—o0o—
(…) mùa xuân năm nay, tháng Hai ngày 18,
là ngày hội Chùa, cùng với bạn là Trần quân và Phạm quân đi trẩy chùa
Hương. Lại thêm một ông bạn chung nữa là Sa Công, ông chính là người
đồng châu với Phật Tổ Thích Già, lạc loài đến Nam thổ này, vì thanh khí
lẽ bằng cùng với bọn mình gây thành một cuộc giao tình thân mật. Ông sắp
phải viễn biệt anh em, nên anh em muốn rủ đi, trước là vãng cảnh thăm
chùa, sau là cùng nhau chuyện trò trước khi xa vắng.
(…) Từ Hà Nội về Chùa có hai đường: một đường Hà Đông, một đường Hà Nam. Đường Hà Đông, là đường bộ, đi xe hơi mau hơn,
chỉ trong khoảng một ngày vừa đi vừa về được. Nhưng bọn mình đã đi du
xuân mà lại thêm cái mục đích khảo cứu nữa, nếu vội vàng hấp tấp như vậy
thời còn thú chi mà có ích chi? Vậy anh em định đi đường Hà Nam là
đường thủy, tuy chậm hơn mà có phong phú hơn. Chiều ngày 17 đi chuyến xe
lửa cuối cùng xuống Phủ Lý. Đã hẹn trước với Bùi Quân ở Châu Cầu mướn
chiếc đò đợi sẵn. Tám giờ tối tới nơi. Bùi Quân cho ăn cơm rồi cùng bọn
mình xuống đò. Ước 10 giờ đêm, trời sáng trăng suông, gió hơi hiu hắt,
thuyền dương buồm chạy, lên bến Đục Khê. Đêm khuya thanh vắng, sông rộng
bờ cao, giữa khoảng trời nước long lanh, tiếng ca nhi thánh thót, giọng
du tử hề hà, cũng phảng phất được ít nhiều cái thú của các bậc cao nhân danh sĩ đời xưa lấy bầu rượu túi thơ mà sánh với non xanh nước biếc…
Thuyền chạy cả đêm, ước tám giờ
thời đến Bến Đục. Khách lên bộ, cho thuyền đợi đó. Đi một thôi đường,
qua mấy cái chợ, rồi đến bến đò suối, là đường đi thẳng vào Chùa. (…)
Thật trông cái cảnh tượng
nơi bến đò đó mà thảm thay. Hàng nghìn con người đứng chực, có người
đứng từ tang tảng sáng, chốc mới có chiếc đò chở khách trong Chùa ra,
khách dưới chưa lên, khách trên ồ xuống, đò bất quá là một chiếc tam bản
đựng được mươi người là nhiều quá, thế mà mỗi lúc xô xuống đến hai ba
mươi người, vừa gồng vừa gánh, vừa siểng vừa cọ, đò chềnh nghiêng chềnh
ngửa đi, lắm khi chỉ còn mấp mé mặt nước, tưởng
chỉ ngồi nánh một tí là đổ cả người lẫn đồ xuống nước, nhiều người ướt
cả quần áo, mất thắt lưng tay nải, giầy dép áo khăn là thường. Thật là
hỗn độn cẩu thả, không có lề luật phép tắc gì cả. Nguyên chỉ có làng sở
tại đó mới có quyền chở đò suối, đón khách vào Chùa cùng đưa khách ở
Chùa ra, quyền ấy tức là một
cái “chuyên quyền” (monopole) không ai tranh được. Làng có ước 80 chiếc
đò, vừa ra vừa vào, ngày ít khách thời chở đủ mà những ngày nhiều
khách, nhất là mấy ngày hội, thời quyết là không sao xuể được. Cứ như
lời quan Phủ thời riêng một khoản đó làng mỗi năm cũng thu được tới năm
ngàn bạc, thật là một món thâu nhập to, nếu khéo biết quản trị kinh lý
thời gây nên cái tư bản
lớn làm được nhiều việc công ích cho dân đoàn. Nhưng không những không
kinh lý quản trị được, mỗi năm thu được bao nhiêu lãng phí đi mất cả, mà
cả làng lại chỉ trông vào một khoản đó mà ăn, ngoài không có nghề
nghiệp gì. Đã không có nghề nghiệp gì, lấy đấy làm sinh nhai, mà cách
sắp đặt vụng về như vậy, hỗn độn như vậy, thời đủ biết người mình hèn
thật. Đàn anh trong làng, anh nào cũng chỉ biết khư khư lấy một mình,
không ai nghĩ đến việc lợi hại chung, thời trách nào mà công việc chẳng
hư hỏng. Nay bọn đàn anh nếu biết khôn khéo ra thời nên chỉnh đốn lại
các cuộc chở đò suối đó thế nào cho vừa tiện cho hành khách, vừa lợi cho
dân làng. Trong làng có bao nhiêu đò, của những ai, trước hết phải kê ra cho rõ. Ngày vắng khách cho chạy một phần, ngày đông khách cho chạy hết cả.
(…) Đi đò ước chừng một giờ,
phong cảnh thật là ngoạn mục. Hai bên núi đá, một dòng sông con chảy
giữa, núi thâm thấp, nước quanh co, coi thật như một bức tranh sơn thủy của Tàu. Càng nhìn lại càng phục cái họa học của người
Tàu, nhất là cái lối thủy mặc, thật là khéo vẽ những cảnh thiên nhiên,
mầu trời sắc nước, mùi cỏ bóng cây, mung lung phiếu diểu, như gần như
xa, các nhà danh
họa Tàu thật là có tài diễn xuất được cái thi vị phảng phất trong cảnh
vật, như mang cái tinh thần người ta vào trong cõi mộng tuyệt trần. Ngồi
trong cái đò lênh đênh ở giữa khoảng non nước này, tưởng như đứng trước một bức tranh thạch tiên cực lớn; mà lắm khi đứng ngắm lâu một bức tranh sơn thủy lại tưởng tượng
như chính mình thiết thân ở giữa cái cảnh non nước này: hoạ thuật mà đã
đến được bậc ấy, đến bậc biến thực ra mộng, mộng ra thực, khiến cho
trong trí người ta mơ màng không biết mộng hay là thực, thực hay là
mộng, thời thật là tuyệt diệu vậy. Người Tàu đã có cái họa học như lối
tranh thủy mặc, lại có cái thi học như lối thơ Đường Thi, đứng trước nơi
phong cảnh hữu tình, ngâm lên một vài câu tuyệt diệu, thật không có cái
thuật gì làm cho tinh thần người ta tự nhiên mà bay bổng lên cõi tuyệt
trần, nhẹ hàng
vô cùng, êm ái vô cùng, như nước chảy, như mây trôi. Núi cao quá thường
làm cho người ta dợn, sông rộng quá thường làm cho người ta ghê, mà non
kia nước này thật là vừa bằng cái sức người tưởng tượng,
nên coi ra rất là mỹ miều khả ái. Mỗi dãy mỗi trái đều có tên riêng,
tùy hình mà đặt: đây là con vâm đương đang ăn cỏ, trông cũng phảng phất
như hình con voi chúc vòi xuống ruộng lúa, bên đầu lại có chỗ cong lại
như hình cái tai, mới nhìn không ai nhận, mà đã có người gọi tên lên rồi
thời càng nhìn càng thấy hệt như con voi, mới biết cái danh hiệu thật
là có ảnh hưởng đến sự tưởng tượng nhiều lắm vậy; lại kia là núi mâm xôi con gà, trông cũng mường tượng như con gà đặt trên mâm xôi thật! Ôi! Cái trí biến báo của người ta thật là vô cùng vậy.
Đến nửa đường thời có “Đền
Trình”, ở dưới chân núi, về bên tay phải lối đi vào; đấy là thờ các vị
sơn quân canh rừng núi, giữ cửa Chùa, ai vào Chùa phải tới đấy trình
diện trước; nên gọi là “đền Trình”. Tức như vào cửa quan lớn phải hỏi
cậu lính hầu vậy. Bọn mình cũng ghé thuyền lên đưa thiếp danh cho các
cậu “ba mươi” xin vào hầu bà Công Chúa (vì đức Bà Quan Âm theo tục
truyền thủa bình sinh tức là con gái vua). Chúa Ba đọc thấy tên mấy
người mình, chắc ngạc nhiên mà tự hỏi bọn này vào đây làm gì, quyết
không phải để cầu của cầu
con, kêu van lạy lễ như người khác, cũng không phải là làm mặt tri
thức, ngao du khoáng đãng, để ngạo mạn kẻ bình thường, nhưng ngẫm nghĩ
hồi lâu tất ngài hiểu rằng bọn mình là mấy kẻ ham học mà chán đời,
thường tận tụy vì một cái lý tưởng
cao xa mà khổ vì người đời chểnh mảng, muốn đem cái tâm hồn trong sạch
chịu cái cảm hứng thanh cao ở dưới bóng Bồ Đề, trên non Thứu Tĩnh. Ngài
đã hiển cái tâm sự mình như thế, tất ngài cũng khoan dung cho bọn mình
tuy không biết biểu lộ cái lòng tôn kính ra bề ngoài như người khác mà
trong lòng thật là cẩn trọng, không dám lấy việc tín ngưỡng tâm sự khinh
thường…
Gần trưa tới chùa ngoài, tức chữ
gọi là Thiên Trù, nghĩa là cái “bếp trời”, là chỗ sửa soạn đồ lễ vật để
vào dâng trong động. Tuy tên nhỏ mọn như thế mà nghiễm nhiên là một tòa
dinh vũ nguy nga, ở giữa một cái cao nguyên, bốn bề toàn núi, trông rất
là có thể thế. Cách kiến trúc tuy không có gì là khéo là đẹp, mà to lớn
lực lưỡng, thực là xứng đáng với cái cảnh chung quanh, coi đủ biết là
chùa giàu, tiền thâu nhập nhiều, sổ chi tiêu rộng. Nghe đâu mỗi mùa số
khách thập phương tới năm vạn người. Cứ bỏ rẻ mỗi người cúng vào chùa
một đồng bạc, thời mỗi năm nhà chùa
cũng thâu nhập năm vạn bạc: công ty buôn nào mà đồng niên lời lãi được
bấy nhiêu? Nguyễn Phủ đài trưa hôm ấy cũng tới Chùa, để cùng bọn mình
chia cái thú đăng lâm,…đăng lâm vào giữa giờ ngọ, nắng mặt trời tới
ngoại 40 độ! Phủ đài nói chuyện tiền thâu nhập to lớn như vậy toàn nhà chùa
quản trị lấy, dân sở tại cũng không biết mà quan sở tại cũng chẳng hay.
Số tiền ấy mà khéo biết dùng thời kinh doanh việc chi mà chẳng được.
(…) Các đám đông ở nước mình
thật là không có kỷ luật, không có trật tự gì cả, rất tạp đạp, rất hỗn
độn, dầu ở nơi lễ bái kỉnh trọng cũng kẻ đi người lại, kẻ đứng người
ngồi, nói nói cười cười, kêu kêu gọi gọi, ồn ào lộn xộn, khó mà nghiệm
cho được cái tâm lý những người ngẫu hợp lại đó. Lại thêm khói hương
ngùn ngụt, mùi người xông ngạt, tiếng chuông, tiếng trống, tiếng mõ đinh
tai, đủ khiến cho nhà khảo
cứu như vào chốn mê ly, chẳng biết chỗ nào mà dò. Song nhận cho kỹ, dẫu
trong đám ồn ào đó mà cũng có nhiều người cái mặt rầu rầu, con mắt dim
dim, như ngoan như độn, như dại như ngây, tưởng
giá sét đánh bên mình cũng không tỉnh. Những người ấy chính là người
thành tâm tín ngưỡng đó, chớ không phải những kẻ lau chau láu táu, miệng
khấn tay vái, nào sụt nào sùi, bao nhiêu sự tâm niệm thành kính là ra
chân tay mồm miệng cả.
(…) Giữa trưa thời cả đoàn trẩy
vào “Chùa Hương”, tức là vào động. Có đem theo mấy bộ đăng sơn để phòng
chỗ nào mỏi chân thời lên cho đỡ mệt. Nhưng bọn mình xem ra ai cũng có
cái “lòng tôn giáo” cả nên ai cũng đủ sức nhẫn nại mà chịu được chân
chồn gối mỏi, miệng khát cật nóng, trong ngót hai giờ đồng hồ, không cần
phải dụng đến đăng sơn mấy. Kể đi như vậy đương giữa trưa cũng mệt
thật, không phải rằng đường đi có khó khăn nguy hiểm gì, nhưng lắm chỗ
dốc quá cứ trèo ngược mãi lên, mỗi bước như hai chân phải nâng cả ngót
năm chục cân nặng cái thân thể mình lên, nên mỏi quá nhọc quá. Người nào
phì mập đến bảy tám mươi cân mà cứ trèo như vậy luôn trong hai giờ
không nghỉ, trên thời trời nắng chang chang, tưởng
đến đứt hơi ra được. Nhưng hai bên đường đã có hàng quán, tùy độ đường
mà đặt, đến chỗ nào mỏi mệt thời đã có sẵn nơi uống nước nghỉ chân. Lại
người đi lũ lượt, kẻ ra người vào, chân bước miệng “Nam mô”, coi rất
vui, cũng quên được sự mỏi mệt đi nhiều. Có lắm bà cụ đã già mà đi son
són, như ta đi ngoài phố, không ra dáng mệt nhọc gì, tin rằng đi việc lễ
bái phúc đức thời Phật phù hộ cho, coi đó đủ biết cái lòng tín ngưỡng
mạnh là dường nào. Không gì cảm động bằng chợt đến khúc đường vắng,
khuất núi cao, trông thấy bà lão già tay lần tràng hạt, tay cầm gậy tre,
chân đi bước một, miệng đọc “Nam mô”, tiếng vang động bên sườn núi dưới
gốc cây, nghe ai oán vô cùng, tưởng như tiếng tự trong thâm tâm mà ra, kêu được hết cái nỗi đau khổ của loài người.
(…) Đi qua “Giếng giải oan”, là một cái
giếng nước trong ở trong đá chảy ra, trên xây cái đền nhỏ bằng gạch thờ
chư vị, chỉ có một cái cửa nách con vào trong tối om, ngạt những mùi
hương khói, chẳng trông thấy gì, khách thập phương chen nhau vào mà lấy
nước, nói rằng nước ấy ai đau mắt kinh niên rỏ một giọt thời khỏi ngay.
Lại bên cạnh giếng có một viên đá vôi, nhiều người lấy dao cạo lấy cái
bột ở đấy đem về để trị đau mắt. Không biết hai thứ thuốc tiên đó có
chữa được nhiều người khỏi mắt không, nhưng chắc cũng lắm người đau thêm
hoặc hỏng mắt vì đó. Song lòng người ta đã tin thời dẫu độc cũng là
hay. Cái tín lực thật là cái sức mạnh đệ nhất ở đời vậy. Lại đi qua chỗ
“Cửa Võng”, gọi tên là thế vì khi trước có cái cây lớn chăng dây thành
cái võng, ngày nay cây đã đổ mất rồi. Đến nơi gọi là “Trấn Song” là chỗ
trèo lên gian trước hơn cả, có cái dốc dựng cao tới hai ba mươi thước
tây; ngày nay đã có bậc lên còn dễ hơn, chớ ngày xưa đi đến đấy là nguy
hiểm lắm.
Đến hai giờ chiều thời vào tới
động. Gần tới nơi phải đi dốc xuống một thôi, bóng cây u ám, đá núi ẩm
thấp, đi trên đường nóng nực, đến đấy thấy mát lạnh, rồi tới một cái cửa
hang to, trông tối om, chỉ thấy lố nhố những đèn nến như sao sa, khói
hương đưa lên như mây ám. Đó là động Hương Tích vậy. Mới thò đầu vào chỉ
thấy khói hương xông sặc ngào ngạt, nước mắt nước mũi chan chứa, không
nhận ra người vật gì cả, chỉ trông lố nhố một lũ bóng nhấp nhô như trên
màn chớp ảnh vậy. Lại thêm tiếng chuông, tiếng trống tiếng mõ tiếng
pháo, tiếng súc thẻ, tiếng cầu khấn, rộn rịp om sòm, thật là rức óc đinh
tai. Cái cách thờ cúng của người mình cũng kỳ thay. Hình như thần Phật là của chung, đi lỡi (tức lễ
– PT chú) được nhiều được phúc nhiều, nên tranh nhau mà cầu lỡi, tranh
nhau mà thắp cho nhiều nến, đốt cho nhiều hương, mỗi người mỗi làm như
vậy, thành ra đám họp chợ, không phải là nơi cầu nguyện. Ôi! Cái lòng
tín ngưỡng của người mình phát biểu ra một cách thật là thô bỉ sỗ sàng thay!
(…) Coi cái động Hương Tích đó cũng chẳng lấy gì làm đẹp, tưởng không xứng đáng cái huy hiệu “Nam Thiên đệ nhất động” của Chúa Trịnh khắc ở cửa hang đời xưa. Theo tục truyền thời động này bắt đầu thờ từ đời nhà Trịnh,
không biết vào niên hiệu nào: hiện nay ở chùa trong chùa ngoài cũng
không còn có bi ký tự tích gì làm chứng cớ. Duy ở ngoài Thiên Trù còn
một cái tháp cổ xây bằng những “gạch hòm sớ” nung thành chai, dài ước
50,60 phân tây, dầy tới 15,20 phân, có đúc những miếng huỳnh miếng trám,
những chữ phạn tự (chữ Phật), coi rất là cổ kính, nhưng cũng không có
sự tích niên hiệu gì, chẳng biết vào thời đại nào. Động không đẹp là vì ở
thụt xuống một cái lũng sâu, trông không sáng sủa, không có bề thế,
nhưng cũng có cái vẻ sầm uất uy nghiêm. Trong động có những thạch nhũ rủ
xuống, người ta gọi là cái “mắc áo”, có những hang những hốc người ta
cho là đường lên trời đường xuống âm phủ, có những đống đá nhấp nhô
người ta gọi là “núi các cô các cậu”, những người hiếm hoi đến cầu tự ở
đấy, v.v… toàn là những cái tục truyền phụ họa, chẳng có gì là kỳ lạ cả.
Nhưng phàm cảnh sơn nham không có đẹp ở trái núi hay ở viên đá, mà phần
nhiều đẹp ở cái khí sắc mỗi lúc, tùy trời u ám hay trời sáng sủa, buổi
chiêu dương hay lúc tịch dương, mặt trời ánh sáng, sắc núi đậm phai, mà
mỗi lúc khác nhau. Vậy bấy giờ đã trở về chiều, mặt trời đã xế, đứng tận
trong cùng động nhìn ra ngoài cửa, thật là một bức tranh tuyệt bút.
Khói hương đưa ra cửa động, mờ ám như đám sương mù, mặt trời phản chiếu
nửa đỏ nửa vàng, bóng cây phất phới như thấp như cao, đứng trong nhìn ra
như trông qua một cái gương mờ: bấy giờ tưởng
bước chân ra cửa động là tiện thị để mình vào nơi mộng cảnh nào, theo
sương mù mà bay bổng lên mấy từng mây, có lẽ đấy chính là cõi tây thiên
tĩnh thổ vậy. Nhưng chửa bước chân ra khỏi cửa thời cái mộng cảnh đã tan
rồi, mà chỉ ngửi thấy những mùi xú uế ở chung quanh chùa bốc lên, thật
là cảnh chân với cảnh mộng cách xa nhau nhiều lắm!
Khi trở ra chùa ngoài thời
trời đã về chiều, khí đã mát mẻ. Đi xuống không nhọc bằng trèo lên. Khi
lên thời mỗi bước như phải nâng cả mình lên, nên chồn chân và mỏi vế;
khi xuống thời cứ thuận dốc mà như ở trên đẩy người xuống, đi mau lắm.
Ra gần đến chùa ngoài thời trông thấy dãy núi ở bên tay trái có mấy lớp nhà cao làm kiểu tây, cheo leo ở sườn núi, đứng xa tưởng cái nhà mát của người Tây nào. Hỏi ra mới biết rằng đấy là “Chùa Tiên”, trên cũng có cái động nhỏ, cái nhà tây có lầu đó tức là nhà “khách sạn” tiếp phụ vào chùa. Động với nhà cũng
tầm thường cả, không có gì là đẹp, nhưng đứng trên ấy rộng trông được
cả khắp miền núi non đó, thứ nhất là gồm được cả cái qui mô của “Chùa
ngoài” kể cũng đã to lớn thật. Lại đứng đấy mà ngắm con đường vào “Chùa
trong” thật như một giải lụa vòng quanh núi, mà người đi là một lũ kiến
bò.
Chiều tối vừa đến “Chùa ngoài”, ăn cơm, nghỉ chân, để sửa soạn sáng mai ra sớm. Nhà chùa dọn nhà quan
cư cho ngủ, có ý biệt đãi vậy. Đến khuya khuya thời ngoài núi chim gõ
mõ, trong chùa người tụng kinh, các ban thờ Phật đèn nến sáng choang,
hương hoa ngào ngạt, kẻ lễ người cầu đứng chật mấy gian chùa rộng. Đi
dạo chơi một lượt khắp chùa, gian nào, buồng nào, thậm chí đến ngoài sân
đến đường đi, cũng chật ních người, kẻ đứng người ngồi, kẻ nằm ngang
người nằm dọc, không có chỗ nào mà lách chân đi được: ăn lấm nằm láp,
thật người mình coi rẻ cái thân thể quá, lấy rằng đi lễ được phúc đức,
càng phải lầm than bao nhiêu càng được phúc bấy nhiêu. Có điều lạ là nhà chùa
nói chuyện rằng thường thường cả Chùa trong Chùa ngoài mỗi ngày tới mấy
nghìn con người đi lại ăn ngủ ở đấy mà tịnh không hề bao giờ xẩy ra sự
trộm cắp xâm phạm gì. Coi đó thời đủ biết lòng đạo đức của cái đám đông này có cái bụng tín ngưỡng vậy. Như vậy thời việc cảnh sát trong chùa rất là dễ dàng lắm. Duy có khoản vệ sinh thời nhà chùa
cần phải chú ý hơn nữa mới được. Thứ nhất, là nghiêm cấm khách thập
phương không được phóng uế ra chung quanh chùa hoặc ngay cửa động như
bây giờ, thật là dơ bẩn quá. Sau nữa, nên đặt rộng thêm cái nhà ngủ cho khách khỏi phải nằm vạ nằm vật xuống đất, coi đê tiện lắm. Hiện nay hai bên hành lang ở sau cửa tam quan tức là hai cái nhà ngủ rộng, có lát ván, nằm cũng còn không tệ lắm bằng nằm xuống gạch xuống đất, nhưng nghe đâu nhà chùa tham tiền mướn cho các hàng tạp hóa làm cái chợ kín, chiếm mất cả chỗ nằm của khách thập phương…
Tám giờ sáng mai ra đò suối sớm, 10 giờ
thời xuống thuyền trở về Phủ Lý, đi nước xuôi chóng hơn bữa trước nhiều.
Lần này đi ban ngày, tha hồ ngắm phong cảnh hai bên bờ, chỗ núi non,
chỗ đồng ruộng, coi rất ngoạn mục. Có nơi núi ngay trên bờ, bên sườn lại
có tấm đình góc miếu cheo leo, nhìn như bức tranh sơn thủy lớn hay bộ
núi non bộ to. Tới già nửa đường thời qua đền Bà Đanh, nhưng trời đã về
chiều không kịp lên xem.
Sáu giờ tối thì thuyền tới bến Hà Nam,
ngủ đấy một đêm, sáng mai lên Hà Nội chuyến xe lửa sớm. Thế là trẩy Chùa
Hương xong, cả thảy mất hai ngày rưỡi ba đêm.
T.C.
(1919)
Bài viết rất hay và thú vị, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa