và quá
khỏe mạnh sung mãn như vậy, thật là một tai họa. Sau bữa ăn, chúng tôi
chuyển sang phòng bên vừa dùng trà thuốc vừa xem phim. Tràng Giang bảo
đó là phim Mỹ, loại phim dùng cho lãnh đạo nghiên cứu. Khi vào phim, tôi
mới hay rằng, phim loại có nhiều màn tình dục gay cấn này mà nghiên cứu
cái mẹ gì, các bố thưởng thức thì có. Khi tiễn tôi lên xe ra về, bí thư
tỉnh ủy đưa cho tôi một tập bản thảo:
- Cây nhà lá vườn, thơ của tôi với bút danh Hoài Bão đấy. Chú về xem giùm góp ý cho tôi với nhé.
Tôi cầm tập bản thảo của lãnh đạo như cầm cả sự tiến thân của đời
mình. Ba ngày sau, vận may đến gõ cửa phòng tôi. Tôi nhận được quyết
định bổ nhiệm làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh Sơn Giang, kèm theo
một chiếc xe du lịch hiệu Pơ-giô và một người lái xe trẻ tuổi. Chỉ
trong vòng hơn hai tháng kể từ khi tôi về làm tổng biên tập tờ tuần báo
văn nghệ tỉnh, tòa soạn đã nhận được hàng chục bài viết ca ngợi tiểu
thuyết Làng vui của tôi.
Tôi cho đăng in ít năm bài thôi, vì tôi là người khiêm tốn và tương đối
còn biết điều. Đấy thấy chưa, có quyền một tí là văn mình bèn hay lên
liền. Vinh quang đến với tôi ào ào đến độ phải chặn bớt lại, sợ thiên hạ
ghen tuông.
Ly Thân
Chương 16
Vương Thi hỏi tôi:
- Bố ơi, thành phố An Hải này sao nhiều người sống ngoài vỉa hè vậy?
- Ôi do nếp sống Mỹ hóa gây ra cả con ạ. Họ quen hưởng thụ rồi, bây giờ không quen lao động nên đành bán cả nhà cửa đi để đổ vào lỗ miệng.
- Nhưng con nghe mọi người bảo đó là đám dân kinh tế mới về đấy bố?
Tôi trả lời cho qua chuyện:
- ừ cũng có thể.
- Vậy sao trong tiểu thuyết Làng vui của bố, chính sách giãn dân thành phố, chính sách kinh tế mới thành công rực rỡ cơ mà. Cuộc sống ở vùng kinh tế mới tổt đẹp như bố tả trong sách, sao người ta cứ bỏ về thành phố kìn kìn, nằm vỉa hè đi bới rác sống là sao?
- Ôi thế mới là những quân dại con ạ. Họ thèm một tí điện thôi... Thiếu không khí xô bồ bát nháo phố thị, họ không sống
được, thà làm ăn mày ở vỉa hè còn hơn là anh phú nông dưới quê. Làng
mới sướng bắt chết đi mà họ không chịu ở. Bố cũng chịu, chả còn hiểu tâm
lý cái đám thị dân này nữa.
- Con
chả tin. Không ai bỏ chỗ sướng đi vào chỗ khổ cả. Bạn con nói đùa: họ,
những người dân kinh tế mới từ Làng vui của bố mày về đó. Con đau nhói
trong lòng.
Nó chưởi bố mình thâm hiểm như vậy mà vì đuối lý, mình đành ngậm bồ hòn làm ngọt.
-
Thôi, nó nói gì kệ nó con ạ. Làng vui của bố viết ra từ 1978, lúc đó
kinh tế mới sướng lắm. Còn bây giờ là năm 1982, phong trào kinh tế mới
đổ bể rồi thì liên quan gì đến cuốn tiểu thuyết của bố nào? Bố viết văn
chỉ để phục vụ một giai đoạn cách mạng, giai đoạn sau lại có cuốn khác,
lo gì.
- Thế bây giờ bố có dám viết một cuốn truyện về dân kinh tế mới ngủ vỉa hè đầy ra không?
-
Bố chịu. Vả lại, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa chỉ có
quyền viết về cái tốt đẹp. Ngoài ra bố còn làm tổng biên tập báo văn
nghệ, bận lắm, chẳng còn thời gian viết dài hơi đâu.
-
Con chả hiểu ra sao bố ạ. Bố cho phép con nói thật nhá. Thời nay những
cái giả tạo thì được khen, được trọng dụng. Ví như cuốn sách Làng vui
của bố vậy, con thấy chả thật một tị, toàn bịa khiếp lên được ấy.
- ấy, văn học là hư cấu mà con. Hư cấu là hư cấu cái hình tượng, nhưng phải trên cơ sở cuộc sống, phải trung thành với hiện thực.
-
Bố làm như con không hiểu gì về lý luận văn học ấy. Chả gì con cũng là
giáo viên dạy văn cấp hai nhá. Có đứa bạn độc mồm dạy chung với con rêu
rao rằng bố cái Vương Thi chỉ là bồi bút.
Tôi giận tái mét mặt lại, tức sôi máu quát:
-
Đứa nào, con nào dám bảo một nhà văn cách mạng như tao là bồi bút hả?
Quân phản động, xích cổ nó lại chứ ăn nói vô tổ chức thành quen đi.
- Này, bố đừng nóng nhá, tên đứa đó là mọi người đấy. Ai đọc sách của các bố mà không phì cười vì sự tô hồng quá đáng. Văn chương của
các cụ với lý luận là viết về cái hiện thực sắp có, sẽ có hơn là viết
về cái hiện thực đang có. Mà cái xã hội thiên đường tốt đẹp sẽ đến kia
thì cóc có ai biết, cũng chẳng có cơ sở nào để nó đến một cách cụ thể.
Thành ra văn chương của các cụ đa phần thường ngược lại cuộc sống hôm nay.
Tôi nạt con gái:
- Thôi im mồm đi. Mày lại hùa theo chúng nó nói bậy rồi. Giữ mồm giữ miệng không vạ vào thân đấy con ạ. Chuyên chính vô sản đừng có mà đùa.
-
Con cóc sợ. Bố có nhớ hồi xưa ngoài Bắc ở tỉnh X. khi con theo bố về
chơi không, lại có cả bài ca hố xí hai ngăn phát trên làn sóng trên đài
phát thanh tỉnh đấy. Quan niệm văn nghệ phục vụ dung tục như vậy là một
cách để xóa bỏ văn nghệ bố ạ. Đến khi cấp trên phát động phong trào hạn
chế sinh đẻ, thì trên tờ báo tỉnh, lại có bài thơ của một nhà thơ chuyên
làm thơ thời sự là bài Người đặt vòng hạnh phúc. Rồi lại thấy xuất hiện
trên loa công cộng bài hát Bài ca thuốc ngừa thai. Bố còn nhớ chứ. Con
chịu thôi, văn nghệ văn gừng cứ vậy, chẳng qua chỉ là trò hề.
Tôi thu quân:
- Thôi chuyện của bố, không việc gì đến con.
- Vì những việc của bố, ảnh hưởng đến danh dự của con.
Đấy,
các bạn có thấy bây giờ lớp trẻ nó chả còn coi ai ra gì nữa không,
chúng phủ nhận tất tần tật. Chúng chẳng hiểu gì cả. Vì cuộc sống là cuộc sống,
còn văn học lại là văn học, hai cái là hai phạm trù khác nhau như đàn
bà không thể là đàn ông và ngược lại. Chúng cóc có hiểu được phương pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa là gì, là vẽ ra xu hướng của hiện thực chứ
không phải dựng dậy hiện thực, giúp con người nhìn thấy tương lai trước
khi nó được biến thành hiện thực. Đấy là đôi cánh của quy luật được gọi
là phương pháp hiện thực lãng mạn cách mạng. Gần đây, con Vương Thi đã
xin trường được một phòng nhỏ ở riêng. Còn anh ruột nó là thằng Trần Văn
Văn hiện đã tốt nghiệp đại học, đã tót sang nhà bố vợ tương lai là ông
giám đốc một sở lớn để ở cho sướng. Thỉnh thoảng hai đứa con mới ghé về
thăm bố mẹ. Thằng Văn ít nói chuyện với tôi, chỉ hay rù rì với mẹ. Nó cho tôi đã suốt đời làm khổ mẹ nó. Bốn thành viên trong gia đình tôi đều
ông chẳng bà chuộc. Con cái không còn tin tưởng và kính trọng bố mẹ
nữa. Bố mẹ với con cái cũng chỉ là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp
dưới, kẻ thống trị và người bị trị. Thành thử gia đình không ra gia
đình, cơ quan chẳng phải cơ quan. Từ khi được làm phó giám đốc trường
đảng tỉnh Sơn Giang, Ruộng lấy quyền lực làm lẽ sống,
làm tình yêu. Cô đang hết sức tích cực để khóa tới trở thành tỉnh ủy
viên và biết đâu lại còn có khả năng vào thường vụ tỉnh ủy. Người ta
đang cần những nhân vật nữ vào các chức vụ quan trọng mà. Ruộng sống
như một ni sư đã diệt dục, tập trung hết những năng lượng thừa vào nỗi
đam mê quyền hành. Vì đường công danh của mình và hai đứa con đã lớn,
Ruộng phải cắn răng, mím môi, thót bụng lại để cố tạo ra hình ảnh của
một gia đình nề nếp, có tổ chức quy củ, có văn hóa và hơn nữa là có hạnh
phúc. Một hạnh phúc giả tạo trong một gia đình giả tạo. Ruộng hoàn toàn
yên tâm về cái khoản gái trai của ông chồng nhà văn bất lực, coi như đã
chấm dứt từ lâu. Cô không còn cần phải cảnh giác cách mạng làm gì nữa
trên cái mặt trận tình tang nem chả này. Có nhiều lúc Ruộng bảo tôi: anh bị vậy mà hóa hay, mà mẹ con em được nhờ. Nhưng lý trí vẫn thuần là lý trí. Tôi biết
rằng nhiều đêm Ruộng đã trăn trở đến quằn quại rồi ngồi dậy khóc thầm.
Tội nghiệp Ruộng, cô đang ở giai đoạn cuối cùng của tuổi hồi xuân. Người
đàn bà trong Ruộng đêm đêm thức dậy đòi hỏi quyền lợi, đòi được xác
lập, được khẳng định, được đốt cháy và thăng hoa cái nhiệt lượng dư thừa
của thân xác. Cứ tưởng người cán bộ, người lãnh đạo trong cô đã chiến thắng, đã làm chủ được thân xác
mình. Cứ tưởng rằng khi có quyền lực, cô được sung sướng và mãn nguyện.
Té ra, đêm đêm về nằm trong một mái nhà với một ông chồng hình nhân,
một ông chồng hờ, cô lại thấy thảm thương cho cái số mình
sao gặp nhiều oan trái buồn tủi đến thế. Mặc dù cô biết người chồng
mình hồn vía chưa từng thuộc quyền sở hữu của cô. Cô cũng biết người
tình địch của mình đã chết. Nhưng bằng tiên cảm của người đàn bà, Ruộng
biết lòng dạ tôi vẫn cứ rối bời vì cái hình hài đã thành cát bụi. Tôi biết, đôi khi Ruộng thấy con người chính trị trong mình chẳng qua chỉ là một con người giả, chỉ là một âm bản của đời sống
mình thôi. Còn con người thật của cô lại nằm ở những khao khát, những
đòi hỏi bình thường, được yêu, được hạnh phúc. Khi tự mình phải đối diện
với mình, tôi biết cô thấy mình cô đơn một cách kinh hãi. Tất cả không có gì bù đắp được sự hụt hẫng của một người đàn bà không được yêu. Tôi thương vâ an ủi cố nhiều nhưng làm sao giải tỏa được cho bản thân cô. Tôi không còn đốm lửa dù nhỏ nào để sưởi ấm chưa nói đến sự đất cháy giùm cô. Tôi người chồng của cô, người làm cô bất hạnh, chung quy cũng chỉ là một kẻ bất hạnh. Tôi phải
vác bao nhiêu niềm vui giả tạo, hạnh phúc giả tạo như vác thập giá đến
nơi hành hình. Trong toán học, hai cái dấu âm cộng lại thành dương.
Nhưng trong đời sống, hai kẻ bất hạnh cộng lại chẳng thể biến thành hạnh phúc được.
Giờ đây, tôi chỉ
là một tảng băng biết làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh. Sau cuộc
họp giao ban hàng tuần, ông Hai Kỷ, phó ban tuyên huấn mời tôi lại:
- Tôi có cà phê thứ thiệt, cà phê chồn Buôn Mê Thuột ông nội ơi. Vừa uống, ta vừa bàn một số công việc được chứ?
- Tất nhiên. Tôi trả lời.
Chúng tôi lên lầu, vào phòng làm việc của Hai Kỷ. Hai Kỷ pha cà phê, đem ra cả đĩa bánh ngọt, một bao thuốc ngon. Chúng tôi vừa uống vừa bàn công việc. Ông rút từ trong cặp ra một tờ báo, đưa cho tôi. Thì ra là tờ Văn học ngày nay. Hai Kỷ bảo tôi:
- Ông thử đọc bài thơ bốn câu ở trang mười coi. Thật là một phát súng bắn vào những nguyên tắc bất di bất dịch của chúng ta.
Tôi mở trang mười. Trời ơi, số tôi sao suốt đời chạy trời không khỏi nắng, đi đâu cũng gặp cái núi lửa này. Thơ của Trần Khuất Nguyên trời ạ.
Bài thơ thứ nhất có tựa đề là Thương con vạc:
Đừng trách con vạc
Sao mày ăn đêm
Chao ôi đồng đất
Ban ngày như nêm.
Bài thơ thứ hai của Trần Khuất Nguyên có tựa đề là Lời cái thớt:
Số phận cho ta làm mặt thớt
Kể gì thịt cá nát đời nhau
Sinh ra là để người ta chặt
Ta chỉ ăn toàn những vết dao.
Tôi đọc đi đọc lại đến thuộc lòng, thầm bảo bụng: bố khỉ, thơ hay thật. Trong thâm tâm không phải tôi không phục tay Trần Khuất Nguyên, cái kẻ mới mười lăm tuổi năm 1964, tại công viên thị xã X., đã từng phủ nhận cuốn Lúa reo của tôi viết về hợp tác xã. Cái tay mà trước giải phóng, đầu năm 1975, tôi còn gặp ở chiến khu lúc anh ta là chính trị viên đại đội trinh sát.
Một số anh em nhà văn chúng tôi,
luôn luôn đoán ý lãnh đạo để viết, không có cái nghênh ngang của lớp
nhà văn như tay trinh sát này. Nói chung, những người cầm bút thế hệ
chúng tôi và
thế hệ trước đó, luôn luôn sợ hãi, mặc cảm trước kẻ cầm quyền. Rằng chỉ
có những người lânh đạo chính trị mới là cộng sản thứ thiệt. Còn chúng tôi, tuy mang danh đảng viên đấy, nhưng chỉ là những con sứa, những thân phù du biết mang thẻ đảng, không dám đấu tranh, dám sống chết vì sự thật. Tôi là kẻ dù ít nhiều cũng có biết võ vẽ học thuyết của Hê-ghen. Tôi hiểu
rằng, một ngòi bút, hơn nữa một nền văn học sinh ra chỉ cốt để khẳng
định, để khen ngợi, tô hồng hiện thực dù hiện thực kia có hoàn thiện
hoàn mỹ trăm phần trăm đi nữa, thì sự khằng định, sự khen ngợi, sự tô
hồng ấy không còn là khẳng định, khen ngợi và tô hồng nữa. Bởi vì, sự
khẳng định chỉ có thể là khẳng định, chỉ có thể được tin tưởng, được xác
nhận khi nào ngòi bút kia, nền văn học kia học được cách phủ định.
Chúng ta, buồn thay, luôn luôn đọc ra rả như ve sầu ngày hạ rằng: sự vật
bao giờ cũng được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất. Nhưng nhãn
quan chính trị, nhãn quan kinh tế, nhãn quan văn hóa văn nghệ của chúng
ta hỡi ôi, bao nhiêu năm, chỉ nhìn sự vật có một chiều thuận với ý chủ
quan của mình, còn chiều nghịch kia của sự vật, chúng ta cố tình làm lơ,
coi như nó không có, không còn. Chúng ta hô hoán lên rằng: chủ nghĩa xã
hội không còn mâu thuẫn, không còn bi kịch, không có cái ác, chỉ rặt
toàn thiện mỹ mà thôi. Sự vật, chính là thế giới khách quan tồn tại
ngoài ý muốn con người, vẫn cứ tiếp tục phát triển trong quá trình vận
động giữa các mặt đối lập thống nhất của nó, mặc xác các thứ lý thuyết
một chiều ấu trĩ đầy duy tâm chủ quan của chúng ta. Trong sự hình thành
nhân cách của con người, từng giây phút là các cuộc ác đấu âm thầm giữa
thiện và ác, đúng và sai, tốt và xấu, hèn nhát và quả cảm để tự khẳng
định tồn tại. Mỗi con người còn thế, huống hồ là cả một đất nước, một
dân tộc, sao lại bảo không còn cái ác, cái xấu, không còn đối kháng nữa?
Quan niệm về thế giới như vậy, nhìn nhận về sự vật như vậy mà dám vỗ
ngực tự xưng là mác xít được ư? Chưa hết, người ta còn tuyên bố đã nam
được chân lý tuyệt đối khách quan. Đến ngay Mác và Lênin, những thiên
tài sáng tạo ra học thuyết cộng sản cũng chưa từng dám tuyên bố huênh
hoang đến thế. Chân lý, khi đã nắm bắt được rồi thì nó không còn là nó
nữa. Chân lý hay là khát vọng hướng thiện không cùng của con người, vươn
lên nắm bắt cái vô cùng của thế giới. Không một con người nào, một tập
thể người nào độc quyền về chân lý cả. Chân lý cũng như khí trời, như
ốc-xy, là tài sản của mọi người trên hành tinh bé nhỏ và quá lắm chuyện
của chúng ta. Con người muốn thống nhất với chính bản thân mình
và thống nhất với nhau, cần phải được mâu thuẫn, được đối lập, được
tranh luận, cần biết nghe bằng nhiều lỗ tai và cái quan trọng là phải
trừ khử ngay cái thói kiêu ngạo coi mình là ông trời. Có như vậy, chân
lý mới có cơ tồn tại và mỉm cười với chúng ta. Vừa đọc đi đọc lại hai
bài thơ bốn câu của Trần Khuất Nguyên, tôi vừa ngẫm nghĩ những điều trên. Chúng ta kể cả tôi,
xưa nay chỉ quen nhìn nhận và phân tích sự vật có một chiều thuận với ý
muốn chúng ta. Đến khi cần phải lật ngược vần đề lên một chết là đã sợ
phạm húy, phạm vào những giáo điều cứng nhắc mà người đại diện của nó là
ông Hai Kỷ đang người pha trà trước mặt tôi. Nhưng tôi lại chưa có gan nói thẳng những ý nghĩ mình với người khác bởi vì tôi hèn, tôi sợ bị quy là phản động. Hỡi ôi, tôi được sinh ra đâu phải để làm cái loa của kẻ khác, bản nháp của kẻ khác. Tại sao tôi không thể có nhận xét riêng, ý kiến riêng của mình về các vấn đề? Tôi đang ở trong trận đồ bát quái của chủ nghĩa giáo điều, liệu có còn cơ hội thoát ra được nữa không? ôi chao, chả lẽ tôi cứ
phải nói, phải viết ngược lại với lòng mình cho phù hợp với đôi tai và
đôi mắt của cấp trên. Ông Hai Kỷ, người ba mươi năm làm công tác tuyên
huấn hỏi tôi:
- Sao nhà văn, ông thấy hai bài thơ này thế nào?
Tôi trả lời chung chung cho đỡ thẹn với lòng mình:
- Tôi thấy nó không ổn.
-
Ông hữu khuynh rồi đó Ba Hưng. Sao lại không ổn. Thương con vạc và Lời
cái thớt là khẩu khí của đứa ngông cuồng, không cần biết dọc ngang nào
biết trên đầu có ai nữa. Khi kẻ bị lãnh đạo quên mất chỗ đứng của nó thì
nó bắt đầu quậy. Thằng cha Trần Khuất Nguyên, một thằng con nít mà gan
cùng mình, dám thách thức với những nguyên tắc bất di bất dịch của chúng
ta.
Tôi bênh:
- Tôi nghĩ
hắn không dám thách thức chúng ta đâu. Chúng ta quên rằng trong phạm
trù của hai từ chúng ta, bao hàm cả tay Trần Khuất Nguyên này nữa. Theo
như tôi biết thì cậu ta cũng là đảng viên, từng đi chống Mỹ, từng bị thương khá nặng, sao lại nỡ đẩy nó vào hàng đối lập với chúng ta?
- Ôi, anh ngây thơ quá đấy Ba Hưng. Tôi nghĩ một người duyệt bài vở mà thiếu chỗ đứng, thiếu lập trường giai cấp như anh thì rồi số phận
tờ báo văn nghệ tỉnh sẽ ra sao đây? Như thế này mà anh còn tính bênh
vực nó nữa hay sao? Anh có biết tờ tuần báo Văn học ngày nay giờ ra sao
chưa? Số báo
in hai bài thơ này đã bị thu hồi. Tay tổng biên tập bị kiểm điểm toé
khói, có thể mất chức. Cơ quan quản lý văn hóa văn nghệ vừa gởi công văn
đi khắp nơi, kể cả tỉnh ta đòi khai trừ Trần Khuất Nguyên ra khỏi đảng,
khai trừ ra khỏi hội viên hội nhà văn Việt Nam. Thường vụ tỉnh ủy vừa
họp bốn cuộc họp về hai bài thơ của thằng trời gầm đất lở này. Thường vụ
đã chỉ thị cho sở văn hóa thông tin, nơi Trần Khuất Nguyên công tác
phải kiểm thảo nghiêm túc hắn. Sáng hôm nay thằng Nguyên đang bị quần
nhừ tử đấy ông Ba Hưng ơi. Tôi lạnh toát xương sống. Đừng có đùa với kỷ cương thép của tổ chức. Hai Kỷ dùng chuyện Trần Khuất Nguyên để đánh tôi trúng huyệt: ấy là nỗi sợ hãi bị kỷ luật, bị khai trừ, bị thanh trừng, bị tù đày của cả đời tôi từ vụ viết cuốn Vượt bão phụ họa cho cải cách ruộng đất ngày xưa. Bởi vì nỗi sợ tận cùng gan ruột của tôi vẫn là cuốn nhật ký viết hồi sau cải cách ruộng đất, hiện nay vợ tôi đang giữ để làm áp lực cột tôi lại với cô ấy. Tôi không còn con đường nào khác ngoài việc từ bỏ ý định bảo vệ Trần Khuất Nguyên. Nghĩa là tôi phải phụ họa, phải đứng về phía Hai Kỷ để giữ vững cái ghế tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh của mình. Tôi bảo Hai Kỷ:
-
Nếu quả con ngựa non háu đá này có ý xỏ xiên chúng ta thì nên dạy cho
hắn biết thế nào là lễ độ, cho nó chừa cái thói ngông nghênh đi.
Hai Kỷ thông báo: Tôi nói
nhỏ cho anh biết, bên bảo vệ văn hóa đã có đầy đủ hồ sơ về Trần Khuất
Nguyên. Họ định bắt nó đấy nhưng còn hơi do dự. Dù sao, tên Nguyên này
cũng từng đi chống Mỹ, là thương binh, đảng viên, là nhà thơ trẻ có
tiếng hiện nay. Muốn bắt hắn còn phải để ý đến dư luận, tới sự thu phục
nhân tâm của đám văn nghệ sĩ chế độ cũ nữa ông ạ.
Tôi hùa theo: - ừ phải rồi. Chúng ta không nên lấy quyền hành để đẩy một số anh
em văn nghệ nào có thiếu sót, có viết chút gì đó lệch lạc sang thành
đối lập với đảng. Cách mạng cũng cần phải biết nghe bằng nhiều lỗ tai.
-
Thôi đi ông Ba Hưng. Các bố văn nghệ hay bênh nhau lắm. Bắt Nguyên thì
chưa tới lúc nhưng phải làm ra lẽ cho hắn sợ. Khi chúng ta đang cải tạo
xã hội chủ nghĩa thì hắn lại tung ra bài thơ ỡm ờ Thương con vạc. Anh
thừa biết con vạc là biểu tượng cho cái gì rồi chứ. Vạc chính là những
âm mưu đen tối, những bọn đi đêm làm các nghề bất chính như trộm cắp,
gái điếm, bọn gián điệp phá hoại rình mò trong bóng tối. Vậy mà thằng
Nguyên này dám tuyên bố thương con vạc, rồi dạy chúng ta đứng nên trách
con vạc nữa. Chúng ta không chỉ trách, không chỉ căm giận lũ mặt người
da vạc mà sẽ còn bắt sạch những loài ăn đêm. Còn bài Lời cái thớt của
hắn nặng hơn nữa ông ạ. Xã hội ta là một xã hội trên dưới một lòng, lãnh
đạo hòa với nhân dân như cá hòa với nước. Vậy mà hắn dám đặt một cái
thớt trong mối quan hệ thiêng liêng giữa dân và đảng. Vậy thớt là gì? Về
mặt tu từ, tôi đã
tra ba bốn cuốn từ điển. Thớt là cái dụng cụ bằng gỗ để làm đòn kê cho
công cuộc chặt thịt, chặt cá. Đơn giản như vậy thì cần gì thằng nào phải
làm thơ. Hần bảo ai là mặt thớt hả ông Ba Hưng? Ai, hắn bảo ai chỉ ăn
toàn những vết dao nào? Đủ rồi, chúng ta cần sự ngọt ngào, cần sự khẳng
định, ngợi ca cơ. Chúng ta không cho phép bất cứ ai nhân danh bất cứ thứ
gì để châm chọc, chỉ trích hoặc vặt lá tìm sâu xã hội tốt đẹp của chúng
ta.
Nghe Hai Kỷ phân tích thơ, tôi buồn
quá. Người ta đã học được cách suy diễn hết sức chủ quan trước hình
tượng văn học, chụp cho bài thơ những cái mũ kinh khủng mà nó không hề
có. Người ta cố ý tước bỏ tính biểu tượng của văn học theo kiểu vặt trụi
hết lá cây, không muốn văn học được nói nhiều nghĩa, được mang yếu tố
thâm thúy của tư tưởng, được phép khái quát hóa và điển hình hóa. Nếu
tất cả các thời đại, các xứ sở đều phân tích thơ kiểu ông Hai Kỷ này,
chắc chắn văn học đã biến mất khỏi mặt đất. Thế giới sẽ không còn những
thiên tài ván học nữa nếu như tư tưởng và tâm hon con người cũng bị kiểm
duyệt, bị lục soát theo kiểu các trạm thuế của ta khám xét hành trang
khách đi đường. Chúng ta sẽ còn là những kẻ mắc bệnh sợ ma, nếu vẫn quan
trọng hóa quá đáng tác dụng của một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết nào
đó có vấn đề khi nó tung ra ngoài xã hội. Văn học mà không có vấn đề,
không dám đặt trước các vấn đề cho con người và xã hội thì còn coi là
văn học được ư? Chẳng ai chú ý đến hai bài thơ bé nhỏ như hai con kiến
của Trần Khuất Nguyên, nếu như tờ báo không bị thu hồi, nếu như không có
những bài đánh, những chỉ thị trị tác giả của nó. Và lập tửc, hai con
kiến kia sẽ biến thành hai con voi dư luận. Nhưng đau buồn thay, tôi lại không nói được những suy nghĩ của mình về hai bài thơ này, tôi phải cần biết cách phụ họa cho Hai Kỷ:
- Nghe anh phân tích tôi mới thấy dễ sợ thật.
- Vậy thì tôi yêu cầu anh lên tiếng trên báo văn nghệ tỉnh về hai bài thơ phản động này.
Tôi hiểu yêu cầu này của ông ta chính là lệnh.
Tôi ôm
cái lệnh ấy cùng tờ 'Văn học ngày nay về tòa soạn. Kiếm một người để
đánh đồng nghiệp trên báo theo lệnh tổ chức thời nay thật không khó khăn
gì. Tôi đưa
hai bài thơ này và ý đồ của Hai Kỷ cho một nhà phê bình nhờ ông viết
đánh. Nhà phê bình này đã có lúc từng khen thơ Nguyên hay trên báo. Ông
nhận lời viết bài trong thời hạn rất ngắn. Sau hai tuần, bài đánh Trần
Khuất Nguyên được in ra kèm theo việc in lại hai bài thơ bốn câu. Số báo được bán chạy, bán hết trong hai ngày. Từ trước tới nay, tờ báo của tôi ế quá, người ta mua về để gói đồ hơn là đọc. Tòa báo lỗ quá, đành phải bán tiêu chuần giấy trắng đi để kiếm lời mà sống. Nhờ hai bài thơ bị nhà phê bình K. đánh, tờ báo bán chạy không ngờ. Tôi đề nghị nhân cơ hội này làm kế hoạch B, cho in thêm năm nghìn số báo nữa để phát hành rộng rãi ra cả các tỉnh bạn. Lại bán chạy như tôm tươi. Chúng tôi lời một số tiền lớn. Anh em cán bộ biên tập và phóng viên trị sự báo hí hửng như Ngô được vàng. Tôi họp
tòa soạn ăn mừng thắng lợi, tiếp tục mời các cây viết phê bình trong
ngoài tỉnh tham gia đánh tiếp hai bài thơ của Trần Khuất Nguyên. Đích thân tôi mời bốn nhà phê bình khác. Họ nhận lời viết trong một ngày đêm. Số báo
tiếp được in ra tới sáu nghìn bản. Nhưng than ôi, khi báo phát hành
chẳng có ma nào mua cả. Người ta chỉ tò mò muốn biết hai bài thơ bị
đánh, còn ai đánh, đánh sao thì người ta chẳng cần. Tòa soạn chúng tôi bị một cú thua lỗ trời kêu. Tôi nhận
được thông báo của đảng ủy sở thông tin văn hóa: Trần Khuất Nguyên đã
bị khai trừ đảng, bị cách chức phó phòng văn nghệ xuống thành nhân viên
thường. Trần Khuất Nguyên, nhà thơ thương binh chuyển ngành, từng có ba
bốn tập thơ được xuất bản, từng đạt được nhiều giải thưởng về thơ đã bị
cấm in thơ trên phạm vi toàn tỉnh Sơn Giang và toàn quốc. Ngay đến các
tuyển tập, Nguyên cũng bị gạt tên. Tay phó tổng biên tập của tôi vốn
là nhà thơ và tay tổ trưởng tổ thơ của báo mừng lắm. Hạ được một địch
thủ như Trần Khuất Nguyên, may ra họ mới có dịp nổi tiếng. Mỗi ngày, họ
ngồi lại với nhau quanh quán cà phê của báo văn nghệ tỉnh, hí hửng thông
báo cho nhau về nỗi bất hạnh mà nhà thơ liều mạng kia đang phải chịu.
Những đàn em của hai anh làm thơ này thì thụp thông báo cho họ những
hoạt động của Nguyên. Một buổi tối, đám thơ trẻ tập hợp quanh Hoàng Thi
và Vũ Điệu, người tổ trưởng thơ của báo tại tòa soạn. Họ mời tôi tham gia một buổi đọc thơ có nhậu. Tôi hiểu đây là bữa tiệc mừng của họ khi đối thủ thơ số một
bị hạ. Một thi hữu có tên là Dạ Lạc, cao to, trang trẻo, để ria con
kiến, mắt ti hí, nói giọng eo ẻo như tuồng lại cái, lè nhè:
- Báo cáo các anh, đây là một tin em mới nhận được. Các anh hẳn biết cô ca sĩ Lâm Tuyền chứ?
- Biết, diễn viên múa chuyển qua hát, vợ thằng Nguyên chứ gì.
Hoàng Thi lên tiếng. Tay Dạ Lạc tiếp:
-
Hết là vợ rồi. Lâm Tuyền vừa bế đứa con trai đến ở với thằng Tư Mộng
bán chợ trời. Thà làm vợ bé cho kẻ mánh mung còn hơn làm vợ một thằng
nhà thơ điên.
Hoàng Thi chêm vào:
-
Chuyện này tao biết lâu rồi. Con Lâm Tuyền tướng tá bốc lửa như vậy,
thằng Nguyên ốm nhách, sức mấy đáp ứng nổi. Con kia thì ưa ăn diện, nay
nhà hàng, mai du hí bám vào thằng Trần Khuất... Khuất gì tụi bây...
Khuất Điên ạ... Đúng, bám vào thằng Khuất Điên mà chết đói à? Sẽ còn
phải đi thăm nuôi dài dài nữa chứ? Thằng cha này, tao dám cá với tụi bây
không trước thì sau cũng tù.
Một gã làm thơ bé choắt, lấc ca lấc cấc, tên là Hữu Thân kể:
- Đám đàn em phục tài tay Khuất Nguyên giờ bỏ rơi hắn hết trơn. Hắn cô đơn lắm. Vợ nó bỏ đi, đếch thèm ly với
chả dị. Em giả bộ đến chơi để an ủi hắn. Hắn tưởng thật, cảm động lắm,
mời em ở lại ăn cơm. Cơm của hắn thì trời cũng ngán, chỉ có nửa bó rau
muống luộc chấm tương ớt, nuốt không vô. Em yêu cầu hắn đọc thơ, hắn lắc
đầu, Khuất Nguyên mà không đọc thơ thì còn gọi là Khuất Nguyên được
chăng? Em khích hắn rằng anh là thiên tài nhưng hắn vẫn câm như hến.
Thằng cha sợ hết mẹ nó hồn vía rồi. Sáng qua chủ nhật, em tà tà thả xe
đạp ra bờ hồ ngoại vi thành phố hóng mát, chợt thấy Trần Khuất Nguyên
đội cái mũ rách, mặc bộ đồ bộ đội xơ mướp người như tượng gỗ trên một
hòn đá. Lưng hắn dựa vào gốc cây, mắt hắn mở trừng trừng không chớp. Em
bèn rón rén núp vào một gốc si cổ thụ bên cạnh, ngầm theo dõi nhà thơ
coi hắn giở trò gì. Trời ơi, các anh biết hông, hắn lầm rầm đọc thơ như
kẻ cầu kinh vậy. Em hết sức dỏng tai ra nghe coi hắn có đọc thơ phản
động không để ghi chép về còn báo cáo mấy chú mấy anh. Nhưng hắn đọc
toàn những bài thơ thương nhớ đồng đội đã hy sinh trong rừng. Em nghe
câu được câu không. Một mình đọc thơ cho mình nghe mà tới có cả tiếng
đồng hồ. Hình như hắn đang cầu cứu vong hồn đong đội xưa. Hắn đọc xong
một tua thơ bèn gọi bao nhiêu tên người. Rằng Hùng, Tuyến, Chính, Hoan,
Danh, Lùng, Mậu... ơi. Hắn gọi tới mấy chục tên em không nhớ hết. Hắn cứ
độc thoại rì rầm như nói chuyện với ma vậy. Hắn còn quơ tay lên làm các
động tác hệt như đang tranh luận với ai một điều gì. Em ớn cả da gà.
Hay là thằng cha này nhìn thấy ma, đối đáp với ma? Rồi hắn cúi đầu xuống
như mặc niệm. Hắn cảm động điều gì không biết mà gần như là ứa nước mắt
ra vậy. Rồi bất thần hắn hát lên khe khẽ các chú các anh ơi. Hắn hát
bằng cái giọng ồ ề nhừa nhựa như linh hồn cơm nguội cất thành âm thanh
ấy. Hắn hát tùy hứng theo những giai điệu cực kỳ linh tinh tự đặt, lúc
nghiêm trang, lúc hết sức dông dà cà chớn. Sau đó, em thấy hắn gục xuống
rồi im lặng. Thì ra hắn ngủ ngồi các anh ơi. Em rón rén đến sau lưng
hắn quan sát. Trên đầu tóc hắn, lòi ra ở cái phần nón bê rê rách là một
vệt sẹp trang ởn, nghe đâu hồi đánh vào Sàigòn, hắn bị thương nặng ở ngã
ba Xuân Lộc. Nước da hần tái mét như bị thiếu ăn. Em tính đánh thức hắn
dậy để chọc chơi nhưng nghĩ thế nào, cứ để yên cho hắn ngủ. Thằng cha
Nguyên này cần phải gặp những người trong giấc mơ để được an ủi, để cầu
cứu và để tìm lối thoát cho đời mình.
Cả đám nhậu lặng im sau khi Hữu Nhân kể xong câu chuyện về nỗi bi ai của đối thủ họ đang bị. Tôi cũng thấy mủi lòng quả. Nhưng tôi, một tổng biên tập báo, không thể bênh vực một người làm thơ phản động được. Tôi bèn bít miệng bằng một miếng tim xắt khá to, đoạn tráng miệng bằng một ly rượu thuốc.
Đoàn Như, một gã chừng ba mươi tuổi, dạy học và sống
bằng nghề làm thơ thời sự. Đoàn Như có lúc đã là vệ tinh của Trần Khuất
Nguyên, nay Nguyên thất thế, hắn theo về Hoàng Thi và Vũ Điệu, hắn cần
phải có câu chuyện làm quà nên góp thêm một chuyện về Trần Khuất Nguyên:
-
Báo cáo các anh. Em là kẻ từng chơi với Nguyên, em biết. Thứ nhất, hắn
là thằng rất dễ tin người. Phải công nhận hắn yêu thơ vào loại siêu
hạng, hắn là cây đuốc lúc nào cũng cháy đùng đùng. Thầy điều quấy là hắn
phản đối ầm ầm như sóng bể. Cái hôm đồng chí trưởng ban tuyên huấn
giảng chính trị nói về khuyết điểm của nền kinh tế. Ông hay dùng chữ
chúng ta sai lầm thế này, chúng ta sai lầm thể nọ... Trần Khuất Nguyên
xin phát biểu liền, hắn đốp chát: tại sao các đồng chí lãnh đạo cao cấp
làm sai không chịu nhận, rằng chúng tôi sai lầm thế này, chúng tôi sai
lầm thế nọ lại đổ cho chúng ta, cho tất cả mọi ngưởi. Như vậy, có nghĩa
là các đồng chí ấy không dám chịu trách nhiệm, trốn tránh trách nhiệm.
Chức vụ, quyền hạn, bổng lộc thì của tôi, của chúng tôi, cái hay cái đúng thì thuộc về chúng tôi,
còn cái dở cái sai thì tất cả quần chúng phải chịu trách nhiệm. Đồng
chí trưởng ban tuyên huấn không đủ lý cãi lại, đứng ì ra một hồi rồi lờ
đi, coi như cái thằng láo lếu Trần Khuất Nguyên chưa hề có trên đời. Các
anh thấy hắn ngổ ngáo bợm trợn chưa nào? Thời buổi này, đã làm thơ làm
thẩn lại còn dám cả gan vuốt râu hùm, mó dái ngựa, chết là phải. Hôm
qua, em gặp hắn đi bộ từ sở về nhà. Em hỏi xe đạp đâu không đi, hắn trả
lời, con vợ bán hết đồ theo trai rồi. Bây giờ hắn đói rách lắm. Bây giờ,
hắn thường ra bờ hồ giả bộ câu cá để trốn tránh cuộc đời.
Hoàng Thi phải ngắt lời Đoàn Như:
-
Thôi, mặc xác hắn. Dại thì chết. Ai lại đi làm thơ về con vạc, về cái
thớt như vậy. Đấy thớt đấy, tha hồ cho hắn ăn toàn những vết dao.
Đêm ấy tôi không sao ngủ được, cứ mở mắt là lại thấy Trần Khuất Nguyên. Cho đến lúc thiếp được đi rồi, ngủ được chết đỉnh rồi, tôi lại mơ thấy anh lính trinh sát kia ngồi đọc thơ cho những đồng đội đã chết. Té ra, trong tôi dường như vẫn còn tồn tại một Trần Khuất Nguyên.
Ly Thân
Chương 17
Trong số các cô làm việc tại văn
phòng trị sự của tờ báo văn nghệ tỉnh Sơn Giang do tôi lãnh đạo, có một
cô tên là Ngọc Hương, trạc ba mươi sáu, ba mươi bảy tuổi. Cô được coi là
xinh nhất trong các cô công tác tại báo. Nhớ ngày đầu tiên, khi chúng
tôi đang hình thành tòa soạn, có một người đàn bà đến tìm tôi. Người ấy
mặc quần lụa đen, đi dép Nhật, áo mút-sơ-lin màu tím nhạt, mặt sáng rỡ,
mắt lá răm to sắc kẻ chì viền hơi đậm, lông mày tỉa tót, môi son rực,
mũi cao như đã sửa, móng tay, móng chân đánh màu vảy bạc óng ánh đưa cho
tôi một cái thư. Đó là thư giới thiệu của ông phó giám đốc sở thông tin văn hóa. Ông xin giới thiệu
với tôi người cầm thư này là cô Ngọc Hương, cơ sở cũ của ông đến xin
việc ở tòa báo. Trong thư ông phó giám đốc dặn, Ngọc Hương bình sinh rất
mê văn học, nay không phải túng bấn mà kiếm việc làm đâu. Rằng cô từng
ước làm được ở một tờ báo văn nghệ để đỡ buồn. Rằng cô Ngọc Hương cũng
có làm thơ, trước giải phóng từng tham gia thi đàn
Dệt Mộng. Nhìn dáng dấp người đàn bà một lúc, tôi suy nghĩ và cân nhắc
để tìm ra cái lẽ phải dùng người. Phàm một ông thủ trưởng nhìn xa trông
rộng, không bao giờ nên nhận một người đàn bà đẹp vào sở mình phụ trách,
nhất là người đàn bà đó đã tới tuổi sồn sồn và từng tham gia thi đàn thi điếc.
Ngữ ấy mà nhận vào cơ quan, khác gì nhận một trái bom nguyên tử. Đôi
mắt lá răm sắc lẻm kia khác nào lưỡi dao, có thể cứa đứt đầu đám nhà văn
nhà thơ trong tòa soạn báo. Nhưng ông phó giám đốc sở thông tin văn hóa
giới thiệu
tới xin việc, dù cơ quan tôi đã đầy nhóc, vẫn cứ phải nhận. Đằng này,
cơ quan đang phải tuyển người. Tất nhiên tôi phải nhận cô Ngọc Hương vào
làm việc. Đây sẽ là cái thử thách đối với phóng viên, biên tập viên.
Cậu nào lớ xớ là chết với tôi liền. Cũng hay, cần phải đặt một cái bẫy
trong nhà mình, để mình còn có cái cảnh giác, nhắc mình đừng chủ quan.
Sáng hôm sau, tôi tới cơ quan đã thấy Ngọc Hương ngồi trên sa-lông chờ đợi. Thấy tôi, cô cung kính thưa chú Ba Hưng. Hoàng Thi, phó tổng biên tập đang từ trên lầu xuống, nghe tiếng chào của Ngọc Hương, bèn vừa đi vừa tưng tửng đọc hai câu thơ.
Nếu không gọi chú bằng anh
Coi như chú đã hy sanh cuộc đời.
Tôi ngượng chín người. Đồ cà chớn. Vậy mà mấy người ngồi đó đều cười tủm tỉm, kể cả Ngọc Hương. Hoàng Thi bước xuống, cùng ngồi vào sa-lông bên cạnh Ngọc Hương, đối diện với tôi nói:
- Sao Ngọc Hương lại kêu anh Ba Hưng bằng chú? Giới thiệu với anh Ba, tôi đã quen biết Ngọc Hương từ hồi mới giải phóng. Ngọc Hương xoa xoa hai bàn tay đeo nhẫn, nhún vai:
- Thưa, Ngọc Hương xin lỗi. Từ nay xin được kêu thủ trưởng bằng anh Ba ạ.
Tôi
im lặng cười ruồi. Tôi là người mê quyền lực hơn đàn bà thì cô kêu tôi
bằng ông nội đi nữa cũng không sao. Từ đó, Ngọc Hương nhận chức văn thư
kiêm phát nhuận bút, nếu có khách tới thì mời mọc, tiếp rước, cần thiết
thì mời thủ trưởng ngồi trên lầu xuống. Tòa soạn báo văn nghệ tỉnh Sơn
Giang của chúng tôi tọa lạc trên một địa hình rất thuận lợi và yên tĩnh.
Đó là tòa biệt thự hai tầng, có ga-ra xe hơi, vườn cây, bể cá, kho
tàng, một dãy nhà phụ, là ngôi nhà của một tay bác sĩ giàu có đã đi Tây.
Hàng ngày, tôi làm việc và nếu thích thì ở luôn trên phòng lầu hai.
Ngọc Hương là con của một gia đình làm nghề buôn bán. Cha cô lấy vợ bé,
nên ở với mẹ từ nhỏ. Mẹ cô làm ăn phát tài nên tương đối khá giả. Cô học
trường nữ Gia Long rồi vào đại học Văn khoa. Đang học nửa chừng thì
Ngọc Hương lấy chồng. Hai người có với nhau một đứa con gái, ở với nhau
năm năm rồi ly dị.
Ba năm sau, Ngọc Hương lấy một bác sĩ góa vợ. Nhưng sau khi có đứa con
trai, Ngọc Hương lại bỏ về ở với mẹ. Người chồng bác sĩ đã di tản sang
Mỹ trước ngày ba mươi tháng tư. Ngọc Hương khai trong lý lịch rằng cô
tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Ngày đầu tiên đến tòa soạn làm việc, Ngọc Hương mặc áo dài lụa trắng, quần lụa trang hệt như một con thiên
nga khiến cả tòa soạn sững sờ. Tóc cô hớt tém kiểu con trai, chân đi
dép da ngoại, cổ đeo vòng vàng, son phấn trang điểm vừa phải nên nhìn cô
còn rất trẻ. Trời ơi, trong khi chúng tôi ăn mặc xuềnh xoàng kiểu lính
tráng thì cô văn thư lại diện như đi dạ hội. Hoàng Thi bảo
tôi cứ yên trí, mặc như vậy càng đẹp cho tòa soạn chứ sao. Nhưng tôi
không thể yên trí được. Ngọc Hương có thể sẽ làm cho các chàng trai trẻ
biên tập hoặc phóng viên mê mẩn hết thôi. Thấy Ngọc Hương làm việc
nghiêm túc, tận tụy, tôi đã phần nào an tâm. Suốt một tuần đầu làm việc,
dù không phải là người ghim gút hay bới lông tìm vết, nhưng tôi đã chú ý
xem được cô thay đúng sáu cái áo dài, toàn loại vải đẹp và sang. Tôi để
ý trong giờ rảnh, Ngọc Hương toàn cúi xuống đọc sách. Tôi thấy trong
các đầu sách cô văn thư này đọc, có nhiều cuốn của anh em trong tòa
soạn. Tôi cho là cô đang bắt mạch văn từng người, xem các chú cách mạng
nhà ta múa bút ra sao đây. Sang tuần thứ hai, Ngọc Hương toàn diện đồ
tây, áo bỏ trong quần, hết quần zin Mỹ đến zin nhung Mỹ, mỗi ngày một bộ
khác nhau. Mọi người nhìn cô lác cả mắt. Mỗi lần cô lên phòng tổng biên
tập đưa thư hay trình bày điều gì, tôi lại thấy cách ăn mặc quần zin bó
sát, áo bỏ trong quần của cô mà ngứa cả mắt. Tuần thứ ba, Hương thay
đổi chiến thuật bằng cách mặc toàn quần áo bà ba đen có, rực rỡ đỏ chát
chúa có, mỡ gà mỡ vịt có... Đến nỗi ban biên ủy của báo phải họp hai
cuộc họp, chi ủy họp hai cuộc họp để phân tích cái chiến thuật ăn mặc,
thay đổi kiểu cách của cô văn thư này nhằm mục đích gì, xem có xen vào
ít nhiều chính trị nào không? Tôi nghĩ bụng: đây là trò chơi để gây ấn
tượng chứ chính trị chính em cái quái gì, xem thử tâm lý các nhà văn
cách mạng có ngon không, có đoán được con người nội tâm của Hương không.
Rằng những dự đoán của các người sẽ lăn lông lốc, sẽ trượt ngã trước sự
biến hóa khôn cùng của một người đàn bà đẹp. Mặc xác sự lộng lẫy làm
duyên làm dáng của Hương, tôi có chiến thuật chiến lược của tôi: lạnh
như băng, cứ là nguyên tắc, nguyên tắc và nguyên tắc, không để xen vào
giữa mối quan hệ của thủ trưởng với nhân viên một tí tình cảm nào. Thái
độ của tôi với Hương đã được chương trình
hóa. Có khi, trong cuộc họp, tia mắt tôi chạm vào tia mắt Hương, như là
cô ấy ngầm tuyên bố: đạo đức giả hoài, để rồi xem đồng chí có tu hành
được mãi không? Con mắt cô nhìn tôi với những chùm tia le-de thách thức,
sản sàng gây ra một cuộc chiến tranh không tuyên bố. Trước Ngọc Hương,
tại sao tôi không được tự nhíên, phải kên lên lên, đạo mạo lên, như anh
gà trống vươn cổ lên lấy uy tín gáy mà không sao gáy nổi. Tại sao tôi
không thể bình thường, không thể thoải mái như khi tiếp xúc với nhân
viên nữ phái khác? Tôi nghe tiếng vị luật sư bào chữa trong mình cất
lên: ồ, thủ trưởng thì phải quan tâm tới nhân viên, từ công tác đến đời
tư chứ. Thậm chí đến việc cô ấy thay đổi màu sơn trên móng tay móng chân
cũng đừng hòng qua mắt được lãnh đạo. Có một dạo, tôi biết tay phó tổng
biên tập cáo già Hoàng Thi tán
Ngọc Hương. Lý trí tôi biết rằng Ngọc Hương không sao thoát được con dê
già biết làm thơ này, nhưng tình cảm tôi lại không thừa nhận điều đó.
Tôi biết hết, các người đừng hòng qua mặt thằng Trần Hưng này. Đến con
ruồi đực hay cái, đã chửa đễ hay thậm chí còn trinh hay mất trinh tôi
còn biết, huống hồ ánh mắt si mê của tay Đông-joăng này khi nhìn Ngọc
Hương. Tôi bắt đầu thấy tức anh phó của mình. Này anh kia, bông hoa của
tập thể, của công viên, sao dám tự động ngắt về phòng chơi riêng là sao?
Nguyên tắc là nguyên tắc: tôi, chúng tôi không đụng tới thì anh đừng có
hòng mà xớ rớ được. Nhưng tay Hoàng Thi này
không phải loại vừa. Vả lại, ngoài tám tiếng vàng ngọc, Ngọc Hương còn
những mười sáu tiếng tự do vô tổ chức, tha hồ tưng tẩy, muốn làm gì thì
làm. Ngọc Hương lại có nhà riêng, phòng
riêng, nó muốn mời ai về là quyền của nó. Nhưng nếu con người của anh
chỉ là của anh, vậy thì tổ chức, vậy thì chế độ không có tí quyền sở hữu
nào trên người anh à? Cứ lấy cái lý ra mà nói, rằng chúng ta đang sống
trong một xã hộí tập thể, một xã hội quốc doanh, sao mỗi con người lại
cứ thích sống xé lẻ, tủn mủn trong vỏ ốc cá nhân vậy. Nhưng cô Ngọc
Hương này đâu phải kém cô Ngát trong chi bộ của tôi thời xưa, khi bị tổ
chức kiểm thảo về chuyện yêu đương. Tôi nhớ hồi đó, Ngát có chồng đi bộ
đội xa, bị bắt quả tang đang hôn hít một anh cùng cơ quan. Người ta bèn
lập ngay biên bản, đưa Ngát ra kiểm điểm. Trong lúc họp, Ngát đứng lên,
trợn mắt, chỉ vào miệng mình hỏi: thưa các đồng chí, đôi môi này là của
tôi hay của tổ chức ạ? Có tiếng trả lời: tất nhiên là của đồng chí nhưng
do tổ chức quản lý. Ngát bèn vừa khóc vừa quát lên: đôi môi này là của
tôi, tôi muốn hôn ai, cho ai là quyền của tôi. Chừng nào tôi dùng đôi
môi của tổ chức, dùng cái miệng của tổ chức để đi hôn hít người khác thì
tổ chức mới có quyền kiểm điểm chứ? Cuối cùng, tập thể, tổ chức đành
chào thua cô Ngát, bởi vì cái lý của nó quá đúng, chả ai bẻ nổi. Rút
kinh nghiệm chuyện này, để tôi sáng suốt hơn khi nhìn vào mối quan hệ
của Hoàng Thi và
Ngọc Hương. Cuối cùng, tôi nhủ thầm: kệ cha nó, khi nào bắt gặp cảnh
nam trên nữ dưới mới nói, mới kỷ luật được. Tuy vậy, đôi lúc, tôi vẫn
tức trào hông. Hay là mình ghen với thằng phó của mình rồi? Nếu vậy nguy
lắm, coi chừng mất ghế. Từ ngày đó, tôi đâm ra ghét hai cái đứa lăng
nhăng này. Tôi coi Ngọc Hương là con phản bội lại tập thể. Trong cách
nhìn của tôi luôn luôn phát tín hiệu nhac nhở: tôi là thủ trưởng cơ quan
đấy nhé, các người đừng có mà qua mặt được tôi. Buổi tối, tòa soạn báo
văn nghệ Sơn Giang thường vắng hoe, chỉ có bác gác cổng già trông nom
cửa chính, vợ chồng cậu lái xe và cô thủ quỹ ở căn nhà phụ phía sau. Cho
nên đôi lúc tôi thường ở lại cơ quan, nấu ăn và ngủ lại luôn trên căn
phòng tầng hai. Một lần tôi đưa tập bản thảo truyện ký của mình cho
chánh văn phòng nhờ đánh máy. Cơ quan chỉ có một cô đánh máy chữ bận túi
bụi cả ngày. Chánh văn phòng báo cáo với tôi là tập bản thảo của tôi
nhờ Ngọc Hương đánh máy giùm. Tôi chấp nhận mặc dù rất ghét Ngọc Hương.
Lẽ nào tôi lại nỡ phủ nhận nhiệt tình của nhân viên mình, theo kiểu dội
gáo nước lạnh vào gáy người ta. Chiều đó tan sở, Ngọc Hương không về. Cô
ra ngoài ăn phở rồi vô đánh máy bản thảo cho tôi. Buổi tối hôm đó tôi ở
lại cơ quan, sau khi tự nấu cơm ăn xong đang tính mở đài nghe thì có
chuông điện thoại. Tôi cầm ống nghe lên thì ra là giọng Ngọc Hương
-
Dạ thưa anh Ba. Em đã đánh đến trang thứ mười hai của bản thảo, chỗ này
anh viết em đọc không được rõ. Cho phép em gặp anh hỏi lại được không?
Tôi vui vẻ: - Tốt thôi, mời đồng chí lên.
Bỏ
máy xuống, tôi đứng phắt dậy soi người trong gương, chải lại đầu tóc,
xếp lại cổ áo pi-gia-ma, coi mặt mũi có vết nhọ nào không vì ít ra cũng
cần phải biết lịch sự với phụ nữ. Tự nhiên, tôi cảm thấy hồi hộp. Tôi tự
mắng mình: đồ khỉ, làm như bồ bịch không bằng, nên nhớ rằng anh là tổng
biên tập báo đấy nhé. Đừng có mà nghĩ đông nghĩ tây, kẻo lại mềm nhũn
người ra như con chi chi, có cái xương sống lập trường lại oằn xuống thì
có nước ăn cám. Tôi đã nghe tiếng guốc lên cầu thang. Rồi một tiếng gõ
cửa thật êm. Tôi mở cửa. Ngọc Hương hiện ra. Tôi choáng váng tí nữa ngã
quỵ. Toàn thân cô
cháy rực trong một chiểc rốp mới thơm nức mùi nước hoa đất tiền. Tôi
mời cô nhân viên không mấy dễ lãnh đạo bằng lý trí vào phòng. Cô nhìn
tôi, khẽ mỉm cười:
- Xin lỗi, em đã làm mất sự yên tĩnh của anh Ba.
Tôi
mời ngồi nhưng Ngọc Hương vẫn còn đứng giữa phòng một lúc. Hình như cô
muốn tôi đủ thời gian ngắm cái giò dài thon rất đẹp của cô. Cặp giò này
làm tôi lạnh toát cả người. Đời tôi có đảng và có chúa làm chứng, chưa
bao giờ được nhìn thấy của lạ thế gian như vậy. Cô như một thiếu
phụ của giới trưởng giả bước vào căn phòng của anh nhà văn nửa nhà quê
nửa phố huyện, cả đời chỉ biết một người đàn bà là vợ mình, cũng quê
kệch, cũng ấm ớ và ưa lý sự như mình. Chừng như đã đủ cho tôi chết ngợp,
Ngọc Hương bèn ngồi xuống ghế sa-lông, gác chân chữ ngũ khiến tôi càng
bị động. Ngọc Hương, người đàn bà biết làm chủ mọi tình huống bằng chính thân xác mình, giở bản thảo của tôi ra hỏi:
- Thưa, đoạn này em đọc không rõ chữ, nhờ anh chỉ giùm em.
Tôi gạt chuyện bản thảo bản thiếc đi:
- Thôi Hương, để uống nước đã. Cô giúp đỡ tôi tận tình như vậy mà tôi lại quá mất lịch sự đi.
Ngọc Hương gấp tập bản thảo lại:
- Có gì đâu ạ. Được phục vụ anh Ba là niềm vui của em.
Tôi lóng ngóng pha cacao sữa mời khách. Tôi quên béng mất chuyện cô ta là lính, còn mình là thủ trưởng. Ngọc Hương cầm ly cacao
sữa uống. Cô ăn nói như hát. Mắt cô nhìn tôi không chớp khiến tôi đánh
rơi cái muỗng xuống sàn. Tôi chưa kịp cúi xuống lấy thì Hương đã lấy
giùm tôi. Tôi nhìn thấy rất rõ cái cổ của cô, cái vai của cô. Trời ơi,
vai ra vai và cổ ra cổ nhé như không còn là vai với cổ nữa mà là một
miền toàn ngọc với ngà. Tôi như kẻ đang đánh đu trên các sự vật. Lẽ nào
Ngọc Hương đã thôi miên tôi? Thấy tôi nhìn, Ngọc Hương bèn cúi xuống,
chân cô di di trên tấm thảm len trải nhà như một con mèo nghịch nang.
Tôi nhìn bàn chân cô như nhìn thấy cái khoảng trống của đời mình. Qua
khoảng trống ấy, tôi chợt phát hiện ra thế giới này với tôi vẫn chỉ là
một khoảng tối không đáy, cần phải có người đàn bà nào đấy tỏa ra một
thứ ánh sáng huyền nhiệm để tôi phát hiện ra mọi điều. Nhưng khi Ngọc
Hương vừa phát hiện ra chất men của mình đã đủ ngắm vào lòng tôi, thì cô
dừng lại. Cô cương quyết hỏi đoạn tôi viết trong bản thảo cho rõ rồi
xin phép xuống nhà đánh máy tiếp. Tôi tiễn cô xuống cầu thang cuối cùng,
nơi mách bảo với tôi rằng quan hệ của tôi và Hương bao giờ cũng chỉ là
thủ trưởng với nhân viên, chứ nhất quyết không phải là mối quan hệ giữa
đàn ông và đàn bà.
Về phòng, tôi
mở cuốn sách ra đọc nhưng chẳng thấy chữ đâu, chỉ còn toàn màu đỏ của
cái rốp, màu ngà voi của cặp đùi, màu hồng nến của ngón chân ngón tay.
Tôi quyết định nằm xuống và ngủ. Nhưng tôi càng nhắm mắt, ma quỷ càng
cám dỗ, càng nhìn thấy rõ bờ môi khoé mắt của Hương.
Tối
hôm sau, Hương vẫn ở lại đánh máy tới khuya. Tôi xuống tầng dưới, ghé
tai vào cửa sổ để nghe rõ tiếng lách cách của máy chữ. Tôi lên phòng,
ngồi gần máy điện thoại xem Hương còn hỏi gì về bản thảo nữa không. Đến
chín giờ tối, tôi leo lên sân thượng nhìn thấy bóng Hương ra khỏi cổng
cơ quan, ngồi lên chiếc P.C. rồ máy. Tiếng cánh cổng sập lại và tiếng
khóa bác gác cổng đang khóa làm tôi buồn quá. Đến tối thứ tư thì tôi
không thể làm cao mãi được. Tôi phải hạ mình xuống mời Ngọc Hương nghỉ
tay đánh máy lên lầu uống nước. Hương từ chối mãi mới chịu nhận lời. Cô
bảo tôi lên trước, cô sẽ lên sau đó chừng mười phút. Tôi chờ cô sao thấy
lâu vậy. Một lần nữa, Ngọc Hương lại làm cho tôi bổ ngửa. Cô mặc một bộ
váy ngủ trắng tinh, mỏng tang, khêu gợi, ỏn ẻn cầm cuốn sổ nhỏ bước vô
phòng. Tôi mở mấy lon bia ngoại chuần bị sẵn mời khách. Qua ánh đèn
nê-ông, tôi thấy Ngọc Hương hôm hay son phấn kỹ hơn, còn đeo cả lông mi
giả. Ôi, cả đời, tôi chỉ toàn sống với kiểm điểm, viết văn, kháng chiến,
học nghị quyết... đã bao giờ ở gần một người đàn bà thành thị sành điệu
và rực rỡ như thế này? Son phấn kia, lông mi giả kia, áo quần kia, thân thể
kia như thể từ trời vừa rớt xuống, tôi có cảm tưởng chỉ cần đụng nhẹ
tay vào là tan biến mất. Tôi mời Ngọc Hương uống bia. Cô không từ chối.
Nhìn cô uống, tôi hưng phấn tới mức quên giữ gìn khoảng cách:
- Hôm nay, sao Ngọc Hương đẹp quá.
Cô bĩu môi:
- Em đâu có đẹp. Chẳng ai nhìn em cả đâu.
Trời
ơi, tôi không còn là ông tổng biên tập đạo mạo nữa hả trời? Tôi đã
thành một gã đàn ông tán gái. Sao tôi lại huyên thuyên với Hương đủ
chuyện, giữ cô ở lại phòng này hết đêm nay ư? Mặc xác tòa soạn, mặc xác
công việc em ạ, mai ta hãy lo. Bây giờ ta nói chuyện văn học đi, tôi bảo
Hương như vậy. Ngọc Hương đưa cho tôi cuốn sổ bảo:
- Em làm thơ đấy. Nhờ anh coi giùm. Đừng cười nha.
Tôi
cầm cuốn bản thảo đã chép sạch mở ra đọc. Tôi chẳng còn nhìn thấy chữ
nghĩa gì ráo. Đầu tôi đang quay cuồng cùng với cái váy ngủ trang kia.
Hương bảo tôi:
- Đèn nê-ông chói mắt quá. Anh tắt giùm em, mở đèn tròn cho ấm.
Tôi
làm theo như một nhân viên của cô, còn cô thì hóa ra một thứ tổng biên
tập mới. Căn phòng vàng vọt lại. Tôi bảo cô để cuốn sổ thơ lại, tối mai
tôi sẽ góp ý. Tự nhiên, Hương nhìn tôi như rút hết ruột gan rời đứng
phat lên đòi về.
Nhưng cô vừa bước ra khỏi ghế thì tôi cầm tay cô giữ lại.
Cô
dùng bàn tay kia vuốt nhẹ cánh tay tôi. Phải nói thật nghiêm túc là lúc
đó, tôi mê đại như người say sóng. Ngọc Hương đột ngột dùng hai cánh
tay níu lấy cổ tôi kêu say bia quá. Tôi đã bị quỷ ám, cứ theo thứ tự của
bản năng mà làm. Tôi dìu Hương vào giường. Tôi xiết lấy đau cô hôn như
mưa đá. Người đàn ông trong tôi kỳ lạ thay, đã thức dậy một cách hết sức
mãnh liệt. Với Ruộng, sao tôi thành kẻ bất lực, còn với Ngọc Hương, tôi
là một con người rất bình thường, rất khác, rất sung mãn...
Tôi
tắt đèn. Chúng tôi nằm bên nhau tới sáng. Sau đó, suốt ba tối liền, tôi
và cô văn thư vẫn tiếp tục với nhau cái trò yêu đương vụng trộm ấy. Hai
chúng tôi cứ im lặng hành sự. Nhưng Hương không chịu ngủ lại phòng tôi
như tối đầu nữa. Ban ngày, nhìn Hương, tôi cảm động đến độ đỏ mặt.
Nhưng
cô ta vẫn lạnh tanh, làm như giữa chúng tôi chưa hề có chuyện chăn gối
ấy. Đến ngày thứ năm, khi cuộc tình của tôi với Hương đang lên cao vút
như lời một bài hát thì cô xin phép nghỉ ở nhà vì đau bệnh. Tôi nhớ
Hương vô cùng. Tối hôm ấy, Hoàng Thi mời
tôi sang phòng làm việc của anh ta uống cà phê. Sau khi uống cạn phin
cà phê, hút gần hết điếu thuốc ba sổ, người phó tổng biên tập của tôi
bảo tôi:
- Anh Ba Hưng ơi,
tôi có cái này hay lắm, bên công an văn hóa vừa gởi cho tôi. Họ nói với
tôi và anh nên giải quyết trên tinh thần nội bộ, đảm bảo danh dự cho
nhau. Tôi tái mét mặt. Hoàng Thi lôi
từ trong cặp ra một cái máy ghi âm bằng bàn tay đứa trẻ mười tuổi, chạy
pin tiểu. Anh ta ấn nút băng ghi âm làm tôỉ hết hồn dựng tóc gáy, toát
mồ hôi. Cuốn băng ghi lại toàn bộ cuộc nói chuyện, cuộc tán tỉnh yêu
đương ân ái của tôi với Ngọc Hương hai tối cuối cùng. Tôi gục xuống bàn,
xỉu đi đến mười lăm phút mới tỉnh dậy. Tôi hiểu liền. Trò gài bẫy quái
ác này chắc chắn là do thằng Hoàng Thi đạo diễn, cốt để lật tôi chứ công an nào. Tôi đã bị hai đứa Hoàng Thi và Ngọc Hương đẩy vào hố tuyệt vọng, như đẩy tôi vào cỗ quan tài cuối đời. Hoàng Thi hỏi tôi:
- Anh bình tĩnh chưa?
-
Rồi. Vậy anh nghe tôi nói đây. Hoặc cuốn băng ghi âm này sẽ vào tay vợ
anh, vào tay tỉnh ủy và các cơ quan hữu trách. Hoặc là anh phải ký vào
đơn xin từ chức tổng biên tập tở báo văn nghệ Sơn Giang. Giữa hai cái
xin anh hãy chọn một. Đây, bản đánh máy đơn xin từ chức của anh đã có
sản, nếu anh chịu, xin ký vào ba tờ. Tôi chẳng còn hờn vía gì nữa. Đởi
tôi coi như đã chấm dứt. Tốt nhất là không nên gây gổ hay chửi bới gì
Hoàng Thi và Ngọc Hương. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Tôi đọc bản đánh máy sẵn đơn xin từ chức tổng biên tập do Hoàng Thi đưa
cho. Trong đơn ấy được viết rằng vì tôi sức khỏe kém, thứ hai không
quen làm công tác quản lý, thứ ba là lớn tuổi rồi, cần có chết ít thời
gian viết, xin để đồng chí Hoàng Thi lên thay làm tổng biên tập báo. Tôi lặng lẽ ký vào ba tờ đơn do Hoàng Thi thảo ra và chắc là Ngọc Hương đánh máy, như một con rối được điều khiển bằng chất siêu dẫn. Hoàng Thi cám ơn tôi rồi cười cười bảo:
-
Xin anh giữ- một bản, tôi giữ một bản, một bản ta nộp tên tỉnh ủy và
ban tổ chức. Đây, cuốn băng ghi âm đây, xin trả anh để giư làm kỷ niệm.
- Thôi, xin anh cầm giùm cho. Tôi lầy cái thứ chó má này làm gì.
Hoàng Thi vui
vẻ: Thôi, để tôi giữ hộ cho vậy. Ngày mai anh phải đệ cái đơn từ chức
này lên tỉnh ủy ngay. Hắn ra lệnh cho tôi. Từ nay, mãi mãi tôi sẽ bị nỗi
sợ hãi điều khiển như cái roi điều khiển con ngựa.
Ly Thân
Chương 18
Thấy tôi dọn hết đồ đạc lặt vặt
từ căn phòng trên lầu hai của tòa soạn báo văn nghệ Sơn Giang về nhà,
Ruộng ngạc nhiên, nói kháy:
- Sao anh không ở đấy luôn cho hết đời. Anh còn về cái nhà ngục này làm gì cho khổ. Thì ra là cóc chết ba năm...
Tôi
đang bực tức điên đầu, chỉ cần một ngòi nổ là sẵn sàng có thể gây ra
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba. Tuy vậy, tôi biết mình sức vóc mồm
miệng có hạn làm sao địch nổi cái mồm có gang có thép của vợ tôi, với
lại, tôi đang phải đối diện với một bóng ma kinh khủng là cuốn băng ghi
âm bẩn thỉu kia. Đầu tôi đang phải đội một ông trời sắp sập, có thể
nghiền tôi thành cám. Chính vì vậy, tôi đành ghìm cơn thịnh nộ xuống để
tỏ ra hết sức dịu dàng thân thiện:
- Tôi không có quyền về ở hẳn nhà mình à bà?
-
Anh ở đâu cũng chẳng có ăn nhằm gì tới tôi. Vấn đề hiện nay là anh đừng
có gây rac rối gì cho công tác của mẹ con tôi. Tôi báo cho anh biết,
sắp tới tôi sẽ vào tỉnh ủy. Tôi cần sự giúp đỡ của anh.
- Sẵn sàng.
-
Vậy thì nhiệm vụ của anh đây. Từ nay, anh đừng làm bất cứ chuyện gì gây
tai tiếng xấu như viết lách sai lập trường, hoặc ăn nói vô tổ chức. Và
nhất là đừng bao giờ gây ra một vụ xì-lan-can như vừa qua trên báo văn
nghệ nữa. (Vợ tôi nói pha tiếng tây không quen nên xì-căng-đan mới nói
thành xì-lan-can. Chỉ vì bà ấy làm việc trong một căn phòng tại trường đảng có cái lan-can rất đẹp nên thường ra hóng mát).
Tôi giả vờ sửng sốt:
- Về xì-lan-can nào?
-
Tôi nghe bên công an họ xầm xì. Tôi hỏi, nhưng họ không nói. Tôi biết
là anh cứ thoát khỏi bàn tay lãnh đạo của tôi một cái là y như sinh
chuyện. Văn nghệ sĩ các anh rặt một thứ lang bang. Các anh không tìm
thấy tự do trong kỷ luật của tổ chức à? Dù là tâm hồn tâm hiếc cũng phải theo nguyên tắc, theo chỉ thị chứ.
Tôi ngứa mồm quá, nên cũng múa mép chơi:
- Bà và một số cán
bộ chính trị ít hiểu biết về văn nghệ lắm. Đối với văn nghệ sĩ cũng như
đối với người đàn ông vậy. Đừng giam hãm nó, nó sẽ bỏ trốn. Đứng bắt ép
nó yêu thương, nó sẽ căm ghét. Đừng ra lệnh cho nó làm tình, nó sẽ làm
tội. Đừng cưỡng bức nó chung thủy, nó sẽ phản bội. Chỉ có thể dùng tự do
làm xiềng xích mới hòng giữ được nó. Hãy thả con chim kia ra bầu trời
là quê hương của nó, mới có thể quản lý được cái không thể quản lý là
tâm hồn và tình yêu của nó.
Không
hiểu do ăn nhằm phải cái giống gì mà tôi nói hăng say văn vẻ như một
nhà truyền giáo rao giảng đức tin của cái đẹp. Có thể vợ tôi, một cán bộ
chính trị có cỡ, sẽ chụp cho tôi cái mũ là một tên tà đạo uống mật gấu
lập ngôn, hòng tung ra một cái thuyết, một cái gì đại loại như tư tưởng,
đạo loại như sự sáng tạo lại thế giới này thông qua cảm xúc tình yêu.
Vì đối với vợ tôi, nguyên tắc đảng chính là chân lý. Cho nên, một cách
nói khác đi, một nghi vấn hay một suy tư sống
động có nhã ý bổ sung và sáng tạo lại những giá trị cũ đều sẽ bị phản
bác, đều sẽ bị gản cho một từ rất kinh khủng là phản động. Học thuyết về
zen di truyền học của Măng-đen và Moóc-găng khẳng định sự tồn tại, sự sống của sinh vật trong mối
quan hệ biện chứng giữa di truyền và biến dị. Nếu sinh vật chỉ biết di
truyền lại các thế hệ sau tất cả thuộc tính của mình mà triệt tiêu mọi
khả năng biến dị của đời sau thì chắc chắn sinh vật ấy sẽ không còn nòi
giống. Di truyền chỉ có thể gọi là di truyền nếu nó biết biến dị. Khả
năng biến dị chính là khả năng sáng tạo, khả năng hằng sống
của sinh vật nói chung, của con người nói riêng. Do đó, phàm một học
thuyết, một tư tưởng dủ vĩ đại tới đâu chăng nữa, nếu muốn tồn tại, muốn
thoát ly khỏi
lý thuyết màu xám để hóa thành cây đời mãi mãi xanh tươi như câu cách
ngôn nổi tiếng của Gớt, nhất thiết phải tuân thủ quy luật di truyền và
biến dị của sinh vật học. Học thuyết ấy, tư tưởng ấy sẽ không bị cứng
nhắc, bị vôi hóa, bị thời gian phủ nhận nếu nó biết hóa thân vào đời sống
luôn luôn chuyển động, nếu nó biết cách khám phá ra khả năng di truyền
biến dị và sáng tạo của mình. Vợ tôi ngồi im lặng nghe tôi huyên thuyên.
Đoạn bà ấy thuyết:
-
Văn nghệ sĩ các anh hay triết lý tầm phào lắm. Từ trước tới giờ, anh cứ
chê tôi là con bò, là mụ nhà quê xắn quần lội ruộng đi theo cải cách
ruộng đất. Anh có bao giờ thèm nói chuyện về chính trị hay văn nghệ với
tôi đâu. Đầu anh vẫn còn đầy thuốc đỏ và dao kéo mổ của cái con mẹ bác
sĩ nặc nô. Anh có biết rằng vợ anh đã vươn lên từ một cô thôn nữ mù chữ
trở thành một giáo sư, một phó giám đốc trường đảng phụ trách môn lý
luận Mác-xít, như vậy, dù có mù lòa hay điếc lác, cũng phải công nhận là
nhờ cách mạng, nhờ đảng, tôi mới vươn lên được những đỉnh cao này từ
một con bé nghèo khổ phải đi làm con ở cho địa chủ. Bây giờ, tôi đã hai
thứ tóc trên đầu, đã sang tuổi ngũ tuần nên mọi lời nói hoa hòe hoa sói
ngụy biện không bịp được tôi đâu. Anh nói gì viết gì thì viết, đừng bao
giờ phản bác lại con đường mình đã đi.
Vợ tôi ngừng nói. Bà ấy cúi đầu xuống làm ra vẻ tủi thân.
Có lẽ do thói quen hay lên lớp chính trị, quen lãnh đạo tư tưởng người
khác, Ruộng cũng như nhiều người đàn bà khác đã quên cái vũ khí lợi hại
nhất của mình, cái vũ khí mà Tây Thi và Dương Quý Phi đã dùng để làm đổ
thành khuynh nước. ấy là sự kiều diễm, nét dịu dàng nhân hậu, cái tha
thướt ngây thơ trong vẻ đẹp của thân xác
và tâm hồn vậy. Nếu người đàn bà biết dùng sự yếu đuối của mình làm sức
mạnh, nàng không chỉ làm chủ được người đàn ông, mà đôi khi còn có khả
năng chinh phục được thế giới. Nhưng vợ tôi được sinh ra không để làm
một người đàn bà mà để làm một nhà cách mạng. Phải chăng đó chính là căn
bệnh thời đại? Bà ấy tiếp tục lên giọng chỉ huy:
- Anh hãy từ bỏ những thứ triết lý tư sản kia đi để trở về với tư tưởng của giai cấp vô sản. Tư tưởng đó được cụ thể hóa trong trường
hợp của anh là: đừng bao giờ làm thơ làm phú, viết văn viết vẻ, mơ mộng
đến người tình nhân bác sĩ đã chết của anh nữa. Chỉ vì nó mà đời tôi
bất hạnh. Thứ hai, không được viết, được nói bất cứ điều gì sai nguyên
tắc đảng, làm hại đến con đường vào tỉnh ủy của vợ con. Thứ ba, hãy quan
tâm đến con gái anh một chết. Con Vương Thi đã có bồ hai năm rồi đấy.
Thứ tư, luôn luôn phải ngồi ở nhà mà viết, cơm nước có con hầu này với
Vương Thi lo. Thứ năm, viết xong rồi đưa cho em duyệt nghe chưa?
Chao
ôi, cuối hịch truyền của lệnh bà, không hiểu sao mụ ấy lại xuống sề
bằng một tiếng em rất cải lương vậy không biết. Từ đó, tôi nằm dài ở
nhà, làm một con cáy thập thò ra vô trông trời trông đất. Tôi được
chuyển biên chế về tổ sáng tác của hội văn nghệ tỉnh Sơn Giang, nơi toàn
các bố già sáu mươi lăm bảy mươi chưa chịu về hưu. Tôi nằm trong nhà
như nằm dưới đáy một cái hố. Không còn một cái thang, một sợi dây nào
trên mặt đất thòng xuống cứu tôi lên nữa. Tôi đã bị ném ra ngoài cuộc sống.
Đang làm tổng biên tập tờ báo văn nghệ tỉnh, quyền sinh quyền sát, lên
xe xuống ngựa, ai ai cũng nhìn tôi kính trọng, đặt bút xuống ngoáy một
chữ ký là anh này được in, anh kia xếp xó. Vừa nắm được tí quyền lực trong tay,
đang hí hửng như Ngô được vàng, chưa kịp lội qua sông, vàng đã rơi mất.
Thà bị chặt cụt hết hai tay, hai chân còn hơn mất cái chức tổng biên
tập. Ngay đến khả năng để tiếc, tôi cũng không còn nữa. Ôi cũng tại tôi,
khi chín mươi chín cái cổng thành đã khóa chặt, tôi lại kiêu căng bỏ
ngỏ một cửa để thử thách khả năng canh phòng của mình. Trời ơi, con Ngọc
Hương, tôi đã tự bảo mình rằng: mỗi người đàn bà là một cái bẫy, lỡ dại
chui vào hoặc là chết tươi ngay, hoặc là mục xương suốt đời không
thoát. Tôi còn mặt mũi nào nhìn thấy trái tim của Oanh trong ngực
mình nữa? Suốt mấy tháng trời, tôi phải khổ sở vật lộn với lương tri
mình khi nó tỉnh thức. Tôi bị các ý nghĩ, các loại tình cảm đối lập nhau trong bản thân mình
nện cho nhừ tử. Phải chi tôi không còn lương tri nữa có lẽ đã bớt khổ
hơn, sẽ vẫn ngủ ngon sau những hành động vô nhân cách. Có phải lương tri
đó chính là đôi mắt Oanh nhìn từ tâm hồn tôi ra? Tôi đau vì mất chức
tổng biên tập một nhưng đau vì sự phản bội Oanh tới mười lần. Tôi đã
gieo hạt giống sợ hãi, hèn nhát thì làm sao lại được gặt sự dũng cảm cơ
chứ? Tôi bắt đầu sợ mọi thứ xung quanh mình. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy
một cái máy ghi âm vô hình, có hàng nghìn lỗ tai nghe trộm đang ghé sát
vào đầu tôi để sao chụp lại từng ý nghĩ. Cái băng ghi âm Hoàng Thi đang
giữ chính là cái nhà tù của đời tôi. Lại còn cuốn nhật ký ngày xưa vợ
tôi tịch thu chưa trả lại nữa, cứ y như một con cọp dữ luôn luôn rình
rập ở mọi lối đi của cuộc đời tôi Có nhiều ngày, tôi đã chui vào góc
nhà, ngồi co ro trong bóng
tối như một con gián và suy nghĩ về mọi điều. Nghĩ một hồi, tôi nhớn
nhác, lơ láo nhìn quanh và sợ toát mồ hôi. Không biết có kẻ nào theo sau
ghi chép đứợc những ý nghĩ lộn xộn vô tổ chức, vô kỷ luật của tôi để
báo cáo không biết? Có buổi tôi ra bờ sông, nơi không có một bóng người
để ngồi nghĩ ngợi về bao nhiêu điều từng day dứt cuộc đời tôi, về tự do
và nô lệ, về cá nhân và tập thể, về quyền lực và nỗi sợ hãi, về sự kiêu
ngạo đến tàn nhẫn của con người. Tôi có cảm giác như mình là một kẻ nghĩ
chui, suy tư lậu. Những ý nghĩ của tôi chưa được cấp trên duyệt chưa
được tập thể thông qua. Và vì vậy, tôi lại sợ hãi đến co dúm cả người,
lại run rẩy đến vã cả mồ hôi. Tôi lại ngơ ngác nhìn xung quanh xem có
cái đuôi nào bám theo mình, để rồi bắt quả tang những ý nghĩ của mình và
lập biên bản về tất cả những gì tôi vừa suy tư một cách bắt hợp pháp.
Trời ơi, tôi sợ hãi ý nghĩ của mình quá. Những ý nghĩ, mi thật là bất
trị. Tôi càng sợ hãi nó thì nó càng đuổi theo tôi, cứ ám lấy đầu tôi như
ma quỷ. Chung quy lại cũng chỉ vì tôi sợ mình nghĩ sai mà thôi. Khi cô
đơn, con người bao giờ cũng là kẻ cả nghĩ. Tôi chạy vào toa-lét vừa có ý
định tắm, vừa có ý định chạy trốn dòng suy tư của mình. Nhưng quái quỷ
thay là sự hoạt động của đại não, những ý nghĩ cứ đuổi theo tôi. Có ngày
tôi điên đến độ chui vào trong chăn
suy nghĩ, hy vọng sẽ không ai vớ được mình. Nhưng rất cuộc tôi vẫn sợ
hãi, tôi vẫn cứ toát mồ hôi. Bởi vì, tôi vẫn là một kẻ nghĩ chui, một kẻ
suy tư lậu. Tôi không được quyền tư tưởng một cách độc lập. Trong đầu
tôi luôn luôn cần có một con bò biết nhai lại ý nghĩ người khác, nhai
lại những tư tưởng của người khác. Hay là tôi bị thần kinh? Đụng vào
đâu, nghĩ tới đâu tôi cũng đều sợ hãi. Thế giới này với tôi từ một hạt
bụi cho đến một giọt sương cũng đều không tin cậy được, cũng đều giấu ẩn
một lỗ tai, một cái miệng, một đôi mắt của một tên chỉ điểm. Trời ơi, tôi sống làm sao được nữa trong cái
thế giới đặt toàn cạm bẫy này. Cuối cùng, sau một cuộc toát mồ hôi vì
những ý nghĩ lung tung lang tang khap nơi khap chốn ấy, tôi chợt phát
hiện ra mình chính là kẻ theo dõi, là tên chỉ điểm của chính mình. Ngay ở trong đầu
tôi đã có một lực lượng chuyên môn hù dọa, chuyên môn làm cho nỗi sợ
hãi được gia tăng, luôn luôn theo dõi và bám đuôi những ý nghĩ bất trị
của chính mình. Tự do, nói gì thì nói, trước hết phải biết cách xuất
hiện trong đầu ta. Hay là tôi không có khả năng tự do, tôi không có khả năng được sống
là chính mình? Tôi, một nhà văn, sinh ra cốt để làm cái loa cho kẻ
khác, làm bản nháp cho kẻ khảc hay sao? Tôi phải tìm cách thoát khỏi mọi
nỗi sợ hãi vô cùng tận này. Và cái cọc giữa biển khơi khi tôi sắp chết
đuối là tập bản thảo thơ của tác giả Hoài Bão tức đồng chí Tràng Giang
hiện là bí thư tỉnh ủy, người đã chỉ thị cho tôi sống,
chỉ thị cho tôi viết văn, chỉ thị cho tôi lấy vợ từ gần bốn mươi năm
xưa. Xin nhắc lại hồi Tràng Giang về làm bí thư tỉnh ủy, có gọi tôi lên,
phong chức cho đàn em, đưa cho tôi một tập bản thảo thơ của ông mang
tựa đề Đêm mặt trời. Phải nói công bằng thơ Tràng Giang rất dở, như vè,
như tấu, như nói có vần, rất nôm na, ý tứ nghèo nàn, vần điệu gượng gạo,
ngôn từ luộm thuộm chẳng ra làm sao. Nhưng vì là tập thơ của bí thư
tỉnh ủy, nên anh dù thằng thắn cách mấy, bố bảo dám nói sổ toẹt ý nghĩ
của mình, dám chê bai đúng như giá trị vốn có của tập thơ. Vì vậy anh
phải nói khác đi, nói sao cho khéo để ông bí thư đừng cho là mình bốc
thơm, mình nịnh. Nghệ thuật của kẻ nịnh bợ là nghệ thuật của kẻ dối lừa,
bịp bợm đã ở trình độ siêu hạng. Anh nịnh cách sao để người được nịnh,
thấy mình không bị nịnh, nhất mực cho rằng anh nói chân thành. Các nhà
nịnh học xưa nay đã làm cho khoa học nịnh trở thành một nghệ thuật, có
thể viết một cuốn sách dạy nịnh để tung ra thị trường chữ nghĩa hôm nay
chắc là hốt bạc. Thưa thủ trưởng, thực ra thủ trưởng chỉ đáng là cái giẻ
rách, nhưng em vì quyền lợi của mình, em phải nâng thủ trưởng thành ra
gắm ra vóc, thành lụa thành là. Em tung bùa chú của ngôn từ làm cái
thừng dat mũi thủ trưởng như dat con trâu con bò. Khi kẻ có quyền ưa
nịnh nọt, hắn tự biến mình ra thành con rối, thành công cụ trục lợi trong tay
bọn nịnh thần mà hắn vẫn hí hửng không biết. Bằng nghệ thuật bốc thơm
cao cấp, từ xưa, đám quan lại nịnh thần đã xỏ mũi được vua chúa. Vua ưa
nịnh là ông vua đã bị vô hiệu hóa, đã mất hết quyền lực. Và từ đó, quyền
sinh quyền sát nằm trong tay
bọn nịnh thần đê tiện. Bằng cách viết bài khen, biến thơ dở thành thơ
hay cực kỳ, tôi đã biến Tràng Giang thành chỗ dựa vững chắc, thành vật
bảo hiểm cho mình. Tôi viết bài bình thơ bí thư tỉnh ủy gởi cho báo tỉnh
ủy và dĩ nhiên là được ưu tiên đăng nhanh nhất. Tôi viết bài khen thơ
bí thư tỉnh ủy vừa độ để ông sung sướng. Vì vượt qua giới hạn của sự
phổng mũi, ông ta có thể nghĩ là tôi nịnh bợ vì động cơ cá nhân. Tuy
nhiên, có rất nhiều kẻ biết người khác nịnh mình nhưng vẫn không từ chối
lời khen, vẫn cứ sướng, thậm chí còn cảm thấy nịnh chưa tới số.
Tôi tiếp tục ngồi ở nhà viết bài bình giảng hết bài thơ này đến bài thơ
khác của tập bản thảo Đêm mặt trời của Tràng Giang. Thậm chí, Hoàng Thi
giờ là tổng biên tập báo văn nghệ tỉnh vì hắn biết đánh cắp chức vụ của
tôi một cách hợp pháp, đã sai người sang đặt bài tôi viết về những bài
thơ của đồng chí bí thư. Vả lại, Hoàng Thi biết tôi là em kết nghĩa từ
xưa của đồng chí bí thư. Sau khi bình được tám bài thơ của bí thư tỉnh
ủy trên báo thì tôi nhận được thư của Quát là thư ký thứ hai của bí thư
tỉnh ủy. Tôi biết tỏng đi là cá đã cắn câu rồi. Kẻ nịnh đã biến người
được nịnh thành bất cứ thứ gì, vật gì nó cần. Như lần trước, tôi được xe
Von-ga đen đến chở qua một trạm gác, một barie để vô nhà riêng của bí
thư tỉnh ủy. Tràng Giang và Thùy Linh vợ ông ta cùng đi ra vườn đón tôi.
Họ rất niềm nở. tất nhiên là sự niềm nở của kẻ bề trên, mời tôi dùng cà
phê trước. Tôi vừa nghe Tràng Giang nói về tình hình thời sự vừa ngầm
quan sát Thùy Linh. Hôm nay, người đàn bà mô-đen này mặc một bộ đồ bằng
da đen rất đắt tiền, áo bỏ trong quần
thẳng thớm căng cứng, y hệt một con quạ biết cách thu hút cái nhìn của
đàn ông. Bà vợ bí thư hôm nay son phấn nhiều hơn lần đầu tôi gặp. Thùy
Linh cũng hút thuốc, thở khói lên trời, mắt lơ mơ, thỉnh thoảng nhìn tôi
bằng cái nhìn của lưỡi tầm sét. Đôi khi, người đàn bà này nói chen vào
cho có chuyện, đoạn lại hút thuốc, đổi cái nhìn, phóng ra những tia
thách thức như ngầm ý bảo nhà báo nhà văn có biết ong bướm là cái giống
gì hay không? Tôi rùng mình quay đi trước cái nhìn thăm dò của bà vợ ông
bí thư. Hèn chi, con trai và con cái tôi hay bàn tán về chuyện đời tư
của bà đệ nhất phu nhân tỉnh Sơn Giang này. Rằng bà ta có cả mấy trăm
cái áo cái quần loại cực mốt. Rằng bà ta xỏ mũi ông chồng già bí thư,
lôi đi như con mèo kéo theo cái đuôi của nó vậy. Rằng mọi quyền hành nơi
ông chồng thực chất nằm trong tay
bà vợ cả. Bà ta nắm được cái thóp của các tỉnh ủy viên cho đến các ngài
giám đốc sở. Anh nào lại không có mánh mung, không có tật, không có
điều mờ ám. Bà ta có một hệ thống em út chuyên môn theo dõi hoạt động
của các cán bộ lớn trong tỉnh.
Ai muốn lên chức, muốn có cái ghế ngon nhất nhất phải qua cửa bà ta.
Rằng bà Thùy Linh này đã ngủ với bất cứ ai bà ta muốn. Gần như cả tỉnh
đều biết chuyện đó trừ ông chồng gà mờ bí thư. Nghe hai đứa con bàn tán
những điều cấm kỵ như vậy, tôi quát: ăn nói tầm bậy tầm bạ, tù đấy các
con ạ. Thằng Văn cười bảo tôi: rời bố xem. Đến bữa ăn, Thùy Linh thay đồ
tây bằng đồ đầm. Bà ta mặc một cái váy ngắn màu da người, như thể nó là
sự tiếp tục của cặp giò cao và rắn chắc. Tràng Giang giải thích sự ăn
diện của bà vợ:
- Tôi vừa đưa bà
ấy đi nghỉ mát bên Tây. Dù mình có ăn diện thế nào đi nữa, cũng vẫn chỉ
là cái anh nhà quê, so với mấy bà vợ những ông bí thư tỉnh ủy bên đó
cùng đi nghỉ mát với chúng tôi.
Tôi cười cười phụ họa:
-
Dạ đúng đấy anh ạ. Bên Tây họ ăn mặc như trời ấy chứ. Chi cần phải
trang điểm, trang phục nhiều vào nữa mới phải, để cho mấy ông Tây bà đầm
nhìn vào mà lảc mắt.
- Chú nói quá đúng. Nào, ta uống đi. Khi đã ngà ngà, ông bí thư bảo tôi:
-
Thơ tôi đâu có hay mấy. Chắc là nhờ chú bình giải người ta mới biết.
Mấy bài chú viết có ích lắm. Chú ạ, thời nào cũng vậy, muốn làm lãnh tụ
thì chí ít cũng phải biết làm một tị thơ. Quy luật nó vốn vậy. Phàm các
vị lãnh tụ cách mạng lớn trên thế giới này đều có làm thơ cả. Lê-nin á,
Xta-lin á, có làm thơ đấy, làm ít thôi song vẫn được gọi là nhà thơ. Còn
Mác thì khỏi nói, lại làm thơ tình nữa mới ghê chứ.
Tôi đế vào cho câu chuyện thêm hào hứng:
- Anh còn thấy một vị lãnh đạo cao cấp nào của nước ta không làm thơ?
- Ai nào? Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
- A sao chú dám cả quyết điều đó. Vả lại, cả cuộc đời của cụ là bài thơ rồi..
Tôi cười xòa. Thùy Linh phóng ra một câu lấp lửng đầy vẻ nem chả:
- Tôi làm được nhiều cái lắm nhưng thơ thì xin chịu.
Nhân thời cơ đến, tôi bàn:
- Này thưa anh Tràng Giang, chỗ anh em trong nhà em xin nói thật nhá. Em xin phép anh cho xuất bản tập thơ Đêm mặt trời của anh đi.
- Chú bảo thơ tôi in thành tập á. Sợ người ta cười cho thì sao?
- Ai dám cười anh. Cả tỉnh này đố đứa nào dám cười anh chị.
Thùy Linh vênh mặt:
-
Phải. Tôi thách. Anh cứ để cho chú ấy in. Muốn làm lớn hơn cái chức bí
thư tỉnh ủy cò con này mà không chịu phát hành tập thơ thì dại quá.
Tràng
Giang vẫn chối như quan viên chối tiết canh lòng lợn. Tôi và vợ ông ta
phải khuyên giải, phải ép lấy ép để, cuối cùng ông ta mới chịu:
-
Tôi chỉ sợ mấy cụ ngoài trung ương bảo thằng Tràng Giang chơi trèo.
Thôi, tùy chú với nhà xuất bản tỉnh. Nhưng in ít thôi nhé. Phát hành nội
bộ thôi. Đừng có làm rầm rộ lên. Đừng có mượn người này người kia đề
tựa. Cũng đừng nhờ báo chí trung ương phê bình phê bủng mà mấy cụ lớn cụ
ấy mắng cho đấy
Tôi còn lạ gì Tràng
Giang, con người khiêm tốn chủ nghĩa này nữa. Những điều ông ta vừa nói
trên đây, tinh ý thì phải cần hiểu ngược lại hết. Rằng ông ấy bảo in ít
thôi nghĩa là cần phải in số lượng
cho lớn vào. Rằng ông ta bảo chỉ phát hành nội bộ có nghĩa là phải rải
hết cho phát hành trung ương và các tỉnh. Ông ta bảo đừng làm rầm rộ thì
phải hiểu là nên tổ chức họp báo để phát hành tập thơ chẳng hạn. Chúng
tôi vừa ăn dê tay cầm, vừa uống rượu ngoại vừa bàn về tập thơ Đêm mặt
trời.
Từ ngoài phòng khách, Quát, người thư ký thứ hai của Tràng Giang hớt hải chạy ra:
-
Báo cáo đồng chí bí thư, sở lương thực vừa gọi điện báo không hiểu vì
sao kho thóc Phú Hòa lớn nhất tỉnh bị cháy rồi ạ. Có kêu bên cứu hỏa
nhưng vì hết giờ hành chính nên không có ai trực điện thoại. Xin ý kiến
đồng chí bí thư.
Tràng Giang đang
bị vinh quang của nghề thơ hấp dẫn, đang mơ tới những chức vụ cao hơn
ngoài thủ đô. Tràng Giang làm như không hề để ý đến sự có mặt của Quát
và điều anh ta vừa báo cáo. Ông vẫn tỉnh bơ uống hết ly rượu vàng óng màu mật ong. Đoạn ông mới thủng thỉnh:
-
Đồng chí bảo hỏi bên chính quyền ấy nhá. Gọi cho đồng chí chủ tịch giải
quyết. Nhớ bảo sở lương thực rút kinh nghiệm. Lần sau chỉ được phép báo
cáo thành tích cho bí thư nghe thôi. Đồng chí nói cho họ rõ là bí thư
tỉnh ủy sinh ra không phải để nghe những vụ việc tiêu cực ấy đâu nghe.
Quát
vội trở về với cái máy điện thoại và vụ cháy kho thóc của mình. Anh ta
đang tức đám cháy vì sao nó lại không cháy vào giờ hành chính. Hai vợ
chồng ông bí thư và tôi vẫn tiếp tục vừa ăn vừa bàn về cách nấu ăn siêu
hạng của Tàu mà chúng tôi ít nhiều đã được nếm ở tại Bắc Kinh. Khi tiệc
trà đem ra, tôi lại thấy bóng Quát chạy vào, vừa nói vừa xoa xoa hai bàn
tay vào nhau:
- Thưa đồng chí bí thư,
đồng chí Năm Chiêu, bí thư huyện ủy huyện Nhân Hưng báo cáo là lúa của
huyện đang bị rầy nâu phá hoại có thể thất thu hai phần ba diện tích.
Anh Năm Chiêu nói là đồng chí bí thư tỉnh ủy đã hứa sẽ thúc công ty
thuốc trừ sâu giải quyết thuốc chống rầy cho huyện, nhưng chưa rót xuống
một ký nào ạ. Đề nghị đồng chí cho ý kiến vì Năm Chiêu đang chờ điện ạ.
Tràng Giang gắt:
-
Rầy nâu phá hoại lúa thì dính dáng gì tới bí thư tỉnh ủy nào. Hỏi bên
ủy ban nghe chưa. Bí thư tỉnh ủy sinh ra không phải để lo mùa màng thóc
lúa mà để lãnh đạo tư tưởng, là chịu hoàn toàn về chính trị trong tỉnh.
Tội
nghiệp tay Quát. Anh ta lại trở về với cái máy điện thoại cố hữu của
mình. Tôi cũng xin phép hai ông bà bí thư ra về. Tôi hứa tập thơ sẽ được
in ra trong vài tháng tới với lời tựa của một nhà thơ tên tuổi, sẽ phát hành với số lượng
tối đa, sẽ có họp báo linh đình, sẽ có nhiều cây bút phê bình danh
tiếng giới thiệu. Tràng Giang im lặng không nói gì. Trước khi tôi bước
lên xe, ông hỏi:
- ồ làm sao chú lại từ chức tổng biên tập tờ báo?
Tôi chột dạ, suýt nữa té ngửa. Nhưng trí khôn tôi của đáng tội cũng có giá, chớp liền thời cơ:
-
Thưa anh, sức khỏe em không được tốt. Vả lại, cũng muốn dành thời gian
còn lại của cuộc đời để đọc và nghiên cứu, nghiền ngẫm tập thơ Đêm mặt
trời của anh cho kỹ lưỡng, đặng viết bài bình phẩm hướng dẫn người dân
đọc ạ.
Tràng Giang bắt tay tôi nói nhỏ:
-
Cần gì chú cứ kêu tôi. Anh em tình nghĩa cũ, tôi không tiếc chú điều gì
cả. Năm nay, tôi đang bận rộn thời gian để hoàn thành tập thơ mới nhất
gồm sáu mươi bài mang tựa Mây tư tưởng.
Tôi phụ họa:
-
Trời, chỉ nghe cái tên tập thơ thôi là người ta đã chen nhau bẹp ruột
để mua bằng được Mây tư tưởng rồi. Chúc anh viết nhiều hơn nữa. Dưới vòm
trời che đỡ của bí thư tỉnh ủy, tôi cóc phải sợ hãi bất cứ một con muỗi
nào nữa. Tôi dám thách cả cuốn nhật ký cũ mèm vợ tôi vẫn giấu để nắm
tim tôi đấy. Tôi dám thách cả thằng Hoàng Thi, có giỏi thì tung cái băng
ghi âm quái quỷ ấy ra đi, xem đứa nào chết? Tôi đã nhờ được một nhà thơ
cự phách đề tựa cho tập thơ Đêm mặt trời của Tràng Giang. Tôi đang viết
thư thông báo cho mấy nhà phê bình chuyên môn viết bài khen ngợi thơ
phú của các vị lãnh đạo thì có tiếng gõ cửa. Chết cha, ai vậy kìa? Nếu
là vợ con thì đã có chìa khóa, cứ thể mở vào. Khách, lâu nay tôi đâu có
ma nào đến thăm. Những tay văn nghệ văn gừng ngày trước nịnh tôi bỏ cha
bây giờ coi tôi còn thua rơm rác. ấy, đấy, lại gõ cửa. Tiếng gõ nhẹ
nhàng ý tứ như vậy không của con gái đàn bà thì là của công an chắc? Tôi
lạnh toát xương sống.
Bỏ mẹ, nếu công an tới nhà, chắc chắn không phải để rủ tôi đi xi-nê hay
đi nhậu. Hay là thằng ôn con ấy đã gởi cuốn băng kia cho công an văn
hóa? Hay là cuốn nhật ký đầy những suy nghĩ cá nhân? Thấy chưa, lại gõ
cửa nữa rồi. Biết đâu, hay là con Ngọc Hương nó kiếm mình để xin lỗi và
giăng hoa? Tôi bước ra mở cửa. Này, cái gì thì cái, ông nào bà nào thì
cứ thò mặt ra là biết. Chao ôi, một ông lạ hoắc chắc hơn tôi vài tuổi,
lại cao to đứng lù lù trước ngưỡng cửa. Ông ta ăn mặc khá tươm tất, nhìn
tôi huýt sáo một cái thật kêu, giang tay ra đến phát khiếp. Tôi ú ớ:
-
Thưa, anh làm gì đấy ạ? Người kia bèn sấn sổ vào tôi, dùng hai bàn tay
nặng ký bất thần bíu chặt vào hai vai tôi như tính bắt, khiến tôi phải
lùi lại thật nhanh, đứng thủ thế, sắn sàng phóng ra một miếng võ nếu bị
tấn công. Ông lạ mặt bèn cười ré lên một tiếng như Trư Bát Giới gặp nữ
yêu:
- Quên nhau rồi à cha nội?
Tôi ngớ người.
- Chết cha, Hai Giỡn. Tí xíu nữa là xảy ra vẻ nện nhau như chơi.
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau đến độ ngã sóng soài ra cửa, rồi lại xáp vô nhau như hai đô vật. Tôi reo:
- Đồ quỷ sứ. Anh làm tôi hết cả hồn. Đang làm cục trưởng với hòn trưởng mà về đây làm gì ông?
- Tớ xin hưu. Gút-bai Hà thành vào đất An Hải sống với ông đây.
Dễ
hai mươi năm có lẻ chúng tôi lại mới được gặp nhau. Hai Giỡn mang theo
một lít rượu Làng Vân, mở gói Sa-mít bảo tôi uống và hút cho khói um cái
thành phố này lên chơi. Tôi mừng lắm, lật đật kiếm cái gì nhậu nhưng
Hai Giỡn can, tí nữa ghé thăm nhà ông ta rồi tính. Chúng tôi được một
bữa huyên thuyên sướng nhé. Sau đó, chúng tôi lại quay về câu chuyện
thời sự, về cái sự chán chường khiến Hai Giỡn phải xin về hưu. Rằng ông
thấy mình bất lực trước muôn nghìn cái xấu, cái ác, cái bất công mà
người ta gọi tránh đi là tiêu cực đang ăn rỗng cả rường cột quốc gia.
Ông cảm thấy người cầm quyền như đang xa rời dần cái xuất phát điểm và
cái mục tiêu của cách mạng. Bố mẹ vợ ông không có con trai thừa kế, nài
nỉ ông về An Hải này để các cụ trao lại dinh cơ. Đó là một ngôi nhà hai
tầng xinh xắn nằm trong một khu vườn đẹp ở ngoại vi thành phố. Số Hai Giỡn là cái anh nhờ lộc vợ. Hai Giỡn uống vại ly rượu vào là hăng hái lắm. Gặp bạn thân, ông moi gan ruột ra để kể chuyện tình của mình cho tôi nghe một cách say mê như thời trai trẻ:
- Hồi đi học nước ngoài về, tớ vẫn chưa chấm được cô nào cả, nói chung là chưa muốn lấy vợ. Tớ được phân một căn phòng nhỏ xíu trong hẻm
phố Hàng Chuối. Một lần mở cửa sổ ra, tớ thấy qua cửa sổ nhà đối diện
một cô gái trắng đến nỗi tớ chưa từng thấy có cái gì trên đời trắng hơn,
ngồi đan áo len. Dáng vóc cô ta thật lý tưởng. Thấy tớ đứng bên này cửa
sổ nhìn không chớp, nhưng cô ta không ngẩng mặt lên bao giờ, vẫn cúi
xuống đan áo. Bấy giờ, tớ dạy ở đại học Bách khoa, mỗi lần về nhà mở cửa
sổ ra, lại thấy cô gái đó ngồi đan áo, vẫn nước da trắng đến độ trứng
gà bóc còn đen nếu dám so với cô ấy. Tớ huýt sáo hoài nhưng cô ta vẫn
không thèm ngẩng đầu lên ông ơi. Tớ tức lắm. Lạ, con cái nhà ai mà kiêu
kỳ vậy không biết? Suốt cả tháng trời tớ không sao thấy được mặt mũi cô
gái bí hiểm này, để coi cô ấy xinh thật hay xinh dỏm. Ngay lối cổng đi
lại, tuyệt nhiên cũng chẳng thấy cô ta ra. Hỏi hàng xóm thì tớ không
muốn. Ba Hưng biết vì sao, làm cách nào để tớ nhìn thấy mặt cô đan len
kia không? Vỏ quít dày, tất nhiên phải sinh móng tay nhọn, tớ mới kiếm
một cuộn len bằng cái hột vịt, nhét vào giữa viên sỏi cho nặng rồi viết
mấy chữ vào một mảnh giấy nhỗ gởi trong ruột
cuộn len rằng: Anh muốn được nhìn thấy gương mặt em. Đoạn, tớ nhằm cô
ta từ bên này cửa sổ, ném cuộn lên vụt một cái qua cửa sổ nhà cô ta.
Trời ơi, phải nói là tuyệt vời, cuộn len trúng cái bịch vào ngay ngực cô
nàng. Cô gái bèn ngẩng đầu lên nhìn tớ cậu ạ. Thật đúng là tiên nữ
giáng trần, mình choáng váng như kẻ sắp sửa chết đói ấy. Tớ cứ đứng ngẩn
tò te ra như thằng bé nhà quê lần đầu tiên được nhìn voi ỉa. Tớ thấy cô
ta cúi xuống nhặt cuộn len, tháo tung ra, tìm thấy mẩu giấy cam cúi đọc
rồi tủm tỉm cười. Thấy vậy, tớ cũng nhe răng cười y hệt chú nghé con
vừa hít trúng đám cỏ non ngon lành. Từ hôm đó, cô gái biến mất, suốt cả
tuần lễ không ngồi bên song cửa đan len nữa ông ơi. Tớ buồn đến chết
được. Đi dạy học về chỉ làm mỗi công việc là mở cửa sổ chiếu tướng cửa
sổ nhà đối diện. Tớ nhớ quặn thắt ruột gan cái gương mặt trái xoan, cái
mũi bé bằng mỏ chim sáo, cái miệng chúm cha chúm chím thương đến rụng
tóc được ông ơi. Bỗng một hôm tớ ngồi viết rất say sưa thì nghe một
tiếng bịch hết hồn. Chả là từ có nàng, tớ kê ngay bàn viết giữa cửa sổ.
Sau cú bịch rơi từ đâu đến ấy, cái bút tớ đang cầm trên tay bị văng ngay
xuống đất. Tớ nhìn xuống gầm bàn thì hóa ra cuộn len của mình bữa
trước. Trời ơi, ông ném đi, bà ném lại, cô gái bí mật đã ném trả mình vị
sứ giả tuyệt vời là cuộn len nhỏ. Mình mừng muốn điên lên được, tới mức
có thể nhảy từ trên lầu xuống đường cũng cóc có sợ chết. Trúng rồi trời
ạ. Sự im lặng đã lên tiếng, bí mật đã bước đầu được khui mở. Tớ hồi hộp
nhạt cuộn len lên, moi trong ruột
ra một miếng giấy nhỏ. Tớ thề với cậu là lúc ấy tim tớ ngừng đập mấy
giây. Chữ của nàng đây, nét chữ bé tí tẹo như những con rận xanh dễ
thương bò nhấp nhổm. Đây, lời nhắn của nàng đây: Anh đừng nhìn em, em
xấu hổ chết mất. Từ đó, suốt ba tháng trời, giữa hai cái cửa sổ qua hẻm
phố chừng hơn ba thước đã xảy ra cuộc chiến tranh, mà viên đạn bắn qua
bắn lại là cuộn len có gài thêm bức thông điệp trái tim. Chúng tớ đã tỏ
tình với nhau bằng cái kiểu lạ đời ấy ông ạ. Tớ yêu cô ta chết mê chết
mệt. Cô ta dịu dàng và yếu đuối đến mức, tớ sợ mỗi ngày viên đạn si tình
ban qua ban lại chiu chiu hai ba lần như vậy liệu có nhừ xương không?
Đúng một năm trời, chúng mình cưới nhau cậu ạ. Tớ nói dóc thì xin ông
cọp cứ việc vồ tớ ngay cả khi dạo phố. Khi cô ấy mặc áo cưới về phòng
mình thì có đến hơn một nửa dân Hà nội ghen tị. Cô ấy đẹp đến độ tớ có
tả mấy đi chăng nữa cũng chỉ là sự bôi bác mà thôi. Nhưng khi lấy về, tớ
mới biết cô ấy điếc nặng cậu ạ. Được cái may lớn là vợ tớ điếc nhưng
không câm. Nghe đâu đến hơn mười mấy tuổi cô ấy mới bị điếc. Đêm tân
hôn, tớ ghé vào tai cô ấy hét: Anh yêu em. Cô ấy nghe tiếng đực ra tiếng
cái bèn hỏi lại: Sao, anh yếu hả? Yếu thì ngủ đi để đêm mai. Cô ấy hiền
lành đến bụt cũng không bằng. Vợ tớ suốt ngày ngồi đan len làm nội trợ.
Nhiều lúc tớ thấy thương cô ấy đến giàn giụa nước mắt. Một lần cô ấy
giận tớ đến hai ngày không thèm ăn cơm. Tớ ghé vào tai cô ấy
nựng, tất nhiên không thể nựng thầm mà là quát lên: Em cưng. Cô ấy buồn
lắm. Hai ngày sau cô ấy bảo tớ: Em dịu dàng mềm mại như thế mà sao anh
lại chê em cứng. Tội quá, cưng với cứng chỉ hơn nhau dấu sắc mà không
hiểu được nhau. Năm sau, vợ tớ sinh ra một thằng cu đẹp hết ý. Khi thằng
bé lên sáu tuổi thì tớ có việc đi nước ngoài. ở nhà, xui xẻo sao, hai
mẹ con ra phố gíữa lúc máy bay Mỹ đến ném bom. Đau đớn thay, bom nổ, một
mảnh bom Mỹ cắm ngay vào gáy người vợ hiền lành xinh đẹp của tôi. Cô ấy
gục ngã và tắt thở liền tại chỗ. Còn thằng bé cứ ôm lấy mẹ mà gào, đến
độ máu của mẹ đỏ bầm hết cả người con. Khi tớ về thì cô ấy đã xanh cỏ.
Tớ đau buồn như điên dại. Tớ thành gà trống nuôi con. Cuộn len tình sử
là trái tim cô ấy gửi lại, hiện tớ vẫn còn giữ. Hai Giỡn kể xong, ngồi
lặng đi một phút. Hai mắt ông ngấn lệ ông hẹn tôi chiều maí sẽ cho Honđa
đến rước tớí thăm nhà mới của ông, nhậu lai rai chơi. Chiều hôm sau,
một cậu thanh niên tự xưng là con của Hai Giỡn đến rước tôi bằng xe máy.
Phải nói, căn cứ của Hai Giỡn thật lý tưởng. Nhà lầu, vườn rộng, cây
cảnh đẹp, có hòn non bộ, có hồ sen nhân tạo, lại chiếc nhà thủy tạ con
con, thật đời tôi nằm mơ đến ba kiếp cũng chẳng thấy. Người vợ mới của
Hai Giỡn trạc bốn mươi lăm nhưng dáng còn trẻ, trang điểm rất thoáng và
nhạt. Chị có cặp lông mi dài cong vút lên như lông mi giả, đôi mắt to,
sáng xanh, mũi ngắn nhưng thon, môi trái tim, cằm hơi lẹm, má đầy đặn,
răng trang hơi thưa, cổ thon dài nên nhìn quý tướng. Vợ Hai Giỡn là cán
bộ giảng dạy đại học vừa từ Hà nội chuyển vào An Hải này. Chị ra tập kết
theo một người anh trai đã hy sinh năm Mậu Thân.
Tôi nhìn đàn con sáu đứa đều đã lớn, đứa bé nhất hơn mười tuổi mà thấy
khỏe cả người. Nhậu xong, Hai Giỡn kéo tôi ra vườn, mắc hai cái võng nằm
ngắm trăng non để xổ bầu tâm sự. Anh kể về mối tình với người vợ thứ
hai này:
- Tự nhiên, tạo hóa hình như đã lên chương trình hết hay sao ấy ông Ba Hưng ơi. Cái số phải sống
với nhau thì dù có trốn vào tàu vũ trụ để lên mặt trăng ngồi rồi cũng
phải nhảy xuống đất thôi. Từ sau khi góa vợ, tớ tin là mình ở vậy nuôi
con cho đến lúc vô hòm. Năm 1973, mình thôi dạy học, về làm cục phó một
cục khá to của một bộ khá bự. Hồi ấy thằng con tớ lên mười tuổi. Hôm
chuyển nhà mới, cháu vội đi chơi đến nỗi không nhớ lối về nữa, rồi lạc
đâu mất tiêu. Tớ điên lên đi tìm con, nhờ hết bạn bè đến công an, chứ
hồi đó báo chí đài đóm toàn đưa tin đại sự họp hành lễ lạc, nào ai thèm
in lời rao trẻ bị lạc như báo ở phía nam bây giờ. Hơn một tuần rồi mà tớ
vẫn chưa tìm ra con. Tớ mất hồn vía, hôm nào cũng lang thang ở những
nơi công cộng. Một buổi chiều tớ đang ngơ ngẩn ngồi trên băng đá ngoài
công viên Thống Nhất thì chúa ơi, tớ nhìn thấy con mình đang nắm tay một
người đàn bà khá xinh đẹp, đang đi phất phơ nhìn nhìn ngó ngó như tìm
kiếm. Tớ kìm xúc động, lặng đi theo con mình và người đàn bà xa lạ kia
một đoạn mới bật kêu: Hiếu. Thằng bé quay tít lại sau y hệt cái com-pa,
nhào tới ôm bố khóc òa. Người đàn bà cũng xúc động rưng rưng nhìn hai bố
con tớ xoần lấy nhau như thừng như chão. Một lúc sau, cô ta mới nói nhỏ
nhẹ:
- Thưa anh, suốt cả tuần nay tôi phải dẫn cháu đi tìm nhà. Tôi cảm động vô cùng cám ơn chị ta. Thằng Hiếu, con tôi khoe:
-
Cô Hường thương con lắm. Cô Hường nuôi con. Cô Hường bảo nếu không tìm
thấy nhà, cứ ở với cô, cô sẽ là mẹ con. Con thèm có mẹ lắm. Người đàn bà
nhìn thằng bé đỏ cả mặt nói chống chế:
- Thôi đi Hiếu, cô đâu có nói thế.
Thằng bé càng già mồm:
- Cô thề nào. Cô nói cô là mẹ con mà. Cô thề đi.
Tôi phải can con trai để người đàn bà thoát khỏi điều khó xử:
- Sao con lại án nói với cô như vậy? Tôi cũng ngượng thấy bà. Người đàn bà tên Hường cũng mắc cỡ tới số.
Cô ta đứng nhìn xuống bàn chân mình đang di di trên đất. Thằng Hiếu đi
giữa, tôi và Hường đi hai bên để nghe nó khoe đủ thứ về cô Hường. Tôi
thấy Hường e lệ quá mức, hơi một tí là đỏ mặt, là bẽn lẽn, lấy mấy sợi
tóc mai thật dài che miệng. Chúng tôi cứ đi lòng vòng trong công
viên mãi. Tôi mời Hường vô nhà Thủy Tạ uống nước hoặc ăn kem, nhưng cô
từ chối đến mức tưởng như đi chung với tôi vào chốn đông người, cô sẽ
thẹn thùng tới mức tat thở mất. Tôi cảm ơn Hường rất nhiều. Tôi nói xin
địa chỉ cô để ngày mai đến cảm tạ, đồng thời xin phép thanh toán tiền
tổn phí trong suốt một tuần cô đã nuôi giùm con tôi. Hường nghe vậy làm mặt buồn suýt khóc:
-
Sao anh nghĩ về tôi như vậy. Nào có đáng gì đâu mà thanh với toán. Tôi
thấy cháu lạc đứng khóc hu hu mới dẫn về nhà nuôi để giúp cháu nhớ ra
lối về nhà cũ. Thôi, tôi xin chào anh. Hường ôm thằng Hiểu hôn. Nó không
muốn rời cô Hường. Nó khoe hôm nào sẽ tới mời cô đến nhà bố con nó
chơi, ăn cơm với rau muống nước tương và đậu rán. Nó nói toạt ra cái
điều cấm kỵ nhất trước những người đàn ông đàn bà vừa quen nhau, đang cố
hết sức tỏ ra lịch thiệp:
- Mời cô đến ở với bố con cháu cho vui. Bố con cháu có nhà rộng lắm.
Tôi
bịt mồm con lại. Hường đỏ tía mặt lên, bỏ chạy như con sáo sổ lồng. Tôi
thấy Hường xinh xắn quá, lại thương con mình đến độ khó nghĩ. Hôm sau,
tôi mua ít quà, dắt thằng Hiếu đến thăm Hường. Hường ở một mình trong căn
phòng nhỏ. Đồ đạc của cô rất sơ sài. Cô bảo cô dạy đại học. Chúng tôi
quen nhau, khi nào đi chơi cũng có thằng Hiếu. Nó khoái hết biết. Nó trở
thành cái cầu nối chúng tôi lại với nhau một cách chân tình và giản dị
hơn tất cả mọi thứ xã giao làm bộ. Chuyện tôi và Hường yêu nhau cũng tự
nhiên như thể cái điều phải đến tất sẽ đến. Suốt cả hai ba tháng khi hai
bên đã thổ lộ yêu nhau rồi, Hường không cho tôi cầm tay chứ chưa nói gì
đến hôn với hít. Cô ấy bảo em bị bệnh xấu hổ, đừng suồng sã, đừng đụng
vào em, em đứng tim chết mất. Suốt năm tháng trời yêu nhau, tôi tuyệt
nhiên không dám đụng vào người mình yêu chỉ vì cái bệnh xấu hổ của cô
thật trầm kha. Đến khi chúng tôi thấy cần phải sống
với nhau, nghĩa là phải làm đám cưới. Hường nói phải về thưa với mẹ.
Nhưng Hường là con em tập kết, mẹ nào ngoài này? Một ngày đẹp trời, cô
đưa tôi về Hà Đông chơi thăm mẹ, đặng chúng tôi cùng xin phép mẹ cho
được sống
vớỉ nhau đến bạc đầu răng long. Khi chúng tôi tới nhà, một bà già người
Bắc bước ra đón. Hường kêu bằng mẹ rất tình cảm. Chúng tôi vô tới sân,
có bốn đứa trẻ từ nhà chạy ùa ra kêu mẹ mẹ. Tôi xanh mặt:
- Trẻ con nhà ai vậy Hường?
Cô bình thản nói:
- Con em đó anh ạ.
Tôi cười nói:
- Thôi đi, em đừng có giỡn anh Hai Giỡn này làm gì.
Hường trả lời:
- Anh thử nhìn bốn con mèo con này xem có giống em y đúc không?
Tôi ngã ngửa:
-
ối Hường có con hồi nào kìa? Tôi tính trốn luôn, nhưng sao trái tim giữ
rịt tôi lại với Hường. Thì ra, Hường đã có chồng. Người chồng của cô đi
chiến đấu trong Nam hy sinh, để lại cho cô bốn mống này đây. Bà già đây là mẹ chồng của Hường, bà nội của mấy đứa. Tôi nghĩ một lúc, chép miệng:
- Thôi, mình đỡ phải mất công đẻ thêm con em nhỉ? Hường đứng lặng giữa bầy con ứa nước mắt:
-
Em van anh, anh đừng thương em nữa. Em nặng gánh lắm. Tôi vừa buồn vừa
thương cảm: - Lỡ yêu rồi làm sao được em. Tôi chấp nhận Hường. Chúng tôi
cưới nhau năm 1974 và sinh với nhau một cháu gái nữa, cộng với bốn đứa
con riêng của Hường, một đứa con riêng của tôi là thằng cu Hiếu, thành
ra chúng tôi có những sáu đứa con. Vậy là có lúc Hường phải hô lên, rằng
con em với con anh hè nhau đánh con chúng ta anh Hai Giỡn ơi. Đêm ấy,
tôi với Hai Giỡn nằm ngoài vườn tới khuya. Hai Giỡn chợt hỏi tôi:
- Này, anh có biết nhà thơ Trần Khuất Nguyên không?
- Biết.
-
Thơ anh ta hay thật. Tôi mê anh này lắm. Anh ta vẫn còn ở thành phố An
Hải này chứ? Hôm nào Ba Hưng dẫn mình tới thăm cậu ấy với. Ta mời hắn
tới đây nhậu.
Tôi nói dối bạn:
- Mình không quen lắm. Cánh làm thơ tôi ít hẩu lắm ông Hai ơi.
- Này, ngoài Bắc, thanh niên mê thơ Trần Khuất Nguyên lắm. Nghe nói hắn vừa bị đánh khiếp lắm hả?
-
Ôi, tí nữa là bị bắt rồi. Hắn bị mất đảng, mất chức. Ai cũng bảo hắn
hâm, mát giây. Ông chủ tịch hội văn nghệ thề rằng hắn bị điên thơ. Đi
đâu cũng đọc, sốt
cả ruột. Nghe nói hồi đánh Mỹ hắn bị thương vào sọ nên cũng có thể điên
lắm. Vợ tôi bảo bên khối tư tưởng người ta coi tên này là cặn bã của xã
hội đấy. Tôi không tin nhà thơ này điên hay mát. Nếu điên sao làm thơ
khá vậy?
Hơn một tuần sau, Hai
Giỡn đến rủ tôi tới nhà nhậu. Ông vừa được bầu làm phó chủ nhiệm câu lạc
bộ hưu trí của tỉnh. Ông khoe tôi:
- Trần Khuất Nguyên đúng là con người không bình thường trong cái
thế giới bình thường này. Anh ta rừng rực như một ngọn núi lửa, lúc nào
cũng có thể phun ra thứ nham thạch thơ ca rực cháy. Nhìn cung cách của
Nguyên, tôi chợt nhớ đến Maiacốpxki. Họ là những khẩu đại bác biết tỏ
tình đấy ông Ba Hưng ơi.
- Tôi sợ anh bốc tay này lắm đấy.
- Xin thưa với anh là chúng tôi vừa mời Nguyên đến câu lạc bộ hưu trí nói chuyện và đọc thơ đấy. Thành công rực rỡ ông ơi. Trong dự kiến, anh ta chỉ nói và đọc thơ trong hai
tiếng đồng hồ nhưng vì các cụ hưu trí vỗ tay quá, yêu cầu quá, đành kéo
dài ra thành bốn tiếng ông ơi. Nhiều ông hưu trí còn mê Trần Khuất
Nguyên hơn cả mê gái nữa. Trong cung cách sống
và viết, tôi hiểu cậu ta căm thù cái xấu cái ác biết nhường nào, nhất
là cái ác cái xấu kia lại luôn luôn lên giọng nhân danh cái tốt cái
thiện. Một con người sống như vậy lúc này thật nguy hiểm.
- Tôi cho rằng Trần Khuất Nguyên cực đoan quá đấy.
- Không, Ba Hưng ạ, xã hội chúng ta đang bị căn bệnh hiểm nghèo có nguy cơ làm sụp đổ tất cả là thái độ sống
thờ ơ trước cái ác, cái xấu. Theo Trần Khuất Nguyên, đây là căn bệnh
si-đa tinh thần của đất nước. Người ta đã học được nghệ thuật lờ đi,
chối bỏ trách nhiệm và lời hứa của cả một thời, làm như không biết cái
gì đang xảy ra, giả mù giả điếc trước những nỗi khổ ải của cả một dân
tộc.
- Nghĩa là Trần Khuất Nguyên dám bảo xã hội chúng ta đang mất dần khả năng miễn nhiễm trong đời sống tinh thần hả Hai Giỡn.
- Đúng. Tớ cũng đồng ý như vậy. Vậy thì một người sống
khác mọi người, luôn luôn đau lòng và phản ứng quyết liệt trước mọi cái
ác và cái xấu đang trở thành yếu tố bình thường của xã hội. Rồi cảnh
tỉnh mọi người bằng thơ ca, bằng cách sống không chịu thấp hèn của mình, con người ấy chắc chắc bị cho là điên khùng.
Tôi cắt ngang lời Hai Giỡn:
- Anh Hai ạ, bên khối tư tưởng người ta bảo Trần Khuất Nguyên là thằng hề Đông Kisốt.
Bên báo văn nghệ tỉnh, người ta bảo cậu Nguyên là thằng cha A.Q. bằng
đất thó. Bên Sở y tế họ bảo nhà thơ Nguyên là gã Chí Phèo không biết thân biết phận mình là gì. Còn bên công an bảo nó là tên phản động.
Hai
Giỡn không nói gì. Ông ngồi trầm tư có vẻ buồn buồn. Ông sai con lôi
cái điếu cày ra hít một hơi dài, thở khói ra như ống khói tàu hỏa:
- Tớ nhớ không chính xác lắm, có ông tổng thống Băng-la-đét sau này bị ám sát đã nói lên một câu thật hay. Câu ấy như vầy: Trong cuộc
ác đấu giữa thiện và ác, hiệp đầu bao giờ cái ác cũng thắng. ở hiệp
giữa, hai bên ở vào thể cầm cự nhưng cái ác vẫn còn mạnh hơn cái thiện.
Nhưng rất ráo, đến hiệp cuối cùng, cái ác nhất định sẽ bị cái thiện đo
ván.
Chúng tôi nhìn nhau rồi
nhìn ra cửa. Vòm trời đang xanh veo. Một đàn chim nhỏ xíu như đang bay
cạnh thời gian, rồi bay sang câu chuyện của chúng tôi về một nhà thơ
trẻ, mà trong thâm
tâm tôi rất kính phục, thậm chí đến nỗi còn có lúc phải ghen tị với anh
ta. Nhưng khi phải phát biểu chính kiến về anh, vì nhiều lẽ tôi không
chỉ không nói thật lòng mình mà còn phải nói ngược lại nữa. Tôi kể cho
Hai Giỡn câu chuyện về Nguyên:
- Thằng con trai tôi kể rằng, có một lần, chính mắt nó đã thấy Trần Khuất Nguyên đọc thơ trong đám
nhậu. Anh ta hơi say và đã làm thôi miên toàn bộ đám ăn mày, đám bụi
đời ngoài chợ. ăn mày và bụi đời kéo nhau vô quán nghe anh ta đọc thơ
đến nỗi chủ quán phải can thiệp.
Hai Giỡn bảo tôi:
-
Có khi những điều ăn mày và bụi đời thích thì lại trái tai gai mắt lãnh
đạo. Tôi xin đọc cho anh nghe bài thơ Con ốc của Trần Khuất Nguyên nhá:
Lấy cái lưỡi làm bàn chân.
Đi bằng đầu ốc chẳng cần ngược xuôi,
Đầu cắm xuống, đít ngó trời.
Một đời con ốc bao đời người ta.
- ớ, bài thơ nghe thì hay đấy, nhưng cứ sờ sợ thế nào đấy ông Hai Giỡn ạ.
Hai Giỡn như bị chạm nọc. Ông thuyết tôi một tua: Bọn cơ hội đầy tràn như lụt lội trong xã
hội ta hiện nay đều đi bằng lưỡi chứ nào có bước bằng chân. Chúng ta
còn duy tâm hơn cả con ốc. Con ốc đi bằng đầu còn chúng ta suốt một thời
toàn đi bằng tư tưởng, đi bằng ý chí. Chính trị là thống soái mà. Tôi
nghĩ rằng con ốc nó có vẻ kiêu ngạo đấy, nó dùng đít để ngó trời, nhưng
sự kiêu ngạo kia còn thua xa những người cầm quyền trong xã
hội ta. Hèn chi từ đời xưa, ông Lê-nin đã từng lên án gay gat cái thói
kiêu ngạo cộng sản. Vì kiêu ngạo, cho ý mình là ý trời nên xem thường kẻ
khác, coi thường nhân dân, lúc nào cũng sợ phải theo đuôi quần chúng
nhưng cái miệng thì toàn hô lấy dân làm gốc cả thôi. Tôi nói thật ông
đừng giận nhá, quan niệm của ông về văn học nói riêng, về nghệ thuật và
cuộc đời nói chung đã xa rời các nguyên lý mỹ học mác-xít quá lâu rồi.
Các ông hãy đọc lại kinh điển đi, xem lại lịch sử phát triển và tiến hóa
của tư tưởng và văn hóa nhân loại đi. Các ông, từ thời Sta-lin qua Mao
Trạch Đông đến nay đã tung ra một thứ lý luận hết sức dung tục là văn
nghệ phải phục vụ chính trị. Chính trị và văn nghệ đều là hai hình thái ý
thức xã hội độc lập với nhau của thượng tầng kiến trúc. Tất nhiên, sự
cộng hưởng qua lại, sự tương tác tương hỗ giữa hai hình thái ý thức này
phải được hiểu một cách biện chứng. Vì căn bệnh ấu trĩ đồng nhất văn
nghệ với chính trị, cho nên khi đọc một bài thơ, một cái truyện ngắn hay
một cuốn tiểu thuyết, các ông cứ cố tình kéo hình tượng, kéo các biểu
tượng của nó về phía chính trị, thành ra luôn luôn sợ ám chỉ, sợ ngụ
ngôn, sợ phạm vào húy kỵ của ông vua này của bà hoàng nọ. Thành ra văn
nghệ bị triệt tiêu mắt tính mục đích để trở thành một thứ phương tiện hạ
đẳng và rẻ tiền. Do đó văn nghệ hay văn học sẽ không còn mang tỉnh tư
tưởng nữa, sẽ mắt đi thiên chức của mình là tiên tri thời đại, hướng
thiện cho con người, giúp con ngươi tự phát hiện ra chính bản thân mình.
Các ông viết lách bao năm cốt để ru hát mà thôi. Ru đến nỗi khiến cho
con người lịm ngủ, đến mức không còn khả năng tỉnh dậy nữa. Văn học vừa
hát ru, vừa phải biết thức tỉnh, thậm chí biết cảnh tỉnh, cảnh cáo cái
xấu cái ác. Văn học các ông muốn có ích, muốn vừa đạt được cái tức thời,
vừa chạm được vào cái muôn thuở, nhất thiết phải vươn lên để trở thành
van hóa. Bởi vì, cái gì đã trở thành văn hóa thì nó cũng sẽ còn lại mãi
với con người. Lý thuyết mác-xít dạy rằng tính tất yếu của loài người là
phải tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Khi con người tới thế giới đại đồng,
vẫn theo lý luận, xã hội lúc đó sẽ không còn giai cấp, tức là không còn
đảng của bất cứ giai cấp nào, sẽ không còn chính quyền, quân đội hay tòa
án công an. Nghĩa là chúng ta sẽ có một thế giới mà yếu tố quyền lực bị
triệt tiêu, chính trị bị triệt tiêu, nhưng văn hóa thì còn mãi, văn học
thì còn mãi. Như vậy, ai lại đi bắt cái muôn đời, cái vĩnh hằng phải
phục vụ cho cái tức khắc, cho cái cần phải triệt tiêu đi. Ông có đồng ý
với lập luận này không Ba Hưng?
Tôi gật đầu, thầm phục khả năng ghê gớm của Hai Giỡn về những quan niệm thẩm mỹ mác-xít sắc sảo và thông minh. Tôi chêm vào:
- Rõ là đúng như vậy đấy, nhưng nói ra thì sợ bị quy là xét lại là phản động. Ông về hưu rồi nên cái sợ nhỏ hơn bọn tôi.
Hai
Giỡn im lặng hút thuốc lào sòng sọc. Tôi ngẫm nghĩ cái đời mình mà
kinh. Tôi cũng hiểu rằng khi nào con người còn phải sợ hãi, nó vẫn còn
chưa được giải phóng, vẫn còn là một kẻ nô lệ. Con người khi sinh ra đã
phải đối diện với nỗi sợ hãi vĩ đại nhất của đời mình là sợ chết, là nỗi
sợ khôn cùng trước cái hư vô thăm thẳm, trước những bí mật đến kinh
hoàng của thế giới tự nhiên. Tôn giáo, triết học, khoa học, nghệ thuật
được ra đời để giúp con người chống trả lại nỗi sợ sinh diệt này. Nhưng
đến khi xã hội loài người phân hóa giai cấp, con người lại phải chất lên
lưng mình cái ách vô cùng khốc liệt của nỗi sợ nhau, tức là nỗi sợ đồng
loại, nỗi sợ trước bạo quyền độc ác. Chủ nghĩa cộng sản muốn trở thành
yếu tố giải phóng đẹp nhất của con người, nhất thiết phải tìm ra phương
cách hữu hiệu nhất giúp con người thoát khỏi mọi ám ảnh sợ hãi. Nhưng
tôi biết người ta đâu đã làm được như vậy, người ta vẫn còn đe dọa đồng
loại mình bằng đủ cách, bắt con người phải sợ hãi mình và do đó phải
biết nghe lời mình. Trời ơi, có lẽ nào thu phục được nhân tâm, nếu một
kẻ có quyền kia cầm thanh gươm rồi túm áo đồng loại bảo: Nếu mày không
yêu tao, tao sẽ giết. Sta-lin, Mao Trạch Đông, Pôn Pốt đã làm như vậy,
đã biết cách khai thác nỗi sợ hãi và sự hèn nhát bạc nhược của con người
để làm vũ khí thống trị con người. Hai Giỡn thở xong làn khói thuốc làm
tôi suýt phát sặc và dừng lại mạch suy tư. Ông ta vẫn còn hăng lý luận
lắm:
- Cái sai lầm lớn nhất của các
vị lãnh đạo vừa qua là do học thuyết chính trị là thống soái chi phối.
Vì vậy, các nhà lập thuyết của đám Mao ít bèn đồng nhất chính trị với
mọi hình thái ý thức xã hội trên thượng tầng kiến trúc. Thành ra từ tôn
giáo, triết học, đạo đức, văn hóa văn nghệ đều là chính trị tuốt xít.
Người ta giảng văn hay giảng đạo đức trong nhà
trường cho tuổi trẻ học, thực chất là cuộc giảng dạy chính trị mà thôi.
Thậm chí người ta còn chính trị hóa cả khoa học tự nhiên nữa. Ngay cả
yếu tố tư tưởng là cõi tự do đích thực của con người cũng bị người ta
chính trị hóa bằng một cụm từ rất quen thuộc: chính trị tư tưởng. Do
vậy, thế giới quan nào thì sẽ có một nhân sinh quan đó.
Tôi
im lặng công nhận Hai Giỡn có lý. Tôi biết ông nói và viết được rành rẽ
ba thứ tiếng Anh, Nga, Pháp. Ông đã du học sang Liên Xô, đã đi năm bảy
nước tư bản. Ông đọc sách nhiều và ngay cả trong khu vực văn nghệ của chúng tôi, ông đã tỏ ra rất uyên bác, như một chuyên gia. Tôi nói với Hai Giỡn trước khi ra về:
-
Ông khuyên Trần Khuất Nguyên rằng đừng có làm cái thớt, phải biết cách
làm con dao. Hai Giỡn bắt đầu giỡn: Nhưng có khi thớt cũng chẳng phải
anh, dao cũng cóc phải anh. Anh chỉ là cái món ở khoảng giữa dao và
thớt.
Hai chúng tôi cùng cười thoải
mái. Tôi nghĩ bụng: nghệ thuật không cần phải học phương pháp bắn phá
của hạt nhân. Nghệ thuật có bùa phép của nó để đến với trái tim con
người. Nghệ thuật không cần đập vô các bức tường, nó thẩm thấu qua các
bức tường. Nghệ thuật chính là hình ảnh của tư tưởng. Mà tư tưởng của
con người bao giờ cũng có khả năng thẩm thấu vào cốt lõi của sự vật, vào
bề rộng vàbề sâu của thế giới. Bởi vì tư tưởng chính là tinh thần của
tồn tại vậy Nếu tôi có tài năng lớn, tôi sẽ mở ra một phương pháp sáng
tác riêng cho mình: phương pháp hiện thực thẩm thấu. Nhưng tiếc thay,
bao nhiêu sự dũng cảm của mình, tôi đã tiêu xài hết trong thời trai trẻ đi đánh Pháp. Còn bây giờ, trong cuộc
chiến đấu chống lại thói đạo đức giả, thói nhân danh cái thiện, cái cao
cả để làm cái ác, cái đê tiện, tôi lại là một kẻ hèn nhát đầu hàng. Vậy
mà tôi vẫn mang danh đảng viên, mang danh nhà văn thì quá khôi hài. Tôi
bỏ mặc những chàng Đông Kisốt
Trần Khuất Nguyên phải một mình chiến đấu với cối xay gió? Tuy nhiên,
tôi vẫn phải đối diện với đốm đom đóm lương tri của mình. ở nơi sâu thẳm
đó, vẫn còn đôi mắt của Oanh nhìn xuyên qua sự mờ ám của tôi với những
tia nhìn sắc nhọn và nhức buốt như nọc ong bầu...
Tôi cùng Tám Lợi, giám đốc nhà xuất bản tỉnh Sơn Giang xuống nhà in xem lại số giấy
có đủ in ra mười nghìn cuốn Đêm mặt trời của bí thư tỉnh ủy Tràng Giang
không? Chúng tôi làm cuộc lễ nhỏ khánh thành việc in tập thơ, có cắt
băng, có quà của bí thư tỉnh ủy. Tám Lợi nói thầm vào tai tôi:
- Theo dự trù, ít nhất nhà xuất bản phải lỗ vốn tới năm triệu đồng vì tập thơ này.
Tôi giải thích:
-
Thì lỗ hay lời cũng là ngân quỹ của nhà nước cả. Còn ông với tôi thì
không lỗ tí nào đâu, đừng lo. Ông Tám là tỉnh ủy viên lần nào chưa nhỉ?
- Chưa. Mình chưa tới số.
-
Ông cứ thử in thật đẹp tập thơ này vào xem nào. Muốn vào tỉnh ủy, anh
nào cũng cần phải có một cái thang. Leo lên không bằng thang thì bằng
cột mỡ à.
- Thì ai chả biết như vậy ông
Ba Hưng ơi. Nhưng thang nó cũng có ba bảy loại. Có loại thang chân, có
loại thang tay, lại có loại thang mồm, thang lưỡi ông ạ. Nhưng theo tôi,
loại thang cho đầu gối leo là hay hơn cả. Với ông, quen quá còn gì, tôi
cứ nói trắng ra như vậy cho dễ.
- Ôi cái
anh Tám này nhiêu khê quá. Thang nào thì thang, miễn leo lên là được.
Khi tôi tiễn tay giám đốc xuất bản về, một nhà thực dụng chủ nghĩa có lý
luận, chợt chuông điện thoại và người trực máy mời tôi đến nghe, có ai
đó kêu tôi. Tôi giật mình, liệu có phải là một tin chẳng lành bao giờ
cũng rình rập tôi.
- Ai đó? Ruộng hả?
Sao? Con Vương Thi làm sao? Năm ngày rồi nó biến mất, không lên lớp,
không về nhà thì đi đâu? Bà bảo tôi tìm nó ở đâu bây giờ? Xuống nhà
thằng bác sĩ Mão hả? Nó làm ở bệnh viện hay ở nhà? Tôi sẽ xuống bệnh
viện ngay bây giờ.
Tôi bỏ ống điện
thoại xuống mà toát cả mồ hôi. Con Vương Thi, niềm tin yêu duy nhất của
tôi vào cuộc đời vừa đi đâu mất năm ngày nay không xuất hiện. Tôi hình
dung ra bao nhiêu trạng huống con gái tôi gặp phải mà run sợ tái mặt.
Cuộc đời tôi cha mẹ sinh ra cũng như ai, giờ sao giống con cheo con thỏ,
hơi tí là run, hơi tí là tái mét mặt. Tôi leo lên xe đạp đến bệnh viện
tỉnh tìm cậu Mão, bác sĩ mới ra trường hai năm nay. Cậu này con nhà khá
giả, làm nghề buôn bán, học giỏi nhưng không được đẹp trai. Mão người
thấp lùn, đứng có khi còn chưa cao bằng con gái tôi nữa. Mắt cậu ta lại
một mí, loại mắt lươn, nhìn hơi gian gian. Hai đứa đã quen nhau sau lần
đi nghỉ mát ngoài Nha Trang. Mão tán Vương Thi một cách bão táp. Con bé
đổ. Hai đứa yêu nhau. Vương Thi yêu một cách cuồng nhiệt. Nó đã kể cho
tôi nghe về mối tình đầu của mình như đang kể cho cô bạn thân vậy.
Nó khoe với tôi về bao nhiêu cái hay ho tốt đẹp của người yêu. Tôi
khuyên con gái, yêu thì yêu nhưng phải biết giữ mình giữa mẩy, đừng bao
giờ vượt quá giới hạn cho phép. Tôi phải dặn con gái cả những điều chính
ra mẹ nó phải dặn. Tôi thông cảm với con, tính nó sống
quyết liệt không chấp nhận sự nửa vời. Điều gì nó cũng muốn truy
nguyên, hành động nào cũng phải rất ráo mới chịu. Thỉnh thoảng tôi bảo
con rằng tình yêu mà cháy quá, bốc quá e mau tàn đấy Vương Thi cười chép
miệng: bố quan niệm xưa rồi, đã là tình yêu thì có cháy đến hết đời vẫn
cứ còn đầy nhiên liệu. Tình yêu là sự tăng trưởng, sự vươn lên mãi mãi
thì lửa ấy, sức cháy ấy làm sao gọi là tàn được hả bố? Tôi bảo con rằng
mọi vận động trên đời đều cần được bảo hiểm, đều có bảo hiểm cả, nghĩa
là phải có cái thang đề phòng vật cản xuất hiện đột ngột khi vận tốc của
sự vật đang ở cao điểm. Con gái tôi lại cười: gớm, bố cứ làm tình yêu
như cái xe đạp lăn xuống dốc không bằng. Tôi tiên cảm thế nào con gái
tôi cũng sẽ gặp tai nạn trên hành trình tình cảm, khi nó mặc kệ mọi tốc
độ mà không sắm cho mình một cái thang.
Tôi tới bệnh viện thì anh chàng Mão đang dắt xe cúp ra cửa bệnh viện. Mão chào hỏi tôi tử tế lễ phép. Tôi hỏi:
- Vương Thi có ở bên nhà cháu không?
Dạ thưa bác không có ạ. Lâu rồi cháu không gặp lại cô ấy Tôi sửng sốt:
- Sao vậy anh Mão? Dạ chúng cháu bất đồng nhiều thứ lắm ạ. Cứ gặp là
cãi nhau. Vương Thi rất cực đoan. Cô ấy không bao giờ chịu thỏa hiệp.
- Nghĩa là nó với cháu giận nhau?
- Dạ chúng cháu cắt đứt quan hệ với nhau rồi ạ. Sau hai năm tìm hiểu, chúng cháu thấy không thể tiến tới hôn nhân được thưa bác.
- Cô cậu thôi nhau lâu chưa?
- Dạ được nửa tháng rồi ạ.
Tôi chia tay với cậu rể hụt, vừa đạp xe về nhà vừa lo âu, vừa buồn đến chóng mặt.
Thấy tôi Về, Ruộng hỏi:
- Con đâu? - Tôi đâu có giữ nó trong túi. Nó đã ngoài hai mươi tuổi, lại sống độc lập, ít về nhà, bà không giữ nó nổi sao còn hỏi tôi?
Ruộng cau mày than thở. Tôi trình bày chuyện vừa gặp thằng Mão, chuyện hai đứa nó thôi nhau. Ruộng đay nghiến tôi:
-
Tôi đã can nó đừng yêu cái thằng con nhà buôn bán, con nhà rặt ngụy
nhưng ông chiều con. Bây giờ ông thấy cái giá của tự do chưa?
Sợ
con tôi thất tình thất tung lại dại dột liều mình thì khổ thôi. Tôi bàn
hay là nhờ bên công an họ tìm cho. Nhưng Ruộng gạt đi ngay: để rồi ầm
lên khắp nơi con Vương Thi bỏ nhà đi bụi à? Đẹp mặt bố mẹ lắm đấy. Mai
mốt lỡ nó lù lù về thì có ma nào dám lấy. Với lại ảnh hưởng con đường
vào tỉnh ủy của bà ấy. Một tỉnh ủy viên không thể có con gái bỏ nhà đi
hoang. Ruộng ngồi khóc tức tưởi một chập, quay lại cằn nhằn:
-
Tại ông hết. Cái nhà tan hoang, con chả ra con chồng chẳng ra chồng. Có
được đứa con trai thì bây giờ cử ôm rịt lấy bố mẹ vợ như mèo ôm mỡ ấy.
Đứa con gái thì đi đâu mất tông mất tích. Nếu ngày ấy ông chịu đặt tên
chúng nó theo ý tôi thì đã khác. Ông lại đặt tên thằng bé là Trần Văn
Văn, con bé là Trần Thị Vương Thi. Bắt con cái tôi dính vào văn với thi
là mệt lắm. Mình ông làm văn làm phú chưa đủ sao mà còn tính lôi con cái
vào cái nghiệp này? Tôi đã bảo ông đặt tên thằng bé giản dị thôi, là
Trần Văn Đồng, tên mẹ là Ruộng, tên con là Đồng có phải vừa hay, vừa ý
nghĩa. Còn đứa con gái, bây giờ tôi đã đặt cho nó là Trần Thị Nương, mẹ
là Ruộng, con gái là Nương, Ruộng với Nương, nghe vừa hay vừa mát ruột.
Ruộng
lại ngồi khóc. Tôi không còn lời nào an ủi bà ấy được nữa. Mà đúng là
tôi đã đánh hỏng cuộc đời của người đàn bà này. Cứ để cho Ruộng ta thán
kêu rêu, cho nguôi bao ấm ức đã phải nén lại một đời. Từ hôm đó, tôi đạp
xe đi suốt ngày rạc cả người, mong tìm thấy con trên đường phố hay
ngoài công viên. Ruộng mất ăn mất ngủ, tóc đã bạc ra trông thấy. May mà
bà ấy còn có cái đam mê vào tỉnh ủy, đêm nằm mơ còn thấy mình đi giảng
chính trị cho khắp thế giới. Tôi sút đi đến mấy ký. Hai Giỡn sợ tôi bị
ho lao. Tôi điên dại vì con mà nào có dám kể cho bạn nghe để được an ủi.
Con gái bỏ nhà, bỏ sở đi là nỗi nhục của cha mẹ, đâu còn dám đi khoe.
Năm
ngày sau, một buổi tối, Vương Thi về gõ cửa. Con gái tôi xanh mướt, gầy
như cái xác ve. Tôi ôm con gái vào lòng, òa khóc như đứa trẻ khiến con
bé dỗ tôi nín đi, nín đi bố như thế nó phải dỗ một đứa bé vậy. Hai ngày
sau, Vương Thi ngồi kể cho tôi nghe nguyên nhân bỏ đi của nó. Tôi xin
dựng lại câu chuyện kể của con gái bằng cách dựng lại hiện trường, hay
theo kiểu quay phim lại các sự kiện.
Ly Thân
Chương 19
Suốt mười ba năm sống, cuộc đời
chàng là một chuỗi sự chờ đợi. Hy vọng vào cái sắp tới là niềm vui của
chàng. Nên nhớ rằng cái quá khứ kia có lúc đã từng được gọi là tương
lai. Vì vậy, cuộc đời chàng phải tuân thủ quá trình phân hóa của thời
gian được chia làm ba mảnh. Hiện tại đang từng phút giây hóa thân thành
hai mảnh, một mảnh lùi về phía sau là quá khứ, một mảnh khác tiến lên
phía trước gọi là tương lai. Một mảnh chàng đã biết, đã nếm trải. Một
mảnh chàng đang biết. Và một mảnh luôn luôn tìm cách tuột khỏi tay chàng
như một con lươn, đánh đố chàng, làm cho chàng hồi hộp về sự bí mật của
nó bởi cái chưa biết, sẽ biết. Cái mảnh sống tiên cảm thường lui tới
kia đích thực là chàng. Khi ngồi một mình, con người thường sống với cái
thì đã qua và cái thì chưa tới. Cái thì đang có kia chợt như chưa hề
có, không hề có. Cái cảm giác không thực ấy cung cấp cho chàng một tín
hiệu đầy nghi hoặc về sự hiện diện của mình. Có thực là chàng không hay
chỉ là cái phản ánh của chàng? Chàng không chiêm bao, cũng chưa từng thấy mình hóa thành bướm hay hóa thành bất cứ điều gì ngoài bản thân chàng.
Chàng không mơ mộng đến nỗi nhầm lẫn cái thực và hư. Tuy nhiên, chàng
không ngây thơ tới mức nhìn vào bất cứ sự vật nào cũng có thể tin ngay
là chính nó. Hoặc thực để đến độ, chỉ khi nắm bắt được sự vật trong tay
mới dám xác tin. Chàng không sinh ra để lý giải tất cả mọi sự đời. Nhưng
sự đời đang ráo riết lý giải chàng. Chàng là ai hỡi kẻ vô danh đến trái
đất một mình và rồi sẽ phải một mình đi khỏi trái đất? Chàng vừa đi
khỏi trái đất. Chàng vừa leo qua mặt trăng. Trời chưa kịp tối thì trăng
đã mọc. Đó là vầng trăng mười sáu của riêng chàng. Chàng đã đợi nó từ
khi nó còn là một lá lúa. Tối nào chàng cũng ra bờ hồ, dựa lưng vào gốc
cây ngồi ba tiếng đồng hồ có khi kết hợp vừa câu cá, vừa suy tư, vừa chờ
đợi. Chiếc hồ khá rộng phía bắc ngoại ô thành phổ An Hải hợp với tâm
hồn đang hoang vắng của chàng. Quanh hồ, lác đác những lùm cây, những thân cổ
thụ, những chiếc ghế đá cũ kỹ và sứt mẻ. Chàng ngồi trên một gốc cây
được cưa nhản thành cái ghế, dựa lưng vào một gốc cây khác ngắm hai vầng
trăng cùng một lúc. Vầng trăng trên trời và vầng trăng dưới đáy hồ, đâu
mới là vầng trăng của đời chàng? Chàng nghe đồn thi bá Lý Bạch muốn
chiếm vầng trăng dưới nước làm của riêng, nên đã hóa thành trăng từ đó.
Xung quanh chàng, người ta cũng ngắm trăng, nhưng ngắm thành từng cặp.
Cuộc sống đang nung đất trong chàng tất cả khổ đau và hạnh phúc. Ngọn
lửa ấy không để chàng yên. Nó quyến rũ chàng hy sinh. Nó làm chàng điên
đảo trước bất hạnh đồng loại. Đầu chàng như cái cổi xay lúa, cứ ù ù ì ì
tất cả vận hành của cái thành phố năng động này. Trăng mười sáu đã lên
cao dần. Người dạo mát đã về bớt. Bên tay trái chàng, cách khoảng mười
mấy thước có một cái cầu bằng gỗ, bắc chìa ra hồ của các vận động viên
trẻ ban ngày ra tập bơi. Hồ càng khuya càng đượm ánh trăng như củi càng
cháy càng đượm lửa. Gió ngừng thổi và lá cây thôi kêu. Chàng lim dim mắt
thưởng thức sự yên lặng của trời đêm. Chàng biết cách lâm tâm hồn mình
náo nhiệt lên trong cái trầm tĩnh của thiên nhiên. Chàng có cảm giác
mình vẫn hằng chờ đợi một cái gì hình như cái ấy đang tới? Chàng chỉ sợ
mình không còn khả năng biết chờ đợi. Đôi khi, chỉ vì một lời hẹn mà có
người đã chờ đợi hết cả cuộc đời. Nhưng chẳng có ai hẹn hò với chàng,
chẳng có ai mượn chàng để chờ đợi. Chàng đã bị cuộc đời và số phận cho
leo cây khá nhiều lần. Cứ sống đi, sống hết mình đi anh bạn ạ, thế nào
rồi anh cũng phải tìm thấy một
cái gì chứ. Chả lẽ suốt cuộc đời câu cá, lại chỉ vác cần về không? Chả
lẽ anh dám đốt cháy cả đời mình để dâng hiến mà cuộc sống nỡ để anh cô
đơn, băng giá? Khi vầng trăng trên trời và vầng trăng dưới nước đối diện
với nhau theo một chiều thẳng đứng, thì chàng có cảm tưởng đáy hồ kia
cũng sâu thẳm như bầu trời. Hay dưới đó chính là bầu trời, thử nhảy
xuống đó, mặc quần áo lặn vào xem, biết đâu chàng sẽ tìm thấy cái vô biên, cái không thể tìm thấy? Người ta đang tản về để chui vào những cái hộp gọi là chung cư, chui vào những bao diêm
kêu là phòng bán mình cho giấc ngủ, để lăn lộn quằn quại trên cái khổ
giá có tên là giường, để được yêu và được chết, để được nguyền rủa và
cắn xé nhau rồi gọi đó là cuộc sống, là hạnh phúc. Người ta đã bỏ mặc
thiên nhiên, bỏ mặc vầng trăng mười sáu và bỏ mặc chàng. Chàng không
muốn rời bỏ thiên nhiên, không muốn về căn phòng bé bằng lỗ mũi dưới
tầng trệt nhưng biệt lập với chung cư bằng cái cổng riêng bé tẹo của
mình. Chàng buồn vì không thể mang cái hồ này, vầng trăng này vào căn
phòng của mình được. Nhưng kìa dưới ánh trăng, có một người đi lững
thững từ bờ hồ ra cái cầu gỗ trống trơn không còn ai. Người ấy hình như
mặc áo màu sáng, quần màu đậm và bước khá nhanh. Nếu với một người nhát
sợ, có thể cho đấy là một bóng ma hơn là một bóng người. Chàng có cảm
giác đó là một người đàn bà. Chàng đang cố đoán xem người cô độc này cần
gì khi đã bước ra tới giới hạn cuối cùng của cầu bơi. Chỉ cần bước thêm
một bước nữa là rơi vào thế giới vô tổ chức của bọn thuồng luồng. Chàng
chưa kịp nghĩ hết cái ý nghĩ vừa nảy sinh trong đầu thì cái bóng người
kia bèn nhảy ầm xuống nước. Chàng giật bần người lên như một viên đạn bị
tống khỏi nòng. Chết cha, con người này iiều mạng chứ dứt khoát không
phải vì hụt chân. Như bản năng sống, nhanh như chớp, chàng cởi phat quần
áo, chỉ mặc cái quần đùi phóng như bay ra phía đầu cầu bơi. Chàng từng
là một tay bơi lội cự phách, từng cứu người rồi mà. Chàng nhảy ùm xuống
nước, nhìn ngay thấy một
vùng nước đang bùng nhùng những bong bóng và những lọn nước tung lên
như bị sôi trong nồi. Chàng đoán chắc là con người xa lạ kia đang chìm
và là một kẻ mù tịt về nghệ thuật bơi. Chàng bơi ào đến và lặn xuống chỗ
nạn nhân đang quẫy đạp mỗi lúc mỗi yếu dần. Nghệ thuật vớt người chết
đuối chàng còn lạ gì nữa, phải để cho kẻ bị nạn yếu tới mức không còn đủ
sức ôm chầm lấy người cấp cứu. Chàng đã nằm được bàn tay người xa lạ,
từ từ kéo trồi lên mặt nước để đưa vào bờ. Khi ở dưới nước, con người
nhẹ như một trái banh. Khi chàng lôi được nạn nhân vào bờ, mới biết đây
là một cô gái. Cô ta đã uống đầy một bụng nước đến bất tỉnh. Chàng nâng
người con gái lên bờ, vác ngược nàng lên vai, chạy một đoạn thì nước
trong bụng của cô ta mới ọc hết ra. Đoạn, chàng đặt cô gái xuống vệ cỏ,
bắt đầu làm hô hấp nhân tạo cho nạn nhân. Rồi chàng đặt ngón tay lên mũi
nạn nhân và thấy hơi
thở thoi thóp. Sống rồi, chàng thầm kêu lên. Chàng phân vân một lúc,
rồi chấp nhận phương án đưa người con gái này về phòng mình sưởi ấm cho
cô ta tỉnh lại. Chàng mặc quần áo nhanh như ăn cướp. Chàng chạy lại
chiếc cầu bơi xem cô gái có để gì tại đó không, nhưng chỉ có một đôi dép
Nhật. Chàng bồng cô gái lên và chạy theo kiểu những tay bắt cóc. Thân thể người con gái đã rã rời, tuy nhiên đã thở mạnh hơn. Thật may mắn, chàng nhìn thấy một
cái xích lô. Chàng kêu xích lô đưa cô gái về nhà mình. Dưới ánh trăng,
chàng nhận ra gương mặt người con gái thật thanh tú, mặc dù cô ta vẫn
nhắm mắt như đang lịm ngủ. Xe xích lô đã tới nhà, chàng trả tiền rồi
xuống mở cổng. Chàng mở cửa phòng và bật điện. Chàng đã nhìn rõ người
con gái mình vừa cứu vớt. Chàng biết rằng, với gương mặt này, cô ta chỉ
khoảng trên hai mươi tuổi thôi. Chàng tìm chai dầu cù là, xức đầy dầu
lên thái dương, lên trán, lên mũi và gáy nạn nhân, kẻ cả hai lòng bàn
chân bàn tay. Nhưng không thể để cô ta mặc bộ đồ ướt như chuột lột này
được. Chàng đi tới một quyết định ghê gớm, dứt khoát là phải cởi bỏ hết
áo quần ra cho nạn nhân. Chàng bắt đầu làm cái công việc vô cùng khó
khăn này bằng tâm trạng của người cán bộ y tế. Nhưng trước hết phải tắt
đèn nê-ông cho bớt sáng, bật ngọn đèn bàn có chụp vẫn dùng đọc sách. Tay
chàng hơi run run khi cởi bỏ áo quần của nàng. Chàng nhận ra vóc dáng
khỏa thân của
người con gái này thật hoàn mỹ, giống như bức tượng thần vệ nữ Mi-lô.
Tuy vậy, người chàng vẫn cứ hồi hộp đến phát run lên khi phải lấy khăn
lau khô nước trên thân thể
nàng. Và cuối cùng, tuy hơi khó khăn, nhưng chàng đã mặc được cho người
con gái xa lạ này bộ pigiama của mình. Chàng chạy xuống bếp mang lên
cái bếp lò và ít củi, chụm lên sưởi ấm cho người con gái mau tỉnh. Chàng
còn phải làm một công việc cần thiết là lật nghiêng người con gái lên
để xoa dau cù là vào sống lưng nàng, dùng cái muỗng nhỏ cạo gió thật
mạnh giúp nàng mau tỉnh. Rồi chàng nâng người con gái lên dốc ngược đầu
nàng xuống lần cuối để nước còn trong bụng trong mũi ọc ra bằng hết. Hay
quá, cô gái bị sặc nước, khịt khịt mũi và mở choàng mắt. Đôi mắt nàng
tròn như thể mắt chim, với cái nhìn dài dại vì tròng ngươi còn trắng dã.
Cô gái lại nhắm nghiền mắt. Chàng tiếp tục giúp nàng há rộng miệng ra
để phải thở cả bằng miệng. Chàng đổ vào miệng nàng một ít dầu nhị thiên
đường. Cô gái bắt đầu ho. Lửa bếp lò cháy lên như một ngọn lửa cắm trại.
Chàng ngồi trên giường sát cạnh người con gái đến ba mươi phút sau thì
cô ta tỉnh hẳn. Nàng mở mắt nhìn chằm chằm chàng một lúc đoạn hỏi:
- Đây là đây vậy anh? Chàng bắt buộc phải nói một câu không thật để tạm thời trấn an nàng, để nàng khỏi băn khoăn thêm mệt:
- Đây là bệnh viện đó.
Nàng khẽ ngáp, quên cả việc lấy tay che miệng. Nàng vẫn nhìn lên trần nhà trân trân rồi nói:
- Em mệt quá, cho phép em ngủ nhá.
Chàng vừa pha một ly nước chanh đường vừa gật đầu. Rồi chàng đưa ly nước chanh tới sát đầu nàng bảo:
- Xin mời cô uống ly nước chanh cho tỉnh nhá.
Nàng mở mắt. Chàng giúp nàng ngồi dậy gần như đổ ly nước
chanh vào miệng nàng đến phát sặc. Người con gái nằm xuống nham nghiền
mắt. Nàng ngủ. Chàng tắt điện. Lửa cháy đùng đùng trên bếp lò vũ điệu cổ
sơ của những hang nguyên thủy, thuở con người vừa tìm ra lửa. Người con
gái xa lạ này từ đâu đến đây nhảy xuống hồ? Nhìn cách ăn mặc và dáng
vóc nàng, hẳn là cô gái con nhà có học. Chàng chú ý đến bàn tay người
con gái với những ngón búp măng trằng trẻo, với lòng bàn tay mềm mại như
sáp không một vệt chai. Hẳn là nàng được nuông chiều từ nhỏ. Móng chân
móng tay nàng đều có điểm một chết sơn nhạt, chứng tỏ nàng từng biết
cách làm đẹp, từng yêu đời và vui sống. Bàn chân nàng tuy trong trạng
thái gần như hôn mê nhưng vẫn trắng hồng một cách kỳ lạ. Bàn chân dịu
dàng chàng vừa xoa dầu lên, lẽ nào đã phải đi thấu bến bờ của éo le và
nghịch cảnh. Bằng linh cảm và sự quan sát, chàng hiểu rằng người con gái
này hắn có một lối sống rất quyết liệt, có bản lĩnh, đã từng lý tưởng
hóa cuộc sống để rồi tuyệt vọng tìm cách quyên sinh. Hay là đã có một kẻ
nào đó hay một tập thể những kẻ nào đó đã lừa dối nàng, đe dọa và truy
bức nàng. Hoặc nàng đã bị tình yêu phản bội? Hoặc có kẻ nào đó đã cướp
mất niềm tin của nàng? Hoặc biết đâu, nàng đã đọc nhiều sách đến mức ngộ
chữ thành ra kẻ triết cuồng muốn tìm hiểu, muốn khám phá cái chết, xem
cái chết được cấu tạo bằng những nguyên tố triết học nào? Một trăm câu
hỏi cứ xoay trong đầu chàng từng cơn gió lốc. Trước hết, sau một hời
phân tích các dữ kiện, chàng quả quyết nàng không thuộc típ ăn chơi trác
táng hoặc bụi đời bụi đất. Bởi vì, một kẻ ăn cắp, một đứa trụy lạc, một
tên vô nhân cách không thể có cái dũng khí dữ dội tới mức nhảy xuống hồ
tự tử. Và hẳn người con gái này đã gặp một điều gì đau khổ quá tới mức
không thể chịu đựng được nữa. Tự nhiên, lòng chàng trào lên một niềm
thương cảm như mạch suối ngầm vừa phun lên. Chàng có một cái đức mà xã
hội hiện nay cho là căi tật, cho là hâm là luôn luôn xúc động trước nỗi
bất hạnh của người khác, thấy mình như có lỗi, như mình phải gánh lấy trách nhiệm để cho đồng loại đau khổ. Chàng không thể sống bình yên nếu thấy người
khác bị nạn mà mình không tìm mọi cách cứu giúp. Chàng căm thù thói
tảng lờ của bao nhiêu kẻ có quyền có chức trước nỗi đau khổ của con
người. Huống hồ, sự tình cờ mà ta thường gọi là số phận đã bất chợt phó
thác vào tay chàng một con người tuyệt vọng, một con người tưởng đã chết
bỗng được cứu sống trong cái khoảnh khac định mệnh. Trước lúc nghe
tiếng người nhảy xuống hồ, chàng có cảm giác từ rất lâu rồi mình đang
chờ đợi, chờ đợi cái không hẹn trước, chờ đợi sự sai số, sự lầm lẫn của
tự nhiên khi ghi nhầm ký hiệu bất hạnh lên trán của hạnh phúc. Chàng vẫn
lặng ngắm người con gái đang ngủ say và suy nghĩ. Có lẽ trong giắc ngủ,
trong cái chết giả định này, nàng sẽ có dịp so sánh hai đại lượng đối
nghịch sinh và tử, rồi bằng cái cân của tiềm thức và những mộng mị vu
vơ, nàng sẽ tự cân xem cuộc đời nàng đang nghiêng về phía nào? Nhìn nàng
ngủ, chàng phát hiện ra đằng sau mí mắt khép kín kia là xứ sở của một
tâm hồn ngây thơ và hồn hậu. Một thân xác xinh đẹp và trong sạch của nàng hẳn không có chỗ ần náu cho một tâm hần đê tiện. Cái đẹp của thân xác
và cái đẹp của tâm hần thường là hai đại lượng tỉ lệ thuận, trừ những
trường hợp đặc biệt, những trường hợp cái đẹp vật thể bị biến thành
phương tiện vì sự trống rỗng của đời sống tinh thần. Trong đời, không
thiếu gì những nhan sắc tẩm nọc rắn, những con bò cạp biết đi mỹ viện,
chinh phục đàn ông bằng cái đuôi độc địa của mình.
Em ạ, đôi khi con người cũng cần phải liều chết mấy phen, chết hụt mấy phen mới thấy hết
ý nghĩa cuộc sống. Anh không khen ngợi hành động tự vẫn của em, thậm
chí sẽ còn chê bai và lên án nó, song anh hiểu khi một kẻ dám chết thoát
chết kẻ ấy sẽ yêu đời hơn bất cứ ai. Cái chết đã mượn anh để ruồng rẫy
em, xua đuổi em, không cấp hộ khẩu cho em vào vương quốc đen ngòm của
nó. Định mệnh đã giăng lưới em không phải dưới nước, không phải dưới đáy
hồ mà chính là trên cạn, trên mặt đất này. Cái lưới ấy, oái oăm thay
lại là anh, một người bị thời thế xua đuổi ra bờ hồ ngồi để bầu bạn với
vầng trăng. Sau khi mắc mùng cho kẻ xa lạ và làm một vài việc dọn dẹp,
chàng đi nằm. Chàng tự dỗ mãi, tự ru mãi nhưng không sao ngủ được. Giấc
ngủ của chàng nông choèn như cái hồ con. Nàng có cảm giác đã ngủ một
giấc dài bằng hai cuộc đời mình cộng lại. Nàng cảm thấy như
mình nằm ngủ dưới đáy hồ, lâu đến nỗi thi thể mình đang hóa thạch. Bất
chợt, một con cá bống to bằng cái thuyền đi biển bỗng hớp nàng vào miệng
nó, phun nàng lên mặt nước và bắn lên bờ. Nàng quờ tay ra hai bên nhưng
con cá, cái ho đã biến mất. Hai bàn tay nàng chợt bấu vào thế giới chặt
đến độ cái chết dù với sức mạnh của chàng Sam Sông cũng chẳng thể bứt
nàng ra được. Nàng mở mắt ra và thấy cái
thế giới này vàng vọt một thứ ánh sáng đom đóm đực. Nàng dần dần hồi
phục lại trí nhớ. Nàng tức cười khi biết hai tay mình đang bíu chặt lấy
tấm drap trải giường, tới mức nó bị kéo dồn lên nhăn nhúm. Nhưng ơ hay,
nỗi đau khổ vô cùng đâu rồi, niềm tuyệt vọng và sự đời tức khac phải kết
thúc, phải được chết ngay đâu rồi, biến hết đi đâu rồi nỗi ghê tởm cuộc
đời phi nhân này? Nàng tỉnh dần và đã hiểu ra tất cả. Nhưng đây là đâu
mới được chứ? Bệnh viện gì kỳ khôi thế này? Nàng chợt hiểu cơ thể mình
đòi hỏi phải tìm ra cái toa-lét. Nàng vừa đi tìm chỗ giải tỏa cơ thể,
vừa mang máng nhớ rằng có một người đàn ông đã nhảy xuống hồ để kéo nàng
ra khỏi cái chết mà nàng đã gần tới. Rồi nàng không sao nhớ ra đoạn
tiếp theo nữa. Nàng hiểu rằng người đó đã tha mình về đây. Nàng tìm được
công tắc đèn trên tường và bấm lên. ánh sáng đã cho nàng biết rõ tất
cả. Người nàng xúng xính trong bộ đồ pigiama đàn ông đã sờn, chắc là
người ta đã thay đồ cho nàng? Nàng đỏ bừng mặt và quay về phía bên kia
căn phòng, ở đấy đang có một người đàn ông nằm ngủ co quắp như chú tôm
cô đơn. Vậy là bí mật của thân xác
nàng đã bị người đàn ông xa lạ này phát hiện. Ôi chao, nàng lại phải
quay về với cái thế giới phản phúc bịp bợm đã lừa đảo nàng. Cái thế giới
ấy đã thì thầm vào tai nàng bao nhiêu đường mật: rằng anh yêu em vô
cùng, anh sẽ chết tươi nếu không lấy được em. Và rồi khi cái thế giới
đểu giả kia đã lợi dụng được thân xác
nàng, đã biến nàng từ một cô gái thành người đàn bà và đột ngột tuyên
bố chúng ta không hợp nhau, không thể tiến tới hôn nhân được. Nàng làm
sao có thể sống nổi trong cái thế giới mà chính nàng bị biến thành
phương tiện, thành vật thí nghiệm của kẻ khác, xem nàng có thể thích
nghi được với nó hay không. Và vì vậy mà nàng đã đến nhờ vả cái hồ để
mong có sự giải thoát cuối cùng bằng cách tự vận. Nhưng người đàn ông
kia đã rình ở đây để giật lấy nàng ra khỏi tay thần chết. Nàng lò dò như
con mèo con rình chuột đi tìm nơi vệ sinh. Nàng làm cái động tác giải
tỏa cơ thể một cách nhanh chưa từng thấy. Nàng bật công tắc phòng tắm. Nàng nhìn thấy cái
quần zin và cái áo trắng mút-sơ- lin của mình đã được giặt và phơi trên
một cái dây giăng ngang toa-lét. Đích thị là người đàn ông kia đã giặt
quần áo cho nàng rồi. Nàng cảm động đến run rẩy. Hay là nàng đã chết
thật rồi, đã chết dưới đáy hồ rồi? Và những cảnh này chính là cõi âm,
nơi linh hồn nàng phải tiếp tục một đời sống khác. Hay người đàn ông
đang ngủ ngoài kia chính là một vị thần, một vị quan cõi âm coi sóc linh
hồn nàng? Nàng lấy ngón tay có móng nhọn bấu vào da thịt mình. Nàng cảm thấy đau. Đúng là thân xác
của chính nàng chứ không phải là linh hồn linh hiếc. Vì linh hồn thì
làm gi có móng tay nhọn và càng không có cảm giác đau. Vả lại, nàng tiếp
tục lập luận theo một lôgích thông thường rằng linh hồn đâu có cái sự
mắc tiểu như vừa rồi. Nàng cúi xuống, thấy một
cái dây phơi con con buộc từ dưới gầm lavabô tới cái rôbinê, trên đó là
chiếc quần slíp màu mận chín của mình. Nàng mắc cỡ đến đỏ mặt tủm tỉm
nghĩ thầm: anh chàng sợ, chắc đã dùng đũa hay que gắp treo vào đây. Với
nàng, người đàn ông này khác lạ, rất lạ, không giống như những người đàn
ông trên đời nàng đã gặp. Một con người kiểu này ngoài đời sẽ bị chê là
ngu, là mát. Nàng vừa nghĩ ngợi vừa vò sạch cái quần lót để phơi lên
dây. Nàng ra khỏi toalét, nhìn căn phòng sáng điện mà lạ lùng cho sự kỳ
ngộ vô tiền khoáng hậu này. Căn phòng thật sơ sài, quanh tường là một hệ
thống kệ sách đầy sách. Và vì vậy, nàng hiểu chàng thuộc tầng lớp nào
trong xã hội. Nhưng làm sao một trí thức, một người mê sách thế này lại
có thể là một trang hiệp sĩ, một Lục Vân Tiên? Người ta bảo trí thức
hiện nay nói chung hèn nhát, không dám sống thật, mũ ni che tai. Nhưng
có lẽ người đàn ông này là một ngoại lệ chăng? Nàng đi rón rén mấy bước
như con cò đến nơi chủ nhân đang nằm ngủ trên chiếc chiều, trong một
chiếc màn màu xanh cũ kỹ. Gương mặt anh vuông vức và rám nang, mũi cao,
cao gầy. Nàng cảm thấy mình
như có lỗi vì quan sát khá kỹ lưỡng một người đàn ông đang nằm ngủ.
Nàng trở về chiếc giường mà người chủ nhân kỳ lạ dành cho mình, vừa trăn
trở thao thức vừa cố gầng dỗ ngủ. Buổi sáng sớm thức dậy, gắp lại chăn
mùng, vào phòng vệ sinh sửa sang lại đầu tóc người ngợm, tự nhiên nàng thấy buồn kinh khủng. Tại sao nàng không chết đi cho rồi, lại còn đến đây làm phiền con người tốt bụng xa lạ này. Nàng cảm thấy người
đàn ông đang nhóm bếp vì mùi khói bay thơm thơm. Nàng lúng túng không
biết khi chạm mặt với chủ nhân sẽ ăn nói ra sao. Nhưng nàng đánh liều đi
xuống bếp, vừa đối diện với chàng, vừa nói đại đi:
- Em xin lỗi đã làm phiền anh quá. Chính ra em nên chết đi thì hơn.
Nàng
nói xong mới biết mình hớ. Ai lại bảo em nên chết đi thì tốt hơn, như
vậy cái việc người ta liều cứu sống mình là xấu à? Chàng im lặng nhìn
người con gái bất hạnh một phút. Hình như chàng cảm động lắm khi nhìn thấy rõ ràng người con gái đêm qua mình cứu dưới hồ mang về nhà cứu chữa:
- Em không có lỗi. Có gì đâu mà phiền lụy. Này, chính ra anh phải theo phép lịch sự kêu em bằng chị. Nhưng thấy em chắc còn ít tuổi, cho phép anh xưng hô như vậy cho khỏi khách sáo.
Họ
cùng mang nồi mì tôm và chén muỗng ra bàn. Nàng ăn tự nhiên như đã quen
lắm. Nàng ăn tới hai tô mì vì quá đói. Cái cách tự nhiên này hợp với ý
chàng. Chàng không ưa tính vờ vịt uốn éo. Chàng vừa pha trà vừa hỏi:
- A, ta chưa hề biết gì về nhau cả. Thật là lạ. Sao số phận lại bày ra cảnh này, y như chuyện bịa chứ không phải thật.
- Em cũng thấy như thế. Em là con trời đánh thánh vật được anh cứu thoát chết. Chính ra em phải biết mắc cỡ.
- Anh xin được biết tên em?
Nàng im lặng gục đầu xuống ngực, mặt nặng ra, bàn tay xoay xoay cái ly nước trà, bàn chân di di trên nền gạch. Rồi nàng ngẩng đầu lên với tất cả vẻ bướng bỉnh và thách đố của ánh mắt:
- Em không có tên anh ơi.
Chàng suýt bật cười. Cô bé này hay đấy. Nhưng nàng vẫn nghênh nghênh nhìn chàng. Chàng thấy nàng rất đẹp trong cái nhìn bất trị. Chàng dịu dàng:
- Nếu em không có tên cũng chẳng sao
. Nàng vẫn chống cằm vênh mặt:
- Còn tên anh là gì ạ?
- Anh cũng như em vậy, chẳng có tên riêng. Tên anh là con người.
Cả hai cùng cười phá lên rồi im lặng.
- Em cũng tên là con người.
- Vậy nhà em ở đâu?
- Em cũng không có nhà cửa gì cả.
- Nhưng em từ đâu tới đây?
- Từ dưới hồ chứ còn đâu.
- Sao anh lại cứu em?
- Anh đâu biết bóng người nhảy xuống hồ lúc đó là em. Anh chỉ biết đó là một người và anh thấy phải cứu.
- Nếu khi anh lao xuống vớt, em chết rồi thì sao?
- Anh sẽ có cách làm cho em phải sống lại.
-
Anh là người đàn ông kỳ lạ nhất mà em đã được gặp. Anh không sợ khi lao
xuống hồ bị nạn nhân ôm chầm lấy và cũng chết chìm theo thì sao?
-
Anh đã có kinh nghiệm cứu người dưới nước. Mà nếu chết, cái số nó đến
thì ngồi trên bờ vẫn cứ chết đuổi như thường. Họ cứ nói chuyện với nhau
tưng tửng như vậy cho đến gần trưa thì chàng đi chợ. Chàng phải tìm cách
giữ cô bé này lại, sợ xổng ra, biết đâu lại chả nhảy xuống hồ lần nữa.
Họ đã phục nhau, mến nhau. Chàng quyết phải tìm ra nguyên nhân khiến cô
bé này tự tử. Trước khi đi, chàng dặn:
- Em ở đây trông nhà giùm anh. Anh đi có chút việc rồi về ngay. Hôm nay chủ nhật, anh ở nhà cả ngày.
- Nếu anh đồng ý cho em tá túc ở đây, em sẽ ở. Nhưng xin anh đi đâu thì cứ việc khóa cửa ngoài. Em không muốn khách của anh nhìn thấy em mặc áo ngủ đàn ông.
Từ
đó, hai ngày đã trôi qua, họ vẫn sống bên nhau trong một căn phòng.
Nàng vẫn ngủ trên giường còn chàng nằm dưới nền gạch. Họ thành đôi bạn thân khi
hoàn toàn chưa hề biết gì về nhau, kể cả tên tuổi, nghề nghiệp... Họ
tôn trọng một nguyên tắc đã đề ra: không tò mò hỏi nhau về đời tư, quá
khứ cùng công việc và tên tuổi. Họ thấy xưng
hô với nhau bằng em và anh là đủ lắm rồi. Chàng hiểu nàng bị mặc cảm,
đôi lúc phải cương lên, giấu đi nỗi niềm thật buồn đau vô bờ của mình.
Chàng cần phải tạo ra niềm tin cậy nơi nàng. Còn nàng thì càng ở bên
chàng, càng thấy phẩm
chất của con người này kỳ lạ đến khó tin. Hai ngày trước đây, nàng bị
cái chết hấp dẫn. Còn bây giờ thì chàng đã thế chỗ cái chết. Nàng cần
phải học được cách làm ra bộ dễ ghét. Cái chết hụt vừa qua dạy nàng cần
phải biết chừng mực với sự sống. Nàng đã bị trái tim mình gài bẫy, dẫn
ra hồ và nhảy xuống như một trò chơi. Chàng đã tìm cho nàng những cuốn
sách vừa hay vừa hợp với hoàn cảnh để đọc. Nửa đêm ngày thứ ba ở đây,
đang ngủ thức dậy, nàng đã khóc thầm. Lẽ nào nàng đã được cứu thoát khỏi
cái hồ này, để rồi lại phải đứng trước một cái hồ khác và trước sau gì
cũng phải nhảy vào. Cái hồ ấy là đôi mắt người đàn ông nhân hậu lạ lùng
đến nghi hoặc. Nàng không còn khả năng quay lại. Hai cái hồ ở hai phía
đời nàng. Tiếng khóc của nàng đã lay chàng dậy. Chàng mừng khi nghe nàng
khóc. Tiếng khóc sẽ giúp nàng thoát khỏi mặc cảm và khổ đau. Nước mắt
vừa là thuốc tẩy, vừa là mồ hôi của tâm hồn đổ ra cho nhẹ bớt mọi gánh
nặng. Chàng an ủi:
- Anh sẽ rán giúp em thoát khỏi đau khổ tuyệt vọng.
- Chắc em sẽ phải chết một lần nữa thôi anh ạ.
-
Chết là hèn nhát, là thua cuộc, là vô nghĩa. Một người con gái xinh
đẹp, có bản lĩnh như thế không nên nói vớ vẩn kiểu này. Nếu em tin anh,
xin đừng giấu giếm sự buồn phiền. Chia sẻ gánh nặng với người khác là
niềm vui của anh.
Nàng ngồi đối diện với chàng trong đêm khuya và nói:
-
Em sẽ kể cho anh hết, mặc dù em chưa biết anh là ai. Suốt ba ngày quan
sát, em kính phục anh vô cùng. Anh là con người không giống ai hết. Anh
thông cảm và tin em tất cả.
- Em cứ kể đi.
-
Chuyện thế này thôi anh ạ. Hai năm nay em đã yêu. Em đã yêu kẻ kia đến
điên cuồng. Anh ta tuy không đẹp trai nhưng có nghề nghiệp vững chắc,
tán giỏi hơn xiếc. Anh ta thề với em là sẽ đi đến hôn nhân. Trong một
buổi tối không tự chủ được bản thân,
em đã hiến đời con gái cho anh ta. Anh ta quyến rũ em sống với anh ta
suốt một tuần lễ. Sau đó anh ta chán em và tìm cách lảng dần. Cho đến
hơn tháng sau em phát hiện ra mình đã có thai. Em đề nghị anh ta cưới.
Anh ta bảo khoan khoan chờ vài năm nữa. Anh ta khuyên em đi nạo thai. Em
nổi điên lên lấy guốc đập vào đầu anh ta. Nhưng hắn là thằng man rợ, đã
đánh em gục xuống rồi thản nhiên bỏ đi. Em đứng dậy lúc đó là tám rưỡi
tối. Em kinh tởm cuộc sống, ghê sợ bản thân mmh quá. Em muốn nôn mửa ra cái gọi là tình yêu vừa qua. Em bèn kêu xích lô ra phía hồ và mọi sự diễn ra như anh đã biết.
Nàng
kể xong gục đầu xuống và im lặng. Chàng quẹt diêm hút thuốc đoạn nói
bình thản: Chuyện đó có gì ghê gớm lắm đâu mà phải liều mình đến vậy. Cứ
trong ba thằng đàn ông, ít nhất cũng có một tên Sở Khanh. Em chẳng phải
là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của bọn chúng đâu người không tên ạ.
Nàng ngước mắt lên nhìn chàng hỏi một câu rất ngố đối với người ba ngày
nay đã coi mình như bạn thân, như em gái, như người nhà, thậm chí như người cha với con:
- Anh có khinh em không?
- Khinh rẻ một người đàn bà đang đau khổ là một tội ác đấy em ạ.
- Em cám ơn anh.
-
Một thằng như hắn ta, đau khổ làm gì cho uổng. Huống hồ, em lại định
chết vì một thằng lừa đảo hạng bét thì liệu có bõ không. Người ta chỉ
đau khổ, chỉ có thể chết vì một cái gì xúng đáng, vì một cái gì cao quý
thiêng liêng mà thôi.
Nàng lặng im và chừng như đã hiểu hành động điên rồ của mình là dại dột. Trước khi đi ngủ lại, chàng bảo:
- Ngày mai, anh sẽ giúp em giải quyết hậu quả.
- Em lo sợ lắm.
- Anh sẽ tìm một nơi thật bí mật, ở xa trung tâm thành phố. Anh hoàn toàn đảm bảo danh dự cho em. Em có tin anh không?
- Tin.
Sáu
giờ, khi trời đã tối, họ chở nhau bằng xe đạp ra ngoại vi thành phố.
Trời sang mùa khô, không khí có vẻ se se. Hơn tiếng đong hồ đạp xe,
chàng mới đưa nàng tới nơi mình đã đăng ký. Một trạm xá sản phụ của
phường giúp việc kế hoạch hóa gia đình với bất kỳ đối tượng nào bị kẹt,
bị vỡ kế hoạch... Chàng dặn:
- Anh đã đăng
ký từ buổi trưa, đúng bảy giờ ba mươi họ giải quyết. Chúng ta đóng vai
vợ chồng. Đây là tên em: Nguyễn Thị Em. Còn tên anh: Trần Anh. Nhớ tên
hai đứa là Em và Anh nghe chưa? Em nhắc lại tên mình coi nào?
- Nguyễn Thị Em.
- Còn tên anh?
- Trần Anh.
Chàng
còn nhắc nàng thuộc địa chỉ của hai người cho khớp. Sau hơn hai tiếng
rưỡi đồng hồ ngồi chờ đợi, y hệt một ông chồng làm cho vợ bị vỡ kế hoạch
phải đi giải quyết, người y tá trực kêu:
-
Mời ông Trần Anh lên phòng 302 để dìu bà Nguyễn Thị Em xuống. Chàng
thanh toán tiền nong rồi lên tầng ba. Nàng tái nhợt vì mất máu. Như thể
một lần nữa, chàng lại vớt nàng lên khỏi cái hồ định mệnh. Nàng mở to
mắt nhìn chàng ngồi bên cạnh giường, cố hết sức kìm xúc động để đừng
khóc. Nàng đã nằm lại trong căn phòng của chàng đúng năm ngày nữa. Nhưng
họ vẫn tôn trọng cái khế ước kỳ lạ là tuyệt đối không tò mò tìm hỏi tên
tuổi, nghề nghiệp và quá khứ của nhau. Chàng tận tình lo cho nàng mau
bình phục sau ca phá thai. Nàng quan sát đời chàng và hiểu ra nhiều thứ.
Nàng đã biết cả chuyện chàng phải mang mấy cuốn từ điển quý giá đi bán
để đi chợ. Đến ngày thứ tám của cuộc chết đuối trên hồ và trên giường
bệnh xá phụ sản, nàng bảo chàng:
- Em phải về qua nhà.
- Anh cũng nghĩ như vậy.
- Bây giờ thì anh đã muốn biết tên em chưa?
- Chưa. ồ, mà tên em chính là Em đó sao?
Nàng cười nhưng nụ cười rớm lệ.
- Em cứ gọi anh là Trần Anh nhé. Rằng anh Anh ơi anh Anh.
- Vâng.
Chàng thấy như mình sắp mắt một cái gì quý lắm. Nàng thấy chàng buồn buồn mà khoái cái bụng. Nàng kêu xích lô. Xe lăn bánh rời nàng mới nói:
- Em sẽ trở lại.
Chàng
gật đầu không nói gì và lẳng lặng nhìn theo. Nàng đã kìm những dòng
nước mắt nhưng nó vẫn cứ ùa ra. Tuy vậy, lòng nàng đã chớm vui. Nàng
nghĩ: cái hồ kia bây giờ hết sợ với nàng rồi. Nhưng có thể với chàng, cái hồ ấy đã bắt đầu đáng sợ.
Ly Thân
Chương 20
Nhà hát thành phố An Hải tối nay
đã chật cứng người. Tôi xem đồng hồ, chỉ còn mười lăm phút nữa là đồng
chí bí thư tỉnh ủy và quan khách từ bàn tiệc khách sạn sẽ tới đây. Các
cô phục vụ, tiếp tân lấy từ đoàn văn công tỉnh cô nào cũng xinh như
mộng, má phấn môi son, dáng người thon thả bay lượn hết ý, trong chiếc
áo dài dân tộc, phơi phới như bướm lượn hướng dẫn số ghế cho mọi người.
Họ phát tặng phẩm cho khách tới dự một tập thơ Đêm mặt trời của tác giả
Hoài Bão tức đồng chí Tràng Giang, bí thư tỉnh ủy, kèm một phong bì số
tiền là một trăm đồng với hàng chữ in trên phong bì thật đẹp: Xin vui lòng dùng một ly cà phê để thức với Đêm mặt trời .
Vì là tặng phẩm quý, lại có tí kim ngân nên các cô tiếp tân phát thứ tự sợ có ai bị phát nhầm hai ba lần. Hai Kỷ, vừa được đề bạt lên quyền trưởng ban tuyên huấn tỉnh, bước lên diễn đàn với bộ com-lê không có cà-vạt, vừa vỗ tay đôm đốp lập lại trật tự vừa nói:
- Thưa các đồng chí của khối tư tưởng, khối văn hóa và toàn thể anh
em văn nghệ sĩ của tỉnh nhà thân mến. Chỉ một chốc nữa đồng chí bí thư
tỉnh ủy và quan khách báo chí, phát thanh truyền hình sẽ tới đây. Tôi đã
hội ý với đồng
chí khối trưởng của các khối, đêm dạ hội thơ này, ban tổ chức xin phát
động một phong trào thi đua vỗ tay giữa các khối, vì thuận tiện là chúng
ta ngồi theo đội hình cơ quan và theo từng khối riêng. Vậy các đồng chí có đồng ý thi đua không? Nếu đồng ý, xin tập thể cho
một tràng pháo tay kéo dài, chỉ khi nào tôi ngừng vỗ tay thì các đồng
chí mới ngừng nghe chưa. Nào xin toàn hội trường vỗ tay, một hai ba, vỗ.
Tiếng vỗ tay như động đất, như nổ tung cả hội trường. Sau cuộc vỗ tay
tập dượt khá lâu, Hai Kỷ nói:
- Vừa nãy chúng ta đã vỗ rất tốt nhưng chưa thật đồng đều. Khối trường đảng vỗ tay hơi yếu. Nào, đồng chí Lê Thị Mộng Ruộng đâu rồi. à,
yêu cầu đồng chí châm ngòi nổ cho hay một chết nữa. Còn khối văn hóa
lại vỗ tay to quá, toàn là tay của các bạn lực sĩ cả, vỗ to quá mà không
đều, có mấy đồng chí vỗ tay kêu ngang với súng bắn, sợ đồng chí bí thư giật mình hoặc điếc tai. Tôi yêu cầu chúng ta tập dượt lại.
Mọi người vỗ có lẽ đã rát cả tay. Hai Kỷ lại nhắc:
-
Yêu cầu khối văn công đừng nên hăng quá, vỗ trước cả hiệu lệnh, các
đồng chí bớt bớt tả khuynh đi một chết nữa. Sao các đồng chí bên tuyên
huấn lại vỗ tay rời rạc như cơm nguội vậy? Nào, ta tập dượt lần cuối
cùng, lần này yêu cầu từng khối vỗ tay riêng xem mèo nào thắng miểu nào.
Trước lúc đồng chí bí thư và khách truyền thông mêđia tới: Haí Kỷ phổ
biến kinh nghiệm vỗ tay của mình, vì ông sợ mọi người đau rát tay hết:
- Tôi đã có kinh
nghiệm suốt đời về nghệ thuật vỗ tay, xin các đồng chí thử coi. Muốn
hai bàn tay khỏi rát và vỗ giòn như cà pháo, các đồng chí thử thoa vào
lòng tay một chết nước miếng coi, biết nhau liền. Có vỗ đến một năm bàn tay vẫn cứ tốt, vẫn giòn hơn bắp rang.
Tám
Lợi, giám đốc nhà xuất bản tỉnh lên dặn dò mọi người về một số điều cần
thiết và bảo cáo nghị trình làm việc. Ông ta được cử làm chân giới
thiệu chương trình. Hai Kỷ ngồi xuống cạnh tôi nói nhỏ:
- Ba Hưng thấy chưa, có tí vật chất kích thích là biết nhau liền, vỗ tay cứ như búa bổ.
Tôi chép miệng:
- Cái gì chả vậy, có tí
phong bì vẫn hơn nói suông. Ta không nên làm mãi nhà chính khách nước
miếng. Cần phải học.. cách làm chính trị bằng phong bì như tối nay, ăn
lắm, dù chỉ một trăm bạc. Mình nghèo nên hay nói chuyện ghét tiền, chứ
cái giống kim ngân này như thiên hạ nói tiền là tiên là Phật, là sức bật
cuộc đời, là tiếng cười tuổi trẻ, là cái mẽ tình yêu là cái niêu hạnh
phúc là gì.
Hai Kỷ chỉnh:
- Coi chừng ông lạc sang quỹ đạo của tư bản đó. Chúng nó có tiền, còn chúng ta có chính nghĩa.
Tôi im lặng. Cái lý của ông Hai Kỷ là cái lý của một thời. Làm như sự giàu có và chính nghĩa là hai cực đối lập vậy. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội là hạnh phúc cho mọi người và mỗi người. Nhưng hạnh phúc chỉ đi kèm với sự giàu có. Nhưng lý luận của ông Hai Kỷ thì chính nghĩa cần phải xa lánh sự giàu có mà cụ thể là
tiền bạc. Vậy thì khác gì học thuyết của Chúa Kitô: Kẻ giàu vào nước
thiên đàng khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Cứ nghèo khổ đi, rách như
xơ mướp và tổ đỉa đi, các bạn sẽ đạt được nước thiên đường. Nhưng trời ơi, thực tế đã chứng minh rằng khi cái dạ dày của con người lép kẹp, chính nghĩa hay chân lý đối với nó là bất cứ thứ gì, bất cứ vật gì có thể tống vào miệng để khỏi chết đói.
Đúng
giờ hẹn, linh hồn của buổi họp báo, buổi ra mắt và dạ hội thơ nhân tập
thơ ra mắt đã tới. Đi đầu đoàn người tất nhiên là đồng chí bí thư tỉnh
ủy và vợ tức Thùy Linh. Tràng Giang mặc áo vét đen, giày đen, dáng điệu
bệ vệ quan cách. Thùy Linh diện chiếc áo dài đỏ như muốn đốt cháy cả nhà
hát. Theo sau hai ông bà dĩ nhiên là thư ký thứ hai Võ Nghiêm Quát và
một người như võ sĩ quyền Anh chính là anh cán bộ lái xe kiêm bảo vệ cho
bí thư tỉnh ủy. Anh vệ sĩ có võ
rất ghê, đi đâu súng lục cũng sẵn sàng trong túi quần này tên là Hồ Bán
Thiên, cháu gọi bà Hồ Lệ Thùy Linh bằng cô ruột. Theo sau đó là các
đồng chí phó bí thư, đồng chí chủ tịch tỉnh và các nhà báo cùng phóng
viên phát thanh và truyền hình. Họ vừa từ khách sạn Hào Hoa dự bữa cơm
dưa muối với đồng chí bí thư, mừng cho tập thơ của đồng chí hôm nay ra mắt. Khi mọi người vỗ tay đã tới mức có thể rụng
hết ngón, Hai Kỷ mới khoát tay cho ngừng. Tám Lợi lên đọc bài diễn văn
giới thiệu quá sức long trọng soạn sẵn và đầy rẫy những từ hoa mỹ. Tiếp
đó là diễn văn của Hai Kỷ chúc mừng tập thơ của tăc giả Hoài Bão phát
hành từ đêm nay. Sau đó, Tám Lợi giới thiệu tôi, nhà văn nổi tiếng Trần
Hưng, từng để bao nhiêu năm nghiền ngẫm, tìm hiểu giá trị tập thơ khi nó
còn là bản thảo. Tôi bước lên diễn đàn như bước vào vai kịch đẹp nhất
của đời mình: đọc bài viết sẵn nói lên giá trị nội dung và nghệ thuật
của tập thơ Đêm mặt trời.
Qua
ánh đèn sáng không thua kém gì mặt trời, tôi nhìn thấy các vị đại biểu
mặt mũi toát mồ hôi vì phải vỗ tay nhiều quá, mặc dù hàng chục cái quạt
tran đang làm công tác một cách điên dại. Bản báo cáo của tôi mang tựa
đề: Đêm Mặt Trời, một giai điệu tuyệt đẹp của bản giao hưởng xã hội chủ
nghĩa. Tôi xin lấy danh dự nhà văn ra thề với các bạn rằng: nếu trên thế giới có nơi
nào mở trường đại học về khoa nịnh thần, chắc chắn bài bình thơ tối nay
của tôi sẽ đạt bằng tiến sĩ loại ưu. Trước khi đọc ở nhà hát tối nay,
tôi đã để cả tuần tập dượt cách đọc trước gương, lấy một cái cây giả làm
micrô để luyện giọng và sắc mặt. Hai Kỷ đã giúp tôi luyện giọng bằng
cách cho mượn cái máy ghi âm của tuyên huấn. Vì thế, lúc này tôi đọc hay
quá, qua cái liếc mắt, tôi biết bí thư tỉnh ủy hết sức sung sướng hài
lòng. Cứ mỗi đoạn xuống dòng, tôi ngẩng đầu lên để giao lưu ánh mắt,
giao lưu tình cảm với khán thính giả theo kiểu bình thông nhau. Có lúc tôi gặp ánh mắt của Ruộng ngồi bên dưới với sự
trìu mến đầy ý nghĩa như thầm bảo: rán đi ông, đọc cho hay hơn để hỗ
trợ giúp em vào tỉnh ủy. Tôi đã thành công tới không ngờ, như một nghệ
sĩ xuất sắc trình bày tài năng đi mây về gió, chứ không còn thuần túy là
nhà phê bình thơ nữa. Khi tôi bước xuống, Hai Kỷ bèn đứng lên bắt nhịp
cho cả hội trường vỗ tay lớn quá, khiến tôi ù cả tai, hoa mắt, ngực thon
thót, đầu giần giật chỉ một tẹo nữa là lăn đùng ra làm hề cho cả tỉnh.
Vinh quang nhiều khi cũng thật là nguy hiểm. Tràng Giang từ hàng ghế
danh dự vội đến bắt tay tôi, đỡ lấy vai tôi và ôm hôn đánh chụt vào má.
Tôi vênh mặt lên tận hưởng vinh dự và đột nhiên bắt gặp cái ánh mắt
thằng Hoàng Thi cười cười. Tôi ngầm bảo hắn: giờ hơn mày con ạ. Bỗng một
tia mắt khác từ phía bên phải thằng rắn độc như nọc của con rắn cái vừa
đẻ phóng thẳng vào mắt tôi, khiến tôi cụt hứng, giật mình. ấy chính là
cái nhìn của con gián điệp Ngọc Hương, kẻ đã dùng mỹ nhân kế để tước
đoạt cuộc đời tôi, ăn cướp chức tổng biên tập báo của tôi cho bồ nó. May
mà lúc đó bà chị Hồ Lệ Thùy Linh với cái
áo dài làm đêm tối cũng phải bốc khói đi về phía tôi, nói lời chúc mừng
kèm theo bông hồng tặng nhét vào tay tôi. Tôi ngây ra một khác, nhìn
xuống hàng ghế có vợ tôi ngồi, thấy ánh mắt của bà ta long lên sòng sọc. Tôi thất thểu đi về chỗ mình, ôm cái phần thưởng lớn lao là bông hồng của bà đệ nhất phu nhân tỉnh vừa tặng với tâm
trạng mịt mờ khó tả. Tôi biết vinh quang này sẽ là gánh nặng của tôi
đêm nay. Bà vợ tôi rồi sẽ dạy cho tôi cái giá bông hồng của một người
đàn bà uy quyền lẳng lơ chim chuột nhất tỉnh vừa tặng tôi, với đôi
mắt để ngỏ cửa kia, sẽ đất đến mức nào. Tôi cũng nhận ra ánh mắt của
con yêu tinh Ngọc Hương nhìn tôi khi nhận món quà của bà vợ ông bí thư,
vừa như giễu cợt, vừa ngầm cảnh cáo rằng coi chừng nhá anh chàng Ba Hưng
cù lần tội nghiệp. Tôi ngồi vào ghế của mình như một ông đầu rau đang
ôm niềm tự hào cay đắng, một thứ vinh quang chết người. Khi anh lên tới
đỉnh cao của danh vọng là lúc phải coi chừng nhất, vì chỉ một tí sẩy
chân là rơi ngay xuống vực. Khi Tám Lợi giới thiệu mục ngâm thơ thì Hai
Kỷ ghé vài tai tôi khen: Ông hùng biện ngang Thánh Thán. Tôi hoảng hồn với cách
so sánh nguy hiểm của ông. Thánh Thán chết chém vì lộng ngôn. Còn tôi
chưa từng lộng ngôn dù ở trong mơ mà. Chỉ cần hình dung sơ sơ ra cảnh
đao phủ dẫn mình ra pháp trường, ấn vai mình bắt quỳ xuống, trói vào
cọc, tôi đã nghẹt thở chứ chưa nói gì đến nghệ thuật chém treo ngành của
những đao phủ cha truyền con nối. Tôi lấy hết nghị lực ra để cố thoát
khỏi ám ảnh Thánh Thán nhưng không được. Cái sự đọc sách báo hại tôi. Tôi thương ông Thánh Thán với tài bình thơ nghiêng trời lệch đất, nhưng không đi thấu được cái lẽ của thanh gươm. Có lẽ nhờ nét đẹp duyên dáng và giọng ngâm thơ thánh thót của nữ nghệ sĩ Nhụy Đào, đưa tôi vào lại tập thơ của bí thư tỉnh ủy với bài
thơ Bài ca hạnh phúc, tạm thời quên đi ông Thánh Thán và Tây Sương ký
đời xưa. Tôi xin trích một đoạn trong bài thơ Nhụy Đào đang ngâm:
Ôi cuộc sống vô cùng thời đại
Hạnh phúc làm ta tưởng thực là mơ
Có thể nào tin được đất nước bây giờ
Đang tiến bước vào thiên đường cộng sản
Ta để bỏ qua chuyện cơm no áo ấm
Để tới thời ăn suớng, mặc sang
Sau chiến tranh xây đất nuớc đàng hoàng
Cả thế giới đang nhìn ta ghen tị
Việt Nam đó, mộl thiên tài thế kỷ
Những tầm nhìn đi trước cả hành tinh
Những con người tự nguyện thắp bình minh
Thao thức bao đêm dẫn đường hạnh phúc
Ôi đất nước hành quân hay đám rước?
Trăm giấc ông cha mơ chưa gặp cái bây giờ
Làm chủ tập thể là cả một trời thơ
Mà nhân loại nghìn sau còn học hỏi
- Rằng Việt Nam ơi, người là hoa hay là trái?
Người mọc lên từ bùn đất máu xương
Hạnh phúc lớn lên như Thánh Gióng phi thường
Hãy đi tới ngày mai bằng con tàu vũ trụ
Hỡi công nông, hõi những ngưòi làm chủ
Có xã hội nào tốt đẹp như ta
Trên đất này hạnh phúc hóa bài ca...
Lại
vỗ tay thác đổ. Lại bí thư tỉnh ủy bắt tay và ôm hôn, rồi bà vợ tặng
hoa cho diễn viên ngâm thơ. Hơn mười bài thơ na ná thế, hơn mười giọng
ngâm na ná thế, hơn mười lần bắt tay ôm hôn và tặng hoa na ná thế. Chỉ
tội các vị đại biểu vỗ tay mệt phờ râu tôm. Hai Kỷ ghé tai tôi bình: Thơ
bí thư nghe hơi giống thơ Tố Hữu, tài thật. Tôi nghĩ cùng một dòng hô
hào đại ngôn, bên anh, bên em, đại loại thế. Cuối cùng đến lượt bí thư
tỉnh ủy lên diễn đàn. Tràng Giang tuy tên vậy nhưng khi
nói năng không đến nỗi đại hải cho lắm. Vẫn giọng điệu lên lớp, dạy bảo
thiên hạ của típ người lãnh đạo lâu năm thuộc thế hệ ông chưa hề biết
khiêm nhường là gì. Suốt cuộc đời ông chỉ học một bài giáo điều để đi
dạy mọi người hàng nghìn bài về đời sống. Phần cuối của bài huấn thị là
một loạt điều chung chung về làm chủ tập thể,
về đạo đức cách mạng, về công ơn của Đảng, về thiên đường cộng sản và
bản chất tốt đẹp của xã hội ta hơn hẳn các chế độ đàn áp đói nghèo Bắc
Mỹ, Tây âu và Nhật Bản. Đoạn cuối, Tràng Giang hô hào:
-
Hỡi các đồng chí văn nghệ sĩ tỉnh nhà, nhiệm vụ thiêng liêng và vinh dự
của các đồng chí là xây dựng những hình tượng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Con người mới này hiện nay là đa số, là thắng thế, là xu thế
trong cuộc đi lên phơi phới tự do hạnh phúc của tỉnh nhà nói riêng và cả
nước nói chung. Con người mới là con người theo tiêu chuẩn Bác đã đề
ra: đó là người dám hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi tập thể,
khổ trước thiên hạ, sướng sau thiên hạ, là đày tớ trung thành tận tụy
của dân, sống thanh bạch chẳng màng danh lợi, khiêm tốn chí công vô tư.
Những con người sáng quắc tắm gương thời đại ấy chính là nguờn cảm hứng
vô tận cho chúng ta sáng tác. Sao các đồng chí lại ít viết về họ. Hay
những con người mới xã hội chủ nghĩa này ít tốt đẹp chăng? Tôi xin chúc
các đồng chí ngày nào sống cũng là ngày hạnh phúc sáng tươi, phơi phới
tin tưởng, đêm nào ngủ cũng là Đêm mặt trời.
Tràng
Giang bước xuống trong tiếng vỗ tay của cả hội trường ào ào đứng dậy.
Hàng chục cô văn công vây lấy đồng chí bí thư kính mến của mình để tặng
hoa. Sau đó nhiều văn nghệ sĩ lên phát biểu phụ họa cho bài nói của bí
thư và tìm cách khen bằng được tập thơ Đêm mặt trời. Chợt một người mặc
áo bộ đội bạc màu, đi dép cao su, từ hàng ghế cuối cùng xin lên phát
biểu cảm tưởng. Bỗng Hai Kỷ bảo tôi: ấy chết, thằng Trần Khuất Nguyên.
Tôi hơi lạ hỏi lại: Ai mời anh ta tới đây nhỉ?. Hai Kỷ im lặng theo dõi
khi Trần Khuất Nguyên với dáng
cao gầy, mắt to sâu, miệng rộng, tóc bồng đã đứng trước micrô. Cả hội
trường lặng tờ như đang chuẩn bị nghe thông báo về cuộc chiến tranh thế
giới. Trần Khuất Nguyên nâng micrô lên cao một chút cho vừa với mình,
đoạn cao giọng làm một màn kính thưa rất phép tắc. Anh ta tự giới thiệu
tên mình. Rằng anh ta ba mươi ba tuổi, thương binh loại bốn trên tám,
từng là đảng viên, là hội viên nhà văn, nhưng đảng thì mới bị khai trừ, đang bị cấm in báo in sách, mặc dù đã có nhiều
tập thơ xuất bản và đạt được nhiều giải thưởng văn học. Cả hội trường
rộ lên rào rào như ong vỡ tổ. Trần Khuất Nguyên nói tiếp:
-
Trước hết, về tập thơ Đêm mặt trời thiết tưởng các đồng chí đã nói
nhiều và cạn lẽ. Tôi chỉ nêu vài suy nghĩ về bài nói của đồng chí bí thư
tỉnh ủy vừa nãy. Trước hết tôi thấy hiện nay giữa văn học và cuộc sống có một
khoảng cách quá lớn, nếu không muốn nói là trái ngược nhau. Văn học chỉ
cốt tô hồng, quét nước sơn hạnh phúc lên sự bất hạnh của đám đông, cắm
hoa hồng lên nỗi đau của quần chúng. Thứ hai, cuộc sống với đồng
lương diễu cợt của cán bộ công nhân viên chúng ta không nên nói là quá
thấp nữa, mà phải nói là một thí dụ về sống, về ăn. Ví như tôi, từng là
thương binh đánh Mỹ, với đồng lương hiện nay, nếu ăn xôi sáng cho no cũng chưa đủ. Vậy thì phải kiếm việc gì để làm mà sống, nếu không có khả
năng ăn hối lộ, móc ngoặc hoặc ăn cắp của công. Vì vậy, tối nào tôi
cũng phải thuê xích lô đạp, kiếm thêm tiền ăn bữa trưa và bữa tối, đặng có sức mà phục vụ đất nước. Nhưng văn học chúng ta quay lưng lại tất cả những điều ấy, lại toàn đi ba hoa nói về những điều không có thật. Những điều chỉ thuần là bánh vẽ. Tôi nghĩ rằng, phàm bất cứ ai, bất cứ chính thể nào chối bỏ sự thật, xóa nhòa ranh giới giữa thiện ác tốt xấu, quyết không thể tiến bộ được. Một điều ai cũng thấy, nhưng báo
chí và văn học chúng ta làm ngơ là xã hội hiện nay đang bất công khủng
khiếp. Chúng ta hy sinh hàng triệu người để làm cách mạng xóa bất công,
tại sao lại đẻ ra cả một giai tầng đặc quyền đặc lợi? Điều này ở tỉnh
ta, xin các đồng chí cứ ngó vào các khu sang trọng, các biệt thự dành
cho ông lớn bà lớn và khu lao động khu dân nghèo, khu cán bộ công nhân
viên thì rõ. Điều cuối cùng tôi hoàn toàn nhất trí với đồng
chí bí thư tỉnh ủy là chúng ta phải viết về con người mới xã hội chủ
nghĩa, những con người khổ trước nhân dân, sướng sau nhân dân. Vậy tôi
xin đồng chí bí thư tỉnh ủy chỉ cho tôi xem trong hàng ngũ cán bộ cao
cấp của tỉnh ta hiện nay, ai, những ai là con người mới xã hội chủ
nghĩa? Nếu đồng chí bí thư chỉ được, tôi sẽ tìm đến cái địa chỉ của con
người cán bộ cao cấp đồng thời là con người mới xã hội chủ nghĩa để làm
mẫu nhân vật, viết một cuốn sách về con người tốt đẹp đó để cho mọi
người noi theo.
Cả hội
trường ồ lên kinh ngạc, trước một kẻ liều mạng dám nói ra cái sự thật
nguy hiểm ấy. Tràng Giang không phải tay vừa, quyết không chịu ê mặt
trước thằng lỏi con không biết sợ đang bắt bí mình trước cả tỉnh. Ông ta
liền bán cái cho thuộc cấp, bằng cách đứng lên vui vẻ:
- A, tốt thôi, những người mới xã hội chủ nghĩa này có đồng chí trưởng ban tuyên huấn nắm rõ.
Hai Kỷ lên giành lấy micrô và nói, khiến Trần Khuất Nguyên phải bước xuống trong tiếng la ó phản đối của nhiều cán bộ, có nhiều người hô bắt lấy thằng phản động. Tôi thấy Trần Khuất Nguyên vẫn bình thản đi xuống. Tôi biết cậu ta vừa đùa với súng.
Cái tội bị quy là phản động của cậu ta là dám đi tới tận cùng sự thật
phũ phàng, khiến cho bí thư tỉnh ủy không sao đối đáp, làm mất uy tín
đồng chí bí thư trước bàn dân thiên hạ, thiết nghĩ chỉ còn tù là thượng
sách. Hai Kỷ tức có phát nghẹn, một lúc mới nói được:
- Trần Khuất Nguyên, anh không có quyền chất vấn đồng chí bí thư tỉnh ủy nghe chưa? Ai là người mới xã hội chủ nghĩa thì tự họ biết, việc gì tới anh nào?
Bí
thư tỉnh ủy bị tên nhà thơ phá thối kia làm cho quê quá, bèn dẫn vợ ra
về. Mọi người cũng giải tán. Hai Kỷ bực quá gắt ầm lên. Thế là hỏng hết
cả đêm thơ và cái sự vào thường vụ tỉnh ủy của ông ta coi như nguy rồi. Tuy
vậy, ông cũng đứng lên xin bế mạc đêm ra mắt tập thơ Đêm mặt trời, cảm
ơn tất cả, nhất là đồng chí bí thư và phó bí thư, chủ tịch tỉnh đã đến
dự. Trần Khuất Nguyên lẫn vào đảm đông mất đâu rồi. Tôi có linh cảm là kẻ uống mật gấu này sẽ bị bắt. Tôi thấy mặt Tràng Giang tái mét, nhưng vẫn giả bộ cười cười bắt tay ban tổ chức, rồi lên cái xe Vonga đen bóng đến gương còn phải lạy.
Ly Thân
Chương 21
Buổi trưa trời nóng quá, từ cơ
quan về, chiều nay chàng được nghỉ. Chàng mua một nửa ổ bánh mì kẹp
thịt, nhét vào cái túi da dụng may bằng vải bố Mỹ rất bền đeo trên vai.
Ô, cái thằng Mỹ kể cũng lạ, từ một tấm vải bố đến cái xe hơi, người thì
xấu nhưng sao đồ của nó tốt thế? Còn chúng ta, lạy trời, chàng không dám
bôi bác đâu nhưng hình như ngược lại. Chàng tiếp tục nghĩ suy, kể cũng
lạ, từ thằng Tây thằng Nhật đến thằng Tàu, cứ sau một cuộc chiến tranh
với chúng hắn, đuổi chúng hắn cút đi rồi, ta mới phát hiện ra đồ đạc của tụi hắn thậm tốt, thậm quý. Chàng không về nhà mà
rẽ ra bờ hồ ngồi. Hôm nay là mười sáu âm lịch, trăng sẽ tròn và sáng
hết ý. Vậy là đúng một tháng trời rồi, kể từ khi chàng nhảy xuống hồ cứu
được người con gái kỳ lạ không có tên tuổi và địa chỉ. Người con gái ấy
chỉ bảo sẽ trở lại. Vì vậy gần một tháng rồi, chàng đi đứng ăn nằm
trong nỗi đợi chờ mòn mỏi. Trời im gió. Nắng đổ lửa. Hồ nằm như nín thở.
Nước xanh vắt đến ghê răng. Bóng nắng lấp lánh vảy cá bạc trên mặt
nước. Chàng lại ngồi trên gốc cây cụt ngắm mặt hồ tỏa mát. Chàng luôn
luôn nhìn thấy cảnh vật trong hình ảnh người con gái ấy. Hay là chàng đã
yêu? Chưa hẳn và không hẳn. Hay đây là sự chuẩn bị của tình yêu? Chỉ
biết rằng từ khi cửu và giúp đỡ cho cô gái bất hạnh này, chàng thấy mình
sống có ích hơn, tốt hơn, ý nghĩa hơn. Chàng đang tính bỏ bánh mì ra
ngoạm thì nghe tiếng xe đạp thắng két phía sau lưng. Chàng quay mặt lại,
trố mắt sững sờ. Không phải hình ảnh, chính là cô gái chàng đang mong
đợi đã tìm đến, bước xuống xe đạp. Nàng đi một chiếc xe mini đỏ có chiếc
giỏ mây đeo trên ghi-đông. Nàng khác hẳn tháng truớc vì lần đầu tiên,
chàng thấy nàng trang điểm, mặc bộ đồ tây trắng bóc, áo bỏ trong quần
phô hết cái eo bé nhỏ và những đường cong đẹp mê người. Chàng vẫn im
lặng căng mắt ra nhìn, chưa hết nỗi bàng hoàng. Nàng bước đến bên chàng,
dựng xe đạp sát bên, ngồi xuống hỏi:
- Xin chào anh. Anh không nhận ra em ư?
- Chào em. Em hệt như một người khác vậy.
- Sao anh buồn buồn vậy.
- Vì mãi chưa thấy em tới.
Nàng cười. Phải nói chàng đang bị sắc đẹp của nàng làm mê đắm. Nàng đẹp hơn cái ngày chàng vớt từ dưới hồ lên gắp nhiều lần.
- Anh nghĩ rằng em không quay trở lại à?
- Không?
-
Này, kia là cái cầu bơi em đã nhảy xuống chết. Lúc nào em cũng nghĩ đến
hành động nhảy xuống hồ ban đêm của anh cứu người, dù người đó không
phải là em, nhưng chính là em đấy Có khi ngược lại đấy em ạ.
- Anh nói gì em không hiểu.
- Anh nghĩ rằng không phải chỉ có mình em chết đuối lúc đó.
- Vậy thì ai nữa ạ.
- Người đàn ông đang ngồi bên em đây.
-
Em không hiểu. - Mỗi người có một cách chết đuối của riêng mình. Mỗi
người đều có một cái hồ của mình để nhảy xuống và chết chìm em ạ. Cái hồ
của thiên nhiên đây đã là rộng là sâu, nhưng chưa sâu và rộng bằng cái
hồ của mỗi số phận chúng ta.
- Anh triết lý ghê quá người vô danh ạ.
- Em ạ, người ta đã tự vẫn, đã trầm mình trong chính bản thân mình
nhiều hơn hàng tỉ lần nhảy xuống sông xuống hồ tự tử. Thời gian qua,
chính anh cũng từng nhắm tịt mắt để nhảy xuống cái hồ không đáy của mình
tìm chết, nhưng lại không được chết, lại cứ phải nổi lên trôi vào bờ.
Cái hồ ấy có tên là cô đơn em ạ.
Nàng
im lặng xúc động thương cảm và sung sướng. Nàng thừa hiểu ngầm rằng
chàng đang muốn bày tỏ điều gì. Chàng thấy như phải nói rõ điều ấy hơn,
phải cần giữ lấy người con gái kỳ lạ này, sợ rồi nàng sẽ bay ra khỏi quỹ
đạo của những cái hồ, cái hồ nhìn thấy và hồ không nhìn thấy. Chàng
nói:
- Có một điều nghịch lý tự nhiên này
em ạ. Khi chúng ta muốn tìm chết, muốn nhảy xuống hồ cho thoát nợ đời,
khi rơi xuống nước rồi mới kinh ngạc vì mình đã chợt biến thành cái
phao. Chính lúc ấy, bằng cái phao không thể nhận chìm của mình, chúng ta
đã cứu thoát một kẻ chết đuối khác, một kẻ tự nhiên sa chân xuống vực
thẳm chứ không tìm chết như chúng ta. Yếu tố này, tạm gọi là sự bảo hiểm
tự nhiên.
Nàng tủm tỉm. Nàng hiểu thâm ý chàng. Nàng muốn làm câu chuyện rôm rả hơn bằng cách vừa pha trò vừa nghiêm chỉnh:
-
Nhưng tựu trung, người cứu em thoát chết vẫn cứ là anh. Nhưng em lại
cứu một người chết đuối trên cạn đó. Lòng nàng thương quá. Nàng im lặng,
không dám quay nhìn chàng, sợ mình không tự chủ sẽ ngả đầu vào vai
chàng mất. Lúc đó còn đáng sợ hơn là chết đuối một lần nữa.
Chàng
không nói gì. Chàng nhìn đôi chân nàng bé nhỏ trắng hồng với những móng
chân ngon lành sơn màu hồng lạt. Chàng chưa từng thấy đôi chân đàn bà
nào đẹp như vậy, gợi cảm và nồng nàn như vậy.
Nàng đổi đề tài:
- Em đói quá, ta về nhà ăn đi.
Chàng rút ổ bánh mì ra:
- Hai đứa mình ngoạm chung.
- Em có mang theo đồ ăn ngon lắm.
- Vậy thì để anh chở em về.
Người đàn ông thân thuộc đến mức không cần biết tên tuổi này chở nàng phóng nhanh như gió. Căn phòng của hai mươi mấy ngày trước sao mà thân thuộc
với nàng dường vậy, tất cả vẫn vậy, những bức tường sách, cái giường,
chiếc tủ, cái bàn trà dùng làm bàn viết, bếp núc và toa-lét... Nàng lôi
từ chiếc làn mây ra hai cái đùi gà rất ngon, mấy khoanh chả lụa, một
tảng xôi đậu xanh to tướng. Họ ăn ngon lành như bữa ăn của cặp vợ chồng
mới cưới. Họ nói huyên thuyên đủ chuyện, để thoát khỏi tình trạng khó
khăn khi phải đối diện với điều thầm kín trong bốn con mắt nhìn nhau.
Bốn con mắt như muốn chìm vào nhau, chết đuối trong nhau như là câu
chuyện về cái hồ của họ.
- Bây giờ em phải đi.
Chàng tiễn nàng ra cổng. Trước khi đạp xe đạp vụt đi, nàng lôi từ trong giỏ ra một cái gói giấy báo thật to:
- Em gởi lại anh cái này, khi về phòng anh mới được mở ra nghe chưa? Chúng ta vẫn giữ cái khế ước bí mật về nhau chứ?
- Như vậy càng hay. Hai chúng ta là những con người. Anh là Anh còn em mãi là gì nhỉ?
- Em mãi là Em!
Nàng
đạp xe đi như con chim én, phóng mình vào chiếc màn vô định, để lại cho
chàng nỗi đợi chờ như ú tim. Chàng ôm cái bọc về phòng và mở ra coi.
Trời ơi, một bộ pigiama màu trắng sọc nâu ca-rô, một cái khăn tam to
dày, thêu chữ EVA ở góc trái. Chàng hồi hộp, cảm động và sung sướng tủm
tỉm: cô bé biến mình thành ADAM đây. Ngoài ra còn một cái cắt móng tay
nhỏ của Trung Quốc, một bàn chải đánh răng. Những thứ lặt vặt nhưng
thiết yếu này, trong đời sống, chàng không có, vì vậy nàng gởi tới cho
chàng. Từ đó chàng chờ đợi người con gái bí mật kia xuất hiện, nhưng
càng chờ càng thất vọng. Ngày nào chàng cũng ra bờ hồ ngồi, chờ một
tiếng thắng xe đạp cái két sau lưng. Một tháng trời qua đi. Hay là người
con gái kia đến trả ơn cho chàng một lần rồi biến mất, chìm mất vào cái
hồ không đáy của cuộc sống lớn iao và bí mật này. Bây giờ nàng là con
cá trên cạn, không cần chàng cứu vớt nữa mà cần một người đàn ông khác.
Nàng đang tình yêu chưa chắc đã có lòng tốt và ngược lại. Nếu một người
đàn bà cần phải chọn lựa giữa hai cái đó, họ sẽ chọn tình yêu chứ không
chọn lòng tốt, dù tình yêu kia sẽ mang lại thảm họa cho họ. Chàng tự
trách: tại sao bữa đó ta không tỏ tình với nàng và giữ rịt nàng mãi mãi
bằng một lời cầu hôn? Nhưng sẽ chẳng có sự nảy mầm nếu chàng vãi cái hạt
còn non xuống đất. Cần phải kiên nhẫn chờ đợi như chàng vốn được sinh
ra để chờ đợi, để làm kẻ săn đuổi tương lai. Từ buổi có nàng, chàng thấy
nỗi cô đơn không còn dễ sợ nữa. Tuy nhiên, nỗi cô đơn lại nhìn chàng
bằng gương mặt của cái hồ. Nỗi cô đơn xanh thằm biết cách nổi sóng, biết
cách làm tấm gương soi. Rất cuộc, con người vẫn phải nhảy xuống cái hồ
không đáy là nỗi cô đơn vô tận. Hành động biến mất đó phải chăng là cái
chết? Một tháng sau cũng không thấy nàng trở lại. Người đàn bà không tên
tuổi, không quá khứ không lý lịch kia sao bỗng nhiên lại trở thành đời
sống, thành ý nghĩa của đời chàng. Giữa thời đại lý lịch chủ nghĩa này,
lẽ nào một người đàn ông và một người đàn bà vừa tìm được tình yêu, cùng
hướng về một mục đích lại không cần tham khảo quá khứ và lý lịch của
nhau? Nhưng ở góc trái chiếc khăn tắm, nàng đã gởi lại tên mình: Êva,
người đàn bà đầu tiên của nhân loại. Cần phải học cách xuất hiện và tình
yêu tuyệt đối trong sáng của tổ tông loài người. Khi Adam và Êva xuất
hiện trong vườn địa đàng, họ hoàn toàn không có quá khứ. Họ tìm ra tình
yêu trong hiện tại và tương lai. Và từ đó, những hậu duệ của họ, những
Adam phết và êva phết, bằng tình yêu sẽ lặp lại tình yêu của tổ tiên,
làm một cuộc trở về nguon, trở về cái điểm đầu tiên của nhân loại khi
xuất phát.
Cái điểm khởi thủy ấy chính là hiện tại, chính là giây phút chàng Adam
nhìn thấy nàng Êva để nhận ra mình trong mắt nhau, hút chặt vào nhau,
biến thế giới nhị nguyên thành thế giới nhất nguyên, biến hai người
thành một người. Từ đó, mỗi khi có người đàn ông và đàn bà nhìn thấy
nhau, họ nhìn thấy hành động yêu đương của tổ tiên trong họ. Và trước
phút đó, họ hoàn toàn là những kẻ xa lạ, nào đã biết gì về nhau. Trước
đó, họ không hề có quá khứ. Chỉ có sự xuất hiện của tình yêu mới bắt đầu
như vậy, từ không đến có, từ xa lạ vô song đến thân thuộc
vô cùng. Hai đại lượng đó chỉ chuyển hóa trong một nháy mắt một cái
liếc mắt khi những người khác phái nhìn thấy nhau. Trước khi nàng nhảy
xuống hồ và chàng lao xuống cứu, họ là hai đại lượng chưa hề có, không
hề có đối với nhau. Họ bước tới nhau không hề mang theo quá khứ của
mình. Bởi vì, chàng nghĩ, chỉ có tình yêu mới là khởi thủy mà thôi. Tình
yêu là nguyên tố biến không thành có, biến vô hạn thành hữu hạn và
ngược lại, biến cái mơ hồ vô cực thành thế giới dễ thương và dễ ghét
này. Chiều ấy, đúng là ngày mười sáu âm lịch tháng thứ ba từ khi họ nhìn
thấy nhau, đi làm về chàng thấy một bọc giấy báo trong bao nilông đựng
một bông hầng có thắt cái nơ đỏ. Chàng cảm động quá, quỳ xuống nhặt bông
hoa được ném qua cửa sắt vào khoảng sân tí tẹo dẫn vô phòng chàng.
Nhưng một mảnh giấy cuốn quanh bông hong có chữ viết của nàng: Em rất
muốn được gặp anh. Tha lỗi cho em, em sợ.
Tối đó trăng rất đẹp nhưng chàng không ra bờ hồ ngồi. Chàng ở nhà với
bông hồng nàng tặng. Chàng hiểu tín hiệu của hoa hồng là gì rồi. Nhưng
cả tháng sau, nàng vẫn cứ không tới. Cho tới sáu tháng sau nữa thì chàng
hiểu là nàng đã vĩnh việt mình bằng một bông hoa. Nếu biết địa chỉ
nàng, chắc chắn chàng đã đi kiếm từ lâu. Chàng đi tha thẩn khap nơi
trong thành phố như một người ngơ ngẩn kiếm tìm người đàn bà trong giắc
mơ. Chàng hiểu mình đã yêu đến điên dại, đến tuyệt vọng. Hay là nàng
không có thật. Tất cả chỉ là do chàng bịa ra thôi. Nàng vẫn bí mật như
chính đời sống, sự sống, như chính cái vũ trụ bao bọc chúng ta. Biết
đâu, nàng vẫn ở quanh chàng, bí mật quan sát cuộc đời chàng như một hành
tinh cô đơn quan sát một thiên thể cô đơn khác qua cái màn bỉ mật hư
vô. Tuy nhiên, đúng tối mười sáu âm lịch của tháng thứ chín kể từ khi họ
thấy nhau, nàng đã tìm đến gõ cửa căn phòng đơn độc của một người đàn
ông đơn độc. Nàng mặc áo dài trắng, quần trắng, đi guốc cao gót, tay dat
xe đạp lặng nhìn chàng qua ánh trăng. Chàng thấy nàng cao hơn, thon thả
hơn, đẹp hơn trong chiếc áo dài trắng. Thấy chàng sững sờ như mất hồn
vía, nàng giục:
- Anh, em đến này. Dắt giùm xe với.
Chàng làm theo lệnh, hoàn hồn thốt ra:
- Chào em. Anh tưởng em không còn tìm anh nữa. Anh đang tuyệt vọng đây.
Họ vào phòng, dưới ánh điện, nàng càng xinh đẹp và dễ thương hơn.
-
Em đẹp quá. Không hiểu rồi anh sẽ sống ra sao nếu em không trở lại.
Chín tháng nay, lúc nào em cũng ở bên cạnh anh. Tự anh không nhìn thấy
đó thôi. Nàng lấy bông hồng tuyệt đẹp cắm vào chiếc lục bình để trên
bàn. Bông hồng boọc-đô hàm tiếu. Chàng hì hục pha nước. Họ ngồi đối
diện, im lặng ngắm nhau hơn là nói. Rồi nàng kéo cái giỏ lôi ra các thứ
bảo:
- Anh lấy giùm em cái đĩa. Em làm
bánh bông lan đây, còn mấy trái cây này em mua ngoài chợ. Chàng cầm cái
đĩa không biết sao đánh rơi xuống nền gạch bông kêu cái choang. Nàng bỏ
bánh chạy lại chỗ cái dĩa vỡ, nơi chàng vẫn đứng ngây ra như tượng. Nàng
bước tới, tính cúi xuống nhặt mảnh đĩa vỡ, chỉ cách chàng chừng một bàn
tay. Nhưng thật bắt ngờ, chàng mở vòng tay ra ôm lấy cái eo rất tuyệt
của nàng hổn hển:
- Em thân yêu.
Nàng
vẫn im lặng ngó vào mắt chàng, đôi mắt nàng nhòe ướt. Nhưng chàng đã
nhanh hơn cắt, đặt môi mình vào đôi môi chín đỏ của nàng. Họ hôn nhau
thật lâu, thật say. Khoảnh khac này đối với họ sẽ thành mãi mãi. Có lẽ
chỉ cái hôn mới đủ sức mạnh chống lại vòng quay của thời gian. Cái hôn
làm nàng nghẹt thở. Nàng thì thầm trong hơi thở:
- Đừng anh. Đứt chân hết bây giờ. Buông ra để em nhặt mảnh dĩa vỡ đã.
Bấy giờ chàng mới sực nhớ là mình vừa đạp trúng một mảnh sành của cái đĩa vỡ. Nàng cúi xuống nhặt mảnh vỡ và phát hiện
ra chân chàng ứa máu. Nàng hốt hoảng tìm thuốc đỏ và bông, băng lại vết
thương con kiến nơi chân chàng. Cái đĩa vỡ đã làm cuộc đời họ lành lại
với nhau. Chàng bồng nàng trên tay. Họ vừa hôn nhau đến bốc khói vừa tỏ
tình lia lịa. Người con gái lại lặng im, như thể một lần nữa, nàng lại
nhảy xuống hồ thoát khỏi bản thân mình.
Suốt chín tháng nay, tình yêu đã nung đốt họ. Nhưng cả hai vẫn chưa đủ
thời gian để trút đi cái y phục nặng nề của sự mặc cảm, chưa tháo được
cái khẩu trang tự ái. Họ cần phải đóng vai người xa lạ, nhờ vả sự bí
mật, sự tò mò không lường về nhau làm gạch nối. Tình yêu là hai nguyên
tố cực kỳ xa lạ, cực kỳ khác biệt hút nhau. Chàng đặt nàng lên giường
như thể cái đêm chàng vớt nàng lên khỏi đáy hồ. Nàng không biết mình
đang nằm dưới đáy hồ hay nằm trên chiếc giường phục sinh nữa. Tình yêu
và sự chết, hai đối cực kia vừa hòa vào nhau trong nàng. Và mãi mãi nàng
luôn luôn phải được cấp cứu, được làm hô hắp nhân tạo bằng chính cái
hôn của chàng. Hạnh phúc làm nàng trào nước mắt. Nàng thấy đôi môi chàng
di chuyển như thời gian trên khắp người mình. Tình yêu đã làm cho nàng
tìm thấy cảm giác của cái chết mà cái hồ của tử thần bữa đó không thể
nào giúp nàng được. Qua cửa sổ, ánh trăng mười sáu làm trời và đất hòa
vào nhau thành một khối. Tình yêu, lần đầu tiên làm cho chàng và nàng
cùng được tham dự vào một cuộc tự vẫn hằng sống. Nàng thấy mình rơi lên
bầu trời trong cảm giác run rẩy và bay bổng. Chính bầu trời ấy mới là
chiếc hồ của nàng. Nàng chưa có thời gian để nhận ra một điều là con
chim bay bằng cánh, còn con người bay bằng tình yêu. Chàng đã giúp nàng
tháo bỏ cái y phục của thế gian để mặc nguyên y phục của tạo hóa. Nàng
được chàng dìu vào cái cõi không thời gian và không có không gian. Dường
như cả thế giới này cũng đang tham dự vào cuộc chết đuối trong nhau mà
người ta gọi là hạnh phúc của họ?.
Tối
thứ bảy, tôi ngồi trên võng, lặng nghe con Vương Thi, con gái tôi kể
tường tận mổi tình kỳ lạ của nó, còn hơn chuyện bịa của một cuốn tiểu
thuyết. Đối với con gái, tôi đã học được nghệ thuật biết nghe hơn là
nghệ thuật viết và nói. Nó coi tôi như bạn và vì vậy sẵn sàng tâm sự hết
mọi điều sâu kín nhất, bí mật nhất của minh. Vương Thi đã kể cho tôi
không sót một chi tiết về chuyện tình của nó, mà tôi vừa trình bày với
các bạn như một đoạn phim quay chậm. Tôi hỏi con gái:
- Từ khi anh ấy cứu con đến giờ đã một năm rồi nhỉ?
-
Một năm hai tháng bố ạ. - Nhưng vì sao hai đứa yêu nhau đến mức ấy, đến
mức cuối cùng như vợ chồng rồi mà vẫn giấu tên nhau, chưa biết nghề
nghiệp cùng nguồn gốc của nhau thì bố cho là kỳ quốc quá, phi lý quá
đấy.
- Chúng con vẫn quy ước như
vậy. Đây không phải là trò chơi mà là một triết lý lớn của tình yêu đấy
bố ạ. Tại sao người ta cứ phải đến với nhau bằng quá khứ? Con người ta
được sinh ra trước khi đặt tên chứ không phải ngược lại. Trong đời,
người ta có thể đổi họ đổi tên nhiều lần đều được cả, nhưng không thể
đổi được chính bản thân mình.
Người ta có thể thay đổi được quá khứ, bằng hiện tại và tương lai,
nhưng sẽ không thể đổi được tình yêu, nếu tình yêu đó là đích thực. Chỉ
cần một hành động của anh ấy khi lao xuống cứu vớt con dưới hồ, rồi
những ngày sau đó đã chăm sóc giúp đỡ con như vậy, cũng đủ để con tin
tưởng trao gởi cuộc đời. Anh ấy bảo cần lấy niềm tin yêu vào nhau làm
quá khứ, làm tên tuổi địa chỉ.
-
Khiếp nhỉ, chắc cái anh người yêu của con dạy triết hay sao mà từ khi
yêu anh ta, con hay triết lý với bố quá. Bố chẳng hiểu rồi con với anh
ta sẽ sinh ra những phép lạ gì nữa. Nếu quả như vậy, thì bố thua các con
vì suốt cả một đời viết văn, bố cũng chẳng bịa được một tình yêu nào lý
thú như vậy.
- Hồi con mới quen anh ấy,
bố đã khuyên can con rất nhiều, thậm chí còn đe nẹt mắng mỏ con nữa. Con
đã phải dùng cả chín tháng để suy gẫm, để quan sát, theo dõi anh ấy
nhưng tuyệt đối không hỏi han một người thứ ba nào về anh ấy. Con đã yêu
anh ấy không phải bằng lý trí hay trái tim mà bằng chính cái chết, bằng
chính sự sống lại của đời con. Anh ấy sống rất nguyên tắc, học vấn rất
cao, lấy sự hy sinh cho người khác làm niềm vui. Vậy thì anh ấy dù có
tên là gì, dù có làm ông gì đi nữa với con cũng không cần thiết. Chúng
con quy định khi nào làm đám cưới mới khai tên thật và nguồn gốc với
nhau. Thế chừng nào các con định cưới nhau?
- Sắp rồi bố ạ. Khi ấy, con sẽ dẫn anh ấy về trình diện bố mẹ.
Ngồi lặng một lúc, đoạn Vương Thi chép miệng:
- Nhưng con đã phạm luật, con đã vô tình phát hiện
ra tên tuổi, nghề nghiệp, quê quán gốc gác của anh ấy. Nhưng nếu anh ấy
vẫn là ẩn số, là bí số thì còn tuyệt hơn. Tình yêu mà không còn ẩn số,
không còn bí mật thì cũng không còn hấp lực phải không bố?
- Con có thể tiết lộ cho bố người yêu của con tên gì không?
- Chưa được đâu ạ. Nhưng rồi bố sẽ kinh ngạc, sẽ phục lăn anh ấy, nếu con dẫn về giới thiệu với bố mẹ.
Vương Thi ngồi im một lúc hỏi:
- Con đố bố nhá, một cộng với một bằng mấy?
- Ôi, con làm bố như con nít ấy. Có vậy mà cũng đố, một cộng với một không bằng hai thì bằng bốn à?
Con gái tôi vênh mặt lên với ánh mắt sung sướng mãn nguyện:
-
Nếu vậy thì con còn đố bố làm gì. Một cộng với một bằng hai là phép
tính của bộ óc, của sự tỉnh táo, của người không có tình yêu đấy bố ạ.
Đối với con và anh ấy bây giờ thì phép tính đó là: một cộng với một bằng
một.
- Sao kỳ vậy con. Vậy mà đòi là phép cộng à?
Con gái tôi cười:
-
Hèn chi bố chưa yêu là phải. Đối với tình yêu, một cộng với một bằng
một. Hai người yêu nhau cộng lại thành một người chứ còn mấy nữa cụ ơi.
Ly Thân
Chương 22
Hai Kỷ cho người mang xe đến mời
tôi đến cơ quan ông để bàn công tác. Ông ta đề nghị tôi đứng tên làm chủ
biên cho tập sách viết về tiểu sử và cuộc đời của các bí thư tỉnh ủy
tỉnh Sơn Giang từ năm 1930 đến nay. Ông hứa khi hoàn thành cuốn sách,
tôi sẽ được khoản thù lao kha khá, đồng thời sẽ tham gia đoàn cán bộ
tỉnh đi nghỉ mát ở nước ngoài. Tôi nhận lời ông Hai Kỷ. Sau câu chuyện
chính, Hai Kỷ giữ tôi lại uống cà phê nói chuyện lai rai. Ông vừa bóc
bao Sàigòn xanh mời tôi hút vừa hỏi:
- Lâu rồi ông có gặp thằng Trần Khuất Nguyên không?
- Không, kể từ đêm hắn quậy buổi tối ra mắt tập thơ của anh Tràng Giang đến giờ. Ngồi với nhau một lúc, Hai Kỷ bảo:
- Ba Hưng ạ, thằng Trần Khuất Nguyên đã bị địch mua đứt
Tôi trố mắt kinh ngạc:
- Địch nào?
-
Địch chứ còn địch nào. Thiếu cha gì địch xung quanh chúng ta. Tôi báo
ông biết là địch nó đông như rươi ấy. Nào bọn gián điệp xưa Tây còn sót
lại, nào là tụi CIA do Mỹ còn gài lại khắp nơi này, nào là điệp viên của
bọn bành trướng Bắc Kinh này, bọn mật vụ Tàu Tưởng xưa còn rơi rớt do
Đài Bắc chỉ đạo này, bọn Pôn Pốt cũng còn chân rết quanh ta nữa đấy, bọn
gián điệp Thái Lan... ấy là tôi chưa kể bọn phản động trong nước âm mưu
lập hội kín hội hở để phá ta. Liệu mà ăn nói giao du đấy ông nhà văn
ơi. Cũng cần phải biết giữ mồm giữ miệng nữa ông ạ. Bất cứ lúc nào cũng
có một thằng địch dòm ngó, tính dụ dỗ ta. Tôi cho rằng thằng Trần Khuất
Nguyên đã bị bọn ma đầu phản động mua đứt.
Tôi buột miệng:
-
Nếu địch nhiều và loạn như thế thì hóa ra ngành công an của ta bất lực
à? Theo tôi biết thì nhân viên ngành an ninh của ta đông vô kể, tài vô
song. Thật khó tin lắm ông Hai Kỷ ạ. Lại còn chuyện thằng Trần Khuất
Nguyên nữa. Địch nào lại điên tới mức bỏ tiền ra mua một thằng bốc trời,
một tay Đông Kisốt ấm a ấm ớ như vậy chứ?
Hai Kỷ xạc tôi liền:
-
Ông là chúa có chủ quan. Bọn nhà văn các ông ngây thơ mắt cảnh giác bỏ
xừ đi ấy. Các ông cả tin vào con người vừa vừa chứ. Trong nền văn học
chúng ta, tuyệt nhiên không được có cái tính người chung chung như bọn
phương Tây nghe chưa. Các ông chưa học được đức tính của giai cấp cầm
quyền là phải biết cách nghi ngờ, biết cách lật tẩy bộ mặt thật của
những con người giả vờ giả vịt. Chúng nó cười cười thề thốt trung thành
với chúng ta như sấm, nhưng hãy coi chừng, chúng thủ dao găm sau lưng
đấy. Vì vậy, người cách mạng dù khi ngủ, thậm chí khi yêu cũng phải hết
sức cảnh giác. Có khi thằng địch nó nấp ở trong người các ông mà các ông
không biết hay giả vờ không biết.
Tôi đành phải làm bài ngoan ngoãn vâng lời:
-
Ông Hai nói có lý. Nhưng tôi còn khó hiểu cái chỗ là thằng địch nó mua
thằng Trần Khuất Nguyên, tức nhiên là nó phải mua bằng tiền?
- Dĩ nhiên.
-
Tôi hoàn toàn không bênh thằng Nguyên đâu, nhưng tôi biết hắn nghèo rớt
cục mùng tơi. Đến xe đạp hắn còn không có mà đi nữa là. Chả lẽ thằng
địch nó không giúp hắn mua một cái xe đạp loại thường thường như Hữu
Nghị chẳng hạn để hắn đi hoạt động cho nhanh à?
-
Ôi, tụi nó đóng kịch tài lắm ông ơi. Với lại cái thằng địch bây giờ nó
cũng cáo lắm. Nó biết người biết của lắm, giá trị bằng nào thì nó trả
đúng bằng ấy thôi, không hơn không kém một xu nhá. Như cái thằng Trần
Khuất Nguyên này, thằng địch nó chỉ cần bỏ ra vài ly bia,
dăm bịch đậu phộng, mấy điếu thuốc ba số là mua được liền. Nhưng ông
đừng tưởng tụi nó mua thằng này bằng cái giá rẻ như vậy. Nó mua thằng
Nguyên bằng những lời khen. Rằng ông thi sĩ Trần Khuất Nguyên bị chế độ
độc tài vùi dập tài năng. Rằng ông là thiên tài, nếu ở phương Tây, giải
Nô-ben văn chương là
cái chắc. Rằng hậu thế sẽ đánh giá lại ông chính xác như từng đánh giá
lại Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Cao Bá Quát. Lúc ấy, ông mà không bằng cụ
Nguyễn Du, tụi tôi cứ xin đi đầu xuống đất. Đấy là cách nó mua thằng này
hay nhất ông ơi. Mà tâm lý bọn nhà văn các ông thì suốt đời chỉ có
thiếu những lời khen mà thôi.
Tôi im lặng như một linh hồn chắp tay trước tòa phán xét cuối cùng. Hai Kỷ hút một hơi thuốc dài rồi nói:
-
Ông không tin thằng Trần Khuất Nguyên bị địch mua thì bằng chứng đây.
Bên công an văn hóa có gởi sang tỉnh ủy hồ sơ về thằng này sau khi hắn
bị khai trừ đảng. Họ đang đề nghị bắt hắn nhưng thường vụ còn do dự. Tôi
chỉ xin rút mấy tờ nhỏ nhất trong hồ sơ mang bí số vụ án Z5. Xin ông
giữ bí mật giùm cho, Z5 là bí số của Trần Khuất Nguyên do cơ quan an
ninh đặt. Đây, tôi cho xem. Nếu ông hở chuyện này ra là cả hai ta đều
tiêu đấy nghe chưa. Tụi nó đánh hơi thấy ta bám đuôi là bốc hơi liền, có
trời chộp lại. Hai Kỷ rút từ trong tủ ra một cái cặp bìa cứng khá dày,
lấy mấy tờ giấy đánh máy mang kỷ hiệu Z5 110 đưa cho tôi. Tôi cầm lên,
đeo kính cẩn thận lại rồi đọc:
Ngày...
tháng... năm... hồi... giờ... Trinh sát Ql từ sở thông tin văn hóa báo:
suốt hai tuần nay, không thấy Z5 nói câu gì ở cơ quan. Cần phải đặt câu
hỏi vì sao Z5 như cái bóng không hồn, không nói, không cười, không tụ
họp. âm mưu gì đây? Ngày... hồi... giờ... Cơ sở của T18 báo: Z5 đi theo
hai thương binh (của ta) vào một quán bia bên đường Trần Hưng Đạo. Ba
người uống bia bốn mươi lăm phút thì Z5 đọc thơ, loại thơ chưa duyệt. Cơ
sở nghe tiếng đực tiếng cái nên không biết thơ này phản động nhiều hay
phản động ít. Z5 đọc xong ba bài thì đám ăn mày, đám bụi đời ngoài đường
tấp vào nghe rất say mê. Sau khi họp giao ban, ban chuyên án đặt vấn đề
cần tìm gấp xem thơ đó là thơ gì, phải chép cho được, thơ gì mà đọc ra
lại làm mê bọn bụi đời và ăn mày. Loại thơ đó chắc chắn là thơ xấu.
Ngày... hồi... giờ... Trinh sát B 22 báo: Z5 đi theo một cán bộ hưu trí
tới nhà tên Hà Văn Nội là thương phế binh ngụy bị cụt giò hồi đánh nhau
với ta ở Quảng Trị. Tên Nội dù cụt giò, ban ngày vẫn đi đạp xích lô, đêm
nghỉ. Vợ Nội là Hẹn bán vé số, có năm con. Z5 vô nhà tên này một lúc
thì thấy ngồi trên cái xích lô của Nội đạp đi. Z5 đạp đến i 5 phút mới
quen. Trinh sát theo tiếp, sau khi điều tra được biết là Z5 mướn xích lô
của Hà Văn Nội để đạp ban đêm, giá cả thuê mướn ra sao chưa được biết. B
22 theo sát Z5 để coi có đạp xích lô thật không. Z5 chở khách thật. Sau
khi giao ban, ban chuyên án đặt vấn đề: Z5 là cán bộ, là nhà thơ, là
thương binh cách mạng, lại đi mướn xích lô của một tên thương phế binh
ngụy để đạp kiếm tiền. Như vậy Z5 đã mắc tội không phân biệt địch ta,
đánh đồng thương binh cách mạng với thương binh ngụy. Tội thứ hai của Z5
là bêu xấu chế độ Ngày... hồi... giờ... Cơ sở của T18 báo: Z5 và Hà Văn
Nội, thương phế binh cụt giò, đi nạng vào quán cà phê Ướt Mi. Z5 uống
cà phê đen, Nội xài cà phê đá, hút thuốc Khánh Hội. Z5 và Nội nói với
nhau rất bé, cơ cở không nghe rõ. Chắc hai bên bàn điều gì nguy hiểm
lắm. Gần một tiếng đồng hờ, Z5 đang ngồi im lặng tự nhiên ứa nước mắt.
Họp giao ban đưa ra vấn đề: Z5 thương binh ta, lại đi khóc với một tên
thương phế binh ngụy. Bằng hành động này, hoặc là Z5 điên, hoặc là có ý
làm nhục cách mạng. Sao lại khóc với địch nhỉ? Ngày... hồi... giờ...
Trinh sát báo cáo: Z5 đến câu lạc bộ những người kháng chiến cũ và câu
lạc bộ hưu trí, hai đơn vị sát nhau, chung một khuôn viên, chung một hội
truờng. Người ngồi nghe Z5 nói chuyện và đọc thơ đông nghịt. Thành phần
đi nghe: cán bộ hưu trí, thương bệnh binh (của ta), bộ đội xuất ngũ,
sinh viên học sinh, đàn bà con gái chiếm đến một phần tư khán giả. Z5
được vỗ tay nhiệt liệt. Z5 đọc và nói rất to, vẻ hung hăng, không biết
kiêng nể ai cả. Chủ đề cuộc nói chuyện đọc thơ mang tên: đừng quên cuộc
kháng chiến trong ba tiếng đồng hồ, trinh sát có thu băng. Toàn phòng đã
nghe cuộn băng này, thơ và nói nhưng chưa quy thành phản động được. Tuy
nhiên ta vẫn có cớ để bắt lỗi Z5: có đọc những bài thơ mới viết chưa
được duyệt, chưa được in. Đọc thơ tình đến 5 bài toàn kêu gợi yêu đương
nhăng nhít. Giữa lúc ta đang gian khổ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Z5 lại
đi hô hào chuyện trai gái giữa đám đông. Một kiểu chiến tranh tâm lý
đánh lạc hướng quần chúng, xui mọi người lao vào chuyện mây mưa chim
chuột mà xao nhãng công tác cách mạng. Ngày... hồi... giờ... Các cơ sở
của T18 ở Hội văn nghệ, ở báo văn nghệ tỉnh báo: Z5 hay ra bờ hồ ngồi
nhìn dông dài có khi ba bốn tiếng đồng hồ. Z5 thì thầm nói một mình như
thể gọi vô tuyến điện thoại cho ai đó. Z5 tự đọc thơ cho mình nghe. Có
khi Z5 khóc gọi tên bạn bè đã hy sinh trong rừng. Cần phải điều tra xem
Z5 có âm mưu gì không? Có phải Z5 giả vờ làm ra vẻ ấm ớ, mát giây để
đánh lừa ta? Về chuyện hay chảy nước mắt của Z5 cần phải xem xem có là
hành động chiến tranh tâm lý? Giữa cuộc sống tốt đẹp này sao lại khóc.
Vu cáo hay là ý đồ gì đây? Ngày... hồi... giờ... Trinh sát X3 báo cáo:
Z5 viết ngoài cửa nhà mình là đi vắng, nhưng vẫn cứ một mình ở trong
nhà. Suốt một năm trời Z5 đều chơi trò treo đầu dê bán thịt chó như vậy.
Họp giao ban, đưa vấn đề: tại sao Z5 lại phải lừa bạn bè như vậy? Z5
làm điều gì trong nhà? Z5 ở trong đó có ai? Trinh sát có mở cửa nhà Z5
vào khám xét khi đương sự ở cơ quan, nhưng chưa tìm ra bằng chứng gì khả
nghi. Ngày... hồi... giờ... Trinh sát Ql báo cáo: Z5 làm đơn kiện ban
giám đốc sở văn hóa thông tin về cái gọi là tội tham ô tài sản xã hội
chủ nghĩa, tội hủ hóa và tội trù dập cấp dưới. Z5 kiện lên Viện kiểm sát
tỉnh và Viện kiểm sát tối cao. Tội của Z5: phanh phui bí mật của tỉnh
ra ngoài khi chưa được phép. Ngày... hồi... giờ... Một cơ sở của T18 vốn
là bạn thân của
Z5 đã bí mật thu băng được cuộc nói chuyện của Z5 và cơ sở ngoài công
viên. Băng ghi âm này ban chuyên án đang giữ. Trong câu chuyện với bạn
mà Z5 không ngờ được đấy là tai mắt của công an, Z5 ca thán xã hội ta
bất công, cán bộ tha hóa. Z5 còn nói một câu rất phản động: Nếu chúng ta
cứ đẩy cuộc sống xuống vực như thế này thì có tội lớn với hàng triệu
người đã hy sinh. Chúng ta đang phản bội xương máu của họ. Một câu châm
chọc, dạy đời, nói kháy xã hội tốt đẹp của chúng ta cần lưu ý mà Z5 đã
nói: Chúng ta (ám chỉ chế độ) cần phải học cách tin yêu con người. Không
thể lãnh đạo đất nước nếu cứ nghi ngờ mọi công dân là địch cả.
Tôi
rùng mình, tuy vẫn làm ra vẻ bình thản trước ông Hai Kỷ. Nếu mình tỏ ra
sợ hãi, Hai Kỷ sẽ tự hỏi có tật giật mình. Đừng có đùa với quyền lực.
Đó là kinh nghiệm xương máu tôi đã rút ra từ mấy chục năm nay. Tôi trao
lại cho ông Hai Kỷ mấy tờ ghi chép trên rút từ hồ sơ vụ án Trần Khuất
Nguyên. Hai Kỷ - Ba Hưng thấy chưa? Mọi hành vi của văn nghệ sĩ các ông
không có gì qua mặt được công an đâu. Bên công an họ đề nghị bắt Trần
Khuất Nguyên nhưng đồng chí Tràng Giang bảo thôi, khoan đã. Vì đồng chí
bí thư tỉnh ủy vừa ra Hà nội họp, có gặp ông Chín Quang là cán bộ lãnh
đạo văn hóa của trung ương. Ông Chín Quang hỏi bí thư tỉnh ủy rằng tỉnh
Sơn Giang làm gì mà căng với thằng Trần Khuất Nguyên thế? Nó sai thì bảo
cho nó sửa chứ, sao lại khai trừ đảng người ta? Rằng nó cũng kháng
chiến, cũng thương binh, có đóng góp cho nền thơ, mới viết vài bài vớ va
vớ vẩn vài câu nói có vẻ bất mãn đã chơi nó như quân hằn quân thù vậy.
Rồi ông Chín Quang còn đai thêm với anh Tràng Giang nhà mình thế này
chứ: các ông đối xử với người của chính mình còn nhẫn tâm như vậy, thì
sao có thể thuyết phục được quần chúng về tinh thần nhân đạo cộng sản.
Do đó, đồng chí Tràng Giang bảo không cần bắt hắn làm gì, bắt mang
tiếng. Cái thằng nhà thơ ấy bị tâm thần, cứ nói sở y tế chữa giùm hắn
một thời gian. Tôi hiểu, bí thư tỉnh ủy đã phán thế, cầm bằng số phận
Trần Khuất Nguyên đã được định đoạt. Tràng Giang, một người sâu sắc và
kỹ tính, lại nhớ và thù dai, chuyện gì cũng phải được sòng phẳng không
trước thì sau. Nên câu hỏi phạm thượng, thái độ dạy dỗ cấp trên, ý định
chơi xỏ làm cấp trên đuối lý phải tịt ngòi của Trần Khuất Nguyên tối
phát hành tập thơ Đêm mặt trời, quả tình như một cái tát vào mặt bí thư
tỉnh ủy. Mối thù đó ông ta vẫn cứ ghim lại đó, coi như tạm thời lờ hắn
đi. Vì nếu ông trừng phạt hắn ngay, thiên hạ sẽ cười vào mũi rằng đồng
chí Tràng Giang chấp vặt, đánh ai không đánh, đi đánh cái thằng tôm tép,
cái thằng phổi bò dám uống mật gấu. Cho nên, cao tay là ông cứ để cho
mày nhởn nhơ một thời gian con ạ. Sau đó, ông mới dạy cho mày cái giá
hỗn láo với bí thư tỉnh ủy đắt như thế nào. Lúc đó, đến thánh cũng không
thể ngờ được là đồng chí bí thư tỉnh ủy trả thù tên oắt con về tội phạm
thượng Đêm mặt trời, vụ thằng Trần Khuất Nguyên dám chất vấn ông về
chuyện cán bộ cao cấp trong tỉnh ai là con người mới xã hội chủ nghĩa.
Tôi toan xin phép ông Hai Kỷ ra về. Nhưng ông giữ lại nói tiếp:
-
Ba Hưng ạ, bắt thì dễ nhưng thả ra mới khó. Đã bắt rồi có oan cũng ít
ra phải ngồi tù vài ba năm, nếu thả ra nói vô tội thì miệng đời nó cười
cho, rằng chúng ta bắt nhầm, bắt sai hả? Tôi nói vậy không phải để đe
dọa ông đâu, mà để ông giữ mồm giữ miệng, giữ bút giữ mực, vì cái nghề
của các ông nó bạc lắm. Một li nó đi một dặm ông ạ, bút có khi chửa kịp
sa mà gà đã chết rồi.
Tôi lễ phép:
- Cám ơn ông Hai dạy bảo.
Hai Kỷ làm nghiêm mặt hỏi tôi:
- Ông Ba Hưng nghĩ thế nào về việc con gái ông hiện nay?
Tôi ngạc nhiên:
- Việc gì vậy ông Hai?
-
Thôi, ông vờ vịt với tôi làm gì. Văn Nghệ sĩ các ông lúc chó nào cũng
chỉ coi cuộc đời là một cái sân khấu. Thật tình tôi không biết. Cái vẻ
yêu đương của con Vương Thi nhà ông hiện nay ai cũng biết. Vậy mà ông là
cha nó mà không biết thì hơi kỳ.
- Tôi chỉ biết cháu hiện nay có người yêu, nhưng còn giấu tên chưa chịu khai trình với gia đình.
Hai Kỷ cười ruồi:
- Nếu vậy tôi thông báo luôn để ông biết nhá. Con Vương Thi nhà ông đang yêu thằng phản động Trần Khuất Nguyên đấy.
Tôi tái mét mặt, sợ hãi như thể vừa nghe tin con gái mình bị bắt vậy. Tôi kêu:
- Trời ơi, không có lẽ. Hai Kỷ đứng lên, mở tủ lục tập hồ sơ Z5 lúc nãy, lôi ra một phong bì ảnh rồi rút ra một tấm đưa tôi:
-
Mời ông coi đứa con gái trong ảnh đang đi bên thằng Trần Khuất Nguyên
này có phải là con Vương Thi nhà ông không? Tôi tối sầm cả mặt lại. Trời
đang sập trên đầu tôi, đất đang lún dưới chân tôi. Tấm ảnh chụp chính
diện con gái tôi đang cầm tay Trần Khuất Nguyên đi trên đường. Nhìn
gương mặt hai đứa tươi như hoa mà tôi rầu đến méo cả mặt. Thì ra cái anh
chàng vô danh hay ho mà con gái tôi đã kể, chính là tay nhà thơ đã bị
cấm viết và chắc chắn sẽ bị nhốt này đây. Ôi, sao số phận cứ chơi khăm
tôi hoài vậy. Dù rằng trong thâm tâm, tôi cảm phục Trần Khuất Nguyên
thật, nhưng nếu để con gái tôi yêu và lấy hắn thì quả là tai họa. Một
con người như Trần Khuất Nguyên không bao giờ được sống bình yên cả. Tôi
trả tấm ảnh cho Hai Kỷ. Ông ta tình cảm:
-
Vì ông với tôi là bạn bè, chứ không tôi xía vào chuyện gia đình ông làm
gì. Ông hãy về dùng quyền làm cha ngăn cản nó đừng yêu cái thằng chống
đảng ấy nữa.
Tôi từ biệt Hai Kỷ ra về. Xe
của ông chở tôi tới cổng chung cư. Tôi xuống xe, lê bước với một tâm
trạng của một người đang đi về phía trại học tập cải tạo. Tôi đang ngồi
làm công tác chính trị với con gái thì vợ tôi từ cơ quan về. Lúc ấy là
chín giờ tối. Ruộng đi xồng xộc vào căn trong, con gái chào không thưa,
tôi hỏi cũng không nói. Đoạn bà ấy bước ra gian ngoài, ngồi đối diện với
bố con tôi:
- Bố con nhà ông đang xầm xì bàn mưu tính kế gì đó?
Tôi bực quá gắt:
- Bà hay nói kiểu lãnh đạo với tôi quen mất rồi, có con gái lớn ngồi đây cũng phải biết nương nhẹ mềm mỏng một chết chứ.
Ruộng vẫn giọng kẻ cả:
- Ông đừng có mị dân. Nhà này có phép tắc chứ không có kiểu theo đuôi quần chúng vậy đâu nhé.
Tôi
im lặng giả câm giả điếc. Cãi nhau với bà ấy chỉ có lỗ, thà cãi nhau
với đầu gối còn hơn. Bà ấy nóng tính, suốt ba ngày nay gây gổ. Chung quy
cũng chỉ tại chuyện yêu đương của con Vương Thi với thằng Trần Khuất
Nguyên thôi. Hôm trước, con gái tôi dẫn Trần Khuất Nguyên về trình diện
bố mẹ. Trần Khuất Nguyên thấy tôi, cu cậu ngạc nhiên đến lác mắt. Còn
Vương Thi có bao giờ khoe với ai bố nó là nhà văn Trần Hưng, huống hồ
với thần tượng thơ này thì văn chương của
tôi chỉ làm cho nó thêm xấu hổ. Vương Thi tưởng tôi chưa biết tình nhân
của nó là ai bèn lắc xắc giới thiệu. Tôi bảo nó chúng tôi quen nhau khi
nó còn đi chập chững. Nó cũng ngạc nhiên đến dài mỏ ra không kém gì
Trần Khuất Nguyên. Bữa đó, Trần Khuất Nguyên cực kỳ lễ phép, cứ một điều
thưa bác, hai điều thưa bác. Hai đứa trình bày nguyện vọng xin phép bố
mẹ cho chúng được lấy nhau. Tôi nghĩ bụng ngày xưa tôi đã bị tổ chức cấm
yêu, cấm lấy Oanh để cuối cùng lấy Ruộng bao nhiêu năm sinh ra bi kịch
cho tất cả. Giờ đây lẽ nào tôi lại cấm chúng yêu nhau, lấy nhau. Nhưng
lời khuyên của Hai Kỷ và nỗi sợ trong tôi lớn hơn những ý nghĩ chân
chính đó. Ruộng nghe con gái trình bày xong bèn hỏi:
- Có phải Trần Khuất Nguyên là nhà thơ không?
Trần Khuất Nguyên dạ lễ phép. Vương Thi phụ họa:
- Anh ấy là nhà thơ tài nhất trong lứa ba mươi bốn mươi đấy mẹ ạ. Anh ấy từng đi bộ đội chống Mỹ và là thương binh đấy ạ.
Ruộng gạt phắt, không nể nang gì người yêu của con:
-
Biết rồi, cô khỏi giới thiệu. Ai thì tôi đồng ý chứ nhà thơ thì xin
kiếu. Trong nhà tôi có một ông nhà văn là đủ khổ lắm rồi, cô còn tính
rước thêm ông nhà thơ về làm gì nữa.
Vương
Thi sửng cồ với mẹ. Hai mẹ con cãi vã nhau om xòm khiến tôi và Trần
Khuất Nguyên phải can gián. Sau đó, Nguyên xin phêp ra về với một thái
độ vẫn hết sức mềm mỏng, lễ phép. Vương Thi cũng bỏ đi luôn. Tôi nghĩ có
lẽ con gái sẽ không về nhà nữa. Nhưng sau ba hôm, tối nay, cháu mang về
cho bố mẹ bức thư của Trần Khuất Nguyên. Anh ta trình bày tình cảm của
anh ta với con gái tôi một cách từ tốn lễ độ. Rằng vì không còn cha mẹ,
anh em ruột lại ở ngoài Bắc, một lần nữa anh xin chúng tôi kết hôn, được
làm hôn thú với Vương Thi. Khi chúng tôi đang bàn luận về bức thư này
thì mẹ cháu về. Ruộng ngồi một lúc mới nói, lần này thì nhẹ nhàng hơn:
- Vương Thi, mẹ muốn nói chuyện với con.
Tôi toan đứng lên: Nếu bà muốn nói chuyện riêng với con thì để tôi đi.
- Xin ông cứ ngồi đó cho tôi nhờ.
Tôi
ngồi lại, thu lu như ông bình vôi trên võng. Vương Thi tay chống cằm,
mặt nhìn ra cửa, chân bắt chéo chữ ngũ. Ruộng vào phần mở bài:
- Ai đẻ ra con, Vương Thi?
Con gái lý sự lại:
- Con có yêu cầu bố mẹ đẻ con ra đâu. Lúc nào mẹ cũng hay nói cái giọng ấy. Làm như con được ra đời thì sung sướng lắm ấy.
- Ơi hay, chị nói hay nhỉ. Mang nặng đẻ đau, nuôi lớn cho ăn học nên người, trơn lông đỏ da rồi nói hỗn với mẹ hả?
-
Con không hỗn. Tự mẹ mất lịch sự. Cái hôm con dẫn anh Nguyên về, mẹ làm
con nhục nhã quá. May mà anh ấy hiểu đời thông cảm, như người khác lại
không cười vào mũi con bảo rằng mẹ em sao làm phó giám đốc trường đảng
gì mà thiếu văn hóa thế.
- Vâng, dù thiếu
văn hóa tôi cũng đẻ ra chị. Mẹ bảo con này: không ai thương con bằng mẹ
đâu. Đời mẹ đã không có hạnh phúc nên mẹ chỉ còn trông mong vào hạnh
phúc của con thôi.
- Thế thì hiện nay con
rất hạnh phúc. Chính ra mẹ phải mừng cho con có được người yêu là anh
Trần Khuất Nguyên. Đằng này, khi con dẫn anh ấy về nhà giới thiệu, dù mẹ
không bằng lòng anh ấy đi chăng nữa, mẹ cũng phải cần ăn nói cho ngọt
nhạt, chứ không có cái kiểu mang té tát vào mặt người ta như vậy Tại sao
mẹ lại không chấp nhận cho chúng con lấy nhau?
Ruộng hỏi lại con gái:
- Con có biết anh ta năm ngoái vừa bị khai trừ đảng, vừa bị cách chức không?
- Con biết.
- Con có biết Nguyên đã có một đời vợ, có một đứa con, bị vợ chê bỏ đi sống với người khác không?
- Con biết.
- Con có biết hiện nay Nguyên đang bị công an theo dõi ráo riết, bị cấm in thơ, in sách không?
- Con biết.
- Con có biết suốt một tháng trời, tối nào Nguyên cũng phải đi đạp xích lô để kiếm sống không?
- Con biết.
- Con có biết anh ta là tên nghèo mạt, khố rách áo ôm không?
-
Không, mẹ nhầm đấy. Anh ấy rất giàu có, gia tài của anh ấy lớn hơn tất
cả mọi người ở đây. Mẹ đánh giá con người theo kiểu thực dụng, kiểu Mỹ
mà mẹ vẫn lên án trong bài giảng đấy. Trần Khuất Nguyên là người có nhân
cách, một tâm hồn rất đẹp, một đức tính vị tha quên mình. Cái quan
trọng là thơ của anh ấy chính là gia tài vô giá mà lịch sử văn học sau
này sẽ đánh giá công bằng hơn. Anh ấy còn một đức tính nữa mà ngày nay
nhiều người hoàn toàn không có: ấy là lòng chân thành, ghét mọi sự dối
trá.
Ruộng nói kháy:
- Vâng, khi chị đã yêu thì xấu hóa ra tốt, nghèo hóa ra giàu sụ, chống đảng thành ra nhà cách mạng.
Vương Thi thách thức:
- Thì đã sao nào. Con yêu và con cho bồ hòn ngọt, trái ấu tròn đấy.
Ruộng hòa dịu:
-
Con đừng có bướng. Mẹ đẻ con ra mẹ biết tính con lầm Vương Thi. Con chả
chịu nghe ai rồi đời con khổ tàn mạt cho xem. Khắp cả tỉnh này, ai
người ta cũng bảo Trần Khuất Nguyên là thằng hâm, là đứa mát giây. Bất
cứ chuyện gì nó cũng xông vào, lúc nào cũng sôi sùng sục, đọc thơ lên là
chảy cả nước mắt hệt như hề vậy. Nó lại chẳng biết sợ ai, nay kiện
người này, mai tố kẻ khác. lúc nào cũng tìm cách nói hành nói tỏi lãnh
đạo, làm thơ châm chích chế độ tốt đẹp của chúng ta. Con hãy nhìn vào
gương xem, con đẹp đẽ xinh tươi như thế, thiếu gì đứa mê mà đi lấy cái
thằng chống đảng ấy.
Vương Thi nghênh mặt lên, đanh đá:
-
Mẹ đừng có xúc phạm đến người yêu của con nghe chưa. Cái thời gì mà
điên đảo, người tốt bị gọi là xấu, người tỉnh táo bị cho là hâm, người
cách mạng chân chính bị vu là phản động. Mẹ ạ, mẹ sống trong cái thế
giới dối trá lừa lọc quen rồi, mẹ làm sao hiểu nổi một con người trung
thực như anh Trần Khuất Nguyên.
Ruộng lấy quyền làm mẹ trấn áp:
-
Láo, mày bảo ai sống trong dối trá. ừ, chính sự dối trá ấy đẻ ra mày
đấy đồ con gái chưởi mẹ ạ. Tao cấm mày lấy thằng chống đảng ấy đấy. Tình
yêu tình ghét gì, hôn nhân hôn nhiếc gì cũng phải có lãnh đạo, có tổ
chức nghe chưa? Nhất là mày lại là con gái của một nữ tỉnh ủy viên khóa
tới.
Vương Thi hăng lên:
-
A nhưng mà mẹ cấm được nổi con không? Nên nhớ rằng con đã sống tự lập
cả ba năm nay rồi nhá. Trái tim của con, con muốn tặng ai mặc con, mẹ
không có quyền cấm. Con cứ yêu, con cứ lấy anh ấy đấy mẹ làm gì được con
nào?
Ruộng nổi cơn tam bành:
- Nếu không có bố mày ngồi đây, tao đã đập cho mày một trận. Tao nói lời cuối cùng: một là mày từ bỏ nó, hai là mày từ bỏ tao.
- Con chả từ bỏ ai cả. Mẹ vẫn cứ là mẹ con và anh ấy sẽ vẫn là chồng con.
Ruộng đứng lên:
- Tao thách mày làm được hôn thú đấy.
Vương Thi cũng quyết liệt:
- Chúng con cũng cóc cần cả hôn thú. Trai chưa vợ, gái chưa chồng yêu nhau, ở với nhau ai bắt mà sợ.
Ruộng đe:
- Tao sẽ có cách làm cho thằng Trần Khuất Nguyên vào tù.
Vương Thi òa lên:
- ối trời ơi, sao mẹ lại ác thế. Mẹ giết con đi thì hơn này. Bố ơi, sao bố ngồi im vậy? Bố không biết thương con à?
Tôi can gián hai mẹ con, vỗ về an ủi Vương Thi. Nhưng Ruộng quát:
-
Thôi đi, ông đừng có mị dân theo đuôi quần chúng như vậy. Còn con bất
trị kia cút ngay. Tôi giữ tay con gái lại, nhưng nó đã chạy vụt ra cửa,
vừa nói vừa sụt sịt:
- Vĩnh biệt bố mẹ.
Tôi đuổi theo con nhưng nó đã chạy vào đêm tối.
Ly Thân
Chương 23
Trời ơi, ai đập cửa nhà tôi mà dữ
quá? Chiến tranh hạt nhân hay sao hở các vị? Tôi đang nhặt rau muống để
xào ăn bữa trưa, bèn bỏ dở chạy ra cửa. Tưởng ai, té ra là ông Hai Giỡn. Hai Giỡn
mặt thắt thần, tóc tai bờm xơm không chải, áo quần nhầu nát y hệt vừa
từ trận địa bò về báo tin đại bại vậy. Ông vồ lấy tôi thở hổn hển:
- Mặc đồ vô Ba Hưng, nguy quá rồi.
Chân tay tôi cuống quít, hồn vía rụng rời run rẩy:
- Gì vậy ông Hai? Đảo chính hay bạo loạn?
- Không, con Vương Thi nhà ông bị cấp cứu. Bọn tôi vừa khiêng cháu vào bệnh viện. Họ đang truyền huyết thanh cho cháu.
Tôi gào lên như thể mụ nhà quê mất gà:
- Trời ơi, con tôi làm sao vậy ông Hai? Khổ chưa là cái đời tôi
- Mặc đồ gấp, xuống tôi chở đi bằng hon-đa. Chuyện dài, rồi sẽ biết dần.
Tôi mặc quần áo. Hai Giỡn giục như giục tà:
- Rùa ơi, việc nước sôi lửa bỏng còn dềnh dàng.
Tôi im thin thít như thịt đông mới nấu, ngồi trên xe để Hai Giỡn chở tới bệnh viện tỉnh. Hai Giỡn
dẫn tôi vào phòng cấp cứu, nơi con gái tôi đang nằm. Mặt Vương Thi tái
nhợt như mặt người chết, mắt nhắm nghiền, đang được truyền huyết thanh.
Một bà bác sĩ đang loay hoay quanh đầu và ngực nó. Tim tôi như đứng lại,
ruột gan lộn ngược cả lên. Tôi hỏi chị y tá đứng gần:
- Cháu có sao không hở chị?
- Lúc nãy suýt nữa bị đứng tim. Giờ thì đỡ rồi. Bị xúc động mạnh quá trụy tim, đang sợ chảy máu não. Bác là cha cô ta hả?
Tôi
gật đầu. Tôi thầm kêu: - cầu Chúa hay Phật thánh gì cũng được cho con
tôi qua khỏi. Bình thường thì người ta duy vật, coi trời còn thua cái
tăm. Nhưng khi có hoạn nạn nguy cấp, mở miệng ra ai cũng kêu trời, bụng
còn khấn vái lai rai, cầu nguyện các vị mà lúc khỏe mạnh ta thường phủ
nhận, thường cho là bịa đặt láo khoét. Hóa ra, khi tuyệt vọng, con người
còn phải bám víu, phải nương tựa vào ngay cả những cái không có thật. Hai Giỡn kéo tôi ra chỗ vang dặn:
-
Bây giờ ông túc trực với cháu nhá. Có cần thuốc gì mắc cũng cứ chi nhá,
đã có anh em chúng tôi hỗ trợ. Còn bây giờ tôi phải đến chỗ tang gia
xem anh em khâm liệm chưa?
Tôi kinh ngạc:
- Ai chết mà ông thất thần vậy chứ? Vậy ra ông chưa biết gì cái điều cả thành phố này đã biết ư?
- Chưa.
- Im đi tôi kể cho nghe.
Hai Giỡn kéo tôi ra ngoài thềm, hai chúng tôi cùng ngồi xuống, ông kể:
- Sáng sớm hôm nay, khi tôi đang san tổ ong mật làm đôi thì con Vương Thi nhà ông tới. Nó hốt hoảng báo rằng Bác Hai ơi,
nhờ bác đi với cháu được không?. Tôi hỏi có chuyện gì vậy? Nó buồn khổ
lắm, khóí òa lên nói: Trưa hôm qua, có người tìm cháu cho hay anh Trần
Khuất Nguyên báo anh ấy bị người ta lừa. Ngươi ta bảo chở anh ấy đi khám
bệnh ở sở y tế rồi đưa tuột lên nhốt vào nhà thương điên. Họ bảo anh
Nguyên bị tâm thần nặng cần chữa trị. Cháu bèn đi xe cấp tốc lên bệnh
viện tâm thần thăm anh ấy, nhưng người ta hỏi giấy không cho vào. Cháu
nằn nì mãi họ bảo cháu là gì của Trần Khuất Nguyên, cháu bảo là người
yêu. Họ bảo người yêu chưa có tiêu chuẩn vào thăm. Cháu nói là vợ, họ
hỏi hôn thú đâu. Cháu phải về trường cháu xin giấy giới thiệu vô thăm
anh ấy, nhưng lên tới cổng chờ từ bảy giờ tối tới khuya họ vẫn không
giải quyết. Họ bảo giấy không hợp lệ, phải có giấy của phường kèm hộ
khẩu hai bên. Cho nên sáng sớm nay, cháu về nhờ bác đây bác Hai ạ,
vì cháu biết bác rất quý anh Nguyên. Đấy con Vương Thi kể cho tôi như
vậy. Tôi hoảng quá, vì biết Nguyên không hề bị tâm thần hay triệu chứng
của bệnh này. Chẳng qua là vì họ ghét cái thằng sống quá trung thực,
không biết sợ cường quyền, không chịu được dối trá lừa lọc. Tôi bèn chở
Vương Thi tới nhà bác Tám Căn chủ nhiệm câu lạc bộ những người kháng
chiến cũ và chủ nhiệm câu lạc bộ hưu trí. Như ông biết bác Tám Căn năm
nay bảy mươi lăm tuổi, từng là bí thư đầu tiên của tỉnh ta. Bác Tám lại
rất thán phục tài thơ và bản lãnh của Nguyên. Chúng tôi điện cho anh Bé
Năm trưởng phòng thương binh của sở thương binh xã hội, một người rất
quý trọng Nguyên, rồi bàn bạc với nhau. Chúng tôi làm ba bốn giấy giới
thiệu, đến nhà thương điên thăm Nguyên. Chúng tôi lấy xe con chở bác Tám
Căn, anh Bé Năm, tôi và Vương Thi phóng về nhà thương điên gấp. Xe
chúng tôi qua cửa bệnh viện dễ dàng, tới thẳng phòng tay giám đốc. Nhưng
giám đốc bệnh viện không có nhà. Phó giám đốc cũng không có nên chẳng
ai dám tiếp chúng tôi. Chúng tôi chờ mãi thì có một ông ngái ngủ ra,
xưng là quyền phó giám đốc, hỏi các đồng chí tới có chuyện gì. Chúng tôi
báo rằng chúng tôi là đơn vị anh Trần Khuất Nguyên lên thăm anh ấy và
hỏi vì sao anh Nguyên rất tỉnh táo, rất bình thường đột nhiên lại bị
nhốt vào nhà thương điên? Tay quyền phó giám đốc ỡm ờ trả lời như cốt để
cho chúng tôi chán quá mà bỏ đi. Nhưng sau đó, tay phó giám đốc tới báo
rất tỉnh queo là Trần Khuất Nguyên đã chết đêm qua. Hiện Nguyên đang
nằm trong nhà xác chờ cơ quan chủ quản hay gia đình tới nhận. Tôi hỏi
nguyên nhân vì sao Nguyên chết, anh ta trả lời là Trần Khuất Nguyên bị
những người điên khác hành hung, bóp cổ cho tới chết. Chúng tôi thất
kinh không tin được là sự thật. Nhưng khi anh ta dẫn chúng tôi tới nhà
xác, quả thật Trần Khuất Nguyên, một nhà thơ tài ba, một người tốt đẹp
của chúng ta chỉ còn là cái xác không hồn. Bác Tám Căn khóc òa lên như
con nít. Anh Bé Năm nguyền rủa bọn sát nhân, đòi ban bỏ ban giám đốc
bệnh viện. Tôi mất hồn vía, cứ ngây ra nhìn cảnh Vương Thi lặng ôm xác
Trần Khuất Nguyên vào lòng cho đến khi cháu ngất đi tưởng hết thở. Tôi
phải đưa Vương Thi đi bệnh viện cấp cứu gấp. Còn bác Tám Căn và anh Bé
Năm ở lại coi xác Trần Khuất Nguyên. Tôi vừa gọi điện thoại lên thì
người ta cho biết, xác của Trần Khuất Nguyên sau khi lập biên bản với
đầy đủ hồ sơ đã được chở về câu lạc bộ những người kháng chiến cũ. Tôi
nghe anh Bé Năm thông báo sẽ khâm liệm trưa nay, để hai đêm
một ngày cho anh em phúng điếu. Sáng ngày mốt sẽ đưa đám Nguyên sớm.
Đấy, chuyện kinh khủng và đau thương như vậy đó ông Ba Hưng ơi. Có trời
đất nào như ở tỉnh Sơn Giang này không? Sau này, tôi có hỏi cặn kẽ hai cô
y tá và ba anh y sĩ ở bệnh viện tâm thần tỉnh có chứng kiến cái chết
của Trần Khuất Nguyên. Tất cả năm người đều xác nhận anh Nguyên khi xe
sở y tế chở lên đây là một người hoàn toàn bình thường. Anh Nguyên vui
vẻ và mắt mở to trong sáng. Nhưng sau khi người ta khám xét gì cho anh
ấy một chập thì người anh ấy mềm nhũn như thể bị trúng độc. Họ đoán là
có bọn xấu nào đó đã chích thuốc mê liều nặng cho Nguyên. Nhưng sức khỏe
của Nguyên rất tốt, chỉ mê man một ngày và một đêm. Đến ngày thứ hai thì
Nguyên tỉnh táo lại. Nguyên có lấy đâu một cục gạch non và có viết lên
tường một bài thơ, chứng tỏ thần kinh anh ta hoàn toàn vững. Trần Khuất
Nguyên đọc thơ ầm lên, khiến cho bọn người đưa anh vào đây ra lệnh trói
nhốt Nguyên chung cùng với ba người điên nặng khác. Nhưng những kẻ điên
thật kia càng điên lên lồng lộn hơn nữa, dữ dằn hơn nữa khi bằng giác
quan của người điên, họ phát hiện ra có một kẻ tỉnh táo bị trói trong
chuồng của họ. Những người điên kia thoát ra khỏi nơi giam giữ xông vào
bóp cổ Trần Khuất Nguyên cho tới chết. Đấy là lời kể của nãm người ở
bệnh viện tâm thần. Nhưng có một bà bác sĩ thì quả quyết Nguyên bị đầu
độc. Có người không dám ra mặt, viết thư nặc danh báo cho chúng tôi là
Trần Khuất Nguyên đã bị những người tỉnh táo đột nhập vào nhà thương
điên, dùng dây thắt cổ Trần Khuất Nguyên cho tới chết. Tuy nhiên trong
hồ sơ khám nghiệm tử thi người ta ghi là có dấu tay người bóp cổ. Nhưng
khi bác Tám Căn đòi lấy dấu tay trên cổ thì viên phó giám đốc bệnh viện
và công an đều nói là có nhiều người đã đặt tay lên cổ nạn nhân khi
khiêng xác nên không chính xác. Bác Tám Căn và anh Bé Năm căm lắm, nhưng
họ đành phải đưa xác Trần Khuất Nguyên về, có cãi nhau, thậm chí bắn cả
cái bệnh viện này đi nữa thì có làm sao cứu sống được nhà thơ của họ
dậy đâu. Khi Hai Giỡn
trở về chỗ khâm liệm Nguyên, tôi trở vào chỗ Vương Thi đang nằm bất
tỉnh trên giường truyền huyết thanh đã thấy Ruộng ngồi cạnh con gái. Tôi
thông báo với Ruộng là Trần Khuất Nguyên đã bị giết chết rồi. Bà ấy
lặng im, mặt tái lại vì lo sợ cho tính mạng con gái. Đám tang Trần Khuất
Nguyên là một sự kiện bi kịch của thành phố An Hải. Thằng con trai đầu
lòng của tôi lại rất phục thơ và tính cách của Trần Khuất Nguyên. Thằng
Văn từng ủng hộ em gái trong việc yêu và lấy Trần Khuất Nguyên. Văn đã
túc trực bên linh cữu Nguyên thay em gái bị ngất xỉu đang nằm bất tỉnh
tại nhà thương. Sau này, Văn kể cho tôi nghe tỉ mỉ về đám tang của
Nguyên. Tôi cũng được nhiều người kể lại theo lăng kính riêng của họ.
Khi nghe tin xác Nguyên được quàn tại câu lạc bộ kháng chiến cũ, công an
đã tới khá đông nói là để bảo vệ. Hai Giỡn họp bầu ban tang lễ do bác Tám Căn làm trưởng ban. Anh Bé Năm làm phó ban, Hai Giỡn
phó ban, bác Tư Liễu đại tá quân đội về hưu mặc quân phục có đeo sao
làm ủy viên ban tang lễ. Ngay buổi trưa khi xác Nguyên được đưa về quàn,
đã có nhiều tin đồn loang ra khap thành phố. Rằng Nguyên bị một bọn có
quyền nào đó ám hại. Rằng nhà nước tỉnh ủy mượn tay ba thằng điên để bóp
cổ một nhà thơ tỉnh táo. Rằng Nguyên bị quyền lực trả thù, bị đánh
thuốc độc và bị thắt cổ cho tới chết... Người ta kéo nhau tới coi đông
hơn hội chợ, khiến cảnh sát phải xịt vòi rồng giải tán. Có lệnh của sở y
tế và sở công an phải đưa Nguyên chôn ngay trong đêm đó ở nghĩa trang
Bần Thổ là nơi chôn cất những người vô gia cư và người nghèo khó. Nhưng
ban tang lễ và hàng trăm anh em thương binh, hàng trăm cán bộ hưu trí đã
đấu tranh quyết liệt, thậm chí còn đe sẽ một mất một còn với công an
nếu họ ra tay đàn áp. Họ quyết tâm quàn xác nhà thơ lại tới hai đêm một ngày. Hai bên
đã đàm phán rất căng, cuối cùng thỏa hiệp với nhau chỉ để xác Nguyên
quàn lại một đêm và một buổi sáng, chiều sẽ mang chôn. Công an cảnh sát
gác rất đông sợ quần chúng tụ hợp phản đối sự giết người mờ ám. Họ chỉ
cho phép những ai có thẻ thương binh, có thẻ bộ đội xuất ngũ và thẻ của
các bác hưu trí và kháng chiến cũ vào viếng xác thôi. Chỉ tới mười hai giờ
đêm giới nghiêm, người viếng mới vãn. Rất nhiều hoa xếp quanh quan tài
nhà thơ bất hạnh. Theo thằng cháu Văn của tôi cho biết, có tới một phần
ba số người mặc thường phục vây quanh linh cữu là công an chìm. Đám tang
không có kèn tàu tò te tí tét, chỉ có những thương binh cụt tay cụt
chân, đi nạng. Nguyên với cái hình to bằng hai bàn
tay, đang mỉm cười nhìn mọi sự trên đầu quan tài. Sau khi lễ động quan,
người khắp nơi kéo về tắc nghẽn. Tôi từ bệnh viện ra đạp xe lẽo đẽo đi
sau cái đuôi con khủng long tang lễ này. Xe tang khuất đâu đằng trước,
chìm ngập trong biến người. Tôi gần như chưa thấy một đám ma nào đông
đến vậy. Cảnh sát của cả thành phố được báo động cấp một
dàn hàng ngang bên vỉa hè dọc lối đám tang. Tôi hiểu cái chết của Nguyên
hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Đằng sau cái chết này là âm mưu, là
đe dọa, dối trá và sợ hãi. Tôi bỏ cuộc, để cho mọi người đi theo
Nguyên, còn tôi phải đi theo tôi. Tôi sợ người ta nhìn thấy tôi đi theo
quan tài một kẻ nguy hiểm người ta vừa trừ khử. Tôi đang kẹt mà, hãy tha
thứ cho tôi Nguyên nhé. Cái cuốn nhật ký của tôi ngày xưa vợ tôi đang
giữ đó. Cái cuốn băng ghi âm do Hoàng Thi và Ngọc Hương vẫn còn đe dọa
tôi. Nỗi sợ hãi đã chỉ huy đời tôi, khiến tôi không được sống là mình.
Nhưng hình như tôi đang nghe thấy tiếng lòng mình cất lên. Rằng dù sao,
Trần Hưng ạ, mày cũng là một kẻ cầm bút. Mày không thể nhẫn tâm quay đi
trước nỗi đau có thể chết của chính con gái mày. Cái linh cữu đang chìm
trong biển người kia sẽ là một nửa của cuộc đời Vương Thi. Mai rồi, con
gái tỉnh dậy, nó hỏi mày có đi theo đám tang của anh ấy không, rồi mày
sẽ trả lời ra sao. Phải chi mày không còn một chết lương tâm nào nữa có
khi lại khỏe. Đằng này, khổ thân mày,
lương tâm lại đôi khi thức dậy không cho mày làm súc vật, cảnh tỉnh mày
rằng mày vẫn là một con người. Mày khổ sở vì mày còn trí tuệ, tai mày
chưa điếc, mắt mày chưa mù, miệng mày chưa câm. Phải chăng Trần Khuất
Nguyên chính là một phần lương tri mày vừa bị nhận chìm trong âm mưu tội
ác và dối trá? Cái lương tri ấy vừa bị cuộc đời bóp cổ lè lưỡi ra cho
đến chết. Cái lương tri đó đang nằm trong quan tài. Người ta kéo ra một
phần thành phố để đưa đám lương tri của mày. Cái lương tri ấy một chết
nữa sẽ bị vùi trong đất. Lương tri ấy sẽ mãi mãi cô đơn, sẽ im lặng như
mặt đất này từng im lặng. Trần Khuất Nguyên ơi, anh chính là sự cứu
chuộc cuối cùng của nhân cách tôi. Anh không lặn vào cái muôn đời mà
đang hóa thành sự tỉnh thức. Anh đuổi cơn hôn mê quyền lực và sợ hãi ra
khỏi mỗi con người, bắt họ phải đối diện với chính họ, bắt họ phải suy
tư và trằn trọc. Con người sở dĩ không biến thành ác quỷ, sở dĩ mãi mãi
vẫn là con người vì nó mang trong mình khả năng hối hận. Chính sự sám
hối, bằng sự sám hối, những người đang sống hôm nay mới còn khả năng
hướng thiện. Xe tang đã ra tới lộ lớn. Hàng trăm xe gắn máy rú ga bám
theo quan tài Trần Khuất Nguyên. Tôi vẫn lẽo đẽo bám sau làm cái đuôi
của nhà thơ bị bóp cổ. Tôi như con chó con đang cố chạy theo người chết.
Phải rồi, suốt đời, tôi đã thành con chó leng keng chạy theo lương tri
mình. Tôi là kẻ ăn theo của lẽ phải. Tôi đứng lại ở một ngã tư đường,
lặng nhìn cuộc hành quân vĩ đại của cái chết. Tôi chợt rơm rớm nước mắt
khi nghĩ đến tình yêu của cặp uyên ương gãy cánh này. Trần Khuất Nguyên
nằm xuống, nhưng con Vương Thi chưa nằm xuống. Nó vẫn phải sống để đêm
đêm trong giấc mơ lại bị cuộc đời bóp cổ. Tôi rẽ trái, lỉnh đi khỏi điều
bất hạnh của con người. Tha lỗi cho tôi Nguyên nhé. Tôi một kẻ phát
ngôn của chính quyền tỉnh, không thể theo anh ra tới huyệt, được ném hòn
đất vĩnh cữu lên số phận phù du của con người, đặng đưa tiễn anh trở về
cái chốn mà anh đã sinh ra. Còn tôi, tôi lại trở về với sự nghiệp công
danh và những nỗi sợ hãi của tôi. Nhưng tại sao con người từng nhận là
cái Ta-tập thể tính đang trọ trong tôi lại không thể đi cùng cái
Tôi-nhân tính của chính mình? Chả lẽ hành trình đời tôi lại không thể đi
cùng đường với lương tri của tôi? Những câu hỏi này, có lẽ ngoài tôi
ra, thời đại của tôi cần phải giải đáp. Khi chiếc xe tang với cái đuôi
rồng rắn gồm hai xe
ca, hàng nghìn xe máy và xe đạp đến đoạn ngã ba thì rẽ lối. Lối rẽ trái
dẫn vào nghĩa trang liệt sĩ đã có một hàng rào công an súng ống nai nịt
đứng chắn. Chính quyền quyết không cho phần tử kích động và phản động
này được chôn trong nghĩa trang liệt sĩ theo nguyện vọng của ban tang
lễ, dù đương sự đã có tám năm chống Mỹ, đã là một chính trị viên đại đội
dũng cảm, đã bị thương nặng vào sọ não, từng là nhà thơ nổi tiếng. ở
trong đó, nghĩa trang liệt sĩ ấy, có một khu dàng riêng, những huyệt mộ
đã được xây sẵn rất đẹp, vẫn há hốc miệng chờ những thi thể kính yêu của
các đồng chí lãnh đạo tỉnh, chừng nào các vị ngán phục vụ cách mạng.
Chính quyền chỉ thị cho chôn Trần Khuất Nguyên trong nghĩa địa Bần Thổ,
nơi nằm lại của những người nghèo hèn được gọi là nhân dân. Nhưng ban
tang lễ Trần Khuất Nguyên không chịu. Họ bàn nhau cứ đưa xe tang nhào
đại nghĩa trang liệt sĩ. Họ có đám đông hùng hậu đi theo đa số là chiến
hữu của nhà thơ, những thương bệnh binh, những người bộ đội xuất ngũ,
những cán bộ già đã về hưu. Họ toàn đám cách mạng nòi, đâu sợ gì một vài
đám cách mạng dỏm cơ hội, có lúc đã nhảy ra nam được quyền hành. Anh Bé
Năm, trưởng phòng thương binh của sở thương binh xã hội đỡ bác Tám Căn
từ trên xe tang xuống để gặp hàng rào công an. Bác Tám Căn hỏi viên công
an đeo hàm đại úy:
- Có phải chủ chỉ huy ở đây? Anh ta gật đầu rồi giơ tay chào ông rất đúng điều lệnh:
- Báo cáo bác, tôi đại úy Vũ Mùi chịu trách nhiệm an ninh ở đây.
Bác Tám nói:
- Tôi muốn thưa chuyện với chú.
Bác Tám chưa kịp nói thì anh Bé Năm chen vào:
-
Tôi xin báo để các đồng chí biết bác Tám đây đã 75 tuổi, từ năm 1945
bác đã là bí thư tỉnh ủy tỉnh ta. Hiện nay bác là chủ tịch câu lạc bộ
những người kháng chiến cũ, đồng thời là trưởng ban tang lễ nhà thơ
thương binh Trần Khuất Nguyên. Anh công an nghiêm nghị:
- Báo cáo, tôi biết bác Tám Căn.
Bác
Tám: Tôi xin thay mặt cho hàng trăm thương bệnh binh và những người
kháng chiến, yêu cầu các đồng chí mở lối cho xe tang vào nghĩa trang
liệt sĩ. Đây là giấy giới thiệu của Sở thương binh xã hội cấp cho người
đã chết được an nghỉ trong nghĩa trang này. Đại úy Vũ Mùi trả giấy giới
thiệu cho bác Tám nói: Rất tiếc chúng tôi không thể theo yêu cầu các
đồng chí được. Chúng tôi được lệnh bên sở cỏng an chốt ở đây, không cho
bất cứ ai, bất cứ xe cộ nào vào nghĩa trang liệt sĩ.
Anh Bé Năm đứng ra đối đáp:
-
Các đồng chí có biết nghĩa trang này do cơ quan thương binh xã hội chủ
quản không? Tôi xin giới thiệu là Phạm Năm, tức Bé Năm, trưởng phòng
thương binh của sở. Chúng tôi có quyền đưa nhà thơ thương binh của chúng
tôi vào nghĩa trang- của chúng tôi.
Vũ Mùi:
-
Chúng tôi hiểu. Nhưng lệnh là lệnh. Tôi nghiêm chỉnh yêu cầu các đồng
chí cho xe tang ra nghĩa địa Bần Thổ mau. Bác Tám Căn dùng tình thuyết
phục một hồi không được. Hai bên đấu lý với nhau đến ba mươi phút. Bác Tư Liêu, đại tá về hưu thét:
- Các đồng chí là công cụ của ai? Công cụ của chính quyền nhân dân hay là công cụ cho một số bọn cơ hội đặc quyền đặc lợi?
Hai Giỡn nóng tảng thần đế thêm:
- Các đồng chí có phải là con em nhân dân không hả. Hãy tránh ra cho xe tang đi.
Tiếp theo là lời của hàng mấy trăm thương binh, các vị hưu trí hô tránh ra, tránh ra. Rằng công an phải phục vụ chính nghĩa.
Vũ Mùi sừng sộ:
- Các người định làm loạn hả.
Bác Tư Liễu nói rất to:
-
Ai làm loạn. Cháu hãy nhìn bác mặc quân phục của ai, đeo lon của ai
đây. Còn cụ Tám Căn kia không phải là ông tổ của cách mạng ở cái tỉnh
này à? Còn tất cả mọi người kia, người chết nằm kia là ai mà cháu mở
miệng nói liều như thế.
Vũ Mùi không lùi bước:
-
Tôi không lý sự. Lệnh là lệnh. Tôi yêu cầu giải tán đám đông ngay. Đưa
xe tang về nghĩa địa Bần Thổ. Nếu không tôi sẽ dùng vũ lực.
Một
anh thương binh đi nạng lọc cọc nhảy từ trên xe ca xuống. Có mấy chục
người đi nạng, những người cụt tay, cụt chân cũng lọc cọc kéo xuống từ
trên xe ca đi theo xe tang. Anh thương binh đi đầu quơ nạng lên trước
mặt đại úy công an nói tỉnh queo:
- Này, anh có dám bắn chúng tôi không? Xin mời.
Vũ Mùi quát:
- Các anh đừng có hỗn, đừng có kiêu binh. Nếu cần, tôi sẽ ra lệnh bắn bất cứ ai ngăn cản chúng tôi thi hành lệnh.
Đám thương binh reo hò ầm lên, quơ nạng lên trời như họng súng. Vũ Mùi ra lệnh:
- Tất cả sẵn sàng theo lệnh tôi.
Hơn
một chục anh công an tay lăm lăm súng tiểu liên tiến về phía đám đông.
Vũ Mùi yêu cầu thương lượng với ban tang lễ. Bên công an bốn người, bên
tang lễ bốn người chụm đầu vào nhau ở một góc thương lượng. Bên tang lễ
rút lui, đưa Nguyên về Bần Thổ. Trần Khuất Nguyên nằm lại Bần Thổ này,
nơi thập loại chúng sinh được gọi là nhân dân từ bao đời vẫn sống và
chết dưới đáy xã hội. Mặc ai đó được an táng ở những khu mồ ngon mả đẹp.
Trần Khuất Nguyên vừa được an táng trong lòng người dân An Hải này. Tôi
cần phải đối diện với tấm bia mộ người liệt sĩ của lẽ phải này như đối
diện với lương tri mình mãi mãi. Bia mộ ấy với tôi lúc này chính là
Vương Thi, con gái tôi đồng thời là người yêu, người vợ chưa cưới của
nhà thơ bất hạnh.
Ly Thân
Chương 24
Khi Trần Khuất Nguyên bị giết
được hai tháng, lúc Vương Thi đang nằm trong bệnh viện điều dưỡng thì
xảy ra một chuyện giật gân khác. Cả tỉnh Sơn Giang và thành phố An Hải
là một cái chợ của tin đồn. Người ta thêu dệt lên không biết bao nhiêu
là huyền thoại xung quanh câu chuyện thật.
Số
là bà Hồ Lệ Thùy Linh vợ của bí thư tỉnh ủy Tràng Giang đã bị bắt vì
tội vượt biên phản quốc. Hồi đầu nghe thằng con trai tôi nói, tôi đã
toát cho nó một trận. Rằng đừng có phao tin đồn nhảm, làm cái loa cho
địch kèo rồi tù đấy con. Bà đệ nhất phu nhân của tỉnh quyền cao chức
trọng, muốn gì được nấy, một đời người mơ ước chỉ cần được bằng một phần
trăm cái lộc trời của
bà đã là sung sướng lắm, điên hay sao mà vượt biên? Nhưng đến khi vợ
tôi xác nhận tin đó là đúng thì tôi lạnh toât cả người. Như thế cái ghế
của bí thư tỉnh ủy chắc chắn là đi đứt, chỗ dựa của tôi, cái ô của tôi
sẽ không còn. Rất cuộc cái số tôi vẫn là cái số của thằng Húng chó ăn
ruồi. Bà Thùy Linh vượt biên không phải mê giàu sang mà đi theo tiếng
gọi của con tim. Giàu sang nào ở bên kia có thể sánh được khi là vợ của
bí thư tỉnh ủy. Sau khi bị bắt Thùy Linh khai như sau. Trước hết bà thề
độc rằng mình vượt biên không phải vì chính trị chính em gì ráo. Bà đi
theo tiếng gọi của tình yêu. Số là trước giải phóng, bà có yêu một chàng
luật sư đẹp trai vào loại nhất An Hải, con nhà giàu, học giỏi, lại cực
kỳ ga-lăng. Chàng cũng yêu bà tới mức có thể lao phắt vào xe quân cảnh
đang phóng hết tốc lực nếu cần phải làm như vậy để chứng tỏ tình yêu.
Thấm
thoắt thoi đưa, năm 1972, chàng bị gia đình bắt lấy con gái một ông
tướng tư lệnh vùng. Thùy Linh đau khổ tính tự vẫn nhưng nhát gan nên vẫn
phải sống nhăn răng mà nhìn sự đời. Chính trong lúc tuyệt vọng đó, nhân
có người rủ rê, Thùy Linh xin nhận làm cơ sở cho cách mạng trong thành.
Cho tới giải phóng, Thùy Linh vẫn còn ngầm yêu đến điên dại kẻ đã bỏ
tình lấy vợ con nhà giàu. Rồi bà gặp lại người tình cũ. Anh ta lẽo đẽo
đi theo tán tỉnh bà cho tới khi bà phải hiến thân cho
anh ta. Sau đó Thùy Linh có bầu nhưng chàng kẹt vợ chưa thể lấy nhau
được. Nhân lúc ấy có người mai mối Thùy Linh cho Tràng Giang khi ông vừa
từ rừng về thành phố. Họ yêu nhau và lấy nhau. Sau đám cưới được bảy
tháng thì bà ta sinh con, đứa con mà bí thư tỉnh ủy Tràng Giang cứ chắc
chắn là con mình. Hai năm sau người tình của Thùy Linh vượt biên, viết
thư về cho người yêu lúc đó đã là vợ một người danh giá nhất tỉnh khi
Tràng Giang vừa được lên chức bí thư tỉnh. Chàng cũng gởi bản sao giấy ly dị
của mình và nói chờ nàng Thùy Linh xinh đẹp mãi mãi. Từ đó, Thùy Linh
bắt đầu kế hoạch lâu dài chuẩn bị vàng bạc và bến bãi cho cuộc vượt biên
vì tình ái. Đến ngày lành tháng tốt, con tàu chở Thùy Linh và hàng chục
đàn em thân tín
cùng vàng bạc đô-la với giấy giới thiệu của công an tỉnh Sơn Giang và
tỉnh ủy đi biển ra tham quan Hải Phòng Hòn Gai, có công an hộ tống, điềm
nhiên hướng về phía đảo Lu-zông. Nhưng xui xẻo thay, con tàu vừa ra tới
phao số không thì gặp tàu hải quân. Hai bên đã bắn nhau nhưng cuối cùng
con tàu của thần ái tình phải đầu hàng. Khi tin Thùy Linh bị bắt về tội
vượt biên được xác nhận ở An Hải thì dậu đổ bìm leo, thì ngoài trung
ương nhận được cơ man nào đơn tố cáo tội trạng của Tràng Giang. Những
người xưa kia nịnh bợ ông bí thư giờ họp mặt nhau để lật ngược lại tình
thế. Họ làm cả bản danh sách bà vợ bí thư đã ngủ với những ai trong các
đơn kiện dày hàng xắp. Tất nhiên, Tràng Giang bị mất chức bí thư tỉnh ủy
với kỷ luật cuối cùng là lưu đảng một năm và về hưu vô thời hạn. Giám
đốc sở công an cũng bị điều đi nơi khác. Tràng Giang được cấp một căn
phòng nhỏ trên lầu của chung cư cán bộ. Sau sáu mươi tám tuổi đời, bốn
mươi năm làm nghề lãnh đạo, lần đầu tiên Tràng Giang được nếm mùi thường
dân. Vì nắm quyền quá lâu, con người lãnh đạo của ông chưa bao giờ là
người công dân, nên khi phải rơi xuống làm dân thường, ông choáng váng
như bị rơi xuống biến. Ông phải lặn ngụp quẫy đạp sao để khỏi chết chìm
trong cái môi trường tứ cố vô thân.
Những người xưa nịnh ông giờ mỗi lần gặp, họ lờ ông đi, làm như ông là
người từ sao hỏa xuống không bằng. Trong khi ông phải chịu nỗi đau đớn
quá sức khi biết đứa con Thùy Linh không phải con của mình. Tràng Giang
buồn quá, cỡi xe đạp ra phố chơi cho đỡ vẫng vẻ, đỡ cảm thấy cái nỗi
chua xót của kẻ bị bỏ rơi. Từ khi về An Hải ông toàn ngồi xe hơi, chưa
một lần đi bộ trên đường, cho nên lần đầu đi xe đạp ra phố, ông phải
hỏi đường như một người lạ vừa tới đây. Trước khi ra đường, ông phải
ngụy trang để người ta đừng nhận ra ông là cựu bí thư tỉnh ủy. Biết đâu,
trong tình thế không có một tị quyền hành, ông lại gặp bao nhiêu kẻ thù
oán mình, có thể chúng sẽ xông vào bạt tai đá đít ông bất cứ lúc nào.
Một
lần Tràng Giang phóng xe đạp ra đường. Do chưa biết đây là đường một
chiều, nên ông cứ đạp xe ngược chiều một cách ung dung phớt tỉnh. Lập
tức một chiếc xe tải từ một ngã ba gần đó quẹo tới, đụng vào ông cựu bí
thư tỉnh ủy. Tràng Giang bị gãy nát một chân, một chân bị thương nặng,
còn chiếc đạp trở thành mảnh sat vụn. Ông được đưa vào bệnh viện cấp
cứu. Tràng Giang nằm viện giữa ngày tháo băng, Hai Giỡn dẫn tôi vào thăm
người thầy, người anh chúng tôi một thời. Tràng Giang nằm đơn độc và bé
nhỏ quá sức trên giường bệnh. Hóa ra người ta không còn quyền lực, khi
chỉ là một người bình thường mới thấy mình lễnh loãng làm sao. Suốt bốn
mươi năm ông đã lấy quyền lực làm mục đích, mặc dù xuất phát điểm của
ông rất đẹp. Ông đã từng bị tù tội thời Tây, từng suýt chết nhiều lần
trong chống Pháp. Chính bọn nịnh hót đã phần nào làm hỏng ông, khiến ông
ngỡ mình là tuyệt đối, là chân lý, thậm chí còn ngang cả thánh thần.
Quyền lực đã trao vào tay ông các thứ quyền sau: quyền năng, quyền uy,
quyền phép, quyền bính, quyền quý, quyền sinh, quyền sát, quyền hành và
cuối cùng là quyền lợi. Hành trình vươn tới quyền lực của ông là hành
trình tự đánh mắt dần tính mục đích. Rồi ông đặt quyền lợi của mình lên
trên quyền lợi của đám đông từ lúc nào không biết, xa rời dần điểm xuất
phát và mục tiêu của cách mạng. Giờ đây, chỉ có nỗi đau mới làm cho ông
nhận thức được chính mình. Ông vay của cuộc đời bao nhiêu, rất ráo sẽ
phải trả lại hết. Ông cần được đau, thật đau, để thoát khỏi nỗi ám ảnh
quyền lực một thời, một đời, để tập làm người công dân một đất nước mà
ông chỉ quen lãnh đạo. Ông chưa có cơ hội làm người dân, mặc dù suốt bốn
mươi năm qua ông vẫn vỗ ngực là người đại diện của nhân dân. Quyền lực
làm tha hóa con người là câu cách ngôn thời Hy Lạp cổ xưa dành cho những
ai lấy quyền lực chứ không phải đám đông làm mục đích. Có lẽ Tràng
Giang đã tự suy gẫm nhiều trong khi dùng đôi nạng gỗ để tập đi vì ông đã
bị tháo khớp nơi đầu gối chân phải. Một đời theo cách mạng làm quan to
để cuối cùng ông trở thành người thương binh của chính mình. Câu lạc bộ
hưu trí và kháng chiến cũ đã đón nhận ông như đón nhận một người anh em
lâu ngày lạc lối nay trở về. Những người này trước đây cũng đã từng có
quyền, có cương vị chức vụ. Khi về hưu, họ đâu còn sợ mắt ghế nữa và vì
vậy họ trở thành những con người nói thẳng nói thật đến không ngờ. Hai
Giỡn và tôi đã bàn bạc về những điều đó. Ông bảo rằng để rồi xem, chỉ
cằn vài năm là sẽ thấy Tràng Giang nói khác hẳn những điều khi làm bí
thư tỉnh ủy ông đã nói. Tôi cũng mừng cho Tràng Giang, ít ra ông còn có
được cơ hội làm một người chân chính, được nói thật lòng với kẻ khác mà
không phải sợ hãi ngó trước ngó sau.
Một
hôm, tôi và Hai Giỡn đến thăm Tràng Giang trước khi ông xuất viện. Ông
đã sử dụng cây nạng thành thạo, không còn cần hai cô y tá dìu như kẻ tập
đi nữa. Ông nhìn chúng tôi cười cười, vừa cảm động vừa có ý đùa cợt.
-
Cám ơn các ông đã nhớ đến thằng già này. Suốt bốn mươi năm qua, tôi
quen nhìn sự vật có một chiều, đi đứng, nói năng có một chiều, mà là cái
chiều có lợi cho riêng mình. Còn cái chiều ngược lại của sự vật, cái
chiều mình thấy không hạp, không ngon xơi mình lờ nó đi, thậm chí mình
phủ nhận nó. Cho hay cái quy luật tồn tại của biện chứng thật là khac
nghiệt, anh lờ nó đi nhưng nó quyết không chịu lờ anh, quyết không chịu
tha anh cho tới khi phải tiện đi của anh một cái giò mới hả. Rằng Tràng
Giang ơi, suốt
một đời mày đi độc có một chiều, nghĩ có một chiều, cảm có một chiều,
nói và nghe có một chiều thì cần quái gì hai chân. Chỉ cần đi một chân
thôi ông tướng ạ. Và thế là quy luật sinh tồn khac nghiệt hai mặt đối
lập thống nhất của tồn tại mà chúng ta quen tụng ra rả bèn giao cho đôi
nạng này, để mình học lại ông Hê-ghen và ông Mác.
Khi
Vương Thi bỏ nhà đi được một tuần lễ thì tôi bị bệnh mất ngủ. Sau đó là
đến thời gian nằm mơ và nói mê. Việc Vương Thi sau khi tỉnh dậy ở bệnh
viện bỏ đi là giọt nước làm ly nước
tuyệt vọng của tôi phải tràn. Người tôi là cộng hưởng của rất nhiều nỗi
đau và nỗi sợ. Và do đó, khi nỗi sợ đã đến tận cùng của nó thì tôi đâm
ra liều. Nỗi đau làm cho tôi sat thép lại. Một lần nửa đêm, vợ tôi nằm ở
gian trong ra lôi tôi dậy, chỉ vào mặt tôi xỉa xói:
-
Đồ phản bội. Gần sáu mươi tuổi rồi mà ông vẫn còn yêu con bác sĩ đã
chết đó hả? Nó là ma cướp hồn ông hay sao mà cứ đặt lưng xuống ngủ là
ông gọi tên nó đến phát sợ. Hay là ông muốn cưới ma làm vợ. Tôi cấm ông
từ nay ngủ mà còn gọi tên con Oanh nữa sẽ biết tay tôi.
Hai ngày sau, buổi sáng khi vừa thức dậy, Ruộng đã hỏi:
-
Xin ông đi đâu cho khuất mắt tôi mau. Tôi không thể chịu đựng được ông
nữa rồi. Đêm ngủ ông toàn gọi tên con ma cái đó khiến tôi sợ hết hồn.
Tôi giải thích cho bà ấy là giấc mơ chứ nào tôi có cố ý gọi tên một
người đã chết hai chục năm. Bà ấy càng nổi cơn tam bành lên chưởi tôi,
rằng nếu tôi không ấp con Oanh đó trong người, không giữ nó trong tim
thì cớ gì hồi này cứ mơ thấy nó rồi gọi ầm cả lên đến khiếp. Tôi đã đi
hết đông y đến tây y vẫn không hết cái bệnh nói mơ. Nghe đâu tôi còn gọi
cả tên Trần Khuất Nguyên và Vương Thi trong lúc ngủ nữa. Nhân lúc bà ấy
đến cơ quan, tôi đã dọn đến cái kho cũ của hội văn nghệ tỉnh ở tạm. Rồi
Hai Giỡn khuyên tôi viết lại đời mình, viết lại sự thật chứ đừng có mà
bịa đặt. Tôi nghe lời ông ngồi viết tập Ly thân này với sự nuôi nấng chăm sóc của Hai Giỡn.
Sau khi bỏ nhà đi được ba ngày, Ruộng đến gặp tôi.
-
Ông tưởng tôi nói thế là để mở đường cho ông đi sống riêng đấy hả? ông
to gan vừa vừa chứ. Ông không biết sợ là gì nữa ư? Tôi ra lệnh cho ông
chiều nay phải về nhà lại. Người ta đang đồn ầm lên là ông bỏ tôi theo
mèo mỡ. Có người còn nghi vấn đức tính hiền thục của tôi, hỏi bà Ruộng
làm gì dữ dằn quá đến nỗi ông Hưng phải bỏ đi. Như vậy, uy tín của tôi
đang bị thương tổn.
Tôi đâm liều:
- Tôi không về đấy, bà làm gì tôi nào. Tôi không thích gọi địa ngục là thiên đường nữa, bà biết không?
Ruộng
đứng phắt lên bỏ đi, không nói gì. Tôi đã nghe lời khuyên của Hai Giỡn
ngồi viết lại toàn bộ cuộc đời không hay ho gì lắm của mình và đặt tên
là Bản nháp. Cuộc đời đã đẩy tôi tới chân tường và tôi không còn chỗ lùi
nữa. Tôi đã 58 tuổi rồi, đã có cháu nội. Tôi không thể lấy cuộc đời
mình ra làm bản nháp của kẻ khác mãi được, để cho ai đó muốn viết bậy
viết bạ gì lên đời tôi cũng được, rồi dập xóa đời tôi như dập xóa những
con chữ bị dây mực hay sai sót. Cuộc đời tôi là bản nháp của chính tôi,
tôi phải được viết lên đó nét chữ của mình, cảm nghĩ của mình, thái độ
của mình với thế giới khách quan. Người ta đã tẩy xóa cuộc đời tôi bao
nhiêu lần rời. Tôi là cái loa, là bản nháp của hết ông này bà nọ để họ
diễn đạt ý đồ độc đoán, tính kiêu ngạo đến càn rỡ tự cho mình độc quyền
sự thật, độc quyền chân lý, coi thường tất cả mọi người, coi đồng loại
chỉ là những con vật ngu ngốc lễnh loãng trong một bầy đàn luôn luôn cần
phải có họ dạy bảo và lãnh đạo. Tự do hay chính là khí trời, là ánh nắng mặt trời trên thế gian này, là tài sản của tất cả mọi người. Người ta đã từng nhân danh cái thiện, nhân danh nhân loại và nhân danh bản thân tôi
để biến cuộc đời tôi thành tranh áp-phích và những khẩu hiệu vô hồn của
họ, giúp họ mãi mãi nam và giữ được quyền lực là mục đích của họ. Mỗi
một con người trên trái đất này bằng một bức thông điệp riêng. Tôi phải
đòi lại cái quyền được viết thông điệp của chính bản thân mình,
không cần một kẻ giả danh kiêu ngạo nào viết giùm nữa. Bản nháp này là
cả cuộc đời tôi với bao nhiêu thành công và thất bại, chân thành và lầm
lỗi, hèn kém và ấu trĩ, dối trá với lương tri. Khi tôi viết được một
đoạn chuyện đời mình thì vợ tôi mò đến cái nhà kho đã thành phòng văn:
ông phải về nhà. Tôi dứt khoát: Không, tôi không về ở với bà nữa. Xưa
nay, các ông các bà cứ dùng cái thói làm cho người ta sợ hãi, ép buộc
người ta phải yêu mình. Tmh yêu là tự nguyện, tự thân,
không thể dùng biện pháp hành chính hay chuyên chính mà thành công
được. Bà hãy về với chức vụ lãnh đạo của mình đi, để tôi yên. Ruộng đặt
ba tờ giấy nhỏ bé đã vàng khè lên bàn viết của tôi mà tôi biết bà ấy xé
trong cuốn nhật ký xưa kia của tôi ra để hù dọa.
-
Đây là tối hậu thư. Một là ông về nhà để đừng ảnh hưởng tới chuyện vào
tỉnh ủy của tôi. Hai là tôi phải cạn tàu ráo máng, nộp cuốn nhật ký đầy
những suy nghĩ suy đồi, tư sản phản động, hữu khuynh ông viết cách đây
gần ba mươi năm, mà tôi vẫn giữ kỹ cho tuyên huấn hay công an vãn hóa.
Tôi điên lên, tính tát cho bà ta một cái nhưng đã kềm chế được. Tôi chơi bài ngửa:
-
Vì hèn hạ và sợ hãi, tôi đã chấp nhận lấy bà, sống với bà theo sự bố
trí của tổ chức, yêu thương theo chỉ thị cấp trên. Bây giờ đã đến lúc
chúng ta nên tha cho nhau, đừng bắt tôi phải sống với bà nữa. Bi kịch
này phần lớn do tôi gây ra.
Ruộng nhìn tôi thách thức:
- Vậy là ông nhất định ở riêng phải không?
- Phải.
-
Tôi sẽ nộp cuốn nhật ký tư sản của ông cho tổ chức. Trong cuốn nhật ký
đó ông đã dám nghi ngờ sự tốt đẹp và hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội, nghi
ngờ tài năng và đức độ của các vị lãnh tụ cách mạng thiên tài. Tôi đã
hết cả sức, chép miệng:
- Bà cứ đi mà nộp
cho tổ chức. Tôi đã hết sợ rồi. Nếu bà làm cho tôi được vào tù thì đó
là điều may, là sự giúp đỡ tuyệt nhất mà bà dành cho tôi. Bởi vì cuộc
sống của tôi xưa nay nào có khác gì tù tội, nhất là khi phải sống với
bà. Thôi, bà về mà chuẩn bị vào tỉnh ủy.
Ruộng
đứng lên về. Tôi nghe tiếng bà ấy sụt sịt khóc. Tôi thấy tất cả sao đều
quá nhẫn tâm, quá tồi tệ trong những mối quan hệ tự làm khổ nhau của
chúng tôi và xã hội. Dù sao, tôi cũng thương hại Ruộng, một người đàn bà
sinh ra được nhồi nhét vào đầu cái thuốc mê quyền lực, mê lãnh đạo, cái
gì cũng thích ra lệnh, chỉ thị, chủ trương, chính sách và cả một đời là
một nghị quyết dài vô tận. Tựu trung, Ruộng cũng chỉ là một nạn nhân.
Tôi nghĩ rằng, chỉ có tình yêu mới giúp Ruộng trở lại là một người đàn
bà đúng nghĩa của nó. Mà tình yêu với cô ấy thì Chúa ơi, tôi
lại không có. Oái oăm thay, tình yêu của cuộc đời tôi đã dành hết cho
một người con gái đã chết. Người đó là Oanh của một thời chống Pháp tươi
đẹp và thiêng liêng., Sau ba tháng trời ngồi viết đi viết lại chuyện đời tôi, tôi đang tìm cách kết thúc để Ly thân khỏi
quá lê thê dài dòng thì có tiếng gõ cửa. Tôi bỏ bút xuống ra mở cửa cái
phòng nhà kho của cơ quan tôi mượn ngồi viết. Qua ánh đèn nê-ông sáng
rực của khu ga-ra để xe, tôi chợt cảm thấy như có ai vừa lén đập búa vào
gáy mình tới mức lảo đảo sắp ngã quỵ. Không có ai đánh vào gáy tôi cả,
chính là cú đắm dữ dội của cuộc đời nhanh như chớp thoi vào mặt tôi. Mắt
tôi như tối sầm lại tất cả. Trước mặt tôi, chạm vào sít ngực tôi không
phải là cú thôi sơn của cuộc đời, cũng không phải là ông công an văn hóa
tôi đang chờ đợi, không phải là nỗi tuyệt vọng vô cùng như thế giới
này, mà chính là một khối hạnh phúc bé nhỏ khiến tôi không sao tin vào
mắt mình được nữa. Cái khối câm lặng đó không nói gì, nhìn tôi bằng con
mất của con thú ăn đèn:
- Bố ơi, bố không nhận ra con à?
Tôi
chợt òa khóc như đứa trẻ đợi suốt ngày nay mới gặp lại mẹ. Vương Thi
đó, với cái bụng chửa vượt mặt sau khi mất tích hơn ba tháng trời nay
chợt về tìm tôi. Gương mặt con gái tôi sao giống như đúc gương mặt của
mẹ tôi xưa. Hai bố con ôm choàng lấy nhau. Tôi và con cứ đứng vậy để bám
víu lấy nhau như những người chết đuối trên cạn, người nọ tưởng người
kia là cái phao. Tôi dẫn con vào phòng. Nó mặc bộ đồ bộ trong nhà màu
tím than, tóc để dài không kẹp, mặt hốc hác, mắt mở to, chân đi dép
Nhật, không chút phấn son nên môi hơi tái.
Thấy tôi vừa pha nước chanh vừa dòm dòm cái bụng bầu của nó, Vương Thi cười bảo
-
Xin bố đừng kinh ngạc vì cái bụng của con. Đây là di sản của anh Trần
Khuất Nguyên để lại cho con mà con rất tự hào sung sướng. Anh ấy bị giết
chết tính đến nay đã tròn sáu tháng. Như vậy, cái thai này đã sang
tháng thứ bảy bố ạ. Nếu không có cái thai trong bụng, chắc chắn con đã
nhảy xuống hồ lần nữa để chết theo anh ấy. Tôi rùng mình. Tôi biết tính
con bê, đã nói là làm liền cho mà coi. Thật may man, nếu Nguyên không để
lại cho nó giọt máu trong bụng, chắc chắn tôi đã phải để tang đứa con
gái yêu dấu của mình rồi.
Tôi an ủi con:
-
Bố mừng cho con. Như vậy là bố sắp có cháu ngoại bồng. Con đi đâu suốt
ba tháng qua để bố hết hồn hết vía. Ai cũng bảo con đi vượt biên, nhưng
bố không tin. Bố nghĩ là con tự vẫn.
-
Con ra Hà nội để kiện cái việc người ta gết oan anh ấy bố ạ Con ở nhà
một người bạn. Con đã làm hàng mấy chục đơn khiếu nại, đã chầu chực bao
nhiêu ngày trước cửa quan như Viện kiểm sát tối cao, Tòa án, Quốc hội
nhưng chẳng ai thèm tiếp con, họ nhận hồ sơ cho có vì rồi chỉ toàn có
hứa suông hay bảo con yên tâm chờ đợi. Con tuyệt vọng về sự nhẫn tâm của
những người cầm cán cân thần công lý ấy và bỏ về đây. Con tính vài hôm
nữa bố giúp con cùng lên nghĩa địa Bần Thổ viếng mộ anh ấy.
Tôi khuyên con:
- Thôi con ạ, dù sao Nguyên nó cũng đành phận rồi. Con đừng khổ sở nhiều mà ảnh hưởng đến đứa con.
-
Con đã khóc hết nước mắt của một người đàn bà còn lại rồi bố ạ. Bây giờ
con tỉnh táo lắm. Con vẫn không thể nào tin anh ấy đã chết.
- Đúng, Nguyên vẫn sống trong bụng con đấy thôi.
Vương Thi nhìn tôi rồi cúi xuống cái bụng:
- Khi đứa bé ra đời, dù trai hay gái, con sẽ đặt cho cháu cái tên ghép của bố mẹ là Trần Khuất Nguyên Thi. Tôi can:
- Thôi con ạ, hãy đặt cho đứa bé một cái tên khác hay hơn.
Tôi chưa kịp nói hết câu thì con gái đã nhanh nhảu:
- Bố ơi, trước
khi bị bóp cổ chết trong nhà thương điên, anh ấy có làm một bài thơ
viết bằng gạch non trên tường. Người ta đã chép gửi lại cho bác Hai Giỡn
và con. Bài thơ ấy đề tặng con, con xin đọc bố nghe nhé, bài thơ có tên
là Những con đường tôi chọn:
Những con đường như những lằn roi
Lịch sử quất lên mình đất nước
Những con đường trên xứ sở tôi
Như nước mắt của người yêu chảy suốt
Những con đường tôi chọn
Như chưa đi thành đường
Bước ra từ lòng mẹ
úp mặt vào quê hương
Những con đường của thế hệ tôi
Lao thang vào cái chết
Đất nước tôi cháy nhà
Dù nghìn lần bị giết
Xin lối này tôi đi
Xin những cánh rừng khốc liệt
Đến cùng em nào có dễ gì
Nếu có ban mai nào bất chợt
Tôi không còn nhm thấy núi sông
Thấy những con đường trong mơ cỏ mọc
Lúa chín như cầu vồng
Đừng cướp đi của tôi hạnh phúc
Được chạy trên những con đường
Đầy sỏi đá và đầy bùn đất
Những con đường tôi chọn
Gập ghềnh như quê hương
Dù không ai đi cả
Một mình tôi một đường.
Vương Thi đọc xong bài thơ rồi ngồi thở hổn hển. Hai bờ mi của nó ướt như sắp khóc. Nó mệt. Nó ngước mắt lên trời tìm
sự hỗ trợ của vô biên nhưng chỉ gặp cái trần nhà thấp tè, loang lổ vệt
vôi bong. Ngoài kia đêm tối với những chùm sao co ro như giá rét. Tôi
bình:
- Thơ hay lắm. Đúng là bài thơ tuyệt mệnh. Văn chương mà
khẩu khí quá cũng rất nguy hiểm con ạ. Con đừng lấy tên Trần Khuất
Nguyên đặt lại cho con con một lần nữa, dù có ghép tên Thi vào cuối cũng
vậy thôi. Sợ suốt đời nó vận vào người như bố nó ấy. Thành ra khi sống
lúc nào cũng phải đối diện với sông Mịch La. Con biết Mịch La là sông gì
không?
- Là con sông Khuẩt Nguyên nhảy xuống tự tử.
- Vậy thì con đừng bắt con con mang dòng sông định mệnh ấy nữa.
Vương Thi lấy tay đặt lên bụng:
-
Nó đạp dữ quá bố ơi. Cái thai khỏe kinh khủng, y như nó khiêu vũ hay
đánh bốc trong bụng con vậy. Con cứ đặt tên cho cháu là Trần Khuất
Nguyên Thi. Bố ạ, nếu con người cứ phải mãi mãi sống trong nỗi sợ hãi
thì tất cả sông ngòi khe suối, thậm chí cái rãnh nước đầu hè cũng có thể
là sông Mịch La.
Tôi không biết nói gì
nữa, lặng nhìn con với cảm giác kính phục và thương yêu vô cùng, vừa đau
xót vừa sung sướng. Vương Thi lại xoa xoa hai bàn tay xanh gầy vào bụng
chửa nựng đứa con quấy phá:
- Ngủ
đi con ngoan nào. Đừng đấm nữa, vỡ bụng mẹ mất. Cái bụng mẹ rồi cũng
chẳng còn đủ kích thước cho mày đâu, y như thằng bố của con sống trên
đời vậy. Ngoan nào bé ơi, để mẹ nói chuyện với ông ngoại...
Tôi
cúi xuống chỉ chực rơi nước mắt. Tôi nghĩ rằng Trần Khuất Nguyên, Vương
Thi và đứa con sắp ra đời, chính là sản phẩm quý báu của cách mạng.
Mấy con gián từ xó tối bay rào rào đậu lên cuốn bản thảo Ly thân của
tôi. Tôi có cảm giác những dòng chữ của thằng Húng chó ăn ruồi là Trần
Hưng tôi đang ánh lên màu cánh gián. Vương Thi vẫn nói với cái thai
trong bụng như thể nó đang nằm mơ. Tôi nhìn cái bụng chửa kềnh càng mệt
mỏi đang phập phồng của đứa con gái và lặng nghĩ về trái đất của chúng
ta.
T P. Hồ Chí Minh - Nhà Sáng Tác Đà Lạt
Ngày 25 tháng 8 năm I987
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét