Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC VỐN BUỒN
NHỚ VÀ SẦU THƯƠNG CHO CHÍNH NÓ
Khi chủ tịch mở mắt, đã ba giờ chiều.
Ông chưa bao giờ ngủ một giấc trưa dài và nặng nề đến thế.
Những giấc mơ ngắn, hãi hùng, xen lẫn những hình ảnh, những ý tưởng còn đọng
lại sau câu chuyện về người tiều phu khiến giấc ngủ ấy đẩy ông tụt xuống một
vùng sâu. Ông có cảm tưởng vừa tham dự một cuộc nhảy dù đêm mà trong đó ông là
gã lính dù nhút nhát bị cưỡng bức lao qua cửa máy bay để buông mình vào một
không gian tối tăm đầy hù doạ.
- Thật tồi tệ..
Ông lẩm bẩm rồi bước ra ngoài hiên. Nắng đổ dài quá nửa sân,
một thứ nắng trong suốt, vàng nhạt, không mảy may hơi ấm. Những cành mai rung
trong gió. Ông ngơ ngẩn nhìn chúng, vẫn như đang chòng chành giữa những cơn mơ
vừa qua và hình ảnh mảnh sân chùa trước mắt. Mảnh sân cách ông chưa đầy sải
tay, với những hàng gạch vuông, với nắng quái ngã qua mái ngói phía tây. Từ
ngôi chùa bên kia sân, tiếng gõ mõ lẫn tiếng đọc kinh vọng ra. Có thể phân biệt
giọng của vị sư già và giọng lảnh lói hơn, của sư nữ. Ông lắng nghe hồi lâu
tiếng tụng kinh như để tin chắc rằng giấc mơ đã hoàn toàn qua và giờ đây, ông
sống trong hiện thực. Cậu lính trẻ phục phịch đang ngủ say trong chiếc võng mắc
bên chái hiên đầu chùa, gương mặt đỏ hồng. Tuy còn trẻ, cậu ta cũng đã ngáy,
tiếng ngáy khá to. Cả tiếng ngáy ấy nữa, cũng là hiện thực, một hiện thực mạnh
mẽ hiển nhiên kéo ông khỏi những giấc mơ miên man, những giấc mơ khiến tâm hồn
ông chìm đắm như con tầu bị bẻ hết buồm lái, bị nhấn xuống đáy bùn.
- Ối...Thôi chết rồi...
Cậu lính trẻ đột nhiên vùng dậy, kêu to :
- Xin lỗi, con ngủ quên đi mất.
- Không sao. Chính tôi cũng ngủ quên. Hôm nay thật mát trời.
- Vâng. Xin chủ tịch chờ cho vài phút. Con xin pha trà ngay.
Chàng lính hối hả cuốn võng, rồi đi cắm nước. Phòng quản trị
đã thay chiếc ấm điện mới và từ nay cậu ta sẽ không còn phải hì hục đun nước
trong gian bếp nhà chùa. Ông nhìn cậu ta, lặng lẽ. Công việc của một ngày quanh
đi quẩn lại chỉ thế thôi. Bỗng nhiên, ông nhớ tới tuổi trẻ của mình, không khỏi
tò mò :
« Làm sao cậu ta có thể chịu nổi suốt đời thứ công việc tẻ
nhạt này ? Một thứ công việc chẳng mảy may thích hợp với tuổi hai mươi ? Phải
chăng, vì một niềm sùng kính mà con người phải hy sinh những đam mê khác ? Hoặc
chính họ là những người chẳng có đam mê nào đáng giá hơn là đứng trong một đội
quân được trả lương để làm một thứ công việc tẻ nhạt suốt cuộc sinh tồn ? »
Nhưng rồi ông vội vã xua đuổi những thắc mắc ấy vì chúng quả
là bất tiện. Ông yêu chàng lính trẻ này, có thể là một cảm tình muộn màng và
không chờ đón, tuy nhiên nó vẫn luôn luôn là niềm trìu mến đích thực. Ông không
muốn có những ý nghĩ xúc phạm đến cậu ta.
- Thưa chủ tịch, mời người vào phòng dùng trà.
- Cảm ơn. Chú pha trà gì vậy ?
- Dạ, trà ướp nhài, như hôm trước.
- Tốt, tôi vào đây.
Ông quay vào phòng, không gian đã thoang thoảng hương nhài.
Ấm chè vừa pha toả khói. Rót đầy một chén, ông nhấm nháp từng ngụm nhỏ. Hồi còn
ở chiến khu Việt - Bắc, ông cho trồng một bụi nhài ngay sát chân nhà sàn. Bụi
nhài ấy mọc nhanh hơn cỏ, chỉ sau một năm đã lan rộng như tấm chiếu đơn. Những
chiều hè oi nồng cũng như những đêm mưa rả rích, hương nhài bốc lên ngây ngất.
Những bông hoa nhỏ xíu kia, vì sao chúng cho một mùi thơm nồng nàn đến như vậy
? Nhiều đêm, ông đứng bên cửa sổ, nhìn ra khoảng rừng tối đen, thở hít đầy lồng
ngực làn khí của rừng đêm hoà với hương nhài. Rồi đến khi có nàng, ông thường
gặp hoa nhài hơn, bởi nàng thích cài hoa nhài và hoa ngọc lan trên tóc.
« Ta có nàng trong tay vào năm 1953, khi ấy nàng đã hơn hai
mươi tuổi. Từ buổi trưa bắt gặp nàng cùng cô bạn ngồi chia nhau chùm vả trên
cây, ta còn phải đợi chờ thêm hai năm nữa. Hai năm trông ngóng, mỏi mòn. Ta đâu
có yêu một đứa trẻ vị thành niên ? Về luật đời, ta chẳng mảy may phạm lỗi. Ông
lão tiều phu kia còn kết hôn với một cô gái trẻ hơn nàng, cô ta mười tám tuổi.
»
Chén trà đã cạn, chỉ sót lại một cánh nhài khô dưới đáy. Chủ
tịch chăm chú nhìn cánh hoa héo và chợt hồi nhớ cảm giác ghen tuông của thời đã
qua. Ghen tuông, kì cục thay, một thứ yếu đuối bất khả thú nhận.
Ông mường tượng lại không gian lạ lùng đêm ấy, mùi thuốc
Ca-ra-ven lẫn mùi thuốc Gaulois ông đốt liên tục thứ nọ xen lẫn thứ kia một
cách lộn xộn, và ông cũng hút một cách máy móc, bất tri kì vị. Ông nhớ lại
chiếc gạt tàn đất nung đầy ắp đọt thuốc, và mớ tài liệu mà ông lật giở hết
trang nọ đến trang kia nhưng không đọc nổi một dòng. Đêm đầu tiên họ làm tình.
Đêm đầu tiên tấm thân nõn nà của nàng hiển lộ trước mắt ông, không áo chàm,
cũng không áo cánh tân thời, cũng không cả chiếc xu-chiêng may bằng vải phin
trắng sợi thưa dếch dác. Chỉ da thịt thuần khiết, vẻ đẹp thuần khiết do thiên
nhiên tác tạo. Người xưa bảo : « Trong ngọc, trắng ngà », ông nghe vậy nhưng
chỉ tới đêm ấy mới hiểu rõ ý nghĩa từng câu từng chữ. Nhan sắc của nàng đích
thực là châu báu. Ông nhớ tiếng nàng cười, dưới ánh sáng mờ mờ của cây đèn nơi
góc phòng, hàm răng nàng ánh lên như ngọc. Đấy là khoảnh khắc mà dĩ vãng lẫn
tương lai chẳng còn tồn tại, không gian tiêu biến như cõi mộng, và tất thảy
những rào cản giữa hai sinh thể rơi xuống. Nàng ở trong ông, tan hoà trong da
thịt của ông, nhào quyện trong tâm hồn ông. Mãi mãi. Mãi mãi...
Nhưng cũng thật lạ lùng, vì sao ông lại ghen tuông như vậy ?
Trên đường đi của mình, ông đâu thiếu những cuộc gặp gỡ, ông đâu thiếu hơi ấm
đàn bà ? Tuy chẳng phải là một gã đàn ông trăng gió, nhưng ông cũng là người
từng trải. Vậy mà ông vẫn không tránh khỏi thứ tình cảm thông tục rất đỗi thấp
kém này. Sau cuộc làm tình, ông nói với nàng rằng ông cần đọc gấp một mớ tài
liệu, rồi ông ra khỏi căn phòng. Nhưng ngồi dưới ánh đèn, ông lật từng trang
giấy và mường tượng xem ai là kẻ « đã từng » với nàng ? Ai là người đầu tiên
được chiếm cứ tấm thân mỹ miều, tươi thắm ấy ? Ông biết nàng là sơn nữ, cuộc
sống của sơn dân phóng khoáng như nước suối, mây rừng. Trai gái đến tuổi trưởng
thành được tự do luyến ái. Đối với người châu Á thì dân miền núi chính là thứ
người « Âu hoá » trước hết và đầu tiên. Một cô gái khoẻ mạnh, xinh đẹp như
nàng, hẳn phải được biết bao chàng trai dòm ngó. Đặc biệt, là những chàng trai
đã lớn lên trong cùng một bản, bên cùng một dòng suối, một cánh rừng...
« Ta đã không tránh được thứ tình cảm rất đỗi tầm thường ấy.
Cũng thật là khó hiểu, một gã đàn ông đã qua hai mươi năm tuổi trẻ ở phương
tây, và người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời ta là người tóc vàng, da trắng. ».
Bất giác, ông buông tiếng thở dài :
« Từ cuộc làm tình đầu tiên đến nay đã hơn nửa thế kỉ. Nói
một cách chính xác, đã xấp xỉ sáu mươi năm. Không ai đo dược chiều dài của thời
gian, vì nó co giãn theo những kỉ niệm của con người.»
Rót tiếp chén thứ hai, ông nhìn thấy người đàn bà đầu tiên
trong làn hơi nước bốc trên miệng chén trà.
« Goá phụ. Người đàn bà trong ngõ hẻm. Cô thợ mũ dày dạn và
lỗ mãng, người thày tình ái của ta ... »
Gương mặt chị ta giờ đây nhù nhoà như khói, nhưng hơi thở
hổn hển và những tiếng hét đứt quãng của chị ta trong những cuộc làm tình không
bao giờ ông có thể quên. Họ đều là dân thuê nhà trong một ngõ cụt, sát phố
Saint John, nơi một bồn phun nước nhưng chẳng còn nước đứng han rỉ giữa đám bồ
công anh già cỗi. Chị ta hơn ông khá nhiều tuổi, chồng làm bưu tá vừa chết được
vài năm. Ba đứa con trứng gà trứng vịt suốt ngày bị nhốt trong nhà. Ngày ấy,
ông tròn hai mươi. Chắc hẳn, tuổi trẻ tự nó toát ra vẻ quyến rũ giống như một
con cầy hương toát ra chất xạ để lôi cuốn bạn tình. Một buổi chiều, người đàn
bà goá gặp ông cùng trên đường quay về ngõ nhỏ, nơi ông thuê căn phòng áp mái,
còn chị ta sống trong một căn buồng dành cho người ở, thông lưng với một ga-ra
cũ. Chị ta làm thợ khâu, trong một xưởng nhỏ sản xuất các loại mũ ngủ. Hình như
đấy là nghề cổ truyền của gia đình, và chị ta đã làm thợ từ thuở mười ba . Họ
im lặng đi song song với nhau một đoạn đường, rồi đột nhiên goá phụ mỉm cười
hỏi ông :
- Sao, công việc tốt đẹp chứ ?
- Cảm ơn , tôi hy vọng như vậy.
Ông trả lời, trong lòng buồn rười rượi vì đã rạc cẳng tìm
việc hơn hai tháng mà chưa thấy mảy may tia hy vọng.
- Tốt.
Người đàn bà tiếp lời, sau đấy chị ta hạ giọng :
- Đêm nay, lúc một giờ, cửa nhà tôi mở. Anh đến chứ ?
Ông sững sờ, chưa biết đối đáp ra sao, người đàn bà đã nắm
lấy khuỷu tay ông, bóp mạnh và đồng thời lặp lại :
- Đừng quên nhé. Một giờ đêm nay.
Rồi chị ta rẽ vào nhà mình. Ông đi tiếp một đoạn nữa, tới
căn nhà cuối cùng trong ngõ cụt, leo lên tầng trời thứ bẩy. Ở đấy, ông uống
nước lã và ăn khúc bánh mì khô cứng còn lại từ hôm trước. Nước lã, bánh mì
xuông, chẳng bơ sữa cũng không thịt cá, vậy mà máu vẫn rạo rực. Bộ phận cứng
nhất trong cơ thể ông không chờ được đến nửa đêm, đã dựng lên như cột buồm
khiến ông phải đi đi lại lại trong phòng, chẳng thể làm một việc gì khác. Tim
ông đập dồn vì phấp phỏng còn lý trí nhếch mép cười nụ cười cay đắng. Ông đã
từng mường tượng, ông đã từng mơ ước, ông đã từng dàn cảnh bao nhiêu lần cho
cuộc làm tình đầu tiên của cuộc đời mình, và bây giờ nó đến, trong sự suồng xã
của bức bối, bần hàn. Chẳng có công chúa trong mộng, cũng không phải hoàng tử
của lòng em. Chỉ đơn thuần là một người đàn bà goá cần lấp đầy giường chiếu.
Hồi ấy, tuy trẻ tuổi, nhưng ông cũng đã thầm chua chát cho số phận mình. Ông
chưa bao giờ hình dung người đầu tiên chiếm lĩnh tấm thân trai trẻ của ông lại
là chị ta, một bà goá gấp đôi tuổi ông và dẫu tóc vàng da trắng nhưng không mảy
may nhan sắc. Dầu vậy, ông vẫn chờ đợi với nỗi bồn chồn của kẻ chưa từng biết
mùi đời chuẩn bị nếm bữa cỗ đầu tiên. Rồi tới giờ hẹn. Ông đi đến khuôn cửa đã
mở sẵn ấy, không nói nổi một lời. Người đàn bà cũng không nói một lời, kéo ông
vào căn buồng riêng, chính là chiếc ga-ra cũ được dán giấy hoa loè loẹt bốn
bên, được trang bị một chiếc giường cổ , rộng thênh thang, gần như chiếm toàn
bộ diện tích căn phòng. Điều ấy khẳng định rằng ông bưu tá phải là người ngoại
cỡ...
« Thật lạ lùng, chẳng có gì số phận kiêng dè, chẳng con
đường nào mà nó tha dẫn con người bước đến. »
Cũng thật lạ lùng là ông gần như quên gương mặt goá phụ,
nhưng lại nhớ như in hình ảnh gian buồng bé nhỏ, chiếc giường cổ lỗ với những
cây trụ sắt vĩ đại đội quả cầu bên trên. Người ta có cảm giác rằng chiếc giường
vững trãi, đen xì như máy phóng đá này đã tồn tại từ tời trung cổ và còn tiếp
tục tồn tại nhiều thế kỉ nữa. Ông nhớ như in tấm vải trải giường kẻ sọc lớn mầu
nâu, tấm chăn phủ mầu cà-phê sữa. Ông nhớ cách thức chị ta dạy ông ái ân, hai
cánh tay cô thợ mũ nóng rực nhưng các thớ thịt lại mềm nhão và hai bàn tay thô
nháp, đầy vết chai khiến nhiều lúc ông đau điếng khi những vuốt ve trở nên điên
cuồng. Ông nhớ cử chỉ dứt khoát và đôi khi hung bạo khi chị ta lột phăng chiếc
váy ngủ qua đầu, đoạn vung tay ném xuống sàn. Ông nhớ cốc sữa nóng chị ta mời
ông uống, tiếng chiếc thìa khua lanh canh trong đêm khuya khoắt khiến ông sợ
hãi vì những đứa bé ngủ cách họ có một bức tường...Tất thảy những chi tiết
trong bài thực hành tình dục vỡ lòng. Tuổi hai mươi của ông đã được ghi dấu như
thế.
« Điều đáng sợ hãi hơn cả chính là lòng ghen tị chị ta khuấy
lên trong khu. Lòng ghen tị của những người đàn bà khiến cho đến giờ ta còn hổ
thẹn. »
Cái ngõ nhỏ ấy đầy ắp những đàn bà thiếu vắng đàn ông. Nào
là vợ lính không đủ tiêu chuẩn đi theo chồng, nào là quả phụ trong những cuộc
chiến tranh thực dân liên miên từ châu Phi sang châu Mỹ, nào là đám đàn bà Ý
chạy trốn xứ sở của mình, những người phụ nữ tóc đen nhánh thường bị riễu cợt
là « bọn Rita... » Có quá nhiều lý do khiến cho những chiếc giường lạnh lẽo.
Goá phụ của ông bưu tá đã túm chặt lấy người tình nhân hai mươi tuổi như kẻ
chết đuối vớ được mảnh bè. Thoạt tiên, chị ta còn e dè, nhưng sau đó, chị ta cư
xử với ông như cai ngục với tù nhân, như nông phu với mảnh ruộng của gã. Rồi
những người đàn bà khác, trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn, dạn dĩ không kém bắt đầu
so gươm với kẻ mau chân chạy trước mình. Họ dấy lên những cuộc tranh chấp ghen
tuông quanh chàng trai Á đông tươi dòn như trái táo. Ông hổ thẹn. Ông không thể
chấp nhận người ta coi mình như một con mồi. Ông lẳng lặng tìm một căn gác xép
ở quận khác. Và một đêm, ông xách hành lý ra đi.
*
- Thưa chủ tịch, người dùng trà xong chưa để con dọn.
- Cảm ơn, tôi xong rồi.
Cậu lính bưng khay trà ra ngoài, và ông quen lệ kéo tập tài
liệu xuống trước mặt. Quen lệ, ông lật các trang giấy, trong lúc thầm riễu cợt
mình :
« Ta lật những trang giấy này chẳng khác chi lật những trang
tài liệu đêm năm xưa. Con người nhiều khi giống như cỗ máy. Những cử chỉ máy
móc chiếm một phần lớn thời gian. Cuộc sống thực sự cũng như phần nổi của đảo
băng, luôn luôn nhỏ bé.»
Nhưng rồi một ý nghĩ khác ập đến tức khắc, như ngọn triều
ném trả vào vách đá :
« Nhưng cái phần bé nhỏ ấy mới đích thực là cuộc sống. Nếu
cái phần nhỏ bé ấy chẳng tồn tại, kiếp nhân sinh sẽ chẳng còn ý nghĩa mà chỉ là
âm bản của tấm ảnh, nơi sự vật hiện lên dưới dạng các bóng ma. »
Sự so sánh ấy bỗng gợi cho ông nhớ lại căn buồng tối, nơi
ông từng sống bằng nghề rửa ảnh, cái nghề buồn chán và bạc bẽo, suốt ngày bị
giam cầm trong bóng tối, suốt ngày ngửi mùi muối bạc, vào buổi chiều bước ra
khỏi chốn ngục tù bé nhỏ ấy thì mắt loá và lưng đau.
« Ồ, không, căn buồng tối xưa kia là nơi ta tự chọn để kiếm
miếng bánh hẩm hiu cho qua ngày. Đây mới chính là tù ngục với cả một đội quân
canh giữ. Tại sao ? Tại sao ta để chúng dồn ta đến nông nỗi này ?»
Cuối cùng, ông chẳng thể lãng quên, cũng không có khả năng
lẩn trốn. Ông buộc phải quay lại với những giấc mộng hãi hùng vừa trải nghiệm
trong giấc ngủ trưa. Ông không thể thoát khỏi nàng. Nàng đang đứng đâu đó, ngay
sau lưng ông. Bóng nàng trùm lên ông, trong hình dáng yêu kiều và lạnh lẽo. Ông
có cảm giác như nàng vừa bước lên từ vùng băng giá, từ một miền mênh mông tuyết
trắng, nơi những dòng sông đóng băng trong suốt như thuỷ tinh; nơi những rừng
cây khô trụi in lên bầu trời hoang đám cành đen sì, cong queo như lũ rắn; nơi từng
bầy quạ vừa bay vừa thả tiếng kêu ai oán như gióng hồi chuông tập hợp những hồn
ma...Lạ lùng thay, nàng chưa từng một lần bước chân qua cõi biên thuỳ, nàng bị
cầm tù trong tay áo của ông, nàng dâng hiến cuộc đời cho một hạnh phúc phù dù
để sau đó bị ném thẳng xuống địa ngục. Vậy mà trong những giấc mơ của ông, nàng
trở thành kẻ đồng hành miên viễn. Bất kể nơi đâu ông từng sống, đều có hình
bóng nàng. Ông thấy nàng trên con tầu vượt biển, ông thấy nàng trong con hẻm
thành Paris, ông thấy nàng ngơ ngẩn trên những hè phố Hương cảng :
―...Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau...‖
Câu hát ấy vang lên giữa thinh không, va đập vào tim ông.
Càng ngày, ông càng thấy tâm hồn mình giống như vách núi ven bờ đại dương ngày
động bão, nơi những ý nghĩ qua lại, đối chọi không ngưng nghỉ tựa những cơn
sóng đập liên hồi vào vách đá, trong một cuộc giao tranh trường kì không phân
giải.
― Lẽ ra, ta đã có thể hạnh phúc với nàng. Lẽ ra ta không nên
lùi bước trước bọn chúng. Những kẻ đã từng leo lẻo mồm gọi ta là bậc trưởng
thượng, là anh cả, và ta đã từng coi chúng như những người đồng chí, những đàn
em thân thiết, những kẻ cùng chia xẻ nắm cơm, theo đúng nghĩa của từ copain. Té
ra, mọi sự ―đã từng chỉ là những lầm tưởng. Vào một thời khắc nào đấy, mọi giá
trị đều lật ngược, tựa hồ ta đã tin tưởng vào những tấm phim âm bản của cuộc
sống, cho tới thời khắc chúng hiện hình.
Vào ngày ông đề nghị Bộ chính trị công khai hoá quan hệ của
ông với người vợ trẻ, những bộ mặt tươi cười của đám đàn em nhất loạt sa sầm
xuống :
- Thưa chủ tịch, lẽ ra người không bao giờ nên đề cập tới
vấn đề này. Đó là một tabou, nếu có thể nói một cách chính xác...
Kẻ cất tiếng trước tiên là Thuận, anh ta khá thạo tiếng
Pháp, và danh từ tabou anh ta sử dụng chỉ có nửa số người ngồi họp hiểu được
thôi. Nhưng những kẻ không hiểu danh từ ấy thì diễn đạt thẳng thừng những ý
tưởng của họ một cách thô baọ và xuồng xã.
Tiếp theo Thuận là Sáu. Y giương mắt nhìn ông như tỏ vẻ ngạc
nhiên, trong điệu bộ của một vai tuồng , rồi bỗng nhiên nhếch mép :
- Chuyện đàn bà ...Tôi nghĩ rằng chủ tịch nêu vần đề này lên
chỉ để làm hài lòng cô Xuân, và đấy là mục tiêu duy nhất. Chắc chắn yêu cầu này
do cô Xuân đề xuất...Hoặc có khả năng do gia đình cô ta xúi bẩy. Còn chủ tịch
của chúng ta thừa đủ thông minh để hiểu rằng đó là điều không thể chấp nhận.
- Đương nhiên đó là điều bất khả. C’est sur.
Thuận nhấn mạnh, buột miệng buông ra một câu tiếng Pháp,
theo thói quen.
Chờ cho cảm giác khó chịu của số người không quen nghe ―ngôn
ngữ của kẻ thù trôi qua, Ba Danh lên tiếng:
- Cho dù là cô Xuân, chúng ta cũng không thể khoan nhượng.
Người đàn bà chỉ nghĩ tới mái nhà của họ, quyền lợi của bản thân họ, còn chủ
tịch phải coi trọng quyền lợi của dân tộc trên mọi thứ quyền lợi khác. Cuộc
cách mạng của chúng ta thắng lợi là do toàn dân nhất tề tin tưởng dưới sự lãnh
đạo của người. Hình ảnh của người mang lại sức mạnh cho dân tộc. Chúng ta không
thể để hình ảnh ấy bị bôi nhọ.
- Thế nào là bôi nhọ ?...Chúng ta không nên dùng những danh
từ nặng nề hoặc thái quá.
Tô lên tiếng phản kháng.
Ngay tức khắc, Sáu quay sang áp đảo anh ta :
- Không cần phải kiêng dè, không cần so đo chữ nghĩa. Chúng
ta đang đứng trước vấn đề sinh tồn của cách mạng . Lợi ích cách mạng đang bị đe
doạ, chúng ta phải tìm mọi cách bảo vệ lợi ích đó. Vì thế, giờ đây chẳng phải
lúc chơi chữ hay chọn từ.
- Các đồng chí không nên gay gắt. Đâu sẽ có đó, mọi chuyện
sẽ được giải quyết một cách êm thấm với sự đồng thuận của tất thảy mọi người.
Thuận can giải, và anh ta giơ cánh tay lên phác một cử chỉ
trịnh trọng như muốn thay lời kết thúc của diễn từ:
- Tôi cho rằng tất thảy chúng ta đều nhất trí : Việc công
nhận cô Xuân là điều không thể có, thậm chí không thể nghĩ đến. Tôi hy vọng
rằng với tinh thần trách nhiệm cao cả trước toàn thể dân tộc, chủ tịch cần chấp
nhận quyết định này. Chúng ta không có con đường thứ hai.
- Chủ tịch là vị cha già của dân tộc.
Sáu tiếp lời, và hai mép y nhếch lên trong một nụ cười thâm
thuý:
- Vị cha già dân tộc, là mái nhà che chở cho nhân dân. Từ
bao năm nay dân chúng đã quen với hình ảnh này. Chủ tịch cần nhắc cho cô Xuân
nhớ lại điều ấy, nếu cô ấy còn tiếp tục đòi hỏi được công khai chấp nhận.
Vào lúc đó, ông thấy lưỡi ông dính bết vào hàm. Mồ hôi ông
chảy dọc sống lưng và đôi chân ông lạnh toát như bị chườm nước đá. Những gương mặt
quen thuộc bỗng nhiên hoá thành một đám mặt nạ cao-su phập phồng, méo mó, lồi
lõm. Lẽ nào ông tìm được sự cảm thông và niềm tin cậy nơi những hình nhân dị
dạng kia ?... Những gì ông vẫn tin tưởng đinh ninh chỉ là nhầm tưởng. Cả một
bức tường thành sụt lở trong tim. Tâm hồn ông rỗng không, óc não ông tê bại.
Ông thấy mình bỗng nhiên trở thành kẻ cấm khẩu. Ông không thể mấp máy đôi môi.
Nhưng một khoảnh khắc trôi qua và bản năng thức tỉnh. Một cảnh báo mơ hồ lướt
tới khiến ông rùng mình. Ông phải tự trấn tĩnh một hồi trước khi có thể cất
tiếng:
- Nếu bộ chính trị đã nhất trí, đương nhiên tôi phải chấp
hành. Nhưng các đồng chí đừng quên rằng cô Xuân là người thân thiết của tôi,
chúng tôi đã có hai mặt con, và những đứa trẻ ấy là máu huyết của chính tôi.
- Chủ tịch cứ yên tâm. Những người thân của chủ tịch sẽ được
cư xử đàng hoàng. Miễn là họ yên tâm sống trong hậu trường của cách mạng.
Người nói lời cuối chính là Thuận, kẻ nổi tiếng chín chắn và
nho nhã trong bộ chính trị. Kẻ cũng được tiếng là người đàn ông đạo đức, có
nghĩa rằng so với các đồng chí khác anh ta chẳng phải là kẻ đa thê. Thuận chỉ
có một người vợ. Với người đàn bà này, anh ta có năm đứa con.
....Ông không còn nhớ đoạn kết của cuộc họp ấy ra sao. Phần
cuối của bản án tử hình. Trái tim ông bị đem lên đoạn đầu đài và ở đó lưỡi gươm
đao phủ hạ xuống. Dấu ấn sau chót ghi khắc vào tâm hồn ông là cảm thức về sự
bất lực của chính mình. Lần đầu tiên, ông chợt nhận ra ông chỉ là một pho tượng
gỗ khổng lồ nhưng mọt ruỗng. Những đồng chí thân thiết ẩn núp sau lưng ông để
kiếm chác quyền năng. Họ mới thực chất là những ông chủ, những kẻ trục lợi tàn
bạo, vô lương. Tất thảy bọn họ đều được sống mãn nguyện cái phần người ở dưới
rốn. Hơn phân nửa bọn họ đều có hai vợ và cả mớ nhân tình. Người có vẻ cảm thông
nhất với ông chính là Tô, bởi anh ta đã từng hiểu cuộc sống bị thiến hoạn. Vợ
Tô vốn mắc chứng hoang tưởng trầm uất từ thời thiếu nữ. Sau khi sinh nở, chị ta
trở thành tâm thần phân liệt, phải điều trị tại bệnh viện và nhà an dưỡng dành
riêng cho gia đình các uỷ viên bộ chính trị. Ít nhất, Tô cũng đã chịu thiếu
thốn gối chăn một thời gian, trước khi anh ta có quan hệ lén lút với một cô đào
hát trong đoàn tuồng Liên khu năm và có với cô này một đứa con trai. Nhưng Tô
là thiểu số tuyệt đối, thêm nữa bản tính anh ta nhu nhược và cả nể. Suốt đời,
Tô là kẻ sắm vai. Anh ta đã thành con rối gỗ từ rất lâu, thành con rối gần như
tự nguyện.
Người được tiếng đứng đắn nhất, cao giọng đạo đức nhất, thái
độ quyết liệt nhất trong cuộc họp hôm ấy chính là Thuận, kẻ đã từng là cánh tay
đắc lực của ông một thời gian dài:
― Nhưng anh ta chưa bao giờ thiếu thốn chuyện gối chăn. Anh
ta chỉ có một người vợ, nhưng với người đàn bà này anh ta có năm đứa con, và dù
trong chiến tranh hay trong cuộc sống thời bình, đời sống tình dục của người
đàn ông này là liên tục.
Ông nhớ lại bữa liên hoan trên chiến khu Việt bắc. Hôm ấy,
nhà bếp được lệnh mổ bò. Rượu cần ê hề vì dân bản cung cấp. Sau bữa cơm, mọi
người đều chếnh choáng, vui vẻ. Chợt có tiếng la hét, chửi rủa, khóc lóc của
một người đàn bà từ khu gia đình vọng tới. Cùng với thứ tiếng động bất nhã và
náo loạn của chị ta là tiếng xôn xao, giọng đàn ông xen lẫn giọng đàn bà. Hoảng
hốt, chánh văn phòng chạy sang hỏi han. Lát sau, anh ta quay lại báo cáo rằng
vợ thủ kho đau đẻ. Người đàn bà này xấu nết nên càng đau, chị ta càng hò tên
anh chồng ra mà chửi. Những người xung quanh xúm lại khuyên can. Giờ cơn đau
tạm lắng, hội phụ nữ đã cử người dìu chị ta xuống trạm y tế.
Câu chuyện làm bùng nổ những trận cười ròn rã xen lẫn các
giai thoại tiếu lâm vừa cổ vừa kim.
Lúc ấy, ông cất tiếng hỏi:
- Ở đây có cô nào chửi chồng khi đau đẻ không đấy ?
- Không có đâu ạ.
Các phu nhân nhất loạt đáp lời. Một người bạo dạn hơn nói
tiếp:
- Mà nếu có muốn chửi thì cũng phải nghiến răng chửi thầm
cho đỡ tức thôi ạ.
- Cô có lẽ là người thành thực nhất.
Ông mỉm cười tán thưởng, đoạn tiếp tục chọc ghẹo:
- Nhưng tại sao lại bực tức với người chung chăn chung gối ?
- Là vì....vì...
Người đàn bà ấp úng, nửa muốn trả lời, nửa còn dùng dắng.
Lúc ấy, ông nghe tiếng Thuận cười phá lên, rồi chính anh ta đáp thay thiếu phụ
kia :
- Là vì lúc sướng thì có cả đôi, lúc khổ lại mỗi một thân
một mình phải chịu. Đó là cảm thức trước sự bất công của đất trời. Đó là cơn
phẫn nộ đòi lợi quyền trước Tạo Hoá.
- Chú quả là người có tài diễn giảng.
Ông lên tiếng ngợi khen, đoạn quay sang vợ Thuận :
- Chú ấy biết nói như thế, hẳn phải biết cư xử như một ông
chồng lý tưởng. Tôi nghĩ có đúng không ?
- Dạ ...
Vợ Thuận cũng lại ấp úng như người đàn bà kia, chị ta đưa
mắt nhìn chồng và lúc ấy anh ta lại cất tiếng cười ha hả, lần này, với một nỗi
khoái trá không che đậy :
- Thưa chủ tịch, trên lĩnh vực này thì người khá ngây thơ.
Lý thuyết và thực tiễn luôn luôn luôn luôn là hai đường thẳng song song không
bao giờ giao cắt. Nhà tôi vừa mới day dả tôi cả đêm qua vì chuyện phạm luật.
- Phạm luật ? Luật nào ?
Ông cất tiếng hỏi một cách thành thực vì không rõ trong cuộc
sống đôi lứa, người ta đề ra những thứ luật gì. Suốt cuộc đời ông, những người
đàn bà lướt qua như cơn mưa bóng mây, tạm bợ như quán trọ, mơ hồ như giai nhân
trong chuyện Liễu trai, nên thực tình, cuộc sống gia đình đối với ông còn là
một lục địa chưa khai phá. Trong khi ông đưa mắt nhìn Thuận thì mặt vợ anh ta
đã đỏ gắt như quả gấc chín, còn Thuận đang cười nụ cười mở rộng nhất mà anh ta
có thể. Sau đó, anh ta thủng thẳng cắt nghĩa :
- Rất nhiều luật lệ, nhưng chẳng luật lệ nào đứng vững nổi
trước tuổi trẻ và những thôi thúc của thân xác. Ví dụ, thời xưa các cụ dạy vợ
đẻ xong phải kiêng đủ một trăm ngày, đó là lý thuyết chính thức. Nhưng tôi
không tin có ông chồng nào nhịn qua ba tuần lễ. Sau lưng các bà vợ, tôi hỏi
vụng mười ông chồng, cả mười ông đều thú nhận là phạm luật. Rồi các bác sĩ đề
ra luật : Khi vợ chửa tới tháng thứ chín tuyệt đối cấm đến gần giường, tôi, tôi
hành động jusqu’ au bout. Hôm sau cô ấy đi đẻ, đêm trước tôi còn gỡ.
- Anh có thôi đi không, đồ yêu quái.
Vợ Thuận thét lên, có vẻ như sắp khóc vì hổ thẹn. Cả đám
người cười lăn cười lộn, vẻ đồng tình ra mặt. Ông vội vã can :
- Thôi, thôi... Khi phụ nữ đã lên tiếng, ấy là mệnh lệnh.
Tôi đề nghị các chú chuyển sang đề tài khác.
« Một thời để nhớ, một thời để thương, một thời để thù hận
... »
Một câu văn cũ rích bỗng nhiên quay lại. Ông chợt thấy trong
đó những lo-gic thường hằng. Đúng là đã có một thời. Một thời để nhớ.
Một thời đã qua, thời của những kẻ sống trong rừng, hát cùng
một khúc quân ca, bước trong cùng một đội hình, chia nhau một bát cơm và cùng
có chung niềm tin tưởng. Thời khốn khổ và mộng mơ, khi người ta có thể nói với
nhau tất thảy mọi chuyện một cách dễ dàng. Thời mà người ta tưởng chừng tình
thân ái là những sợi dây liên kết chặt chẽ, bất chấp mọi ngáng trở, bất chấp
thời gian.
« Nhưng từ đâu nảy sinh ra thứ thù nghịch này ? Lòng ghen tị
được che giấu hay quyền lực bị tổn thương ?»
Hai giả thuyết ấy đặt ra trước ông như hai ngả đường, ngả
nào cũng đầy rắn rết. Bao nhiêu năm đã qua, ông vẫn không hiểu một cách tận
tường nguyên nhân sự phản trắc tập thể này. Phải chăng nhan sắc nàng gợi lên
trong lòng những người đồng chí của ông mối ghen tuông, hay việc ông yêu nàng
khiến cho quyền lực tập thể bị thương tổn. ?
Trước khi gặp Xuân, tổ chức kháng chiến đã quyết định tìm
cho ông một người đàn bà, tương lai sẽ là « mẹ già dân tộc ». Việc ông từ chối
quyết định của họ , tiếp theo đó mối tình giông bão với người con gái miền núi
kia chính là cây búa đập tan cái hình mẫu tượng đài mà những người đồng chí đã
dựng sẵn cho ông.
« Nhưng vì sao họ tự phong cho họ thứ quyền hành của ông mai
bà mối ? Tất thảy mọi chuyện diễn ra vừa có vẻ như trò chơi ngớ ngẩn lại vừa
giống một thứ ma trận bày ra để dẫn ta tới cửa mồ ?»
Ông không còn nhớ chính xác, nhưng vào khoảng mùa đông năm
bốn mươi bảy hoặc mùa xuân năm bốn mươi tám, văn phòng lên báo cáo :
- Bộ chính trị đã họp bàn vắng chủ tịch, để quyết định một
nữ đồng chí bên hội phụ nữ sang phục vụ người.
- Tại sao không cho tôi biết nội dung cuộc họp đó ?
- Dạ, vì chủ tịch đảm đương trách nhiệm tối cao lãnh đạo
cuộc kháng chiến, Trăm công ngàn việc đợi chờ người. Vì thế, chủ tịch chẳng còn
thời gian lo chuyện riêng tư. Bộ chính trị phải đứng lên sắp xếp.
- Ồ, nhưng vấn đề tình cảm giữa hai con người không thể giải
quyết một cách đơn giản và máy móc như thế. Các chú phân công, nhưng người nữ
kia chẳng có chút luyến ái nào thì sự sắp xếp này chính là cực hình đối với cô
ta.
- Xin chủ tịch đừng lo, được phục vụ người là vinh dự.
- Nhưng tôi, tôi cũng là một con người, tôi phải xúc động
thật sự mọi chuyện mới có thể tốt đẹp.
- Dạ, các uỷ viên bộ chính trị đều nói thực hiện nghị quyết
này là để bảo đảm sức khoẻ cho chủ tịch. Theo sách Hải thượng lãn ông nếu âm
dương không giao hoà thì mọi chứng bệnh sẽ kéo đến. Sức khoẻ của người chính là
vận mệnh dân tộc, tương lai của non sông. Tập thể tổ chức văn phòng có nhiệm vụ
chăm lo cho sức khoẻ của người.
- Tôi hiểu, nhưng không thể vì lý do ấy mà giải quyết mọi sự
một cách tuỳ tiện.
- Thưa chủ tịch, bên hội phụ nữ đã làm công tác tư tưởng với
đồng chí Thu. Đồng chí ấy thuận tình coi việc phục vụ người là phục vụ cách
mạng.
- Ồ...
- Thưa chủ tịch, văn phòng được thông báo là bắt đầu từ thứ
bảy tuần này.
- Không cần vội vàng đến thế. Mấy năm nay tôi sống chay tịnh
có sao đâu ?
Ông đáp, nỗi bực bội xâm chiếm tâm can. Nhưng chánh văn
phòng đã vội vã đi ra. Tiếng bước chân anh ta hấp tấp nghiến trên cây cầu thang
đầu hồi. Ngay lúc đó, cần vụ bước vào mời ông sang hầm tướng Long đàm đạo. Cuộc
gặp này đã vào lịch từ hai tuần trước nên ông lên đường tức khắc, nhưng cảm
giác bực dọc vẫn đeo đuổi. Sự khó chịu này gần giống cảm giác bất mãn năm xưa,
ông từng có với người goá phụ trong ngõ cụt phố Saint John, khi chị ta săn đuổi
và vây hãm ông một cách lộ liễu trước tất thảy láng giềng.
Vừa bước chân vào hầm tướng Long, ông đã hỏi luôn chuyện đó.
Anh chàng này giả tảng như không nghe thấy gì, lúi húi pha trà. Rồi lát sau,
thủng thẳng đáp :
- C’ est provisoire.
Ông hiểu rằng người ta tìm cho ông một giải pháp tạm thời,
nhưng dẫu sao đó vẫn là một sự áp đặt. Ông thấy quyền tự do của mình bị thương
tổn.
Cuối tuần đó, vào chiều thứ bẩy, ông chợt thấy bóng đàn bà
xuất hiện. Theo thường lệ, cứ thứ bẩy là mọi người rút về khu gia đình trừ đội
cận vệ. Lán của họ dựng cách ngôi nhà sàn của ông vài chục bước chân, đứng bên
này gọi to bên kia nghe thấy. Ông hầu như đã quên câu chuyện « nữ đồng chí phục
vụ cách mạng » nên vô cùng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà đang trên đường
tiến đến khu lán. Lúc ấy, bữa cơm chiều đã xong, bầu trời phía tây chỉ còn lại
những ráng mây vàng rực toả thứ ánh sáng không mầu sắc xuống các vòm lá đen
thẫm của cây rừng. Trong thứ ánh sáng ấy, và trong không gian hiu quạnh ấy,
dáng người đàn bà càng có vẻ yếu ớt, lẻ loi. Ông tự hỏi :
« Ai nhỉ ? Ai có thể đến đây vào lúc này ? »
Về nguyên tắc, đội cận vệ không được quyền tiếp đón người
thân trong khu vực cấm. Nếu gia đình lên thăm, họ sẽ được phép nghỉ và gặp gỡ
người thân ở khu vực « Trạm trung chuyển » hoặc gọi một cách văn chương hơn : «
Nhà hạnh phúc ». Ngôi nhà ấy cách đây ít nhất cũng một dòng suối với hai ngọn
đồi. Tò mò, ông tiếp tục nhìn qua khung cửa sổ, theo rõi cái bóng người đang chúi
đầu bước. Hình như chị ta còn mang xách vật gì đó khiến dáng đi vừa lật đật vừa
nghiêng vẹo. Một dáng đi lao đao, vất vả. Dáng đi ấy gợi nên một thứ tình cảm
không chút đáng tôn vinh là lòng thương hại. Lòng thương hại đối với một người
đàn ông đã tồi tệ, nhưng với một người đàn bà, sự tồi tệ ấy được nhân hai.
- Ồ, chuyện tầm phào.
Ông tự nhủ một cách khó chịu, vẻ như khó chịu với chính
mình. Rồi ông cúi đầu xuống mớ tài liệu. Nhưng một linh cảm mơ hồ mách bảo rằng
người đàn bà có dáng đi liêu xiêu kia liên quan tới chính ông chứ không phải
với những chàng cận vệ. Lúc ấy, ông mới sực nhớ ra « giải pháp tạm thời » mà
tướng Long đã nói, và tức khắc một tiếng kêu thốt lên trong trái tim ông :
- Khốn khổ, đó chính là người đàn bà mà họ đã dành cho ta.
Buông mớ tài liệu xuống, ông ngồi đờ đẫn.
Chắc chắn Hội phụ nữ không còn người nào trông ra hồn mà
sống độc thân. Tất cả đều « thuyền có lái, gái có chồng ». Hoa khôi phải kể đến
cô Vân, vợ Vũ. Tiếp đến là cô vợ hai của Sáu và cô Tường Vi, chuyển từ đoàn văn
công trung ương về. Hai người này được đặt biệt danh là « Nhị vị thục nữ ». Sau
đó kể đến « Tam nương thục nữ » cô Lan, cô Huệ, cô Nhi ; ba người đàn bà nổi
tiếng khắp chiến khu vì dáng vẻ yểu điệu và tài nội trợ. Những cuộc đón tiếp
khách quốc tế, những cuộc liên hoan trọng thể đều phải nhờ đến họ : Họ trưng
bầy hoa lá, họ làm bánh trái và các món ăn thị thành, họ dạy các thiếu nữ khác
cách trang sức và chính họ cũng là những mỹ nhân trong những bộ áo dài lộng lẫy
mà mặc dù cuộc kháng chiến gian nan nhưng họ vẫn cố đem theo. Sau ba mỹ nhân
này có thể kể đến vợ Thuận và các phu nhân của chính phủ. Tuy còn đang ở trên
rừng nhưng đám nữ nhân này cũng khá đỏm dáng. Người ta cũng chiều chuộng họ mà
chuyển một lượng khá dồi dào vải vóc, lụa là, gương lược từ vùng tạm chiếm lên
đây , cùng với thứ xa xỉ phẩm dành riêng cho ông :thuốc Ca-ra-ven và thuốc
Gaulois.
Về việc này, ông tuyên bố :
« Đấy là thói quen. Ở tuổi tôi, thói quen mạnh hơn người ta
tưởng. »
Những người đàn bà dựa vào đấy mà vòi vĩnh :
« Dù ở trên rừng, chúng tôi cũng vẫn là phụ nữ . »
Chính ông ủng hộ bọn họ. Dăm kẻ bực mình nói sau lưng ông :
« Ông ấy đã sống với Tây hai mươi năm, thích uống rượu Tây
nên cũng nịnh đầm ...như Tây vậy. »
Vào những buổi liên hoan, ông thấy những người đàn bà kín đáo
xịt nước hoa lên cổ áo hay lên những chiếc nơ sa-tanh gài trên tóc. Mùi thơm
cũng như nụ cười của họ khiến rừng núi bớt âm u.
Bấy giờ, ông cố điểm lại những người đàn bà từng nhìn thấy,
không ai có dáng đi xiêu vẹo kia, cũng chẳng ai tên là Thu...Rõ ràng là tất
thẩy đám đàn bà nhan sắc đều đã thuộc phần người khác. Còn lại « nữ đồng chí
phục vụ cách mạng » này ắt hẳn là phần xương xẩu nhất còn sót lại trong Hội phụ
nữ, là cá thể mà những người đàn ông tuy có thiếu thốn cũng đành quay mặt đi.
Điều ấy chẳng còn ngờ vực.
« Dẫu sao cô ta cũng đã đến đây. »
Ông buông tiếng thở dài rồi đứng lên, sửa sang lại quần áo
cho chỉnh tề. Lúc ấy, cần vụ bước vào báo cáo :
- Thưa chủ tịch, nữ đồng chí bên hội phụ nữ đã đến.
- Cảm ơn. Chú có thể nghỉ được.
Ông đáp.
Và cậu ta lỉnh đi nhanh như biến.
Đứng nhìn theo chàng trai một cách ngẩn ngơ, ông thầm hỏi :
« Ta sẽ phải nói với cô ta những gì đây, cho đúng phép ? Bởi
người đàn bà này không do ta chọn. Nếu là cuộc gặp gỡ bắt buộc của định mệnh
thì nó còn tồi tệ hơn nhưng gì đã trải qua với cô thợ khâu Paris. Bởi nó kèm
theo một điều kiện tiên quyết khiến cho cả hai bên bắt buộc ngại ngùng : một
cuộc làm tình chẳng có tình, cũng không phải sự đồng thuận giải phóng các nhu
cầu thân xác mà chỉ đơn thuần là hành động cách mạng. Điều này vừa giả dối, vừa
phi nhân. »
Ý nghĩ ấy khiến ông ngán ngẩm. Nhưng ông vẫn nhớ ông là chủ
nhà và có một vị khách đang tới. Ông đứng dậy, bước ra đầu hồi, đón cô ta.
Người đàn bà, như ông dự đoán, vừa đặt chân lên bậc thang thứ nhất cây cầu
thang. Từ trên cao, ông nhìn thấy đỉnh đầu của cô ta trước hết. Một cái đầu nhỏ
bé, tóc thưa thớt rẽ sang hai bên, rồi túm lại phía sau bằng chiếc cặp ba lá
nhôm sáng loáng.
« Tóc cô ta thưa như tóc một bà già tám mươi tuổi. Thật khốn
khổ. Ta chưa từng thấy người phụ nữ nào tóc thưa đến nỗi nhìn rõ cả mảng da
đầu. Mà da đầu cô ta không trắng, nó có mầu nâu.»
Ý nghĩ ấy lướt nhanh. Ông nhớ lại thời ở Paris, ông thường
gặp những bà lão rụng gần như hết tóc, phơi cái sọ đỏ hồng. Những bà già đã qua
từ lâu cái tuổi còn xúc động hay ham muốn ; cũng không đủ khả năng để làm bất
cứ việc gì hữu ích nên suốt ngày họ chậm rãi dạo bước trên hè phố hoặc thơ thẩn
quanh công viên, quanh các bồn phun nước để ngắm cây cối hoặc cho chim ăn. Họ
luôn luôn đội mũ vải hoặc mũ len, chỉ những ngày quá đỗi nóng nực, họ mới lột
những tấm lá nguỵ trang xuống, và thiên hạ mới nhìn thấy cái đầu trơ trụi thảm
thương của họ : Dấu vết tuổi già, bản án bất khả kháng của thời gian !
« Người đàn bà này còn trẻ, cớ sao cô ta lại rụng tóc nhanh
như vậy ? Có thể do khí hậu rừng, do ăn nước suối, do cuộc sống gian lao. Nhưng
những điều kiện tồi tệ ấy được phân phát chung cho tất cả. Tại sao những người
đàn bà khác vẫn có quyền « phơi mớ tớc dài óng ả », nói theo giọng văn vẻ của
một thi sĩ loại ba ?»
Nhưng lúc ấy vị khách đã vượt qua nấc thang cuối cùng, ngẩng
đầu lên. Bắt gặp ánh mắt của ông, toàn thân cô ta đột nhiên co rúm. Từ đôi vai
hẹp cho đến cặp đầu gối củ lạc đều khép lại trong cơn ngượng ngùng. Không hiểu
sao, chính ông cũng ngượng ngùng khi chứng kiến sự sợ hãi không thể che giấu
của người đàn bà, và cảm thấy cuộc gặp gỡ này gần như một hành vi tàn nhẫn.
- Thưa chủ tịch...
Môi cô ta lật bật mãi mới buông ra mấy lời ấp úng.
Ông vội đáp :
- Mời cô vào nhà chơi.
- Dạ...
Người đàn bà đáp trong hơi thở hổn hển. Vừa vào nhà, cô ta
vội vàng gỡ chiếc túi dết trên vai mắc vào tay ghế, rồi đặt mớ chiếu và chăn
vẫn cắp dưới nách xuống sàn. Ông liếc nhìn, thấy ngay một chiếc gối trắng, kẹp
giữa một chiếc chăn bông đơn trấn thủ, cả hai được bó gọn trong chiếc chiếu cá
nhân, quấn nhiều vòng dây dù :
« Sợi dây kia sẽ được dùng để treo màn cho chủ nhân sau khi
hoàn thành nhiệm vụ. Ắt hẳn tổ chức đã dặn dò cô ta một cách kĩ lưỡng rằng phải
mắc chiếc màn ở chái nhà phía trước, nơi được che chắn bởi những tấm mành tre
rộng, thả từ áp mái xuống tận sàn. Ở đây, không có chiếc gối thứ hai, không có
chiếc chăn thứ hai, không có chỗ dành cho người thứ hai. Thế nên cô ta phải ôm
theo đủ thứ. Sự chuẩn bị chu đáo, gọn gàng như tiểu đội đột phá khẩu chuẩn bị
bộc phá trước lúc công đồn. Tội nghiệp. »
Ông thầm nghĩ, hình dung cảnh người đàn bà ôm mớ chăn chiếu
kia lội qua con suối, vượt qua hai quả đồi :
- Cô mới đi đường, hãy ngồi nghỉ đã.
Ông nói, đoạn đi pha ấm trà mới. Nước đun từ ba giờ chiều
không còn đủ độ nóng nên những lá chè nổi lềnh phềnh. Ông phải lắc hồi lâu,
nước mới ngả sang màu vàng nhạt :
- Mời cô uống nước. Tôi vừa nhận được đường phèn dân gửi
cho.
Ông lấy chiếc bình thuỷ tinh đựng đường phèn Quảng Ngãi, đặt
lên bàn :
- Cô ...cô...
- Thưa chủ tịch, em tên là Thu, Minh Thu, bởi bên hội còn có
chị Bích Thu nữa.
- A... Hoá ra bên ấy còn cô Bích Thu nữa.
Ông nhắc lại một cách máy móc trong khi cố lục tìm trí nhớ
xem đã từng gặp những nữ đồng chí tên Thu lần nào chưa nhưng tuyệt nhiên không
tìm thấy dấu vết. Trong lúc ấy, người đàn bà uống trà. Cô ta có vẻ khát thật sự
sau một đoạn đường tuy không phải là quá dài song so với sức vóc cô ta hẳn đã
là một cố gắng. Cổ tay cô ta vừa nhỏ vừa gầy giống cổ tay đứa bé, cần cổ cũng
phơi những sợi gân dài một cách bối rối vì không thể giấu giếm dưới chiếc cổ
sơ-mi cánh nhạn màu xanh lơ. Khi cô ta ngồi trước mặt ông, ông càng thấy rõ lớp
tóc mỏng dán vào da đầu, để lộ ra những vệt nâu nhạt. Da cô cũng có mầu nâu,
nhưng không phải thứ da bánh mật mà dân gian ca tụng « Da bánh mật, quật chết
trâu ». Da cô vừa nâu vừa tái, thứ da thiếu hồng cầu.
Ông không dám nhìn cô lâu, biết cô đang run như giẽ, còn
ông, con tim ông tràn ngập nỗi ngao ngán lẫn lòng trắc ẩn. Trắc ẩn cho ai ? Có
lẽ sự thương hại này dành cho cả hai phía, người phụ nữ tội nghiệp kia và cho
chính ông. Cuộc sống quả là trò đùa tàn nhẫn. Một lớp tuồng bất khả dò đoán.
Hoặc là một tai nạn giao thông ?
Quay mặt ra phía cửa sổ, ông nhìn ánh tà dương đang chuyển
sang màu tím nhạt , cất tiếng bâng quơ :
- Bên hội phụ nữ có trồng được nhiều rau không ?
- Báo cáo chủ tịch, vườn của chúng em có đủ loại : Rau cải
xanh, cải cúc, bắp cải , su hào. Cà tím lẫn cà chua năm nay tốt lắm.
Người đàn bà tội nghiệp túm được câu hỏi vơ vẩn ấy như kẻ
đang lạc đường tìm thấy lối ra. Cô ta đáp một cách hào hứng, lưu loát.
- Thế a ? Các cô khá thật.
- Dạ. Các chị lãnh đạo giỏi xoay sở lắm. Chúng em phải cử
người xuống tận vùng ráp ranh mua hạt giống rau.
- Thế cô có xuống vùng giáp ranh lần nào không ?
- Thưa chủ tịch...
Cô ta ngước mắt nhìn ông với nỗi hoảng loạn, và tức khắc ông
nhận ra sai sót không thể tha thứ của mình. Người được cử xuống vùng giáp ranh,
hoặc luồn vào vùng tạm chiếm phải là những người đầy năng lực, ngoài sức khoẻ,
sự tháo vát, trí thông minh còn cần đến một ngoại diện hấp dẫn. Đấy là những
tiêu chuẩn bất khả đối với người đàn bà đang ngồi co ro trên chiếc ghế mộc
trước mắt ông :
- A, tôi hỏi thế thôi. Tổ chức có phân công mới đi được.
- Vâng.
- Tất thảy chúng ta đều phải phục tùng mệnh lệnh của cách
mạng, và sự phân công của tổ chức.
- Vâng ạ.
- Cô Thu...
Chỉ chút xíu nữa là ông buông ra một câu hỏi ngu ngốc :― Cô
Thu bao nhiêu tuổi nhỉ ?..
Ấy là bởi trong đầu ông đang còn dội lên những câu hỏi
thường trực đối với đám nhi đồng: ― Cháu Hồng mấy tuổi nhỉ ? Lại đây nhận kẹo
rồi chia cho các bạn; hoặc là :― Cháu Thanh lên mấy nhỉ ? Nhận quà rồi có để
dành cho bố mẹ hay không ?Hoặc là :― Cháu Quý năm nay lớn vọt lên đấy, lại đây
múa bài con Công cho các chú các bác xem nào.
Những câu hỏi ấy đang còn đóng đinh vào óc não ông bởi chủ
nhật trước, ông vừa sang phát kẹo cho lũ trẻ. Chủ tịch hắng giọng giả như một
cơn ho làm tắc nghẽn câu nói :
- Cô Thu.....Cô Thu có thường xuyên nhận được tin nhà hay
không ?
- Dạ. Nhà em chẳng còn ai ngoài người chị ruột. Nhưng chị ấy
đã theo chồng sang đất Thái làm ăn lúc bố mẹ em chết nên không liên lạc được.
Đối với em, cách mạng là gia đình.
- Tốt. Cách mạng là gia đình lớn , là mái nhà chung của tất
thảy chúng ta.
Ông đáp. Tự thấy mình nhạt nhẽo. Những lời lẽ sáo mòn nhất
mà đã từ lâu ông không còn dùng nữa, ngay trong những cuộc họp với đám cán bộ
tuyên huấn. Chúng giống bã rau, bã đậu được nấu lại, thứ thức ăn dành riêng cho
bò hay lợn. Nhưng người đàn bà lại tỏ vẻ hài lòng. Cô ta ngước nhìn ông, chớp chớp
đôi mắt, chẳng rõ để làm duyên hay để biểu thị sự hoan hỉ :
― Cô ta chẳng những xấu mà còn có bộ điệu của một kẻ ngu
ngốc. Chắc chắn trong đầu cô ta không có mảy may một ý tưởng nào, ngoài những
gì được người khác nhồi nhét cho..
Chân tay ông bỗng rã rời :
― Ta sẽ phải ôm người đàn bà kia hay sao ? Trong một khoảnh
khắc nữa ta sẽ phải thực hiện những hành vi tình ái với cô ta ? Điều ấy sẽ
không tránh khỏi. Ta cần giải phóng cơ thể khỏi những dồn nén. Ta cần phải giữ
trí óc minh mẫn vì cuộc kháng chiến còn lâu dài. Như thế, không có cách gì hơn
là phải tiêu diệt những ước vọng của một người đàn ông bình thường. Phải chôn
vùi thế giới cảm giác vì ta là hiện thân của tinh thần trách nhiệm. Việc của ta
là cáng đáng gánh nặng giang sơn. Nếu thời xưa, đã có kẻ vì trách nhiệm với non
sông phải kết hôn với Chung Vô Diệm thì giờ đây, ta cũng phải noi gương cổ nhân
mà hành sự.
Nhưng khi mớ lý giáo ấy chấm dứt, tinh thần ông vẫn không
mảy may suy xuyển. Ngay cả thứ mà người thường gọi là dồn nén, bình thường vẫn hiển
hiện, nhưng lúc này lại biến mất tăm.
― Thật lạ lùng. Bỗng nhiên ta chẳng còn một chút xung năng
tình dục. Hoàn toàn rỗng không. Hoàn toàn vô cảm.
Ông biết gã đàn ông nơi bản thể của ông vô cùng cường tráng,
và nhu cầu tình dục của gã lớn hơn mức bình thường. Nhiều lần, ông nói thẳng
với đám đàn em :
― Tôi chỉ là Cha già từ đỉnh đầu xuống rốn. Còn dưới rốn,
tôi vẫn là Anh.
Câu nói ấy được truyền đi như một giai thoại.
Tuy nhiên....Tuy nhiên...
Đứng trước người phụ nữ này, bỗng nhiên cái phần dưới rốn
của ông cũng hoá thành Cha già nốt.
Ông sửng sốt :
― Tồi tệ thật. Kim đồng hồ chỉ số sáu. Đó là điều mà chẳng
ai ngờ đến. Khi ta sống một mình, nó vẫn hung hăng lồng lộn như con ngựa chiến,
vậy mà giờ đây nó lại chụm bốn vó đầu hàng. Kì quái. Chẳng lẽ người đàn bà kia
có khả năng tiêu diệt tình dục của bất cứ đối tượng nào trước mặt cô ta ?
Ông thầm hỏi.
Lời giải đáp đến ngay tức khắc :
―Điều ấy chẳng cần hồ nghi. Nếu không, ắt hẳn cô ta đã có
chồng. Trên chiến khu, đàn ông đông gấp mười lần đàn bà. Người phụ nữ có quyền
chọn bạn tình chứ chẳng phải đàn ông có quyền kén vợ. Rõ ràng là khả năng huỷ
diệt ái tình của người đàn bà này rất lớn. Phải chăng đó là cái cớ mà họ chọn
cô ấy cho ta ?
Bỗng nhiên, ông giận dữ. Những ý nghĩ rời rạc nện từng nhát
búa lên sọ ông:
― Lũ người này tồi tệ thật,
Lý do nào cho phép chúng hành xử với ta như thế ?
Quyền năng nào khiến chúng áp đặt với ta một sự đã rồi.?
Máu dồn lên mặt khiến ông có cảm giác nóng bức. Ông vội rót
một chén trà, uống từng ngụm nhỏ, để ghìm cơn giận, thói quen đã có từ lâu.
Trong lúc ấy, cô Minh Thu đã uống cạn mấy chén liền, đang ngồi chờ đợi với vẻ
nhẫn nhịn của một con chó chầu ngoài sân nhà chủ. Cơn giận dữ khiến ông quên
phắt sự hiện diện của người đàn bà bé nhỏ, dúm dó dưới tấm sơ-mi xanh lơ. Cơn
giận dữ khiến ông sải những bước dài quanh phòng, tách trà trên tay, mắt nhìn
thẳng vào khoảng không gian thù nghịch. Rồi khi ông chợt nhận ra sự bất nhã của
mình, ông vội vã quay lại :
- Xin lỗi cô Thu nhé. Tôi đang có nhiều việc phải nghĩ.
- Dạ....Thưa chủ tịch....
Cô ta đáp lí nhí, mặt cúi gằm.
Ông đặt chén trà xuống bàn, kéo ghế ngồi sát người đàn bà :
- Tôi xin lỗi ...Thu nhé....
Ông cố tình xưng hô một cách thân mật. Nhưng chính lúc ấy,
con tim ông lại sôi lên vì một cơn cuồng nộ bất thần:
― Tại sao ta phải diễn màn tuồng thảm hại này ? Tại sao ta
không nói thẳng cho cô ta biết rằng bộ máy sinh dục của ta giờ đây trở thành vô
năng vì nó bị uy hiếp ? Rằng chính cô ta đã tiêu diệt mọi ham muốn nơi người
đàn ông. Rằng bất cứ gã đàn ông nào cũng sẽ trở thành kẻ liệt dương hoặc tâm
thần khi phải lên giường với cô ta ...
Nhưng trong lúc óc não ông sôi sục những lời rủa xả thì vẻ
mặt ông lại nhu thuần như mặt kẻ ngồi thiền, và ông hạ giọng ngọt ngào :
- Tôi thật lòng xin lỗi Minh Thu. Hôm nay, người tôi khó ở.
Có lẽ tôi bị sốt từ chiều qua mà chưa kịp uống thuốc.
- Dạ ...thưa....
Người đàn bà lúng búng đáp, mặt càng cúi gằm xuống. Bất
chợt, những giọt nước mắt lã chã theo nhau chảy trên sống mũi cô ta. Cô Minh
Thu giơ tay áo quệt. Ông vội vã đứng lên, định bụng tìm một tấm khăn tay sạch
cho cô. Nhưng rủi thay, chiếc khăn tay duy nhất còn khô ông đang dùng. Những
chiếc khác ngâm xà-phòng trong chậu. Ông đành đứng im lặng nhìn người đàn bà
tội nghiệp mỗi lúc mỗi nức nở một cách hờn tủi. Vì chẳng mang theo khăn tay, cô
cúi xuống, lôi trong túi dết ra một chiếc áo lót, chắc hẳn là áo ngủ, để lau
mũi.
― Ta chưa từng gặp người đàn bà nào vô duyên đến thế.
Ông thầm nghĩ, khi nhìn những giọt nước mắt lăn dọc theo
sống mũi cô Thu. Một cái mũi nhỏ, đã hớt lại vẹo đầu. Sự lệch lạc của số phận.
Đối với người phương Đông tin vào nhân tướng học, cái mũi vừa tượng trưng cho
sự nghiệp vừa tượng trưng cho kẻ hôn thú. Người đàn ông nào có cái mũi lệch vẹo
ắt hẳn phải lấy thứ đàn bà đần độn, xấu xí hoặc nếu có vài phần nhan sắc thì
chỉ là cô đầu, con hát hay gái chuộc từ lầu xanh. Người đàn bà nào có cái mũi
lệch vẹo sẽ chẳng thể kiếm được tấm chồng, hoặc nếu có, ắt chẳng phải đấng lang
quân tử tế :
― Chắc chắn ta không thể là đấng lang quân tử tế của cô Minh
Thu được. Chẳng có đức ông chồng tử tế nào có thể nhìn vợ như nhìn một chiếc
bắp cải bầy trong gian hàng thực phẩm như ta lúc này. Những bức tranh tĩnh vật
còn khiến ta muôn phần cảm động hơn.
Thời trước, mỗi khi bước chân vào bảo tàng Louvre, ông cảm thấy
một mối xúc động lạ lùng khi đứng trước những bức tranh, cho dù ông chẳng được
học hội hoạ.
― Nhưng người đàn bà này....quả tình là nỗi bất hạnh, cho
chính cô ta và cho ai sẽ phải lên giường với cô ta. Những người khác, có thể lỗ
mãng, hung bạo. Có thể ngang ngược, cương cường. Có thể nhu thuận, hiền dịu.
Nhưng họ đều toát ra mùi của đàn bà, họ gợi cho người đàn ông niềm hứng khởi.
Nếu chẳng phải những đam mê cháy bỏng thì cũng là mối cảm tình nồng ấm. Lỗ mãng
như cô thợ khâu mũ, cũng có những dáng nét để người ta xếp cô ta vào phái nữ.
Ông ngẫm nghĩ.
Cô thợ khâu mũ có mớ tóc dầy như bờm ngựa, màu vàng rơm. Khi
cô ta thả tóc, tấm lưng được che kín bởi một thác vàng óng ánh. Ông đã từng
vuốt ve mớ tóc ấy, tò mò ngắm những sợi tóc loăn xoăn mảnh hơn cả tơ tằm. Một
lần, sau cuộc làm tình ông trở về gian gác xép, bất ngờ tìm thấy trong vạt áo
mấy sợi tóc của cô. Táy máy, ông thử lấy một sợi buộc vào chiếc đồng hồ quả
quýt, rồi đung đưa như đung đưa con lắc, hoàn toàn không ngờ rằng sợi tóc mảnh
mai ấy lại có thể treo được một vật nặng hơn nó cả ngàn lần.
Rồi một gương mặt khác, một gương mặt kiêu ngạo với đôi mày
xếch quay về. Con tim ông bật lên tiếng chào thầm kín:
― A, chào em...cố nhân.
― A...đó là nàng, người đồng chí!
Người đàn bà đưa mắt nhìn ông đầy hăm doạ, rồi đột ngột cô
ta phá lên cười.
Ông mỉm cười theo, vì những cử chỉ ấy đích thực là của cô,
người đã từng khiến con tim ông điên đảo, dẫu sự điên rồ ấy cũng chỉ là một cơn
sốt chóng qua :
― Chào em, người thân mến, đồng chí thân mến.
Bởi cô đích thị là đồng chí, theo đúng ý nghĩa danh từ chỉ
những ai cùng bước chung trên một con đường, theo đuổi chung một mục đích.
Gương mặt vuông, tia nhìn vừa quyết liệt vừa thách thức, lời lẽ nảy lửa, thói
quyết đoán gần như bạo chúa, tất thảy những nét nổi bật trong tính cách cô, mẫu
người tiêu biểu của cách mạng. Cách mạng gầm thét trên hành tinh này bởi có
những con người như cô. Những cá thể vừa sáng suốt vừa mù loà, bởi tất thảy sự
hăng hái, cuồng nhiệt của họ bị dẫn dắt bởi cảm hứng chiến thắng, cảm hứng chủ
đạo của các kiếm sĩ thời xưa khi dấn thân nơi trận mạc. Cảm hứng chiến thắng
này là thứ ma lực đưa dẫn họ suốt cuộc hành trình, và họ dấn thân trên mọi nẻo
đường tranh đấu, đinh ninh rằng cuộc dấn thân của họ là vì một mục đích chung,
nhưng thực chất họ chỉ đi tìm cơ hội làm dịu bầu máu sôi sục của tuổi trẻ, để
thoả mãn cơn khát quyền lực, cho dù họ vẫn mượn những mục đích chung để biện
minh cho hành động của mình.
― Thôi, không bàn cãi nữa, tôi cho rằng đã đến lúc quyết
định.
― Thôi, không lý lẽ dài dòng. Cách mạng đang chờ chúng ta.
Giờ là lúc lên đường!
Ông nhớ cách nói nhát gừng của cô, thường là lời cuối cùng
của cuộc họp vì những người đàn ông không muốn tranh cãi khi hai má cô đã đỏ
rực lên và đôi mắt long lanh giận dữ.
Trong cuộc sống chung ngắn ngủi của họ, cô cũng thường cắt
ngang lời ông khi bực tức, với thái độ độc đoán hệt như vậy. Ông nhớ cách cô
vung tay lên để biểu thị quyền uy tối thượng của mình, cách cô chồm đến hôn ông
thay một lời xin lỗi khi nhận ra mình sai. Và cách cô làm tình. Bao giờ cô cũng
là người đi trước, và cô thường cưỡi lên ông với vẻ khoan khoái của một kị sĩ
lành nghề trên lưng con tuấn mã trung thành .
― Ồ, ngay cả với cô ấy nữa, ta cũng tìm thấy những nét đáng
yêu. Khi cô ấy bực tức mím môi lại, nốt má lúm đồng tiền hiện lên khiến cho
những lời lẽ áp đặt kia hoá thành trẻ thơ và ta không thể phản kháng. Sau khi
tuyên bố những lời lẽ quá khích hay bày đặt ra những chương trình bạo động, cô
ấy biết cách rút lại các ý kiến sống sượng của mình bằng cách phá lên cười. Nụ
cười thành thực ấy vừa như tự riễu cợt mình vừa như để xin lỗi người khác và
sau rốt, xí xoá đi mọi chuyện.
Trong lúc ông chìm đắm với những hồi ức, cô Minh Thu đã nén
được cơn nức nở. Cô ngồi thẳng lưng lên, môi mím chặt. Gương mặt cô không còn thảng
thốt hay sợ hãi mà trở nên lầm lì. Bàn tay cô vẫn giữ khư khư chiếc áo lót, đã
bị vo viên thành một nắm và chắc chắn ướt đầm nước mắt. Không nhìn ông, cô nhìn
thẳng vào bức tường đối diện được dựng thuần bằng gỗ.
Lúc đó, bóng tối bắt đầu tràn ngập. Chủ tịch chợt sực tỉnh,
lên tiếng:
- Cô Minh Thu đã bình tâm chưa ?
- Thưa chủ tịch, tôi đã bình tâm.
- Tốt lắm. Chờ tôi thắp đèn. Như thế, chúng ta sẽ thoải mái
hơn.
- Vâng.
Ông hơi ngạc nhiên vì giọng nói của cô thay đổi. Nó có vẻ
rắn rỏi, dứt khoát thậm chí bất cần đời. Ông thắp một lúc hai ngọn đèn, đặt lên
bàn :
- Cô Minh Thu đã muốn đi ngủ chưa ?..
- Thưa chủ tịch, giờ ngủ của tôi là tám rưỡi.
- Tốt lắm. Tôi có thể tìm ra thứ gì đó để đãi khách bây giờ.
Ít ra, tối nay cũng là tối thứ bẩy.
Ông đi tìm thứ gì đó khả dĩ đãi khách, nhưng trong tủ của
ông chẳng có gì hơn ngoài thuốc lá, và hộp sữa Con chim.
Trong khi ông đi đục hộp sữa, cô Minh Thu đã ra đầu hồi lấy
thêm củi chất vào bếp lửa. Lúc nhìn thấy người đàn bà ôm mớ củi quay vào, lòng
ông chợt nhen lên một mối động tâm. Một thứ tình cảm phức tạp và mơ hồ tràn
ngập tâm hồn ông. Có lẽ đó là sự thương cảm, nỗi buồn, niềm hoài nhớ những hạt
mầm hạnh phúc vừa nẩy nở đã nhanh chóng chết thiêu chết rụi trong một cuộc sống
lênh đênh , đầy biến động và gian khổ. Cũng có thể đó là sự thấu hiểu cõi
người, sự thông cảm trước tha nhân, kẻ cũng bị kết án chung thân bất hạnh như
ông, dẫu rằng nguyên cớ khác nhau.
Hoặc có lẽ ....bởi sương đêm bắt đầu toả vào không gian hơi
lạnh. Cảm thức về nỗi mịt mù của trời đất đã khơi dậy những mù mịt trong cõi
tâm linh ? Có lẽ, và có lẽ...
Ông không còn biết nữa, nhưng khi người đàn bà khom lưng
xuống chất củi vào bếp, đoạn vươn cần cổ gầy gò ra thổi lửa khiến những đốm
than hồng bay tứ tung, ông bỗng thấy thương cô ta như thương một kiếp đoạ đầy.
Ông đưa cốc sữa cho cô Minh Thu và nói :
- Cô uống sữa đi. Rồi tôi đưa đèn cho mắc màn. Hy vọng rằng
lần sau, tôi hết sốt, tình hình sẽ khá hơn.
Lần sau, ấy là thứ bẩy tuần sau.
Ông trở về sau một quãng đường dài khảo sát địa hình chiến
dịch. Quần áo ông lấm lem bụi đường. Mồ hôi đọng khiến da râm ran ngứa ngáy.
Lần ấy nữa, ông cũng quên rằng đây là ngày thứ bẩy, cái mốc thời gian quy định
để có một người đàn bà đến phục vụ ông dưới danh nghĩa phục vụ cách mạng. Thành
ra, khi đặt chân lên cầu thang bập bùng ánh lửa, ông thốt lên tiếng hỏi :
- Cậu nào trên ấy đấy ?..Sao đốt lửa sớm làm vậy ?
Không ai trả lời.
Cậu cần vụ ghé tai ông, thì thầm :
- Có lẽ đó là người bên hội phụ nữ.
- A...
Ông sực nhớ . Cậu cần vụ hỏi luôn :
- Con có cần ở lại chuẩn bị nước tắm không ạ ?
- Có chứ.
Ông đáp thẳng thừng vì cậu ta vẫn chuẩn bị nước nóng cho ông
tắm từ lâu nay. Chiếc nồi đun nước khá to, bằng đồng nặng chịch, và thùng gỗ
chứa nước cũng rất lớn, tay trai tráng mới có thể vần đi vần lại. Sau hai ngày
đi đường, được tắm sạch sẽ, được thay đồ mới đối với ông là hạnh phúc. Một hạnh
phúc bé nhỏ, song le vẫn là hạnh phúc.
Khi họ vào nhà, cô Minh Thu đã ngồi bên bếp, hí hoáy đan.
Cái tư thế tuyệt đối cổ điển của một người vợ chờ chồng. Ông cảm thấy vừa hẫng
hụt, vừa khó chịu nhưng vẫn phải tươi cười đáp lại lời chào của người đàn bà.
Cậu cần vụ săm sắm bước vào gian nhà tắm, đoạn quay ra :
- Thưa chủ tịch, đã có nước nóng trong đó. Bây giờ, con chỉ
lo chuẩn bị quần áo cho người là xong.
- Cảm ơn.
Ông quay lại hỏi người đàn bà :
- Chiếc thùng cao thế, làm sao cô vần nổi ?
- Dạ, em làm được.
- Cảm ơn...Nhưng lần sau cứ để cho cần vụ làm. Cậu ấy còn
đang tuổi bẻ gẫy sừng trâu.
- Thưa vâng.
Ông bước vào phòng tắm, trút bộ quần áo đầy bụi lẫn mồ hôi,
bất giác buông tiếng thở dài. Ngoài kia, cậu lính trẻ đã rút lui, tiếng chân
bước trên cầu thang vọng lại. Khi cậu ta đã đi xa, chỉ còn lại là tiếng lửa
reo, tiếng nhựa gỗ sôi bọt xèo xèo và tiếng than nổ lép bép. Trong cái không
gian quen thuộc của ông, lâu nay chỉ mình ông ngự trị giờ có một người đàn bà
xa lạ đang ngồi gẩy từng mũi len. Điệu bộ lóng ngóng kia chứng tỏ cô ta chưa
bao giờ cầm kim đan, và đây là bài học vỡ lòng nữ công của mấy chị lãnh đạo. Họ
dàn cảnh. Đạo diễn nghiệp dư và diễn viên đặc biệt tồi. Ông thấy tội nghiệp cho
họ, cho cô Minh Thu, cho chính ông.
― C’ est la vie. Toujour meme comédie !
Gáo nước đầu tiên bất cẩn dội vào mắt khiến mắt ông cay xè.
Ông vội lau mắt bằng chiếc khăn khô, tự nguyền rủa mình lơ đễnh. Rồi chờ cho
cơn đau dịu đi, ông mới tiếp tục tắm, vừa tắm vừa nhớ lại lời hứa với người đàn
bà. Có vẻ như tình hình không sáng sủa hơn. Nhất là sau một chặng đường dài mệt
nhọc :
« Gay go thật. Số phận không mỉm cười với cô ta. Người đàn
bà này sinh ra vào giờ nào mà xúi quẩy đến như vậy ? »
Ông thầm nghĩ. Và một nỗi sợ hãi thực sự khiến ông hốt hoảng
:
« Nhưng ta không thể đẩy cô ta vào sự tủi nhục đến hai lần.
Dẫu sao cô ta cũng là một con người, một người đàn bà. Sự nhục nhã có thể buộc
con người tìm đến cái chết ... »
Thời trẻ, ông đọc không ít những chuyện hậu cung. Ông thuộc
không ít những cái chết bởi chén vàng đựng thuốc độc, bởi đoản đao cắt họng,
hay lụa trắng treo thây lơ lửng trên lầu. Từ hoàng hậu, phi tần , tới cung phi,
nữ bộc...biết bao người đàn bà đã tìm cái chết để rửa mối nhục thất tình ...Mà
đa phần họ đều là những mỹ nhân. Cô Minh Thu chẳng phải là mỹ nhân, đã đành,
nhưng lại nhận sứ mạng « phục vụ cách mạng ». Mặc cảm ắt sẽ tăng lên theo cấp
số nhân. Chẳng cần giầu trí tưởng tượng cũng biết rằng sau buổi tối thứ bẩy
tuần trước, cô đã phải thú nhận với cấp lãnh đạo : « Báo cáo, tôi chưa hoàn
thành nhiệm vụ được giao phó. ». Các bậc liền chị đã họp bàn, tìm biện pháp
giúp đỡ đàn em suốt một tuần lễ. May mắn cho họ là ông đi khảo sát địa hình
chuẩn bị chiến dịch nên họ có cơ dàn cảnh : « Nàng chuẩn bị nước thơm cho chàng
tắm và ngồi đan bên bếp lửa... ».
Thật tội nghiệp cho kiếp người !
Nhưng cho dù than thở cho ông hay cho cô ta, ông vẫn không
quên rằng lát nữa, ông sẽ phải « động phòng », theo lối nói cổ. Mà cái phần
dưới rốn của ông vẫn chưa chịu ngẩng đầu lên. Nỗi lo thất bại chen lẫn nỗi lo
sợ trước những phản ứng có thể xảy ra đối với kẻ bị làm nhục khiến ông mất bình
tĩnh. Nhưng chính lúc ấy, những thao tác của sự kì cọ đem lại cho ông giải pháp
xưa cũ nhưng luôn luôn hiệu nghiệm. Ông tự ve vuốt mình. Trong bóng tối, chỉ có
ông với ông thôi. Những động tác quen thuộc giúp cho ông trở nên cân bằng và
bình tĩnh. Ông mường tượng lại người đàn bà dâm dục nhất ông từng gặp trong
đời, cô nàng mắt xếch. Ông mường tượng cảnh cô cưỡi trên bụng ông, da thịt cô,
hơi thở của cô , mái tóc đen óng như than xoã trên vầng trán, lấp lánh dưới ánh
đèn..
Và tuổi trẻ của ông quay trở lại...
*
Tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi khiến ông giật mình, bừng
tỉnh cơn suy tưởng. Ông định đứng lên nhưng cậu cần vụ đã chạy vụt vào phòng,
nhấc máy :
- Thưa chủ tịch, thủ trưởng Vũ.
- Cảm ơn, cậu để đó cho tôi.
Ông cầm ống nói áp lên tai, nghe hơi thở khúc khắc ở bên kia
đầu dây :
- Chú làm sao vậy ? Viêm phế quản à ?
- Không, em vừa bị cảm chiều qua.
- Cẩn thận. Dẫu chú trẻ hơn tôi nhiều, nhưng cũng đã qua
tuổi tráng niên. Chớ đùa với Tạo hoá.
- Em biết. Anh Cả có khoẻ không ?
- Bình thường. Sau khi chú về, tôi cho người mang thêm ít
tiền phúng gia đình tiều phu. Họ chuẩn bị phong bì quá sơ sài.
Ông nghe tiếng cười của Vũ bên kia đầu dây, rồi tiếng đáp :
- Chúng ta luôn luôn quên những tiểu tiết. Chúng ta luôn
luôn lơ đãng trước những con tính cụ thể. Nhưng chính các thứ tiểu tiết, và
những bài tính tầm thường kiến tạo nên đời sống.
- Nhất trí. Dạo này chú có khuynh hướng trở thành triết gia
của chủ nghĩa thực nghiệm. Liệu chú có tính chuyển sang ban tuyên huấn hay
không ?
- Ấy chớ.
Ông nghe Vũ cười phá lên với vẻ riễu cợt quen thuộc :
- Ấy chớ, xin anh Cả tha cho em.
Ông cũng cười, và tức khắc chuyển đề tài :
- Hà nội thế nào ?
- Ngày mai sẽ có gió mùa đông bắc. Anh đừng quên trời sẽ còn
rét khá lâu.
- Tôi không quên : Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc,
tháng ba là rét nàng Bân.
- Vâng. Chính thế nên em phải gọi điện cho anh. Gió bấc về,
trên ấy sẽ rét trước. Anh chớ đi dạo trong rừng, bất thần mưa ập xuống dễ bị
cảm hàn.
- Tôi sẽ nhớ.
- Em phải đi ngay bây giờ. Họ vừa báo có cuộc họp đột xuất
trong văn phòng trung ương, kèm theo bữa ăn tối...Chắc ăn xong sẽ họp luôn...
Anh Cả nhớ giữ gìn.
- Chú cũng vậy. Cho tôi gửi lời thăm cô Vân. Chú thật may
mắn có được cô ấy, vừa đẹp người vừa đẹp nết.
- Ô....cảm ơn anh.
Vũ đáp với giọng chế riễu ông chưa từng biết đến và nhắc lại
bên kia đầu dây nói :
« Anh Cả gửi lời khen ngợi em, bậc kì nữ đẹp cả người lẫn
nết. »
Rồi tức khắc, người đàn em quay lại nói với ông :
- Em đi đây.
Ông nghe tiếng dập máy khá lạ lùng bên kia đầu dây. Một mối
ngờ vực lướt qua. Nhưng ông không thể giải đoán.
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (2)
Hà nội trở rét. Gió mùa đông bắc lại về.
Những hàng cây thẫm lại trong giá buốt và mặt hồ Tây xao xác
muôn triệu lằn sóng. Rặng bằng lăng ven hồ tím màu tím cô liêu. Người đi đường
hối hả bước thật nhanh qua đường Cổ Ngư, vì ngại những cơn gió mênh mông tung
hoành trên mặt nước. Nhưng ngay lúc đó, những cặp tình nhân vẫn ngồi tình tự
ven hồ, mặt quay về hướng gió.
Vũ đưa mắt liếc nhìn họ và thầm nghĩ :
« Nào ai biết những kẻ đắm say kia sẽ sống được bao lâu cơn
mơ tình ái ? Nào ai biết năm nào, tháng nào, ngày nào họ sẽ phải khóc hối tiếc
vì cơn say đắm hôm nay ? »
Những cặp trai gái co ro ôm nhau trong những tấm áo mưa
trong suốt, một thứ thành trì quá mong manh để chống lại gió lạnh tháng hai. Đi
hết đường Cổ Ngư, ông tìm một quán nước chè chén, loại quán nước bình dân « một
thứ tư thương » cỏn con thảm hại được phép hành nghề trong nền kinh tế triệt để
nhà nước hoá. Quán chè này được che chắn bởi những tấm pan-nô cũ nát, dán chằng
chịt nhật báo cũ. Nồi hãm chè xanh được ủ trong chiếc dành lớn, lót rơm. Chén
sành sứt mẻ, cáu đen cắn chè, đặt lộn xộn trên một chiếc khay lớn, cũng bẩn
thỉu không kém. Nhưng dường như hình dạng cùng khốn và bần tiện lại thích ứng
với cái xã hội ông đang sống. Bởi nó không gợi nên sự ghen tuông. Bởi nó chỉ có
thể gợi nên sự thương hại hoặc ghê tởm. Những thứ được coi là bệnh hoạn hay
đáng sỉ nhục trong một xã hội phồn vinh lại tương thích với xã hội này. Đã từ
lâu, những ngờ vực đó day dứt ông.
- Dựa xe vào cột đèn và khoá lại. Cẩn trọng là mẹ thành công.
Một giọng sỗ sàng, đầy trịch thượng vang lên. Hoá ra ông lão
bán chè chén đã nhìn thấy vị khách lạ nên cất tiếng chỉ dẫn :
- Bác không nhìn thấy chiếc cột đèn kia hay sao ? Để xe ở
đấy tôi mới trông được.
Vũ ngẩng lên nhìn quanh quất một hồi mới nhận ra cây cột đèn
đứng bên kia đường, nhưng bị che chắn bởi một chiếc xe bò, chất đầy rau muống,
bó nào bó nấy dài thượt. Ông dắt xe sang bên kia hè, dựa sát vào xe rau muống,
rồi cẩn thận khoá lại.
Ông lão bán hàng chăm chú theo rõi mọi cử chỉ của ông, với
vẻ tò mò không đậy điệm. Rồi chờ khi ông bước vào quán, ngồi yên vị trên chiếc
ghế dài , tựa vào tấm pan-nô tránh gió, ông lão mới cất tiếng hỏi :
- Bác uống gì, chè xanh hay chè mạn. Hoặc muốn làm ly rượu
trắng, tôi cũng có.
Vũ ngạc nhiên :
- Quán nước chè cũng bán rượu ?
- Sao không ?
Ông lão hỏi lại với vẻ thách thức chen riễu cợt :
- Ông tưởng người ta chỉ cần chè mà không cần rượu ? Ông
tưởng hễ nhà nước cấm cái gì là người ta phải triệt tiêu thứ ấy hay sao ?
- Tôi không nghĩ đơn giản thế. Nhưng ...
Ông lão cất tiếng cười khà khà :
- Nhưng tôi thấy bác có vẻ tử tế nên mới nói vậy. Nếu là kẻ
khác, ắt tôi sẽ uốn lưỡi theo chiều khác.
Vũ cũng bật cười theo :
- Cảm ơn. Bác thấy tôi có vẻ tử tế thật sao ? Nhưng như thế
nào gọi là tử tế ?
- Người tử tế có nghĩa là họ không thuộc phường đểu cáng, họ
không thể làm những hành vi phản trắc hèn hạ...Ví như những kẻ đến đây lạy lục,
xin xỏ tôi bán rượu cho uống. Uống xong rồi, chưa kịp đái chúng đã đi báo công
an.
- Rồi sao ?
- Rồi sao ?
Ông lão lặp lại với nụ cười khẩy, đầy vẻ khinh miệt:
- Nhưng công an cũng thế thôi. Khối thằng quen uống rượu.
Giá rét thế này tợp một ngụm rượu còn ấm bụng hơn húp bát cháo mậu dịch loãng
như nước ốc. Thế nên có vờ vĩnh tịch thu bình rượu của tôi thì ba ngày sau cũng
phải trả lại. Có điều khi họ trả thì chỉ còn lại vỏ bình. Tôi tiếp tục gọi
người dưới quê đem rượu lên. Mọi sự lại như thường.
Nói tới đó, ông lão cúi xuống lôi từ dưới gầm chõng ra một
chiếc thúng phủ kín bao tải. Lật chiếc bao tải lên, ông chỉ cho Vũ chiếc bình
đựng rượu cổ lớn, men xanh ngọc :
- Ông đã nhìn thấy chưa ? Nếp cái hoa vàng loại thượng đẳng
nhé.
- Cái bình đẹp thật.
Vũ trầm trồ :
- Bình đẹp thế này chắc rượu ngon. Tôi phải xin một chén cho
ấm dạ.
- A ha....
Ông lão cất tiếng cười hào sảng khiến chòm râu rung lên bần
bật :
- Bình đẹp chưa chắc rượu đã ngon, cũng giống như tốt nước
sơn chưa hẳn là gỗ tốt. Nhưng rượu nhà tôi thì chắc chắn phải ngon.
Nói đoạn, ông cúi xuống, mở chiếc hộp gỗ lớn quai đồng, lấy
ra chiếc chén sứ sạch bóng, và rót một chén rượu đầy đưa cho Vũ :
- Nếm đi. Rồi sẽ biết thế nào là rượu !
Vũ cầm chén rượu, bâng khuâng. Chiếc chén sứ men lam vẽ
phượng, miệng bịt đồng này chính là loại chén xưa kia cha ông thường uống rượu.
Chiều chiều, sau khi chăm sóc vườn cây, cha ông đặt chiếc khay đồng nhỏ lên
sập. Trên khay, một bộ độc tửu, gồm một chén, một bình rượu nhỏ xíu và một đĩa
đồ nhắm. Cụ ngồi ngắm trời đất, nhâm nhi trong lúc chờ bữa cơm tối với gia
đình.
- Nào, nhắp thử xem tôi nói thật hay nói bỡn!
Ông già chủ quán giục. Vũ đưa chén rượu lên môi. Mùi thơm
của nếp cái thấm đượm vào khứu giác trước khi ông đụng lưỡi vào chất nước của
thần Lưu Linh. Mùi thơm ấy gọi đến hương thơm ngày mùa, thứ hương thôn dã nồng
nàn của cánh đồng thơ ấu, nơi những lượn sóng vàng tràn phủ lên mặt đất, vây
quanh những khuôn làng xanh thẫm luỹ tre, nuốt chửng những dòng mương lăn tăn
ánh bạc và ca hát rì rào trong gió. Những cơn gió ngày mùa, ngay chúng cũng tẩm
đượm hương thơm. Ông uống một ngụm rượu và cất lời khen:
- Tuyệt vời, tôi chưa từng uống loại rượu nào ngon như thế.
Ông lão hỉ hả :
- Tôi biết ngay mà, chưa một ai dám chê thứ rượu này. Chính
người làng tôi nấu đấy. Nhưng cả làng cũng chỉ riêng gia đình cụ cử Khái là đạt
đến mức sành điệu thôi.
- Ngon thật.
- Bao nhiêu đợt càn đi, quét lại. Hết du kích đến công an
bủa vây tịch thu đồ nghề ném xuống sông. Một nửa làng sạt nghiệp. Nhưng số còn
lại vẫn sống, sống chui sống lủi nhưng vẫn sống. Thiên hạ còn kẻ muốn uống
rượu, người nấu rượu ắt còn.
- Cụ nói thế mà không sợ hay sao ?
- Tôi đã bảo tôi thấy bác là người tử tế tôi mới nói thật.
Còn kẻ khác ắt tôi đổi chiều lưỡi. Cũng như thứ rượu này.
Nói tới đấy, ông cụ lại lôi ra một chiếc thúng khác chỉ cho
Vũ xem : Bên trong đó là một thùng nhựa cũ được rửa sạch và đựng rượu.
Vũ sửng sốt kêu :
- Chết nỗi, sao cụ lại đựng rượu bằng thứ thùng nhựa này,
như thế độc lắm ?
- Người nào của nấy. Với bác tôi mời rượu thượng hạng, uống
bằng chén phượng xanh. Với kẻ khác tôi chỉ bán thứ rượu này và uống trong chén
mẻ. Cổ nhân dạy ― Người ba đấng, của ba loài.
- Nhưng ...
- Xưa kia khác, thời nay phải khác. Bác không nhận ra rằng
cuộc thế đã lật nhào hay sao ? Tôi trưng bày bình đẹp, chén đẹp ra để lũ khốn
nạn tố cáo rằng tôi là thành phần nghi vấn, là phần tử chống đối cách mạng à ?
- Vâng, giờ thì tôi hiểu...
Vũ chậm rãi đáp, và một nỗi đau từ từ ngấm vào tâm hồn ông
cùng chất rượu :
― Nếu uống chén phượng xanh mà trở thành kẻ bị nghi vấn thì
chính cha ta cũng thuộc về những phần tử nghi vấn hay chống đối. May mà ông cụ
đã mất trước ngày bị cùm trói bởi cái cuộc cách mạng mà chính đứa con yêu đã
dấn thân vào.
Ông uống ngụm rượu cuối cùng, đưa trả chiếc chén cho ông
lão. Ông cụ tức khắc cất nó vào chiếc hộp gỗ, bởi lúc đó một người khách mới
bước vào.
- Rét quá, bố già ...cho chén rượu.
Người khách xoa tay, nói. Anh ta đứng chứ không ngồi, chiếc
mũ đại cán vẫn chụp trên đầu, bộ dạng như kẻ chạy thợ thuê cho công trường hay
nhà máy. Chẳng những anh ta xoa hai tay vào nhau lia lịa mà đôi cẳng chân anh
ta cũng rung rung liên hồi khiến tấm thân lắc lư một cách kì cục.
Không ngẩng đầu lên, chủ quán đáp :
- Ờ, rét thật.
Vẻ như nhắc lại một điệp khúc. Đoạn ông cụ rút thùng nhựa,
rót rượu vào chiếc chén cũ trong đám chén sứt mẻ, đen xì cắn chè.
Khách tợp một hơi cạn, đoạn chìa chiếc chén ra :
- Chưa mùi mẽ gì, cho tôi chén nữa.
- Ồ, rét tháng hai mà rét gớm rét ghê...
Ông lão đế theo và rót chén rượu thứ hai.
Vũ lẳng lặng nhìn họ, và lẳng lặng theo đuổi những suy tư
của ông :
― Chúng ta làm cách mạng để giải phóng con người, nhưng rút
cuộc cả xã hội chỉ còn là một tấn tuồng thảm hại, trong đó người lương thiện và
trung thực chẳng còn đất sống...Kẻ tồn tại được ắt phải gian manh, phản trắc.
Hoặc ít nhất, người dân thấp cổ bé họng như ông lão này, phải coi lối sống hai
mặt như một thứ áo giáp tuỳ thân. Thời ta còn thiếu niên, con người không xấu
xa dường này. Chính xã hội mới đẩy họ xuống dốc.
- Thôi, chào bố già nhé. Mai con ghé qua trả tiền.
Người khách nói to, đoạn đặt chiếc chén rỗng xuống chõng, đi
ra.
Vũ chờ cho anh ta đi xa, lên tiếng :
- Khách của cụ toàn uống rượu chịu như thế hay sao ?
- Không phải chịu, mà là quỵt. Nó nói vậy nhưng chẳng bao
giờ trả một xu.
- Tại sao vậy ?
- Ồ, rõ ra bác chẳng phải người hay lê la ở quán xá. Vừa
thoạt nhìn thấy bác tôi đã đoán rồi. Thằng ấy thời Tây gọi là anh-đi-ca-tơ.
Mình không thí cho nó vài chén, nó lại kiếm chuyện bẩm báo với mấy lão ở đồn
công an, rách việc.
- Ồ... Vũ buột tiếng kêu. Ông lão đắc ý gặng hỏi :
- Tôi đã bảo bác chẳng phải người quen lê la quán xá. Điều
ấy đúng hay không ?
- Cụ đoán chính xác. Tôi vốn chẳng nhiều thời giờ để rong
chơi. Hôm nay đau đầu quá nên mới tìm lối đi giải khuây.
- Thế đấy! Đời mà. Ai chẳng có những chuyện đau đầu, đứt
ruột.
Ông lão hạ giọng an ủi, và một vài giây sau,chừng như muốn
bộc lộ sự cảm thông một cách hiệu nghiệm hơn, ông nói tiếp :
- Bác có nhắp thêm một chén nữa không ? Lần này, tôi đãi.
- Cảm ơn cụ, tôi vốn không phải người mạnh rượu, dù rượu ở
đây là tuyệt hảo.
Vũ đáp.
Ngay lúc ấy, ông thấy vợ dắt xe lên hè. Từ xa, ông đã thấy
bà xanh xao, và vì trời rét, bà choàng một chiếc khăn len lớn màu lam khiến
gương mặt bà càng thêm rầu rĩ. Vũ đứng lên:
- Trời rét thế này, em ra đường làm gì ?
Bà ngước nhìn ông lặng lẽ và trách móc.
Ông lão chủ quán, dường như đoán trước tình cảnh của họ,
liền nói :
- Bác gái đưa xe cho bác trai dắt sang bên kia hè. Để ở đấy,
tôi bảo đảm không trộm cắp nào dòm ngó nổi.
- Cảm ơn cụ.
Vân trả lời và đưa xe cho chồng. Rồi bà ngồi vào quán, rùng
mình liên tục bởi gió lạnh. Chủ quán vồn vã mời :
- Bác dùng một chén vối hãm gừng cho ấm bụng.
- Cảm ơn cụ. Ở đây còn có cả nước vối hãm gừng ?
- Có đủ. Bởi tôi nhiều khách quen. Các bà ấy chỉ chuộng nước
vối hãm gừng thôi.
Nói đoạn, ông cụ lại cúi xuống chõng, kéo ra một chiếc hộp
khác, trong đó đựng những chiếc chén gốm nâu sậm, điểm hoa văn màu vàng ốc. Lúc
ấy , Vũ đã quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy cụ chủ này giống một nhà ảo thuật
với đủ loại thùng, hộp giấu dưới gầm chiếc chõng tre. Ông cười :
- Cụ còn có bao nhiêu thứ hộp nữa để đựng các loại chén khác
nhau ?
- Tôi đã nói với bác rồi : Quý nhân phải xứng với quý vật.
Người đẹp thế kia ai nỡ bán nước trong chén sành ?
- Ồ, cụ quả thật là người lịch lãm.
- Ông quá lời khen. Tôi chỉ là kẻ chân đất, được đẻ vãi trên
đê Yên phụ. Cha mẹ tôi không giầu, nhưng cũng đủ tiền cho tôi học qua
xép-ti-phi-ca. Song le người ta đã bảo. Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng
an.
Ông cụ cao giọng gần như ngâm nga, gương mặt đầy kiêu hãnh.
Vân cất lời :
- Chắc thời trẻ bác phải là người đa tài lắm.
- Ồ, không dám. Bác quá khen. Nhưng quả tình là thời tráng
niên tôi cũng chẳng đến nỗi nào....Pas mal.
Ông cụ lại nói tiếng Pháp khiến cho cả hai vợ chồng Vũ kinh
ngạc. Vũ mỉm cười :
- Cụ vẫn nhớ được tiếng Pháp ? Thật kì lạ, những người cùng
thời với cụ có bao nhiêu chữ nghĩa đều đã giả thầy.
- Già nửa thế kỉ rồi còn gì, óc đã cùn, lưỡi đã nhụt...Nhưng
vẫn còn vài chữ lõm bõm sót trong đầu. Giống như mầm rau muống ruộng tháng
giêng...Chả vì họ vẫn đe doạ tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù, nên tôi chơi
ngông, thi thoảng nói dăm ba tiếng, xem họ làm gì tôi ?
- Cụ không sợ người ta mách lẻo hay sao ?
- Mách lẻo mấy bình rượu thì tôi còn phiền chứ mách lẻo mấy
cái tiếng Tây giả cầy này thì tôi chẳng coi ra gì. Tôi đâu phải quan chức nhà
nước mà sợ liên luỵ. Đã là thằng đít đen ngồi bán nước ở vỉa hè, hạng lê dân
xếp ở tận cùng đáy vực rồi, còn chỗ nào thấp hơn mà lo rơi xuống ?
Ngừng lời, ông cụ lại mỉm cười, nụ cười dân ven đô.
Rồi cả ba người bất đều im lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ
của riêng mình.
Lúc đó, một người đàn bà rất trẻ nhưng đã to béo, da đỏ au
au bước vào. Chị ta đon đả cất tiếng chào mọi người rồi quay lại hỏi chủ quán :
- Ông lão dọn hàng đều như vắt chanh. Trời rét thế này sao
không quấn chăn mà ngủ cho sướng ?
- Ngủ được như chúng mày hoạ có là trai tơ, chẳng còn là ông
lão.
- Là ông lão nhưng còn khối bà lão dòm ngó đấy. Chỉ nội làng
Yên phụ tính sơ sơ cũng đã có bẩy bà.
- Thui cái mồm mày đi, quen thói nói láo.
- Ông thui mồm cháu, lấy ai hót cho ông vui ? Lấy ai mang
bánh dầy, xôi nén của mấy bà nạ dòng đang cố sức ve ông cho ông xơi hàng ngày ?
Nói xong, người đàn bà cười ré lên tinh quái khiến cả ông
chủ quán lẫn vợ chồng Vũ cũng phải cười theo. Những múi thịt rung rinh trên tấm
thân vạm vỡ, mặt đỏ tưng bừng trong một nỗi vui sướng mộc mạc, người đàn bà
khiến cho ngôi quán nhỏ ấm lên. Dứt cơn cười, chị ta rút ra chiếc khăn tay lau
mồ hôi lấm tấm trên trán và nói :
- Con đi đây. Chiều thằng bé ghé qua ông cho cháu ăn cơm
với.
- Cứ yên tâm mà đi, không phải dặn.
Ông cụ mắng.
Người phụ nữ trẻ lại nhoẻn miệng cười :
- Dạo này ông lão hách ghê. Mới hai tuần vắng ― các nàng hỏi
han đã đâm ra cấm cảu.
Nói xong, không chờ cho ông cụ phản ứng, chị ta quay lại
chào:
- Hai bác ở chơi nhé. Em xin kiếu.
Rồi, cũng không chờ họ đáp lời chị ta te tái chạy sang hè
bên kia ,nhấc càng chiếc xe bò rau muống đẩy xuống lòng đường. Sau khi đã quay
xe ngược về phía Quảng bá, chị ta phăm phăm kéo xe đi.
Vũ nhìn theo :
- Người phụ nữ này khoẻ thật, và chắc hẳn là người rất tốt
bụng.
Ông lão đáp :
- Trông mặt đã bắt hình dong. Tươi cười như thế nhưng goá
chồng đúng năm hai mươi tuổi. Một mình nuôi ba đứa con. Chẳng việc gì từ nan.
Làm quần quật như trâu từ lúc tinh mơ cho tới lúc tối đèn. Vậy mà chẳng bao giờ
hé miệng thở than một tiếng.
- Vì sao chồng chị ta chết trẻ như vậy ?
- Cả hai đứa đều là người làng tôi, chơi với nhau từ thuở
mặc quần thủng đít, lớn lên vừa đủ mười tám tuổi là kết hôn. Đẻ sòn sòn năm
một. Đến khi con vợ mang thai đứa thứ ba thì thằng chồng nhập ngũ. Chưa kịp đặt
chân vào chiến trường, vừa vượt qua biên giới Lào-Việt đã bị bom dập chết rồi.
Ông lão ngừng lời, cúi xuống tự rót cho mình một chén trà
mạn và uống ừng ực như muốn nuốt trôi một nỗi niềm.
Vũ im lặng hồi nhớ tấm Pan-nô treo trên ngã ba đường Quảng
bá :
― Anh Cả có lý khi cho rằng cuộc chiến tranh này rồi sẽ là
sự hối tiếc lớn nhất của lịch sử. Rằng nỗi thất bại cay đắng nhất trong cuộc
đời ông cụ là không thể ngăn cản nó. Đối với ông cụ, cuộc chiến tranh này hoàn
toàn giống như cuộc trảm quyết dưới hình thức phanh thây. Nó chính là bốn cỗ xe
ngựa oan nghiệt của định mệnh, và dân tộc này là kẻ bị phân thây.
Bỗng nhiên, tiếng còi xe vang lên dập dồn, inh ỏi ngoài phố.
Vũ bước khỏi quán, đưa mắt nhìn. Hoá ra một đoàn xe quân sự đang bị cản lại vì
đám xe thồ chở vôi sống dựng kềnh càng ngay trên lòng đường. Những người phu
thồ hẳn đang dừng ở quán chè nào đó làm ngụm rượu cho ấm bụng, nghe tiếng còi
ô-tô liền vội vã bước ra đẩy xe vôi lên vỉa hè. Giây lát sau, đoàn xe được giải
phóng ầm ầm phóng qua, xe nào xe nấy trùm kín dù nguỵ trang trên lần mui bạt.
Ông lão chủ quán đưa mắt nhìn theo làn bụi tung bay trên
đường phố, bảo vợ chồng Vũ :
- Hai bác chẳng thể ngồi đây lâu, nơi quán xá ồn ã ô hợp
lắm. Chỉ lát nữa đám thợ xây, thợ mộc sẽ ghé vào. Tốt nhất là tôi dọn cho hai
bác ấm chè nóng với cái hoả lò vào gian nhà sau. Tôi chẳng nhiều tiền nhưng nhà
đất thì khá rộng.
- Cụ đúng là người vừa giầu tình vừa chu đáo. Chúng tôi
chẳng biết nói sao cho đủ lời cảm ơn.
- Không cần khách khí. Tôi cũng chẳng mấy khi gặp được người
đáng để nói những lời tự ruột gan mình.
Ông lão đứng phắt dậy với vẻ nhanh nhẹn ngoài lứa tuổi. Sau
khi chuẩn bị khay chè mạn, ông cụ đưa cặp khách quý ra phía sau :
- Bố mẹ tôi để cho tôi cả mảnh vườn trên ngàn mét đất, tưởng
tôi con đàn cháu đống, sau này sẽ dựng thêm nhà. Các cụ chẳng ngờ tôi có số độc
thân, nội mấy gian nhà các cụ để lại đã mệt công chăm sóc.
Ông giải thích, khi đưa họ đi qua ba gian nhà trên , rồi qua
một mảnh sân lát gạch lá nem tới ba gian nhà sau, quay thẳng ra hồ Tây. Đây chỉ
là nơi uống trà hay ngắm cảnh. Gian chính giữa đặt bể thả cá vàng, bên trên có
hòn non bộ lẫn cụm si cảnh.
- Ồ, sân rộng nhường kia sao cụ chẳng đặt bể cá bên ngoài ?
Vũ cất tiếng.
Ông cụ đáp :
- Tôi biết đặt bể cá ngoài sân là thuận mắt, nhưng hàng xóm
có con mèo ma. Bất cứ bể cá vàng nhà ai đặt ngoài sân nó cũng lẻm sạch.
Vũ chưa từng nghe chuyện mèo bắt cá cảnh bao giờ, nhưng ông
không dám hỏi thêm. Cụ chủ quán đặt khay trà lên chiếc bàn thấp, kê giữa hai
chiếc ghế bành :
- Các bác ngồi đây, có thể vừa ngắm cảnh hồ, vừa trò chuyện.
Ở đây kín gió, nhưng tôi sẽ mang cái hoả lò nhỏ vào vì trời rét. Ngoài quán,
tôi còn chiếc lớn hơn để đun nước pha trà.
Ông cụ quay đi rồi lát sau mang chiếc hoả lò đỏ rực than đặt
trước mặt họ :
- Chừng hai tiếng nữa, có đứa bán rong bánh dầy, xôi nén,
các bác có cần tôi gọi nó vào đây.
- Dạ, cảm ơn cụ. Như thế này đã là quá đầy đủ. Lát nữa, nếu
đói bụng chúng tôi sẽ cầu cứu.
Vũ đáp.
Ông cụ vừa mỉm cười một cách toại nguyện, vừa giơ tay gãi
chòm râu dài tới ngực. Chờ cụ đi khuất, Vũ bảo vợ :
- Bây giờ, là chuyện của chúng ta. Một khung cảnh thơ mộng
như thế này mà phải nói những chuyện buồn, kể cũng là đáng tiếc.
Vân im lặng xoay sở trong chiếc ghế bành quá rộng. Sau rốt,
tìm được chiếc chăn nhỏ cuộn lại để lót lưng, bà dựng nó áp sát vào lưng ghế,
rồi ngồi tựa lên đó. Vũ đưa mắt nhìn những vết thâm hiện lên dưới mắt vợ :
- Có chuyện gì khẩn cấp để em tìm anh vào lúc trời rét mướt
thế này ?
- Em là vợ anh, thế chưa đủ hay sao ?..
Bà hỏi vặn lại, giọng thách thức.
Ông không trả lời, quay nhìn ra hồ. Từ cuộc nói chuyện ở bãi
ngô ven sông Hồng trở lại, họ không còn nằm chung giường. Ông dọn xuống tầng
dưới, làm việc trong phòng khách và ngủ trong phòng trẻ con vì chúng đã quay
lại nơi sơ tán. Nhưng một lần, nhìn thấy ông nằm trên chiếc giường của Trung
chứ không phải giường của con trai họ, bà đã hét lên :
― Em biết vì sao anh phải nằm trong chiếc giường ấy. Anh có
cách giải thích nào khác khi một người cha không chọn hơi ấm của chính con mình
?
Ông đáp lạnh lùng:
― Vì nó chẳng có hơi ấm mà chỉ có mùi hôi.
Bà không thể cãi vì Vinh mắc bệnh hôi nách, thứ bệnh di
truyền từ bà Tuyết Bông tới cậu Tùng rồi đến con trai họ. Không những hôi nách
mà còn mồ hôi dầu. Cứ qua một ngày không tắm là các nếp áo đều khét, bết đen
bụi bẩn. Tuy nhiên, để tránh những cơn ghen bệnh hoạn của bà, ông cho người đem
về nhà một chiếc giường bạt gấp. Từ đó, đêm đêm ông ngủ trong góc phòng khách,
với tấm màn xanh cũ quây lại hình thước thợ che chiếc giường tạm bợ. Như thế,
chỗ ngủ của ông sơ sài như nơi qua đêm của một thứ khách từ quê ra, hoặc của
một gã lính nghỉ phép đột xuất.
Còn lại một mình, bà đã treo tấm màn đăng-ten đẹp nhất với
những hình thêu Uy-kơ-ren nổi tiếng thay cho tấm màn xanh. Bà cho thay chiếc
đèn cũ bằng chùm đèn lộng lẫy nhất gửi mua ở Mạc-tư-khoa. Bà tậu một bộ sa-lông
giống hệt sa-lông trong phòng khách sứ quán Liên-xô. Bà cũng cho người mang về
chiếc Ra-đi-ô hiệu Ri-gông-đa, với những đĩa nhạc của giới sành điệu. Rồi bà
sắm một chiếc tủ kính mới, để trưng bày các loại ly cốc pha-lê Bô-hêm-me, các
loại tách chén sứ Tàu, men mỏng như giấy lụa, có thể nhìn thấu chất nước đựng
bên trong. Đối diện với chiếc tủ ấy là một búp-phê đồ sộ, trong đó bày các loại
bánh kẹo lẫn các loại rượu nước ngoài, những thứ hàng được xách tay từ Mạc-tư-khoa,
Pra-ha hay Bou-đa-pet, nơi chốn đáng thèm muốn nhất của đám nhân viên bộ ngoại
giao, và là đồ xa xỉ tuyệt đối bất khả hình dung với mấy chục triệu dân đen
đang hàng ngày xếp hàng đong gạo mốc. Căn phòng ngủ của bà không đủ sức chứa
quá nhiều thứ, bà lấn chiếm luôn căn buồng làm việc cũ của ông, bằng cách cho
thợ đục rộng gấp đôi khuôn cửa, thay cánh cửa gỗ lim bằng tấm bình phong mặt
đá. Sau cuộc cách mạng ấy, căn phòng ngủ của bà không còn là nơi ngủ mà đã
thành phòng khách lộng lẫy, sáng trưng, đầy vẻ mời mọc. Đêm đêm, bà bật ngọn
đèn chùm ba tầng, thứ đèn chỉ dành cho đại sảnh, để ngắm bóng mình phản chiếu
trên những ô cửa kính. Hoặc bà mở hết cỡ những đĩa nhạc, rồi nằm lên giường bịt
tai lại cho khỏi đứt màng nhĩ. Khi thấy những ô cửa sổ hàng xóm lần lượt mở ra,
và những cái đầu thò ra khỏi các ô cửa đó nhìn về phía căn nhà của bà với nỗi
căm ghét không che đậy, bà lại sợ hãi tắt vội đi. Tất thảy những gì bà làm để
khiêu khích ông đều vô hiệu. Có lẽ tình yêu của ông dành cho bà đã chết. Nó chết
đuối ở sông Hồng. Giờ đây nó chỉ còn là một thây ma thối rữa dưới đáy phù sa.
Nhưng ngược lại, bà không thể không yêu ông, nói cho đúng hơn, bà không ngừng
yêu ông bất chấp mọi sự ngang trái đã xảy ra giữa hai người. Có thể là những
ngang trái ấy còn khiến bà yêu ông hơn nữa, cảm thấy thiếu ông nhiều hơn nữa.
Sự hung bạo và khốc liệt của thứ ái tình này là nỗi bất hạnh. Bởi ở tuổi xế
chiều lẽ ra người ta phải sống với nhau bằng một mối tình êm ả, xe kết từ những
tháng năm quá vãng.
Nhiều lần, bà tự nhủ :
― Ta đã có tất thảy. Chỉ còn một việc ta chưa dám làm mà
thôi. Hãy thử xem sao.
Nhưng mới chỉ nghĩ đến điều ấy, mặt bà đã nóng bừng vì hổ
thẹn. Cái điều bà muốn thử, chính là cung cách mà bà thường cao giọng phỉ nhổ,
ấy là lối sống của con mẹ Tư hàng cá, nổi danh không chỉ những trong đám quan
lại mà còn khắp các phố phường.
Tuy nhiên, bà không ngờ rằng ông, thờ ơ với tất thảy những
trò bà đã làm, lại chính là người đầu tiên nói thẳng ra sự thật. Một bữa cơm
trưa, họ lẳng lặng ngồi ăn, mỗi người nhìn đi một hướng, như tất thảy những bữa
cơm từ ngày họ ly thân, ông bất chợt quay lại bảo bà :
- Em đã làm đủ thứ...Còn khâu cuối cùng, sao không hoàn
thành cho trọn bộ ?...
- Anh muốn nói gì ?
- Anh không phải kẻ tò mò, nhưng vì còn bỏ sót một cuốn sách
trong ngăn kéo đầu giường nên sáng nay bắt buộc phải trèo lên lấy. Anh thấy em
đã có một phòng khách giống hệt phòng khách của con mẹ Tư hàng cá. Vậy còn việc
cuối cùng, sao không thử nốt ?
- Anh muốn sỉ nhục em hay sao ?
Bà hét lên.
Ông đáp thản nhiên :
- Trên đời này chẳng ai làm nhục nổi ai. Chỉ có con người tự
bôi nhọ bản thân họ mà thôi.
Bà không thể nói thêm, nhưng con tim công phẫn :
« Ai cũng chỉ có một cuộc đời. Tội gì không hưởng. Chỉ có
những kẻ ngu ngốc hoặc thui chột điều gì đó nơi bản thân mới không tìm cách
sống. »
Rồi sau đó, bà tự nhủ :
« Ta sẽ làm ! Ta sẽ làm ! lúc ấy chớ có kêu than... »
Và bà hình dung căn phòng khách lộng lẫy của mình sẽ dập dìu
lũ trai tơ, sẽ vang lừng tiếng nhạc, rượu đỏ và sâm-banh sẽ tuôn như suối. Cuộc
hành lạc không chỉ còn trong phim ảnh mà sẽ xảy ra dưới ánh đèn chùm.
Những cuộc trả thù tưởng tượng như thế chỉ sống được đôi ba
khoảnh khắc, bởi sau đó, bà tự nhìn thấy mình trong vai người đàn bà xấu xí sa
đoạ kia, và hình ảnh ấy khiến bà buồn nôn. Bà quay trở lại địa ngục của bà, một
tình yêu bất khả vãn hồi và bất khả quên lãng.
- Em uống trà đi cho ấm.
Thấy vợ lặng thinh, Vũ rót nước đưa cho Vân. Bà đón chén
nước trên tay ông, chẳng nói lời cảm ơn cũng chẳng chối từ, đưa lên miệng uống
từng ngụm lớn. Ông tự rót cho mình chén thứ hai, rồi cũng uống trong lặng lẽ.
Trước mặt họ, hồ Tây trải một màu xám bạc. Không mảy may bóng du thuyền. Chỉ có
đám thuyền chài đang bập bềnh trên làn nước, trong cuộc giành giật khắc nghiệt
với mưu sinh. Gió dữ, những vàng lưới vừa tung lên gió đã thổi dạt vào lòng
thuyền, khiến những con thuyền chao đảo, mũi chúi xuống như sắp bị nhấn chìm.
Người ta lái thuyền lượn theo vòng tròn để gỡ lưới và tránh gió. Cứ như thế,
cuộc sống tiếp tục. Vũ ngắm nhìn cảnh tượng ấy, thầm hỏi :
― Nếu như ta sống cuộc đời của người dân chài kia, liệu ta
có sung sướng, hoặc ít ra có được thanh thản hơn không ?
Nhưng những câu hỏi như thế chẳng bao giờ tìm được lời giải,
nên ông lại tiếp tục uống cạn chén trà và nhận thấy Vân đang nhìn mình:
- Nước trà đổ vào ống tay áo anh rồi kìa. Vải ấy không tẩy
được đâu. Tẩy là rách.
- Xin lỗi...Anh không để ý.
Ông đáp, và nói thêm :
- Em quả là người chu tất...về phương diện vật chất.
- Còn về phương diện tinh thần, em là con số không, là kẻ
tồi bại. Có phải đó là điều anh muốn nói hay không ?
Bà vặn lại, quắc mắt nhìn ông với tư thế của kẻ sẵn sàng lao
vào cuộc đấu. Nhưng trong lúc ấy, mặt bà lại tái nhợt và tim đập liên hồi. Ông
nhìn bà, với một chút bỡ ngỡ, một chút ngại ngần, và không tránh khỏi, một chút
thương hại :
- Anh có cần nhắc lại câu nói chiều qua không ? Chiều qua,
chính em cũng có mặt lúc anh đang nói chuyện trong phòng khách. Ông cụ chúc
mừng anh vì có được người vợ như em, vừa đẹp người vừa đẹp nết. Em biết rằng từ
hồi trên chiến khu cho tới tận lúc này, ông cụ vẫn là người ngưỡng mộ em một
cách thành thực.
Bà đỏ mặt, không đáp.
Ông nhắc lại :
- Hay em nghĩ rằng ông cụ làm ngoại giao ?
Bà im lặng.
Ông tiếp :
- Em không dám trả lời vì em biết rằng điều ông cụ nói là
hoàn toàn thật bụng. Danh hiệu ― Hoa khôi chiến khu― lẫn ― Mỹ nữ Hà thành―
chính ông cụ đặt cho em chứ không phải ai khác. Điều ấy đúng hay sai ?
Bà không đáp.
Ông cười :
- Hôm qua, anh nhắc lại lời khen ngợi ấy vì chính ông cụ yêu
cầu. Ông cụ gởi lời thăm em.
- Nhưng anh đã nhắc lại một cách mỉa mai. Anh biết rõ điều
đó.
Bà vùng lên phản ứng sau một hồi lâu lặng lẽ. Và ông mỉm
cười :
- Anh đã nói rồi, chẳng ai có thể làm nhục được con người
trừ bản thân họ. Cũng chẳng ai mỉa mai được kẻ khác nếu bản thân sự thật không
bao hàm một thứ mỉa mai.
Mặt bà trắng bệch. Rồi sau khoảnh khắc dùng dằng, bà cúi đầu
nói lí nhí :
- Em cũng biết vậy. Vì thế em mới lên đây tìm anh.
- A...a...ra thế...
Ông buông tiếng kêu, một tiếng kêu hững hờ, gần như vô
nghĩa. Trong lúc ấy, mắt ông vẫn không ngừng chăm chú theo rõi đám thuyền chài,
mỗi lúc mỗi lướt ra xa, trên mặt nước lô nhô sóng bạc.
― Anh ấy chẳng còn đoái hoài đến ta. Anh ấy không còn yêu ta
nữa, dù đôi chút.
Bà thầm nghĩ, và trong cơn tuyệt vọng, bà bất thần hét lên :
- Anh là người chồng tồi tệ. Tại sao anh không quay lại nhìn
em ? Ít nhất em vẫn đang ngồi trước mặt anh, đang nói chuyện với anh. Một thứ
lịch sự cỏn con cũng chẳng còn.
- A...ra vậy...
Ông ngạc nhiên quay lại nhìn bà :
- Nào, bây giờ anh quay lại nhìn em, anh cố gắng lịch sự cho
vừa ý em và cố bắt chước một người thanh nhã...Như vậy đã được chưa ?
Bà không trả lời. Và ông nói tiếp :
-Giờ anh đang chăm chú nghe em. Em bắt đầu chứ ?
- Anh không thể bỏ được kiểu nói như vậy hay sao ?
- Chính anh cũng không hiểu mình bắt đầu lối nói như vậy từ
lúc nào. Nhưng có lẽ nó đã trở thành thói quen khó sửa.
- Anh Vũ, chúng ta đã từng sống với nhau vô cùng hạnh phúc.
Anh không tiếc những ngày ấy hay sao ?
- Anh tiếc vô cùng, nếu em muốn biết sự thật. Anh tiếc và
anh khổ tâm nhiều gấp bội phần những gì em có thể tưởng tượng. Nhưng anh không
thuộc loại người có thể giả vờ quên, giả vờ mù và giả vờ điếc. Đấy có lẽ chính
là đầu mối mọi sự bất hạnh dưới mái nhà mình.
- Em vẫn luôn luôn yêu anh. Nếu không, mọi sự đã khác.
- Anh biết. Cảm ơn em.
Ông bất giác cất tiếng cười :
- Nhưng giờ đây, em có thể làm tất thảy mọi điều, kể cả rập
khuôn lối sống của con mẹ Tư bán cá. Anh không can thiệp. Em có quyền tự do
hành động theo sở thích...
- Anh không chịu hiểu sự thật. Anh không thay đổi, dù đã gần
nửa thế kỉ trôi qua.
- Sự thật nào ?
- Sự thật là anh luôn luôn nhìn cuộc sống theo lối của riêng
anh, chỉ riêng anh thôi. Nhưng cuộc sống vận hành theo con đường của chính nó,
và vì thế lúc nào anh cũng là người phải hứng mũi chịu sào, lúc nào anh cũng
phải đứng nơi đầu sông, cửa bão.
- Anh rất tiếc, nhưng con người anh là do bố mẹ anh sinh
thành, tu dưỡng. Khi gặp em, anh đã thành niên, anh không thể thay đổi cho vừa
khẩu vị của em.
- Bộ máy nhà nước này có vài trăm người ngang cấp với anh.
Chẳng ai phải gánh chịu những nhọc nhằn thua thiệt như anh.
- Em có thể tự giải phóng em khỏi những ràng trói với anh.
Em đủ tài lập lại một cuộc sống mới.
- Nhưng mà em yêu anh.
Bà lại hét lên, nước mắt lưng tròng :
- Tại sao ? Tại sao anh không chịu hiểu cái điều đơn giản ấy
?
Vũ im lặng. Một câu hỏi len lỏi trong đầu ông :
― Khi người đàn bà yêu, họ tin rằng họ đủ quyền làm mọi sự,
kể cả những trò rồ dại nhất, phi đạo lý nhất. Tất thảy đều nhân danh tình yêu.
Liệu đấy có thật sự là tình yêu hay chỉ là cuộc tìm kiếm những thoả mãn quyền
năng tinh thần và sự lấp đầy các khát khao thể xác bằng phương tiện được chọn
lựa ? Tình yêu, có lẽ là danh từ hàm hồ nhất, bị lạm dụng nhiều nhất và dung
chứa nhiều ẩn số nhất trong từ điển của nhân loại.
Vân khóc. Bà rút khăn tay xì mũi trong lúc ông kiên nhẫn
xoay chiếc chén rỗng trong lòng tay. Chỉ còn tiếng gió hú trên mặt hồ. Mỗi cơn
gió quạt, chiếc lò than lại hồng rực lên, nổ lép bép. Những viên than quả bàng
cháy đỏ, gần như trong suốt. Hơi ấm lan toả, vây quanh họ. Vũ cúi nhìn chiếc
hoả lò, chờ đợi. Nhưng vì vợ ông khóc khá lâu nên ông tự rót cho mình chén trà
nữa.
- Em đã nguôi cơn chưa ?
- ...
- Chúng ta đã già, không cần la hét như vậy. Anh không muốn
cụ chủ quán cho rằng chúng ta là những kẻ đầu óc bất thường.
- Em chỉ muốn một điều thôi. Điều duy nhất em muốn là chúng
ta hãy thương yêu nhau như ngày xưa. Như thời xưa. Như chúng ta đã từng sống.
- Anh cũng muốn vậy. Nhưng thời gian không quay trở lại.
Thời gian có quy luật riêng của nó, cũng như em vừa nói, cuộc đời chỉ đi trên
con đường tự nó vạch lối mà thôi.
- Em có thể làm mọi điều anh muốn, miễn là anh yêu em như
xưa.
- Cảm ơn...Nhưng anh tin chắc rằng em chỉ có thể làm mọi
điều theo ý em, và vì em...
- Anh muốn nói tới căn phòng khách tầng trên.?..Em có thể
cho thợ hốt hết mọi thứ đổ ra bãi rác ngay ngày mai...
- Điều ấy chỉ gây thêm tai tiếng. Em từng biết thiên hạ nhìn
những người đàn bà kiểu đó ra sao .
- Vậy anh muốn em làm gì ?
- Anh không thể muốn, vì điều anh muốn với em là bất khả.
- Bất khả là vì anh luôn luôn nhìn sự vật ngược chiều với
tất thảy mọi người. Hồi trên chiến khu cũng đã như vậy. Điều mà tất cả mọi
người cho là đương nhiên, anh quyết liệt phản đối. Điều mà mọi người cho là bất
khả, anh tìm cách làm cho bằng được.
- Anh chẳng hiểu em muốn nói gì ? Thực tình là chúng ta gần
như không còn nói một ngôn ngữ chung. Kì quái! Em thử cắt nghĩa xem sao ?
- Anh đừng vờ vĩnh.
Bà lại bắt đầu to tiếng. Ông quay nhìn về phía sau để bà dè
chừng cụ chủ quán có thể nghe rõ cuộc cãi vã của họ. Bà ngừng lời, uống nốt
chén trà nguội để lấy lại bình tĩnh. Đoạn bà tiếp tục :
- Hồi trên chiến khu mọi người đều hài lòng với việc chọn cô
Minh Thu cho chủ tịch. Một mình anh phản đối quyết liệt cho đến phút cuối cùng.
Một mình anh bỏ phiếu bầu cô Thanh Tú. Anh còn nhớ cuộc đi tuyển quân dưới mấy
tỉnh đồng bằng hay không ? Chính anh Sáu đã ra chỉ thị ấy để mọi sự trót lọt.
- Anh nhớ. Ngay hồi ấy anh đã hiểu rằng người ta cố tình đẩy
anh đi vắng để làm mọi điều họ muốn.
- Nhưng đó là việc riêng của tổ chức, việc của ông cụ. Đâu
phải phận sự của anh ?
Ông đưa mắt nhìn vợ, như nhìn một người đàn bà xa lạ đến từ
xứ sở nào đó, từ sa mạc Sa-ha-ra hay quần đảo Ăng-ti-bê chẳng hạn. Và bà đỏ mặt
lên trước cái nhìn của ông. Bà lặp lại, vẻ ít tự tin hơn :
- Đấy là việc của tổ chức. Em nói như vậy là sai hay sao ?
Ông chậm rãi hỏi :
- Này Vân, nếu anh chột mắt, anh vẩu răng, anh lùn một thước
như những chú lùn hề xiếc. Liệu em có yêu anh, có lấy anh không ?
Bà im lặng.
Ông nhìn bà chăm chú và hỏi tiếp :
- Hoặc nếu anh mắc chứng bạch tạng, anh bị bệnh còi xương,
anh có những bàn tay bàn chân sáu ngón, liệu em có lấy anh không ?
Bà không trả lời, quay mặt nhìn ra hồ Tây.
Ông tiếp tục cuộc dồn đuổi :
- Anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày đầu. Khi anh gặp em, cô nữ sinh
phố huyện đứng tựa lưng vào cửa, đôi mắt mơ màng, cuốn ―Thằng gù ở nhà thờ Đức
bà trong tay. Có lẽ anh đã yêu em khởi từ hình ảnh đó. Giờ anh hỏi, nếu anh
chính là thằng gù Qua-si-mô-đô, liệu người đẹp Tố Vân có bằng lòng làm vợ anh
hay không ?
Bà tiếp tục nhìn ra hồ, không đáp.
Và ông hỏi tiếp :
- Những điều em không muốn, tại sao em bắt người khác phải
chịu ? Tại sao em áp đặt sở thích độc ác của mình lên một người tử tế với em
như ông cụ ? Phải chăng chính em đã gợi ý cho bà hội trưởng tiến dẫn cô Minh
Thu ôm chăn chiếu đến nhà sàn ?
Vân quay lại, nhìn chồng, và trả lời, với vẻ hồn nhiên xen
lẫn ngạc nhiên :
- Bởi anh Sáu mời em lên, hỏi ý kiến. Bởi mọi người đều đồng
tình với gợi ý của em. Bởi ông cụ chẳng phải là người bình thường. Anh không
nhận ra điều ấy hay sao ?
- Ông cụ là chủ tịch nước. Ông cụ là linh hồn của cuộc kháng
chiến. Còn gì nữa ?...
- Ông cụ là cha già của dân tộc...Anh đã quên danh vị ấy.
- Thì sao ?
- Anh hỏi ngớ ngẩn. Đã là cha già dân tộc, ông cụ không thể
sống như những người bình thường...Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt chứ ?
Anh là người học hành thông minh như thế, sao cái điều cỏn con cũng không hiểu
nổi ? Anh Sáu và bao nhiêu người khác nữa đã từng hỏi em như vậy ?
- A...a...a...
- A ...a...a...a...a...a...a...
Tiếng sấm nổ bùng trong đầu ông. Không chỉ một hồi mà là
liên hồi. Những chuỗi sấm rền vang như những hồi sấm định mệnh nổ ngày tận thế.
Vũ có cảm giác rằng hàng nghìn chuỗi mìn dây đã được gài đặt trong óc não ông,
giờ đây, khi trái mìn đầu tiên bùng nổ, chính tiếng nổ của nó kích thích trái
mìn thứ hai. Cứ như thế phản ứng dây chuyền tiếp tục.
Trong cơn giông, những tia sét bao giờ cũng bừng lên trước
khi tiếng sấm xuất hiện. Phản ứng ấy xảy ra đối với ông, theo chiều ngược lại.
Những tiếng sấm nổ ra trước, sau đó mới tới những chùm lửa điện sáng loà. Bầu
trời quá vãng được rọi chiếu bởi những làn ánh sáng chói chang. Tất thảy sự vật
hiện lên rõ ràng đến từng nét cắt, như núi non hiện lên nơi chân trời trong vắt
mùa thu, như vườn tược hiện ra khi sương mù bị quét sạch dưới cái nắng chói
chang tháng sáu.
― Giờ ta mới hiểu thứ lô-gic của người đời , đã no phần xôi
thì phải thôi phần thịt. Đã được phong thánh, đã là cha già dân tộc thì không
được quyền hưởng hạnh phúc bình thường. Vì thế mà họ ấn cho ông cụ cô gái già
quá lứa, người đã được kêu gọi gả chồng khắp lượt, như thể kêu gọi cuộc quyên
góp làm từ thiện, từ thành đoàn đến các hội đoàn khác mà không ai chịu rước đi
cho. Cô gái già, ba mươi tám cân, ba mươi tư tuổi.
Tại sao họ không nghĩ rằng ông cụ chính là một quân vương ?
Một vị vua thời xưa có quyền được thoả mãn mọi nhu cầu thân xác, thậm chí đến
mức tàn bạo và phi lý. Nếu ông cụ có một người vợ trẻ, đó cũng chỉ là một hưởng
thụ quá đỗi khiêm nhường ?
Tại sao họ không nghĩ rằng nếu ông cụ được hưởng một chút
hạnh phúc cỏn con thì thể chất lẫn tâm hồn ông cụ càng hoàn hảo và như thế, có
thể đóng góp nhiều hơn cho dân tộc ?
Tại sao họ có thể tự cho mình quyền hành hạ một cách biển
lận con người mà họ phải núp sau lưng để tìm được sự trợ giúp tinh thần cũng
như sự thụ đắc quyền lực ?
― Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt...„
Chính trong cái lô-gic này biểu thị sở thích độc ác của nhân
loại. Một sở thích ẩn chứa tính đố kị lẫn thói ghen tuông. „
Một nghi vấn chợt đến. Ông quay lại nhìn vào mắt bà :
- Giờ anh đã hiểu mọi sự. Ngày ấy anh đã tin một cách thành
thực rằng em cũng xuống núi làm công tác địch vận trong lúc anh vắng mặt trên
chiến khu. Giờ anh biết rằng em không đi đâu hết. Em đã ở lại để hoàn tất vai
trò cố vấn, để dồn bằng được cô Minh Thu đến ngôi nhà sàn của chủ tịch. Bởi nếu
em không chớp thời cơ để đặt mọi người vào thế đã rồi, ắt thành đoàn sẽ cử cô
Thanh Tú sang ?
Bà không đáp, nhưng cái nhìn của bà thú nhận sự thật.
Ông hỏi tiếp :
- Em đã tập thói nói dối từ bao giờ ?
Bà quay mặt đi.
Ông hỏi tiếp :
- Tổng kết lại, cuộc đời em có bao nhiêu lần dối trá ? Bao
nhiêu lần kể từ ngày em khôn lớn ? Bao nhiêu lần kể từ ngày chúng ta thành vợ
thành chồng ?
- ....
- Bây giờ anh mới hiểu rằng anh chính là một thằng ngu ngốc.
Nhưng chưa hết. Sau anh, còn một người khác nữa cũng thậm ngu. Chỉ thậm ngu mới
có thể đem lòng tin yêu và ngưỡng mộ một kẻ nhẫn tâm với mình như vậy. Ngay tối
nay, anh sẽ gọi điện cho ông cụ, nói trắng ra rằng : Anh Cả ơi, anh chớ tưởng
anh là người khôn ngoan, chín chắn. Anh không biết rằng anh chính là một thằng
ngu, đại đại ngu.
Vân cúi mặt xuống, hai gò má trắng xanh.
Rồi những giọt nước mắt lần lượt chảy dài trên gương mặt đẹp
một cách tàn héo của bà. Những nếp nhăn hiện lên sau đuôi mắt. Những chuỗi nếp
nhăn ngắn hơn nhưng đậm hơn xếp hàng quanh làn môi xưa kia hồng thắm nay tái
nhợt dưới lớp son màu mận già.
Còn ông, ông khép chặt hai vạt áo vì rõ ràng một cơn xốc
tinh thần kéo theo cả một cơn đau thể chất. Bỗng nhiên, cả vùng ngực lẫn thượng
vị của ông đau quặn từng cơn. Ôm bụng, ông nhớ lại gương mặt bà mẹ , thời ông
vừa phải lòng Vân. Dạo ấy, cha ông có vẻ thản nhiên hơn nhưng mẹ ông tỏ ra nhớn
nhác thật sự. Ông thường bắt gặp hai người thì thào to nhỏ. Những cuộc trò
chuyện ấy tắt ngấm khi ông xuất hiện. Rồi vài tháng sau, mẹ ông mới lựa lời thủ
thỉ :
― Con ơi, người xưa dạy: Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén
giống. Cô Tố Vân tuy dung nhan xinh đẹp, vẻ ngoài giống ông giáo Lương nhưng
chưa biết được tâm tính sẽ ra sao? Việc dạy dỗ con cái trong nhà phần lớn do
người làm mẹ. Bậc làm cha giống như cây cột lớn chỉ lo việc nâng nóc nhà cho
vững mà thôi. Người như bà Tuyết Bông khó có thể đẻ ra một cô gái tử tế. Không
chỉ mình mẹ mà các bà láng giềng cũng đều để ý rằng cô Tố Vân không giao du với
ai xinh đẹp. Cô chị họ Hiền Trang vừa đẹp vừa giỏi giang hễ đến gần là cô ấy tỏ
vẻ khó chịu lảng đi ngay. Cô Hiền Trang kể với người nhà rằng Tố Vân tuyên bố
chỉ chơi với ai vừa xấu xí vừa ngu ngốc hơn cô ấy, giống như chọn cái nền để
làm cho mình được nổi bật lên. Còn trẻ tuổi mà đã ích kỉ như vậy hẳn là người
độc bụng.
Lúc ấy, ông đã tìm mọi lý do để thuyết phục gia đình. Lúc
ấy, ông đang si mê. Tất cả những kẻ si mê đều mù. Giờ, ông hiểu rằng mẹ ông
hoàn toàn có lý. Rằng vợ ông đã cố tình xúi bẩy mọi người chọn cô Minh Thu, và
tìm mọi cách đẩy bật cô Thanh Tú cho bằng được. Vân hành động theo bản năng vị
kỉ : Cô ấy muốn tôn tạo nhan sắc mình bằng hình ảnh nhem nhuốc của những người
đàn bà xung quanh. Điều khốn nạn hơn cả là những kẻ khác cũng có cùng một sở
thích độc ác như vậy :
―Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Người đàn bà này
vừa mở mắt cho ta. Sau hơn ba mươi năm chung sống giờ ta mới nhìn rõ chân tướng
con người mà ta vẫn coi là vợ.
Tim ông cuộn lên những ngọn sóng lừng. Ông cảm thấy đầu và
cơ thể mình như đang tách làm đôi, cả hai phần đều dập dềnh như hai con thuyền
bị dồi trên đỉnh sóng. Trong cơn chòng chành ấy, không hiểu vì sao gương mặt
tươi cười của chủ tịch trở về. Đấy là hình ảnh trong đêm liên hoan mừng chiến
dịch biên giới, ông cụ nâng chén chúc tụng mọi người, và nói lời sau rốt :
- Xin chúc mừng toàn bộ cơ quan, trước hết là những người
đàn ông có vợ đẹp. Theo tiêu chuẩn ấy chú Vũ sẽ phải uống cạn ba chén rượu đầy.
― Thật cay đắng. Chính ông cụ là người đầu tiên phong vương
cho nhan sắc của cô ta. Ông cụ không ngờ rằng vì những lời khen hào phóng ấy mà
ông cụ bị hại. Người ta đầy đoạ ông cụ một cách ngấm ngầm và đầy mưu tính.
Ghìm giữ một cơn đau, ông ngẩng lên nhìn bà, cười :
- Lạ lùng thay số phận. Sao em không lấy Sáu. Em chính là kẻ
tâm đầu ý hợp nhất với y ? Mai mỉa thật. Vì sao em lại chọn anh ?
- Vì em yêu anh. Vì em chỉ yêu anh thôi. Nếu không mọi sự
đã...
- Nếu không giường chiếu đã sẵn sàng, và các cuộc làm tình
sẽ đầy đủ tiện nghi nhất xứ sở, dù trong thời bình hay thời chiến. Anh nói có
đúng không ?
- .....
- Nhưng sự trớ trêu của số phận là thường thường những kẻ có
sở thích độc ác lại khó kết đôi. Bởi họ muốn bảo đảm tính độc quyền. Bởi họ
muốn bảo đảm sinh mệnh cho chính họ. Với kẻ đồng mưu, họ chỉ có thể kết hợp tạm
thời, còn nơi hậu trường, họ cần chọn những kẻ hiền lành ngu ngốc cho an toàn
vì cuộc sống vốn lâu dài và nhiều biến động. Đó chính là lý do khiến em chọn
anh, để mà yêu. Cũng tương tự như Sáu, y không chọn em mà chọn người đàn bà
khác.
Bà im lặng.
Và ông chậm rãi nói tiếp, buông từng lời như muốn nghe chính
những vọng âm tiếng nói của mình :
- Hơn ba mươi năm để hiểu một con người. Quả là trò chơi cay
nghiệt của Tạo hoá. So với lịch sử, ba mươi năm chỉ là chớp mắt. Nhưng đối với
cõi người, coi như đã cạn một kiếp nhân sinh.
Bà nhìn vào mắt ông, thấy nỗi tuyệt vọng thăm thẳm trong đôi
mắt ấy...Đôi mắt người đàn ông của bà, người bà không ngừng yêu, không ngừng
thèm muốn, không ngừng ước ao được sở hữu và ngự trị một cách tuyệt đối. Tháng
năm không làm thay đổi những đường nét thanh tao trên gương mặt ông. Những lao
lung chẳng hạ gục được con người này mà càng ngày càng đem lại cho ông vẻ đẹp.
Có thể chính ông chẳng để ý đến vẻ đẹp ấy. Nhưng bà, bà đọc được nó một cách rõ
ràng qua những ham muốn không ngưng cạn của chính bà và qua ánh mắt những người
đàn bà xung quanh.
- Anh không còn yêu em nữa ?
Bà cất tiếng hỏi, dù biết nó lạc lõng. Nỗi lo sợ trước một
sự tan vỡ hiển nhiên khiến bà mất trí khôn :
- Anh chẳng còn yêu em nữa ?
Bà lặp lại lần nữa, cao giọng hơn, với một nỗi nôn nao điên
cuồng và một cơn khắc khoải bất khả che giấu.
Có vẻ như ông không nghe thấy những câu hỏi của bà...Có vẻ
như ông đang sống ở một cõi nào khác. Hồi lâu, ông quay lại nhìn bà một cách mơ
hồ như nhìn bức ảnh cũ hay thứ đồ vật nhỏ nhoi mốc thếch mà người ta lôi từ
trong rương ra sau bao nhiêu năm quên lãng :
- Này Vân, có bao giờ em tự vấn lương tâm ?
- Anh muốn nói gì ?
- Anh muốn biết rằng em có tự hỏi em về những gì em đã làm
là thiện hay là ác ? Có bao giờ em thấy lương tâm không yên ổn ? Hoặc em chẳng
bao giờ có khái niệm về một thứ gọi là lương tâm ?
- Em không biết. Em sống như mọi người. Những người đàn bà
khác hành động ra sao em hành động như thế.
- Dối trá. Những người đàn bà khác không thể ngồi trong
phòng của Sáu trò chuyện, bầy mưu tính kế hết giờ nọ qua giờ kia. Những người
đàn bà khác không biết mua chuộc và điều khiển bà Hội trưởng Hội phụ nữ bằng
những mánh khoé vặt. Những người đàn bà khác cũng không được ông cụ phong danh
― "Hoa khôi chiến khu" hay ― "Mỹ nữ Hà thành".
Em không trả lời anh nữa. Anh không có quyền chất vấn em.
Đây chẳng phải nhà giam Hoả Lò.
Bà cau có, nhưng hai cánh mũi đỏ hoe và những cơn nức nở đã
rình rập sẵn. Bà hiểu rằng bà thua cuộc. Người đàn ông ngồi trước mặt bà chẳng
còn đứng trong vòng phấn định mệnh đã được vạch ra từ cuộc hôn nhân. Ông ấy đã
bước qua vòng phấn đó. Bước qua một cách rứt khoát. Bước qua vĩnh viễn. Không
mảy may nuối tiếc. Cuộc truy đuổi của bà là uổng công... Nhưng lòng ham muốn
của bà vì thế lại tăng lên ngùn ngụt. Giống loài sói rượt mồi, bà không bỏ dở
cuộc săn. Bà cất tiếng ho, lấy khăn tay che miệng. Bà cần phải tìm một phương
cách nào đấy, hiệu quả hơn. Ngoài kia, những con thuyền vẫn lướt bình lặng trên
mặt hồ. Sóng lao xao. Gió lao xao. Nơi đây, gió không thể lọt vào vì lưng tường
quay ra hướng bắc. Lò than vẫn đỏ rực trước mắt họ. Nhưng bà vẫn phải cất tiếng
ho. Cơn ho bà rặn ra không che được mắt ông, cũng chẳng khiến ông động tâm, ít
nhất là vào lúc này.
Chẳng thèm quay lại nhìn bà, ông cất tiếng :
- Bây giờ anh mới hiểu vì sao bao nhiêu năm chúng ta lận đận
trong chuyện sinh con. Người đàn bà như em không thể làm mẹ. Bởi nếu em có con
gái như những người đàn bà khác, chính em sẽ ghen với con em khi nó tới xuân
thì, giống như mụ hoàng hậu dì ghẻ trong chuyện cổ tích ghen tuông và truy đuổi
nàng Bạch Tuyết. Mẫu người đàn bà như em đã có tự ngàn xưa.
- Anh không cần nói thêm nữa. Đủ rồi.
Bà vặc lại. Nhưng ông không ngừng lời. Bà chẳng còn quyền
lực đối với ông. Ngọn bùa yêu danh tiếng của bà đã hết quyền phép. Bà hoang
mang cúi nhìn những ngón tay ngà ngọc của mình đeo lủng liểng các loại nhẫn,
dáng nét còn thanh tao nhưng da đã nhăn mốc từng đám và nổi đầy vết đồi mồi.
Trong lúc đó, ông tiếp tục trút nốt cơn uất hận :
- Có điều, những người đàn bà như em lại thiếu óc thực tiễn.
Chẳng thứ nhan sắc nào tồn tại mãi với thời gian. Cái còn lại lâu bền nhất với
con người, chính là tình yêu và tinh thần đạo đức.
- Đạo đức ?
Bà cất giọng cười khẩy, mặt bỗng nhiên bừng bừng như lửa :
- Người đạo đức nhất trên đời này là mẹ anh . Sao anh không
ngủ với bà ấy đi ?
- A...a...a...
Ông há hốc mồm, một cử chỉ vô thức. Ông không điều khiển nổi
mình. Hình như ông định cất tiếng kêu. Hình như ông định nói điều gì đấy. Nhưng
một ngọn triều đen thẫm, cao lừng lững như bức tường thành , đột nhiên dựng
đứng trước mặt ông, giống ngọn triều biển Quảng Ninh năm xưa, đêm bão lớn. Ngọn
triều hung hãn đó bổ chụp xuống đầu ông, nhấn chìm ông dưới vực đá...
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (3)
Khi Vũ tỉnh dậy, ông nằm trong bệnh viện Việt-Xô.
Ấy là giờ cơm trưa nên bệnh nhân ở tất cả các giường đều
ngồi dậy chờ người nhà lấy xuất ăn về. Chiếc tủ của ông chất đầy những thứ hoa
quả, bánh trái, tất thẩy đều bắt đầu héo úa bởi chưa ai đụng đến.Vũ thấy đầu
nặng như đá đè. Ông cố gắng quay sang hai bên để cho các cơ bắp ở cổ mềm trở
lại. Những động tác ấy khiến ông đau nhói :
― Ta già rồi...Cơn đau này quật ngã ta.
Ông thầm nghĩ nhưng vẫn tiếp tục cử động một cách kiên nhẫn.
Người bệnh nằm đối diện nhìn ông :
- Bác đã tỉnh hẳn rồi chứ ? Chúc mừng nhé.
- Cảm ơn...Tôi nằm bất động mấy ngày rồi ?...
- Ba ngày rưỡi. A, phải...Bốn ngày chẵn cả thẩy. Bác nhập
phòng trưa thứ bảy tuần trước. Hôm nay là thứ tư, mười một giờ rưỡi ngày thứ
tư.
- Ở đây các bác đếm từng giờ ?
- Bệnh viện cũng tựa như nhà tù, một ngày dài hơn thế kỉ.
Bác chưa từng nằm dài hạn bao giờ nên chưa biết.
- Thú thật. Đi thăm mọi người, tôi đã từng. Nhưng chính tôi,
đây là lần thứ nhất.
- Tôi cũng nghe nói vậy.
Ông ta cất tiếng cười :
- Cứ ở đây vài tuần rồi sẽ rõ. Trước nghe thiên hạ doạ : ở
trong ấy một ngày dài hơn thế kỉ, chẳng tin. Vào đến đây là chân lý sáng tỏ
ngay.
- Ra thế...
Ông cũng bật cười. Ngay cái cười cũng khiến các cơ mặt vừa
đau vừa co cứng. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã tỉnh. Cơ thể ông chưa thể bị huỷ
hoại trong giây phút. Đấy là phần thưởng bù trả cho một cuộc sống thanh sạch,
điều độ và những bài tập khí công thường xuyên. Ông đưa hai bàn tay lạnh cứng
lên xoa vào nhau, chờ cho chúng ấm nóng rồi bắt đầu đưa lên xoa cổ :
― Ta không thể chịu thua trước khi chống cự lại. Tuổi già,
ta chấp nhận ngươi nhưng với tinh thần chủ động. Ta không thể là đầy tớ của
ngươi.
Bác sĩ phụ trách bước vào phòng. Một người đàn ông trạc tứ
tuần, trầm tĩnh và mệt mỏi. Anh ta bước tới gần giường ông, mỉm cười :
- Chúc mừng bác.
- Chúc mừng anh.
Ông vui vẻ đối đáp :
- Tôi sống được là nhờ anh nên phải chúc mừng anh. Như thế
chính xác hơn.
- Không hẳn thế. Bác có một thể chất vững trãi nên bình phục
nhanh. Nếu là người khác ắt ...
- Nếu là người khác ắt bỏ mạng ?
- Tôi không định nói thế. Nhưng nếu là người khác rất dễ có
những tổn thất lâu dài.
- Ví như đứt mạch máu não, biến chứng tê liệt toàn thân hay
bộ phận, ít nhất cũng nghoẹo cổ, méo mồm, v...v...Đúng không ?
- Bác thuộc các hội chứng như người trong nghề .
- Tôi có đọc sách y. Không nhiều nhưng cũng tạm đủ những
kiến thức sơ giản. Tôi mở được mắt là biết mình gặp may. Như các cụ dậy : gặp
thày gặp thuốc. Nói thêm lời nữa người ta dễ cho là khách sáo nhưng dẫu sao tôi
vẫn phải nói : Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vô cùng.
- Không có gì. Đó là phận sự của chúng tôi.
Bác sĩ có vẻ hơi bối rối. Anh ta vội chào ông rồi bước ra
khỏi phòng. Lát sau, một cô y tá đi đến :
- Hôm nay bác uống sữa. Ngày mai cũng vậy. Từ thứ sáu trở đi
chế độ ăn uống sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình sức khoẻ. Bác sĩ nói rằng có thể
bác muốn ăn cháo ngay trong ngày hôm nay nhưng như thế bất lợi.
- Cảm ơn. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Các anh các chị không
phải băn khoăn.
- Giờ tôi pha sữa cho bác nhé ?
- Không cần. Tôi chưa thấy đói. Lát nữa, tôi sẽ tự phục vụ
mình.
Cô y tá bước đi. Ông tiếp tục xoa và lắc cổ. Một nguyên tắc
ông đã thực hành từ thuở trai trẻ và chưa bao giờ vi phạm : Không đói thì không
ăn. Vả chăng, những ngày ông mê man, người ta đã liên tục tiếp các chất nước
khoáng, đường và đạm nên ông không có cảm giác thiếu hụt. Chỉ một sự tê cứng
ngự trị toàn thân. Điều ấy khiến ông khó chịu. Ông bắt đầu cuộc chiến đấu.
Nhưng dầu ý chí của ông mạnh mẽ, cơ thể ông chưa thể kham nổi cuộc đọ sức quá
sớm. Chỉ hai mươi phút sau, tay ông đã rã rời và ông chìm vào giấc ngủ mới. Lần
này, ông ngủ một mạch tới chín giờ tối mới thức dậy, thấy cơn đói đang bào dạ
dầy. Ông ngồi lên, tuy có một thoáng lao đao nhưng sau đấy mọi cử động trở lại
chính xác và chắc chắn. Ông đứng dậy, pha sữa uống, vừa uống vừa lắng nghe cơ
thể hồi dần, nghe hơi ấm lan toả từ lồng ngực cho đến chân tay, nghe máu luân
chuyển trong huyết mạch, một cảm thức mới mẻ ông chưa từng biết bao giờ : sự
hồi sinh !
- Tôi là láng giềng của bác. Bác có nhớ ra tôi không ?
Có tiếng ai đó cất lên bên tai ông. Ông quay lại, thấy một
người đàn ông ăn bận chải chuốt, đứng tựa lưng vào tường, nhìn ông với đôi mắt
ấm áp, tươi cười.
- Hình như...
Ông đáp với vẻ bối rối, cố lục tìm trong trí nhớ cái vẻ đỏm
dáng kia, cái mốt của những năm bốn mươi, đầu dợn sóng và cổ áo sơ-mi sáng màu
bên trong bẻ ra che chiếc áo khoác ngoài màu đặc biệt sẫm :
- Thú thực, vừa quên vừa nhớ...Tuổi già mà ...
Ông đáp, một lần nữa cố lục tìm trong dĩ vãng hình ảnh người
đàn ông phương phi, tóc chải kiểu Yve Montand, đôi mắt chạy ngang, sống mũi đều
và một cái miệng đỏ hồng, môi cong cong, chắc chắn là loại đàn ông lắm điều,
bẻm mép.
- Tôi là Trần Phú, nhưng không phải Trần Phú tổng bí thư
đảng hồi tiền khởi nghĩa mà là người khoèo chân sang võng của bác năm bốn mươi
bẩy, trong cuộc chỉnh huấn tại bản Nậm Mài. Bác đã nhớ ra chưa ?
- A...a ....giờ thì tôi đã nhớ ra. Bởi anh tự xưng là láng
giềng, tôi cứ lục tìm mãi danh sách người quen trong cái phố huyện xưa, nơi
chôn rau cắt rốn.
- Nằm sát nhau suốt hai tháng như thế, võng sát võng, chân
cọ vào chân, còn hơn là láng giềng chứ. May mà tôi lẫn bác đều không phải người
đồng tính, nếu không ắt xảy ra chuyện.
- Đúng thế thật.
Ông xác nhận và bật cười.
Anh chàng Trần Phú hỏi :
- Bác còn mệt lắm không ?
- Đỡ rồi.
- Ngồi cho thẳng lưng rồi cố gắng xuống giường đi lại vài
bước. Sau mấy bước đầu tiên, bác sẽ muốn đi một vòng quanh hành lang và tốc độ
cứ thế mà thăng tiến. Đấy là cách tốt nhất để giúp máu lưu thông. Bác sẽ hồi
sức rất nhanh, tôi tin như vậy.
- Cảm ơn. Tôi cũng hy vọng được như thế.
Ông đáp và đưa mắt tò mò ngắm nhìn anh ta :
- Còn anh, bí quyết nào khiến thời gian không chạm vào anh
được ?... Từ đấy đến đây đã hơn hai mươi năm, sau giây phút bỡ ngỡ, tôi thấy
anh gần như vẫn giữ được phong độ cũ.
- Tôi thay đổi khá nhiều. Hơn hai mươi năm đâu phải là chốc
lát. Anh không nhìn thấy cái bụng tôi sao ?
Nói tới đây anh ta vạch áo Blu-dông lên cho ông xem. Ông
thấy bụng anh ta rất đỗi bình thường. Rất đỗi bình thường ngay cả với một người
đàn ông tuổi bốn mươi. Ông bảo :
- Tôi không thấy gì. Nhiều lắm là vòng bụng tám mươi. So với
mọi người, nó vẫn là con số lý tưởng.
- Ồ, không ....Tôi không thể chấp nhận được. Bác nhớ ngày
xưa tôi nổi danh khắp chiến khu là ― Trần Phú eo ếch, vòng bụng sáu mươi chẵn,
không hơn một ly. Bụng tôi còn nhỏ và săn hơn cả bụng mỹ nữ.
- Anh điên sao? Hơn hai mươi năm rồi còn gì ?
- Vấn đề là chúng ta kém nên mới để mình tàn phế theo thời
gian. Tôi biết có ông cụ ngoài tám mươi da vẫn không nhăn, vòng bụng vẫn sáu
mươi tám, không suy suyển.
- Tám mươi mà da không nhăn ? Anh cường điệu. Xin lỗi, tôi
không tin nổi.
- Anh phải tin. Rồi anh sẽ phải tin. Tôi lý giải cho ngay
đây : Các mỹ nhân vẫn giữ nhan sắc bằng cách xoa mặt. Mát-xa là biện pháp giữ
nhan sắc lẫn sức khoẻ cổ truyền. Ở Ba-Tư, người ta bán hàng trăm loại dầu thơm
khác nhau cho các phòng tắm phục vụ khách, đương nhiên khách chỉ có thể là
vương tôn, vọng tộc hoặc các thương nhân giàu có. Thế nhưng chính mát-xa cũng
không thể chống được sự nhăn da bởi khi thao tác, người ta phải kéo da qua lại
theo chiều ngang, nghĩa là buộc thớ da giãn nở. Khi đã giãn nở, ắt nó phải biến
hình. Vì thế, biện pháp mát-xa tuy khiến cho máu lưu thông, da tươi khoẻ hồng
hào nhưng vẫn tiếp tục làm hình thành các nếp nhăn. Để chống lại nhược điểm
này, người ta phải tìm đến một phương pháp mới.
- Lý thuyết của anh xem ra chừng hấp dẫn. Tôi bắt đầu tò mò
rồi đây.
Ông vừa nói vừa cười, một nụ cười vừa cởi mở vừa đầy tinh
thần cảnh giác. Trần Phú cũng cười :
- Anh chưa tin đâu. Nhưng anh tin hay không tin đối với tôi
cũng vậy. Tôi chẳng phải thằng Sơn Đông mãi võ bán thuốc ế giữa chợ để moi
trong túi anh mấy đồng tiền ?Tôi chỉ hành động theo đúng phương châm :Thấy điều
gì tốt đẹp mà chẳng nói cho mọi người cùng hay chính là kẻ biển thủ, cũng như
thấy cái hố giữa đường không kêu to cho thiên hạ biết là kẻ có dã tâm.
- Ồ....Đừng đao to búa lớn như vậy...Nào, anh hãy nói về
biện pháp của ông lão tám mươi mà da chưa hề nhăn kia.
- Ông lão ấy chính là trưởng môn phái Nhất nam. Nhà ông cụ ở
sát gò Đống Đa. Nếu anh muốn, hôm nào tôi sẽ dẫn đến thăm, tiện thể xem đám đệ
tử của cụ biểu diễn. Tôi tin là anh sẽ mê môn võ này tắp lự. Còn về phép giữ da
cho khỏi nhăn, biện pháp của ông cụ vô cùng đơn giản : Tát !
- Tát ?...
Ông gần như không tin vào tai mình nữa:
- Anh nói gì ? Tát ?
- Tát !
Trần Phú khẳng định một cách lạnh lùng :
- Tát...Nghĩa là tát. Người ta chẳng thể tìm ra từ nào khác
để diễn tả cái động tác : Tát...
- Tát ? Tôi không hiểu ?
- Tát, nhưng không phải tát quân thù, tát nảy đom đóm mắt,
tát sặc máu mũi máu mồm, tát sái quai hàm rơi răng cửa. Không phải tát để cho
người bị tát phải chịu thương tổn hoặc toi mạng. Cùng là tát, nhưng động tác
vừa đủ cho máu huyết tuần hoàn, chống lại sự lão hoá, nhưng vẫn giữ được nguyên
hình dạng cũ của làn da. Đây, tôi làm mẫu cho anh xem.
Dứt lời, anh ta giơ hai bàn tay cùng một lúc tát lên mặt,
trước hết là hai hàm rồi những cái tát nhịp nhàng lan dần dần lên hai gò má,
hai thái dương và sau rốt hai bàn tay cùng hội tụ trên trán :
- Bốp, bốp, bốp, bốp, bốp....
Ông không thể ngăn anh ta lại, vừa sửng sốt vừa bối rối
trước cuộc thị phạm đầy hào hứng kia, một lát sau ông mới hạ giọng thì thầm :
- Thôi, thôi. Tôi hiểu rồi. Chúng ta không nên làm ảnh hưởng
tới những người xung quanh.
Anh ta lập tức hạ giọng thì thầm theo:
- Bác để ý làm quái gì mấy cái xác chết di động ấy ? Muốn
sống cho vui vẻ, coi như họ không tồn tại trước mắt mình.
Ông kinh hoàng vì lối nói ngang ngược của anh ta nên vội
vàng đứng lên, dù động tác ấy khiến ông hơi choáng váng :
- Chúng ta ra hành lang. Tôi thử xem sao.
Ông vội nói.
- Tốt, để tôi dìu bác đi.
Trần Phú đáp đoạn đưa tay ôm vòng lưng ông. Tay anh ta ấm
nóng, rắn chắc, báo hiệu một cơ thể còn vững vàng. Ông thấy dễ chịu khi đi bên
cạnh con người này, một cảm giác an toàn và ấm áp. Họ đi dọc hành lang. Cùng
với những bước chân, trí nhớ của ông dần le lói ánh hồi quang của những đêm
rừng hơn hai mươi năm trước. Ngày ấy, anh chàng sĩ quan Trần Phú loẻo khoẻo,
tuy đã nổi danh là bậc chỉ huy đầy triển vọng nhưng suốt ngày chỉ ham làm dáng
khoe eo ếch trước đám lính. Hễ anh ta ngồi đâu là lính xúm đen xúm đỏ ở đấy, há
hốc mồm nghe anh ta nói chuyện. Chẳng ai biết chính xác những câu chuyện ấy
nhưng chắc chắn đó là thứ chuyện tếu táo, bởi sau một hồi yên lặng lại thấy cả
đám rú lên cười, cười bò lăn bò toài, cười như mắc chứng động kinh tập thể,
cười như lũ điên. Cấp trên, tuy vô cùng tín nhiệm anh ta về kinh nghiệm trận
mạc song cũng đầy hồ nghi vì tính cách kì quái của gã trai Hà thành.
Hồi ấy, ban ngày họ phải tham dự các cuộc chỉnh huấn. Ban
đêm, lên võng rồi nhưng Trần Phú vẫn không chịu ngủ, thò chân sang khoèo chân
ông khiến ông buộc phải chui đầu khỏi màn để nghe anh ta thì thầm đủ loại
chuyện tiếu lâm rồi cả hai lấy tay bụm miệng lại cười rinh rích...Ngày ấy, họ
là những chàng trai...Giờ, tuổi xuân chỉ còn là hoài niệm ...Hẳn Trần Phú cũng
đang nghĩ ngợi điều gì đó nên cái miệng muôn đời tép nhảy của anh ta cũng ngừng
hoạt động. Cứ thế, họ im lặng đi mấy vòng quanh hành lang rồi ngồi xuống chiếc
ghế dài :
- Bác đã mệt chưa ?
- Lúc đầu, hơi choáng váng. Nhưng sau khi đi hết vòng đầu
lại thấy bình thường.
- Như thế là tốt. Cơ thể bác sẽ bình phục một cách hoàn hảo.
- Ai bảo anh thế ?
- Bác sĩ.
- Bác sĩ trưởng phòng ? Người buổi sáng vừa gặp tôi ?
- Đích xác. Bác đã gặp may. Đó là người có tay nghề cao nhất
viện. Chính anh ta ra chỉ định kéo dài thời gian hôn mê của bác một cách nhân
tạo. Như thế, tránh được khả năng chịu đựng các di chứng đồng thời cơ thể cũng
hồi phục nhanh hơn. Tôi theo rõi nhịp thở của bác khi chúng ta đi , và tôi chịu
anh chàng này là lão luyện.
- Tôi thấy anh cũng lão luyện không kém....Anh có học y hay
sao ?...
- Không. Nhưng tôi đọc. Tôi là giám đốc nhà xuất bản văn hoá
thông tin. Vì thế, tôi buộc phải đọc. Vả chăng, khi ta tiến đến tuổi già, sớm
hay muộn, muốn hay không bệnh tật cũng sẽ kéo đến. Tốt nhất là phải hiểu chúng
trước khi lũ khách không mời này đột nhập vào nhà.
- Anh chuyển ngành từ hồi nào vậy ?
- Tắp lự. Ngay sau ngày giải phóng thủ đô.
- Nhưng...
Ông định hỏi rồi bất chợt ngưng lại. Thời quen biết ông ,
Trần Phú đã là tiểu đoàn trưởng 5O7, tiểu đoàn quân khu thủ đô. Anh ta được
đánh giá là một trong những sĩ quan nổi trội nhất, vì vốn kiến thức, óc sáng
tạo và khả năng linh cảm khác thường. Với dáng điệu mảnh dẻ của gã trai Hà
thành và cặp môi đỏ như son, vừa bẻm mép vừa đa tình, anh ta khiến biết bao cô
nàng chết mê chết mệt đã đành, nhưng cũng thuộc loại chỉ huy được tín nhiệm, có
thể bảo lính nhẩy vào lửa mà không sợ phản ứng. Tại sao anh ta lại giã từ quân
đội một cách uổng phí khi sự nghiệp đầy hứa hẹn ? Vũ tự hỏi. Nhưng rồi, ông tự
biết rằng có những sự thật nằm bên ngoài thứ lô-gic thông thường. Và thứ lô-gic
thông thường mà số đông chấp nhận lại dung chứa những phi lý khi ta nhìn từ
hướng khác.
Có lẽ, cũng phải trả giá khá đắt ông mới hiểu điều này.
Dường như đoán được những ý nghĩ thầm kín của ông, Trần Phú
ngoạc mồm ra cười :
- Bác nuối tiếc cho sự nghiệp quân sự của tôi, đúng không ?
Vì rằng đám lính dưới quyền tôi giờ này đã nhất loạt đeo lon tướng ? Trong khi
tôi chỉ là anh cán sự văn hoá quèn, chẳng thứ bộ trưởng đã đành, cũng chẳng leo
lên nổi chức cục,vụ ? Nhưng đấy chính là tự do của tôi, sự lựa chọn của tôi.
Khi đất nước lâm nguy, vì phận sự của công dân tôi đành cầm kiếm. Nhưng trận
mạc đã xong, tôi trả lại cho người khác giữ, sự nghiệp của võ quan chẳng phải
thứ tôi ham. Giữa mũ mãng cân đai và sự thanh nhàn, tôi chọn vế sau.
- Trước đây, có thể tôi còn băn khoăn, nhưng giờ tôi hiểu là
anh có lý.
- Cảm ơn, cái lý của tôi có thể là sự phi lý đối với kẻ
khác. Cũng ví như những lời lẽ của tôi có thể làm chướng tai kẻ khác, đám người
cùng phòng với anh chẳng hạn. Nhưng cuộc đời chẳng quá dài để khiến ta phải
chiều lòng tất thảy chúng sinh.Ta cứ làm điều ta muốn miễn đó chẳng phải những
hành vi phi đạo đức hay phi nhân. Nào, tôi tháp tùng anh về phòng. Giờ anh uống
thêm cốc sữa nữa rồi đi ngủ. Tôi cam đoan rằng ngày mai anh sẽ ăn được cháo
thịt.
Họ về phòng. Ông ngoan ngoãn uống đầy một cốc sữa nóng trước
khi đi ngủ. Và quả thật, giấc ngủ của ông viên mãn. Sáng hôm sau, khi ông tỉnh
dậy đã thấy Trần Phú đang đấu hót với bác sĩ trưởng phòng ngoài hành lang. Cả
hai đều có vẻ hào hứng. Hẳn ông thầy thuốc vừa kinh ngạc vừa thú vị vì gặp được
một con bệnh thuộc lòng như cháo chảy mọi ngón nghề của mình. Thấy ông tỉnh
giấc, họ quay lại:
- Xin chúc buổi sáng tốt lành.
Trần Phú lên tiếng trước. Bác sĩ mỉm cười tiếp theo :
- Hôm nay bác sẽ ăn cháo thịt. Xin chúc mừng vì bác chuyển
giai đoạn dinh dưỡng nhanh gấp bội những người bình thường.
Ông cũng cười, đáp :
- Hẳn là anh bạn tốt bụng của tôi đã đề nghị thầy thuốc cho
tôi được leo thang ?
- Không. Chẳng ai có quyền đề nghị. Chỉ định chuyên môn bao
giờ cũng độc đoán. Nó chỉ tuân theo những nguyên tắc nghề nghiệp thôi.
Bác sĩ trả lời đoạn giơ tay chào ông rồi vội vã ra đi vì
người ta đang gọi anh ta dồn dập từ phía cuối hành lang. Trần Phú vào phòng,
trước những ánh mắt hoặc gườm gườm hoặc ghẻ lạnh của đám người xung quanh.
Nhưng anh ta tỏ vẻ phớt lờ. Bước tới đầu giường Vũ, anh ta lục soát đống cam,
chuối và các loại bánh kẹo chất chồng trên chiếc tủ nhỏ :
- Bác không nên dùng những thứ này...Để tôi đem phân phát
cho mấy phòng xung quanh. Tuy gọi là viện Việt-Xô, chuyên dành cho cán bộ cao
cấp song cũng ối người chẳng đủ tiền mua hoa quả. Còn những gói bánh này nữa,
đem làm từ thiện được rồi; tuổi bác không nên ăn loại bánh kẹo ―quốc doanh. Tôi
có thể san sẻ cho bác phần bánh của tôi.
Nói xong, không chờ ông đáp lời anh ta quay quả bước khỏi
phòng rồi lát sau trở lại với chiếc làn nhôm. Bỏ tất thảy đám hoa quả, bánh
trái vào làn, anh ta mang đi không nói thêm nửa lời. Ông cũng không dám nói gì,
lẳng lặng pha sữa uống, thầm ngượng ngùng vì ánh mắt theo rõi của đám người
xung quanh. Nhưng cảm giác đói đã trở lại với tốc độ ngựa phi nước đại khiến
ông bình tâm. Vừa uống sữa, ông vừa nhìn những vòm cây đung đưa ngoài trời,
tưởng như mình đang ở một miền đất lạ, nơi ông chưa từng đặt chân tới và do đó,
nó cắt rời với thế giới ông từng sống, nó là sự gián đoạn vĩnh viễn với những
ngày sau lưng ông, nó là lục địa mới vừa được mở ra cùng một lần với cuộc trở
về từ cõi chết.
Sau bữa cơm trưa, Trần Phú quay trở lại, với một làn đầy hoa
quả mới. Anh ta xếp chúng một cách thứ tự lên chiếc tủ đầu giường :
- Anh bắt đầu ăn cháo mặn có nghĩa là anh có thể dùng tất
thảy những thứ hoa quả này, chẳng cần kiêng cữ. Còn đây là bánh Phơ-lăng và
Ma-đơ-len, chính tay cô em gái tôi làm. Anh có thể ăn kèm khi uống sữa hoặc trà
nóng.
- Cảm ơn. Nhưng tôi thật khó nghĩ khi anh quá tốn kém.
- Ồ không. Không quá tốn kém như anh tưởng. Tất cả do em gái
tôi chuẩn bị. Tôi vốn được chiều từ nhỏ, dù gia đình khá đông. Thôi, anh nghỉ
trưa đi, mai sẽ gặp lại.
- Để tôi đưa chân anh, tiện thể vận động cho sảng khoái.
- Nhất trí.
Khi họ đã ra cầu thang, ông ghé tai anh ta nói nhỏ :
- Những người quanh giường tôi đều nhìn anh với con mắt lạ
lùng. Vì sao vậy ?
- Vì sao ?
Trần Phú hỏi lại với giọng ngạc nhiên :
- Anh không hiểu được điều đơn giản ấy hay sao ?
- Thú thực. Tôi không hiểu. Tôi cũng không thể giả vờ làm ra
hiểu khi lòng tôi còn đầy thắc mắc. Xin anh thứ lỗi.
Trần Phú quay sang nhìn ông chăm chú, dường như bối rối,
dường như cảm động. Đoạn anh ta hạ giọng :
- Nếu người khác đặt câu hỏi này tôi sẽ cho rằng anh ta đóng
kịch ― con nai già ngơ ngác. Nhưng với anh, tôi tin đấy là câu hỏi thực tình.
Có thể vì sự thơ ngây này tạo nên phẩm chất của anh, và có thể vì thế mà chúng
tôi yêu anh, coi anh là người anh hùng cuối cùng của thời đại...
- Ồ...
Giờ, lại đến lượt chính ông bối rối. Ông không quen nghe
người ta bầy tỏ tình cảm trực tiếp như thế bao giờ. Trần Phú tiếp tục chăm chú
nhìn ông như nhìn một bức tranh trong phòng triển lãm, rồi anh ta cất tiếng:
- Anh không biết rằng xã hội của chúng ta là xã hội phân cấp
một cách quyết liệt và dã man cho dù nó vẫn thường xuyên được quảng cáo là bình
đẳng, tự do và dân chủ.? Ngay ở đây, người ta cũng vẫn phân hạng, và nhòm ngó
nhau theo tiêu chuẩn cấp bậc. Đám người cùng phòng với anh đều là chuyên viên
bậc tám, bậc chín, nghĩa là bậc tót vời trong hạng ngạch chuyên viên. Trong khi
đó, tôi chỉ là cán sự sáu, vừa đủ ngót nghét nhận sổ vào đây điều trị. Bởi vậy
mà họ coi thường tôi. Nhưng trong khi họ vênh váo vì cấp bậc thì về mặt nhân
dạng họ chỉ là một đám xác chết biết đi. Anh đã để ý cách họ khua thìa khoắng
bát cháo hay họ xêu từng hạt cơm bỏ vào mồm hay chưa ?
- Chưa. Thú thực tôi chưa dám nhìn thẳng hoặc trò chuyện lâu
với họ vì ngại.
- Vì sự có mặt của tôi. Và vì họ nhìn tôi với con mắt ác cảm
nên anh cũng tự thấy họ không thể có thiện cảm với anh?
Ông mỉm cười thay cho lời thú nhận. Tức khắc Trần Phú cũng
cười phá lên :
- Tôi biết ngay mà. Tính anh vốn cả nể. Bản chất anh nho nhã
thanh lịch hơn tôi, cho dù tôi gốc trai Hà thành còn anh là dân tỉnh Bắc. Nhưng
trong tôi luôn có một kẻ bất cần, một thằng khiêu khích. Đối với hạng người dở dói
như vậy, tôi xem như đám nộm bằng giấy bồi. Tôi dìm thói hợm hĩnh của họ chết
sặc trong vũng bùn ghen tuông. Anh xem đây...
Trần Vũ vén ống tay áo để cho ông nhìn thấy cánh tay anh ta
còn nổi vồng bắp thịt, da đỏ au phủ đầy lông :
- Họ hơn tôi bao nhiêu cấp bậc nhưng cẳng chân họ không
nhỉnh hơn cánh tay tôi. Cùng một năm sinh nhưng hai hàm răng họ là của giả
trong khi tôi mới rụng một chiếc răng số tám. Buổi sáng, tôi xơi vèo bát phở
với hai cái đùi gà trong khi họ khua thìa trong bát cháo loãng ngoét. Buổi trưa
tôi chén hai bát cơm đầy với cá nhà kho trong khi họ nhai mãi không hết xuất
cơm thịt bò xào dai nhoách của bệnh viện. Đó, chính là lý do mà họ nhìn tôi với
những cặp mắt ghen tức nếu không muốn nói thẳng là căm thù. Con người luôn luôn
như vậy, muôn kiếp như vậy, cho dù họ đã đứng sát cửa mồ. Anh chẳng cần phải
bận tâm. Thôi, anh về phòng nghỉ trưa đi. Mai tôi sẽ đến.
Trần Phú giơ tay chào ông rồi xuống cầu thang. Đúng là anh
ta mới chỉ đủ quyền nhận sổ vào viện này, nên phải ở khu nhà cuối cùng, nơi
dành cho những bệnh nhân xoàng nhất, không được quyền ưu đãi về thuốc men cũng
như chế độ phục vụ. Nhưng những bất lợi về địa vị xã hội lại khơi gợi cho con
người này tính vui vẻ bất tận và sự hả hê mà anh ta tìm được trong trò chơi
khiêu khích. Tinh thần lạc quan là vũ khí đích thực của anh ta. Ông nghe tiếng
gót giầy của Phú nện trên cầu thang một cách nhẹ nhõm, và cùng nhịp chân bước,
tiếng hát anh ta khe khẽ vọng lên:
― Rồi sóng sẽ xoá đi tất thảy trên bờ cát
Dấu chân xưa của các lứa đôi và những cặp tình nhân...
Bài hát của những năm bốn mươi. Những chàng sinh viên mơ
mộng và những cô nàng thướt tha áo trắng. A! Tuổi trẻ của ông. Bóng ma của nó
theo về cùng bài ca cũ. Nhưng ông lập tức xua đuổi chúng bởi một nỗi sợ hãi bóp
nghẹt con tim :
― Không!...Không!...Không!...
Ông vội vã trở lại phòng, lên giường nằm hòng kiếm giấc ngủ
nữa nhưng giấc ngủ không tới. Sau cùng, ông đành tung chăn ngồi dậy. Người bệnh
nằm đối diện với ông mở mắt ra :
- Bác chịu thua, không ngủ được ?
- Vâng.
- Tôi cũng vậy. Không ai thắng được tuổi già.
- Vâng.
- Anh chàng bảnh trai bạn của bác tối nay có đến chơi không
?...
- Không. Anh ấy hẹn ngày mai.
- Anh ta không nhớ tôi nhưng tôi biết anh ta rất rõ.
- Thật vậy sao ?
- Trước đây tôi từng là đồng cấp khi anh ta cầm quân 507.
- Rồi bao lâu sau bác mới chuyển ngành ?
- Tôi không chuyển nhành. Tôi vẫn phục vụ trong quân ngũ cho
tới tận giờ.
- Ô...Vậy sao ?
- Bác muốn hỏi vì sao tôi lại lạc vào đây mà chẳng điều trị
ở viện IO8, đúng không ? Bởi tôi ở đây cũng giống như con ngựa lạc sang chuồng
dê vậy ?
Ông ta nhắm mắt lại. Đôi môi khô thâm xì vừa co vừa giãn
trong một nụ cười nhăn nhó và chua chát :
- Bởi giám đốc viện ấy là kẻ thù sinh tử của tôi. Tôi không
thể đem thân vào đấy để nó thịt tôi như thịt một con gà.
Vũ lặng thinh, không biết nói gì hơn. Nụ cười nhăn nhó vẫn
đọng trên môi người bệnh, khiến mặt ông ta giống chiếc mặt nạ bằng sáp.
Hơi thở ông ta dập dồn và có những tiếng khò khè rất mạnh
kèm theo. Thi thoảng, những tiếng khò khè ấy kết thành chuỗi nhất loạt trút ra
như gió rít, một thứ âm thanh ma quái.
― Tất thảy đều dẫn tới cái kết thúc. Mọi ngả đường đều dẫn
tới một nơi cuối cùng. Nhưng ngay trong hành trình tiến về cõi chết, con người
cũng vẫn sống với những ân oán của họ, những giằng trói không thể nào tháo cởi.
Ông nghĩ, khi nhìn con người tội nghiệp kia.
Rồi ông rón rén đứng dậy, đi ra ngoài. Chính lúc ấy, người
bệnh lại cất tiếng dù đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Sau một hồi khò khè, giọng anh
ta xìu xuống như bánh mì gặp nước :
- Bác nói với Trần Phú rằng anh ta chính là kẻ khôn ngoan và
may mắn. Anh ta biết sống đúng cuộc sống của anh ta.
- Vâng, tôi sẽ nói.
- Chớ kể gì về tôi...Cứ bảo rằng một sĩ quan đồng cấp nhắn
như vậy.
- Vâng.
- Rằng tôi chúc anh ta càng về già càng vui vẻ.
- Vâng.
- Tôi ...cũng chúc bác được như vậy...
- Cảm ơn.Tôi không may mắn có được cuộc sống vô tư như anh
bạn kia.
- Tôi biết....Tôi biết...bác là ai....
Ông ta ngừng lại để thở vì một chuỗi tiếng khò khè lại dồn
đến và cái khí cụ ma quái trong lồng ngực ông ta rít lên từng hồi. Lát sau, ông
ta nói tiếp:
- Nhưng dù sao....tôi cũng vẫn chúc bác....được hạnh phúc.
Một nụ cười nhăn nhó và chua chát lại xuất hiện trên đôi môi
đen tím của ông ta khiến Vũ ái ngại. Ông hỏi :
- Bác có cần tôi đi gọi bác sỹ trực phòng không ?
- Cảm ơn. Tôi biết bệnh của tôi. Bác cứ ra ngoài mà dạo chơi
cho thanh thản. Đi đi.
Ông không biết làm gì hơn là đi ra hành lang một cách vội
vã. Một cách vội vã, ông xuống cầu thang rồi ra giữa sân bệnh viện, đứng như
bức tượng, mắt dán vào những bóng cây như tìm nơi trú ẩn cho tâm hồn đang run
rẩy của mình. Nỗi sợ đang dồn đuổi ông:
― Ồ, mấy ngày trước, không hiểu bộ dạng ta có thảm hại như
họ hay không ? Ôi, nếu ta cũng có gương mặt vàng xám như sáp ong bẩn, nếu miệng
ta cũng há hốc ra như mồm cá ngão chết trên mẹt hàng cá, nếu hai bên mép ta
cũng chảy dãi dớt như những kẻ nằm cùng phòng ? Chao ôi, kinh khủng thay cho
kiếp người !
Ý nghĩ ấy khiến ông rùng mình liên tục. Những cơn rùng mình
làm sởn gai ốc, thật giống cơn rùng mình khi nhiễm lạnh hoặc khi nghe chuyện ma
quái :
― Ta cần một cuộc sống lành mạnh và hữu ích. Nếu mai đây,
khi ý trời không thuận, ta sẽ tìm đến cái chết một cách thanh thản. Như thế, là
cuộc giải phóng tối ưu.
Trước mặt ông, hàng cây đứng la đà trong nắng. Thuần là cổ
thụ. Những cây sấu già, những cây xà cừ và những cây bằng lăng hoa tím. Chúng
mọc chen chúc nhau, chẳng ra hàng lối nhưng tạo thành hòn đảo giữa khoảnh sân
mênh mông. Hẳn là khối diệp lục phì nhiêu này từng cứu vãn nhiều người bệnh
trong những cơn khủng hoảng tâm lý, như nó cứu vãn ông vào chính lúc này.
Vũ ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại để nghe tiếng lá xạc xào và
tiếng chim chành choẹ nhau. Bất chợt, một vật gì đó ướt nhão rơi toẹt vào mặt
ông, ngay chính mũi. Ông mở choàng mắt ra và hiểu rằng một con chim hỗn xược
nào đó vừa ỉa đúng mặt mình. Ông lục túi, tìm khăn lau bãi cứt chim. Lúc ông
đang cắm cúi lục soát, một bàn tay đã chìa ra trước mặt ông, với một chiếc khăn
tay :
- Anh hên đấy. Chim ỉa đúng đầu đúng cổ là có lộc. Chẳng lộc
to như tiền tệp vàng khối thì cũng lộc nhỏ như gói bánh, hòn xôi.
Không ngẩng đầu lên, ông vội túm ngay lấy chiếc khăn, vội vã
lau mặt :
- Anh tìm ở đâu ra thứ lý thuyết ấy ?
- Thứ lý thuyết ấy có lâu rồi, đại huynh ạ.
Một giọng lạ hoắc cất lên khiến Vũ vội vã ngẩng đầu : Trần
Phú không đến một mình mà với một người đàn ông khác. Chính vị khách này vừa
cất lời đối đáp ông :
- Đại huynh không biết từ xưa dân chúng đã tin rằng nằm mê
thấy phân là có lộc ?
- Cũng đôi lần tôi nghe nhưng không để ý.
Vũ đáp.
Người đàn ông kia ngoác miệng cười, miệng anh ta rộng mênh
mông, kéo đến tận hai mang tai khoe ra hai hàm răng vàng khè khói thuốc, đôi
mắt hấp háy sau cặp kính cận dày. Gương mặt đen đủi, chẳng có một đường nét khả
dĩ vậy mà vẫn toát ra một vẻ hấp dẫn, một thứ hấp dẫn khó cắt nghĩa. Anh ta
tiếp tục diễn giảng ý kiến của mình :
- Bởi chúng ta là dân trong xứ trồng lúa nước, nên buộc phải
hiểu hàm ý biểu tượng của những giấc mơ phân.
Ông cười. Lúc ấy, Trần Phú mới giới thiệu :
- Đây là anh Trần Vũ, người anh hùng của thời đại...Còn đây
là bạn tôi, nhà văn Lê Phương. Chúng tôi cùng bỏ nhà đi theo cách mạng năm bốn
mươi lăm, lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi.
Họ bắt tay nhau rồi Trần Phú đề nghị đi đến căng-tin bệnh
viện, nơi khả dĩ có đủ bàn ghế ngồi và có thứ để giải khát. Ba người đi hết
khoảnh sân là đến căng-tin, một gian nhà rộng thênh thang, vài chục dẫy bàn ghế
xếp hàng chờ khách nhưng thực khách lưa thưa chỉ dăm bẩy người, người nào cũng
có vẻ đăm chiêu, hờ hững. Họ chọn chiếc bàn ít bụi nhất, phỏng chừng như thế,
vì nó được kê gần quầy bán hàng, cũng sát khuôn cửa sổ. Khuôn cửa này mở ra
mảnh vườn phía sau viện, tuy nhỏ nhưng cũng xanh rờn bóng cây me, cây dâu da
lẫn cây hoa sữa. Quầy bán hàng vắng tanh. Trần Phú đứng giữa khuôn cửa, cất
tiếng :
- Này !... Các em bán hàng ơi .
Chẳng thấy ai đáp. Anh ta lại cao giọng hò :
- Này, các nàng căng-tin ơi.
Cũng chẳng ai trả lời. Anh ta phải gần như hét lên :
- Này, căng-tin bệnh viện đâu rồi ? Ai ? Ai bán hàng ở đây ?
Lúc đó, một ông khách đang ngồi ăn bánh rán khuyên :
- Bác phải ra giữa sân mà gọi....Mấy con bán hàng đang đú
đởn trong phòng bảo vệ kia kìa ...
- Cảm ơn.
Phú đáp, đoạn anh ta rảo bước qua sân, đến chính giữa cửa
phòng bảo vệ mà hỏi :
- Ai bán căng-tin ở đây ? Chúng tôi chờ nửa tiếng rồi.
- Đây ! Chúng em đây ...
Hai ba cô tranh nhau đáp rồi cả đám chạy nhao về phía
căng-tin, vừa chạy vừa cười rinh rích. Trần Phú quay lại, giọng không còn cợt
nhả mà đầy vẻ khó chịu và đe doạ :
- Nhanh tay lên. Hai phin cà-phê và một ấm trà loại một. Tôi
sẽ bỏ qua cho các cô chuyện này.
- Cảm ơn thủ trưởng ạ....Chúng em xin lỗi ạ ...
Mấy cô gái đáp, không còn cười mà bắt đầu sợ hãi. Một cô vội
vã lấy giẻ ra lau chiếc bàn họ đang ngồi. Cô thứ hai pha trà và cô thứ ba đổ
cà-phê vào phin.
Lúc ấy, Trần Phú ngồi vào bàn :
- Anh Vũ đã nhìn thấy chưa ?
- Tôi có thấy.
- Không hiểu cái ông Trần Phú bí thư đảng cộng sản kia nếu
còn sống, ông ta sẽ nghĩ gì về cái tình cảnh này ?
- Thôi, chuyển đề tài.
Lê Phương gàn :
- Chui vào loại đề tài này là chui vào sừng trâu. Một đường
hầm không ánh sáng. Bởi chẳng cứ Trần Phú mà biết bao nhiêu con người tài cán
hơn ông ta cũng không thể hình dung nổi cái xã hội mà họ tạo ra sẽ mang gương
mặt nào. Cách mạng bao giờ cũng là một cuộc hoài thai mà đứa bé ra đời nếu
chẳng phải quái thai thì cũng hoàn toàn khác với giấc mơ hay trí tưởng tượng
của những người tác tạo nên nó. Chúng ta trở lại với cuộc sống nhỏ bé của mình.
Hôm nay là một ngày vui, bởi anh Vũ chính là người mà lâu nay tôi thầm muốn gặp
mặt. Câu xưa là « danh kì thanh, tướng bất kì hình »
- Ồ ...Tôi không dám.
- Khi xưa tôi đọc « Một anh hùng thời đại » của
Léc-mông-tốp, biết đây là thứ tiểu thuyết- tự truyện, và nhân vật chính rất đẹp
trai. Giờ gặp anh, tôi thấy anh cũng đẹp trai như vậy.
- Ồ, các anh quá khen. Tôi đâu phải tài tử điện ảnh ?
Vũ đáp, cảm thấy hai mang tai nóng rần vì ngượng.
Trần Phú lẫn Lê Phương chăm chú nhìn ông như những gã buôn
đồ gỗ ngắm một cái tủ khảm trai đủ long, ly, quy, phượng, rồi cả hai cùng ngoác
miệng cười :
- Thật sung sướng thay cho ai được làm vợ anh. Một người đàn
ông đẹp trai dường ấy mà còn thẹn đỏ tai vào tuổi ngũ tuần.
- Ồ...
Vũ chẳng biết nói năng ra sao. Hai gã đàn ông này lạc từ một
miền xa lạ tới, ngôn ngữ của họ, cách biểu đạt của họ, và những ý tưởng của họ,
tất thảy đều lạ lùng với ông, với thế giới của ông, thế giới của những con
người nằm trong guồng máy quyền lực. Ông đành lái câu chuyện sang hướng khác :
- Đêm qua tôi cứ nghĩ mãi. Hà nội bé như thế vậy mà vì sao
sau hơn hai mươi năm chúng ta mới gặp lại nhau, kể từ ngày ở bản Nậm Mài ?
- Vì chúng ta đã rẽ sang những ngả đường khác nhau, và những
ngả rẽ ấy càng ngày càng cách xa theo năm tháng. Rồi chúng ta lại gặp nhau ở
đây, vì đây là trạm trung chuyển giữa cuộc sống và cái chết. Tất cả những kẻ
bước chân vào đây là những kẻ đã được thần chết điểm danh từ xa. Họ cố kéo dài
được chút nào hay chút ấy trước cuộc đầu hàng vĩnh viễn.
Trần Phú đáp, bộ điệu hớn hở của anh ta khiến ông phì cười :
- Tôi trông anh giống một thương gia chuẩn bị cưới vợ bé hơn
là người chuẩn bị đi đến nghĩa trang.
- Chính xác một nửa. Tôi vào đây vì u tiền liệt tuyến. Bác
sĩ đòi mổ nhưng tôi không chịu. Tôi kết hợp uống thuốc với dùng các thực phẩm
có dược tính, ví như cà rốt sống, mộc nhĩ, cà chua sống. Đặc biệt phải loại trừ
thịt, dù thịt lợn hay thịt bò. Thi thoảng được phép ăn gà vịt, với điều kiện
lọc bỏ da và mỡ. Thực phẩm chủ yếu của tôi là cá đồng, tôm sông. Đương nhiên
những thứ này do gia đình cung cấp. Qua bốn tháng xét nghiệm lại, phần u đã teo
hai trăm gờ-ram. Giờ tôi cố công tìm một em xinh tươi, có khả năng khiến tôi «
hoạt động cách mạng » một cách phi thường. Nếu được như vậy, ắt mọi thứ u đều
tan biến.
- Tôi nghĩ là anh nói cho vui ...
Ông đáp. Lúc ấy Lê Phương xen vào :
- Anh có lý của anh và Phú có lý của nó. Bởi quan niệm sống
của chúng ta khác nhau, nghiệm sinh cũng khác nhau nên niềm tin cũng khác
nhau...Nhưng nếu anh chẳng còn nhớ ca dao, tục ngữ, tôi xin biếu anh câu này :
« Thông đái, ngon cơm. »
- Tôi cũng đã từng nghe, nhưng quên sạch. Các anh tài tình
thật, làm sao mà những câu tục ngữ cổ xưa ấy còn đọng lại trong não đến tận bây
giờ ?
- Bởi chúng tôi sống với chân lý của đám dân đen. Chân lý
của dân đen là món hàng tồn kho nhưng không bao giờ mốc. Khi cần thiết, người
ta có thể móc chúng ra và đem xài tức khắc, chẳng cần nấu nướng hay thêm hành
thêm tỏi. Theo chân lý ấy, nếu đời sống tình dục của người đàn ông được hưng
phấn, chính nó sẽ mang lại khả năng tái thiết những bộ phận bắt đầu lão suy.
- Ồ, chân lý của anh nguy hiểm thật. Nó sẽ xui khiến những
người đàn ông bỏ gia đình để lao vào những cuộc phiêu lưu tìm hưng phấn.
- Chính xác như vậy. Nhưng không chỉ đàn ông mà cả đàn bà,
vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội.
Vấn đề phải tính ở đây là những trường hợp cụ thể và những nhân cách cụ thể.
Không có mẫu số chung cho toàn thể nhân loại trong cuộc truy tìm hạnh phúc.
Cũng không có một hằng số cho các cuộc phiêu lưu. Điều cốt yếu là .....
Lê Phương ngừng lời, rút trong một túi áo ra chiếc tẩu to
đùng, trong túi áo bên kia gói thuốc lá rời sợi sẫm, rồi từ từ nhồi thuốc vào
nõ tẩu. Vũ nhận ra rằng anh chàng nhà văn này có lối nói chuyện theo kiểu
chương hồi, nghĩa là anh ta luôn luôn bắt mọi người chờ đợi. Chắc hẳn gã đàn
ông xấu xí này đã quyến rũ không ít đàn bà với lối nói duyên dáng bẩm sinh. Ông
cười :
- Anh bắt đầu khiến tôi tò mò rồi đây.
- Tôi tiếp tục.
Lê Phương đáp, nhưng anh ta còn rề rà châm lửa, rề rà rít
thuốc, rề rà nhả khói...và khoảng thời gian chùng chình ấy khiến ông nghe rõ
tiếng ong bay ngoài vườn, rù rì trên đám me xanh.
« Không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn
luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Sao đến tuổi này ta mới
biết ? Moị sự quá muộn màng. »
Ý nghĩ ấy đưa ông trở lại với hình ảnh người đàn bà của ông
: Tố Vân ! Lần đầu tiên, kể từ lúc ông bừng mắt tỉnh cơn hôn mê, cái tên ấy
quay trở lại.
« Không....Không ...Không .... »
Ông chối từ quyết liệt vì cảm thấy giông bão sắp nổi lên
quanh mình, và ông có nguy cơ bị cuốn vào luồng gió dữ.
Quay đầu lại, ông buộc mình tập trung vào cuộc đối thoại với
nhà văn :
- Rồi sao nhỉ ? Tôi đang chờ anh đây.
Lê Phương nhe răng cười :
- Nhưng người đứng đắn như đại ca, nghe làm gì những lý
thuyết xằng bậy của lũ đàn em, lũ đực rựa ưa rong chơi trên cõi đời ?
- Vì sao lại phân biệt đối xử như thế ?
- Vì đại ca thuộc loại người lo những việc quốc gia đại sự,
chúng em là bọn chỉ thích sống cuộc sống riêng của mình. Chúng em e rằng những
lời lẽ buông tuồng của bọn em khiến đại huynh không chấp nhận nổi. Ồ, tôi đã
nghe mãi những chuyện tiếu lâm của anh Phú trên rừng năm trước. Có cớ gì mà
phải kiêng dè ?
- Vâng. Nhưng hơn hai mươi năm đã qua và thời gian phân
cách.
- Quả vậy.
Bất giác, ông buông tiếng thở dài rồi chậm rãi nói tiếp :
- Thời gian phân cách con người, không riêng ai mà cho toàn
nhân loại. Nhưng dẫu sao, chúng ta vẫn còn những giá trị chung ; lòng tốt chẳng
hạn, hoặc tình bạn, hoặc tình quyến luyến trong gia tộc...Những thứ tình cảm ấy
không thể tiêu tán theo thăng trầm của thời cuộc và thời gian...
- Vâng.
- Những lúc khó khăn nhất trong đời, tôi đều cầu cứu người
anh trưởng. Ông ấy có thể hiểu tôi ngay trong im lặng. Ông ấy sẵn sàng ghé vai
gánh gánh vác gia đình, để tôi được cất bước thênh thang.
- Vâng.
Vũ ngừng lại vì chợt nhận ra rằng ông đang ngỏ nỗi lòng
trước hai gã đàn ông mà một người đã quên lãng hơn hai mươi năm và người kia
vừa gặp mặt chưa đầy nửa tiếng. Đó là điều ông chưa từng làm. Nâng tách trà
lên, ông uống liên tục từng ngụm nhỏ để che cơn bối rối. Và rồi, ông cất tiếng
hỏi :
- Còn anh, anh vào đây chữa bệnh gì ?
- Tôi ?
Anh chàng nhà văn hỏi lại, rồi lắc đầu cười :
- Tôi chẳng có bệnh gì mà nếu có bệnh tôi cũng chưa đủ tiêu
chuẩn vào đây.
- Anh nói gì ? Anh tham gia cách mạng từ năm bốn mươi nhăm,
cùng lần với anh Trần Phú ?
- Vâng, nhưng tôi không đủ tiêu chuẩn để vào đảng. Đã không
là đảng viên thì chắc chắn mãn kiếp cũng không được bổ nhiệm vào một chức vị ra
hồn. Chẳng những thế, tôi lại can tội luôn luôn yêu các cô nàng xinh tươi. Đối
với tôi, đảng cao quý trên lý thuyết, còn các em xinh tươi thì tuyệt vời trên
phương diện thực tiễn. Tôi vốn không thích « Thả mồi bắt bóng ». Tôi chọn giá
trị thực mà sống, còn đảng vĩ đại, tôi xin nhường cho người khác hưởng.
Nói tới đây, cả hai gã đều cười ha hả. Ông buộc lòng phải
cười theo, lòng hồ nghi chẳng biết hai gã đàn ông chớt nhả này nói thật hay nói
đùa. Chừng như hiểu được sự phân vân của ông, Trần Phú đỡ lời bạn :
- Lê Phương nói đúng đấy, nó chưa đủ tiêu chuẩn cán sự năm
để vào đây chữa bệnh. Nhưng ngày nào cậu ta cũng đến thăm tôi. Nhiệm vụ duy
nhất phải hoàn thành là « Nâng cao tinh thần cho đội bạn ». Chi bộ đảng của các
anh ít nhất cũng có ba người. Chi bộ của chúng tôi chỉ có hai, thành lập từ năm
bốn mươi nhăm đến nay nhưng đặc biệt vững bền, chưa ai đâm dao găm vào lưng ai
cả.
- Chính xác như vậy...
Lê Phương khẳng định, tiếp lời anh bạn vàng với điệu bộ quen
thuộc của một cặp bài trùng, kẻ tung người hứng :
- Tình đồng chí của chúng tôi không dựa trên lý thuyết vĩ
đại « liên hiệp vô sản toàn thế giới ». Chi bộ của chúng tôi dựa trên nền tảng
của những thứ tương liên tầm thường vụn vặt, những tình cảm cỏn con.Ví dụ, hồi
còn ở trên rừng Việt bắc, nếu gia đình gửi tiếp tế ra thì dù nhiều dù ít phải
chia đều làm hai nửa, từ tiền bạc cho tới quần áo,thuốc men. Gặp khi đau ốm
thằng nọ phải cõng thằng kia, dù có chảy mồ hôi bẹn, có còng sống lưng cũng
phải rán chịu. Còn trong hoà bình, dựa vào nhau mà « tác chiến »
- Tác chiến ?
Thấy vẻ thắc mắc của ông, cả hai đưa mắt nhìn nhau tủm tỉm
cười. Rồi, Lê Phương quay lại bảo Trần Phú :
- Đại huynh không có chút khái niệm nào về ngôn ngữ của đám
« rong chơi giữa cuộc đời ». Thôi, âu cũng là dịp giải trí cho bậc cao nhân
trong lúc anh ấy buộc phải nghỉ ngơi, tôi sẽ bật mí những bí mật cỏn con trong
cuộc đời cỏn con của chúng ta. Cậu bằng lòng chứ ?
- Được. Chi bộ thông qua nghị quyết .
Trần Phú đáp và bộ mặt hớn hở mãn kiếp của anh ta đỏ rực lên
vì vui thú. Lê Phương rút tẩu thuốc khỏi miệng, đặt một cách cẩn trọng xuống
chiếc gạt tàn bằng gốm rồi nói :
- Bọn chúng tôi không được may mắn như anh, hoặc những người
đàn ông như anh, chiếm được một nàng tiên xinh đẹp và mãn nguyện cho đến phút
chót cuộc đời. Vợ chúng tôi, hoặc nói cho đúng hơn là « những bà lão khả kính
sinh ra đám con của chúng tôi » lại luôn luôn có niềm tin vững chắc rằng chúng
tôi là những thằng tù chung thân, chung thân dưới quyền cai quản của họ, giống
như cái tràng kỉ gụ hay chiếc tủ chè gia bảo đặt năm này qua tháng khác trong
nhà. Vì coi chúng tôi là những thứ đồ vật như vậy, nên họ có thể tuỳ tiện phơi
ra ngày này qua tháng khác những thứ của nả họ với sự bình tâm của Bao Công Đại
nhân trước giờ phán quyết.
- Phải nói cho rõ ràng. Anh Vũ không hiểu « những thứ của nả
» là cái gì đâu.
Trần Phú chêm vào.
Nhà văn gật đầu, đôi mắt hấp háy :
- Những thứ của nả này là những thứ phụ tùng đã bị cũ nát.
Chắc rằng đại huynh đã từng thấy những ngôi nhà bị trốc vôi tường, dột mái, sụt
lở hay gãy kèo gãy cột. Hãy hình dung con người cũng như những ngôi nhà bị bom
dội, bão đánh hay thời gian huỷ hoại. Xin đại huynh bỏ qua cho những ngôn từ
dung tục này. Nhưng khó có thể tìm những danh từ xác thực hơn để thay thế.
Những thứ của nả của các bà là những cặp vú sệ, những cặp mông nhão chảy xuống
tận đũng quần, những cặp mắt chẳng còn chút long lanh nào mà chỉ thấy ghèn với
nhử. Tóm lại, tất thảy những thứ mà nàng thơ nhìn thấy sẽ bỏ chạy mất dép còn
hoạ sĩ tiếp kiến sẽ phải cúi xuống giả bộ mắt loà. Ấy là chưa kể các bà còn xài
những thứ áo quần lố lăng hay dơ dáy.
Tới đây, anh ta e hèm hắng giọng như điệu ca sĩ sắp lên sân
khấu rồi cạn chén cà-phê. Ông bật cười vì biết rằng anh ta chuẩn bị cho phần
chính của câu chuyện, cái phần được mệnh danh một cách điệu đàng là « những bí
mật cỏn con của những cuộc đời cỏn con ». Nhưng nhà văn lại đặt chiếc chén rỗng
xuống bàn, quay sang bảo bạn :
- Bảo chúng nó pha phin khác đi mày. Cà-phê này còn thua
nước giặt tất. Nền ẩm thực cổ truyền của chúng ta đã bị phá huỷ vì thứ mậu dịch
quốc doanh này.
- Ờ... Tởm thật.
Trần Phú đáp đoạn anh ta quay lại bảo mấy cô gái bán hàng :
- Pha cho tôi phin cà-phê đúp rồi tính hai lần tiền. Giống
như sáng hôm qua.
- Thưa thủ trưởng, có ngay ạ ...
Một cô bẻo lẻo đáp. Hai cô kia hí hoáy chuẩn bị nước sôi và
cà-phê. Lê Phương quay lại nhìn Vũ với cặp mắt tươi cười :
- Chắc chắn những điều tôi sắp nói sẽ là thứ bị cấm kị trong
môi trường của đại huynh, và cũng chắc chắn là sau những lời tự thú này, chúng
tôi sẽ trở thành lũ vô đạo đức trước mắt bậc chính nhân quân tử.
- Ồ ....Chớ nên rào đón như vậy. Mỗi người có một cuộc sống
riêng, chẳng nên ví ai với ai.
- Cái bất tiện nhất cho chúng ta là con người khác nhau,
hoàn cảnh sống khác nhau nhưng hệ thống giá trị quy chiếu lại chỉ có một. Mà hệ
thống giá trị này lại được áp đặt bằng luật pháp và quyền lực, buộc mọi người
phải tuân theo. Như thế cũng giống như đặt một cái giường chuẩn rồi bắt mọi
người phải nằm vào đó, phải cố vừa vặn với cái giường ấy bằng mọi giá...Có lẽ
anh không nhớ rằng thời trung cổ, người ta dùng chiếc giường bằng sắt để tra
tấn và hành hạ tù nhân, hễ người nào dài quá khổ thì bị chặt chân, còn kẻ nào
lùn nằm không kín giường sẽ bị căng tay chân về hai phía...Nhưng thôi, dẫu sao
chúng ta cũng đang ngồi trong căn phòng này, được hưởng sự yên tĩnh này, trong
cuộc hội ngộ được chờ đón từ lâu. Dù có bị sụt giá hay lên giá trước mắt anh,
đối với tôi cũng chẳng có gì quan trọng.
Dứt lời, anh ta lại nhoẻn miệng cười đoạn giơ tay vẫy đám
nhân viên bán hàng. Các cô hối hả bưng cà-phê ra. Lần này, khói bốc lên đã có
chút hương vị. Hai anh bạn vàng xì xụp uống cà-phê nóng trong khi ông nhâm nhi
tiếp cốc trà. Không hiểu vì sao, ông thấy lòng nhẹ nhõm khi ngồi trước hai gã
đàn ông bẻm mép này, một cảm giác đã từ lâu biến mất. Có chút gì đó gợi cho ông
những cuộc chuyện gẫu thời trai trẻ, một chút hàm hồ, một chút hồ hởi, một chút
hóm hỉnh. Và không mảy may ngụ ý hay mưu tính nào ẩn náu phía sau.
- Chà....Thế này mới tạm gọi là cà-phê. Nhưng nếu so với
cà-phê của Hà-nội xưa thì chỉ đáng gọi là nước rửa chén.
- Nếu nói tới thời xưa thì suốt ngày chỉ có ngồi than thở :
Bao giờ cho đến ngày xưa ? Bánh cốm ngày xưa, mứt sen ngày xưa, chè tàu ngày
xưa. Nhưng thôi, đừng nói nữa anh Vũ đau lòng. Anh ấy là một trong những tác
giả hăm hở nhất đã tạo nên cái xã hội này.
- Đúng, tôi cũng đau lòng thật. Nhưng tôi đang chờ câu
chuyện « đi tác chiến » của hai anh.
- Đây, tôi xin hầu anh tức khắc. Chúng tôi vốn là những kẻ
tầm thường, ham sống cuộc sống bình thường, nên luôn luôn nghe theo tiếng gọi
của cái thứ mà anh vừa nói là nguồn hưng phấn mới. Tâm hồn chúng tôi chia làm
hai nửa, một nửa dành cho những nghĩa vụ, và nửa kia chúng tôi dành riêng cho
bản thân. Phải làm sao cho lương tâm không bị cắn rứt nhưng cũng không thể để
cho tâm hồn ủ dột mốc meo. Vì thế, cuộc sống của chúng tôi là một chuỗi những
mưu mẹo để cân bằng hai vế của phương trình. Tiền lương hàng tháng, các phúc
lợi xã hội, chúng tôi đem nộp đều đặn cho vợ, bởi đó chính là người chăn dắt
đàn con và cai quản mái nhà. Nhưng các khoản thu nhập khác, chúng tôi gọi là «
quỹ đen » để giành cho các cuộc rong chơi. Để chuẩn bị cho các cuộc rong chơi
này, buộc phải làm quen với toàn bộ hệ thống các nhà nghỉ, nói đúng hơn là phải
tìm mọi cách kết thân với đám cán bộ quản lý các nhà nghỉ, từ núi xuống biển,
từ đồng bằng ngược lên thượng du...Việc này, chúng tôi gọi là « cài đặt hệ số
an toàn », điều kiện cần nhưng chưa đủ. Muốn đủ, còn phải có trong tay một mớ
lệnh điều hành khống chỉ. Khi vào việc, chỉ cần điền lên đó ngày, tháng và một
chữ kí bí ẩn như rồng bay phượng múa là xong. Điều may mắn là cả hai bà vợ
chúng tôi đều thiếu chỉ số thông minh, đọc thông quốc ngữ nhưng không đủ trình
độ để phân biệt các nét chữ thật giả hoặc các loại lệnh công tác khẩn thật hay
khẩn vờ. Cả hai điều kiện tiên quyết này do Trần Phú đảm nhiệm vì cậu ta là
đảng viên, và dẫu sao cũng có quyền chức hơn tôi.
- Trong trường hợp này thì đảng là hữu dụng.
Trần Phú đế thêm vào một cách khoan khoái :
- Và mỗi lần hành sự tôi lại buộc Lê Phương ca bài « Nhớ ơn
Đảng đời đời » Đảng ở đây chẳng phải một khái niệm mơ hồ mà là chính tôi. Tôi
phải mất bao nhiêu công sức ngồi họp chi bộ, chịu đựng sự buồn thiu buồn thối
hoặc những mưu toan đấu đá, giành giật bẩn thỉu trong những cuộc tụ tập đó.
- Đúng rồi, ăn quả phải biết ơn kẻ trồng cây. Tôi đã ca cái
điệp khúc này hơn hai mươi năm ròng, và hy vọng sẽ còn được ca tiếp. Bây giờ,
tôi sẽ kể cho anh nghe những thú vui cỏn con của những gã đàn ông coi cuộc đời
này là cuộc rong chơi, một hành trình không ngưng nghỉ từ tuổi thành niên cho
đến chiếc quan tài. Ngoài phần nghĩa vụ với vợ con, công việc, đôi khi một ngọn
gió mới thổi tới, một bóng hồng bỗng nhiên lạc vào cuộc đời chúng tôi, một em
xinh tươi nào đó đang phòng không ôm gối, hoặc đang sùi sụt khóc vì thất tình,
hoặc đang nổi máu giang hồ muốn bứt khỏi cái lồng thép của gia đình vì chán một
anh chồng yếu gân cốt hoặc vì không chịu nổi sự đàn áp của một bà mẹ chồng phù
thuỷ. Tóm lại, trong tất thảy những trường hợp ấy, các quân tử như chúng tôi
đây sẵn sàng giúp đỡ. Nếu cánh én xinh tươi bay tới đậu trên vai Trần Phú thì
tôi sẽ là người viết và kí lệnh :
« Điều hành đột xuất đến nghiên cứu chương trình N, A, Z.. ;
» . Hoặc là :
« Làm báo cáo tường trình chi tiết về các lễ hội dân tộc,
trong sự hợp đồng với viện dân tộc học.»
Và ngược lại. Bao giờ cuộc thám hiểm cũng phải có hai người.
Tôi vác ba-lô đến nhà Trần-Phú cho vợ con anh ta thấy rõ ràng là hai bậc gia
trưởng đang lên đường làm nhiệm vụ. Chúng tôi ngồi ăn bữa cơm cuối cùng trước
lúc ra đi với vẻ trịnh trọng như lính cảm tử Nhật uống chén rượu « quyết tử »
trước khi xích chân vào máy bay lao thẳng xuống phi hạm Mỹ...
Tới đó, Trần Phú đột ngột cất tiếng cười sằng sặc. Rồi lát
sau, vừa lau nước mắt anh ta vừa hỏi bạn :
- Mày có nhớ hồi đi Tam Đảo không ?
- Nhớ. Nhớ như ngày hôm qua.
Lê Phương đáp, đoạn quay sang Vũ giải thích :
- Đấy là một kỉ niệm thuộc loại « không thể nào quên » Bận
ấy, có một em nữ diễn viên tập sự bị đuổi khỏi đoàn vì tội không chồng mà chửa.
Chẳng hiểu duyên cớ nào hoặc do ai mách bảo mà em tìm đến nhà tôi, khóc lóc.
Tôi hoảng hồn vì lúc ấy đã hơn mười giờ. Chỉ một tiếng sau vợ tôi và hai đứa
con sẽ về nhà ăn bữa cơm trưa, nếu họ thấy nàng khóc trên vai tôi ắt hẳn là mâm
cơm sẽ bay ra sân, và sau đó là những ồn ào náo loạn khác. Nhưng tôi cũng không
thể buộc nữ nhân xinh đẹp như thế ra khỏi nhà một cách thô lỗ. Nghĩ mãi không
ra giải pháp mà kim đồng hồ cứ phóng như bay, sau cùng hoảng quá tôi đành chở
em đến vườn hoa, mua kem cho em giải khát, rồi phóng đến nhà Trần Phú. Đứng
dưới cổng, tôi gọi với lên gác hai:
« Phú, mặc quần áo đi ngay.Thằng Đoàn chết rồi. » .
Nhưng chẳng phải Trần Phú mà là vợ nó thò cổ ra :
« Chết sao nhanh thế ? Chiều qua lão ấy còn ngồi đây uống
rượu đến sẩm tối mới chịu về ? »
« Tôi không biết, vừa nghe báo tin nó chết tôi liền chạy đến
đây. »
Nói xong, tôi tắc cả họng, chẳng hiểu sao lại bịa ra một
chuyện rồ dại như vậy. Nhưng lúc đó, tôi nghe trên nhà tiếng vợ Phú thúc chồng
mặc quần áo và rồi tiếng chân nó chạy huỳnh huỵch xuống cầu thang. Hai thằng
vừa nhìn vào mặt nhau đã phá lên cười, chẳng ngờ vợ Phú cũng le te chạy xuống.
Tôi chỉ kịp kêu :
« Vợ mày kìa ! »
Rồi còng lưng cúi gập đầu xuống bụng, tôi rặn ra một tràng
ho như nổ cổ nổ họng. Từ cười đổi sang ho, lại trong tư thế cúi gần như gập đôi
người, ho giả bỗng hoá thành ho thật. Tràng ho nọ tiếp tràng ho kia, cứ thế
tuôn ra không thể kìm chế. Nước mắt tôi chảy ràn rụa, và khi tôi đứng thẳng
lên, hẳn là tôi có bộ mặt của một kẻ đích thị mắc chứng ho gà. Tôi phải rút
khăn tay lau nước mắt. Đứng trước tôi, vợ Phú cũng khóc sùi khóc sụt :
« Bao giờ đưa đám bảo em nhá. Lão ấy khoẻ như voi mà chết
nhanh đến như vậy. Chẳng ai biết được mệnh trời.»
« Được rồi, cô cứ lên nhà, cơ quan định đưa ma ngày nào tôi
sẽ rủ cô đi. »
Tôi nói, đoạn bảo Phú ngồi lên xe rồi phóng đến vườn hoa.
Dọc đường, Phú chửi :
« Tiên sư thằng điên , sao lại bịa ra một lý do quái gở đến
thế ? »
Lúc đó tôi cũng ân hận vì Đoàn là bạn chung thuỷ từ thời thơ
ấu của Trần Phú nhưng gặp lúc bối rối nên chẳng thể sáng tác ra màn kịch nào
thích hợp hơn. Bởi muốn kéo ai đó tức khắc ra khỏi nhà, chỉ viện đến tai nạn
hoặc cái chết của người quen thân mới có thể bảo đảm trăm phần trăm thành công.
Vì vậy, tôi bảo Phú rằng, trước hết hãy cứu nguy cho tôi đã, rồi sẽ giải quyết
việc khác sau. Đưa anh bạn vàng đến vườn hoa, tôi giới thiệu với người đẹp rằng
đây mới chính là bậc quân tử có thể dang tay che chở cho nàng. Đoạn bỏ mặc hai
người ngồi tìm hiểu lẫn nhau, tôi phóng về nhà vừa đúng lúc bữa cơm, bà lão khả
kính thân sinh ra các con tôi đã gườm gườm nhìn lên cây kim chỉ giờ của chiếc
đồng hồ. Nếu tôi chậm chân mươi phút nữa ắt là nước tương nước mắm phải đổ ra
mâm và tiếp theo là phần trình diễn những khúc ca dai như chão.
Vũ bật cười, ông bị cuốn vào câu chuyện một cách bất ngờ, và
có thể do bản tính thật thà, ông đâm ra lo thay hai gã đàn ông đàng điếm :
- Thế rồi anh giải quyết ra sao về cái chết bịa tạc kia ?
- Ồ, non cao phải có đường trèo chứ. Sau bữa cơm, chờ cho vợ
đi làm, con đi học, tôi liền ngồi vào bàn viết bức thư ngắn cho vợ Phú, trong
đó nói rằng có một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Người anh họ dưới quê tên là Toàn vừa
chết nhưng khi nhận điện tín tôi hoảng hốt trông gà hoá cuốc nên đọc nhầm thành
Đoàn. Tóm lại, mọi sự đều yên lành, chỉ có riêng tôi phải về quê đưa đám. Viết
xong, tôi phái cậu đàn em trong xưởng phim tôi đang công tác mang thư tức khắc
đến nhà Phú.
- Chịu các anh thật.
- Tôi đã nói trước rằng những người mũ cao áo dài như các
anh lo việc đại sự. Còn chúng tôi chỉ có mấy thứ mẹo vặt để rong chơi mà chẳng
làm tổn hại đến ai.
- Thế cô diễn viên bất hạnh kia sẽ được giải quyết ra sao ?
- Nàng kết Phú. Vậy nàng sẽ trở thành người tình của cậu ta
trong thời gian họ còn duyên còn nợ. Việc nàng tìm tôi là nhầm lẫn, ví như con
cừu lạc vào chuồng vịt, bởi nàng mê những gã đàn ông cao, to, bóng mượt. Người
tình cũ của nàng, tác giả cái thai trong bụng nàng cũng là một gã đẹp mã và bạc
tình như Sở Khanh. Tuy nhiên, con người không thay đổi. Nếu tiêu chuẩn cái đẹp
đã được định vị một lần thì nó sẽ vĩnh viễn ngự trị như một thứ hình mẫu kêu
gọi và dung chứa tình yêu. Theo quy tắc ấy, nàng sẽ chọn Phú. Bởi Phú đẹp trai
hơn tôi nhiều nên chẳng những lần ấy mà trong những cuộc phiêu lưu sau này của
chúng tôi, em nào thích kẻng trai sẽ thuộc về quyền cai quản của nó. Còn tôi,
vừa nhỏ con vừa xấu xí nhưng giỏi hót, em nào thích bùi tai sẽ ngả vào vai tôi.
Ấy là sự phân phối theo định luật « lực hấp dẫn tự nhiên ». Chín năm trường kì
kháng chiến đã dậy chúng tôi tinh thần yểm trợ tác chiến và khả năng nhường
nhịn lẫn nhau. Giữa hai chúng tôi truyền thống ghen tuông, đố kị nổi tiếng của
dân Việt nam không tồn tại. Cái thứ « dân tộc tính » đó nằm ngoài khuôn khổ
tình bạn của chúng tôi. Chính vì thế, hơn hai mươi năm qua chi bộ này tuyệt đối
vững chắc...Sự vững chắc của tình bạn tựa trên nguyên tắc dung chứa và bổ sung
lẫn nhau. Phú đẹp trai, tôi xấu xí đen đủi. Nó hào phóng vì xuất thân là cậu ấm
Hà nội, tôi keo kiệt « Ăn tép ỉa ra tóc, có chín xu đổi lấy một hào » vì bố mẹ
chết sớm, thân tự lo thân từ thuở lên mười. Nó sạch sẽ hơn cả lũ đàn bà đỏm
dáng, ngày nào cũng tắm như vịt bất kể mùa đông hay mùa hè ; đi đâu thì chải
chuốt trước gương, rồi dí mũi vào cổ áo nách áo hít đi hít lại xem có thơm tho
hay không bởi lỡ may giữa đường gặp em nào ngả đầu vào tựa vai đấng anh hùng
thì không phải ngất xỉu vì hôi hám. Tôi ngược lại, không thích tắm. Mùa đông
một hai tháng không mò vào buồng tắm lương tâm cũng không bị cắn rứt mà linh hồn
cũng không đau khổ. Mụ vợ tôi thi thoảng không chịu nổi lại đổ canh riêu cua
hay canh thịt lên người tôi để tôi buộc phải tắm.
Vũ không nén nổi bật lên cười và hỏi :
- Thế nếu bà ấy đổ nước rau muống luộc hay canh xuông lên
người ông thì ông không chịu bước vào buồng tắm hay sao ?
- Không ! Nước rau muống luộc cũng như nước lã, tôi thay áo
là xong. Các vị lãnh đạo thường tự tuyên truyền rằng trong nhà tù đế quốc, họ
cương quyết không khai các cơ sở cách mạng. Tôi nghĩ rằng mười ông nói chưa
chắc tin được một ông. Còn tôi, tôi cương quyết hơn nhiều : nếu không thực sự
bẩn và nhu cầu tắm chưa trở thành cấp bách, tôi không tắm. Bây giờ, để thoả mãn
cơn tò mò của anh, người chẳng có mảy may khái niệm nào về những cuộc đời nhỏ
bé tầm thường của lũ rong chơi, tôi xin kể nốt hồi cuối. Chúng tôi dẫn em diễn
viên xinh đẹp bụng to kia đến nhà nghỉ Tam Đảo. Ở đó, em đóng vai hiền thê của
Phú, còn tôi rủ tay giám đốc nhà nghỉ đi săn gà gô ở các vùng rừng lân cận. Qua
ba tuần, tay giám đốc này chết mê chết mệt vì đủ loại tiếu lâm. Đêm nào gã cũng
dính vào tôi như sơn, ăn tối xong còn pha đến hai ấm chè để ngồi hóng chuyện.
Sang tuần thứ tư, đã đến lúc sắp hết hạn « công tác », tôi mới ngỏ lời nhờ gã
giúp cho cô em xinh đẹp vào viện huyện nạo thai. Anh ta hăng hái nhận lời tức
khắc. Sáng hôm sau, ô-tô nhà nghỉ chở Trần Phú và phu nhân rởm đến bệnh viện
huyện giải quyết nỗi buồn, với lý do « nhỡ kế hoạch ». Tóm lại, mọi sự được thu
xếp hoàn hảo. Khi chúng tôi quay về Hà-nội, em gái xinh tươi đã cất tiếng cười
khanh khách, chẳng còn vẻ tuyệt vọng và hoảng loạn như ngày leo lên căn gác nhà
tôi. Rồi sau đó ba năm.
- Cậu nhầm rồi, hơn bốn năm chứ. Nói chính xác là bốn năm
hai tháng.
- Ờ, lâu quá nên tôi chẳng còn nhớ chính xác. Bốn năm sau,
chúng tôi giúp cho em được tuyển vào đoàn kịch nói tổng cục chính trị. Trong
môi trường mới, em gặp được ý trung nhân, một diễn viên xoàng nhưng là người
chồng lý tưởng. Trước ngày em lên xe hoa, chúng tôi tổ chức bữa cơm tiễn biệt.
Một bữa ăn thịnh soạn nhất có thể có được trong điều kiện sống thời đó. Bữa cơm
ly biệt nhằm liệt kê lại những kỉ niệm lần chót như người ta kiểm nghiệm lại mớ
quần áo của thây ma lần chót trước lúc đóng hòm. Đôi giọt lệ ngậm ngùi nhỏ
xuống và vài lời cảm ơn nồng thắm. Sau đó, đường đời lắm nẻo, nàng ra đi, bóng
hồng biền biệt. Còn chúng tôi, quay về với những lão bà khả kính thân sinh ra
đám con mình.
Nhà văn ngừng lời, đưa tay sửa cặp kính trên sống mũi rồi
hỏi Vũ :
- Sao, anh đã bao giờ nghe những câu chuyện nhảm nhí như thế
này chưa ?
- Ồ...thú thực là chưa.
Vũ lúng túng đáp, rồi thú nhận :
- Trong cơ quan của chúng tôi, những sự việc như thế buộc
phải đưa ra chi bộ kiểm điểm và cán bộ buộc phải nhận kỉ luật.
- A...ha ...ha...
Cả hai gã đều cất tiếng cười như đập pháo. Rồi Lê Phương lau
nước mắt và hỏi ông :
- Vậy những người chịu thi hành kỉ luật có bao giờ dám há
mồm ra đề nghị chi bộ kiểm điểm các cấp lãnh đạo cao hơn không ? Bởi ai cũng
biết rằng quá nửa số uỷ viên bộ chính trị có hai vợ. Còn bí thư Ba Danh chẳng
những hai vợ mà còn một bầy cung phi dưới danh nghĩa y tá. Liệu khi kiểm điểm
các đồng chí của mình, anh có nghĩ đến những người cùng phạm một thứ khuyết
điểm, cứ coi là như thế, thậm chí còn trầm trọng hơn, sự tái phạm còn nặng nề
hơn nhưng vì họ đứng ở vị thế cao hơn, quyền lực mạnh hơn nên họ nghiễm nhiên
được tha bổng hay không ?
- Có chứ ! Tôi có nghĩ. Nhưng tôi là kẻ đơn thương độc mã và
lực bất tòng tâm.
Ông đáp, không khỏi buông tiếng thởi dài. Và Lê Phương tiếp
lời :
- Còn cái guồng máy khổng lồ kia, cái guồng máy quyền lực cứ
tiếp tục quay, tiếp tục nghiền nát biết bao con người, với tất cả thói đạo đức
giả và sự bất công của nó ?
Ông không biết trả lời ra sao nên đành im lặng. Nỗi ngao
ngán tràn ngập tâm hồn. Những điều gã đàn ông đen đủi xấu xí này vừa nói đâu có
mới lạ đối với ông ? Ông đã từng nghĩ thầm nghĩ vụng. Nhưng ông chỉ nghĩ một
cách lén lút vì không dám và không muốn tin đó là sự thật.
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của ông và của bao người khác dâng
hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế
hay sao? Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao
nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và
phi nhân như vậy ? Sự đê tiện và phi nhân đó, ông từng biết nhưng ông vẫn muốn
tin rằng nó chỉ dành riêng cho một số người trong guồng máy quyền lực. Bởi cuộc
cạnh tranh quyền lực từ cổ chí kim và cho đến vĩnh viễn muôn đời vẫn là cuộc
đấu tàn khốc nhất trong kiếp nhân sinh, nó tước bỏ mọi phẩm chất tốt đẹp chỉ
còn để lại cho con người sự tham lam ô nhục, sự mưu toan đểu cáng và những cuộc
trình diễn thói độc ác. Nhưng dẫu sao, ông vẫn không muốn chấp nhận rằng toàn
thể cái xã hội mà ông đã đặt biết bao kì vọng lại là xã hội vô đạo đức, lưu
manh. Dẫu sao, nó vẫn là canh bạc mà ông cũng như bao nhiêu người cùng thời đã
đặt cược toàn bộ cuộc đời. Dẫu sao, nó vẫn là tạo phẩm chung, một cuộc hoài
thai tập thể. Không người mẹ nào muốn công nhận rằng mình đẻ ra một quái
thai...
Giờ đây nghe chính những hồ nghi ấy thốt ra từ cửa miệng một
người xa lạ, kẻ vừa gặp mặt vài giờ, ông hiểu rằng những gì ông còn ngờ vực một
cách sợ hãi trong những đêm mất ngủ đã được công chúng coi như sự thực hiển
nhiên. Và ông, giống như kẻ trú ngụ trong cung cấm, chỉ có thể nhìn thấy loạn
quân khi thành đã vỡ và lửa cháy bốn bề.
Cúi xuống nhìn những ngón tay mình một cách vô thức, Vũ nhận
thấy những chiếc móng đã dài mà chưa được cắt, ông giơ lên gẩy móng nọ vào móng
kia. Nhà văn nhìn cử chỉ đó, tủm tỉm cười đoạn tiếp lời :
- Giờ anh hiểu vì sao chúng tôi chọn kiếp sống của những kẻ
rong chơi, hài lòng cuộc đời cỏn con với những vui thú cỏn con. Đấy là cũng là
một cách mà cổ nhân gọi là ở ẩn. Bởi ngay sau ngày giải phóng thủ đô, chúng tôi
biết rằng đại sự hỏng rồi, rằng thuyền tình đã vỡ, rằng ước mộng đã tan. Ngày
lên đường kháng chiến, tất cả mọi người đều có chung một giấc mơ. Cách mạng,
đối với một xã hội trì trệ, hoặc một dân tộc nô lệ là cơ hội thanh lọc vĩ đại,
là cơn bão quét sạch rác rưởi và đem lại sức sống mới mẻ, mạnh mẽ. Vì thế,
người ta mới chấp nhận chết vì nó. Người ta chết vì non sông, nói đúng hơn, vì
một tương lai tươi sáng. Những cuộc cách mạng thật sự bao giờ cũng giải phóng
sức sản xuất và nới rộng vùng đất cho tự do. Nhưng cuộc cách mạng này, ngoài
cái phần đã làm được là giải phóng dân tộc, nó chẳng những không đem lại tự do,
cũng không mở rộng được sức sản xuất mà ngược lại nó thiêu huỷ toàn bộ những
giá trị văn hoá đã vĩnh định của dân tộc, nó phá huỷ luôn sức sản xuất. Cải
cách ruộng đất chính là cuộc tàn sát có hệ thống và quy mô tầng lớp nông dân có
năng lực. Như thế, về phương diện xã hội, cuộc cách mạng này chỉ làm một việc
ghê tởm là lật nhào lớp bùn dưới đáy ao lên mặt nước. Và cùng với thứ bùn đó là
xác cóc nhái chết cùng mọi thứ rác rưởi lẫn rong bèo.
Anh ta ngừng lời. Ông cảm thấy như vừa bị ai tát một cú nổ
đom đóm mắt. Một cái tát không kiêng dè. Một cái tát tàn bạo. Nhưng người đàn
ông kia đâu có định nhằm vào cá nhân ông ? Anh ta tuyên bố một sự thật. Sự thật
đó cũng chính là giá treo cổ đối với tuổi trẻ của anh ta, và của bao nhiêu
chàng trai khác đã chết oan cho ảo vọng. Bởi khi nói lên điều đó mắt anh ta
buồn đến thế. Bởi những nếp nhăn hằn trên gương mặt anh ta một cách sầu thảm
khi anh ta không cười. Phải chăng những câu chuyện bông lơn nhảm nhí kia cũng
chính là một cách để lãng quên đi mối thất vọng lớn lao ? Mối thất vọng của
toàn dân tộc !
Cả ba người đều im lặng. Những người khác đã rút đi từ lâu.
Chỉ còn lại ba cô bán hàng đứng hí hoáy nhổ lông mày, cô nọ vành mặt cô kia ra
mà thực thi cuộc làm đẹp. Họ hồn nhiên coi như trên cõi đất này không có ai.
Trần Phú ngứa mồm bảo :
- Ba con bé kia chắc mới từ quê lên. Bọn mình ngồi đây chút
nữa chắc chúng nó vén áo lên nhổ lông nách.
- Ồ, không loại trừ khả năng đó. Vì họ chẳng có nhu cầu làm
duyên làm dáng hay chơi trò thẹn thùng trước mặt ba lão già.
- Không lẽ bọn mình đã thật sự biến thành giẻ rách hay sao
?...
- Cũng chưa đến nỗi, nếu nhận định một cách khách quan. Hàng
hoá hãy còn xài được nếu gặp các mợ nạ dòng ba, bốn chục. Nhưng đây toàn lũ trẻ
nõn ra ; mười sáu mười bẩy là cùng. Tuổi đó là tuổi con cháu chúng ta.
- Ôi, tuổi già ! Tuổi già xồng xộc đến sau lưng. Này anh Vũ,
anh có cảm thức ra sao đối với tuổi già ?
- Tôi chấp nhận và chung sống hoà bình với nó, trong chừng
mực còn có thể.
- Đấy là cách ứng xử khôn ngoan.
Trần Phú nói đoạn đứng lên trước :
- Sắp tới giờ cơm chiều, bệnh nhân phải trở về phòng thôi.
Lê Phương tháp tùng anh quay lại khu điều trị. Tôi thanh toán xong sẽ đuổi theo
hai người.
Khi ông cùng anh chàng nhà văn bước ra sân, nghe tiếng Trần
Phú oang oang bảo mấy cô bé :
- Này, làm đỏm làm dáng thì phải tìm nơi tìm chốn. Đây có
phải phòng triển lãm đồ nghề phụ nữ đâu ?
Chẳng nghe thấy tiếng ai trả lời. Hẳn là mấy cô gái kia sợ
đến tắc họng. Lát sau, Trần Phú đã đuổi kịp hai người. Họ thong thả quay trở
lại khu nhà dành cho cán bộ cao cấp rồi chia tay ở chân cầu thang :
- Chúc đại huynh mau lành bệnh. Hôm nay, thấy mặt người anh
hùng, tôi hoàn toàn thoả mãn.
Nhà văn nói lời cuối.
Khi Vũ quay lại phòng, gặp đám y tá xúm quanh bác sĩ trực,
một phụ nữ đãy đà trạc ngũ tuần. Họ mang máy hô hấp nhân tạo đến cho người bệnh
nằm giường đối diện với ông. Mặt anh ta xám ngoét, mắt nhắm nghiền. Cặp môi mím
lại chỉ còn là một vệt thâm. Vũ bước vào vừa đúng lúc y tá chụp mũ thở ô-xy lên
mặt người bệnh. Ông lẳng lặng lách sau lưng họ về giường mình.
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (4)
Trời lại mưa, cơn mưa thẹn thùng của mùa xuân.
Những làn mưa thưa hạt, rắc lổ đổ xuống mặt đất một cách e
dè rồi sau đó tắt ngấm. Gió từ phía biển Đông cuốn lên đuổi những làn mây lang
thang qua khung trời hoang vắng. Mây tím màu hoa cà khiến ông nhớ tới vườn cà
quê hương, một quê hương quá đỗi mờ nhạt xa xôi chỉ còn lại vài hoài niệm mún
manh và huyền hoặc. Rồi màu mây tím ấy lại gợi cho ông những cánh đồng miền
Provence, nơi người ta trồng cỏ thơm lavande để làm nước hoa và xà-phòng. Lần
đầu tiên đứng trước cánh đồng mênh mông màu lơ tím, tâm hồn ông tê dại đi vì vẻ
đẹp của xứ người. Và ông thầm khóc trong tim :
― Ôi, bao giờ những cánh đồng xứ sở, những miệt đồi mênh
mông nắng cháy miền Trung có thể khoác được tấm áo choàng mỹ miều kia ? Ôi, bao
giờ những người dân cày quê ta có được vẻ mặt thanh thản như những người nông
dân xứ này khi bước trên đất đai của họ ? Ôi, bao giờ những đứa bé chăn bò quê
ta có thể ăn mặc chĩnh chện như đứa bé chăn bò đang rong ruổi dưới bóng những
hàng bạch dương kia ? Bao giờ và bao giờ ?
Bao nhiêu tháng năm, tim óc ông sôi sục vì câu hỏi ấy. Bao
nhiêu tháng năm, ông bị ám ảnh bởi một biểu tượng song trùng, một sự so sánh
đau đớn bất khả nguôi dịu, bất khả quên lãng: những đôi chân mang giầy da tất
ấm của những người nông dân Pháp đặt bên cạnh những đôi chân nứt nẻ, móng đen
xì bùn phèn, với những ngón chân choẽ toác ra vì ngàn năm phải bấm xuống ruộng
bùn của dân cày Việt nam. Cặp hình ảnh này theo đuổi ông như hình với bóng,
trong những cơn mơ chính ngọ, trong những cơn thổn thức nửa đêm, khi ông ngồi
trong nhà tù cũng như khi ông ngồi trên khán đài danh dự. Dân tộc đau khổ của
ông. Số phận cay nghiệt mà tạo hoá đã dành cho họ. Bao nhiêu giọt nước mắt ông
đã nhỏ vì cái số phận cay nghiệt ấy. Tất cả những gì ông đã cố sức làm, trong
hy vọng can trường là cải tạo nó.
― Ta yêu dân tộc của ta như vậy, tại sao họ chẳng yêu ta ?
Tại sao họ không thể thí cho ta chút hạnh phúc cỏn con, tầm thường như mọi kiếp
nhân sinh khác ?
― Ồ, dân tộc, đó là một khái niệm trừu tượng, một đám đông
vô nhân dạng, tiếng ồn ào của một biển hơi thở, sự va đập trong phút chốc của
con sóng thời gian. Kẻ ngăn cấm ngươi sống cuộc sống đích thực của con người
chính là các đồng chí thân thiết của ngươi, và trước hết là chính ngươi, bởi
ngươi đã trót đóng vai ông thánh.
― Nhưng dân tộc của tôi nhỏ yếu, để khích lệ niềm tin và sự
can đảm nơi họ, liệu tôi có thể làm gì khác ?
― Ngươi đã chọn lối đi dễ nhất, tương hợp nhất với tầm vóc
trí tuệ dân tộc của ngươi, và vì thế ngươi phải trả giá. Trò chơi làm thánh
không mới lạ gì trong lịch sử con người. Bệ thờ nào chẳng trang trí bằng những
đoá hoa giả, dù bằng bạc, bằng đồng trong thời quá vãng hay bằng các loại nhựa
dẻo và kim cương nhân tạo ngày nay. Nhưng mọi trò chơi đều phải trả giá. Trên
cõi đời, chẳng thứ gì được cho không.
Người đối thoại với ông hạ lời cuối, với nụ cười riễu cợt
trên môi. Đoạn ông ta biến đi theo làn gió. Một cơn gió xuân ẩm ướt mang theo
hơi lạnh khiến ông rùng mình. Ông đưa mắt nhìn theo kẻ khinh bạc kia, dường như
ông ta đến từ lối rẽ bên trái ngôi chùa, bước qua mảnh sân với vườn mai. Rồi
ông ta biến đi cũng theo ngả ấy. Cái gã đàn ông giống ông như tạc, nhưng với
làn da xanh màu lá chuối non và cái nhìn đầy vẻ khinh khi.
- Thưa chủ tịch, mời người vào nhà kẻo lạnh.
Cậu lính to béo đã tiến sát lưng ông, cất tiếng đột ngột
khiến ông giật nẩy mình.
- Được, tôi vào đây.
Ông đáp, có chút tức giận mà không dám bộc lộ. Dù muốn hay
không, ông cũng bị kiểm soát từ mọi phía. Không một phút được tự do. Cuộc đời
ông là của dân tộc. Sức khoẻ của ông là của dân tộc. Thời gian của ông cũng là
của dân tộc. Không còn gì riêng cho ông nữa sao ? Cuộc chơi này thật cay nghiệt
!
- Boong...boong boong...
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Chuông chùa bỗng đổ hồi dồn dập, ròn rã.
- Boong...boong...boong...
Ông quay lại hỏi cậu cần vụ :
- Sao hôm nay nhà chùa gióng chuông nhiều như vậy ?...
- Con quên không thưa với người rằng hôm nay đích thân sư cụ
chủ trì lễ giải oan, tẩy trần cho ông Quảng. Nhà chùa sẽ kéo chuông và tụng
kinh nhiều hơn thường lệ. Xin chủ tịch thông cảm.
- Chúng ta trú ngụ ở đây là đất nhà chùa. Họ có quyền làm
những gì họ muốn.
- Dạ...Nhưng dẫu sao ...
- Hôm nay làm lễ gì, tôi chưa nghe rõ ?
- Dạ, lễ rửa oan, tẩy trần cho người đã khuất....Ông tiều
phu dưới xóm đã chết được bốn mươi chín ngày rồi ạ.
- Đã bốn mươi chín ngày rồi ? Nhanh đến thế ?
- Dạ. Hôm qua chủ tịch xã lên tận văn phòng đề nghị anh Lễ
cho phép gia đình ông Quảng được lên đây cúng. Khi nào họ lên, đại đội sẽ tăng
cường bảo vệ.
- Ra thế...
Ông buông một tiếng hững hờ :
― Đấy chính là việc của họ. Tăng cường bảo vệ để làm gì ?
Chắc hẳn để ta khỏi ngã trước nàng vợ goá của ông tiều phu. Còn những người dân
quê kia liệu có nhu cầu gì để ám hại một ông chủ tịch ?
Ý nghĩ thầm kín ấy chạy qua óc não ông, vừa như sự riễu cợt
lại vừa như lục vấn.
- Mời người dùng trà cho nóng.
- Cảm ơn.
- Chú kê cái ghế xích-đu ra gần cửa cho tôi...Ở đó, tôi có
thể đọc báo bằng ánh sáng tự nhiên.
- Dạ, đúng vậy. Hôm nay không có mặt trời.
Cậu lính thật thà đáp rồi loay hoay mang chiếc xích-đu ra kê
sát cửa. Ông vừa uống trà vừa nghĩ rằng lát nữa, ông có thể nhìn rõ bầu đoàn
thê tử của người tiều phu, trước hết là đứa con trưởng. Câu chuyện này đã trở
thành nỗi ám ảnh thường xuyên kể từ khi ông biết. Nỗi tò mò khôn cưỡng khiến
ông nảy ra nhu cầu ngắm những nhân vật đích thực xoay quanh tình sử của cặp vợ
chồng chênh lệch, trớ trêu này. Một nụ cười riễu cợt khác lại nảy sinh :
― A, ngươi thèm khát được thấy mặt đám người này vì họ là
tấm gương phản chiếu lại cuộc đời của chính ngươi. Một sự phản chiếu gần như
tuyệt đối nhưng theo chiều ngược lại. Bởi gã tiều phu chẳng đóng vai ông thánh,
gã sống đúng thân phận con người. Gã là kẻ chiến thắng trên mọi nỗi bất hạnh đã
trải nếm, còn ngươi, ngươi là kẻ chiến bại dưới bóng quyền lực và vinh quang.
Một kẻ chiến bại câm lặng và thảm hại.
- Thưa chủ tịch, như thế này đã được chưa ạ ?...
- Lui về phía sau một chút nữa là được. Không nên để họ thấy
mặt tôi, như vậy phiền cho cả đôi bên.
- Dạ.
- Hình như có tiếng cậu Lễ ?
- Thưa chủ tịch, chính xác như vậy. Anh Lễ đưa quân lên tăng
cường đấy ạ. Sau đội tăng cường mới đến gia đình người tiều phu.
- Bảo cậu Lễ là tôi đang đọc tài liệu, cứ việc bố trí người
bên ngoài, không cần vào đây bẩm báo với tôi.
- Dạ.
Chàng lính béo liếc lần cuối xem chiếc ghế kê đã thuận hay
chưa rồi đi ra đón đội tăng cường. Ông cầm tập tài liệu ra xích-đu ngồi, trong
tư thế tiện lợi nhất để có thể quan sát đám người sẽ đi qua mặt ông trước khi
vào chùa chính.
Không gian ngào ngạt mùi nhang. Tiếng gõ mõ vang rền khi hồi
chuông ngưng lắng. Ông nghe tiếng bước chân đám lính, rồi họ xuất hiện ngay
trước hành lang xếp thành một hàng rào. Tất cả nghiêm trang như những pho tượng
gỗ, mặt hướng ra ngoài, lưng quay lại phía căn phòng của ông, nơi cánh cửa nửa
khép nửa mở để che khuất người ngồi trong. Chừng như Lễ biết ý ông nên đã đứng
ở một góc khuất nào đó. Sự vắng mặt anh ta khiến ông dễ chịu hơn.
- Boong...boong...boong....
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Tiếng chuông lại gióng lên để làm hiệu cho đoàn người bước
tiến vào chùa. Sư nữ bước ra sân, hai tay chắp hình búp sen đón khách. Người
đầu tiên ông nhìn thấy chẳng phải là một thành viên trong gia đình kẻ tiều phu
xấu số mà là một sư bác, chắc chắn ngoại ngũ tuần. Theo sau ông ta còn hai sư
nữa rồi mới tới người con trai trưởng của ông Quảng. Chủ tịch nhận ra anh ta
tức khắc ngay từ cái nhìn đầu tiên và có đôi phần thất vọng. Trên phương diện
hình thức, anh ta chẳng gây được chút ấn tượng nào. Một gã đàn ông nhỏ thó, vai
lệch, gương mặt nhọn hoắt, không gợi lại chút xíu hình ảnh người cha cũng chẳng
có một hạt cỏn con sự quyến rũ nam tính. Anh ta bận quân phục thu-đông cũ, thứ
y phục thông dụng của đám cán bộ xã. Anh ta chẳng có râu hùm, cũng không có hàm
én, nhưng ngay cả dáng đi cũng lạ kì, dáng đi của anh ta giống hệt dáng đi của
những người đàn bà mà đa phần trong số họ phải chấp nhận kiếp cô đầu hay kĩ nữ.
Vừa vặn vẹo như rắn trườn vừa nhón gót như loài chim sẻ. Tuy nhiên, với bộ dạng
sầu khổ và èo ọt, con người anh ta vẫn toát ra một sức mạnh âm hiểm rất khó
miêu tả hay cắt nghĩa. Chủ tịch bất giác buông ra một tiếng : A!...
― Đây chính là con người kiểu mẫu của thứ xảo võ, lối đánh
trông tưởng chừng như múa lượn nhưng toàn nhằm vào hiểm huyệt của đối phương.
Khi xuống đòn, họ có thể kết thúc đối phương một cách bất ngờ. Nói cách khác,
đây là thứ đô vật không bao giờ bước lên võ đài, là kiếm sĩ không xuất hiện lúc
thanh thiên bạch nhật mà chỉ quật đổ đối phương bằng cách đứng rình trong bóng
tối để đâm họ từ phía sau lưng. Kiểu người này chẳng bao giờ lùi bước trước bất
cứ trở ngại nào để đạt được tham vọng của mình, bất chấp lương tri cũng như bất
chấp sự khinh bỉ của tha nhân. Nhưng thần hộ mệnh của Quý không đủ quyền năng
để giúp anh ta thành công, nên cuộc chiến đấu của kẻ thất phu chỉ tạo ra một
đàn những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng lẫn sự chăm sóc.
Ông thầm nghĩ vì đã thấy đội quân ấy đi sau vị gia trưởng,
tất cả đều chít khăn tang trắng thay cho khăn sô, sắp hàng theo thứ bậc. Tiếp
theo gia đình này là một đám ông bà già; chắc họ là bà con gần gụi của kẻ đã
khuất. Cuối cùng là mẹ con cô vợ trẻ với một thanh niên bảnh bao mà ông đoan
chắc là chàng sinh viên tên Quỳnh. Đám người không gây ấn tượng nào đặc biệt.
Chủ tịch bất giác nhắm mắt. Nỗi ám ảnh khiến ông quay lại
với hình ảnh người con trưởng, lúc này đã vào hẳn trong chùa :
― Một đứa con èo ọt thảm thương như thế mà quyết liệt chống
lại cha, hòng dùng vị thế của mình bắt ông ta làm nô lệ ? Phi lý thay cõi đời.
Một kẻ sống trong vòng bảo hộ của bậc gia trưởng nhưng lại muốn thực thi quyền
năng của y trên chính ông ta, phải chăng đó là sự điên rồ có tính cá biệt hay
là nguyên lý chung của muôn loài, tất cả những đứa con cần phải giết cha và
những con thú lớn khôn cần phải cắn chết đám thú già để tìm thực phẩm ? Nếu vậy
thì khoảng cách giữa con người với muông thú đâu có xa ?
Ngoài sân, chuông gióng giả vang lên, hồi nọ ngưng lắng hồi
kia lại tiếp diễn khiến những vọng âm reo như sóng trên khắp các giải núi và
không gian chùa Lan Vu ngập tràn một sắc thái thần diệu. Sân chùa vắng tanh vì
đoàn người đã vào hết bên trong, chỉ còn lại mớ lá vàng rải rác. Chủ tịch nhìn
lên khoảng trời lơ vừa ló rạng sau cơn mưa xuân, tìm lời giải đáp. Nhưng lời
giải không tới. Bởi ông không có kinh nghiệm trực tiếp. Bởi ông yêu cha ông, và
ông không có nhu cầu cạnh tranh quyền lực hay tiêu diệt kẻ đã sinh thành mình.
Ông cũng không tin nhu cầu ấy là phổ biến cho toàn nhân loại :
― Phải chăng vì ta đã giã từ gia đình quá sớm, và ta luôn
thiếu vắng người cha, nên trong tim ta ông chỉ là mong mỏi và buồn nhớ ? Nhưng
còn hàng triệu người khác vẫn sống với cha mẹ họ một cách an lành? Bi kịch kiểu
gia đình kẻ tiều phu kia lần đầu ta mới nghe và mới thấy. Có những đứa con hiếu
đễ và những đứa con ngỗ ngược, vô ơn. Nhưng vì dục vọng mà biến thành kẻ cừu
thù huyết chiến với bậc sinh thành hẳn chỉ là những cá nhân đặc biệt. Nếu phụ
tử tình thâm mà còn những kẻ như vậy thì kể làm chi lũ khác máu tanh lòng ?
Sau cùng, ông nhận thấy ông đã quay lại với cái ngục luyện
tội quen thuộc, cái pháp đình mà nơi ấy, ông vừa là quan toà vừa là người biện
hộ.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh tập thể đã vang lên. Hôm nay,
ba vị sư dưới núi được phép lên đây để hỗ trợ sư cụ và sư nữ. Tiếng mõ vọng
nhịp nhàng điểm xuyết tiếng ngân nga vang rền của chuông bát, hoà lẫn tiếng đọc
kinh. Đám người bên kia chùa đang sống cuộc sống của họ, niềm tin của họ. Họ
tin chắc rằng trời phật, các đáng thần linh tối cao hiểu được những ước nguyện
chân thành ấy, rằng những gì họ đang làm giờ đây là để giải đi những oan khuất
cho người đã chết, để xoá đi những lỗi lầm của ông ta, để hoàn lại danh dự bị
vấy bùn và những thua thiệt phải cam chịu trong câm nín. Và sau rốt, để con
đường dẫn tới cõi cực lạc đón nhận kẻ đã từ bỏ cõi trần. Còn ông, ông sống với
niềm tin nào bây giờ ?
Một cơn đau chạy dọc sống lưng, khiến hai đùi ông tê lạnh.
Chủ tịch khép chặt cánh cửa, quay vào buồng trong. Ông đi nằm. Chưa bao giờ ông
đi nằm vào giờ này trừ những trận ốm. Hôm nay, ông không ốm nhưng ông muốn đi
nằm. Ông thấy bại hoại. Một sự bại hoại cả phần xác lẫn phần hồn. Ông không thể
và cũng không còn muốn giữ đúng những chuẩn mực sinh hoạt của một bậc quân
vương. Ông chẳng còn muốn đóng vai một người lãnh đạo có sức khoẻ vô biên, làm
việc như cỗ máy không han rỉ
― Suốt đời ta đã phải chèo chống, phải cố gắng hành xử cho
thật giống máy inoc. Nhưng con người không thể là cỗ máy. Con người phải han rỉ
với tháng năm.
Ông thầm nghĩ, nhưng trước khi nằm xuống vẫn liếc nhìn chiếc
đồng hồ treo tường và trải qua một thoáng chùng chình vì đồng hồ mới chỉ chín
giờ rưỡi sáng :
― Có ích gì vào lúc này, tinh thần gương mẫu của ông vua già
bị giam hãm ? Thôi, hãy chấp nhận thực tế là cõi người hữu hạn và sức người
chẳng phải là dòng sông không cạn kiệt với thời gian. Ta đã ngoại thất tuần, ở
tuổi này chớ nên bám vào ảo vọng. Suốt đời ta đã hy sinh vì những giấc mơ lớn,
những giấc mơ người ta thường gọi là lý tưởng, là mục đích cao thượng. Suốt đời
ta quay mặt về phía thánh đường nơi con người dâng hiến tuổi trẻ cũng như sinh
mệnh một cách vô tư. Nhưng sau rốt, ta mới nhận ra rằng lý tưởng ấy cũng chỉ là
ảo vọng. Nó giống như lâu đài huyền bí đứng trong sương mù bên kia bờ sông
quyến rũ những kẻ đứng bên này. Người ta xuống thuyền để bơi sang. Nhưng khi
cập bến, thuyền nát ván rơi mà chẳng thấy lâu đài cũng không gặp châu báu. Chỉ
đơn thuần là một bãi đất hoang trên đó, ngoài những đống đổ nát là trăm nghìn
mảnh thuỷ tinh vỡ phản chiếu ánh cầu vồng.
Ý nghĩ ấy khiến tay chân ông bủn rủn còn tâm hồn ông vật vờ
như đám xác phù du bập bềnh sóng đánh. Ngay tức khắc, một cơn giận bùng lên,
ông lại cao giọng tự xỉ vả mình :
― Ồ, chớ nên bị lung lạc bởi những ý tưởng bi quan như vậy.
Chớ nên dẫm lên vết chân của đám hư vô chủ nghĩa. Ngươi có muốn quay lại thứ
chủ nghĩa đó hay không ? Hay ngươi muốn theo dòng tu loã thể, sống cuộc sống
của cỏ cây và muông thú ? Với ngần ấy thời gian, cách mạng đã tiến trên một
đoạn đường dài. Chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật cũng bày tỏ trước mắt
ngươi như năm ngón tay trên một bàn tay đang xoè ra trước mắt. Đích sở thị,
chúng ta đã có một đất nước độc lập, chúng ta có quốc kì, có chính phủ, có quân
đội, hiện thực của những giấc mơ dài dặc được nuôi dưỡng trên chiến khu.
Gã đàn ông có nước da nhợt nhạt màu xanh nõn chuối chợt quay
lại, đứng tựa lưng vào tường và nhếch mép mỉm cười :
― Nhưng chính phủ để làm gì, quốc kì để làm gì khi những
người dân còn sống lầm than hơn thuở trước ? Guồng máy quyền lực này có ích gì
nếu nó chỉ dùng để bảo đảm lợi ích cho một số ít ỏi trong khi nó đè nén toàn
thể dân chúng và đẩy họ vào những cuộc tàn sát tập thể mà cuộc tàn sát tự
nguyện lớn nhất chính là cuộc chiến tranh này ? Những đồng chí của ngươi mơ ước
một khải hoàn môn lớn hơn nữa để làm vinh danh chúng. Chúng mơ ước một cuộc
chiến tranh vĩ đại hơn. Danh từ vĩ đại là con điếm vĩnh hằng tồn tại, vĩnh hằng
lừa mị chúng sinh. Cả ngươi nữa, ngươi cũng đã từng bị nó huyễn hoặc. Vì muốn
là bó đuốc dẫn đường cho dân chúng, vì muốn là con người vĩ đại, bậc quốc
trưởng vĩ đại, ngươi đã tự nguyện đóng vai ông thánh. Và ngươi đã hại nàng, một
người đàn bà ngây thơ, hoàn toàn tin cậy nơi ngươi, điều này ta nói đúng hay
sai ?
Ông không dám trả lời. Ông không đủ can đảm để trả lời. Kẻ
khiêu khích chẳng còn cười mỉm mà nhún vai một cách khinh bỉ. Sau khi ném cho
ông cái nhìn hạ cố gã bước qua đầu ông đi ra ngoài qua lối cửa sổ.
Chủ tịch chợt thấy sống mũi cay xè :
― Trời đất ơi, cớ sao ta dễ chảy nước mắt thế này ? Bệnh già
chăng, hay vì cơn cớ nào khác nữa ? Một người đàn ông không nên khóc dễ dàng
như vậy. Ta đã đổi thay, ta đã đổ đốn ra tự lúc nào ?
Ông tự rủa xả một cách dữ dội, nhưng nước mắt cứ chảy, từ từ
lăn xuống hai thái dương rồi chui vào đám tóc. Và bên tai ông, câu hát quen
thuộc của chàng bác sĩ vang lên :
― Người yêu dấu ơi...
- A ha ha ha ...
- A ha...ha...ha...ha...ha...ha...ha...
Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và
ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn.
Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc
kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con
dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng :
- Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch ?
- Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay
chăng ?
Ông ta vặn lại.
Chủ tịch lặng im.
Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười :
- Sao không trả lời thẳng thắn ? Đây đâu còn là cuộc cờ thế
sự, là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò ? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù
muốn hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả
chăng, ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn ?
- Tôi không quen, thưa chủ tịch.
- Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng
ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái
tỉnh nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám
dân Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc
rễ của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người ?
- Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.
- Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta ?
- Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.
- Ô , ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn
diễn trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều
là những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.
- Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn
Mỹ cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của
bản thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này ?
- Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây
đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc
chơi ? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm , ta hiểu chúng chính
là những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ
chưa ?
- Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở
thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.
- Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương
mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên
ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường
trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên
ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la
của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.
- Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng
khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã
bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao
vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông ― Đánh
Mỹ đi, đó chỉ là một con hổ giấy....
- A...ha...ha...ha...Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi
là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm
chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cầnmẫn. Ngươi khá
lắm! Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ
thời. Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến
tích. Ta thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói
cho đúng hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài
này. Đấy là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên
ngươi có mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ
phản trắc. Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta
nói như tin vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến
thành bông, hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn
đời chỉ là vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân
con những tỉnh phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải
đất cỏn con mà các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo,
mà chúng ta sớm hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc
chiến tranh này là một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ
nhàng, không tốn kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính
kế mà chỉ lặp lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa :
- Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. ― Toạ sơn quan hổ đấu
chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều
lần. Thời chiến tranh Nhật - Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng
Nhật, cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng,
bỏ mặc cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay
Nhật để tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân
đội được bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những
dân tộc Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của
các ông. Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ.
Mọi trò lừa đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại
lịch sử, và quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.
- Hậu thế ? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là
vào lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.
- Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền ? Ông tạo dựng
vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo ?
- Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh
bạc chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta ?
- Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai
đổi được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác
biệt. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của
số phận, và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung
hăng nhất đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.
- Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi
đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua
mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.
- Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để
phán đoán và xử trí mọi tình thế.
- Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu
kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây.
Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước
hết là ảo thức về dân chủ , thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ
sự thất bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây
trong khi lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng
ngờ vực ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây
để cột trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương
đông chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy
ngàn năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng
chưa ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do
người cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp
dụng tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân
phục lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm
bằng đũa và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình
đẳng cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ
―đồng chí ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng
cách bọn phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là
bóng ma nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi
chính do sự nhầm lẫn này.
Ô...đồng chí ! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày
đặt.
Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là đồng
chíhay chưa ?
Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước
ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là
màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là
máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự
phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao
khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng
chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã
được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu
điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao
việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong
cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng ?
- Về điều này có thể là ông đúng...
- Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định.
Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả
giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm
tưởng của ngươi ?
- Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc
trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.
- Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng
ngươi ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai.
Làm vua chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý
thức là mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường
xuyên như con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần
xác. Cái khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi
khóc ngươi cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi
thế, ngươi chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ
giải thích cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát.
Vua diễn trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc
chiếc mặt nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích,
thậm chí trái ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng
phải coi đó là sự đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện
này. Ông ta cực thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên
cốt, thơ cao sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng
đủ tứ thư ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm
vua. Trong khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào
bất cứ xó xỉnh nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích
ông ta đá hoàng hậu đến xảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần
văn võ ?
- Tôi nhớ.
- Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn ?
- Đương nhiên, tôi nhớ.
- Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà thân đã từng bày mưu sát hại
thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không ?
- Hai lần, nếu tôi không nhầm.
- Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể
tướng Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn
vẫn được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều
đó chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng
đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phải kẻ
nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như
vậy, nếu không vì thoả mãn lòng dục ? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân
xác chứa đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê
một lần cả trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng
tính mạnh hơn, cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh
bỉ nên ông ta mới dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để
che mắt thiên hạ. Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về
quê lấy chồng ắt hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to
mắt mà nhìn trò chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời
nào cũng vậy.
- Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền
thống này.
- Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta
với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa.
Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy
trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần
xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần
hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc
ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất
liền thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó
xuyên lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi
tần ở đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào
tơ từ mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy
lại tuổi trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dạy thì này.
- Vâng...
Chủ tịch nhếch mép cười :
- Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông : ― Ta rửa bộ phận sinh
dục của ta trong bụng họ.
- Cái gì là bộ phận sinh dục ? Ngươi quả là kẻ sính danh từ
của bọn mũi lõ mắt xanh ? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của
nông phu bản địa :―Ta rửa con cặc của ta trong những cái hẽm của bọn gái non
cho nó được dồi dào nhuận khí.Thế đấy ,ngươi đã nghe rõ chưa ?
Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi
mắt nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng
đều tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch
Mãn hắng giọng nói tiếp :
-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các― nữ đồng chínày cho đám quan
sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng,
nếu chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các
giảng đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự
rơi rụng của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và
hân hạnh mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật
nuôi dưỡng rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ
sáng tạo trong ta hay chưa ? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của
Càn Long chưa ?
Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.
Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn
đầy trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè
khiến người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy
dưới áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe
người làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện
hình từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là
trong thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết
các quần thần ; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn
ma, dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta
vang lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc
thì nó sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ
tịch Mãn khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức
giận. Lần đầu, ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị
như khi đọc truyện Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy
ông im lặng. Ông ta hạ giọng :
- Sao ? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc
đáng lẽ phải làm ?
- Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.
- Vậy ngươi nghĩ gì ?
- Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm
dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô
giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.
- Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc
cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng
đều phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết
cách nắm vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu
la dồn đến nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết ?
- Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao ? Vả
chăng, thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất
hết trí khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng
trước mấy chục triệu thây ma oan uổng kia sao?
- Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng ? Cuộc chơi đã
xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là
một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò
mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta
và ngươi cũng vậy.
- Tôi thấy ông cũng khá thành thật.
- Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.
- Nếu đã xác nhận quan hệ anh em - cừu thù, cớ sao ông còn
đến đây ?
- Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em- cừu
thù nên ta mới đến đây.
- Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng
vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả
thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên
bệ thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước
bất cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại.
Bởi dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây
cất bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương
người chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất
để giáo huấn cho những kẻ muốn làm vua ?
- Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc.
Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng
được ! Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân
tử Bắc kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn
quân vương khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra
ngươi nên học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với
giấc mơ « Một túp lều tranh hai trái tim vàng ». Làm vua, nghề này đòi hỏi cách
xử thế khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được
quên. Điều thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo.
Ấylà phép vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết
lưu thông. Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm
cung điện vì máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng
loài cây đơm trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không
được tưới tắm mà đơm cành kết trái được không ?...Hai nguyên tắc vàng để bảo
dưỡng thân tâm và bảo trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới
nay đều biết ứng dụng. Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược
lại. Đấy là sự nhầm lẫn lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ
tiêu diệt sự nghiệp của ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả
hai phương diện, thân xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám
khắc khoải vì ở trong thế bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an
dưỡng Quảng Châu để trói cẳng ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị
chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở
tại, thích nhìn gái đẹp sở tại. Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây ?
Ông im lặng.
Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông
khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời
thì cười và nói tiếp :
- Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi ?Tấm
thân cá chậu chim lồng.
Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và
biến mất.
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (5)
- Cốc cốc cốc...
Tiếng gõ mạnh vào cánh cửa khiến ông giật mình. Hai cây kim
trên mặt đồng hồ treo tường đã chập lại trên con số mười hai :
― Đã đến giờ cơm trưa „
Ông nghĩ, và lên tiếng :
- Tôi đang nhức đầu. Các chú cứ để cơm ngoài bàn rồi về đại
đội.
- Dạ...
Có tiếng đáp khẽ khàng. Sau đó, tiếng cánh cửa sập lại. Chủ
tịch tiếp tục nằm nhưng cảm thấy bồn chồn. Mươi phút sau, ông vùng đứng lên,
lau mặt và bước ra ngoài. Mấy chiếc phích điện ủ cơm và thức ăn để trên bàn,
nhưng nhóm cấp dưỡng lẫn bác sĩ vẫn đứng ngoài hành lang. Họ chưa dám xuống núi
mà tụ tập phía sau đội lính gác, ngắm cảnh chùa. Bên kia sân, tiếng mõ, tiếng
chuông bát lẫn tiếng đọc kinh vẫn vang lên không mệt mỏi.
Chủ tịch bước ra ngoài :
- Sao các chú không quay xuống núi ? Lát nữa cận vệ sắp cơm
cho tôi cũng được...
- Thưa chủ tịch, chúng con phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.
- Thôi được, nếu thế vào sắp cơm cho tôi rồi dọn đi cho
tiện. Hôm nay, quả tình tôi không thấy đói.
- Thưa người, hôm nay nhà bếp nấu món cà bung và hoa bí xào
mà người vẫn thích. Chủ tịch cố gắng ăn cho hết phần cơm.
- Được rồi...Tôi sẽ cố.
Ông đáp, đoạn đứng nhìn người lính sắp bày thức ăn trên
chiếc khay lớn hình chữ nhật. Khi đã xong xuôi, anh ta chúc ông ăn ngon miệng
và lui ra. Ngồi xuống trước khay thức ăn, ông nhớ lại lời chủ tịch Mãn :
― Ngươi quên rằng người phương đông cầm đũa và phân biệt
ngôi thứ vui tôi một cách rạch ròi.
Cầm đôi đũa mun lên, ông ngắm nghía như lần đầu nhìn thấy
chúng :
― Có nghĩa gì, sự khác nhau giữa những con người cầm đũa ,
cầm nĩa và ăn bốc ? Có nghĩa gì sự phân biệt giữa các thói quen ?
Ý nghĩa ấy lướt qua ông hờ hững, vô cảm như một gương mặt xa
lạ và tẻ nhạt. Ông bắt đầu gảy những sợi rau tía tô rắc trên bát cà bung.
Trước kia, ông đặc biệt thích ăn món này. Hồi dạy học ở Phan
Thiết, ông có một người hàng xóm lấy vợ Bắc kì, chính người đàn bà này đã cho
ông nếm món cà bung. Đấy là người nội trợ theo đúng nghĩa, sống với khát vọng
duy nhất là chăm sóc chồng con và vun vén ngôi nhà của mình. Ông chồng là
thương gia sành sỏi trên đường sắt Bắc-Nam, quanh năm ăn cao lâu, tiệm khách
với bạn buôn cũng như chủ đại lý nhưng vẫn một niềm thán phục tài nấu nướng của
vợ. Chính chị ta vạch cho ông cái chân lý cay đắng này :
― Muốn nói rồng nói phượng thì cứ việc nói, nhưng đã nghèo
mạt rệp thì làm sao có được món ăn ngon?
Rồi, chị lại cất cao giọng :
― Nhưng giàu cũng chưa hẳn đã biết đường ăn uống. Vàng bạc
đầy rương cũng có khi ăn thùng uống vại, hoặc phí phạm đồng tiền mà chỉ chuốc
về những thứ tạp nham.
Những lời lẽ thẳng thắn ấy vô tình làm ông tủi hổ khi nghĩ
rằng thứ cà lẫn nhút mà dân quê ông lấy làm hãnh diện chẳng qua chỉ là cảm thức
tự ti nguỵ trang của cảnh đói nghèo. Vợ người thương gia cũng mở mắt cho ông
thấy khẩu vị con người là khác nhau do tập tục và văn hoá. Chị ta dạy ông cách
nhận biết một món ăn ngon. Một con cá xẻ đôi đưa cho hai người đầu bếp khác
nhau, chế biến khác nhau, gia vị khác nhau có thể đưa tới hai hiệu quả khác
biệt. Kỉ niệm về món cà bung là một trong những kỉ niệm vĩnh định thời trai
tráng, gắn liền với mảnh đất Phan thiết, với những sườn đồi rậm rì cây cỏ và những
tháp Chàm cô liêu trên cồn cát đỏ rực ánh dương.
Một chiều, hết giờ dạy ông trở về nhà cùng lượt với vị
thương gia khả kính. Chưa kịp tới xóm trời bất thần đổ mưa. Cả hai buộc phải
tạt vào hành lang một ngôi nhà nguyện. Họ vốn là những người láng giềng nhưng
chưa bao giờ cùng ngồi một nơi, cùng nói một chuyện. Quan hệ chỉ khuôn định
trong những lời chào hỏi lịch sự bên ngoài hàng rào. Cơn mưa ấy chính là cơ hội
để họ trò chuyện với nhau. Vị thương gia kia tỏ ý quyến luyến. Khi mưa tạnh,
trời đã xẩm tối, ông ta cất tiếng:
- Có thể là tôi quá sỗ sàng, nhưng nếu được xin mời anh sang
dùng cơm tối....Một thân trai loay hoay nấu nướng xem ra bất tiện.
- Cảm ơn ông.Tôi vốn đã quen cuộc sống độc thân.
- Ồ không!
Ông ta nằn nì :
- Tôi cũng đã từng sống như anh trước khi lấy vợ. Nhưng
chúng ta là láng giềng. Anh một nghề, tôi một nghề, không có gì liên luỵ đến
nhau, anh không tranh mối hàng của tôi, tôi cũng không nhằm cướp việc của anh.
Nếu chúng ta trở thành thân tình thì hay lắm.
Ông cười thầm vì chưa từng thấy ai đi buôn mà nói năng một
cách "thẳng như gậy tre" theo kiểu đó. Nhưng cũng chính vì thế mà ông
có cảm tình với người láng giềng và nhận lời. Trở về nhà, ông cất dọn đồ đạc,
thay quần áo rồi sang bên nhà vị thương gia. Ông ta đã đứng chực ở cổng, người
ở gái đang cho đứa con nhỏ nhất của ông ta ăn cơm trong sân. Chủ nhân mời ông
vào nhà và họ ngồi vào bàn tức khắc :
- Đây chỉ là bữa cơm thường. Vì tin rằng ông dễ tính nên
chúng tôi mới dám mạo muội mời ông sang. Có gì sơ xuất, xin ông thứ lỗi.
Ông láng giềng nói. Đoạn gọi vợ ra :
- Mợ nó không cần phải lo lắng quá. Hôm nay là bữa cơm nhạt
kết giao. Vài bữa nữa ta sẽ làm tiệc thết khách cũng chưa muộn.
Ông lặng thinh nhưng nghĩ thầm :
― Cơm nhạt mà như thế này cũng đã hơn hẳn mâm cỗ ngày tết
quê ta.
Chiếc bàn mặt đá của vị thương gia hình rất rộng, nhưng chỉ
có ba thực khách. Trên chiếc ghế trống còn lại, chủ nhân đặt một bình hoa xum
xuê cắm cúc đại đoá trắng kèm cây lưu ly. Bình hoa vĩ đại đó cao non một thước
và có vẻ trang trọng hơn là sự hiện diện của một quan khách. Nó khiến cho gian
phòng sang trọng và đem lại cảm giác thoải mái cho mọi người. Trên mặt bàn, bà
chủ đặt liễn cơm sứ trắng ủ trong dành vào một góc, góc đối diện là bình rượu
thập toàn đại bổ của đức lang quân. Những món ăn bày chính giữa bàn. Vừa nhìn
chúng ngay tức khắc nước bọt ông trào ra liên tục. Ông xấu hổ nuốt nước bọt một
cách thầm lén nhưng không có cách nào cưỡng chế thứ dịch vị phản thùng này. Nó
không ngừng tuôn tràn, bởi hương vị và màu sắc những món ăn không ngừng kích
thích. Thoạt tiên, là một con gà giò hầm quỳ trong thẫu, thứ gà ri nhỏ nhưng da
mỏng tang, vàng ươm mỡ và bốc mùi thơm của nấm hương tươi. Nấm hương, để nguyên
cái, xếp xung quanh con gà như những cánh hoa cúc, tầng tầng lớp lớp chen chúc
nhau. Rồi tiếp đấy là món cá cam, đặt trong chiếc đĩa mênh mông, sâu lòng. Cá
để nguyên con, nhìn vào chúng như thấy cả biển khơi lẫn các vàng lưới vì cá
tươi nguyên, mắt còn đen nhánh, da óng ánh sắc cam. Lũ cá như đang bơi giữa
nước sốt trong suốt, lấm tấm điểm ớt đỏ lẫn rau mùi thái vụn. Ông chưa thấy ai
làm được món cá cam như vậy, bởi khi ăn, hương vị cam thấm vào khứu giác lẫn vị
giác. Vừa nhận thấy chất thịt ngọt lừ của loài cá biển, vừa nhận thấy vị vỏ cam
và nước vắt của trái cam. Mọi thứ mùi vị đều rõ rệt, rạch ròi, nhưng hoà quyện
vào nhau mà ớt đỏ với rau mùi là những chất gia cố khiến các hương vị kia thêm
nổi trội. Ông nhớ rằng tối hôm đó, tuy đã hết sức cố gắng tự kìm giữ, nhưng ông
đã ăn món cá cam nhanh như húp cháo. Tuy trong lòng có đôi phần hổ thẹn nhưng
sau rốt ông đã tự an ủi mình :
― Nữ thực như miu, nam thực như hổ. Ta đang tuổi tráng niên.
Món thứ hai ông cũng ăn một cách vội vàng hào hển là món cà
bung tỏi. Ở quê ông, người ta chỉ quen ăn cà muối xổi hoặc muối chườm. Cà muối
xổi thay rau bởi vùng đất ấy rau rất hiếm. Nếu không muối xổi thì họ sẽ luộc dở
sống dở chín để chấm nước mắm ớt xanh hay mắm ruốc, thứ nước chấm mặn se lưỡi
và cay trào nước mắt. Cà muối chườm là thứ gia bảo của tất cả những loại dân
cầy nghèo khổ, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả xứ Bắc. Có câu ca dao riễu
cợt đám phú ông tiện tằn bóc lột những chàng rể tương lai:
― Năm năm làm rể chưa qua
Mẹ em đã tốn hết ba vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em
Bữa cơm hôm đó dạy ông rằng người ta có thể chế biến thứ rau
này một cách hoàn toàn khác, không còn một chút vị hắc đậm của những món cà nơi
quê ông. Món cà bung hôm ấy là thứ hỗn hợp tuyệt vời gồm những miếng đậu mềm
nõn rán vàng, thịt rọi rán cháy cạnh rồi thái khẩu, cà chua bột chín đỏ như son
cho nước sốt sóng sánh nổi đầy sao mỡ, còn cà chắc chắn đã được ngâm kĩ theo
công thức nào đó khiến cho những miếng cà trở nên trắng và thấm đầy mùi vị của
các loại rau thơm khác nhau : tía tô, lá lốt, hành tăm. Thêm vào đấy, ê hề tỏi,
cả tỏi chiên lẫn tỏi sống. Tỏi chiên chắc chắn để xào cà từ khởi thuỷ, còn tỏi
sống dành nêm vào phút chót trước khi múc món ăn đặt lên bàn.
Sau này, trên những con đường của số phận, ông đã từng dự
nhiều đại tiệc với những món ăn của các dân tộc từ đông đến tây nhưng chưa ở
đâu ông tìm thấy loại thức ăn đứng giữa món canh với món xào, chẳng thể liệt kê
được vào loại nào nhưng cho hương vị ngon lành như món cà bung tỏi của người
đàn bà ở tỉnh Phan thiết.
- Thưa chủ tịch, mời người dùng cơm kẻo nguội.
- A...
Ông giật mình. Nhóm lính làm bếp đứng ngoài cửa sổ vẫn theo
rõi ông :
- Tôi ăn đây.
Ông đáp rồi gắp một đũa cà bung như cái máy. Ông ngửi thấy
mùi tỏi, mùi lá lốt lẫn tía tô. Ông cũng ngửi thấy mùi đậu rán, mùi thịt cháy
cạnh, mùi cà tím xào mỡ. Nhưng tất thảy những mùi vị ấy không còn giống như
những mùi vị ông từng biết thuở xưa. Chúng chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt
của mùi vị. Nước bọt không tiết ra, và miếng ăn trở nên nhạt nhẽo. Hương vị
thơm tho quyến rũ không còn nữa. Không còn nữa tuổi trai tráng. Không còn nữa những
chân trời mời mọc. Không còn nữa niềm tin. Và như thế món cà bung cũng không
còn tồn tại. Chỉ còn lại trước mặt ông, trong chiếc đĩa viền chỉ vàng sang
trọng này bóng ma của nó. Bóng ma của bữa ăn tối Phan thiết năm xưa.
- Thưa chủ tịch, món cà con nấu có vừa hay nhạt ạ ?
- Vừa, vừa lắm. Cả độ mỡ xào cũng vừa vặn, không nhiều không
ít.
Ông vội vã đáp lời, vội vã nuốt, vội vã gắp tiếp gắp cà thứ
hai, cố tình chọn mấy nhân tỏi trắng và rau thơm để người đầu bếp yên lòng.
Thức ăn mắc trong họng nên ông phải dùng nước canh chiêu cho nó trôi xuống.
Người đầu bếp vẫn theo rõi ông qua khuôn cửa sổ một cách chăm chú và thành
kính. Ông cố gắng kết thúc bát cơm, chọc đũa sang đĩa thứ hai, lượm mấy nụ hoa
bí đỏ xào nhấm nháp như để hoàn tất những thủ tục của một cuộc trình diễn rồi
buông đũa :
- Các chú dọn đi cho tôi. Cơm hôm nay rất ngon nhưng tôi
không được khoẻ. Có lẽ do nhức đầu. Nhiệm vụ của các chú đã hoàn thành xuất
sắc. Chỉ có phần tôi là kém thôi. Nhưng tuổi già là thứ không ai tránh khỏi.
- Thưa chủ tịch, người chưa dùng hết một phần ba xuất cơm.
- Khi nào đến tuổi tôi, các chú sẽ hiểu.
Ông nói, phác một cử chỉ vừa để trấn an nhóm cấp dưỡng , vừa
để kết thúc câu chuyện. Bác sĩ biết ý, bước vào chuẩn bị thuốc uống cho ông.
Anh ta mở va-ly đồ nghề ra đong đếm, thêm vài ba viên thứ này, bớt vài ba viên
thứ kia. Sau rốt, anh ta nhìn nắm thuốc trong lòng tay một cách cẩn trọng trước
khi rót nước cho ông chiêu. Xong xuôi, cả bọn rút lui để cần vụ mang cho ông
khay trà. Đám lính tăng cường buổi sáng đã được xuống doanh trại ăn cơm, tốp
khác vừa lên thay thế.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh vẫn vang lên không ngưng nghỉ.
Họ không dừng lại ăn bữa trưa. Nghe nói trước đây, Phật và các đệ tử của ông
chỉ ăn ngày một bữa, sau giờ ngọ :
― Tại sao họ có thể chịu đựng suốt đời một chế độ dinh dưỡng
khắc nghiệt như vậy mà vẫn mạnh khoẻ ? Nếu ta không nhầm người sáng chế ra tôn
giáo này thọ đến tám mươi. Nguồn năng lượng nào bồi bổ cho họ ngoài sức mạnh
của niềm tin ?
Ông tự hỏi nhưng tức khắc xoá đi câu hỏi đó vì biết nó nằm
ngoài vùng tri thức của mình. Tiếng chuông bát ngân nga điểm nhịp cho những
giọng đọc kinh khiến ông quay về với thực tại. Dàn hợp xướng kia là bản kinh
cầu hồn cho một kẻ làm cha bị tấn công bởi chính đứa con mình. Nó được tấu lên
một cách thực sự bởi những ăn năn hối lỗi của đứa con phản trắc hay chỉ là thứ
trò diễn cho hợp với phong tục và thói quen ? Và nếu người cha kia không chết
đột ngột bởi tai nạn, nếu ông ta vẫn sống với đầy đủ sự cường tráng của thân
xác cũng như sự minh mẫn của trí não, liệu đứa con có bày tỏ lòng sám hối hay
không ?
― Dường như câu trả lời sẽ là: "Không"
Ông nghĩ tiếp :
― Than ôi, câu trả lời đã sắp sẵn trong óc não, bởi thế sự
đặt bày.
Rồi đột ngột, một nỗi tò mò ập đến :
― Liệu khi ta chết, lũ đồng chí phản nghịch kia có khóc
không nhỉ ?
Ông hình dung đám người ấy đứng trên khán đài của quảng
trường Ba đình, ắt hẳn là mọi sự phải diễn ra như thế. Trên đầu họ nào cờ rủ,
nào chân dung ông viền khăn tang đen, nào những khẩu hiệu thống thiết và hoành
tráng, đại loại như :
― Đời đời thương tiếc chủ tịch, người cha già vĩ đại của non
sông.
― Chủ tịch sẽ sống mãi trong lòng chúng ta.
Hoặc là :
― Đất nước còn, dân tộc còn, tư tưởng của chủ tịch còn là
kim chỉ nam soi đường cho tất cả.
Có thể là tất thảy những mỹ từ hào nhoáng nhất sẽ được sử
dụng để ca ngợi công đức của ông. Mỹ từ là thứ ít tốn kém nhất, chúng đề nghị
rất nhiều nước bọt nhưng rất ít đức độ lẫn trí thông minh. Thêm vào các mỹ từ,
hẳn họ sẽ sử dụng âm nhạc, vì âm nhạc xưa nay vẫn là thứ bùa mê hiệu nghiệm. Đã
sẵn bản : "Hồn tử sĩ" Liệu họ sẽ tìm thêm những bản nhạc cổ kim nào
để làm mùi mẫn đám quốc tang ? Làn thảm chẳng ? Hay Sa lệch chênh ? Khúc Nam
bình hay khúc Nam ai ? Lý chiều chiều hay hát dặm xứ Nghệ ? Ô, xứ sở của ta quá
sẵn những khúc hát bi thương để tiễn biệt những kẻ chầu trời.
Bỗng nhiên ông thấy hiển hiện trước mắt ông tấn tuồng hài
hước của thế sự, và hình dung đám người đứng trên khán đài trong tang lễ ông sẽ
nhất loạt đưa khăn tay lên để lau những giọt nước mắt dù thật hay vờ :
― Chúng sẽ buộc phải làm như khóc và trong thâm tâm chúng
vang lên tiếng nghiến răng trèo trẹo : Sao bây giờ mày mới chịu chết, lão khọm
già kia ? Bọn ta đã mất bao nhiêu công dàn dựng để tống tiến ngươi sang cõi
khác mà cái mạng sống dai nhoách của ngươi vẫn kéo cho đến tận phút này. Quả là
một cuộc chịu đựng quá sức.
Nhưng cũng có thể chúng sẽ khóc thật.
Những giọt nước có hoà muối sẽ tuôn ra một cách thật sự từ
mắt chúng, bởi chúng khóc trước cho thân phận của mình. Bởi chúng biết rằng
chắc chắn sẽ có ngày chúng xuống tuyền đài, nơi hội ngộ cuối cùng của kiếp nhân
sinh. Điểm hẹn chung cuộc mà chẳng kẻ nào có thể trốn thoát. Ở nơi đó, chúng sẽ
phải đối mặt với ta.
Ý nghĩ ấy khiến ông ngao ngán lắc đầu. Nhưng ông vội vàng
chiêu một ngụm nước trà vì sợ đám lính canh bên ngoài nhìn thấy. Họ sẽ cho rằng
ông đã đánh mất tự chủ, trở thành con bệnh già. Thuở trước, nhiều lần ông gặp
trên đường phố Paris những người già vừa đi vừa lẩm bẩm hoặc cười một mình, ông
thầm nghĩ :
― Tội nghiệp thay cho tuổi già.
Giờ đây, sự thương hại đó có thể dành cho chính ông?
Một tiếng cười câm nín vang lên trong tâm tưởng :
― Giá như ta có thể cười một mình, lẩm bẩm một mình như
họ?...Nhưng điều tệ hại là ngay thứ tự do ấy ta cũng chẳng có. Điều tệ hại hơn
nữa là trí nhớ của ta không hành trình cùng với tháng năm, nó không chịu chìm
đắm trong sương mù, nó không chịu nhạt phai cùng tuổi tác. Hình phạt lớn nhất
đối với con người là cái thân xác già nua của họ lại chứa đựng một trí nhớ quá
sắc bén.Trí nhớ buộc ta phải sống trong một địa ngục thường hằng. Trí nhớ là kẻ
dựng nên một pháp đình miên viễn. Trí nhớ là kẻ đồng hành không thể lẩn tránh
cũng chẳng dám khước từ. Nếu ta không còn trí nhớ, có thể cuộc sống sẽ nhẹ
nhàng hơn chăng?
Ông cúi xuống uống tiếp ngụm trà thứ hai, nhìn chất nước màu
vàng ốc sóng sánh lưng chén, giống hệt màu món cà-ri đã ăn trước khi rời Quảng
Châu. Nhà an dưỡng Quảng châu, cuộc nghỉ ngơi được bố trí lớp lang như một vở
chèo hiện đại. Suốt thời gian ông ở đó, nhà bếp chỉ làm những món ăn Việt nam
và Trung quốc. Nhưng bữa cuối cùng, bỗng nhiên người đầu bếp Tầu nổi hứng nấu
một món ăn Ấn độ đãi ông khi ông ta biết ông sắp ra đi. Đó là sự bí ẩn của ngẫu
nhiên. Bữa ăn rất ngon. Khi bước lên máy bay ông vẫn nhớ mùi vị đặc biệt của
thứ bột ca-ri lẫn thứ dầu gia chế vào gạo. Chúng khiến cho màu sắc của món ăn
thật đẹp. Một màu vàng nhuyễn mịn và óng ánh. Màu sắc ấy gợi sự ấm áp hoặc niềm
vui.
Máy bay chở ông trở về Hà nội buổi tối hôm ấy là máy bay
trực thăng quân sự. Họ nói với ông rằng cần phải dùng trực thăng, bay thật thấp
để tránh lưới cao xạ phòng không. Chiến tranh thường tạo ra trò đùa của sự nhầm
lẫn. Muốn bảo đảm tính mạng cho ông, người ta buộc dùng thứ máy bay cổ lỗ, xộc
xệch như cỗ máy khâu Xanh-de được lưu giữ trong những gia đình thợ may từ thế
kỉ mười chín nhằm tránh cho ông một cái chết không mong muốn bởi chính những
người lính của mình. Ông mỉm cười :
- Sống chết của nhân gian, sổ thiên tào đã ghi sẵn. Tổ chức
quyết định ra sao, tôi chấp thuận như vậy.
- Thưa chủ tịch...
Người phi công lộ vẻ áy náy, anh ta định nói điều gì đó
nhưng lại thôi. Ông nhìn người lính, ngay tức khắc cảm thấy tin cậy :
- Tôi đã từng ngồi xe trâu kéo. Cưỡi máy bay của chú giờ đây
cũng đã là sang. Chẳng cần băn khoăn nhiều.
- Thưa vâng.
Anh ta đáp rồi ngồi vào ghế lái.
Bốn người cần vụ tháp tùng ông ngồi bốn góc theo quy định.
Cuộc bay bắt đầu. Khi máy bay vừa lên đủ độ cao cần thiết trên vùng trời Quảng
châu, nó đã lúc lắc chồm nẩy như cỗ xe trâu lăn trên đường núi sụt lở. Không
khí chao động xung quanh tựa hồ muôn đợt sóng liên tục bổ xuống, nhào trộn với
những đám mây. Đêm đen như mực. Ông không thấy gì ngoài một không gian đen mù
mịt, không trăng không sao. Cứ như thế họ lặng lẽ bay qua vùng tiếp cận. Nhưng
bắt đầu từ lúc máy bay vượt qua biên giới, những làn đạn phòng không túa lên,
cày chi chít những rạch lửa đỏ. Mỗi lúc, những đường lửa đạn mỗi thêm chằng
chịt. Ông biết rằng họ đã lọt vào vùng trời khống chế bởi cao xạ pháo miền đông
bắc, kéo dài từ Lao cai cho đến Quảng Ninh. Người phi công đưa máy bay luồn
dưới đám lửa đỏ. Vẻ mặt căng thẳng khiến đôi mắt anh ta như lồi hẳn lên. Mồ hôi
anh ta chảy thành dòng lũ lượt sau gáy, thấm ướt đẫm cổ áo quân phục. Mồ hôi
cũng nhỏ xuống từ đôi bàn tay. Ông vẫn nhớ hình ảnh đôi bàn tay đó, chúng to
dày vững chãi, với đám lông trên mu và trên đốt cuối cùng của các ngón. Ông nhớ
rằng ông đã nhìn vào đôi bàn tay ấy, gần như không rời mắt. Những người lính
cũng vậy. Họ cũng không thể làm gì hơn là thở một cách hồi hộp và dán mắt vào
đôi tay cầm lái của phi công. Sinh mạng cả sáu người phụ thuộc hoàn toàn vào
chúng. Đấy là chuyến bay dài nhất trong đời ông. Mỗi phút trôi qua, là một phút
hồi hộp lắng nghe tiếng động cơ già nua xọc xạch trong cuộc vận hành khốn khổ
và khắc khoải chờ xem điều gì có thể xảy đến ngay phút sau. Mỗi phút trôi qua,
người ta biết rằng mạng sống của mình còn thêm một phút và phập phồng vì không
hiểu nó còn tiếp tục đứng vững hay không. Ông đã già, cuộc đời đối với ông
chẳng bao lăm ý nghĩa. Nhưng người phi công và bốn cậu lính trẻ măng, trong số
ấy có những đứa râu chưa kịp mọc. Họ không dám nói gì nhưng ông biết cơn sợ hãi
kiến tất cả dường như hoá đá.
Sau cùng, người phi công thở một hơi dài và chỉ cho ông thấy
cầu Long biên. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô kính, thấy cây cầu quen thuộc hiện ra
trong vùng sáng mờ nhạt của thành phố thời chiến tranh. Không ngoảnh lại phía
sau, người phi công lên tiếng :
- Báo cáo chủ tịch, vài phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh.
Lưỡng lự đôi chút, anh ta nói thêm :
- Nếu không có gì đặc biệt.
Ông đáp :
- Có hay không có sự cố đặc biệt cũng chỉ một người giải
quyết được. Trên chiếc máy bay này chú là người cầm lái chứ không phải tôi.
- Vâng.
Người lính đáp, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước. Ông nhìn
rõ những đường gân phập phồng một bên cổ anh ta, trong gờ sáng rọi lại từ phía
trước. Cũng lúc ấy, máy bay bắt đầu lượn vòng tròn. Những người lính ngồi quanh
ông vừa thở phào một hơi giờ lại bắt đầu sợ hãi. Cơn khắc khoải của họ nhiễm
đầy không gian chứa trong khoang máy bay hẹp. Họ dán mắt vào đốm lửa phản chiếu
trên đôi mắt người cầm lái. Và hơi thở của họ phả từng làn hơi nóng sực quanh
ông.
Máy bay lượn tiếp vòng thứ hai, rồi vòng thứ ba.
Im lặng đè nặng lên không gian. Nhưng thật lạ lùng là cùng
lúc đó, một sự thanh thản bất chợt đến với ông kèm theo nụ cười dí dỏm :
― Sau cùng, mọi cuộc chơi đều đi đến kết thúc. Ít nhất,
người ta cũng thấy được màn chót của tấn tuồng. Phải chăng đó cũng là điều hữu
ích?
Người phi công đột ngột quay lại nhìn thẳng vào ông, sau khi
đã đưa máy bay lượn ba vòng liền trên bầu trời thành phố :
- Thưa chủ tịch, đèn ba-li đặt sai vị trí.
- Chú chắc chắn là như vậy ?
- Thưa chủ tịch, trăm phần trăm.
- Điều đó có nghĩa gì ?
- Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta hạ cánh theo ánh sáng của
đèn ba-li đặt sẵn, máy bay sẽ rơi chính giữa hồ Định Công.
Ông lặng im, gần như nghe rõ nhịp đập rối loạn trong lồng
ngực bốn người cần vụ trẻ. Ngừng lại vài giây, ông cất tiếng hỏi :
- Chú vào nghề đã lâu ?
- Thưa chủ tịch, chưa hẳn là lâu nhất nhưng mọi sân bay trên
đất nước con đều thuộc như lòng bàn tay.
Anh ta đáp với vẻ quả quyết của một người có bản tính thận
trọng và ý thức trách nhiệm. Ông hài lòng vì ngay lúc đầu đã đặt niềm tin vào
con người này, một người lính trong trăm vạn người lính mà ông mới gặp lần đầu.
Ông mỉm cười, đáp :
- Thời xưa những người thợ dệt giỏi dệt gấm trong bóng tối.
Họ chỉ cần nghe tiếng thoi đưa và tiếng đập nhịp của guồng sợi mà biết mọi điều
xảy ra. Triều đình tuyển chọn thợ dệt đặc biệt tinh xảo cho hoàng cung cũng nhờ
phương pháp này. Thứ đó người ta gọi là thủ thuật thử thách bản lĩnh nghề
nhiệp. Tôi thấy chú là người lái giỏi. Vậy chú cứ hành xử theo bản lĩnh nghề
nghiệp của chú.
- Thưa vâng.
Người phi công đáp. Anh ta hoàn tất nốt vòng lượn thứ tư rồi
bắt đầu cho máy bay hạ xuống chính tâm một khoảng không đen kịt. Đôi mắt anh ta
phản chiếu lửa đèn, hắt lên những đốm sáng li ti. Cặp hàm vuông, gần như bạnh
thêm ra trong sự tập trung cao độ. Đột nhiên, bàn tay người cần vụ ngồi bên
trái ông túm lấy cánh tay ông, xiết chặt lại trong một cử chỉ vô thức nửa như
muốn tìm nơi ông sự trợ giúp lại nửa như muốn che chắn bảo vệ ông trước hiểm
nguy. Những ngón tay cậu ta rắn như đinh khiến ông đau điếng nhưng ông nín
thinh chịu đựng. Rồi cuộc hạ cánh hoàn tất. Họ nghe rõ tiếng càng máy bay chạm
đất, cảm nhận sự va đập cuối cùng. Tất cả xảy ra trong đêm đen.
Người phi công quay lại hỏi :
- Thưa chủ tịch, chúng ta cứ để đèn hay tắt đèn ?
- Cứ để đèn cho sáng.
Ông đáp.
Liền lúc ấy, giống như phép thuật của quỷ hoặc thần, cả một
toà nhà sáng trưng hiện lên trước mắt họ. Toà nhà trung tâm khu sân bay quân
sự. Tất cả các khung cửa kính đều sáng loá nhưng không thấy bóng ai. Do linh
giác xui khiến, ông quay đầu nhìn về hướng dãy đèn ba-li của sân bay, bắt gặp
ánh mắt người phi công cùng lúc. Dãy đèn ấy đặt dọc hồ. Một máng sắt sơn đen
dài ngăn ánh sáng tiếp cận với mặt nước. Thời khắc mà họ nhìn rõ cảnh tượng đó
cũng chính là thời khắc cả dãy đèn phụt tắt như những ngọn lửa ma trơi. Đồng
thời, khuôn cửa lớn của toà nhà trung tâm sân bay mở rộng. Từ trong đại sảnh
bước ra một nhóm người. Tất cả có tám nhân mạng. Ba Danh, Sáu, bốn cận vệ và
hai người nữa, chắc chắn là cán bộ lãnh đạo phi trường :
― Họ sẽ chết nay mai, những kẻ xấu số này. Bốn cận vệ sẽ bị
tiêu diệt tức khắc. Còn hai sĩ quan của trường bay? Cuộc sống của họ sẽ kéo dài
một ngày hay hai ngày, ba ngày hoặc đủ một tuần lễ ?„
Ông thầm nghĩ và bất giác rùng mình. Lúc ấy, đèn trên sân cỏ
cũng theo nhau bật sáng. Người phi công hỏi :
- Thưa chủ tịch, con có thể tắt động cơ được chưa ?
- Được. Đã tới lúc làm điều đó.
- Vâng.
Anh ta đáp và thi hành mệnh lệnh.
Thang máy bay được chuẩn bị do chính các sĩ quan phi trường.
Ông bước xuống, lần lượt bắt tay hai người đàn em thân thiết :
- Chúc mừng anh Cả trở về .
- Xin chào chủ tịch, phong cảnh lẫn con người đất Quảng châu
hữu nghị có làm người hài lòng chăng ?
Ông cười :
- Ồ, tôi rất hài lòng, tôi vô cùng hài lòng. Xin cảm ơn các
chú.
Và cuộc sống lại tiếp diễn bình thường.
Nhiều ngày sau đó, tâm trí ông quẩn quanh bởi hình ảnh người
phi công lái trực thăng. Chắc chắn anh ta đã bỏ mạng cùng với bốn cậu cận vệ
trẻ măng kia. Không bao giờ ông gặp lại bốn chàng trai ấy nữa. Đội cận vệ của
ông thường xuyên thay đổi nhân sự, nhanh hơn gió thay mùa. Còn người phi công
tài năng kia ? Anh ta là ân nhân cứu mạng đối với ông. Một trong số những gương
mặt ám ảnh ông gần như thường trực. Gương mặt ấy là tấm gương phản chiếu một sự
thật chua chát: Ông là kẻ vô năng đối với tất cả những người đã gia ơn cho
mình.
― Ta là kẻ vô năng nhất trong tất cả những kẻ vô năng. Ta là
kẻ chịu ơn bội bạc nhất trong những kẻ bội bạc. Đó là một sự thật mà thế gian
không tin nổi. Đó cũng là nỗi nhục nhã mà ta chẳng dám thú nhận với ai.
***
Vũ khoác áo, bước ra hành lang.
Ở đó, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, lắng nghe một cách ơ
hờ những tiếng động vẳng lại. Khoảng năm giờ sáng, người bệnh nằm đối diện với
ông tắt thở, sau một tuần sống cuộc sống nhân tạo. Ông ta tắt thở ngay khi máy
hô hấp vẫn vận hành. Bác sĩ trực phòng gọi nhân viên dưới nhà xác cùng với cán
bộ quản lý nhân sự lên làm thủ tục để chuyển tử thi đi. Những người bệnh khác
ngọ nguậy cổ như những con sâu để quan sát mọi sự. Cặp mắt họ lơ láo, thất
thần. Nỗi kinh hoàng khiến những gương mặt vốn đã bợt bạt trở nên vô khí sắc.
Một người kéo chăn che kín đầu và lát sau tấm vải lót chăn thấm ướt. Ông ta
khóc vụng bên trong. Bầu không khí đó làm Vũ ngột thở nên ông khoác áo, lẳng
lặng đi ra.
Hành lang vắng ngắt, chỉ những ngọn đèn dọc tường hắt xuống
dãy ghế sơn xanh. Sự vắng vẻ lẫn yên tĩnh tạm thời làm nhẹ lòng người. Tựa lưng
vào ghế, Vũ đưa mắt nhìn bức tường đối diện và cứ ngồi như thế hồi lâu, không
nghĩ ngợi gì. Lát sau, khuôn cửa rộng trổ ra khu vườn chính của bệnh viện dội
lại tiếng chim. Vậy là bình minh đã tới. Chim chóc bắt đầu cuộc sống thường
hằng của loài chim. Sau khúc dạo đầu của vài ba con chim cần mẫn nhất là bản
hoà tấu của tất thảy các giống chim hội tụ trên vòm cổ thụ. Bản hoà tấu bất tận
của đất và trời.
« Duyên cớ gì khiến ta chú tâm đến tiếng chim hót ban mai ?
»
Vũ tự hỏi, bởi những năm ở rừng Việt bắc, tiếng chim hót
chẳng khiến ông quan tâm đến thế, dù nơi đó chim chóc là một phần cuộc sống
chiến khu. Không tìm thấy câu trả lời nên ông nhắm mắt lại, tiếp tục nghe tiếng
ríu ran, tiếng líu lo, tiếng thánh thót, tiếng sửng sốt thất thần, tiếng trầm
tĩnh rời rạc hay tiếng hối hả tươi vui mà bất khả phân biệt tên gọi của các
loài. Ông không thể phân biệt đâu là tiếng hoạ mi, tiếng sơn ca, tiếng vàng
anh, tiếng chích choè, tiếng sáo sậu, tiếng sẻ di hay sẻ đồng. Không, ông sẽ
hoàn toàn tuyệt vọng nếu muốn trở thành người nuôi chim hay dạy chim chuyên
nghiệp. Nhưng ông say mê hoà điệu của tất thảy các giọng hót, bởi chúng đem cho
ông niềm vui sống lạ lùng mà mọi thứ giải trí khác đều bất khả.
Đúng lúc ấy, chiếc xe lăn chở tử thi trùm kín vải trắng từ
từ tiến đến. Người đẩy xe là nhân viên nhà xác, một người đàn ông to lớn, gương
mặt sưng vù như mắc chứng phù thũng bởi tiếp xúc quá nhiều với các thây ma. Đôi
mắt anh ta đờ đẫn, nửa như đang nhìn, nửa như đã bất động. Da mặt anh ta cũng
vậy, nó có màu vàng ệnh của xác chết. Theo sau anh ta là vài nhân viên hành
chính và y tá. Cô bác sĩ trực đứng lại một mình cuối hành lang, nhoài qua khuôn
cửa nhìn xuống vườn cây. Hoặc cô ta tìm hơi lạnh của sương mai, hoặc cũng như
ông, nghe chim hót. Giờ, Vũ đã hiểu, cơn cớ nào dẫn đến sự chú tâm quá mức của
ông tới tiếng chim lúc rạng đông. Lần đầu tiên chính là buổi sáng nghe tin Xuân
bị giết. Dưới bóng các vòm lá sấu và mít, ông bất thần đứng như tượng để nghe
chim hót, mặc dù người lái xe đã nổ máy dưới lòng đường. Chỉ là một khoảnh
khắc, nhưng khoảnh khắc định mệnh. Những con vật nhỏ bé kia không biết rằng
chính chúng đã đem cho ông sức mạnh; chính chúng là chiếc phao cứu nạn vào giây
phút ông cảm thấy sắp chìm.
Giờ này là lần thứ hai.
Lần này là cái chết của một kẻ xa lạ, nhưng nó đến vào chính
lúc ông đang bị uy hiếp. Bởi ông đang ở trong cơn chấn động cả tâm thần lẫn thể
xác. Bởi môi trường gợi nên cảnh chìm tầu trong khi ông đang là con thuyền bị
sóng đánh tròng trành. Ông buộc phải truy tìm cứu cánh. Nhưng lần này, ông ý
thức rõ ràng một sự tìm đến chứ không phải là sự bắt gặp ngẫu nhiên.
« Ta tìm đến khúc nhạc này như kẻ chết đuối nắm lấy mảnh bè
mà thần hộ mạng ném xuống. Tiếng chim hót, vẻ đẹp bất tử của thiên nhiên. Phải
chăng ngươi là kẻ đồng hành không bao giờ phản trắc, là nơi tựa đỡ không bao
giờ sụt lở đối với con người ? »
Cô bác sĩ trực tiến lại phía ông, sau khi đã nhoài người
khỏi khuôn cửa sổ khá lâu để hít thở. Đêm lao động căng thẳng còn lưu lại những
nếp nhăn trên trán . Lần đầu ông chú ý đến cô ta : một nhan sắc bình thường,
dấu vết của cuộc sống thôn dã còn in khá đậm. Cô ta có dáng đi tất bật, thân
lao về phía trước, hai đuôi tóc tết sam đánh lúc lắc theo bước chân. Đến trước
mặt ông, người đàn bà dừng lại, tươi cười cất tiếng :
- Chào bác, công việc của chúng tôi khiến bác mất ngủ ?
- Tôi còn rất nhiều thời gian để ngủ bù. Bác sĩ không cần
lo.
- Hôm nay cơ quan và gia đình có vào thăm bác hay không ?...
- Có chứ. Như thường lệ. Cảm ơn bác sĩ.
Cô ta mỉm cười, nhưng sau đó giơ tay che miệng ngáp rồi đi.
Người đàn bà này vừa được chuyển từ một quân y viện sang nên
chưa đủ thời gian nắm vững hoàn cảnh các con bệnh. Cô ta không biết rằng ngay
lúc ông nhập viện, bác sĩ trưởng khoa đã yêu cầu vợ ông không được vào thăm ông
như thân quyến những người bệnh bình thường khác. Bởi cuộc đối thoại với bà
chính là nguyên nhân gây nên cơn chấn động tâm thần dữ dội, kèm theo sự tăng
huyết áp và co giãn vành mạch đột ngột, vượt qua mọi lô-gíc bình thường của
bệnh học, dẫn đến cơn ngất xỉu của ông. Người ta buộc phải coi bà như tác nhân
gây bệnh. Do đó, cuộc tiếp xúc giữa họ cũng phải chờ chỉ định của thầy thuốc.
Vũ cảm thấy dễ chịu. Ông tự do. Thời gian đầu, dường như ông không còn mảy may
lưu luyến đến gia đình. Ngay tên bà ông cũng quên. Hình ảnh của bà mất tăm
tích. Nhan sắc mặn mà thuở xưa trở thành vô hình vô dạng trong lỗ hổng đen ngòm
của trí nhớ. Có lẽ cơ thể ông phải sản sinh ra những phản ứng tích cực để tự
bảo toàn.
Nhưng hôm nay, khi chiếc xe tang đưa kẻ xấu số khuất rồi,
chợt một nỗi âu lo ập tới :
― Nếu ta ra đi đột ngột, liệu Vân và những đứa trẻ sẽ ra sao
?
Ý nghĩ ấy vừa tới, ông đã tự cười mình :
― Ta lại nhớ đến cô ấy. Đó phải chăng còn là tình yêu hay
chỉ đơn giản là tinh thần trách nhiệm ? Hoặc chính xác hơn là một sự lạc hướng
tâm lý : ta nhớ cô ấy như nô lệ nhớ chủ nô, như kẻ mắc chứng khổ dâm nhớ kẻ bạo
dâm, như kẻ bị hành quyết nhớ đến gương mặt tên đao phủ. Một sự tưởng nhớ bệnh
hoạn. Nó chứng thực con người vốn dĩ là con vật bị điều khiển bởi thói quen.
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (6)
Ông vùng đứng lên, đi dọc theo hành lang vì cảm thấy nếu còn
ngồi lại, ông sẽ bị đè bẹp bởi sự khinh bỉ của chính mình. Vừa đi, ông vừa đưa
mắt nhìn xuống sân viện. Chiếc xe chở người chết đang vượt qua sân chính để
tiến về phía nhà xác, một khối bê-tông trắng cao ngất, vuông vắn như hộp đựng
bích-quy nằm khuất sau khu nhà mổ. Trên những chiếc ghế đá dài xếp quanh các
bồn hoa, đã lác đác có người ngồi. Hoặc là những con bệnh sắp bình phục ra ngắm
cảnh để tránh không khí ngột ngạt trong các phòng điều trị. Hoặc là đám người
nhà bệnh nhân ra nhấm nháp bữa ăn sáng của họ, thường là chiếc bánh mì rắc muối
hoặc gói xôi. Thấm thoắt ông đã vào đây đã trọn hai tuần, bắt đầu quen với nhịp
điệu cuộc sống mới, hiểu rằng khả năng thích ứng của con người lớn hơn họ vẫn
tưởng. Mấy ngày đầu, sau khi được giải phóng khỏi cơn hôn mê nhân tạo, ông hồi
phục rất nhanh, cũng căm ghét rất nhanh cuộc sống của con bệnh. Các loại mùi
khác nhau của thuốc tiêm cũng như thuốc uống, mùi hôi hám của những cơ thể đau
ốm, bạc nhược; mùi thuốc tẩy trùng trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Gương mặt
của những người bệnh, đa phần gợi đến những chiếc mặt nạ bằng sáp ong hay vải
liệm hồ bột. Những ánh mắt khi lờ đờ như mất hết sinh khí, khi bày tỏ sự cầu
khẩn quỵ luỵ, khi ánh lên vẻ tò mò hay nỗi tuyệt vọng, khi bộc lộ sự thèm muốn
hay ganh ghen... Một thế giới tâm lý gớm nghiếc khiến ông ghê tởm. Nhưng dần
dà, vì bắt buộc phải chịu đựng nó, ông tìm được những kẽ hở mà ở đó, ông có thể
thở hít, có thể tự cứu vãn và gạt đi những ý nghĩ u sầu. Ông tự so sánh mình
một cách hài hước với những kẻ sống dưới hầm sâu hay địa đạo, dán mũi vào lỗ
thông hơi để tìm ô-xy và hương vị của bầu trời. Cái phao cứu hộ lớn nhất của
ông chính là vườn cây trung tâm viện. Vũ có thói quen lượn quanh khu vườn bất
kể giờ nào rảnh rỗi. Ngay cả lúc trời lất phất mưa, ông cũng lững thững đi
quanh các bồn hoa, ngửa mặt nhìn vòm cây xum xuê, tìm bóng chim và nghe tiếng
kêu chành choẹ của chúng. Trong túi ông lúc nào cũng dự phòng vài chiếc khăn
tay vì ông là nạn nhân thường trực phải hứng chịu các bãi cứt chim. Ông hài lòng
vì đã biến thành một cái đích thuận tiện để lũ chim thải bã, chẳng phải vì ông
tin vào lý thuyết ― "thấy phân là có lộc" như những người dân quê,
nhưng vì ông muốn gần gũi một thế giới sống động đầy cảm hứng. Thế giới ấy tồn
tại ngay giữa các khu nhà ảm đạm trong đó đầy ních kẻ sống dở chết dở hoặc các
thây ma. Thế giới chim chóc ấy là trạm trung chuyển giữa một bầu trời cao rộng
với ông, con người đang quay cuồng trong cơn bão tâm tưởng. Tiếng hót của loài
vật bé nhỏ này là tiếng nói của thiên sứ, quà tặng của vị thần bảo mệnh, chiếc
bè được chúa Trời ném xuống một cách bí ẩn trong cơn hồng thuỷ vô hình này.
Những cuộc lượn chơi ấy khiến ông quen với một số bệnh nhân
có tâm trạng gần như ông, họ cũng bám lấy khu vườn như bám lấy mảnh thiên đường
còn rớt lại. Mọi người chạm trán nhau, cúi chào nhau một cách thân thiện và
lặng lẽ, rồi đường ai người nấy đi. Khi mỏi gối chân chồn, Vũ lại tìm đến
căng-tin, ngồi vào góc bàn sát cửa sổ trông ra mảnh vườn sau của bệnh viện. Ở
đó, ông nhấm nháp một ấm trà với một chiếc bánh trong vài ba giờ liền, lắng
nghe tiếng ong rù rì sau lưng, nghe mấy cô gái bán hàng chuyện gẫu hoặc tán
tỉnh các chàng trai trong đội bảo vệ bệnh viện. Đấy là thời khắc yên tĩnh nhất
cho phép ông đối thoại với chính mình.
Cuộc sống, lý tưởng, công việc, gia đình, những con đường đã
đi qua, những đoạn đời đang đợi chờ phía trước.
― Phải chăng đại cuộc đã hỏng rồi ?...
Câu hỏi ấy quay vòng như bánh xe luân hồi trong óc não. Câu
nói nhẹ nhàng như rỡn cợt của gã đàn ông đeo đôi kính cận dày như trôn chén kia
chính là bản án tử hình: Thuyền tình đã vỡ, ước mộng đã tan ? Cuộc cách mạng mà
cả dân tộc dấn thân sau rốt chỉ là sự khuấy đáy bùn để làm nổi lên xác thuỷ tộc
lẫn rong rêu thối rữa ? Làm sao có thể chấp nhận nỗi đắng cay này ? Biết bao
sinh linh đã nằm xuống ? Biết bao đời trai bị đốn như những thân cỏ tháng giêng
bị cắt ngang bởi lưỡi hái của tử thần? Biết bao và biết bao?
Nỗi ngờ vực càng ngày càng có nguy cơ trở thành lời khẳng
định.
Ông tự thán âm thầm :
― Chẳng phải vì ta xiêu lòng bởi hai gã đàn ông bẻm mép mà
vì sự thật đã hiển lộ từ lâu nhưng không ai đủ can đảm đương đầu. Những kẻ đứng
ngoài ngoài guồng máy quyền lực chắc chắn phải có cái nhìn khách quan. Có lẽ do
thân phận của họ, hoặc nói chính xác hơn do lựa chọn rong chơi mà họ nhìn thời
cuộc một cách tỉnh táo. Ta không thể chối cãi rằng đa số những kẻ đứng quanh ta
chính là đám cóc nhái chốn sình lầy.
Cùng với ý nghĩ cay đắng ấy, lướt qua một chuỗi dài những
gương mặt của đám người chen chúc đứng cùng ông trên khán đài quyền lực. Cái
guồng máy nhà nước này đầy rẫy những quân vô lại, những bọn chôm chỉa cướp
giật, những con điếm hạ cấp....Tất thảy loại người được gom chung vào một danh
từ : bọn vô sản lưu manh. Vì vừa vô sản vừa lưu manh nên chúng hoàn toàn bị
điều khiển bởi một niềm say mê bạo liệt, niềm say mê này cho phép dung chứa tất
thảy mọi hành động tàn bạo, mọi biện pháp phi nhân tính. Sức mạnh nội tại tiềm
tàng trong chúng: Khát vọng quyền lực. Sự tham lam buông thả vô cùng vô tận nảy
sinh trên gốc rễ đói nghèo. Nhu cầu không nguôi dịu của một cuộc trả thù vô
thức do những khổ đau, thua thiệt, căm giận, thù oán tích tụ trường kì qua năm
tháng.
Kỷ niệm về hội nghị 9 chưa phai. Bởi nó đánh dấu bước ngoặt
định mệnh của dân tộc cũng như sự ngã ngựa của con người khoác tấm áo bào đẹp
nhất.
Buổi sáng ấy oi nồng, oi nồng như bầu không khí bao trùm hội
nghị. Mặc dù những chiếc quạt trần xoay tít và những cây quạt đứng xung quanh
cũng không ngừng tạt gió nhưng mọi người vẫn cảm thấy ngột ngạt. Đây là phút
trọng đại nhất: Người ta lấy biểu quyết cho đường lối chính trị quốc gia. Trên
ba trăm năm mươi đại biểu, phe chủ chiến chiếm tuyệt đại đa số, phe chủ hoà là
thiểu số bị nghiền nát: Họ đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Thế nhưng họ vẫn can
đảm đến giây phút cuối cùng vì trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc. Người đứng
lên trước hết là Lê Liêm, thứ trưởng bộ văn hoá. Vì ngồi ngay hàng ghế phía sau
nên ông nhìn rõ đám mồ hôi thấm trên lưng áo ông ta. Đám mồ hôi đó thoạt tiên
chỉ lớn bằng hai quả quýt, chấm đúng nơi nhô lên của cặp xương bả vai. Chỉ vài
phút sau, nó đã loang ra bằng hai bàn tay, rồi rất nhanh thấm ướt toàn bộ tấm
lưng và dán chặt vào chiếc may-ô bên trong. Đường gờ hai bên nách may-ô nổi hằn
lên rõ mồn một qua lớp vải ướt sũng khiến vị thứ trưởng có vẻ như vừa bước lên
từ bể bơi Trúc bạch. Tuy nhiên, ông ta vẫn nói, không bớt một lời, không dè xẻn
một ý :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta là đại biểu của một dân tộc độc
lập. Chúng ta có quyền lựa chọn cho mình một đường lối tối ưu phù hợp với lợi
ích quốc gia. Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc ngày hôm qua, còn biết
bao nhiêu vấn đề cần giải quyết. Mìn trên các cánh đồng Mường Cúm, Him-lam chưa
đảm bảo đã gỡ hết. Lúa chưa mọc kín những chiến địa cũ. Thương phế binh trong
các trại còn đang cần tiếp tục điều trị và giúp đỡ. Nhân dân đang còn thiếu
những nhu cầu thiết yếu như thực phẩm, quần áo, thuốc men. Ấy là chưa kể đến
các loại sách vở và học cụ của trẻ nhỏ. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta không
có lý do gì để dấn thân vào cuộc chiến tranh mới chỉ nhằm chứng minh tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai phe đối nghịch vẫn có thể tồn tại song song
trên cùng một hành tinh bởi hành tinh này đủ rộng để dung chứa các quốc gia
khác nhau và các hệ thống chính trị khác nhau. Chúng ta có thể chiến thắng Mỹ
không phải trên chiến trường mà trong cuộc cạnh tranh khoa học, chiến thuật
công nghiệp và hiệu năng kinh tế.
Ông không còn nhớ chính xác những gì Lê Liêm đã nói sau đó,
nhưng mắt ông dán vào tấm lưng áo ướt sũng mồ hôi khiến ngay cả những đốt xương
sống của vị thứ trưởng cũng hiện lên rõ mồn một. Trong lúc ấy, một màu đỏ loang
từ từ trên gương mặt ông ta, thoạt tiên từ thái dương và quầng mắt. Sau đó màu
đỏ tràn qua hai gò má rồi lan qua cằm, xuống vùng cổ và gáy. Ông cũng nhớ rõ
những nét rùng mình thoáng gợn qua khuôn mặt ấy và cơn tự chế khiến cặp môi của
Lê Liêm gần như tái nhợt đi. Ông cũng nhớ một cách chi tiết những ánh mắt thù
nghịch của đám người xung quanh chiếu vào vị thứ trưởng. Những kẻ ngồi hàng
trên quay hẳn lại, nhìn chõ vào mặt người đang phát biểu bằng cái nhìn của kẻ
côn đồ, hứa hẹn một cách thẳng thắn đá ném vào đầu hay dao đâm vào cổ. Những kẻ
ngồi hàng ghế sau không thể bộc lộ được tinh thần phản đối bằng ánh mắt đe doạ
và khinh bỉ đối với "tên xét lại" thì xì xào gây ồn ĩ...Một khoảnh
khắc trôi qua, bất thần một đại biểu vọt đứng lên, tách hẳn hàng ghế bước đến
trước Lê Liêm, xỉa tay vào mặt ông và hét :
- Nếu mày không câm họng lại. Nếu mày còn tiếp tục phun ra
giọng điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.
Lê Liêm ngừng lời, dường như bị một cú đòn phang vào gáy.
Ông trân trân nhìn kẻ vừa sỉ nhục mình, thứ trưởng bộ nội vụ Lê chí Thân, lâu
la ruột của Quốc Tuỳ. Đưa tay lên gỡ kính, thứ trưởng bộ văn hoá chớp mắt một
cách bối rối. Ông không thể tìm được lời đối thoại, dầu ông là người nổi tiếng
có tài ăn nói. Hội nghị cũng im lặng theo. Đây là lần đầu, họ chứng kiến cảnh
tượng các đồng chí xử sự với nhau theo đúng cung cách của bọn đầu đường xó chợ.
Dầu gốc tích ra sao, nhưng khi đã trở nên những kẻ mũ cao áo dài, những đại
diện cho dân chúng, bọn họ đều cố gắng giữ một sự nhã nhặn tối thiểu. Đây là
lần thứ nhất, sự cặn bã được tự do lên ngôi. Hơn ba trăm con người cúi mặt
xuống.
Trên khán đài, Ba Danh và Sáu lặng im.
Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch đứng lên, quay về phía Lê
chí Thân, cất giọng thản nhiên, ôn tồn :
- Nếu chú muốn treo cổ chú Lê Liêm, hãy treo cổ tôi trước
đã.
Lê chí Thân mím môi, cúi gằm mặt rồi quay về chỗ của y. Hội
nghị chết lặng đi trong khoảnh khắc.
Rồi Sáu rung chuông :
- Giờ giải lao đã đến. Mời các đồng chí tạm nghỉ.
Sau hội nghị, Lê Liêm đã viết một bức thư gửi bộ chính trị,
trong đó ông yêu cầu những người lãnh đạo cao nhất của đảng giải quyết vụ việc
này, bởi ông không tin rằng đảng có thể dung túng cho những hành vi và ngôn từ
có tính côn đồ lưu manh được phép tồn tại giữa những uỷ viên trung ương, những
đại biểu của dân tộc.
Thứ trưởng bộ văn hoá quá thơ ngây. Ông là con người duy mỹ.
Sự duy mỹ không tồn tại được trong xứ sở này. Bộ chính trị mà ông kì vọng sẽ
làm trọng tài phân xử giữa ông với kẻ hạ nhục mình lại chính là đám người một
đồng một cốt với y. Để xây dựng một khải hoàn môn hùng vĩ, đảng ắt cần đến loại
người có khả năng tàn phá và huỷ diệt. Chiến tranh cần các tội phạm, những kẻ
sát nhân chuyên nghiệp và nghiệp dư trong số đó đám đâm thuê chém mướn nghiễm
nhiên trở thành lớp người đặc biệt có năng lực, được mau chóng nhận diện như
lớp tinh hoa. Sự thật ấy đã liệt kê, sơ đồ hoá. Huống chi một số lớn kẻ cầm
quyền cũng có gốc rễ là quân lừa đảo, trộm cướp, các phiên bản của tầng lớp lưu
manh ?...Tiếng hú của chó sói khiến mọi loài run sợ nhưng lại là tiếng gọi ấm
áp thân quen đối với bầy đàn của chúng. Con người như Lê Liêm chính là kẻ lạc
loài. Trong khi chờ đợi lá thư trả lời của các « đồng chí lãnh đạo », ông đã bị
khai trừ khỏi đảng, thải hồi và quản thúc tại gia, tất thảy mọi hình thức kỉ
luật được thi hành gần như một lúc. Vài ngày sau đó, tướng Đặng kim Giang, viện
trưởng viện triết học Hoàng minh Chính, nhà văn hoá Nguyễn kiến Giang và non
một trăm nhân sĩ khác, những người được định danh là bị đầu độc bởi tư tưởng
của tên trùm xét lại Khơ-rút-xốp bị bắt giam. Cùng một tuần lễ, hơn hai mươi
tướng lĩnh bị tống vào nhà ngục bởi họ đã từng được đào tạo lâu dài trong
trường quân sự Cu-tu-dốp hoặc có quan hệ gần gũi tướng Long. Tuần sau, trên năm
trăm sĩ quan quân đội từ cấp đại tá trở xuống, những người từng cộng tác hoặc
được nhiệm chức trực tiếp dưới quyền của tướng Long cũng lần lượt bị bắt theo.
Họ bị dẫn độ trong các đoàn xe của tổng cục 2, sau đó bị giam tại nhà tù Thanh
Liệt ở ngoại ô Hà nội, và hai nhà tù trung ương khác đặt tại Hà Tĩnh và Thái
nguyên.
Cuộc chiến tranh mới bắt đầu.
Hành trình của dân tộc đổi hướng.
Cùng với nó là tất thảy những bi kịch của con người thân
thiết nhất với ông.
* * *
Bừng mắt dậy, chủ tịch thấy hoa mai nở trắng xóa khuôn cửa
sổ. Phải chăng đây là đợt hoa cuối cùng của mùa xuân ? Ông đứng lên, dán mắt
qua tấm kính nhìn những cành mai phủ kín hoa giống hệt những chuỗi bông tuyết
đọng trên cành thông mùa Noel. Những cánh hoa trắng tinh như tạc bằng sương
băng và vườn mai trắng bơi giữa biển sương trắng mênh mông khiến ông hồi tưởng
khung trời mùa đông Paris những ngày tuyết đổ.
Paris, chân trời xa xôi không ngừng thiếu vắng nơi ông.
Paris, thành phố của những đam mê mặn nồng và cay đắng.
Ông đã trải qua biết bao mùa đông trong thành phố ấy? Biết
bao lần ông đứng nhìn tuyết rơi trên những mái nhà nhấp nhô với cảm thức phức
tạp trong đó sự xa cách chen cùng gần gũi, nỗi buồn xen lẫn những ngất ngây.
Bởi không có tiền, ông luôn luôn phải thuê những căn buồng áp mái, thứ quán trọ
dành cho đám sinh viên nghèo, đám thợ thuyền tỉnh lẻ tới kiếm bánh mì đô thị và
đám người lưu vong khốn khổ. Ở những gian phòng áp mái ấy, ông phải chịu đựng
cái rét thấu xương nhưng bù lại, có cảm giác gần bầu trời hơn, có thể nhìn
những bông tuyết quay cuồng múa lượn một cách ngoạn mục hơn trước khi chúng rơi
xuống mặt đất. Đôi khi, vào những rạng đông, thành phố vắng người và ngổn ngang
tuyết rơi trở nên hoang vắng lạ lùng, xa cách lạ lùng như chẳng còn là Paris mà
chỉ là một bình nguyên tuyết phủ. Đôi khi, vào những hoàng hôn rét cóng, ông
nhìn các bông tuyết bay xiên giữa không trung, làm nhập nhoà thêm ánh sáng yếu
ớt của những ngọn đèn đường, khiến bầu trời ám mây trở nên âm u huyền bí như
bức hoạ đồ được vẽ bằng bàn tay phù thuỷ. Đôi khi, vào những trưa hiu quạnh,
ông bước trên hè phố đầy ngập các đống tuyết, ngơ ngẩn nhìn làn tuyết trắng in
những vết giày đen bẩn của khách bộ hành. Mùa đông Paris, hơi thở ấm áp ngon
lành của những lò bánh mì là thứ hương thơm nồng ấm nhất với chàng trai châu Á.
Rất nhiều khi, ông bắt gặp mình đi đi lại lại hàng chục lượt trước ô cửa không
cánh trổ sát hè, được chắn bởi những dóng sắt thô đen sì như cửa sổ nhà ngục.
Từ những ô cửa chẳng chút gợi cảm đó, hơi nóng của các loại bánh mới ra lò bay
lên không ngừng. Và không ngừng, những làn hơi ngào ngạt quyến rũ khách qua
đường bởi thứ mùi thơm vô cùng trần thế.
Paris !
Sao đột nhiên nỗi nhớ hoá cồn cào ?
Những cành mai trắng bồng bềnh trong sương trắng đỉnh Lan Vu
bỗng gọi về đây một khung trời tràn đầy kỉ niệm. Khung trời xa xôi và gần gũi.
Quãng đời tươi thắm nhất. Tuổi trẻ của ông. Đã quá lâu ông không còn thấy thành
phố đó. Liệu nó đổi thay nhiều hay vẫn như xưa? Những quán rượu cũ kĩ hẳn sẽ
được đổi thay bàn ghế, thay kiểu trang trí và thêm các món nhắm. Các cô hầu bàn
sẽ thay trang phục. Những ngôi nhà sẽ thay chủ và thay nước sơn. Những ngọn đèn
đường kiểu cổ hẳn sẽ được thay bằng các loại đèn mới. Nhưng tựu trung, nước
sông Seine đâu có đổi giòng ? Và những hàng cây vây quanh đảo Saint Louis vẫn
trút lá ào ào khi mùa đông tới. Hẳn là thành phố ấy vẫn sống cuộc sống bình
thường của nó, ở ngoài ông, không có mặt ông. Ông chỉ là khách trọ một mùa nếu
Paris là quán trọ. Ông chỉ là kẻ qua sông một lần nếu nó là con thuyền vĩnh cửu
qua lại giữa hai bờ quên nhớ của một dòng sông. Ông chỉ là một khách hàng nghèo
khổ, trong túi không đủ tiền để mua một vật ra hồn, đi qua chợ mà đau đáu buồn
tủi, nếu Paris là thứ siêu thị miên viễn của phương Tây, nơi sự choáng lộn của
xa hoa làm chóng mặt những kẻ nhát gan và làm rơi lệ những kẻ có quá nhiều thèm
muốn nhưng túi tiền lại rỗng.
Ồ, nhưng ông đâu có ham muốn tiền tài ? Suốt đời, ông chưa
bao giờ dành dụm nổi một món tiền, để tiêu cho riêng ông hoặc trợ giúp một
người nào ông muốn giúp. Ngay giờ đây, làm chủ tịch nước mà tiền phúng viếng kẻ
tiều phu ông cũng không biết rõ ít nhiều, và không thể tự tay định liệu. Điều
đó phải chăng do số phận đặt bày ? Bởi chính ông cũng dửng dưng trước một sự
thật lạ lùng như vậy. Nhưng quả tình, ông chưa bao giờ thèm khát sự xa hoa của
Paris. Ông nhớ về nó như nhớ một mối tình bất thành và bất khả quên lãng.
Ngoài kia, một cơn gió vừa tới, xô dạt những cành mai. Từng
đám cánh hoa rơi lả tả. Chao ôi, sao mà giống những nụ tuyết ở phương trời bên
kia ? Lần đầu, nhìn những bông tuyết nhỏ vừa đúng bằng hạt ngô rang nở, ông
thốt kêu thành tiếng : « Ồ, xinh xắn làm sao thứ nụ tuyết tí hon này ! ». Nhiều
năm sau, ông vẫn tự cười mình vì sự ngô nghê ấy. Với ông, kỉ niệm về tuyết đã
trở thành nỗi sầu thương vĩnh cửu, điệp vào nỗi sầu thương một tuổi trẻ bị chôn
vùi. Khi đã trở thành một người đàn ông từng trải, vào những ngày tuyết bay mù
mịt, con tim ông vẫn thổn thức vì bài hát cũ : Tuyết rơi ! Phải chăng màu trắng
của tuyết bay đã làm thành một phần đời ông, một phần không thể thiếu ? Phải
chăng những câu ca xưa cũ, một khi đã găm chặt vào tâm khảm, trở thành thứ điệp
khúc bất tử vượt qua mọi thăng trầm của số kiếp và mọi sụt lở của thời gian ?
« ....... Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Mon coeur s’ habille de noir .... »
Suốt đời ông, đeo đuổi nỗi nhớ tình yêu. Suốt đời ông, bài
hát ấy vang lên như một điệp khúc vô chung và vô thuỷ. Khốn khổ thay cho ông ,
không thể lấp đầy nỗi trống vắng này. Khốn khổ thay cho kẻ nào tóc đã trắng như
sương mà còn nhớ bài « Tuyết rơi » và con tim còn se sắt vì những mối tình bất
cập.
- Thưa chủ tịch, xin mời người dùng cháo cho nóng.
- Ồ, nhà bếp đã mang lên ?
- Vâng, bác sĩ yêu cầu người ăn thêm bữa sáng còn bữa trưa
rút đi nửa xuất cũng được. Như thế có lợi cho sức khoẻ hơn.
- Tôi đã nghe chú ấy giải thích. Nhưng tôi đã quen ăn hai
bữa từ khá lâu.
- Vâng....Nhưng bác sĩ...
- Thôi được, tôi ra đây.
Ông bước ra phòng ngoài. Một mùi thơm lạ lùng từ sân tràn
vào khiến ông dừng lại. Ông vừa hồi tưởng mùi thơm của những lò bánh mì Paris
mùa đông, phải chăng mùi hương này là mùi hương mộng ảo của ký ức ?
Hồ nghi, ông giương mũi lên hít thở . Cậu lính thấy vậy nói
luôn :
- Thưa chủ tịch, đó là mùi chả đậu xanh của nhà chùa. Sáng
nay, sư nữ trổ tài rán chả đậu.
- À ra thế. Quả là khác.
- Thưa chủ tịch, khác cái gì ạ ?
- Ồ, tôi muốn nói là mùi thơm này chẳng giống mùi thơm của
các món ăn khác.
- Vâng.
Cậu lính lập tức khẳng định :
- Mùi món ăn chay phải khác mùi các món ăn trần ạ.
Ông cười :
- Đúng rồi. Nếu không ai còn dám gọi là chay ?
Cậu lính nhìn ông thăm dò rồi hỏi :
- Thưa chủ tịch, người có muốn nếm thử món ăn nhà chùa không
ạ ?
Ông lắc đầu :
- Đừng làm phiền họ như vậy. Chúng ta ở đây đã là xâm phạm
vào bờ cõi cũng như tự do của các nhà sư rồi.
- Ồ không.
Chàng trai đáp một cách hăng hái :
- Chính sư nữ đem cho con một đĩa tú hụ. Chả hãy còn nóng
nguyên. Con lấy lên một chút để người nếm thử .
Ông chưa kịp trả lời cậu ta đã chạy vụt ra và mất hút trong
đám mây trắng khổng lồ đang lướt qua sân. Một phút sau, anh chàng trở lại với
đĩa chả đậu bọc trong tấm vải bông dày :
- Mời chủ tịch dùng cho nóng.
- Cảm ơn.
Mùi chả đậu quả là hấp dẫn. Hoặc nó ngon lành thực hoặc vì
nó là món ăn lạ nên vị giác của con người bị kích thích và ở trong trạng thái
chờ đón. Ông gắp miếng chả lên ăn thử trước cặp mắt hồi hộp của chàng lính trẻ.
- Ngon lắm. Lần đầu tôi mới ăn món này.
Cậu lính toét miệng cười :
- Chả đậu là một trong những món chay ngon nhất đấy ạ. Những
dịp đặc biệt nhà chùa mới làm vì mất công.
- Người ta làm theo cách nào ?
- Dạ, trước hết phải đồ đậu xanh lên như đồ xôi. Sau đó cho
vào cối giã nhuyễn thành bột. Thứ bột này nhào với một chút bột mì hoặc bột gạo
nếp cho đủ độ dính kết, rồi thêm muối và gia vị cho vừa vặn. Sau đó đem nặn
thành bánh thả vào chảo dầu rán. Hôm nay, sư nữ rán bằng dầu lạc. Nhưng muốn
ngon hơn, phải rán bằng dầu vừng hay dầu hướng dương.
- Giỏi lắm. Cậu có thể chuyển thành đầu bếp được rồi đấy.
- Sáng nay con ngồi phụ sư nữ giã đậu, được nghe giảng về
mọi loại ăn chay.
- Đời sống của nhà chùa xem ra cũng khá phong phú, phải
không ?
- Dạ. Thưa chủ tịch...
Cậu ta lúng búng. Người lính trẻ không biết trả lời ra sao
vì câu hỏi của ông quả là nan giải. Ông cười :
- Tôi hỏi đùa thôi. Đời sống của những người tu hành thật sự
vô cùng đơn giản. Nhưng sự khó khăn chính là ở chỗ duy trì và bảo dưỡng sự đơn
giản ấy.
- Thưa vâng.
Biết rằng chàng trai không thể hiểu những điều mình vừa nói,
ông vỗ vai cậu ta :
- Thôi, không phải căng óc đánh vật với chữ nghĩa làm gì cho
khổ. Cứ tin rằng đời sống của họ hoàn toàn khác biệt với cuộc sống của chúng
ta.
- Thưa vâng.
Chàng trai nói với vẻ sung sướng như vừa trút được gánh
nặng, đoạn cậu ta dọn khay đồ ăn đi với nỗi hân hoan như vị tướng trở về thành
dẫn theo đoàn xe chất đầy chiến lợi phẩm. Ông đã ăn hết đĩa chả đậu mà bỏ lại
bát cháo thịt của nhà bếp.
Chỉ vài tích tắc sau, tiếng cười của chàng trai vang đã lên
bên kia sân chùa. Ông không nhìn thấy cậu ta vì những đám mây trắng lướt bay
không ngừng, giống đàn bò của Thượng đế bị mục đồng rượt đuổi trên cánh đồng
tiên giới. Những đàn bò trắng liên tục diễu hành trước mắt ông. Bỗng nhiên, nỗi
cô đơn hiệp đồng với mây trắng bên ngoài làm buốt lạnh con tim. Chủ tịch sững
sờ. Ông chưa bao giờ trải nghiệm một thứ cô đơn kinh hoàng như hôm nay. Cô đơn
lạ lùng. Cô đơn đến đau buốt ruột gan, tê dại chân tay. Cô đơn như có một thứ
lưới sắt vô hình quây chụp lấy ông, trói thít ông trong những mắt lưới tàn
nhẫn. Ông hụt hơi. Ông thấy ông không đủ sức chịu đựng thêm dẫu là một khoảnh
khắc nỗi cô đơn này cho dù suốt đời ông, cô đơn vẫn là kẻ đồng hành chung thuỷ.
Ông bỗng thấy sợ khi phải ngồi lại đây, mình đối mặt với mình :
« Tại sao ta lại yếu đuối đến mức này ? Chẳng lẽ chỉ vì tuổi
già mà ta trở nên một kẻ xa lạ và thảm hại ngay với cả bản thân ? »
Ông tự đe nẹt. Trong khi uống từng ngụm trà nhỏ, ông cúi
nhìn vào lòng chén, cố tìm trong chất nước sóng sánh vàng kia một liên tưởng,
một kỉ niệm về sông suối, một kí ức xa xôi dính líu tới những cuộc tiệc trà,
làn khói mềm mại phất phơ bay trên những món ăn nóng hổi. Bất kể thứ chi có thể
giúp ông quên đi nỗi cô đơn. Nhưng điều đó trở thành bất khả. Bởi nỗi cô đơn
này chính là kẻ song sinh với nỗi quên lãng kia. Khi quên lãng quay đầu chạy
đi, nỗi cô đơn này vòng trở lại. Hai thứ thòng lọng thít chặt cổ ông trên giá tử
hình.
Chủ tịch đứng lên vì nếu còn ngồi lại ông sẽ ngạt thở. Khoác
chiếc áo bông dài lên vai, ông bước ra. Vừa mở cửa, mây trắng đã phả vào mặt
ông ướt lạnh. Những viên gạch dưới chân sũng nước như láng mưa. Từ bên chái nhà
bên kia khu chùa, cậu lính kêu to :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào. Trời lạnh lắm.
Rồi cậu ta chạy bổ qua sân nhanh như chim cắt và túm lấy
ngang lưng ông khi ông vừa định bước xuống tam cấp :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào nhà.
Ông đáp lại một cách ngang bướng :
- Ồ không. Ngồi trong nhà mãi nhức đầu. Vả chăng, tôi phải
sang cảm ơn nhà chùa vì món chả đậu.
- Thưa chủ tịch, người đụng đũa đến món ăn chay tịnh của
chúng tôi đã là vinh dự cho nhà chùa. Người bất tất phải sang đây.
Ông nghe sư nữ nói rất to, vọng từ bên kia đám mây. Vì đám
mây quá lớn, ông sợ bị cảm lạnh nên chờ nó lướt qua sân rồi mới bước tiếp. Chỉ
vài chục bước chân mà không nhìn rõ hình người. Đúng là cảnh tượng nơi tận sơn
cùng cốc. Đặt chân lên bậc thềm của gian chùa ngang, ông mới nhìn thấy sư nữ đang
ngồi giã trầu cho sư cụ. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, bà cụ đã từ trong nhà
bước ra :
- Xin mời chủ tịch vào nhà ngay vì trời rất lạnh. Nếu chẳng
may người vàng mình sốt mẩy, nhà chùa chúng tôi không biết lấy gì để chuộc lỗi
trước nhân dân.
- Bạch sư cụ, người còn nhiều tuổi hơn chúng tôi.
Ông nói vậy nhưng cũng bước vội vào nhà vì sau lưng ông,
những đám mây vĩ đại khác đang lù lù tiến đến. Chúng không chỉ bay ngang sân mà
sẽ tràn vào tất thảy những khuôn cửa mở khiến các gian nhà ướt lạnh. Sư nữ bỏ
cối trầu bước liền theo ông rồi khép luôn cánh cửa. Tiếng cánh cửa quay cót két
trên trục gỗ khiến chủ tịch giật mình. Chợt nhớ rằng tiếng cót két này vô cùng
quen thuộc với ông thời niên thiếu. Những ngôi nhà gỗ cổ xưa của xứ sở đều xây
dựng theo cùng một mẫu, và tiếng cánh cửa nghiến trên trục gỗ vọng lên nỗi buồn
nhớ thời đã qua...
- Xin mời chủ tịch ngồi.
Sư cụ mời ông ngồi đối diện với bà, trên chiếc ghế lim cũ
nhưng vững trãi mà thời gian khiến nước gỗ bóng như gương. Cậu lính ngồi phía
sau lưng ông, trên chiếc ghế đẩu bằng mây đan do sư nữ đem lại. Giữa căn phòng,
một lò than hoa tí tách cháy. Thi thoảng, sư nữ lại lấy que khơi cho những viên
than cháy đỏ và tiếp thêm than mới. Căn phòng toát lên vẻ ấm cúng mộc mạc và cũ
kĩ. Giống như mùi thơm của trầu cau, hơi ấm của cánh tay bà ngoại, nỗi phấp
phỏng thần tiên của những câu chuyện cổ tích được nghe kể đêm xuân. Sư nữ rót
nước vào bộ chén Bát tràng mời khách. Nhà chùa uống nụ vối hãm gừng. Thứ nước
ấy cũng gọi về một mùi hương cổ xưa khiến ông lập tức nhớ đến mẹ ông :
- Bạch sư cụ, nước vối hãm gừng thơm lắm. Vậy mùa hè nhà
chùa cũng dùng thứ giải khát này ?
- Thưa chủ tịch, mùa hè chúng tôi uống chè tươi hay cánh cúc
khô.
Nói đoạn, bà cụ quay sang bảo sư nữ :
- Con có thứ chè lam mềm để ăn sau bữa cơm. Sao không đem ra
mời chủ tịch ?
- Bạch thầy, con xin sám hối. Con vô tình nên quên.
Sư nữ đi sang gian bên, hẳn là nơi cất thứ chè lam đãi
khách. Ông im lặng nhìn theo người đàn bà trong tấm áo nâu dài, lơ mơ nghĩ :
« Tại sao cô ta không tìm một mái ấm như nhiều người đàn bà
khác ? Liệu nơi này thực sự là miếu đường hay chỉ là nơi tránh nạn tạm thời
hoặc là chốn ẩn náu để lãng quên một quá khứ khổ đau, chất chồng tì vết ? Một
thứ quy phục số phận, giống như ta vị vua già trong oubliette đỉnh Lan Vu?»
Sư nữ quay ra cung kính đặt lên bàn một đĩa chè lam trắng
xoá bột nếp áo. Thứ chè lam được thái sẵn hình quân cờ, đặc biệt mềm dành cho
người cao tuổi hoặc trẻ nhỏ :
- Xin mời chủ tịch nếm thứ quà của các bần tăng.
- Xin cảm ơn nhà chùa. Vừa rồi tôi đã được nếm món chả đậu
rất ngon. Chắc chè lam cũng sẽ ngon như vậy.
Ông đáp đoạn cầm miếng chè lam lên cắn. Sau đó ông chiêu một
ngụm vối hãm gừng. Quả là ngon. Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc đối ẩm này
cứu ông khỏi những giây phút trầm cảm. Ông đưa mắt nhìn gian nhà gỗ cổ lỗ một
lần nữa, tự hỏi vì sao cho đến tận buổi sáng này ông mới đặt chân vào đây, vượt
qua mảnh sân gạch như vượt qua bức tường thành phân định giữa tồn sinh thế tục
với cuộc sống của kẻ tu hành, như vượt qua cõi biên thuỳ giữa các vương quốc
nếu không đối nghịch thì cũng bất khả tương thích. Ồ, tại sao?
Chủ tịch uống một ngụm lớn như để nuốt trôi những ý nghĩ
nặng nề và ông trầm trồ :
- Chè lam ngon thật. Thứ quà này tương hợp một cách tuyệt
vời với nước vối.
Đoạn ông cười và nói thêm :
- Tôi ở đây đã hơn một năm mà hôm nay mới dám đặt chân vào
nhà chùa. Quả là thiệt thòi. Giá tôi mạo muội phá rối nhà chùa sớm hơn hẳn đã
được nếm món chè lam này từ lâu.
- Thưa chủ tịch, nơi ăn chốn ở của bần tăng làm sao đủ thanh
lịch để mời người. Vì thế chúng tôi chẳng dám mạo muội.
Sư cụ đáp rồi nở nụ cười. Hai hàm răng bà cụ còn nguyên vẹn,
vững trãi và đen nhánh. Chủ tịch cũng cười :
- Chúng ta là láng giềng, lẽ ra phải thăm hỏi kết thân từ
lâu mới phải. Lỗi chính là tôi bận quá.
Uống cạn chén nước, ông tiếp :
- Bạch sư cụ, hình như hôm trước nhà chùa làm lễ cầu siêu
cho người dưới xóm Tiều Phu ?
- Thưa vâng. Chủ tịch bận trăm công ngàn việc mà vẫn quan
tâm đến số phận nhỏ mọn của lê dân, vậy là tâm người lớn lắm. Tôi nghe sư nữ kể
lại việc người xuống tận dưới xóm dự lễ tang.
- Bạch sư cụ, tôi chỉ rẽ vào viếng người xấu số.
- Thưa chủ tịch, thế đã là đại hồng phúc cho gia chủ.
- Bạch sư cụ, tiện thể xin người giảng cho tôi rõ thế nào là
lễ cầu siêu? Phải chăng mọi người chết đều cần đến lễ cầu siêu hay chỉ riêng
những kẻ có số phận oái oăm, trắc trở ?
- Thưa chủ tịch, đạo Phật không bị ràng trói bởi nghi thức.
Cũng không quy định rõ người nào cần được cầu siêu và người nào không. Tất thẩy
đều tuỳ thuộc sự động tâm của chúng sinh. Chỉ có động tâm chúng sinh mới khai
minh, sáng trí ; khi sáng trí họ mới đủ cơ duyên để nhìn ra nghiệp quả của
mình. Nhà chùa chỉ làm theo thỉnh nguyện của chúng sinh. Thế nhân thường nói: «
Tâm động, quỷ thần tri ». Kẻ tu hành biết là phật tính được khơi như ngọn đèn,
vừa rọi sáng cả tinh thần lẫn sinh thể chúng sinh, vừa chiếu qua bẩy vùng trời
để làm nở đoá sen phước hạnh.
- Bạch sư cụ, chúng tôi là kẻ ngoại đạo, dù có cố sức cũng
không thể hiểu được ngay những kinh điển trong tôn giáo của ngài, nhưng ở góc
độ kẻ phàm trần, chúng tôi vô cùng quan tâm đến câu chuyện giữa cha con người
tiều phu dưới xóm. Không hiểu nhà chùa cắt nghĩa việc này ra sao ?
- Thưa chủ tịch, Đức Thế Tôn chỉ ra rằng trong mọi kiếp nạn
của con người, chữ Tham đặt lên trước hết. Lòng dục che mờ lương tâm như đám
mây đen che khuất mặt trời, mặt trăng. Tình cha con, tình thày trò, tình huynh
đệ đều bị lòng dục phỉ báng và phá huỷ. Ngay Đức Thế Tôn cũng bị sát hại bởi
chính người em họ thân thiết của mình, đại đức Devadatta. Lịch sử các triều
đại, từ cổ chí kim, chuyện thái tử giết vua cha đâu có thiếu. Chắc chắn ngài
còn đọc nhiều hơn bần tăng.
Dứt lời, sư cụ từ tốn mỉm cười. Và ông lại nhìn thấy hai hàm
răng hạt na đen nhánh :
« Ồ, rõ ra đây là một bà già Việt cổ xưa, răng đen váy lĩnh.
Trước đây bẩy mươi năm hẳn là một thôn nữ tươi ròn, tràn đầy sức sống. Nhưng
nàng không chấp nhận cuộc sống bình thường với những thú vui bình thường nơi
thôn xóm mà dùi mài đèn sách để trở thành đệ tử của Như Lai.»
Ông thầm nghĩ, không ngăn được mối thiện cảm với người đối
thoại :
- Bạch sư cụ, ngài dẫn giảng thật hay. Quả là ngài đã dày
công đèn sách.
- Thưa chủ tịch, bần tăng không dám nhận lời khen. Bất cứ ai
ăn mày cửa Phật, đọc kĩ lời dạy của Đức Thế Tôn đều có thể dẫn giảng hay hơn
bần tăng gấp bội.
Không chờ ông lên tiếng đáp, bà cụ quay về phía sau hỏi sư
nữ :
- Con không thấy là đĩa chè lam sắp hết rồi sao ? Nhà chùa
thanh bần nhưng không bao giờ hẹp lòng đãi khách.
- Con xin sám hối. Con mải nghe chuyện của thầy.
Ông mỉm cười vì thấy sư cụ đầy mẫn tiệp ; lối lảng tránh
những chủ đề không mong muốn của bà cụ chứng tỏ khả năng phản ứng của cụ nhanh
không kém người đang độ thanh xuân. Ông ăn miếng chè lam cuối cùng còn lại trên
đĩa, giống như một người hàng xóm quen thuộc đã nửa thế kỉ nay :
- Chè lam quả là ngon. Bạch sư cụ, xin cảm ơn ngài lẫn sư nữ
vì sự đón tiếp thịnh tình này. Nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ còn được dịp
quấy quả.
- Thưa chủ tịch, ngài đặt chân đến đây là vinh dự cho các
bần tăng.
Ông đứng lên.
Và sư cụ cũng đứng lên, chắp tay hình búp sen đáp lễ.
Khi ông trở lại phòng, đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi lăm
phút. Vậy là cuộc trò chuyện với nhà chùa kéo dài một tiếng rưỡi. Một tiếng
rưỡi, mùi nước vối hãm gừng lẫn nụ cười với hai hàm răng đen nhánh của nhà sư
cứu ông thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Bây giờ, ông còn lại với chính ông. Chủ
tịch ngồi xuống ghế, bắt đầu sợ hãi khoảng thời gian phía trước. Nỗi cô đơn sẽ
quay trở lại. Giá treo cổ sắp hiện hình. Ông biết trốn đi đâu ?
Vào rừng chăng ? Bất khả. Xuống núi chăng ? Không có lý do.
Vả chăng, ông không thể tự biến mình thành con bệnh tâm thần trước mắt đám
người canh giữ cái nhà ngục mỹ miều này. Lòng tự tôn không cho phép ông hành
động buông thả. Đưa mắt nhìn lên giá sách, ông bắt gặp vài chục cuốn đang đọc
dở, găm đầy những tấm thẻ tre đánh dấu. Rút một lần ba cuốn, ông bắt đầu lật
giở từng trang. Các dòng chữ lướt đi như dãy chấm đen vô hồn, không mảy may ý
nghĩa. Khi thì chúng giống như những dãy hoa văn đơn điệu và thô mộc, khi thì
chúng trở nên xám xịt như nắm cát và ông không thể phân biệt nổi con chữ. Chủ
tịch thở dài, gấp lại cuốn sách, đặt chiếc thẻ tre vào đúng trang cũ. Trên sân
chùa, những đám mây trắng khổng lồ vẫn lũ lượt lăn qua. Và những cành mai phủ
đầy hoa trắng vẫn nhè nhẹ rung bên ngoài khung cửa khiến con tim ông lại cồn
cào nhớ màu tuyết trắng.
« Ta không thể tiếp tục chịu đựng những dày vò khủng khiếp
này. Điều đó tồi tệ hơn cả cái chết. »
Ông lại đứng dậy, cầm chiếc áo bông , định bước ra cửa.
Nhưng chiếc áo ướt lạnh buộc ông hiểu rằng ông không thể đi đâu vào lúc này.
Ông không có cách nào hơn là ngồi lại giữa bốn bức tường tù ngục, đối mặt với
chính pháp đình của chính ông.
Mắc lại chiếc áo lên giá treo, ông buông mình xuống ghế, đưa
mắt nhìn đám mây cuồn cuộn như đống bông lăn qua sân chùa và nhớ lời sư cụ :
« Đến đức Thế Tôn cũng còn bị sát hại bởi đàn em. Đã khoác
áo cà-sa, đã tu luyện đến bậc đại đức mà còn bị lòng dục xui khiến thì huống
chi đám người trần tục ? Ta chẳng nên oán trách bọn đồng chí thù nghịch ấy. Kẻ
đáng oán trách trước hết là ta. Chính bản thân ta. Hoặc yếu hèn hoặc ngu ngốc,
hoặc cả hai. »
Lần này, ông không còn muốn tự bào chữa. Gã luật sư biện hộ
cho ông chết rồi chăng ? Ý nghĩ đó lướt qua ông một cách ơ hờ trong khi ông đăm
chiêu nhìn một đám mây rách nát đang kéo lê qua sân chùa mớ áo tả tơi của nó.
Đột nhiên, hình ảnh ấy xui khiến ông thương cảm chính mình :
Đường đời ngoắt ngoéo quanh co, nào ai biết được nẻo nào mà
dấn bước ? Ta đi tìm cho dân tộc ta một thành Paris, nhưng số phận lại dẫn ta
đến Mạc-tư-khoa băng giá. Ta đi theo ngọn gió phương tây, nhưng định mệnh lại
xua đuổi ta quay về bờ biển phương đông. Suốt đời ta, những ngẫu nhiên tác tạo
và xô đẩy. Kiếp người phải chăng cũng chỉ là bèo dạt mây trôi ?...
Một nước Pháp của Đi-đơ-rô và Voltaire mở cánh cửa gọi ta
bước vào. Một nước Pháp khác của các quan chức đội mũ cao ống, mặc áo nhấn hai
hàng khuy vàng đóng sập cánh cửa đó trước mũi ta như gia nhân một lâu đài đóng
sập cánh cửa trước tên hành khất. Những dân tộc nhược tiểu và nô lệ bị xua đuổi
khắp các nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc, và con dốc lát đá duy nhất mời đón những
bước chân của họ lại chính là con dốc dẫn thẳng xuống địa ngục. Khi ta hiểu ra
điều đó thì mọi sự đã muộn mằn.
Cái địa ngục đó giờ đây chẳng còn hồ nghi nữa. Nhưng không
kẻ nào đủ lòng ăn năn và sự can đảm để mở mắt nhìn vào. Ông nhớ cảm giác choáng
váng khi lần đầu thấy dân chúng xếp hàng lũ lượt như rồng rắn chờ mua thực
phẩm. Xe ông gắn kính đen, không ai biết được sự hiện diện của ông. Xe lướt rất
nhanh nhưng cũng đủ thời gian để ông nhìn rõ đám dân đen. Và cảnh tượng khổ não
ấy đập vào cân não ông như nhát búa. Năm đó, con tim ông đang còn tưng bừng
khúc hát « Tiến về thủ đô ». Hai năm chưa đủ làm phai nhạt những vàng son của
vinh quang và chưa làm nguội những cơn sôi sục trong huyết mạch. Bận rộn, ông
không có thời giờ vi hành. Quãng thời gian tằn tiện bòn mót được ông dành dụm
cho nàng nhưng các cuộc gặp gỡ của họ bao giờ cũng vào lúc quá nửa đêm, thông
thường sau mười hai rưỡi hoặc một giờ, khi xe ông lướt qua phố xá, mọi sinh
hoạt của dân chúng dường như đã kết thúc. Sớm hôm đó, ông hẹn làm việc với một
giáo sư lịch sử ngoại quốc. Vì đề tài liên quan đến viện bảo tàng quốc gia nên
ông đề nghị điểm hẹn ở ngay nhà bảo tàng. Rồi ông yêu cầu lái xe chọn một lộ
trình mới để ông có dịp nhìn phố xá. Đó chính là cơ hội đầu tiên kể từ ngày rời
chiến khu về thành phố ông chứng kiến cảnh sinh hoạt của dân. Cảnh tượng không
mỹ miều hay lạc quan như ông từng mường tượng. Đám đông hiện lên trước ông,
bằng xương bằng thịt, chen chúc, bấn loạn, như đàn cừu trên lối dồn trở lại
chuồng. Những gương mặt đập vào thị giác ông là những gương mặt võ vàng đói
khát; những gương mặt lầm lụi tối tăm, những gương mặt u uất vì nhẫn nhịn, nhục
nhã; những gương mặt kinh hoảng vì bị dồn ép dưới những cảm xúc của sợ hãi, chờ
đợi, đau khổ, căm thù. Đấy chính là gương mặt của những kẻ đang đứng mấp mé
trên ngưỡng cửa bước vào các bệnh viện thần kinh.
Cố gìm giữ cơn thảng thốt, ông lấy giọng thản nhiên hỏi lái
xe :
- Gia đình chú có phải xếp hàng mua gạo như thế kia không ?
Anh ta trả lời tức thì, với nỗi hân hoan không che giấu :
- Thưa chủ tịch, rất may mắn là gia đình chúng con thuộc
diện ưu tiên. Nhà nước đem gạo và thực phẩm tới tận cơ quan phục vụ.
- Những ai thuộc diện được ưu đãi như vậy ?
- Thưa chủ tịch, tất thảy những ai trực thuộc bộ máy văn
phòng chính phủ hoặc ban quản trị trung ương đảng. Ngoài ra là các bộ phận đặc
biệt thuộc các bộ đặc biệt như bộ nội vụ, bộ quốc phòng...và trước
hết là bộ thương mại và thực phẩm vì đó chính là đất sở tại
của họ. Nhân viên thuộc các bộ ấy được coi như con vua cháu chúa thời xưa.
- Thế nào là con vua cháu chúa ?
- Thưa người, câu nói đó hàm ý là họ có quyền hưởng thụ ở
mức cao nhất. Cùng một thứ sổ gạo nhưng họ được ăn gạo mùa mới, còn thơm phức
mùi cám ; trong khi dân chúng phải ăn gạo mục vì nhà nước chỉ bán cho dân những
thứ gạo đã qua năm sáu mùa lưu cữu trong kho. Cùng là thịt, nhưng những phần
ngon họ lấy trước, còn thịt bụng, thịt mỡ, đầu lợn, họ đem bán cho dân. Nếu
không thuộc diện ưu tiên có kiếm được miếng thịt cũng nhục nhã như tù khổ sai
đi đập đá vậy. Anh cả của con làm việc trong thư viện quốc gia, cán bộ cấp lãnh
đạo nên mỗi tháng được mua năm lạng thịt. Tháng một lần, vợ anh ấy phải dậy từ
ba giờ sáng ra chợ Hôm xếp hàng mua. Nhưng lần nào cũng đến non trưa mới trở về
nhà, mà lần nào cũng toàn xỏ lợn với thịt bụng vì đám mậu dich viên tuồn thịt
bên trong quầy cho người nhà và các cơ quan có mặt hàng đổi chác, ví như các
cửa hàng bán gạo, bán vải, đường sữa hoặc nhu yếu phẩm khác. Khi đã thoả mãn
tất cả những cuộc trao đổi lợi quyền như vậy, họ mới nhìn ngó đến dân.
- Tại sao các cán bộ lãnh đạo nhà nước không hay biết chuyện
này ?
- Dạ.
Người lái xe ấp úng. Anh ta đưa mắt liếc ông rất nhanh, vừa
như thăm dò vừa như ngờ vực. Và ông biết rằng ông đã buông ra một câu hỏi vô
cùng xuẩn ngốc.
- Có thể là các đồng chí ấy đã biết nhưng chưa đủ thời gian
báo cáo lên trên.
Ông tự trả lời. Và anh chàng lái xe vội đáp theo :
- Thưa chủ tịch, đúng là như thế.
Đêm hôm đó, ông ngồi nhìn trăng. Nỗi phân vân khiến ông
không ngủ được. Trước mắt ông là vành trăng lưỡi liềm điêu bạc như lá lúa.
Dường như nó không toả ra một chút ánh sáng nào. Lũ đom đóm lập loè trên bãi cỏ
còn rực rỡ muôn phần hơn nó. Ông nhìn vầng trăng ấy, liên tưởng đến sự suy tàn
của mọi sự vật :
« Cuộc đời vốn là cuộc vận hành bất tận, từ nương dâu biến
thành bãi biển, con người từ hư vô đến rồi lại quay về với hư vô. Nhưng cớ sao
ta bỗng buồn thảm nhường này ? Phải chăng vành trăng chết lụi kia có liên quan
ngầm ẩn nào đó với số phận của quốc gia ? Và nó chính là điềm báo triệu cho một
sự sụp đổ không chóng thì chày, một kết thúc buộc phải đến ? »
Ý nghĩ đó như lưỡi dao bén của đao phủ gại trên cổ ông, kẻ
sẽ bị hành quyết không chầy thì chóng. Ông bỗng thấy buốt lạnh sống lưng. Trước
mắt ông lại hiện lên đám đông đói khát, nhục nhằn và bấn loạn chen chúc nhau
trước quầy bán gạo. Ông nhìn thấy những cánh tay vươn lên, giằng giật huých đẩy
nhau; những cặp mắt trợn ngược tròng, những cần cổ vươn dài về phía khuôn cửa
chắn dóng sắt với tất thảy sự chú tâm điên cuồng của loài thú dữ lao về phía
con mồi trong nỗi thúc bách của cơn đói. Chao ôi, đó là những đồng bào của ông,
những công dân trong cái xã hội mà ông là người khai sinh, những con người mà
vì họ ông đã nuôi giấc mộng giải phóng. Đó là ảo ảnh hay sự thật ? Phải chăng
mọi cố gắng của ông chỉ là sự lầm tưởng và cái hiện thực này chính là bóng lâu
đài soi trên mặt nước dòng sông ma ? Ông tự hỏi rồi không dám tự trả lời. Nỗi
hãi hùng quây chụp trí não. Những gương mặt ông nhìn thấy buổi sáng chỉ còn là
những tấm gương phản chiếu cuộc sống của một bầy súc vật bị ngược đãi hoặc
trạng thái tinh thần của những kẻ nhiễu tâm. Nếu không là những con bệnh tâm
thần ắt phải là đám cừu chen chúc bên máng cỏ. Con người bị đầy ải vì miếng ăn.
Con người không còn cảm thấy nhục nhã nữa sẽ chỉ còn là con vật trong chuồng
chờ đến giờ vục đầu xuống máng. Còn nếu con người biết phẫn nộ, hẳn họ sẽ nuôi
lòng thù hận, chờ phút thuận tiện để cắt cổ những tên chúa ngục. Những kẻ giam
cầm họ trong kiếp súc sinh.
Ôi, cái chế độ mà ông ra công gây dựng cuối cùng chỉ là một
chuồng cừu vĩ đại hay sao ? Hay nó chính là một trại giam khổng lồ, nơi giam
hãm con người trong những nhu cầu vật chất hạ cấp nhất, nơi thực thi một cuộc
hành xác tập thể, nơi ngự trị một sự tự sỉ nhục có tính triệt để và đại chúng,
nơi đào luyện ra nếu không phải những con bò cúi đầu trước bó cỏ thì sẽ là
những tên trộm cướp, những kẻ bị rối loạn nhân cách hoặc nhiễu tâm ? Không có
cách phân tích nào khác. Và nếu không có cách giải thích nào khác, cái xã hội hiện
hành chính là sự thụt lùi bất khả hình dung so với cái xã hội đau khổ thời xưa.
Chao ơi, bao nhiêu con người đã hy sinh, bao nhiêu tài sản
đã hao tán, thiêu huỷ, bao nhiêu nỗi gian truân dân tộc của ông đã phải trải
nghiệm để sau cùng nó lãnh nhận một cuộc sống dã man như vậy hay sao ? Nếu vậy
thì cuộc cách mạng này là cuộc phiêu lưu rủi ro nhất trong các cuộc phiêu lưu
của kiếp người. Và nếu vậy, cuộc đời ông là một sự thảm bại không gì có thể so
sánh.
Da ông nổi gai ốc. Những cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng
khiến ông không kìm được tiếng kêu. Nhưng ngay lúc đó, cần vụ lẫn bác sĩ đã
chạy vào. Ông buộc phải bịa ra một cơn đau thể chất để đánh lừa họ.
Vào cuộc họp của bộ chính trị ngay sau đó, ông yêu cầu lật
lại chính sách kinh tế để tìm phương sách cứu vãn tình thế. Ông nhấn mạnh ý
nghĩa của hai từ : Hạnh phúc. Mọi cuộc giải phóng không có ý nghĩa nếu nó không
làm cho con người hạnh phúc hơn. Mọi cuộc cách mạng cũng chỉ là trò tiêu khiển
rồ dại và tàn ác nếu nó không đem cho con người tự do và cuộc sống xứng đáng.
Độc lập cũng thế thôi. Độc lập không có mảy may giá trị nếu những dân cư của
một nước độc lập lại không thể độc lập với những nhu cầu thiết yếu nhất của
sinh tồn, giống những con bò không thể độc lập với mớ cỏ.
Không ai phản đối ông.
Nhưng cũng không ai nghe ông nói cho dù họ vẫn ngồi quanh
chiếc bàn đồ sộ, và với ông làm đủ con số mười ba. Ông hiểu điều đó khi nhìn
những cặp mắt lơ đãng của họ, những ngón tay gẩy tàn thuốc không mệt mỏi hay
xoay tròn chiếc bật lửa một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Hôm qua, họ còn là
những chiến sĩ tranh đấu cho một lý tưởng. Giờ đây, họ đang ngồi tính những con
tính khác. Cuộc chiến tranh hôm qua đã kết thúc. Hôm nay là lúc các tướng lãnh
chia phần xôi thịt trong dinh. Hôm qua ở trên rừng tất cả đều nhận một xuất cơm
và một góc suối, không có gì để so đo, chẳng có chi để tính toán. Hôm nay, sự
vật xoay vần bởi nếu biệt thự của anh lớn hơn biệt thự của tôi cả ích lợi vật
chất lẫn danh tiếng của tôi trước mắt tha nhân sẽ bị thuyên giảm. Ngôi thứ của
mỗi kẻ ngồi đây sẽ kèm theo muôn vạn quyền lợi đo đếm được và không đo đếm được
ảnh hưởng đến cả một tập đoàn những kẻ dưới trướng trong phủ và những người
cùng huyết tộc. Họ không còn quan tâm đến những điều ông quan tâm vì lợi ích
của cá nhân bao giờ cũng là thứ gần gũi nhất và là cám dỗ lớn nhất với con
người. Những dằn vặt của ông giờ đây, với họ trở nên nhạt nhẽo hoặc bất khả
tri. Cả một bộ máy phục vụ bản thân họ cũng như gia đình họ bất kể thời gian và
vô giới hạn. Họ sống hoàn toàn theo nguyên tắc vàng của chủ nghĩa cộng sản.
Nguyên tắc đó chỉ dành riêng cho một nhóm người và loại trừ cả một dân tộc, một
dân tộc cừu bò đang chen chúc nhau chờ những bó cỏ ngoài kia.
Ông nhắc lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Không ai phản đối.
Không ai đáp lời. Không ai có nhu cầu tranh luận. Rồi sau đó là giờ giải lao.
Sau đó một vấn đề khác được đề cập tới, thiết thực hơn, cụ thể hơn nỗi nhục
nhằn đau khổ của nhân dân. Nỗi đau khổ của kẻ khác bao giờ cũng mơ hồ và khó
cảm nhận. Nỗi đau khổ của nhân dân lại càng mơ hồ và khó cảm nhận hơn. Bởi nhân
dân là thứ vô hình vô dạng, không có chân để chạy, không có cánh để bay, không
có mỏ để hót. Độc lập không còn là một khát vọng lớn lao của một dân tộc nô lệ
và đau khổ mà chỉ còn là một chiến lợi phẩm cụ thể, giống như một con lợn rừng bị
hạ dưới ngọn lao của thợ săn. Chừng ấy thịt da chỉ đủ chia cho những kẻ biết
cầm lao, cầm mác còn đám đông đứng ngoài hội phường săn là đám chúng sinh ăn
chực chầu rìa. Ông hiểu rằng khi cần thiết, con người trở nên câm và điếc một
cách dễ dàng. Cũng dễ dàng trở nên tàn nhẫn. Họ, những kẻ quây quần quanh ông,
chia chác phần thịt của con lợn rừng vừa bị hạ...Họ trở thành xa lạ với ông.
Ông trở thành khó hiểu với họ. Lục địa đã nứt đôi, họ đứng một bờ còn ông bờ
khác. Đó là lần đầu tiên ông hiểu sự rạn vỡ của những mối quan hệ thường gọi là
đồng chí hay huynh đệ. Những sợi dây gắn bó có thể dệt hàng chục năm hay lâu
hơn nữa. Sự phân ly xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, khi nhát kiếm hạ xuống. Nhát
kiếm của quyền lực. Trước nó, mọi sợi dây tương thân tương ái chỉ là mớ tơ nhện
mong manh.
― Lẽ ra, ta phải hiểu sự tình từ ngày ấy. Phải xoay nước cờ
từ ngày ấy. Nhưng ta là kẻ chậm chân nên bị dòng lũ cuốn đi.
― Ồ, nhưng bọn họ quá đông còn ta đơn chiếc. Và thảm hại
thay ta phải thuận tình theo họ bởi tin rằng sự thoả hiệp đó cứu vãn được đại
sự . Rằng nếu ta vì họ mà hy sinh thì chắc chắn họ phải vì đại nghĩa mà quên đi
những tham vọng riêng tư. Sự ngu xuẩn là ở đó. Nước cờ vào thế bí. Họ lợi dụng
sự thoả hiệp này để nhấn ta vào hậu cung.
« Nhưng gốc rễ sự thất bại này nằm ở nơi đâu ? Sự ngu xuẩn
của chính ta hay con đường ngoắt ngoéo của định mệnh ? Ta đi cùng họ trên một
con tàu để rồi khi đến bờ bên kia đại dương thì một mình ta ở lại trên cô đảo ?
Hoặc bản chất ta là con sói lẻ bầy nên bất cứ cuộc tụ hợp nào cũng chẳng bền
lâu ?»
Phải chăng và phải chăng ....
Những câu hỏi không ngừng quần đảo ông.
Con tim già mệt mỏi của ông thổn thức.
Mây trắng vẫn trôi không ngừng trên đỉnh Lan Vu. Trôi không
ngừng mùa tuyết Paris và những hồi quang của một tuổi xuân xa ngái. Óc não ông
khoan xoáy bởi những nghi vấn. Rồi lát sau, con tim buồn nhớ của ông chợt quay
về thành phố phương tây, nơi vĩnh định một liên kết thầm kín, nơi ghi khắc mãi
mãi những khát vọng yêu đương và những cuộc tình chết yểu. Nơi tâm hồn ông ở
lại như ngôi nhà côi cút trên bãi biển hoang sau những ngày hè náo nhiệt khách
vãng lai. Paris ! thật lạ lùng là khi rời xa nó, ông đã ngoái nhìn lại như nhìn
một quán trọ ; vậy mà giờ đây thành phố ấy hiển hiện lên trong trái tim ông như
hải cảng cuối cùng mời mọc kẻ lữ hành. Ông nhớ những giảng đường, nơi ông
thường đi qua với một nỗi ước ao tuyệt vọng. Ông nhớ những con chim câu dạo
quanh căn gác xép nơi ông trú ngụ và tiếng gù của chúng vào lúc xuân sang. Ông
nhớ một đứa con thiếu vắng bởi sau khi ông rời xa căn ngõ hẻm sát phố Saint
John sáu tháng, một đứa bé đã ra đời. Một đứa con gái, được đặt một cái tên vô
cùng thông dụng trên đất Pháp, Louise. Ông không ngờ rằng những đêm chăn gối
với cô thợ mũ đã để lại trái cấm. Một sự sao nhãng ngu xuẩn. Phải chờ bẩy năm
sau, nhờ một cuộc gặp ngẫu nhiên trên đường ông mới biết được sự thật. Ông hiểu
rằng đó chỉ là trái cây không chờ đợi của những cơn điên cuồng thân xác. Nhưng
dẫu sao, đứa bé ấy vẫn mang dòng máu của ông, của chính ông. Ông dùng dắng
nhiều lần, định quay lại nơi ngõ cũ, tìm gặp cô thợ mũ và Louise. Nhưng trong
túi ông không đủ tiền để mua cho con gái một món quà xứng đáng. Và rồi, cơn lốc
phiêu dạt của cách mạng cuốn ông đi. Sau rốt, ông chưa từng mua cho con ông một
chiếc váy, một đôi giầy. Ông chưa từng bồng con bé lên tay và nhìn vào đôi mắt
nó.
« Giờ này nó đã trở thành một người đàn bà, chắc chắn. Hẳn
nó đã có chồng con. Có bao giờ nó lục tìm hình ảnh một người cha vắng bóng? Có
bao giờ nó nuôi ý định tìm về Việt nam, miền nhiệt đới xa xôi, để nhìn ngó một
thứ người xa lạ nhưng ràng buộc với nó bởi sợi dây huyết mạch? Hoặc nó đã quên
ta hoàn toàn trước khi biết ta, một sự quên lãng cố tình?
Ý nghĩ đó khiến ông tê tái. Ông rờ ấm trà, muốn uống một
ngụm nhưng nước đã nguội. Gương mặt ông hiện lên trên mặt bàn gỗ bóng láng như
gương. Ông cúi nhìn cái bóng của mình. Nhìn lặng lẽ. Một tiếng nói thầm thì cất
lên trong tâm tư :
"Gã đàn ông này là kẻ làm cha tồi bại nhất trên trái
đất. Rồi mai đây, ngươi sẽ phải đối mặt với những người ruột thịt trước pháp
đình tối cao của con tim. Cuộc cách mạng mùa thu rồi sẽ chìm mất tăm trong dòng
chảy triền miên của lịch sử như tất thảy những cuộc cách mạng khác. Giống như
những trận động đất, những cơn sóng thần và những trận lôi đình khạc lửa của
các hoả diệm sơn. Thời gian sẽ xoá đi mọi dấu vết. Mọi vương miện đều sẽ rách
nát cùng với tháng năm. Mọi ảo tưởng về vinh quang rồi sẽ tan vỡ như vầng trăng
trên dòng sông u tịch của các nhà thơ thời trung cổ. Nhưng pháp đình của con
tim sẽ mãi mãi dựng lên trên cõi đất của cuộc đời thế tục và pháp đình ấy cũng
sẽ mãi mãi dựng lên bên kia bờ con sông Mê, nơi linh hồn những kẻ ra đi chen
chúc trên những con thuyền kết bằng tro bụi, với cặp mắt rỗng và ba đồng xu đặt
trên chiếc lưỡi lặng câm."
Một tấm lưới vô hình thít chặt lấy chủ tịch khiến ông như
ngạt thở.
Đầu ông buốt lạnh trong khi gan ruột bỏng rát như bị lửa
rang. Ông nghĩ rằng đây là cơn đau đớn của riêng ông, một mình ông. Bởi là
người duy vật, ông không tin vào chuyện thần giao cách cảm. Từ trước tới nay,
ông chỉ biết một thế giới hữu hình, chỉ coi là sự thực những gì tác động vào
các giác quan, cũng như số đông người.
Tuy nhiên, cơn đau đớn của chủ tịch lại chính là kết quả của
sự cộng hưởng với một nỗi đau đớn khác. Bởi trên mảnh đất này còn có một kiếp
đoạ đầy khác. Một kẻ vô danh. Một người mà ông không còn nhớ tên và cũng chưa
bao giờ biết mặt. Một cái bóng của hư vô. Nhưng cái bóng đó vẫn luôn luôn là
một sinh thể bằng xương bằng thịt. Sinh thể ấy không ngừng nghĩ về ông. Kẻ bất
hạnh ấy liên kết với ông bởi một số phận oái oăm, một nỗi đau khổ trường kỳ và
một cuộc săn đuổi tàn khốc. Nhưng sự đỏng đảnh của số phận lại muốn rằng tất
thảy những gì xảy ra với anh ta phải nằm trong bóng tối, bên ngoài vùng hiểu
biết cũng như trí tưởng tượng của ông.
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT
Theo thông báo của ban chỉ huy sư đoàn, bảy giờ tối chương
trình biểu diễn mới bắt đầu. Nhưng bữa cơm chiều đã xê dịch từ bốn rưỡi lên ba
giờ rưỡi, và cơm nước xong lính tráng đã kéo lên đầy trước sân khấu, nhốn nháo
chuyện trò, nhốn nháo chờ đợi, với tất cả vẻ hăm hở của đám đàn ông từ lâu
thiếu vắng bóng đàn bà. Mấy anh chàng háu ăn còn cầm trong tay tảng cháy to
tướng vừa gặm vừa ngong ngóng nhìn lên mớ phông màn như muốn tìm sau những tấm
vải màu loè loẹt ấy hình bóng « công chúa của lòng anh ». Các công chúa mộng
tưởng đang còn ngủ trong hầm ban chỉ huy, phần vì mệt mỏi sau quãng đường dài,
phần vì nàng nào cũng có nước da xanh rờn và làn môi trắng nhợt vì sốt rét nên
chẳng ai muốn lộ diện trước khi son phấn. Các nàng đang còn nằm cuộn lấy nhau
như đám sâu tằm trên ván, cố chợp mắt thêm một vài giờ trước khi lên sân khấu.
Ban chỉ huy sư đoàn hẹn sẽ đánh thức các cô lúc năm rưỡi. Nhưng chưa đến năm
giờ, lính tráng đã hò hét ầm ầm bên ngoài :
- Các nàng tiên ơi, ngủ làm gì nhiều thế ? Mấy năm trời mới
được gặp mặt nhau ai mà nỡ quay mặt vào tường ngủ hoài như vậy ?
- Các cô em ơi, dậy đi thôi. Mong mãi mới tới ngày hôm nay.
- Các nàng công chúa đâu rồi ?Cho chúng tôi được chiêm
ngưỡng dung nhan một chút ?
Những tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng cười đùa mỗi lúc mỗi ầm ĩ
vọng xuống hầm khiến các cô không thể nằm lì, đành ngồi dậy. Cô nào cô nấy ngáp
lên ngáp xuống đến sái quai hàm. Trợ lý của sư đoàn trưởng hắng giọng một hồi
rồi chui vào hầm, nghiêng đầu ngoẹo cổ nói :
- Xin chị em thông cảm, lính tráng lâu ngày quá không nhìn
thấy bóng phụ nữ. Đã hơn ba năm trời trên không cử các đoàn văn công tới đây.
Cô đoàn phó đáp :
- Chúng em đi đến đâu cũng vậy, anh không cần băn khoăn.
Chiến trường quá rộng, các đoàn không đủ để phục vụ.
- Cảm ơn, được chị em thể tất là đại may mắn cho sư đoàn.
Giờ, tổ anh nuôi mang cơm đến cho chị em dùng bữa rồi hoá trang kẻo muộn.
- Trưởng đoàn đâu rồi ?
- Trưởng đoàn đã dùng bữa với ban chỉ huy ngoài kia. Các nam
diễn viên cũng vậy.
Đoàn phó quay lại hét quân :
- Đã thấy chưa ? Riêng chúng ta được ưu tiên ngủ nướng. Mọi
người đã cơm nước xong đang lo bố trí phông màn. Còn ai muốn ngáp thì ngáp cho
đã thèm rồi chuẩn bị ăn cơm.
Các cô chưa kịp đáp lời tổ anh nuôi đã lóp ngóp chui vào,
lục cục xoong nồi với các loại ga-men quân dụng. Anh nào anh nấy hí hửng như
bắt được vàng. Họ được ưu tiên gặp các cô trước tiên, mà lại gặp khi chưa son
phấn, không nói cũng biết được sự thân tình, giống như khách lạ thì được tiếp ở
sa-lông, còn khách thân quen hay họ hàng thì được quyền chui vào bếp :
- Hôm nay chúng tôi đặc biệt làm món nộm rau chuối thịt gà
và nấu chè đỗ xanh đãi các cô nương. Sư đoàn phải cử người vào bản Vân-kiều từ
tuần trước mua gà, mua đỗ. Chúc các nàng tiên ăn ngon miệng.
- Cảm ơn các anh. Ăn chè này đêm nay múa chắc dẻo tay hơn.
Các cô xúm lại ăn cơm trong khi ba chàng cấp dưỡng ngồi chầu
xung quanh, anh xới cơm, anh đơm chè, anh thứ ba hấp háy mắt và ngoác mồm ra
cười một nụ cười vô duyên cớ. Trợ lý sư đoàn đứng trong góc hầm, chẳng có việc
gì làm nhưng cũng không muốn đi ra sớm hơn ba gã lính nuôi quân, nên vờ rút
trong túi ra cuốn sổ tay, xem đi xem lại. Cơm nước xong, ba chàng nuôi quân lễ
mễ thu dọn bát đĩa đem đi. Trước khi quay ra còn hẹn là đêm nay, sau khi biểu diễn
sẽ có cháo gà đãi khách quý. Hẳn là những con gà này đã được đổi bằng lương khô
hay gạo cho dân bản Vân-kiều. Trợ lý sư đoàn liếc đồng hồ rồi hỏi :
- Lúc này đã năm giờ hai mươi phút. Liệu chị em cần bao lâu
để hoá trang và thay áo quần ?
- Hai mươi lăm phút, không hơn.
- Hoan hô. Tôi sẽ thông báo cho anh em biết.
Anh ta chui khỏi hầm. Chưa đầy chớp mắt đã nghe tiếng vỗ
tay, tiếng hét ầm ĩ của lính bên trên.
Đoàn phó tủm tỉm cười :
- Lính sư này ngầu thật.
Một cô đáp :
- Toàn dân Bắc mà lại.
- Đúng rồi.
Cô thứ hai tiếp lời :
- Họ chờ đợi chúng ta vì vừa muốn xem biểu diễn vừa muốn gặp
đồng hương. Nghe nói đoàn văn công tới đây phục vụ mấy năm trước là đoàn Dân ca
liên khu năm.
- Liên khu năm ở đâu nhỉ ?
- Rõ là dốt, phục vụ quân đội năm sáu năm mà không phân biệt
được các quân khu.
- Ai hơi đâu mà biết. Trên bảo đâu thì đi đấy. Lối nào cũng
chỉ thấy suối với rừng...Hết rừng đến suối, hết suối lại rừng, hết bản Vân kiều
lại đến bản Lào nưng, Lào thọng. Nơi nào cũng chỉ nhăm nhăm trông vào cái gậy
của giao liên mà bước.
- Ờ, tao cũng thế, chẳng biết liên khu là cái gì. Đi đâu
cũng chỉ nhìn vào lưng hay vào mông của người đi trước.
- Mông còn là may. Chúng mày không nhớ hồi leo núi Khỉ đái
hay sao ? Dốc dựng như tai mèo, gót chân thằng đi trước chạm vào đỉnh đầu thằng
đi sau, lấy đâu mà nhìn mông với đít ?
- Ờ, trận ấy khiếp thật. Mây quấn lấy mắt, leo núi mà rờ rẫm
như thằng mù. Phúc đức tổ tiên nên không đứa nào rơi xuống vực.
Các cô chưa kịp thay quần áo xong đã nghe trợ lý sư đoàn
hắng giọng bên ngoài. Đoàn phó nói với lên :
- Đúng bẩy phút nữa.
Đoạn quay lại bảo chị em :
- Nhanh tay lên. Lính nhảy cỡn lên trên kia rồi. Chắc sư
đoàn này bị tù lâu quá trong rừng sâu, không thoáng khí như sư đoàn trước.
- Đúng đấy. Lần trước lính tráng không hò hét loạn xị như
hôm nay.
- Thì đã bảo là họ bị nhốt trong sâu lâu quá.
- Đây là đâu vậy ?
- Biết được. Nhưng nghe đoàn trưởng nói mình đang ở trên đất
Lào. Mà là vùng xa vùng sâu trên đất Lào.
- Thế hả ? Bốn bề mịt mù những rừng với núi. Bọn mình mà bị
lạc chắc chết rũ xương ở đây, chẳng thể tìm được lối quay về.
- Chắc chắn là vậy. Nhưng sống chết có số, lo gì. Bao giờ
lính chết hết bọn mình mới phải chịu số phận hẩm hiu như thế. Văn công là mì
chính cánh, là vàng ròng của chiến tranh. Không ai để cho chúng ta thất lạc.
Các nàng trang điểm và diện đồ biểu diễn xong nối đuôi nhau
chui khỏi hầm. Lính tráng đứng chen chúc hai bên từ cửa hầm cho đến tận sân
khấu vỗ tay ran ran, hò hét loạn xạ :
- Các nàng tiên xinh đẹp, nói lên vài câu cho anh em nghe
giọng Bắc.
Phó đoàn lúng liếng cười và hỏi :
- Biết nói gì bây giờ nhỉ ?
Thế là đám lính nhao nhao, tranh cướp nhau trả lời :
- Nói bất cứ câu nào...Hoặc kêu to lên cũng được.
- Em ơi, chúng tôi là dân Hải Hưng. Em chỉ cần kêu to lên
hai tiếng : Hải Hưng ơi !...Thế là đủ mát dạ lính tráng.
- Gọi riêng Hải Hưng nhà chúng mày, thế còn Hà nội, Hà Tây,
Hà bắc, Vĩnh phú nhà chúng tao thì vứt cho chó nhá à ?Thằng này đúng là quân
ích kỉ.
- Hải phòng nữa chứ ? Thành phố hoa phượng đỏ mà bị bỏ quên
thì bom Mỹ sẽ giáng xuống đầu cả bọn.
- Thôi, không phải cãi nhau nữa. Chị em ơi, cứ chửi cha
chúng nó lên một câu cũng được.
Rồi các cánh tay vươn ra sờ vào vai vào áo, ve vuốt đuôi tóc
của các nàng. Họ đi đến đâu, lính tráng cuốn theo đến đấy. Ban chỉ huy sư đoàn
đứng phía xa, tủm tỉm cười, quan sát cảnh tượng với con mắt thèm thuồng không
che giấu. Tuy nhiên, là lãnh đạo, họ phải biết dằn lòng, dù muốn hay không.
Theo thông lệ, các cô chia thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp hai ba cô để hàn huyên
với lính, trước khi biểu diễn. Lần này cách thức đó xem ra bất ổn vì sư đoàn
vừa được bổ sung quân nên vượt số khung. Cả một ngàn lính đứng chen nhau tầng
tầng lớp lớp. Đoàn phó ra lệnh :
- Đông thế này không thể nào tâm tình cho xuể. Tôi đề nghị
chị em chia theo địa phương, hát phục vụ binh lính ngoài chương trình chính
thức. Tổ nhạc công cũng sẽ chia theo.
Được lời, các vị lãnh đạo ban đồng hương hò hét loạn xị :
- Hải Hưng đâu ? Đi theo tôi về phía trái sân khấu, ngay sát
chân cột loa phóng thanh.
- Hà nội đâu ? Lính thủ đô rút về phía sau sân khấu, xếp
hàng lối cho có trật tự.
- Hà Tây quê lụa đâu, tập trung sát cánh quân Hà nội, phía
bên phải hậu trường.
Đám lính tập hợp theo địa phương, anh nọ gọi anh kia, ồn ào
hơn chợ vỡ. Đội phó đoàn văn công khoa chân múa tay với tốp nhạc công, chắc hẳn
để thương lượng trước một cuộc lao động căng thẳng. Rồi sau đó, người ta thấy
kẻ ôm đàn phong cầm, người cầm ghi-ta hay măng-đô-lin, người mang sáo mang tiêu
lần lượt tản vào các nhóm lẻ. Cảnh tượng đó đem lại một sắc thái tưng bừng kì
lạ cho khu rừng, vốn bình thường chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng mưa bẻ lá,
tiếng lính trò chuyện hay cãi lộn, hoặc tiếng bom dội.
*
Đại đội trưởng An đứng bần thần nhìn đám đông vui vẻ ấy,
chợt ai đó vỗ vai anh :
- Cậu không tìm được đồng hương Lạng sơn ở đây sao ?
Tiểu đoàn trưởng đã đứng sát lưng An, tủm tỉm cười sau cặp
kính cận dày như trôn chén.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, ở đây tôi đơn thương độc mã .
- Bên tiểu đoàn hai cũng có mấy anh Tày mà ?
- Báo cáo, họ là dân Tày Cao- Bằng, sát biên giới. Tôi chưa
bao giờ đặt chân lên đất họ mà họ cũng chưa bao giờ xuống Lạng sơn, để thăm
vùng Đồng Mỏ quê tôi.
- Ra thế. Cùng là dân Tày cả mà thông thổ khác nhau, tập tục
cũng khác nhau. Nhưng tôi là dân Kinh, tôi không thể phân biệt được ai là Tày
Lạng sơn, ai là Tày Cao bằng. Tôi thấy các đồng chí đều có những nét tương tự.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, sự khác biệt không nhiều. Nhưng
vì các hội đồng hương được chỉ đạo theo đơn vị tỉnh nên chúng tôi không có lý
do thành lập hội người Tày trong đơn vị.
- Nguyên tắc ấy là chính xác. Bởi chúng ta không thể cho
phép sự phân biệt tồn tại giữa các dân tộc trong lòng một đất nước, giữa những
con người cùng mang chung một quốc tịch Việt nam.
- Vâng. Tôi hiểu.
Tiểu đoàn trưởng Nhã rút thuốc lá mời anh, và họ cùng phì
phèo nhả khói. Phía sân khấu, trợ lý sư đoàn trưởng đang đứng ngó nghiếng bốn
phía, tay cầm loa phóng tay, tay cầm sổ. Đúng khoảnh khắc thuận tiện, khi các
bài hát tạm ngừng, anh ta giương loa lên gào :
- Alô, alô....Xin các đồng chí chú ý. Chương trình biểu diễn
sẽ lui lại một giờ rưỡi, có nghĩa là sân khấu sẽ mở màn vào lúc tám giờ rưỡi vì
lý do đột xuất : Chúng ta phải chờ tiểu đoàn 209 vừa được bổ sung từ miền Bắc
vào, đang đóng quân bên kia núi Gấu trúc. Họ không trực thuộc sư đoàn chúng ta
mà tác chiến độc lập. Tuy nhiên, vì cùng một chiến trường chúng ta có nghĩa vụ
chờ đợi anh em để thưởng thức chương trình văn nghệ đêm nay. Trong lúc chờ đợi,
đoàn văn công sẽ tiếp tục biểu diễn lẻ theo yêu cầu của các hội đồng hương kết
hợp với sự tham gia của các cây văn nghệ trong đơn vị.
Nghe tới đó, lính tráng nhảy cỡn lên, hò hét vang rừng núi :
- Hoan hô....Hoan hô....
- Ban chỉ huy sư đoàn cứ cho hoãn đến nửa đêm cũng được.
Hoãn càng lâu càng tốt.
- Đêm nay sẽ là đêm tuyệt vời nhất từ ba năm nay. Ai có bài
tủ thì dọn giọng sẵn đi. Chúng ta sẽ có đàn đệm và cây nhà lá vườn sẽ được dịp
trổ tài.
Tiểu đoàn trưởng Nhã hỏi An :
- Đồng chí có biết hát không ?
- Dạ, tôi hoàn toàn ngu dốt trong lĩnh vực này.
- Tôi cũng thế. Chúng ta có thể tranh thủ ngả lưng cho đến
lúc sân khấu mở màn. Ít nhất cũng còn hai tiếng rưỡi.
Chính lúc đó, sư đoàn trưởng tiến về phía họ, oang oang cảnh
báo :
- Trông điệu bộ các cậu, tôi ngờ rằng các cậu sắp chuồn khỏi
đây. Mấy khi được dịp vui mà bỏ phí hoài ?
- Báo cáo sư trưởng, tôi vốn không biết hát, mà tuổi cũng đã
ngót nghét ngũ tuần, xương sống hơi bị yếu.
- Vậy tôi trẻ hơn đồng chí hay sao ?
Sư trưởng vặn lại . Quả tình, sư trưởng hơn tiểu đoàn trưởng
Nhã dăm tuổi nhưng vốn gốc gác dân chài, năng lượng trong ông còn rất dồi dào.
Dẫu chiến tranh và năm tháng tàn phá, ông vẫn giữ được những bắp thịt săn chắc.
Vai ông ngang và rộng nhưng vì thiếu chiều cao, thân hình ông gần như một khối
vuông. Khi ông đi cạnh tiểu đoàn trưởng, đám lính có chữ thường ví ông với anh
hầu Sân-xô trong khi vai Đon-ky-sốt được dành cho người hạ cấp. Sư trưởng không
lấy thế làm mếch lòng, thường giả miếng rằng :
―Người ta bảo nhất là sắc tướng, nhị là khí tướng, tam là
thanh tướng, tứ mới tới hình tướng. Cậu hơn tớ ở cấp độ thứ bốn nhưng tớ lại
hơn cậu ở cấp độ thứ ba. Thế nên tớ mới cầm đầu sư còn cậu thì cầm thằng tiểu.‖
Về mặt thanh tướng, rõ là chẳng ai dám vượt mặt ông. Không
chỉ trong sư đoàn mà khắp chiến trường nơi bốn sư đoàn đang quần thảo, giọng
nói của ông không ai lẫn được. Giá là danh ca ắt ông phải rung vỡ vô số tấm
kính nhà hát. Giọng ông vang như lệnh, thứ giọng đào luyện nhiều đời của những
kẻ quen hét thi với sóng. Chỉ cần nghe ông cất tiếng, người ta hiểu ông đang
còn là bậc"Chân cứng đá mềm". Vì thế, tiểu đoàn trưởng không ngần
ngại đáp lời :
- Ồ, đồng chí già dẻo già dai, không phải loại cua ọp như
tôi.
Sư trưởng đành chịu thua:
- Thôi tôi giơ tay hàng các cậu.
Tiểu đoàn trưởng tiếp tục trêu cợt :
- Đồng chí hùng mạnh nên chịu khó ở lại hát thi với đám lính
trẻ. Tha cho bọn xương dòn thịt nhão là chúng tôi đây.
Nói rồi ông kéo An đi. Nhưng trong khi ông trở về hầm kiếm
giấc ngủ, anh lẳng lặng ra suối tắm. Con suối mênh mông này đẹp hơn cả dòng
suối quê anh. Gọi là suối nhưng nó rộng dài đâu kém một dòng sông, và chính nó
cũng đổ vào con sông lớn nhất trong vùng. Nước suối trong như thuỷ tinh, không
có màu rêu hay màu rỉ đồng như các con suối độc. Các tảng đá sạch bóng, tha hồ
ngả lưng nằm hoặc phơi quần áo vào những trưa khô ráo dòn dã mặt trời. Hai bờ
suối thoai thoải rải đầy cuội trắng. Đi ngược lên non trăm thước là thác Voi
gầm, nước xả từ độ cao hơn chục mét khiến quãng suối bên dưới sôi sùng sục và
tất thảy những vật bị cuốn theo dòng nước đều trở thành vũ khí có thể làm
thương tổn những kẻ ngu ngốc hoặc vô tình mon men đến tắm dưới chân thác. Nhiều
lần, đám lính trẻ tinh nghịch bẻ cành khô ném xuống. Những cành củi này lập tức
bị dòng nước lôi vun vút, biến thành một thứ mũi tên có thể đâm chết bất cứ con
dê dại dột nào dám liều mạng lội qua. Mỗi lần tới đây, lòng hồi nhớ quê hương
lại thiêu đốt trái tim An. Anh trút bỏ quần áo, định lội xuống tắm. Nhưng khi
làn nước trong suốt, lăn tăn bọt dâng lên trên gối, anh đột nhiên rùng mình
quay lên bờ, mặc lại áo quần. Sự ngăn cản của một bóng ma khiến anh làm những
cử chỉ kì quặc như vậy ? Sự khôn ngoan của linh giác đưa đường ? Anh không
biết? Người ta không thể hiểu hết mọi hành vi của mình trong suốt cuộc đời.
Nhưng lần này, anh biết chắc chắn một sức mạnh vô hình đã xui khiến anh hành
động.
« Là em, chính là em ? Hay là cô Nhỏ ? Đích thị một trong
hai nàng đã giơ tay ngăn cản bước chân tôi. »
Anh cất tiếng thầm hỏi.
Nhưng chỉ có tiếng lá rì rào trong gió, và tiếng hát từ phía
sau bờ cây vẳng đến. Thứ âm nhạc vi vút đó phả vào lưng anh một hơi lạnh mơ hồ.
An khoanh tay lên gối, lắng nghe tiếng thác gầm réo phía
thượng nguồn. Như mọi ngày, tiếng thác réo gọi về tiếng đổ của một con thác
khác. Một con thác nhỏ bé hơn, dịu dàng hơn, với bề cao không quá ba thước,
không đe doạ ai, không hứa hẹn làm thương tổn hay chết chóc một ai, chỉ đơn
thuần đem lại vẻ đẹp cho rừng núi. Con thác đó có tên là Sơn Ca ; bởi sơn ca
làm tổ trong các khu rừng hai bên và tiếng hót của chúng như khúc nhạc bất tận
vang trong không gian tĩnh lặng của núi non. Từ thác Sơn ca vượt qua một cánh
rừng thưa và một thung lũng là bản Xíu, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nơi trái
tim anh ở lại trong khi đôi chân anh càng ngày càng rời xa, không biết đến bao
giờ mới tới ngày quay gót.
« Nhưng quay lại để gặp ai bây giờ nếu còn có ngày ấy ? Hai
người thân nhất với ta đã nằm dưới đất đen. Chú thím ta lúc này chắc cũng đã
qua đời, em Mai lấy chồng nơi tỉnh khác. Chỉ còn lại một người già. Nhưng rồi
ông ấy cũng sẽ phải ra đi theo tiên tổ ! »
Ngày anh lên đường, ông bố vợ sáu mươi chín tuổi. Mười hai
năm đã qua. Giờ nếu còn sống, không chắc ông vác nổi bó củi từ dưới gầm sàn lên
bếp.
« Ta có còn ai ở nơi ấy nữa, khi ông cụ qua đời ? »
Nhiều lần, anh thầm nhủ. Nhưng quê hương vẫn là quê hương,
một dư âm bất tận theo đuổi suốt cuộc đời. Tưởng chừng đã quên, hoặc cố tình
quên nhưng bất thần nó quay lại lúc nào ta không biết. Một cành cây gẫy trước
mặt, một hòn đá lở ven bờ suối, tiếng hót trong lèn đá của lũ sơn ca...Mọi
duyên cớ cỏn con đều khiến nó bị triệu hồi và khiến tim ta nức nở. Đôi khi bừng
mắt dậy, trong căn hầm tối đen, An lại nhìn thấy sườn núi rực nắng chiều, nơi
bóng áo chàm của nàng xuất hiện. Nàng bước về phía anh, bởi hai nhà cách nhau
một sườn núi, đứng bên này có thể nhìn thấy bên kia. Khi nàng đi một mình, khi
nàng dắt theo cô Nhỏ, đứa em kém nàng chín tuổi. Tuy là hai chị em nhưng họ gần
giống như hai mẹ con vì nàng phải nuôi em từ lúc nó mới lọt lòng. Ngày đứa em
gái ra đời cũng là ngày mẹ nàng rời cõi thế. Hai chị em, một người sinh vào mùa
đông nên được đặt tên là nàng Đông, một người ra đời vào mùa xuân nên mang tên
nàng Xuân. Trong trí nhớ của An, họ luôn luôn xuất hiện trong ánh nắng vàng rực
của sườn non, luôn luôn tiến lại phía anh trong vẻ đẹp lộng lẫy mà họ thừa kế
của người mẹ đã khuất. An nhìn thấy những hàng mi đen nháy của họ khép lại khi
cười, ánh sáng trong vắt rọi lên từ những cặp mắt bồ câu. Anh nhìn thấy khoé
môi đỏ thắm màu hoa chuối rừng. Những chiếc vòng bạc xô lanh canh trên cổ tay
trắng nõn của họ. Trong cái bản nhỏ xíu mang tên Xíu, trời đã ban tặng cho hai
người con gái ấy thứ nhan sắc phi phàm để rối số phận đổi lại bằng những nỗi
bất hạnh cũng phi phàm như nhan sắc của họ.
« Các em có làm gì xấu xa đâu ?
Các em không làm hại một con chim huống chi nói đến con
người !
Cớ sao trời nỡ bắt các em chịu tai ương như vậy ? »
Tâm hồn anh không ngừng gào thét. Đại đội trưởng An không
tin có trời. Anh cất tiếng gọi trời như thói quen, như tất thảy mọi người
thường cất tiếng kêu trong cơn tai hoạ nhưng óc não anh ghi khắc đinh ninh
gương mặt những kẻ sát nhân bằng xương bằng thịt.
« Có thể chúng quá mạnh mà ta thân côi thế cút nên kiếp này
ta sẽ phải nuốt hận bước xuống mồ. Nếu vậy ta sẽ tiếp tục cuộc truy đuổi vào
kiếp sau. Nếu kiếp sau chưa đủ, ta sẽ xin trời cho ta thêm một kiếp nữa. Ta sẽ
đi đến tận cùng địa ngục để tìm những kẻ đã giết nàng và cô Nhỏ của chúng ta.»
Phía sau bờ cây, ồn ào tiếng các đoàn quân đổ tới. Cửa rừng
hẹp nên khi các đơn vị chen lấn một cách vội vã, mọi thứ tiếng động đều dội đi
bốn phía và các hồi âm cũng ném trả từ bốn phía vách núi lẫn rừng cây. An biết
rằng tiểu đoàn 209 từ bên kia núi Gấu trúc đã sang và giờ biểu diễn sắp tới.
Anh đứng dậy, quay lại trảng. Nắng đã tắt từ lâu. Rừng đen thẫm vây bốn bề
khiến trảng cỏ trở nên lung linh dưới ánh đèn như nơi chốn nào đó trong thần
thoại. Dưới những tấm bạt khổng lồ can nối lại thành một mái nhà mênh mông để
bảo đảm an toàn cho cuộc biểu diễn, những ngọn đèn lớn sáng rực. Chiếc máy nổ
hai mươi nhăm ngựa của sư đoàn đặt không đủ xa sân khấu khiến tiếng nổ của nó
vọng lại, chen lẫn tiếng đàn sáo và tiếng hát. Đám lính mới tới đã tập hợp ở
một góc, chờ lệnh, anh nào anh nấy mặt nhễ nhại mồ hôi và hớn hở như trẻ được
quà. Các tốp văn công thu quân, tập trung về phía sau cánh gà. Lính tráng rời
các hội đồng hương lại tập hợp theo phiên chế. Tiếng còi, tiếng gọi nhau í ới
vang khắp nơi.
Tiểu đoàn trưởng Nhã có vẻ tươi tỉnh hơn sau giấc ngủ dặm đã
quay lại điều hành lính tráng. An nhìn cảnh tượng một cách ngỡ ngàng. Anh còn
đang bị dằng kéo bởi những kỉ niệm. Anh cảm thấy mình đang còn đứng ngoài cuộc
vui. Tựa lưng vào một gốc cây, anh đưa mắt nhìn về phía sân khấu, trong khi
những tốp lính của đơn vị 209 vẫn tiếp tục từ phía sau vượt lên để chiếm lĩnh
khoảnh đất dành cho họ.
- Chí văn Thành ! Chí văn Thành !
Một tiếng gọi đột ngột vang lên bên tai khiến An giật nảy
người. Anh quay đầu lại một cách vô thức và khi chợt hiểu điều đó là sai lầm
thì một gã trai đã tiến đến sát mặt anh :
- Anh Chí văn Thành !
- !...
- Thành ! Anh không nhận ra em sao ?
Một gương mặt nhoẻn cười trong bóng tối. An tì lưng vào thân
cây, toàn thân run như bị điện giật :
- Đồng chí nhầm. Tôi là Hoàng An.
- Anh Chí văn Thành. Mã Lỳ đây. Em là Mã Lỳ.Anh quên em rồi
sao ?
- Tôi là Hoàng An.
- Ồ...
Người mới tới quay ngược cây đèn pin để rọi sáng vào chính
mặt anh ta.
Gương mặt nhễ nhại mồ hôi bầu bầu theo kiểu mặt đàn bà. Đôi
mày vừa ngắn vừa xếch và cặp mắt lá dăm nhỏ nhưng rất sâu nheo lại trong nụ
cười. Một chiếc mũi ngắn, lộ thiên. Hai hàm răng nhỏ như răng con nít, có chiếc
răng nanh bên trái bịt bạc. An rùng mình. Không còn từ chối được nữa. Đó chính
là người đồng đội cũ, Mã Lỳ, dân Mèo, tiểu đội phó tiểu đội một trong trung đội
năm xưa anh từng là trung đội trưởng. Chính anh đã đề bạt cậu ta vào chức vụ
này. An nắm chặt cánh tay Mã Lỳ, kéo lại gần :
-Giờ tôi đã đổi tên thành Hoàng An. Tôi cấm cậu gọi tôi bằng
tên cũ.
Anh buông từng lời, gần như thì thầm.
- A !... Em hiểu. Em hiểu.
Gã trai gật đầu lia lịa.
An nói tiếp :
- Cậu vào xem đi. Lát nữa chúng ta sẽ hàn huyên.
Mã Lỳ dặn :
- Nhớ đấy. Lâu quá chúng ta chẳng gặp nhau.
An gật đầu :
- Các cậu ở đây bao lâu ?
Anh chàng Mèo lắc đầu oai oái :
- Chỉ có trời mới biết. Nhưng tiểu đoàn trưởng báo rằng có
thể bọn em còn găm quân ở đây khá lâu để tập luyện trong khi chờ sát nhập vào
một sư đoàn thiếu ở chiến trường miền tây. Chưa biết chừng là dăm bảy tháng.
- Vậy còn có nhiều dịp gặp mặt. Bọn tôi vẫn thường qua núi
bên ấy.
- Tốt. Thế nào anh em mình cũng phải gặp nhau. Em đi đây.
Cậu ta chạy theo đồng đội. Tích tắc sau, tất cả chỉ còn là
một đám đông chuyển động nhập nhoạng hoà với cây rừng, một khối đen bất khả
phân biệt. An sực nhớ ra điều gì đó, tức khắc vùng chạy theo Mã Lỳ :
- Mã Lỳ, Mã Lỳ !
- Đợi tôi với, Mã Lỳ !
Anh xô đám lính 209 sang hai bên bờ cây, đuổi theo người
đồng đội cũ.
- Mã Lỳ !
- Em đây.
Anh nghe tiếng đáp trả vọng từ đám đông phía trước. Mã Lỳ
dừng lại, tách khỏi hàng quân đứng sang mép lối đi để chờ anh. Chẳng bao lâu,
họ tìm thấy nhau. Cùng là dân miền núi, rừng cây làm thành một phần đời của họ.
Đuổi bắt nhau trong cảnh tối tăm này chẳng phải là điều quá khó đối với An. Khi
chợt đến, An thấy Mã Lỳ đang đứng với một người khác nên anh nép mình sau một
gốc cây, chờ. Trong bóng đêm, nghe anh chàng Mèo nói :
- Bọn tôi là đồng đội cũ...cậu cứ đi trước rồi lát nữa tôi
tìm. Chúng ta sẽ tập hợp theo đơn vị sau giờ biểu diễn.
- Nhất trí.
- Đưa cây đèn pin của cậu cho tôi mượn ; đèn tôi sắp hết
pin.
- Dè sẻn thôi đấy. Đường còn dài.
- Được rồi.
Gã trai kia chạy vụt đi. An còn dừng lại vài giây trong bóng
tối rồi mới đi tới trước mặt Mã Lỳ :
- Chúng ta cùng nhau xem. Tôi có nhiều điều muốn hỏi cậu.
- Đồng ý.
Họ cùng nhau nhập vào cánh quân 209 để tiến đến sân khấu. Vì
là khách, lính 209 được chia nửa phần đất bên trái khiến quân nhà xôn xao ghen
tị. Quả là đứng bên trái nhìn lên sân khấu rõ hơn, và tiếng máy nổ nghe nhỏ
hơn. An cùng Mã Lỳ ngồi xuống, anh liếc đồng hồ, nói :
- Tôi chỉ được xem đến chín giờ mười lăm. Sau đó phải đổi
gác.
- Chính anh phải đảm nhiệm sao ?
- Đại đội tôi đảm nhiệm. Là đại đội trưởng tôi không có
quyền ngồi xem khi bọn lính trẻ hơn phải bỏ sân khấu đi tuần.
- Anh luôn luôn là cán bộ gương mẫu. Em chưa quên điều ấy.
Kể từ ..ngày chúng ta mới làm quen.
- Chẳng cứ tôi, ở sư đoàn này cán bộ nào cũng xử như vậy.
Gã trai Mèo im lặng một lát rồi hỏi :
- Ở đây đất dữ lắm a ? Em nghe phổ biến đây đã là vùng sâu
của quân ta, tựa hồ như an toàn khu thuở trước ?
An cười :
- Đây đúng là vùng sâu của chiến trường. Nhưng không thiếu
thám báo địch. Bởi thế ba năm chờ đợi mới có một buổi liên hoan mà lính vẫn
phải cắt nhau đi tuần.
- Bọn nó dám luồn vào tận đây sao ?
- Cậu đùa ? Đây không phải thao trường Hà Tây mười hai năm
trước. Bây giờ đang là chiến tranh. Cậu tưởng bọn chúng toàn là đồ bị thịt hay
búp-bê gỗ chắc ?
Mã Lỳ lặng thinh một lát rồi hỏi :
- Ngần ấy năm anh mới lên đại đội ?
- Cậu quên là tôi bị rượt đuổi phải thay họ đổi tên hay sao
? Còn cậu ?
- Em bây giờ cũng đại đội trưởng rồi. Cấp trên nói nếu tình
hình tiến triển tốt, quý sau em sẽ được thăng vượt cấp. Người Mèo đặc biệt
trung thành với cách mạng và dũng cảm trong chiến đấu.
- Chúc mừng cậu...
- Ồ....Ồ....Gái đã ra kìa...
Mã Lỳ cất tiếng, chỉ lên sân khấu.
*
Quả nhiên hai cánh màn lụa đỏ đã mở ra, cô gái giới thiệu
chương trình tiến đến trước micro cúi chào yểu điệu. Áo dài tứ thân xanh đổi
vai hồng vai tím, váy lụa mỡ gà, một vẻ đẹp bị lãng quên, một mẩu đời bình yên
bị ngăn cách chợt hiển hiện khiến lính vỗ tay như rồ như dại. Rồi tiếng nhạc
cất lên, vang lừng, nao nức. Cả sư đoàn đã chờ đợi bao lâu giờ phút hạnh phúc
này ! Nhưng đại đội trưởng An không còn nghe thấy gì, không còn nhìn thấy gì
ngoài gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của người đồng đội cũ. Mã Lỳ hoàn toàn chú tâm
vào cô gái dẫn chương trình, đôi mắt nhỏ của cậu ta như mờ đi, môi dưới trễ
xuống khiến cái miệng há hốc ra một cách vô tình và bất khả kiểm soát :
« Cậu ta sẽ hành động ra sao ? Cậu ta sẽ lặng im vì tình
bạn, vì chính ta là người đầu tiên giúp cậu ta hiểu những điều sơ đẳng nhất
trong cuộc sống miền xuôi, cũng là người đề bạt cậu ta và giúp cậu ta tiền về
quê làm ma cho ông bố. Hoặc cậu ta sẽ tố cáo ta để bày tỏ lòng trung thành với
thượng cấp và được cất nhắc một cách đặc biệt hơn ? Nào ai biết được đường đi
ngoắt ngoéo của con người ?»
Mười hai năm đã qua nhưng gã trai này dường như không thay
đổi. Cậu ta không già đi bao nhiêu vì nước da trơn nhẵn. Nhưng cặp mắt nhỏ và
sâu kia thì khôn dò nổi. Hoàng An im lặng theo rõi Mã Lỳ. Gã trai Mèo chắc đang
khốn khổ vì thèm đàn bà. Hai mắt gã ướt rượt. Gã thở hổn hển và thè lưỡi liếm
môi liên tục. Những người dâm đãng, đàn ông cũng như đàn bà không thể cưỡng chế
cử chỉ này. Đó là một trong những dấu hiệu khiến người ta nhận ra họ một cách
mau lẹ. An nhớ hồi ở đơn vị cũ, Mã Lỳ đã khổ sở ra sao khi kiếm đàn bà. Và mặc
dù là dân Mèo thuần tuý, chân ướt chân ráo xuống miền xuôi, gã cũng đủ ranh ma
để tìm một cô gái dở người trong vùng, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách.
Giờ thì cậu ta đang há hốc mồm nhìn các nàng tiên áo xống xênh sang trong điệu
Múa Đèn :
- Cậu thấy thế nào ? Hay hơn hay tồi hơn Múa Nón của người
Thái ?
An cất tiếng hỏi .
- Hay hơn, hay hơn rất nhiều lần.
Mã Lỳ đáp, mắt không rời sân khấu.
- Cậu có thích điệu múa khèn của dân Mèo hay không ?
- Không.
Mã Lỳ đáp gọn lỏn khiến anh ngạc nhiên. Dường như hiểu sự
ngạc nhiên đó, gã Mèo giải thích :
- Dân Mèo múa không hay. Múa hay nhất chính là các dân tộc
Tây nguyên. Bất kể là Ê-đê, Ba-na hay ai khác.
Tới đó, Mã Lỳ chợt cất tiếng kêu :
- Ô, đã hết rồi.
Và cậu ta tắc lưỡi lắc đầu một cách tiếc rẻ. Hoàng An cười :
- Tôi không ngờ cậu mê văn nghệ đến thế.
- Anh khinh người Mèo không biết thưởng thức văn nghệ hay
sao ?...
- Không nên nói thế. Đây là sở thích của từng cá nhân, không
liên quan gì đến sắc tộc. Bản tôi toàn dân Tày nhưng có người mê thổi sáo, có
thể thức thổi sáo cả đêm trong lúc người khác chỉ uống rượu rồi vùi đầu ngủ.
- Em mê văn nghệ.
Mã Lỳ đáp. Rồi sau một phút chần chừ, nói thêm :
- Nhưng chỉ những tiết mục văn nghệ do con gái làm thôi. Em
không thích nhìn bọn đàn ông hát múa.
Tới đó, màn lại mở. An lặng im vì không muốn làm phiền gã
Mèo. Dường như toàn bộ tâm trí của cậu ta đang quay đảo dưới ánh đèn sân khấu.
Như thế, thời khắc dần trôi, tới chín giờ mười lăm. Anh giơ đồng hồ lên xem rồi
bảo Mã Lỳ :
- Đã tới giờ đổi gác. Tôi đi đây.
- Vâng. Rồi chúng ta sẽ gặp nhau.
- Đồng ý. Sau giờ biểu diễn cậu rán chờ tôi nhé.
- Yên tâm. Em sẽ chờ anh.
Hoàng An rút lui về phía sau. Khi đã hoàn toàn ra khỏi đám
đông, anh vào sâu trong bìa rừng, chọn một góc thuận tiện để có thể thu mình
trong bóng đêm quan sát. Trước mắt anh là một khối đen mênh mông, Mã Lỳ đã mất
hút trong đó. Cậu ta vốn nhỏ con, giống số đông đàn ông Mèo, bao giờ cũng chỉ
cao ngang vai vợ. Người ta bảo một cặp Mèo ôm nhau giống hệt con chẫu chàng ôm
quả dưa ếch là vì thế. Màn đóng rồi màn mở, các tiết mục nối tiếp nhau. Đồng hồ
chỉ mười giờ kém hai mươi phút. Như thế đã hai mươi lăm phút trôi qua không xảy
ra chuyện gì. An cảm thấy hơi thở của anh bắt đầu trở lại nhẹ nhõm :
« Có lẽ cậu ta không đủ tàn ác để làm điều ấy. Có lẽ cậu ta
chưa quên những kỉ niệm tốt đẹp của một thời. »
Nhưng chính lúc niềm lạc quan khởi sự, một bóng người nhỏ bé
lom khom đã đứng lên, tách khỏi khối khán giả đông đặc và đen ngòm. Cái bóng đó
lách giữa hai cánh quân, với dáng đi lom khom tiếp tục tiến về khán đài phía
trước, nơi ban chỉ huy sư đoàn cùng ngồi với ban lãnh đạo tiểu đoàn 209 trên
một tấm bạt trải đến tận chân sàn diễn.
Tức khắc, đại đội trưởng An dập tắt niềm lạc quan mong manh
vừa chợt nhú như tay đồ tể lành nghề chọc một nhát dao chính xác trăm phần trăm
vào cổ lợn :
« Ra thế. Điều ta nghi ngờ là không tránh khỏi. »
An nghĩ, với một chút cay đắng, một chút buồn rầu nhưng cùng
lúc đó, trái tim anh không còn phập phồng nữa, nhịp đập của nó trở lại bình
thường. Sự hồ nghi và nỗi chờ đợi mong manh bị thiêu cháy. Trạng thái lạnh lùng
băng giá xâm chiếm tâm hồn, óc não anh trở nên trống rỗng và trong suốt :
« Việc ắt phải xảy đã xảy ra. Giờ không còn đắn đo, chỉ còn
hành động. Ta không muốn tình cảnh này nhưng nó đã tới. Vậy ta sẵn lòng chào
đón. »
Anh đưa tay rờ cây tiểu liên cưa nòng bên hông như kiểu nông
phu rờ lưng con trâu trước khi bước xuống rạch cày, như gã xà-ích vuốt bờm ngựa
trước giờ cho xe chạy. Động tác ấy đã quen thuộc từ thuở mười ba, tuổi bắt đầu
theo ông chú lên rừng săn thú. Khi những ngón tay An chạm vào thớ thép lạnh
ngắt đó, một luồng xúc động mãnh liệt truyền ngược lại da thịt, lan toả khắp
toàn thân và xuyên thấu lên tận óc não anh, đem lại cùng một lần sức mạnh, niềm
tin, và ý chí sắt đá. Hơi lạnh của vũ khí truyền cho anh ngọn lửa. Chạm vào nó,
giống như người xưa chạm vào hòn đá ước, anh thấy bình tâm, ví như kẻ lữ hành
mùa đông bình tâm khi được ngồi dưới mái nhà và được hơ tay lên lửa sưởi. Đối
với An, vũ khí tựa hồ con ngựa chiến hoặc con chó săn trung thành. Nó chẳng còn
là vật vô tri mà trở thành một phần cơ thể và ý chí. Đời anh là một cuộc tôi
luyện trường kì để thứ thép lạnh ngắt đó trở nên một vật có linh hồn.
Trong bóng tối, đại đội trưởng khẽ nhếch mép cười :
« Ta không muốn !Ta không muốn chút nào cuộc săn này. Nhưng
chính vì bị săn đuổi, ta đành phải trở thành kẻ đi săn đuổi. »
Anh nhìn thấy Mã Lỳ ngồi thụp xuống, lẫn vào đám cán bộ lãnh
đạo. Hẳn đây chính là lúc cậu ta tường trình sự việc một cách vắn tắt và đề
nghị sư trưởng đi theo mình vì một « ...bí mật quân sự có tầm quan trọng quốc
gia. » An thầm đoán. Quả nhiên, một phút sau, Mã Lỳ đứng lên cùng sư trưởng, cả
hai men theo bục sàn diễn để vòng ra phía sau. An ước lượng :
« Hai người vừa xoẳn cao bằng nhau. Nhưng sư trưởng to gấp
ba lần gã Mèo còi cọc. Cánh tay ông ta hẳn phải xuýt xoát bằng cẳng chân của
gã. »
An không hiểu họ sẽ đi đâu ? Nếu họ lùi ra phía sau sân
khấu, sẽ vô cùng bất tiện cho anh vì tổ lính kĩ thuật đang chạy máy nổ ở đó.
Nhưng có lẽ giả thuyết này là sai vì một câu chuyện trọng đại không thể thổ lộ
ở nơi tiếng nổ ầm ầm và cả tốp người tò mò có thể nhìn nghiêng nhìn ngó. Họ sẽ
lùi sâu vào các đám rừng xung quanh chăng ? Nếu vậy, có khả năng đụng độ tốp
lính đi tuần. Hoặc chính họ, hoặc chính anh và cuộc xử trí sẽ khó khăn. Tuy
nhiên, sư trưởng vốn là người có tật nói rất to, ông ta sẽ phải dẫn gã Mèo đen
ra bờ suối, đó là nơi tiếng nói của ông sẽ bị cuốn trong tiếng thác gào và
không thể lọt vào lỗ tai bất cứ ai. Và, thật may mắn, đó cũng chính là nơi
thuận tiện nhất cho việc xử trí vì bên kia suối là vùng núi chết. Từ bờ suối ,
chỉ đi qua một bãi sỏi hẹp như dải áo là tới các tường đá dựng thẳng đứng như
lưỡi gươm, trên bức tường thành vĩ đại ấy, không một cọng gai nào có thể trồi
lên được. Vì thế, không chỉ con người mà đến lũ sơn dương cũng không dám trèo
lên . Chẳng phải lính bắc việt mà chính thám báo phía nam đã đặt tên nơi đó là
Vùng Núi chết.
An luồn sau các thân cây để theo rõi đường đi của hai con
mồi. Quả nhiên, sư trưởng dẫn gã Mèo ra bờ suối. Đoạn đường khá dài để tiếng
nhạc mờ dần đi và tiếng thác réo vang dần lên. Cây đèn pin của sư trưởng bịt
vải dù, chỉ vẩy ra một tia sáng bằng trái mận. Đèn của gã Mèo rọi sáng nhiều
hơn, quét đi quét lại không ngừng trên lối đi. Giống như một con báo, An bước
theo họ. Anh không nhận ra rằng gió đã đổi chiều thổi lật nghiêng các vòm lá
khiến rừng xao động và tiếng bước chân của các con mồi cũng như kẻ săn mồi đều
chìm nghỉm trong tiếng lá reo. Chừng mươi phút, họ tới đúng bãi tắm ; gần như
chính xác nơi An vừa ngồi lúc tàn chiều. Một ý nghĩ thoáng qua, ngắn như tia
chớp :
« Phải chăng vài giờ trước, ta không muốn tắm trên dòng suối
này vì cuộc xử trí ắt phải xảy ra chính nơi đây ? »
Nhưng anh không kịp suy ngẫm thêm vì cuộc đối thoại đã cất
lên, rành rẽ từng lời, từng tiếng :
- Thưa sư trưởng, người Mèo chúng tôi vốn tuyệt đối trung
thành với cách mạng nên tôi cho rằng tôi có nghĩa vụ báo cáo với đồng chí sự
việc này. Một sự việc vô cùng nghiêm trọng.
Mã Lỳ cất tiếng, run rẩy. Có lẽ gã hồi hộp. Có lẽ gã đang
dùng dằng giữa nỗi sợ hãi bản thân và nỗi sợ hãi « lương tâm của một kẻ trung
thành với đảng và chính quyền »...Hoặc gã đang phân vân giữa nỗi sợ hãi chính
anh, kẻ đã thoát khỏi lưới vây của cả một đội quân, con người đáng gờm ; với
lòng khao khát quyền lực. Hoặc gã cảm thấy một sự nguy hiểm nào đó ẩn giấu
trong cuộc chơi này, giống như một tay thợ săn cảm thấy khí núi bốc lên hơi thở
của tử thần khi rẽ vào ngả đường mà sau đó vài khoảnh khắc, anh ta sẽ biến
thành con mồi bị nghiền nát giữa hai hàm răng cọp ? An không thể xác định duyên
cớ, nhưng anh nghe rõ từng tiếng run rẩy thốt ra và hơi thở ngắt quãng của Mã
Lỳ.
« Đồ chó ghẻ ...Quân vừa đéo vừa run... »
Trong thâm tâm, anh buông một tiếng chửi thề khinh bỉ.
Lúc đó, giọng sư trưởng cất lên, đĩnh đạc :
- Tất thảy chúng ta đều có nghĩa vụ trung thành với cách
mạng. Đồng chí xác định tư tưởng rõ ràng như vậy là rất tốt. Tôi chờ nghe đồng
chí đây.
- Thưa sư trưởng....
Mã Lỳ nói, không còn quá run rẩy sau khi được khích lệ. Tuy
nhiên gã Mèo vẫn phải nuốt nước bọt mấy lần để dọn giọng, trước khi tiếp lời :
- Thưa sư trưởng, phải chăng trong sư đoàn ta có đại đội
trưởng Hoàng An, người Tày Cao Bằng đang chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của đồng chí ?
- Đúng !
Sư trưởng khẳng định tức khắc và sau đó tiếp tục nói với cái
giọng bất khả điều chỉnh cường độ của ông :
- Đại đội trưởng Hoàng An là người chỉ huy gan dạ, mưu trí
và có rất nhiều triển vọng, có thể nói đó là cánh tay phải của tiểu đoàn trưởng
Đinh quang Nhã..Nhưng quê đồng chí ấy ở Đồng Mỏ Lạng sơn chứ không phải Cao
bằng. Tôi thuộc lý lịch đại đội trưởng An như thuộc tiểu sử cá nhân của các
tiểu đoàn trưởng dưới quyền tôi vậy.
- Báo cáo sư trưởng, Hoàng An quê chính ở bản Xíu, huyện
Thất khê, Cao bằng. Anh ta từng là trung đội trưởng số ba , thuộc đại đội Một,
tiểu đoàn 109 đơn vị đặc nhiệm đóng tại Hà Đông năm I957, lúc đó tôi là tiểu
đội phó trong trung đội của anh ta. Tên thực của anh ta là Chí văn Thành, được
kết nạp đảng sau ngày nhập ngũ, tháng chín năm I95I, ba năm trước ngày giải
phóng thủ đô.
- Đồng chí nói sao ? Anh ta đã từng là đảng viên ?
An thấy giọng sư trưởng vói cao lên, ngờ vực. Khi nhập vào
cánh quân này dưới cái tên Hoàng An, anh đã sử dụng giấy tờ của một tử sĩ đứng
ngoài đảng. Và anh vừa được kết nạp hai năm tròn. Chính sư trưởng đã hạ lệnh
kết nạp đảng tại chỗ, sau những thành tích chiến đấu dồn dập của đại đội. An
lại nghe Mã Lỳ cười khẩy, và sau một khoảnh khắc ngưng lặng, tiếp tục nói:
- Khi tôi nhập ngũ, Chí văn Thành đã sáu tuổi đảng. Anh ta
được kết nạp ngay trên chiến khu Việt bắc.
- Thôi được. Đồng chí nói tiếp đi. Tôi nghe.
- Chính Chí văn Thành giác ngộ tôi vào đảng và đề bạt tôi
lên tiểu đội phó.
- Rồi sao ?
- Rồi đột nhiên anh ta bỏ trốn sau một ngày chủ nhật vào
thăm Hà nội. Ban chỉ huy không biết lý do ra lệnh truy tìm nhưng không có kết
quả. Khoảng một tuần sau bộ tham mưu cử người xuống chính thức thông báo Chí
văn Thành là điệp viên do quân đội nguỵ gài vào để đánh phá lực lượng cách
mạng. Do bị lộ anh ta đã bỏ trốn cùng với một tên điệp viên khác, trong đội
cảnh vệ. Cả hai đều là Tày Cao bằng và quê cùng huyện Thất khê. Lực lượng biên
phòng đã đuổi theo họ, qua tận biên giới Việt-Lào nhưng chỉ tìm thấy xác hai
người bị hổ ăn và hai cây súng bỏ lại.
- Nếu đã thẩm định là bị hổ ăn thì làm sao còn quay trở lại
sống dưới một cái tên khác ? Nhất là khi cả hai cây súng bị ném lại ? Đồng chí
có tin rằng một người bỏ trốn có thể vứt bỏ vũ khí để dấn thân vào rừng núi với
hai bàn tay trắng, khi trước mặt là thú dữ lẫn kẻ thù ?
Giọng sư trưởng oang oang như đang thuyết trình kế hoạch tấn
công trước giờ mở màn chiến dịch. Anh có cảm giác như ông không tin những điều
gã Mèo nói và cố sức dẫn dụ gã sang một ngả đường khác. Mã Lỳ ậm ừ hồi lâu vì
không tìm được lời giải thích. Nhưng sau đó, gã cất tiếng một cách quả quyết :
- Tôi biết. Điều đồng chí nói là có lý. Nhưng tôi không thể
nhầm bởi chính Chí văn Thành cũng đã nhận ra tôi. Chính anh ta dặn tôi rằng
không được gọi anh ta bằng tên cũ, rằng anh ta đã bị truy đuổi, đã thay họ đổi
tên và ...
Tiếng hoan hô đột nhiên ào ào vang lên, vượt qua các bờ cây
vọng đến tận bờ suối. Tiếng lính huýt còi miệng, tiếng hét cuồng nhiệt vang
khắp rừng lẫn trảng:
-Hoan hô, hoan hô....
- Lại....Múa lại....
- Một lần nữa !Hoan hô....Một lần nữa đi !
- Một lần nữa.! Xin múa lại lần nữa.
An chắc chắn đó là điệu múa Chàm rông, điệu múa của mùa
xuân, điệu múa của tình ái, hội hè và ước vọng. Anh tưởng tượng ra những gương
mặt phấn khích của đám đông dưới ánh đèn. Cùng lúc đó, óc não anh vang lên
tiếng thầm thì :
― Sư trưởng ơi, tôi với ông không thù oán, không có kỉ niệm buồn
phiền. Ông đối với tôi như một người anh hào hiệp nhưng tôi không có cách xử
trí nào khác. Xin ông tha thứ cho tôi.
Anh nhắm vào lưng Mã Lỳ, tiêu điểm cách một gang rưỡi từ vai
trái lui xuống. Khẩu súng trong tay anh tựa hồ con quay gỗ hồi thơ bé. Tựa hồ
con thoi dệt trong tay bà thím. Tựa hồ cái gương tròn khung bạc trong tay nàng.
An nhấn cò. Một tiếng nổ. Chắc chắn qủa tim gã Mèo đen phải vỡ tung. Nhích nòng
súng chừng nửa ly sang bên trái, hai phát tiếp theo bởi lần này con mồi to khoẻ
gấp bội. Cần găm hai lần đạn vào một quả tim ngoại cỡ. Kết quả sẽ bảo đảm một
cách tuyệt đối. Tất thảy xảy ra trong ánh chớp. Hai tấm thân đổ sập gần như
đồng thời, cùng hướng.
An gỡ cây súng , đặt xuống gốc cây quen thuộc, nơi anh vẫn
ngồi một mình buổi chiều. Chéo khẩu súng là cây đèn pin, bọc kín trong tấm vải
dù. Mắt anh đã hoàn toàn thuần thục với bóng tối. Chỉ những gợn nước phản chiếu
lửa đom đóm bên kia dòng suối, cùng ánh sáng xanh run rẩy của lân tinh dưới các
bụi cây là đủ cho anh soi tìm mọi vật. Sau khi đã cất gọn gàng những đồ lủng
củng, An bước tới nơi hai tử thi gần như chồng lên nhau thành một khối. Hai cái
xác còn nóng hổi. Trước hết anh lột quần của cả hai một cách thận trọng để máu
ở phần trên ngực không dây vào chúng. Vũ khí, đèn pin. Rồi bao thuốc lá, bật
lửa, bấm móng tay trong túi áo. Lọ đựng tăm và hộp dầu cù-là. Sổ tay và
bút...Tất thảy được gom thành một đống trên cỏ. Sau đấy, anh lột giầy lẫn tất,
sắp thành hàng. Ước tính mọi sự chuẩn bị đã tinh tươm, An vác gã Mèo đi ngược
lên thác Voi gầm.
Dừng lại thở một vài hơi anh lẳng gã xuống chính ngọn thác,
nghe trong đêm tiếng rơi bõm của thây ma, tiếng gào réo của các xoáy nước và
nhìn thấy ngọn nước hung dữ cuốn phăng cái vệt đen đen đó đi một cách hăm hở.
Quay trở lại, An kéo sư trưởng lên. Ông ta rất nặng. Phải trầy trật lắm anh mới
hất được cái xác vạm vỡ, y hệt một bao tải gạo lên lưng. Lần này, anh phải bước
lom khom như dân công cõng đạn trèo ngược dốc, rồi bước từng bước một. Nhưng
dẫu sao An cũng đến được đỉnh thác mà không phải dừng chân nghỉ một lần nào. Ở
đó, An đặt xác chết xuống bờ suối, rút trong túi quần sợi dây dù bất ly thân,
tháo nút một cách thận trọng để sợi dây không bị gút rối. Khi đã gỡ được sợi
giây một cách hoàn hảo, An buộc một bên chân mình vào gốc cây gần nhất. Rồi, anh
thở vài nhịp chậm và sâu để chuẩn bị trước khi thu hết sức lực nâng bổng tử thi
lên, ném xuống dòng thác. Tấm thân bất động tròn trùng trục kia rơi xuống tức
khắc, kèm theo một tiếng động trầm đục và ngắn ; tựa hồ một thân cổ thụ rớt
xuống dòng sâu. Lúc thây ma rơi xuống, An cũng ngã nhào theo, một cánh tay lẫn
một bên vai đập vào bờ đá đau điếng. Nếu không có sợi dây bảo mạng kia, chắc
chắn anh sẽ trở thành thây ma thứ ba, theo cùng một hành trình với hai kẻ xấu
số. Nằm úp mặt xuống bờ suối vài giây cho cơn đau dịu đi, An vùng dậy tháo sợi
dây dù, đoạn quay trở lại khúc suối bên dưới. Ở đấy, anh lội xuống dòng nước
lạnh buốt, lặn ngụp hồi lâu. Khi ngửi đi ngửi lại, áo quần không còn chút mùi
tanh của máu, An trèo lên bãi sỏi lượm cây đèn pin và khẩu súng định bụng trở
về hầm. Nhưng chính lúc ngẩng đầu lên, anh chợt nghe tiếng chân chạy, chợt nhìn
thấy một bóng đen vụt khuất giữa đám cây đen. Vô cùng mơ hồ, nhưng chắc chắn
không phải là một hồn ma. Đó chắc chắn là một sinh thể.
« Có kẻ nào rình rập ta ? Bởi chỉ có tiếng chân đơn lẻ .
Không thể là tiếng chân đội lính đi tuần ngẫu hứng đến đây. »
Anh tức khắc đuổi theo bóng đen kia.
Nhưng phải chăng nó là một con người ?...Anh tự hỏi một cách
ngờ vực bởi cái sinh vật gây tiếng động kia cũng có thể là chồn hay cáo. Nó
biến đi trong chớp mắt, hoàn toàn mất tăm mất dạng như hoà nhập thành một khối
với rừng cây. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đuổi theo hướng tiếng động cho đến
sát cửa rừng. Tới đó, An buộc phải dừng lại. Dù con mồi kia là người, là ma,
hay là chồn cáo anh cũng đành để nó chạy thoát. Nếu không, chính anh cũng có
nguy cơ bị bắt gặp trong bộ dạng kẻ sát nhân ướt rượt từ đầu xuống chân.
« Thôi được, tao sẽ tính chuyện với mày sau. »
An nghĩ, quay sang lối trở về hầm. May mắn cho anh vì khu
trú quân vắng ngắt. Có lẽ ngay toán lính tuần cũng lượn loanh quanh rồi lại tạt
vào trảng, nghếch mắt xem văn công. Trong khu nhà ngầm trung tâm của tiểu đoàn
Một, An mắc bộ quần áo ướt vào dàn sấy áo quần. Dàn cây ấy thường xuyên là tủ
sấy áo quần cho các sĩ quan, bởi nơi đây, nếu không có lửa quần áo giặt sẽ
không bao giờ khô. Hầu như đêm nào cũng có mưa. Những cơn mưa rừng thấm vào
quần áo lẫn xương tuỷ. Mưa dứt, hơi sương còn quẩn quanh từ nửa đêm cho đến non
trưa. Mặt trời có lên cũng phải vài giờ sau sương mới tan hết. Sương vừa tan
được vài giờ chiều đã ngả và lớp sương mới lại ngùn ngụt kéo từ các khe vực
lên. Như thế, làm sao áo quần không ẩm mốc. Chẳng có cách nào hơn là phải gây
một lò sấy suốt ngày đêm. Những đống củi cháy liu diu không ngừng, không ngừng toả
hơi ấm lẫn làn khói đặc ngái mùi các loại nhựa cây bị hun đốt. An đứng ở đó một
giây, nhìn đám lửa, cảm thấy buồn nản và dửng dưng. Anh muốn ngủ. Nhưng điều đó
là bất khả nên anh lại mặc quần áo mới và quay trở lại trảng, tìm đúng đơn vị
của mình, ngồi thu hình phía sau đồng đội một cách lặng lẽ.
Chờ mươi phút trôi qua, anh đặt tay lên vai cậu lính phía
trước :
- Thoả mãn chứ ?
Gã trai giật bắn người, quay lại nhìn anh :
- Thủ trưởng đi đâu, giờ mới lại đây ?
- Thủ trưởng Nhã rủ tôi quay lại hầm ngủ nướng. Không dè quá
giấc.
- Ôi chao, mất toi nửa đêm rồi còn gì ?
- Đành vậy...Nhưng được dịp béo mắt. Vả chăng, tôi già hơn
cậu mươi tuổi, lòng ham hố nhìn gái đẹp cũng phải giảm đi. Điều đó liệu có đúng
hay không ?
Cậu lính cười hì hì :
- Thủ trưởng hỏi câu ấy, em xin chịu.
- Thôi xem đi, kẻo lỡ dịp vui.
An nói, cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột rồi lấy bàn tay
bên phải bóp cứng vào huyệt vai bên trái. Lúc này, anh mới thấy thân thể đau
nhừ sau một cuộc vận động căng thẳng và quá sức. Hai mí mắt anh bắt đầu cứng
lại như chì và có vẻ như chúng không còn tuân theo sự điều khiển của chủ nhân :
« Mình không thể ngủ. Không có quyền ngủ lúc này.Ta vừa mới
tuyên bố với mọi người là gỡ được giấc ngủ dặm cùng với tiểu đoàn trưởng. Giờ
không còn lý do ngủ thêm. »
Nhưng anh bắt đầu ngáp. Và ngáp thì không thể kiềm chế được.
Đại đội trưởng đành móc bao thuốc, đốt một điếu. Mùi khói thuốc vừa lan toả,
lập tức năm sáu cái đầu quay lại, những cặp mắt thèm thuồng nháo nhác tìm kiếm.
Những cánh tay chìa ra tua tủa châu về phía anh :
- Em đã, đại đội trưởng. Em giơ tay trước nhất.
- Láo, tao mới là người giơ tay trước nhất. Mày ngồi hàng
trên làm sao ngửi ngay ra hơi khói mà xin ?
- Em đăng kí thứ ba, xin đại đội trưởng đừng quên.
- Tôi nữa chứ ? Phải chăng lính già không được chia phần ?
An bảo :
- Tôi tưởng các cậu đang say sưa xem văn công nên mới dám mở
bao thuốc ...Hoá ra mũi người thính thật...
Đám lính nhao nhao đáp :
- Văn công cũng thích mà thuốc lá cũng thèm. Chẳng thứ nào
nhịn được thủ trưởng ạ.
- Tôi chỉ xin một hơi thôi, rồi quay lại xem văn công tức
khắc... Bảo đảm với đồng chí là như thế.
Điếu thuốc chuyền đi theo hàng quân, đốm lửa đỏ lập loè. Sau
cùng nó mất hút trong khi các cánh tay còn tiếp tục giơ lên chờ đón. Mấy hơi
thuốc giúp An chống lại cơn buồn ngủ đang muốn kéo anh đổ sập. Anh đưa mắt nhìn
lên sân khấu nhưng tai anh lại vang lên tiếng động ầm và đục khi cái xác nặng
nề của sư trưởng rơi xuống nước.
« Ông ta quả là một con người cường tráng. Hẳn là một người
cha đầy quyền uy với các con và một người chồng không biết mỏi trên giường. Dân
xứ biển ăn nhiều cá nên bẩm sinh đã cường dương, chẳng cần cao gấu hay cao hổ.
Quả tim ông ta bơm đầy máu. Máu chảy như nước tuôn từ ống lồ-ô... »
An nghĩ và bất giác đưa tay sờ lên cổ xem da thịt anh đã
sạch hay chưa ?...Trên đoạn đường tiến lên đỉnh thác, máu tử thi ở trên lưng
anh không ngừng chảy, không ngừng tràn qua hai vai sau vòng qua hai bên cổ, rồi
đổ chung vào chỗ hõm giữa lồng ngực. Máu chảy như nước tuy chậm hơn, một thứ
nước ấm nóng dính dáp. Có lẽ thân thể ông ta chứa một lượng máu nhiều gấp ba
lần máu gã Mèo, và quả tim ông ta hẳn cũng to gấp ba lần quả tim của gã...An
nhớ lại cảm giác nhầy và ấm của dòng máu bao phủ quanh cần cổ, tràn qua ngực,
chảy qua rốn lan xuống tận đám lông mu khiến anh ngứa ngáy. Rồi máu rẽ sang hai
bẹn và tiếp tục bò xuống hai đùi dính nhơm nhớp như một thứ nước sốt chắt ra từ
nồi hầm thịt lẫn xương. Cảm giác đó thật rõ ràng. Cảm giác đó không thể nào
quên được. Máu gần giống một thứ nước sốt hoặc nhựa cây nhưng có hơi ấm và bốc
mùi tanh.... An bỗng thấy tay chân rã rời. Niềm oán hận dội lên thành tiếng
thầm thì trong tâm khảm :
« Tại sao mày không câm miệng lại, thằng Mèo chết tiệt kia ?
Tao đâu có làm tổn hại đến bản thân mày ? Vả chăng, mày đâu biết được vì cơn cớ
nào mà tao phải chạy trốn khỏi quê hương ? Làm sao mày hiểu được nỗi khổ đau
của kẻ phải xa lìa xứ sở ? Ngọn gió tối tăm nào thổi qua để tai mày nghe lời kẻ
khác một cách ngu dại, tấm vải đen độc địa nào che mắt mày để mày nhìn tao một
cách độc ác như thế ? »
Trên sân khấu, người ta đang diễn vở chèo ngắn của người
Kinh. Tích chèo có tên : « Xuý Vân giả dại ». An không thuộc tích chèo này, anh
chỉ nhớ mang máng đó là câu chuyện về một người đàn bà bị tình phụ hoá điên. Cô
gái điên trên sân khấu mặc một chiếc váy đỏ như hoa gạo, tóc cài hoa đại trắng.
Những động tác rối loạn của cô và gương mặt xinh đẹp tỉnh táo hoàn toàn chẳng
ăn nhập vào nhau. Tiếng hát của cô thánh thót, thuần tuý sầu khổ và gợi tình,
cũng chẳng phải tiếng hát của người điên mà chỉ là tiếng hót của một con chim
mái gọi chim trống vào mùa ân ái.
« Những đôi chim trống mái gọi nhau vào mùa xuân, gù nhau
suốt mùa hè, phủ nhau suốt mùa thu và thay nhau ấp trứng suốt mùa đông. Những
đôi chim sung sướng. Chỉ có chúng ta là đau khổ. Chúng ta không bao giờ còn có
thể gọi nhau, ve vãn nhau bằng lời hay bằng câu hát. Chúng ta không còn được
làm tình và không bao giờ còn có thể sinh con đẻ cái để được ấp iu nuôi dưỡng
chúng như lũ chim kia nuôi dưỡng lũ chim non. »
Những ý nghĩ ấy chầm chậm lướt qua óc não anh, chầm chậm như
những lưỡi dao nung đỏ trong lò rèn áp lên da thịt. Anh nghe thịt da mình bốc
cháy xèo xèo dưới lưỡi dao tàn khốc đó. Anh nhớ nàng, người vợ xinh đẹp của
anh. Mối tình đầu và cũng là mối tình sau chót. Người đàn bà duy nhất của đời
anh. Nàng đã ở trong da thịt anh mười sáu năm tròn, nàng sẽ cư ngụ trong tâm
hồn anh cho đến muôn kiếp.
« Nàng Đông ! Em ở đâu bây giờ ? Người tôi yêu ? Hãy mượn
gió, mượn cây, mượn lời chim hay tiếng thú trả lời cho tôi biết ? Em ở đâu ? và
cô Nhỏ của chúng ta ở đâu ? »
Họ trở thành tình nhân vào năm mười lăm tuổi. Nhưng họ đã là
bạn từ thuở chập chững tập đi. Hai nhà là láng giềng gần nhất, cách nhau đúng
một sườn đồi. Hai bà mẹ cùng có thai một năm, đẻ họ cùng trong một tuần trăng,
nàng đầu tháng và anh cuối tháng. Sang tháng sau, hai gia đình rủ nhau chọn
ngày trăng tròn để cùng làm lễ đầy tháng tuổi cho hai đứa trẻ. Dân bản đến nhà
nàng ngả bò ăn mừng vào buổi trưa, buổi chiều kéo sang nhà anh quay lợn, thịt
gà, nấu cỗ. Cả một ngày vui vẻ, trống phách vang lừng. Cuộc vui kéo thâu đêm,
ai nấy đều ngủ lại cho đến hôm sau mới trở về nhà mình. Khoảng sườn đồi mênh
mông giống như sân chơi chung của họ thời thơ ấu, nơi nàng lẽo đẽo theo anh lần
mò khắp các bụi cây tìm quả chín, bắt cánh cam, bọ rùa hay đào hang dế. Lên năm
tuổi, anh dẫn nàng vào những cuộc thám hiểm đầu tiên, họ rời khỏi ngọn đồi quen
thuộc để tìm đến những mạch nước khe dẫn về bản, những cọn nước bằng tre quay
chậm rãi tưới xuống các cánh ruộng bậc thang, rồi ngược lên cánh rừng lảnh lót
tiếng sơn ca. Mùa đông năm ấy, bệnh dịch yết hầu lan khắp huyện. Bản Xíu vốn
khuất nẻo, nằm sâu trong một thung lũng cách biệt mà cũng không thoát khỏi tai
hoạ chung. An mồ côi từ ngày đó. Cha anh chết hôm trước, hôm sau tới lượt mẹ
anh trong trận dịch yết hầu mà đa phần người chết toàn là trẻ nhỏ. Họ là hai
nạn nhân duy nhất ở tuổi trưởng thành. Lạ lùng là cùng ở một mái nhà nhưng anh
hoàn toàn khoẻ mạnh, trong khi cha mẹ anh và những đứa trẻ bị chết đều phải tập
trung vào một dàn hoả táng, chôn chung một góc thung lũng để phòng dịch lây
lan.
Người ta vẫn bảo : « Chết cha còn chú, xảy mẹ bú dì ». Không
phải nói thêm lời nào trong đại gia đình họ Nông truyền thống. Sau lễ tang, chú
thím An nhượng lại ngôi nhà của họ cho gia đình láng giềng, rồi dọn về ngôi nhà
sàn của bố mẹ anh để có thể nuôi cháu một cách thuận tiện. Lúc ấy, họ còn là vợ
chồng son. Bốn năm sau, anh lên chín, họ mới đẻ đứa con gái duy nhất, đặt tên
là Nàng My. Chẳng có điều chi phân biệt giữa hai đứa trẻ ấy, và vốn dĩ chúng
cũng thương yêu nhau như cùng mẹ cùng cha. Nàng My ra đời cùng năm với Nàng Nhỏ
và như thế, tới lượt chúng, hai cô bé lại trở thành những người bạn từ thuở lẫm
chẫm tập đi. Năm anh mười bẩy, chú thím làm lễ cưới cho nàng và anh rồi sau đó,
thuận tình ông bố vợ cô đơn, họ được phép về sống với ông trong ngôi nhà sàn
bên kia sườn đồi. Một cuộc sống mặn nồng như sự kết nối của các tuần trăng mật.
Nói cho đúng hơn là một mùa trăng mật miên viễn. Bởi sau khi cưới hai tuần, anh
lại xuống huyện Thất Khê tiếp tục đèn sách. Một tháng một lần, cặp uyên ương
được tình tự cùng nhau. Thời gian đó, trường huyện thường không đủ học sinh nên
chương trình học kéo dài. Vì lẽ đó anh phải lẽo đẽo đi về hơn mười năm mới kết
thúc được chương trình trung cấp. Vào khoá tốt nghiệp năm ấy, người Tày duy
nhất chính là anh, Nông văn Thành, niềm tự hào của dân bản Xíu và giấc mơ chung
cho tất cả đám dân Tày có của ăn của để.
Lớn lên dưới sự chở che của chú thím như vậy, An không thể
làm gì khác hơn là ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý khi chú anh ra lệnh :
- Tuy rằng con đã khá cứng tuổi nhưng vẫn còn trong thời
tráng niên. Ta đã lần lữa nhiều năm nay nhưng lần này chính con sẽ phải lên
đường tham gia cuộc kháng chiến. Chúng ta thưa nhà, hẹp đất, nhưng không được
để cho các bản lớn chê cười.
- Thưa chú, con đã rõ.
- Thím sẽ lo chuẩn bị quần áo, thuốc men và tiền bạc cho
con. Con có cần gì nữa không ?
- Dạ, con cần vài ngày để từ biệt bạn bè trong bản và xuống
huyện chào mấy ông thầy.
- Được. Chúng ta còn năm ngày mới tới hạn tập trung.
Sau một lát ngần ngừ, anh nói thêm :
- Con chưa làm được gì để giúp chú, từ nhỏ đến lớn chỉ vác
gạo vác tiền của gia đình đi học. Giờ lên đường, bỏ lại gánh nặng gia đình.
Chú anh mỉm cười :
- Nuôi con ăn học là để con nên người. Ấy là sở nguyện của
chính ta. Giờ con lên đường cũng vì ta thấy gia đình mình không thể trốn tránh
nghĩa vụ với đất nước. Việc của con ra đi, cứ yên tâm ra đi. Ở nhà, chúng ta sẽ
đùm bọc Nàng Đông. Vả chăng, ta với ông Cao cũng là bạn hữu..
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(2)
An không dám nói thêm. Anh còn có thể nói thêm được điều gì
trước một người đích thực vừa làm chú vừa làm cha ? Vả chăng, đang tuổi tráng
niên, anh cũng muốn lên đường. Những chân trời mới lạ mời mọc anh. Những tiếng
ầm ì từ khoảng không xa xôi vẳng lại khiến tâm hồn anh nôn nao. Cuộc chiến
tranh sôi động của dân tộc vọng đến tận những rẻo rừng hẻo lánh nhất. Nhiều bạn
đồng môn của anh đã lên đường. Nàng Xuân cũng rời bản Xíu ra đi khi tròn mười
ba tuổi, gia nhập đội thiếu sinh quân của chiến khu. Mai đây, em gái anh có thể
được gửi đi học Liên-xô hay Trung quốc theo chương trình đào tạo của chính phủ
cách mạng. Như thế đấy, làm sao anh ngồi yên ?Thung lũng êm đềm quê hương bị
quây bọc bốn bề bởi rừng núi. Những giải rừng hiền hoà anh đã thuộc kĩ từng lối
mòn. Những rặng núi thân quen anh có thể đếm đủ bao nhiêu dòng nước róc rách
trên các khe đá chảy xuống. Con thác Sơn ca reo khúc nhạc bất tận từ thuở anh
lẫm chẫm tập đi cho tới lúc anh biết làm tình. Những dấu chân của đàn trâu dẫm
trên con đường lầy lội vào bản ngày mưa. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chúng vang
lên trong các hoàng hôn vắng vẻ. Tất cả quá quen thuộc, quen thuộc đến sờn mòn
và bí bức. Anh hiểu rằng anh cần rời bỏ thung lũng thân quen này để biết được
thế giới bên ngoài tồn tại ra sao. Anh phải ra đi, tuy anh yêu nàng.
- Anh đi , rồi bao giờ quay về ?..
Nàng hỏi.
- Anh đi đánh giặc. Hết giặc anh sẽ về.
Anh đáp, như hết thảy những người trai thời tao loạn ; nói
những lời lẽ đẹp đẽ cổ xưa mà họ đã thuộc lòng.
- Em nhớ anh.
Nàng nói tiếp và bắt đầu khóc.
- Anh cũng nhớ em. Nhưng để làm tròn nghĩa vụ với non sông,
anh phải ra đi. Nhớ anh thì hãy chờ anh. Nhất định anh sẽ về.
Anh đáp lại. Cũng những lời lẽ mà các chiến binh ngàn đời đã
nói với người vợ trẻ của họ trước khi rời khỏi xóm thôn. Những lời an ủi ấy hẳn
dành cho cả kẻ ra đi lẫn người ở lại bởi tuy nói để trấn an người yêu nhưng
sống mũi anh cũng bắt đầu cay như ăn nhầm dưa cải muối còn xanh. Nàng gục mặt
lên vai anh và nước mắt nàng thấm ướt tấm áo chàm anh đang mặc. Nước mắt nàng
ấm nóng. Ấm nóng như là ...
Ý nghĩ ấy khiến An sởn gai ốc. Anh vội nhắm mắt lại. Một hơi
gió lạnh thổi tạt từ phía sân khấu vào mặt anh, và cùng lúc ấy, tiếng hát của
người đàn bà điên dại mặc váy đỏ, tóc cài hoa đại vang đầy không gian :
― Con gà rừng,
Sao mày ăn lộn với lũ công...
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?...„
An thầm nói với chính mình :
― Cuộc sống vốn dối gian như vậy. Tựa như con gà rừng ăn lộn
với bầy công. Nước mắt thơ ngây của em làm nóng vai ta đêm năm xưa. Còn đêm
nay, vai ta lại ấm nóng bởi máu người. Máu kẻ phản bội trộn lẫn máu người vô
tội. Một kiểu như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nhưng đấy chính là con đường
của số phận dẫn đưa. Ta không có cách nào thoát khỏi con đường ấy. Ta sẽ còn
tiếp tục đi theo con đường ấy để tìm đến nơi em trú ngụ. Em và nàng Nhỏ của
chúng ta „
- Hoan hô........
- Hoan hô....Hoan hô....
Mọi người ào ào đứng lên xung quanh An. Anh vội vã đứng lên
theo họ. Đêm biểu diễn kết thúc. Tất cả các diễn viên, các nhạc công cùng đổ ra
sân khấu một lần để chào binh lính. Ban chỉ huy lên sân khấu tặng hoa. Gọi là
hoa nhưng thực sự chỉ là các bó cỏ lau, kẹp ở giữa một bông chuối rừng hoặc một
chùm mẫu đơn núi. Nhưng tất thảy đều tràn đầy phấn khích. Đàn phong cầm kéo
vang hết cỡ trước máy phóng thanh để cả người diễn lẫn người xem cùng hát lên
bài ca chung cuộc trước lúc chia tay. Người đứng bên trên sân khấu vẫy hoa,
lính bên dưới vỗ tay theo nhịp trống :
Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn
Đá mòn mà đôi gót không mòn
Ta không nề gian lao không nề xông pha
Quân về theo gió đang dâng triều lên...
Tiếng vỗ tay dội vang rừng núi. Rồi sau một vài phút ồn ào,
sư đoàn phó bước lên trước micro cảm ơn đoàn văn công, đồng thời chúc các đơn
vị một thời kì huấn luyện tốt đẹp...An nhìn rõ vẻ nháo nhác tìm kiếm của ông ta
trước khi bước lên sân khấu. Bởi người có sứ mạng nói lời kết thúc đêm nay lẽ
ra phải là sư trưởng.Vị lãnh đạo đã biến mất một cách thần bí.
Rồi các đơn vị trong tiểu đoàn 209 bắt đầu kiểm lại quân
lính trước khi rút lui. Quân của sư đoàn chia ra các ngả về trại. An nhìn thấy
tiểu đoàn trưởng Nhã vẻ như đang tìm kiếm mình. Anh giơ tay lên cao vẫy :
- Tiểu đoàn trưởng, đại đội chúng tôi ở đây.
Phía xa, Nhã cao tiếng gọi :
- Đồng chí cho anh em về nghỉ rồi đến gặp tôi.
An ra lệnh cho các trung đội trưởng :
- Các đồng chí có thể về lán. Chẳng còn gì để làm vào lúc
này. Sáng mai, chắc chắn lãnh đạo sư đoàn cho anh em ngủ bù. Tôi đoán vậy.
- Báo cáo đại đội trưởng, cho anh em ngủ bù là hợp lý. Giờ
đã là ba giờ kém hai mươi nhăm.
Các cánh quân 209 theo nhau rút lui. Gấp gáp, chen lấn, hối
hả không thua gì lúc đến. Từng đợt sấm ì ầm đã vọng bên trên các cánh rừng.
- Mau chân lên mày ! Thằng này hậu đậu hay sao thế ?
- Mau thế chó nào được. Đường hẹp bỏ cha.
- Thế thì mày dẹp sang một bên cho tao vượt lên trước.
- Các cậu cãi nhau ngậu xị làm gì vậy ? Vượt lên hay tụt
xuống thì cũng chỉ hơn nhau vài thước, trốn không khỏi mưa. Biết điều thì chuẩn
bị sẵn vải nhựa ra.
- Lậy trời đừng mưa vội. Lạy trời chờ chúng con về lán rồi
hãy đổ mưa. Mưa có to đến mấy cũng được.
- May ra thì thoát được, sấm đằng đông vừa trông vừa chạy,
nhưng đêm nay lại sấm đằng tây.
- Đồ ngốc, sấm đằng tây mưa giây gió giật, tuy có muộn hơn
nhưng lại dữ dội gấp muôn phần.
- Rồi xem.
Gió đêm cuồn cuộn chảy trên các vòm cây hùng vĩ. Tiếng lắc
rắc của các cành lá nghe như chúng sắp gãy ngay trên đầu ta. An chờ cho lính
rút lui hết mới thong thả tiến về phía tiểu đoàn trưởng. Ông đang đứng với sư
đoàn phó và đám lãnh đạo các tiểu đoàn. Họ đứng thành hình vòng tròn, khi anh
bước tới vòng tròn đó mở ra như một cách chờ đợi và chào đón. An hiểu rằng họ
không biết tìm thông tin ở đâu ngoài một mình anh :
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đồng chí cho gọi tôi ?
Anh dừng lại trước tiểu đoàn trưởng Nhã, cất tiếng hỏi :
- Lại đây ! Lại gần đây !
Nhã vồn vã :
- Không phải để gặp mình tôi mà toàn thể ban lãnh đạo. Chúng
tôi đang lo lắng vì không rõ sư trưởng đi đâu. Vào nửa chừng cuộc biểu diễn,
đồng chí ấy đã đi theo một cán bộ đại đội bên tiểu đoàn bạn...Đến bây giờ cũng
không thấy hai người quay trở lại. Tiểu đoàn 209 báo cáo rằng trước khi vào bãi
xem đại đội trưởng người Mèo này đã gặp đồng chí tại cửa rừng. Và sau đó đồng
chí đã cùng với anh ta nhập vào đơn vị 209?
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chính xác là như thế. Tôi ngồi
xem với cậu ta cho đến hơn chín giờ. Đột nhiên bị đau bụng nên phải quay về lán
lấy thuốc uống. Lúc trở lại trảng tôi tìm về đại đội của mình vì e lính sốt
ruột không thấy thủ trưởng đâu.
- Đồng chí là đồng đội cũ với đại đội trưởng người Mèo ?
- Dạ, tôi cùng trung đội với Mã Lỳ từ hồi trên rừng Việt
bắc. Nhưng lúc đó cậu ta chỉ là giao liên ngoài phiên chế vì chưa đủ tuổi. Rồi
sau ngày giải phóng thủ đô, trên cử người về tuyển lính vượt biên giới làm
nhiệm vụ đặc biệt. Một số anh em đã tình nguyện lên đường, trong đó có tôi. Như
thế, đã mười lăm năm chúng tôi không gặp nhau.
- Những ngày còn gần gũi cậu ta trên Việt bắc, đồng chí có
biết gì về hoàn cảnh riêng tư của cậu ta hay không ?
- Tôi không biết nhiều lắm vì tuổi tác chênh lệch. Cậu ta
thân với mấy anh Sán dìu, Sán chỉ vùng Lạng giang Hà bắc hơn tôi. Nhưng thi
thoảng nhóm dân tộc chúng tôi gồm sáu chủng loại cũng góp tiền rủ nhau liên
hoan. Những dịp ấy, Mã Lỳ thường khoe rằng máu chảy trong người cậu ta không
phải thuần tuý máu dân Mèo mà là một thứ hộn huyết . Bà ngoại cậu ta vốn là dân
Kinh buôn cá mắm khô gặp thời ly loạn bị cướp hết bạc tiền nên đành ở lại miền
núi, lấy ông ngoại cậu ta vốn là tay buôn thuốc phiện có tiếng trong vùng. Hồi
nãy, khi chúng tôi mới gặp nhau, Mã Lỳ có nói rằng cậu ta sẽ đi tìm một người
bà con trong sư đoàn của chúng ta.
- Sư trưởng ?
Cùng một lúc sư đoàn phó và các tiểu đoàn trưởng bật lên câu
hỏi. Không ai trả lời. An hỏi lại họ :
- Các đồng chí nói rằng sư trưởng đã ra đi cùng với Mã Lỳ ?
- Đúng thế. Sau tiết mục hề chèo thứ sáu.
Sư đoàn phó đáp.
- Lúc đó chắc tôi chưa kịp quay lại.
An nói.
Cả đám sĩ quan giương mắt nhìn nhau, người nọ nhìn vào mặt
người kia như học trò vỡ lòng nhìn vào tấm bảng đen ghi đầu đề toán cấp một. An
chờ đợi vài phút rồi quay sang tiểu đoàn trưởng Nhã :
- Tôi nghĩ họ sang bên kia núi Gấu trúc trước lúc đêm diễn
kết thúc. Nếu quả thực sư trưởng là họ hàng của Mã Lỳ, cậu ta sẽ phải gọi đồng
chí ấy là cậu. Với người Kinh, họ nhà nội thường coi là gần gụi nhưng với người
Mèo, cậu cháu, họ đằng mẹ hay bà ngoại mới thật sự là thân thiết. Ngần ấy năm
cách biệt, họ phải có rất nhiều chuyện để nói với nhau.
- Có thể ...
Nhã đáp.
Một tràng sấm ầm ì liên tiếp đuổi nhau từ phương tây vang
tới. Vài tia lửa mờ rọi lên vùng trời đêm đen như than. Sư đoàn phó đưa mắt
nhìn khắp lượt rồi nói :
- Dù sao chúng ta cũng phải chờ đến sáng mai mới rõ được sự
tình. Quả là kì cục. Nếu sư trưởng cần thiết đi đến như vậy, ít nhất đồng chí
ấy cũng phải nhắn cho tôi một lời.
Ông móc chiếc đồng hồ trong túi áo ra xem rồi nói tiếp :
- Ba giờ đêm rồi. Chúng ta về hầm thôi. Ngày mai, chín rưỡi
sáng ban chỉ huy tập trung. Lính tráng cho ngủ thoả sức.
Quay sang An, ông bảo :
-Cảm ơn đồng chí. Chúc ngủ ngon.
Đám người tản ra theo các lối khác nhau trở về nơi trú ẩn.
Tiểu đoàn trưởng Nhã cùng An theo một lối. Trên chặng đường tối đen như mực,
bất chợt Nhã buông tiếng thở dài :
- Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy đêm nay vô cùng ảm đạm.
Thật phí hoài cả cuộc vui.
- Vâng.
An đáp.
Một chuỗi sấm nữa lại nổ rền. Hơi gió lạnh thổi ràn rạt qua trảng
cỏ làm tê lạnh da mặt họ.
Tiểu đoàn trưởng bảo :
- Chạy đi! Gió đã đổi mùi.
- Vâng.
Hai người cùng cắm đầu chạy . Ánh đèn nhoang nhoáng vẩy
trong bóng đêm. Mươi phút sau, họ chui được vào hầm. Cũng chính lúc đó, đêm
bừng lên từng đám tia chớp, te tướp loằng nhoằng như những bó gân người bị tước
nhỏ. Tiếp đó, những hồi sấm liên tục nổ vang ngay trên đầu họ. Rồi mưa quất
xuống những loạt liên thanh. Gió bắt đầu gào hú từng cơn, bổng trầm xen những
loạt roi mưa quất ràn rạt. Cây cối vặn mình răng rắc, nghiêng ngả bốn bên. Hai
người đứng lại trước của hầm một giây, nhìn ra ngoài trời :
- Khiếp thật. Đúng là cơn đằng tây mưa giây gió giật.
Tiểu đoàn trưởng nói.
- Vâng.
An gật đầu.
- Giờ là lúc chúng ta có thể yên tâm ngủ. Ít nhất cũng được
đêm nay.
Nhã nói tiếp.
- Vâng, chiến tranh mà. Sống ngày nào hay ngày ấy.
An hoạ theo.
Rồi hai người vào hầm.
Khi đã chui vào màn, An lắng nghe tiếng mưa tuôn như thác
xối ngoài trời, thầm nói :
― Ngày mai, không dấu vết nào còn lại trên bờ suối. Có một
trăm thứ kính hiển vi cũng không tìm nổi vân tay kẻ sát nhân. Sư trưởng ơi, chớ
thù oán tôi mà tội nghiệp. Ông đã trót là người nắm quyền trong bộ máy này.
Quyền càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Vinh càng dầy thì nhục càng đậm. Xưa nay
sự thế vẫn xảy ra như vậy. Ông hãy ngủ yên nơi chín suối với những người thân
thuộc của tôi.„
Anh thở dài. Rồi tức khắc chìm vào giấc ngủ.
***
Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.
Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương
lai.
Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng
chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng
nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không
phải đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi
đi, trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...
Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ
sáng hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt
anh cho lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.
Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm
tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón :
- Ngủ kĩ vậy ? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm.
Tưởng cậu phải nhớ giờ mà dậy ?
- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức
dậy hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ
cũng nguy hiểm. Sao ? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa ?
- Không thấy gì hết...nhưng...
- Có chuyện gì vậy ?
- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những
thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải :
Hoặc là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do
hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng
sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội
trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.
- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng
hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn
bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở
nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông
thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.
- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng,
cùng là dân miền núi.
An cất tiếng cười :
- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng
ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng
biết gì về đám dân sơn cước.
- Ồ ....thành thực mà nói...
Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc
mỗi khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến.
Theo sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất
thảy xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu
đoàn trưởng Nhã :
- Trước hết, tôi muốn xem người ta tìm thấy những gì trên bờ
suối. Bởi, tôi không tin Mã Lỳ rủ sư trưởng xuống suối tắm, nhất là lúc trời đã
tối đen và nước đã trở lạnh. Nói thẳng thừng, người Mèo không thích tắm. Họ có
thói quen tắm lửa, nhất là những ai đã lâu ngày hút thuốc phiện. Đồng chí biết
thuốc phiện đã từng được coi như cơm trắng trong vương quốc người Mèo ?
- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông
Hồng. Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân
tộc đầu tiên tôi quen biết.
- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng
cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì
từng thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những
chuyến hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng
như các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để
đổi lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành
nghiện thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào,
những người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe
hoặc đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để
hơi nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại
thành viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.
- Trời đất ơi, thật thế à ?
Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.
An quay sang nhìn ông ta :
- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện ? Hoặc là tôi phân biệt sắc
tộc nên nói xấu người Mèo ?
- Ồ không...
Sư phó gạt đi :
- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu
lầm. Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.
An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động
trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ
nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.
Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó :
- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả
thuyết là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu
vết ?...
- Yên tâm...Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ
đợi kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.
- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.
Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước
tiên.
An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc
màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc
chiến tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn
nhiều đám dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất
mau vì mưa nắng Trường sơn.
Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng
túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm.
Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính
sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh
giới bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm
nhiệm giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.
An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn
cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống
giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước
rồi dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên
hai phần ba than đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước
rồi mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật
lửa, bấm móng tay....biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn
nguyên vị trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn
cát. Ồ, cơn mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ
cao tay đã biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.
- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.
An bất giác thốt lên tiếng kêu :
- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.
- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...
Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp :
- Mùa mưa năm trước, con suối này cuốn đi cả một cặp nai.
Lính sư đoàn 89 đóng quân ở mạn dưới nhìn thấy hai con vật còn giãy giụa giữa
dòng liền đem súng ra bắn rồi quăng dây kéo vào làm thịt. Kéo được hai con nai
vào thì một cậu lại bị rớt xuống và lũ cuốn phăng đi không kịp cất tiếng kêu.
- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ ?
- Nhớ làm sao được ? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ
lãnh đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy ?
Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm :
- Khổ thay ! Miếng ăn đổi lấy mạng người.
An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ :
« Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây,
hẳn ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia. »
Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã.
Họ là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có
phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và
dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao
người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu
không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh
dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu
lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông
báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ
đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp
miền biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và
vào buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối.
Hẳn không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì
xảy ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.
Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát chờ
đợi, ông lên tiếng giục An :
- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa ?
- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.
An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông
đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất
thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở
hết cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy :
- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi
trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ ? Lính đang mê mải xem văn công, các
ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.
- Kê giao là cái gì nhỉ ?
- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai
biết cái trò ấy ?
- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không ?
- Lửa với than ! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là
lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít ?
- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao ? Giờ tao mới
biết...
- Bố sư thằng hề đểu.
- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười ?
Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng
sặc,ha hả....Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười
rặn ra từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.
An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn
chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm.
Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống
tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người
khác.
An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng :
- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng
đừng. Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.
- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không
muốn nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này ?
- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng
chí.
- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em ?
- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.
- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải
thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải
tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là
một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước
nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.
- Vâng.
Nhã đáp.
Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát :
« Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều
cái chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng,
những cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết
bò đến như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể
phòng ngừa và chống đỡ. »
Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.
Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ
đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời
giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.
- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo...Tôi đã cùng tiểu
đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng
và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ
tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội
xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu
ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán
dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có
phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi
vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng
bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời
gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...
Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm
lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố :
- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi
đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm
giải quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự
của mỗi người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau
đó, dư luận sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể
báo cáo lên cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án
binh theo thông lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển
công văn đi lại cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi
tuyệt đối, giao liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ...Vả lại,
chỉ đêm nay mưa rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật
còn sót lại trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia
đình những người mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số
mệnh của sư trưởng và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao ?...Chúng ta hy vọng
rằng họ có thể còn tồn tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết
rõ.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó
không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không
mảnh vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó ?
- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm
suối là gì ? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.
- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.
- Trí nhớ ông ngắn thế ? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên ?
- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì ? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu
tuổi già ?
- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư
trưởng còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu
như rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn
bốn tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu ?
- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ
sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu
vọng từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.
Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự :
- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu
thời gian ?
Anh trợ lý đáp :
- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực
thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân
đến sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi
dọc suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm
thước, núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách
duy nhất là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày
đường, đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim
kêu mà các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang
núi sau cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường
chim bay cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường
dài như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và
truyền tin riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi
bầy.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn
toàn có lý.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay
sang hỏi sư đoàn phó :
- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay
không ?
Sư đoàn phó lắc đầu :
- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy.
Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng
cũng còn không nổi huống chi trường hợp này ?
- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc ?
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.
- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào.
Đất Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng
chí quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao ?
Sư đoàn phó đáp lời.
- A...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi
ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.
Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng
quơ :
- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay
không ? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta
chẳng còn ân hận nữa.
Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã :
- Đồng chí nằm mơ hả ?
Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn Hai đã quay sang đập vào vai ông :
- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển ? Từ giờ
đến chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông
Thắng dính bãi mìn, có đúng không ? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim
dọn sạch.
An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc
hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ
dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới
quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát
người lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có
phần kém khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu
của tiểu đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc
nói cách khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ
hành động hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ
quan quân đội.
Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng :
- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này
xảy ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh
nghiệm để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta
chịu trách nhiệm tập thể.
Lại im lặng.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như
cầu cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong
ngõ cụt. Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa
về hướng ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm
thuốc, bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm
thuốc cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên
vớ lấy nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.
Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn
đứng dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm.
Ai cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra.
Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như
hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay :
- Tôi có ý kiến.
― A, cóc mở miệng rồi đây.
An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn
vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời :
- Chúng tôi nghe đây.
- Tôi nghĩ rằng...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng
lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng
là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người
đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu,
ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như : ― Chúng ta nghỉ, ăn cơm, hoặc : Đi
thôi, đến giờ rồi...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không
dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân
công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự
coi như chịu kỉ luật : Tù mồm.
Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ
đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước.
Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng : người
Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh
ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai
kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta
có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai
tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa
cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển
vào. Bây giờ, tôi giả định....
Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào
những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi.
An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra
phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư
đoàn phó :
- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ
với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước
ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu
ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán
thù thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng
về phía ngoại mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng
quân đội của chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với
Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An
cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ
leo núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu
quen khí hậu băng giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt.
Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là
những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có
nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân
đội chúng ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế
hầu hết những con đường độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của
chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt
trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các
đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội
trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào
quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả
thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự
ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được
ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi
cho rằng người Mèo này đã gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới
người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ
lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết
nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành
động. Các đồng chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta
rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ
vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí
tuỳ thân.
Mọi người ồ lên tán thưởng :
- Đúng rồi!
- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được ?
- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói
không ngoa : Một khi cóc đã mở mồm.
Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi
gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng
họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba
giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó
vươn qua mặt bàn, vỗ vai ông và nói :
- Tuyệt vời!
An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói :
― Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng , chính mày mới được
liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố :
Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy.
Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng
câu hát Con gà rừng :
« Con gà rừng;
Sao mày ăn lộn với lũ công,
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?... »
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(3)
Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống
giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh
lên :
- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy ?
- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở
lại.
- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.
- Tôi đắng lưỡi.
- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải
ăn no mới được uống.
« Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện
cho mọi người. »
Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên :
- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa ?
- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng.
Lại có canh mà ngụp lặn.
- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ ?
An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi
sau anh, đáp thủng thẳng :
- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó
hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.
- Ra thế...
An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp
:
- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa ?...
- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố ? Nhưng lính tráng nghe lỏm
cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn,
rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.
- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu ?
- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè
xem xong lại có người thiệt mạng.
- Cậu có tin ở số phận hay không ?
- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người
đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu ? Chính đạn tự chọn
đích mà bay đến. ? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào
người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian ?
- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa
thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.
- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận
mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc
vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta
đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.
- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử
vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy ?
- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt
tôi.
Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt
nhìn bốn xung quanh. An bảo :
- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu.
Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được
từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp
lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.
- Vâng.
Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng :
- Anh biết không , tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy.
Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.
- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một
nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi
biết thôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.
Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ
rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền
hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám
sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội
phó nhìn những cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và
buột miệng thở dài :
- Tôi nhớ nhà quá ...
An lặng im, chờ đợi.
Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp :
- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông.
Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi
chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả
tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.
- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh :
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.
- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà,
hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta
vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.
- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi
ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời
mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ
xong rồi.
- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không ?
- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân
kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi
khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt
là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.
Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi :
- Bao giờ chiến tranh kết thúc ?
An hỏi lại :
- Bao giờ ?
Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời
khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi :
- Anh có nhớ thằng Toàn híp không ?
- Sao không ? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương
nó mục chưa nhỉ ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì ? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt,
sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe.
Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.
An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta
mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như
đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy
họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc
mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng
người đồng đội, anh nói :
- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.
Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc :
― Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn
phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của
kiếp sống.„
Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại,
lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm
chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ,
thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi :
- Họ làm gì bên kia thế ?
Đại đội phó xì mũi và đáp :
- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.
- Sao chúng nó không ra suối ? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn
nước suối giờ này đã ấm lên rồi.
- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối ? Sáng nay lính đổ ra
đông nghịt để ngó nghiêng.
- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả
chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ
đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu ?
- Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ
đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người
Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi
cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là
oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác . Bởi khi
dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu
thai trở lại kiếp người.
- À, ra thế.
An đáp.
Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh :
« Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.
Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một
kẻ thù chung cần đổi mạng.
Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ
lâu rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn.
Anh đứng lên, nói :
- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không ?
Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng :
- Tôi ?...Tôi vừa tắm chiều qua.
An cười bảo :
- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu
không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình
thường của lính ? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo
teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh
mông bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.
- Vâng.
- Đi theo tôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như
một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở
đó, An cất cao giọng hỏi :
- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam ?
- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.
- Chờ đấy.
An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng
nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa
ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá :
― Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào
sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có
thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này.
Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay
hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười
với chính số mệnh cay nghiệt của mình.
* * *
Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang.
Một người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:
― Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa ? Tổ chức cách
mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của
chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị
Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin
ấy.
An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin
tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng
tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài
không tắt.
Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng :
- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn
Thành nữa mà là Chí văn Thành.
- Tại sao ?
Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi .
- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ
có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo.
Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.
- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân
công đóng trước doanh trại chúng ta ?
- Vâng. Chính xác như vậy.
- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ ? Không
dưng, ai làm như vậy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý
do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi,
phận con cháu không được quyền vặn hỏi.
Anh tủm tỉm cười đáp lại.
Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp :
- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo
địa phương.
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(4)
Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm
cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông thay vào đó chữ Chí. Thế là xong.
Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có nhu
cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi
anh lại là người dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của
cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì. Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào
cũng biết nguyên tắc này : Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu
số được quyền hưởng sự ưu đãi.
― Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu!
Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng
chiến cùng với cái tên Chí văn Thành. Dường như cái tên mới này cũng đem lại
nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai hiểu
nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng
cái may lớn nhất là qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy
xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy biết nàng đã rời bản Xíu về sống
ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh về nàng
thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một
đứa con ? Anh cũng không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như
những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng
nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em nhỏ. Ông
Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi
mới quay về bản cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi
bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy, chẳng người đàn ông nào còn có thể
bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng cưa chiếm
gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa
được ngăn thành ba gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập
sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn
An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi
đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa.
Trước cửa buồng của đứa bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng
Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa cho nó bú. Hoạ hoằn, cả
hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ...Thật kì lạ,
tiếng chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được.
Tiếng chuông giống một thứ âm nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong
tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc, giương đôi mắt tròn
xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến
se bằng sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên
bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng
giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh cũng còn nhớ
như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao
cho nhừ nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để
lấy nước rồi cho vào bình. Anh cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc,
rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò, chỉ thuần trâu.
Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ,
anh một bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là
cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi. Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu.
Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên, anh cưới
Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà
chẳng ai thắc mắc chuyện họ không có con...Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn
tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng thời ấy chuyện hiếm muộn con
không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng Nhỏ
sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba
cảm thấy đầy đủ nên Nàng Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô
sinh như láng giềng khuyên.
Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh
thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng
ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm chặt lấy
anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà
nội. Còn anh ? Số phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà
đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây số, đạp xe không quá một giờ. Đối
với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.
Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy
không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao
người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy ? Tuy phía trên
là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu
sao, nó vẫn chỉ là một gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người
dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là hoàng hậu. Liệu có bà hoàng
hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân ? Hay vì chúng ta là dân Tày ? Một
bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc
chính thống ?
Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà
đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong
tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong điều gì
hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong
ngôi nhà sàn rộng rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một
gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở của những người ở đô thành...
Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ :
- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không ?
- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị
như những người bình thường.
- Vậy là em hài lòng, đúng không ?...
- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.
- Chủ tịch có yêu em không ?
- Có chứ.
Nàng Nhỏ kêu to :
- Chủ tịch rất yêu em....
Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng :
- Chủ tịch là người chồng rất tốt.
Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi :
- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc
thật sự hay không ?
- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc.
Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là bạn gối chăn đắc lực.
- Sao em biết ?
- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng
dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ
tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.
- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.
Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng
anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá lẫn các bậc lương đống triều đình để
quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân người Kinh được
ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ,
cho dù họ mắt híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt
con hầu.
Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi
nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với
tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn tình.
Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu.
Họ không còn phải ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn
nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người đều thấy tâm hồn phơi phới
như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ
thật sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề
mãn nguyện.
An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có
thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật. Sau bữa cơm chiều, phải tính cho
đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định là
chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào
dinh nhưng thi thoảng và thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ
tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên cho đứa con gái. Một
cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức : Nghĩa.
Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình :
- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng
ngắc như vậy ? Trung đội của tôi có đến ba cậu tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa;
Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa ...
- Ồ, xin anh đừng giận.
Nàng Nhỏ tươi cười can gián :
- Con của chủ tịch mà.
Và vợ anh cũng tiếp lời :
- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.
An im lặng.
Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính
anh tìm :
- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ
nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.
- Ba ...ba...
Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con
bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ
như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.
Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc
vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các
phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn đường chạy
qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm
nhìn một toà thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn
ông sống trong đó, phía sau những hàng rào đầy lính canh, sau những bức tường
và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng gặp mặt,
chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi
cuộc bàn cãi, trò chuyện, mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh,
vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng là con người đích thực:
― Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi
trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ ? Dầu ông là người có quyền lực
cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy
người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải
rót rượu cho tôi trước.
Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày.
***
Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con
người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con
bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai. Trước hết,
Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm
được. Sau đó, nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi
người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng xóm đã bảo :
- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc ...Trẻ bú
sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi. Tại sao chẳng ai biết chuyện này ?
- Ồ....Chẳng ai biết thật.
Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự
tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan,
chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình thun thút.
Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn
hơi mẹ đẻ. Người ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn
lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra ban công ngong ngóng chờ dượng
Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn. Nhiều khi nó
giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe
đạp Vĩnh Cửu đen xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc
của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa
hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ,
gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì
tưởng như đang còn ở bản Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và
nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi cũng cười nụ cười im lặng và
rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu
thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc
sống êm đềm của họ tiếp diễn cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào
năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh vừa bước chân vào nhà,
Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ
long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin :
- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.
- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.
Anh đáp.
Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo :
- Anh nói thật tức cười.
- Sao ? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức
cười ?
- Không sai trái cũng không lầm lẫn.
Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:
- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa
con trai là vô cùng quan trọng với người làm cha.
- À...Anh hiểu.
Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông :
- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ
trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ
chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.
- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không ?
- Không....Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên
bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ là việc của em.
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(5)
An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ
đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi
anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu hỏi câm lặng.
Một bài toán không có lời giải đáp...Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác
đã chỉ dẫn những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài
ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái
tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi người...Ngày hôm
sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng
lại trước phủ chủ tịch xem...mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan
lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra
hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng rồi nói :
- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi
khác mà chơi.
- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí ? Chỉ do trẻ nó đòi
thôi.
Lúc ấy, chính đứa bé cất lời :
- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...
Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm
lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã trở nên âm u. Anh nhìn vào
toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa :
« Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con
ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn vào với đôi mắt thèm khát ? Có ích gì
cuộc tình éo le này ? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị vua già,
nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu
thiếu cảnh ấm êm ? Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật
hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một
gian ? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn
không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng
ở đây cuộc sống tiện lợi và văn minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người
cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai lầm ?»
Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã
tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan phụ trách nhóm lính. Anh ta buông
từng lời một cách khô khan :
- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa
trẻ đi nơi khác.
Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu :
- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà
rồi mua cho con quả bóng. Con nghe rõ chưa ?
Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng , hẳn anh
chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách bực tức. Trong thâm tâm, An biết
rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi hành
một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao,
con tim anh cũng không ghìm được cơn phẫn nộ :
« Này ông ? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây -
Anh thầm nói với người anh em đồng hao chưa từng gặp mặt - Liệu ông có mường
tượng ra cảnh này ? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà không có
quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi
nhà cha nó đang là chủ nhân ? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm,
ngài chủ tịch ? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để hiểu sự tình. Nhưng mai
đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ
vô tâm buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình ? Cái dinh thự nguy nga
kia liệu không có nổi một gian phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ
thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ của chúng tôi ăn ở chen
chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân ? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên
nàng buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình ? Cái triều đình thường ban bố các
loại chiếu chỉ : Ưu đãi người thiểu số ! »
Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm
hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong
óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không nhận ra rằng
anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình
ảnh những dinh thự nguy nga, vườn bên phải ,vườn bên trái, sân trước sân sau
của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh lại tiếp tục đạp theo đường Phan
đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ nhân
của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong
tâm hồn anh.
« Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ
chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp. »
Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng
ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên
tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo nghễ.
Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà
không có cách nào thoát ra được. Anh thương con bé Mùi ? Anh thương Nàng Nhỏ ?
Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc cờ số phận ? Mãi đến bữa cơm
tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh
mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.
Nàng Đông bảo :
- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không
còn phải mang cơm vào viện.
- Sức khoẻ của nó có tốt không ?
- Của ai ? Nàng Nhỏ hay thằng bé ?
- Nàng Nhỏ.
Vợ anh cười :
- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh
nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.
Anh bật cười theo :
- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành
làm ngược lại. Em không thích như thế hay sao ?
- Em thích.
Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh
phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là
tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu thơ dại
kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng
cạn. Anh lại là người phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá
tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn sách ở huyện đã đem lại cho
anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó
giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần,
vợ anh nói :
- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.
Và anh đáp lại rằng :
- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ
sẵn.
Nàng Đông vặn hỏi :
- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày ?
Anh bảo :
- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ
anh. Số kiếp đã định như thế.
- Chao ôi !...
Vợ anh kêu lên :
- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.
Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An
chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ,
anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa con trai của
Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay
cả những khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được
từ ông thầy dạy sử, người anh chịu ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở
huyện Thất Khê.
« Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn ;
bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát,
ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống. »
Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ
đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian không chạm được đến họ, ngược lại ,
năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí hơn. Đã
nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như
nhìn những nữ thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa
ban ngày cũng không thể tìm được một thứ nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An
hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh ; nơi
không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ
pha-lê vào những ngày tạnh sương mù hay mưa núi ; nơi những rừng hoa mận nở
trắng xoá lúc sang xuân ; nơi những thác hoa kim ngân tuôn chảy triền miên dọc
theo các dòng suối mùa hè ; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn ; nơi
quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt
phấn hoa ; nơi khe, suối trong veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da
thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc thang...Những mỹ nhân của bản
Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi
thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại
gia cầm gia súc đất nhà. Da họ mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê,
cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng cần son môi họ cũng
đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn
biết bao lạc thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ,
dân bản sống theo kiểu người cùng một đại gia đình, không có chuyện tranh cướp
tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc vô số
những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như
thế, anh cũng hiểu vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào
đứng vững nổi trước những người đàn bà mà cùng một lần, nhan sắc của họ giống
như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn một tổ
ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não
cũng như tâm cơ. Dù Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết
anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ thành trì đó, cần có trí thông
minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh
giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh ?Hoặc là ỷ thế
làm vua, thay vì trân trọng một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình
quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị ?
Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh
không muốn làm phiền muộn hai người đàn bà, những người anh yêu quý hơn chính
bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc chuyện trò
rối rít niềm vui và hy vọng của họ :
- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ ?
- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới
đón em lúc chín giờ.
- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa ?
- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản
thôi : Vì đã có đủ con trai lẫn con gái, chúng ta cần được chính thức hoá trước
pháp luật.
- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm
lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú lúc tám giờ.
Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ
mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt
cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan cuộc,
hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây
thành phố. Con bé nằm lăn ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh
trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng của Nàng Nhỏ với người
cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc
nàng đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên
không để tâm đến sự im lặng bất thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn
trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm đến ngoại
cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó.
Nhưng ngoài mọi lý lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả
cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua nặng nề. Dù ở trong lớp
huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang
sống trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong
mây. Vì sao ? Anh không hiểu. Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi
quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về lại thị trấn Thất
Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng
đứng giữa bầy vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông
thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh thường đến ngồi đóng gói chè giúp
đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính sử ,
của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt
truyện đến thuộc làu làu. Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn
cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào đó giăng mắc xung quanh
như tấm lưới nhện khổng lồ.
Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi
ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá.
Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng chỗ tẹt như
khúc dồi lợn luộc vụng :
- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải
thay săm mới thôi.
- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được
phân phối săm lốp.
- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào
nữa, bảo đảm là như vậy.
Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc
xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được
ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh mượn xe với
điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ
một hồi, An kéo được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời
gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì
thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con
bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới
muộn. Anh thầm nghĩ rồi dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào
hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở trong sân, anh nhận ra con
bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm.
Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn
bồng con bé lên nhà, nhưng bà già hàng xóm đã bảo :
- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như
vậy...
Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp :
« Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi
vào giờ này ?.. »
Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại
chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ
mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười :
- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải
không ? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm. Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ
săm.
- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao ?
Vợ anh hỏi.
- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân
phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay,
các em cho anh ăn món gì vậy ?
An chuyển chủ đề.
Nàng Đông tiếp lời anh :
- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép
của người Kinh.
- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.
- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê
quê mình vì họ cho thêm vào nước dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng
nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí mật nhà nghề. Nếu anh
muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra công
thức.
- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có
tiếng.
Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và
kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh biết rằng không thể nào tiếp tục vờ
vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại những
mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là
người trước tiên đề cập đến sự thật :
- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.
Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng :
- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý
nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được
đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến của chủ tịch
không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.
- Vì lý do gì ?
- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn
rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc thôi. Vì....Vì....đấy là nghị quyết
của bộ chính trị.
- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ ? Hay chính
chủ tịch muốn tuân phục họ ?
Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và
Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn muốn đi đến tận cùng sự việc . Anh hỏi
Nàng Nhỏ :
- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó ?
- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.
- Ông ấy giải thích ra sao ?
- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải
phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp này tất cả bộ chính trị đều quyết
định như vậy.
- Ông ấy còn nói gì nữa ?
- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt
thòi....rằng chúng ta phải kiên trì sống trong bóng tối một thời gian nữa chờ
thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.
- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao ?
- Em không nhớ. vì em cúi xuống lau nước mắt.
- Ông ấy cười hay ông ấy khóc ?
- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng : Họ thật
thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta.
- Chúng ta ở đây bao gồm những ai ?
Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn
nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả lời mình :
- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói
một cách thông thường bốn nhân mạng trong một gia đình. Nếu là một gia đình
bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.
Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong
trí não anh :
― Nhưng rủi ro thay còn một thứ ― chúng ta khác. Chúng ta
này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ anh và em, ba nhân mạng liên quan
tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên quan
này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ
trêu là mọi quyết định liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng
ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ
là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta.
Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết
làm gì bây giờ ? Anh biết làm gì để cứu vãn tình thế, để che chắn những người
thân yêu của mình trước cơn gió dữ ? Anh, người đàn ông duy nhất trong cái gia
đình bé nhỏ này ? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây ? An cảm thấy nghẹt thở,
anh vùng đứng dậy đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất
tiếng :
- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa
hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị. Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các
triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý phi. Nhất là khi vua
già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống
quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng
mê đắm Dương quý phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm
cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh
của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu sống xa hoa trên lụa là châu báu.
Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng. Lâu đài của
Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc.
Đến chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn
cung phi Đặng thị Huệ ở xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng
bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao che cho đứa em trai hung tàn bạo
ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của lương dân ở đấy.
Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn
giữa đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê...Kẻ nào trái ý chém chết
ngay tức khắc. Sự hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung
thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ. Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng
trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một võ quan đã chém
chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả
ba trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược.
Chúng ta sống nơi đây như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn
ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con
của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương y triều đình
cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi
đứa trẻ con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng
có một chút lợi quyền nào. Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay
quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với chúng ta như vậy ?
Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt
khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh, trừ phi có một ông Trời và một
khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao giờ
nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ
cúng luôn luôn chỉ là những làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và
dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện gần gũi nhất mà anh có
thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?
- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay
không ?...
An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập
hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên
trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà :
- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống
của em, và cuộc sống của những đứa con em.
- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải
sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi
những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.
- Khi những đứa trẻ lớn lên ?...
Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:
― Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta
phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống một cách chính thức với thiên hạ hay
sao ? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta ! Chua chát thay cho thân phận những
đứa con của một vị vua già ! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay
không cũng liên đới với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt. „
Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén :
- Này em, em có thật sự yêu ông ta không ?
Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác :
- Anh hỏi gì ?
- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta
chỉ vì ông ta là chủ tịch nước ?
- Em yêu chủ tịch....Em yêu...
Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn.
Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi :
- Anh làm sao vậy ? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải
không ?
- Ồ không.
An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô
anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em anh có một số phận khác. Nhưng sợi
dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già mà
nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ
nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta
quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng tốt, dù chỉ làm chồng
trong những khoảnh khắc bị cắt rời.
― Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái ? „
Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già
chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi; rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ
siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông trẻ
trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử
chỉ âu yếm đường mật mà người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung
cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây. Cái sức mạnh đó không giống
sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm
chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó
vô hình vô dạng nhưng anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn
lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở trên các triền núi. Cái sức mạnh
ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối ấm
áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang
bập bùng ánh lửa và chen chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn,
những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn bánh trái và hoa quả. Thím anh
rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản,
già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh
một sân khấu mà diễn viên duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu
học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền thoại của người
miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy
trường huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt
nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che
giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng khắp vùng,
người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản
xuất từ ngôi nhà sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi
phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm...Chính với tiền bán những lạng cao ấy ông
đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo Trương
Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả
trận Bạch Đằng với tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục
của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông viết thạo.Và sự thần phục ấy lia
sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là
nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu
học sinh trung cấp và chân trời xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ
với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh, An hiểu rằng những
gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con
người lão luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng
Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn
hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.
― Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng
ấy ? Đấy là sự rồ dại. „
An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng
nói khác dội lại như đáp lời :
― Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao
ông vẫn bước chân vào gia đình này sau tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai
nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là những người
chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua
già .
Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng
Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa. Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm
tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm được triệu
hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến
tận non trưa. Khi tỉnh giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con
xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba
mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh
hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện
lên rõ nét. Chẳng một cảm giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã
biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô cảm. Anh chìm đắm
trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ
làn thức ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng
thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh
một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của mình. An gục mặt
vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của
tình yêu khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh
bật khóc. Khóc nức nở như một người đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo.
Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(6)
Thứ bẩy tuần sau đó, An sẽ không còn thời gian để khóc.
Khi anh đạp xe tới nơi, ba người lính mặc thường phục nhìn
anh với những con mắt âm u như mắt loài quỷ dơi chuyên sống trong các hang sâu,
trước hết, cái nhìn của Nông Tài, gã người Tày duy nhất trong nhóm cận vệ.
Dường như trong cái nhìn của gã, ẩn chứa một tiếng thét hãi hùng câm lặng, một
hồi còi báo động, một nỗi sợ hãi bị bóp nghẹn. An đưa mắt nhìn lại Nông Tài,
gật đầu chào rồi tiến vào hành lang. Những cái nhìn tối tăm của đám cận vệ đuổi
theo anh, như rót xuống lưng anh một thứ chì nung lỏng. Nhưng con tim anh không
còn đập dập dồn như lần trước. Một tuần lễ đủ cho anh suy ngẫm và dự phóng mọi
tai ương có thể xảy đến với gia đình mình. Kho tàng lịch sử tàng trữ trong trí
nhớ giúp anh chuẩn bị. Khi bước vào nhà, An khép chặt hai cánh cửa sau lưng và
không ngạc nhiên khi thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc. Họ chỉ có thể khóc
thôi, họ còn biết làm gì hơn vào lúc này?... Nhưng tiếng khóc của họ không còn
dừng ở mức độ phiền não mà là tiếng khóc của sự kinh sợ và căm uất. Không còn là
sự buồn thương cho số phận mà tiếng than ai oán của kẻ bị dày xéo, bị hà hiếp,
sống trong cơn kinh hãi trước cái chết đang từ từ tiến đến như một cỗ xe tăng
sẽ nghiền nát họ nay mai. An bước tới, không chờ những người đàn bà lên tiếng
đã nhìn thấy ngay gương mặt sưng tím vết đòn của Nàng Nhỏ. Anh ngồi xuống, cầm
lấy hai cánh tay nàng, vén áo lên để xem những vết cào xước, những vết máu tụ
xanh và dấu vết các lằn trói chưa đủ thời gian tẩy xoá.
- Kẻ nào đã dùng nhục hình với em ?
- Quốc Tuỳ.
- Bộ trưởng bộ nội vụ. Cái thằng cha đã đón đường em hồi còn
ở trên chiến khu Việt Bắc ?
Nàng Nhỏ gật đầu.
An quay sang hỏi vợ :
- Lúc ấy em ở đâu ?
- Em ở dưới sân với lũ nhỏ và bà già hàng xóm...Vừa bước
chân vào nhà là ông ta đã đuổi em xuống sân. Em không thể chống lại vì ông ta
rút súng ra doạ nếu kêu to ông ta sẽ bắn vỡ sọ.
- Em có kêu , tiếng kêu ấy cũng chỉ có bà già hàng xóm và ba
cậu lính gác nghe thấy mà thôi. Không phải vô cớ mà chúng nó bố trí cho các em
ở ngôi nhà này. Thằng khốn nạn ấy đến đây hôm nào ?
- Nó đến đây liên tục từ thứ hai cho đến hôm nay, thứ bảy.
Lần nào cũng vào khoảng ba giờ chiều. Lần nào cũng bắt lính gác lui ra ngoài
phố, chặn đứng ngoài hành lang không cho ai bước chân vào. Lần nào nó cũng đánh
và trói em của chúng ta.
Tới đó, vợ anh bật gào lên :
- Tủi nhục quá anh ơi.
An nhếch mép mỉm cười. Nụ cười đối diện với số phận. Anh
không có quyền khóc nữa. Chắc là vì dự cảm mà tuần lễ trước con tim anh đã tan
ra trong những dòng nước mắt. Anh phải khóc một lần cho cả kiếp sống của anh.
Cầm hai cánh tay nõn nà của Nàng Nhỏ, anh hỏi :
- Nó đã nói những gì với em, thằng chó đểu người Kinh này ?
- Nó bảo rằng nó đã để mắt đến em từ hồi trên chiến khu, khi
gặp em lội qua suối. Rằng nếu em khôn ngoan thì phải bằng lòng làm vợ nó từ
ngày ấy. Rằng nó đã thề rằng trước sau nó cũng phải chiếm được em.
- Rồi sao ?
- Rồi em nói rằng tôi là vợ chủ tịch. Chúng tôi đã có đủ mặt
con trai con gái, ông không được hà hiếp tôi. Nó nhe răng cười nói rằng lão già
của mày ở xa lắm, mày kêu lão ấy cũng không nghe thấy, mày gọi lão ấy cũng
không thể trả lời. Ở đây tao là vua. Tao muốn ai người ấy phải chịu . Tao muốn
giết ai kẻ đó phải chết. Giờ đây tao muốn mày nằm dưới bụng tao. Bởi đó là nghị
quyết của bộ chính trị. Bộ chính trị đã quyết định mày phải là vợ tao. Hãy khôn
ngoan lên một chút, tao trẻ hơn lão già của mày nhiều. Nếu cái dùi cui của nó
bằng gỗ thì của tao bằng thép. Nếu nó đưa mày lên tầng trời thứ ba tao sẽ đưa
mày lên tầng trời thứ chín. Nếu nó cho mày hai đứa con, tao sẽ cho mày mười hai
đứa liền tù tì. Khôn ngoan thì câm họng lại và dạng chân ra.
Người đàn bà kể đến đâu, nước mắt nàng tuôn rơi đến đấy.
An nghe những viên sắt nung đỏ lăn trong tim mình. Một đoạn
sử quay trở lại văng vẳng bên tai anh :
« ...Nhà Chúa hèn nên Đặng Phi thông dâm với Ngự đầu quân,
nương dựa vào viên võ quan này để che chở cho đứa em trai ngạo ngược và dâm
đãng là Đặng mậu Lân. »
Anh nghĩ :
« Em ta không tự ý ngủ với Ngự đầu quân mà bị nó hãm hiếp sỉ
nhục và tra tấn.Vậy ông vua già này còn mười lần hèn hơn Chúa Trịnh ngày xưa.
Cơ đồ không còn cứu vãn được. Nếu ta không cao chạy xa bay toàn bộ gia đình ta
sẽ biến thành những con ma không đầu lang thang muôn kiếp trong bóng tối. Nỗi
oan khiên đau đớn của em ta sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong câm lặng. Và lãng quên.
Một kiếp hồng nhan dạt qua cõi đời như xác vờ bập bềnh trên sóng nước. Em ta
chẳng có tội tình gì. Từ nhỏ tới lớn nó chưa nỡ nói một lời phạm tổn đến ai.
Tâm hồn nó trẻ thơ và trong trắng. Lòng tốt của nó đong đầy gấp ba lần đấu của
những người xung quanh. Ta phải tồn tại để cứu gỡ danh dự bị tổn thương của nó.
Ta phải sống để làm nhân chứng cho tội ác ghê tởm này. »
Ông thầy huyện Thất Khê đã dậy anh rằng nghề viết sử là nghề
của những bậc anh hùng, dám đem mạng mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi thứ vua chúa
đều kinh sợ sự thật và muốn những người viết sử phải uốn ngọn bút lông theo ý
mình. Biết bao nhiêu cái đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ
triều đình, nhưng lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của
họ.
« Vậy ta buộc phải trở thành người viết sử. Không phải người
viết sử quốc gia nhưng là kẻ chép lại cuộc đời những người thân thiết của riêng
ta. »
Anh ôm chặt cả hai người đàn bà một lúc, nhìn họ một lần
cuối như để vĩnh viễn ghi khắc những hình ảnh đó trong con tim lẫn óc não mình.
Rồi, anh hỏi vợ :
- Em còn mấy chiếc nhẫn ?
- Em còn đủ năm chiếc.
- Em hãy giữ lấy chiếc nhỏ nhất mà anh đánh cho em hồi mình
cưới nhau. Còn lại, đưa cả cho anh. Tiền mặt, chắc không có nhiều, nhưng cũng
phải cho anh một món để tiêu dọc đường.
- Không, nhà mình còn khá nhiều tiền mặt tích trữ từ năm
ngoái. Để em đưa cả cho anh.
- Bao nhiêu ?
- Khoảng chừng năm mươi vạn.
- Anh chỉ cần một nửa thôi. Em giữ một nửa để đi chợ.
Vợ anh vào buồng. Anh nhìn theo tấm lưng thon thả của nàng
và nghĩ :
« Em sẽ chẳng còn dịp đi chợ, chẳng còn dịp nấu phở chua
theo kiểu Lạng Sơn, người vợ yêu dấu của anh. Cuộc sống của chúng ta bị cắt
ngang như thân cây lúa ngày mùa. Chao ôi, cái ngày Nàng Nhỏ được tiến vua chính
là ngày tai hoạ cho gia đình chúng ta lẫn dân bản Xíu. Và cái việc đổi họ Nông
sang họ Chí chính là việc ngu xuẩn nhất trên trần gian.»
Nàng Đông quay ra với xấp tiền giấy trên tay. Tay kia, nàng
cầm một chiếc túi nhỏ như cái mề gà. Đặt xấp tiền lên bàn, nàng mở túi rút ra
một sợi dây dài xâu bốn chiếc nhẫn, loại nhẫn gộc không mặt đá cũng không trang
trí mà những người buôn bán đường xa thường mang theo :
- Anh phải cất vàng vào túi quần đùi ; cái túi em máy thêm
phía trong cạp.
- Anh hiểu rồi.
- Tiền giấy anh chia ra thành nhiều món xếp trong cả túi
quần lẫn túi áo, lỡ mất món nọ còn có món kia.
- Anh hiểu.
- Còn lọ dầu xoa chống cảm lẫn thuốc chống đau bụng viên,
anh cũng phải cầm theo. Ngoài ra còn đèn pin, bật lửa, dao đi rừng, túi thuốc
lá, cao chống rắn độc. Đủ hết chưa ?
- Có đủ trong túi dết.
- Để em xem lại cái túi dết của anh.
- Không thiếu gì hết.
An đáp và thầm nghĩ :
« Có cái thiếu trầm trọng nhất là thiếu em, và Nàng Nhỏ của
chúng ta. Bởi anh không thể đưa các em cùng đi trong cuộc hành trình khốn khổ
này. Nhưng chúng ta sẽ gặp nhau ở cõi khác, vùng đất khác, nơi hẹn hò chung
cuộc của tất thảy chúng sinh. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những người yêu dấu
của anh. Nhưng trước khi gặp các em, anh phải làm chuyện này cho ra lẽ. »
Lần cuối cùng, anh cúi xuống, ghì xiết hai người đàn bà,
ngửi mùi thơm thân thiết từ những mái tóc óng mượt của họ, chà sát mặt anh vào
những gương mặt nõn nà ấy, rồi anh đứng lên :
- Các em đừng bước ra cửa. Đừng đi theo anh. Hôn hai đứa bé
cho anh.
- Anh !...
Cả hai người bật kêu lên. An hạ giọng :
- Đừng khóc. Hãy coi mọi sự như chưa từng xảy ra, chưa hề
xảy ra. Chúng ta không có cách nào hơn...
*
Anh bước xuống cầu thang, không ngoảnh lại một lần nào nữa.
Trong hành lang, An gọi Nông Tài :
- Cậu có sẵn tiền trong túi không ? Cho tôi mượn một vạn ?
Tôi đang định mua mấy món đồ gửi người mang về quê, nhưng chưa chuẩn bị đủ
tiền.
Nông Tài đưa mắt nhìn anh :
- Bao giờ trả ?...
- Tuần sau. À, quên...Hai tuần nữa mới tới kì lương. Đến kì
lương tôi sẽ trả ngay, không chậm một ngày.
- Trong túi tôi chỉ còn đủ tiền mua vài chiếc bánh rán. Tôi
cất tiền ở doanh trại.
- Sắp đến giờ đổi gác rồi còn gì ? Nói với các đồng chí
thông cảm cho về sớm một giờ được không ?
- Được thôi. Chờ tôi hỏi đã.
Hành lang không quá dài để cuộc trao đổi của họ có thể lọt
vào tai hai người cận vệ kia. An hiểu rằng màn kịch chắc chắn sẽ thành công bởi
thông thường, người miền núi vốn không biết nói dối. Chừng ba phút sau đã thấy
Nông Tài quay lại :
- Đi thôi, hai đồng chí đều đồng ý cho tôi về trước. Chúng
ta đến chỗ tôi gửi xe đạp rồi cùng đạp về doanh trại.
- Đồng ý.
Họ cùng đi ra..
Khi Nông Tài lấy được xe đạp, hai người lặng lẽ đạp xe qua
ba con phố. Hoàn toàn tin tưởng rằng không ai rõi theo họ, An dừng lại :
- Tạt vào hè đã.
Nông Tài hiểu ý anh tức khắc, xuống xe. Hai người lên vỉa
hè, đứng dưới bóng một cây xà cừ. An hỏi :
- Hai cậu kia có biết rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ phải chết
không ?
- Không ai dám nói với ai nhưng cả ba chúng tôi đều ngầm
hiểu như vậy. Chúng tôi gác ca chiều. Sự việc xảy ra toàn vào buổi chiều nên
chỉ ba chúng tôi chứng kiến. Tốp kia đổi ca từ mười hai giờ đêm đến trưa hôm
sau, họ không hay biết gì.
- Vậy sao các cậu không bàn nhau trốn đi ? Trốn đi đâu bây
giờ ? Sáng nào cũng điểm quân trước giờ tập thể dục, chiều nào cũng điểm quân
trước lúc lên giường ngủ...Vả chăng, nếu muốn trốn họ cũng không bàn với tôi vì
tôi là người Tày. Còn tôi, tôi cũng không thể bàn với họ, vì họ là dân Kinh. Bộ
trưởng Quốc Tuỳ là người Kinh như họ. Còn Nàng Xuân là người Tày như tôi.
- Liệu họ có ngờ rằng tôi rủ cậu đi trốn không ?
- Không.
- Vì sao ?
- Vì họ cho rằng chúng ta là dân miền núi, những kẻ cả tin
và ngu ngốc không dám hành động liều lĩnh như vậy.
- Tốt. Vì chúng ta là những kẻ ngu ngốc nên có thể chúng ta
sẽ thoát chết...Còn họ vì là dân đồng bằng khôn ngoan nên họ sẽ cầm chắc cái
chết trong tay. Giờ, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải ra ga thôi. Hy vọng
rằng chúng ta sẽ không lỡ tàu với tấm chứng minh thư công an nhân dân của
cậu...
- Nhưng ...còn quần áo với tiền và đồ đạc của tôi ở doanh
trại ?
- Cậu có điên không ? Cởi truồng mà sống còn hơn chết đắp ba
bộ quân phục trong hòm. Đi thôi.
Họ đạp thẳng ra sân ga Hàng Cỏ. Ở đấy, hai người gửi xe vào
bãi rồi mua vé tầu xuôi Vinh. Đúng như An dự đoán, tấm thẻ công an của Nông Tài
được việc. Họ được ưu tiên mua vé tức khắc với lý do « làm nhiệm vụ đặc biệt ».
Vừa kịp bước lên toa tầu nhận chỗ, tàu đã hú còi rời ga. An đặt chiếc túi dết
ra sau lưng rồi ngồi xuống, đưa mắt nhìn phố phường lướt bên ngoài ô cửa :
« Vĩnh biệt mày, thành phố thù nghịch của tao. Cái thành phố
tao từng mơ tưởng bao tháng ngày khi còn ở chiến khu Việt bắc, cái thành phố
tao ngỡ là thiên đường nhưng giờ đây lại hoá thành địa ngục. Chính nơi đây sẽ
là hầm mộ tăm tối chôn vùi vĩnh viễn những người thân thiết của tao. Vĩnh biệt
con quái vật khổng lồ, ghê tởm.»
An nghĩ, khi anh đưa mắt nhìn Hà nội. Lần cuối cùng, chắc
chắn sẽ là lần cuối cùng anh còn thấy nó.
- Anh Thành.
Nông Tài chưa kịp ngồi yên chỗ đã chồm qua mặt bàn, ghé tai
anh thì thầm hỏi:
- Anh Thành, tôi nghĩ rằng.
- Cậu nghĩ gì ?
- Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại đi về phương nam ? Tiến
sâu vào đồng bằng miền Trung, ta sẽ giống con chồn sa xuống ruộng nước; như con
cá lăng bị hất lên đồi. Tại sao chúng ta không quay về Thất khê ? Ở đó, chúng ta
thuộc đường chính cũng như đường tắt, chúng ta biết suối biết rừng. Trốn ở đâu
ta cũng có thể đào cây đào củ hay bẫy thú cầm hơi.
- Đồ ngốc, Thất khê sẽ là nơi đầu tiên họ truy tìm. Chúng ta
không thể chui lủi trong rừng mãn kiếp. Vả chăng, có thoát được lưới quây vượt
sang biên giới cũng sa vào tay lính Tàu. Bọn này sẽ tức khắc dẫn độ chúng ta
trả cho cho nhà nước Việt nam.
- Nhưng ở miền Trung, nơi xa lạ ?
- Chỉ có ở nơi xa lạ mới hòng thoát thân. Từ Vinh lên biên
giới Việt-Lào ngắn hơn nhiều lần từ huyện nhà lên biên giới phía bắc.
- Sao anh biết được ?
- Tôi phải biết để có thể thoát thân...Bằng mọi giá tôi phải
học để hiểu những điều cần thiết trước khi cất bước.
- Nhưng bên kia biên giới là đất của người Lào. Anh đã biết
họ hay chưa ?
- Người Lào và người Tầu giống như con nai với con báo,
chẳng thể so sánh với nhau.
Cuộc đối thoại thầm thì của họ chìm trong tiếng bánh sắt
nghiến trên đường ray. Rồi An bảo :
- Ngủ đi.
- Tôi chưa đến giấc. Vả lại bụng đói khó ngủ.
- Đúng. Không ai ngủ được khi đói bụng. Giờ cậu xuống
căng-tin mua bánh mì. Ăn xong chúng ta sẽ uống thật no nước. No bụng, dễ ngủ.
Bằng mọi giá phải ngủ để lấy sức cho ngày mai.
Nông Tài đứng dậy đi xuống căng-tin ở toa cuối cùng đoàn tầu
mua về hai ổ bánh mì to tướng rắc muối tiêu và hai bi-đông nước. Hai người lặng
lẽ ăn, lặng lẽ uống nước rồi khoanh tay trước bụng, ngủ ngồi. Con tầu dồi lắc
cái đầu của họ như đùa rỡn một quả bóng. Nhưng dẫu sao, sau một hồi chập chờn
họ cũng ngủ được một giấc thật sâu cho đến khi tiếng loa phóng thanh oang oang
báo tin:
- Tàu đã đến sân ga Vinh.. Xin đồng bào kiểm tra lại hành
lý.
An mở choàng mắt. Tàu chạy chầm chậm trước khi dừng lại hẳn.
Ánh đèn lờ mờ đỏ quạch rọi trên đầu một đám đông nhốn nháo, đang chen nhau tìm
kiếm hành lý trên các giá chứa đồ. Hai người ngồi im bởi họ chỉ có vẻn vẹn
chiếc túi dết một quai trong đó chứa tất cả những vật dụng cần thiết cho một
cuộc chạy trốn. Họ xuống sân ga khi trời mù sương. Mới bốn giờ sáng. Những cỗ
xe ngựa sắp hàng dài ngoài cửa sân ga còn các chủ xe ngồi uống trà hoặc rượu
xuông trong dãy quán bán đồ ăn dọc phố. Ở đây, chính khách phải đi tìm chủ xe
để thương lượng giá cả. Người đi lại đông, xe ngựa không đủ chuyên chở. Còn chờ
xe ca của nhà nước thì phải xếp hàng ít nhất mười tiếng mới có thể mua được một
tấm vé. An bảo :
- Chúng ta phải nhanh chân lên.
Anh dẫn Nông Tài dạo một lượt đoạn nhìn vào một ông chủ xe
dáng điệu ngang tàng với hàng râu ghi-đông vểnh :
- Chào bác. Chúng tôi có nhiệm vụ đặc biệt trên biên giới.
Liệu bác có thể giúp hai anh em tôi được chăng ?
- Các anh là ai chứ ?
- Chúng tôi là công an nhân dân và sĩ quan quân đội. Đây là
chứng minh thư của hai anh em tôi.
- Công an nhân dân cũng như sĩ quan quân đội được ưu tiên đi
xe nhà nước. Ba ngày một lượt có chuyến xe lên cửa khẩu. Các đồng chí thuê quán
trọ rồi báo công an địa phương sắp xếp. Sáng ngày kia khắc có chuyến.
- Nhiệm vụ của chúng tôi khẩn cấp. Chúng tôi không thể chờ
được.
- Nhưng các đồng chí cũng không thể thuê xe ngựa của chúng
tôi . Ngựa chạy đường núi giá đắt lắm. Ở đây thông thường chúng tôi chỉ chở
khách về các thị trấn quanh Vinh mà thôi.
- Đắt mấy chúng tôi cũng chịu. Rồi cơ quan sẽ thanh toán
lại.
Chủ xe đưa mắt nhìn họ ngờ vực :
- Một chuyến xe này thông thường chở tám khách.
An cướp lời :
- Chúng tôi trả đủ tám xuất vé và thêm cả tiền hành lý của
tám người. Hy vọng bác ưng thuận.
- Được rồi.... Để tôi xem.
Ông râu vểnh ậm ừ.
An nói tiếp :
- Và chúng tôi trả thêm tiền bồi dưỡng ngựa chạy đường xấu.
Nếu cần đổi ngựa dọc đường chúng tôi cũng sẵn sàng bao. Miễn sao tranh thủ được
thời gian để hoàn thành trách nhiệm vụ đã được giao phó.
- Được.
Tới đó, người chủ xe đứng lên, với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ.
Ông ta rút trong túi ra vài đồng xu lẻ trả cô bán nước chè rồi dẫn hai người ra
xe. An rút tiền trong túi ra đếm rồi tức khắc đưa hai phần ba tổng số tiền sẽ
phải thanh toán cho chủ xe, đoạn nói thêm :
- Còn lại, tôi sẽ trả bác ngay khi nhìn thấy đồn biên phòng
hiện lên trước tầm mắt.
- Đồng chí là người rất hào phóng.Vì thế trời đã đưa đường
dẫn lối cho đồng chí đến gặp tôi. Nói một cách sòng phẳng, con ngựa của tôi là
số một trong đám ngựa chạy xe ở thành phố này. Ngoài nó, chẳng có con nào dám
ngược đường lên biên giới... Bởi tôi là người duy nhất cho ngựa ăn ngô trộn
mật. Những người khác chỉ cho ngựa ăn cỏ quanh năm.
Ông ta dẫn giải với vẻ đầy kiêu hãnh. Rồi khi đã cẩn thận
cho tiền vào túi áo, cẩn thận cài khuy nắp túi, ông ta thượng lên ghế xà-ích,
ra roi. Cỗ xe quay chiều ngược đường lên phía tây.
Sau một lát lắng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp nện trên đường
phố, An thò cổ ra quan sát :
- Vinh không lớn hơn thị trấn Thất Khê là bao. Nhưng kiểu
nhà ở đây hơi khác. Vì sao đâu đâu cũng nhìn thấy những thùng tô-nô sơn đỏ thế
kia ?
- Các đồng chí mới lần đầu đặt chân đến đây, đúng không ?
Người xà-ích quay lại hỏi.
Vâng. Quả tình như vậy.
An đáp. Người xà-ích giơ roi chỉ về những giải núi chập
trùng nơi chân trời phía trước và nói :
- Phía tây là nơi gió Lào thổi tới. Xứ chúng tôi hứng gió
Lào, thứ gió thổi đến đâu cây cối quắt queo tới đấy. Chẳng những cây cối ngoài
vườn mà ngay đến đồ đạc như giường tủ bàn ghế hay các thứ vật dụng khác trong
nhà cũng đều khô cong khô nỏ và biến thành thứ củi bắt lửa nhanh nhậy. Vì lẽ đó
chống hoả hoạn là công việc của toàn dân. Những chiếc thùng tô-nô sơn đỏ kia do
chính quyền phân phát cho các nhà để dự trữ nước. Ai lười biếng để thùng vơi
nước sẽ bị láng giềng tố cáo và phải chịu cảnh cáo hoặc kỉ luật.
- Đội cứu hoả của thành phố ăn lương nhà nước để làm việc
đó. Cớ sao buộc mọi nhà dân ?
- Đội cứu hoả ở đây biên chế nhiều gấp ba lần các thành phố
khác. Nhưng cho dù có đông gấp hai mươi lần họ cũng chẳng thể chống nổi hoả
hoạn trong cơn gió Lào. Gió Lào, còn gọi là gió lửa, chính nó gây nên các vụ
cháy chứ chẳng cần thêm vào sự sơ xuất của con người.
- Vậy sao ! Thật đáng sợ.
An đáp, trong khi những ý nghĩ khác chạy thoăn thoắt trong
óc não anh :
― Gió Lào! Hung hiểm thay. Vậy mà chúng ta đang tiến về hang
ổ cái lò lửa đó. Chẳng có thứ thiên tai nào hung hiểm hơn thứ tai hoạ gây nên
bởi con người. Chẳng có thiên nhiên nào tàn độc hơn thứ tàn độc của con người
đối xử với nhau.
Đoạn, anh quay sang bảo Nông Tài :
- Nghe bác xà-ích nói gì chưa ? Từ hôm nay sẽ phải hành quân
trong thứ gió Lào bỏng rát đó. Bây giờ ngủ đi mà lấy sức.
- Đường lắc như xóc đĩa, ngủ làm sao ?
- Vậy thì nhắm mắt lại.
Người lái xe quay lại góp lời :
- Đúng đấy, nhắm mắt được phút nào hay phút ấy. Chỉ lát nữa,
mặt trời lên, mắt sẽ chói như bị kim đâm. Khách từ phía Bắc vào đây đều kêu
trời thứ nắng bỏng của Nghệ An.
- Quê hương chủ tịch họ Chí !
- Đích xác là như vậy.
Ông chủ xe râu vểnh đáp và cất tiếng ngâm : « Đất nghèo sinh
bậc anh hùng... »
- Bác ngâm thơ hay thật.
An gật gù tán thưởng khi thâm tâm anh cất tiếng cười khinh
bỉ :
« Ồ, ông ta đúng là một bậc anh hùng. Nhưng ông ta cũng lại
chính là kẻ hèn nhát nhất trên cõi đất này, một người chồng không bảo vệ nổi
vợ, một người cha không che chở nổi những đứa con. »
Bên ngoài, nhà cửa đã thưa vắng. Ngoảnh lại nhìn, thành phố
Vinh chỉ còn là một khối hỗn độn với dăm ba ống khói đang nhả lên trời thứ khói
đen nhờ bẩn thỉu.
An hỏi người xà-ích :
- Liệu chúng ta có đến được biên giới trước lúc tối trời
?...
- Tuỳ. Tuỳ theo chân ngựa chạy. Tuỳ theo trời nắng hay mưa.
Bởi mùa này khí hậu thất thường như trở bàn tay, có khi đang nắng đẹp trời xanh
lồng lộng bỗng nhiên mưa giông gió giật ầm ầm kéo đến. Nha khí tượng chưa bao
giờ dự đoán chính xác những cơn bão miền Trung. Nhưng nếu chúng ta gặp may,
ngựa không giở chứng giữa đường, ta sẽ đến cửa đồn biên phòng khi mặt trời còn
đứng cao hơn một con sào trên đỉnh núi.
- Tức là khoảng bốn giờ chiều ? Ý bác muốn nói vậy ?
- Tôi không hay xem giờ. Nghề đánh xe buộc chúng tôi suốt
ngày đêm rong ruổi trên đường, sớm hay muộn cũng vậy. Nhưng tôi nhớ là thường
thường, khi xe đến đây, mặt trời còn đứng cao hơn ngọn núi phía tây chừng một
con sào.
- Sớm chút nào hay chút ấy. Qua biên giới, chúng tôi còn
phải đi bộ một thôi đường khá xa.
- Ô....
Người chủ xe cất tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng không
ra hứa hẹn. Rồi ông ta thủng thẳng buông tiếng :
- Để rồi xem.
An nhìn những giải đồi cằn cỗi phía trước, nơi bắt buộc họ
phải vượt qua trước khi tới miền biên giới : Chúng mênh mông trống vắng, dường
như có thể phóng tầm mắt đến hút tận chân trời. Không một cụm rừng, cũng chẳng
một ngọn núi. Chỉ triền miên những giải đồi trơ trụi trên đó mọc thuần một loài
gai thấp lè tè không quá sải tay và các loại dương xỉ. Nếu bị rượt đuổi ở nơi
này, cái chết sẽ cầm chắc.
« Liệu hôm nay các đồn biên phòng Thất Khê đã nhận lệnh truy
nã hay chưa ? » .
An thầm nghĩ và hình dung cảnh tượng sẽ diễn ra sau lưng họ.
Trước hết đơn vị anh và đơn vị của Nông Tài sẽ báo cáo sự mất tích của hai gã «
dân tộc thiểu số ». Phaỉ hai mươi bốn giờ sau mới có thể ra lệnh truy nã theo
thông lệ nhưng trường hợp này gã bộ trưởng Quốc Tuỳ ắt phải quyết định sớm hơn.
Trên các chuyến tàu ngược Lạng Sơn và Lao cai lính sẽ giăng hàng khám xét để
bắt hai kẻ « đào ngũ » Liệu chúng sẽ gán cho họ những tội danh nào để hợp lý
hoá việc ban bố lệnh « truy nã tội phạm » ? Nếu không cướp của giết người ắt
chỉ còn là tội làm gián điệp cho ngoại bang. Và đó là tội danh tiện lợi nhất để
kích động lòng căm thù cũng như sự khinh bỉ của dân chúng :
« Ta tin chắc rằng giờ đây chúng ta đã trở thành những tên
gián điệp nguy hiểm, âm mưu lật đổ nhà nước vì nhận tiền viện trợ của ngoại
bang. Sẽ không có một cách giải thích nào khác. »
An thầm nghĩ với nỗi buồn chua chát vì nhớ lại bao nhiêu lần
từng đứng dưới cờ tuyên thệ trung thành chiến đấu cho tổ quốc, thề tiêu diệt
đến kẻ thù cuối cùng dám xâm phạm vào nền chuyên chính vô sản của nhân dân. Giờ
đây, anh đã trở thành thứ kẻ thù ấy, chính anh và gã Nông Tài ngồi một bên đang
lơ láo đưa mắt nhìn cảnh vật. Cuộc sống quả là trò lường gạt khủng khiếp mà
biết bao nhiêu triệu con người chỉ là đám đông khờ khạo bị xỏ mũi dắt đi như
một đàn trâu.
« Nhưng còn hai người đàn bà, chúng sẽ làm gì họ ? »
« Chúng sẽ không làm gì hết bởi họ đã là hai tù nhân trong
căn gác ấy, và họ không có cách nào chống lại chúng. Nhưng hai gã cận vệ kia ắt
sẽ bị gọi lên răn đe phải khâu mồm câm họng.
Hai kẻ khốn khổ đó có đủ liều mạng để trốn đi hay chăng ?...
Không ! Dù có bạo gan họ cũng không còn cơ may để làm điều
đó. Sau cuộc bỏ trốn của Nông Tài, họ sẽ thường xuyên sống dưới sự kiểm soát
của đồng đội. Họ sẽ phải ngậm đắng nuốt cay giả câm giả điếc, giống như thứ xác
chết biết đi hay hình nhân bằng gỗ đứng trong cái hành lang dài dặc và thiếu
ánh mặt trời kia.
Gã bộ trưởng dâm đãng sẽ không thay đổi lính gác trong thời
gian tới. Một tuần, hai tuần hoặc ba tuần ? Tất cả tuỳ thuộc vào cơn dâm dục
của y. Khi đã no nê thú tính, hai người đàn bà cùng hai người cận vệ kia sẽ
cùng một lượt xuống mồ. Hai gã lính ấy, chắc chắn cũng như anh đã từng giơ nắm
tay hàng ngàn lượt dưới quốc kì thề tiêu diệt kẻ thù của nhân dân và bảo vệ tổ
quốc ! »
- Tại sao anh cười ? Anh cười gì vậy ?
Nông Tài bất chợt cất tiếng hỏi khiến An giật bắn mình. Anh
vội đáp :
- Nhớ ra một chuyện tiếu lâm.
- Vậy thì kể đi cho đỡ buồn.
- Không kể được. Bậy bạ lắm.
Nông Tài lặng im với vẻ bất mãn.
An chợt nhận ra rằng anh đã có thói cười gằn khi những nỗi
đau băm chém con tim. Cái thói quen lạ lùng này vừa mới hình thành đã trở nên
thuần thục như vốn nó gắn liền với anh từ muôn thuở.
― Gã trai của bản Xíu năm xưa đã chết hẳn rồi, ta chẳng còn
nhìn thấy nó.
Anh thầm nghĩ. Nhưng lát sau, một câu hỏi não lòng lại vang
lên bên tai :
― Nhưng còn hai đứa trẻ ? Liệu lũ chó đểu kia sẽ làm gì
chúng ?
Anh hình dung đôi mắt đen như hạt nhãn của con bé Mùi, hơi
thở thơm tho của nó khi nó thỏ thẻ bên tai anh, cái cảm giác mềm mại khi những
sợi tóc của nó cọ vào bên má, một thứ tình ngọt ngào êm ấm dâng lên mỗi khi con
bé đặt hai bàn tay bé xíu của nó vào bàn tay rộng lớn của anh. Đôi bàn tay
người thợ săn. Nghĩ tới đó, An lại thấy một lưỡi dao quắm bén nhọn đang thọc
ngoáy tim mình. Máu chảy ròng ròng từ những vết thương ấy :
― Không!Ta không thể nghĩ đến những điều ấy nữa. Coi như
phía sau
lưng ta chỉ là một nấm mồ lặng câm và tăm tối. Không còn ai,
không còn bản Xíu, không còn cả chú thím ta và ông bố vợ. Tất cả đều bị xoá đi
trên mặt đất này. Ta sẽ là kẻ cuối cùng. Kẻ cuối cùng buộc phải sống để tố cáo
lũ đao phủ người Kinh. Ta phải làm được điều đó bằng mọi giá.
Đột nhiên, An cảm thấy mệt mỏi. Anh bảo Nông Tài :
- Nằm xuống đi. Tôi đau lưng lắm. Mỗi băng ghế đủ cho bốn
người ngồi nên ta có thể nằm duỗi chân cho thoải mái. Đừng quên rằng qua đồn
biên phòng chẳng còn xe ngựa cũng chẳng có xe trâu. Chỉ có hai bàn chân thôi.
Đường xa dốc ngược. Chẳng dễ đâu.
- Đồng ý.
Gã trai đáp ngoan ngoãn và chuyển sang bên chiếc ghế băng
đối diện. Người xà-ích quay lại bảo :
- Các đồng chí cứ nghỉ ngơi. Đến nơi, tôi khắc gọi.
An nhắc lại :
- Khi nhìn thấy đồn biên phòng tôi sẽ trả nốt tiền cho bác.
Nếu ngựa chạy tốt, đến sớm hơn lệ thường chúng tôi sẽ gửi thêm tiền để bác mua
ngô mua mật bồi dưỡng cho nó.
- Được thôi.
Người chủ xe vui vẻ đáp đoạn cất tiếng hát một điệu hát cổ
mà An chưa từng nghe. Giọng ông ta khá ấm, vang rất to giữa miền đồi hoang.
Chắc hẳn thời trai trẻ ông ta phải là một ca sĩ nơi thôn xóm, cũng như những
tài tử thổi tiêu thổi sáo thâu đêm trên bản Xíu quê anh. An nằm xuống ghế, lắng
nghe câu hát một cách chăm chú. Câu hát xứ này trộn lẫn một cách ngô nghê ý thơ
lẫn những câu nói dung tục, tầm thường :
― ...Này, cô nàng ở bên kia sông ,
Cô nàng áo thắm, cô nàng quấn khăn hồng,
Có chồng rồi hay còn chờ đợi người tới gọi,
Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Nơi đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy,
Ngại ngần chi, cuộc sống ngắn chẳng tầy gang,
Hãy lội sang đây, cô nàng xinh đẹp,
Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn nóng
cháy
Anh như bước đi trên lửa, như đang ngồi trên than....
Bước chạy của con ngựa đường trường gieo một thứ điệp khúc
buồn tẻ, hoà cùng tiếng hát rền rĩ tiếc thương của người xà-ích nhiễm đầy đầu
óc lẫn con tim An . Dần dà, giấc ngủ đến, cuốn anh vào những làn sóng đen ngòm
của nó.
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM
(7)
- Dậy thôi. Đồn biên phòng kia rồi.
Tiếng hô của người chủ xe khiến cả hai người đều bật dậy.
- Ối cha, chói mắt quá....
Nông Tài vừa lật chiếc mũ úp trên mặt đã kêu váng lên.
Không kêu nhưng An phải vội vàng nhắm ngay mắt lại vì thứ
ánh sáng chói chang như muôn ngàn chiếc kim đâm làm họ chảy nước mắt tức thì.
Sau một hồi nhắm mắt, úp trở lại chiếc mũ lên mặt cho quen
dần với thứ ánh sáng gay gắt này, An mới dám mở mắt ra. Người chủ xe nói :
- Tôi đã nói trước mà. Người nào từ xứ Bắc vào cũng la ó
hoảng hồn vì nắng Nghệ An. Đó còn là may mắn vì hôm nay không có gió Lào.
- Nếu có gió Lào nữa thì sao ?
- Các đồng chí sắp sang bên đó. Không cần tò mò ngày mai
khắc biết.
- Đồn biên phòng đâu ?
- Nhìn thấy chưa ? Cái đốm đỏ cao nhất, đó là nơi cắm cờ của
đồn lính. Thời trước là cờ Pháp. Sau ngày cách mạng là cờ đỏ sao vàng.
An rút tiền đếm rồi đưa cho người chủ xe :
- Bác cầm lấy. Chắc dư tiền mua mật và thóc cho chú ngựa.
Người xà-ích bỏ tiền vào túi rồi cúi xuống gầm xe lôi lên
hai bó lá chuối khô :
- Đồng chí hào phóng quá, tôi cũng phải biết phận sự của
mình. Người ta bảo : có đi có lại mới toại lòng nhau. Đây là hai cân đường phèn
hảo hạng. Các đồng chí có thể ngậm khi đi rừng cho đỡ khát. Nếu muốn may mắn
vượt qua đồn biên phòng thì có thể tặng lính một nửa. Trên đó họ buồn nên hễ cứ
có người là họ tìm đủ cách vặn vẹo giấy tờ để chuyện vãn cho vui.
- Có cái lệ đó hay sao ?
- Chẳng có lệ nào cả nhưng ở đó họ buồn....Thi thoảng lắm
mới có một chuyến xe ngựa ngược lên đây. Còn lại là xe quân đội. Xe khách chẳng
qua lối này. Nếu đồng chí bị nhốt ở đồn biên phòng ấy quanh năm đồng chí cũng
sẽ làm như họ thôi.
- Cảm ơn bác.
An nói và đưa gói đường phèn lên ngửi. Quả là thơm. Anh bảo
:
- Cũng phải tặng họ một nửa thôi. Chúng tôi cần phải đi khi
còn ánh mặt trời.
- Nếu không có đường phèn ắt hai đồng chí phải ngủ đêm ở đó
sáng mai mới lên đường được. Đa phần lính là dân Bắc. Họ phải lục hỏi đủ thứ
chuyện ngoài quê hương.
An lặng thinh. Nhưng Nông Tài chăm chú nhìn một hồi rồi quay
lại bảo anh, giọng hốt hoảng :
- Anh Thành, họ đứng dàn hàng đón đường chúng ta trên đỉnh
đồi.
Anh đưa mắt nhìn lên thấy ngọn cờ đỏ đã hiện rõ. Đúng là lính
đứng giăng thành hàng chắn ngang đường. Vẻ như một cuộc vây ráp đã chuẩn bị
sẵn. Bất giác An đưa tay rờ khẩu súng bên hông. Cùng một lúc, Nông Tài cũng làm
cử chỉ đó. Hai người đưa mắt nhìn nhau. Rồi An trấn tĩnh lại và hạ giọng thản
nhiên hỏi người xà-ích :
- Vì cớ gì họ đứng thành hàng như thế kia ?
- Vì buồn.
Ông ta đáp gọn lỏn, tay không ngừng ra roi trên lưng ngựa.
Xe đang lên dốc và con ngựa có vẻ như bắt đầu chùng chân.
- Hây ,hây... Dấn lên! Con mẹ mày, sắp tới nơi rồi đừng giở
chứng. Cố lên, lát nữa ông sẽ cho ba đấu thóc trộn mật. Cố lên, chỉ còn đoạn
này nữa thôi.
Ông ta mắng con vật. Dường như con vật khôn ngoan này hiểu
được ý chủ nên nó lại lên vó. Chiếc xe chồm lên rồi tiếp tục chạy bon bon. Lúc
ấy, người xà-ích quay lại :
- Tôi đã bảo rằng bất cứ ai ở tình thế của họ cũng sẽ làm
thế thôi. Họ ra đây để nhìn xe ngựa. Lát nữa họ sẽ nhìn các đồng chí rồi tranh
thủ chuyện vãn. Mong sao họ sẽ để cho các đồng chí đi một cách sớm sủa.
- A...Ra thế.
An cất tiếng, rời tay khỏi vũ khí. Anh trù tính cách thức có
thể vượt qua cửa ải này một cách mau lẹ và an toàn.
― May sao chúng ta là dân Tày. Chúng ta chẳng biết gì nhiều
mà chuyện vãn với đám lính Kinh. Mà giờ đây , cũng chẳng còn chút cảm tình cỏn
con nào để nói những chuyện vớ vẩn.
Nghĩ một lát, anh nói :
- Bác thật là người tốt bụng. Bác có thể đứng chuyện vãn với
họ một lát để họ buông chúng tôi đi sớm hay không ? Đường rừng ban đêm không dễ
dàng mà ngủ lại thì lỡ nhiệm vụ. Chúng tôi có thể biếu thêm tiền bác.
- Không phải mua tôi bằng tiền.
Người xà-ích đáp cộc lốc :
- Tôi chỉ lấy đầy đủ phần quyền lợi của tôi cũng như của con
ngựa thôi. Nếu tôi tham quá ắt trời giáng hoạ. Nhưng tôi hứa là giúp các đồng
chí. Tôi sẽ ngồi tán chuyện với họ ở đó chừng nửa giờ. Mặt trời còn đứng trên
đỉnh núi một con sào rưỡi.
Chừng mươi phút sau họ lên tới đỉnh đồi. Đám lính không chậm
một giây, quây lấy chiếc xe ngựa, mặt anh nào anh nấy tí tởn như bắt được quà :
- Chào các đồng chí.
Người xà- ích cất tiếng oang oang:
Lính tranh nhau đáp :
- Chào bác. Lâu lắm mới thấy xe ngựa leo lên đây.
- Ồ; ngựa lên đây một lần về phải bồi dưỡng cả tháng. Chỉ có
những dịp đặc biệt tôi mới ra roi. Hôm nay, tôi chở hai đồng chí quân nhân làm
nhiệm vụ đặc biệt.
- Nhiệm vụ nào thì cũng xuống đây chuyện trò cái đã.
An và Nông Tài nhẩy xuống, rút chứng minh thư xuất trình.
Nhưng một anh chàng túm cả hai tấm thẻ cho vào túi áo mà chẳng thèm đưa mắt
liếc qua. Rồi, anh khác, đeo lon thượng uý bảo :
- Mời các đồng chí vào đồn chơi.
Nói xong, cả bọn kéo nhau đi trước, An và Nông Tài buộc phải
lẽo đẽo theo. Chừng như nhìn thấy vẻ lo âu trên mặt họ, người chủ xe lên tiếng
:
- Các đồng chí cứ vào nghỉ chân uống nước. Tôi cho ngựa ăn
rồi lên ngay. Nhớ đem theo gói đường phèn chưa ?
- Tôi cầm theo đây rồi.
An đáp.
Đồn biên phòng xây trên đỉnh đèo, ba toà nhà hình chữ môn
như kiểu nhà người Việt ở đồng bằng với mảnh sân ở giữa lát đá hộc. Cây cột cờ
trồng ngay phía trước toà nhà chính, thân gỗ đã mốc từng đám và trắng phếch màu
thời gian. Đầu hồi toà nhà chính giáp một lô-cốt nhỏ bằng xi-măng, chắc chắn
xây từ thời Pháp thuộc. Kề đó, một trạm kiểm soát bằng gỗ. Phía sau lưng toà
nhà bên trái, tụt xuống sườn đồi chừng dăm chục thước là tàu ngựa có chừng hơn
chục con đang đứng nhai cỏ. Tầu ngựa này có ba lần rào thép gai bảo vệ vì ở
đây, ngựa là phương tiện giao thông chính của lính biên phòng:
― Ngày mai, chính lũ ngựa kia sẽ rượt đuổi chúng ta. Rồi xem
ta có thoát nổi hay không. Nhưng trường hợp rủi ro, ít nhất ta cũng phải cho
nửa tá bọn bay xuống âm phủ trước khi ta nhắm mắt.
Anh trù liệu trong khi quan sát cảnh vật. Rồi họ bước vào
gian nhà chính, rộng thênh thang với chiếc bàn lớn như bàn bóng ping-pông kê
giữa, trên đó ngổn ngang nào ấm nước, nào báo chí vừa mới vừa cũ, nào ra-đi-ô,
nào bao thuốc, dao găm, dao nhíp, mũ vải, đèn pin...Bốn bức tường xung quanh
dán la liệt các tấm ảnh cắt từ hoạ báo ra, thuần là các cô nàng xinh đẹp trong
các đoàn văn công và các nhà hát, nào là Thị Mầu lên chùa, nào là Xuý Vân giả
dại, nào là đám múa Hoa đăng hay đội múa Hoa thơm bướm lượn...tất cả chen chúc
nhau lộn xộn chẳng ra hàng lối chi. Tay thượng uý, ắt hẳn là trưởng đồn, ném
một cái lệnh giữa khoảng không :
- Cậu nào đi đun nước pha ấm chè mới.
Một tiếng đáp từ ngoài sân tức khắc vọng lại :
- Báo cáo thủ trưởng, tổ anh nuôi nhen lửa rồi...
― Mình sẽ chết tắc ở đây với bọn chúng....Phải tìm cách
thoát thôi...
An thầm nghĩ và lên tiếng :
- Báo cáo đồng chí....
- Được rồi. Uống nước xong báo cáo cũng chưa muộn. Chúng ta
đều là lính cả. Đồng chí bộ binh, tôi biên phòng. Cùng dân phải thức dậy khi
nghe kèn tò tí te buổi sáng. Mấy khi gặp nhau. Đồng chí có đi bây giờ cũng
không kịp. Nhìn mặt trời thế thôi nhưng tối nhanh lắm. Vùng này ban ngày nắng
chói mắt ban đêm sương núi dày như bông.
An cảm thấy như gần tắc thở. Thứ ― tình ái lính này quả thật
nguy hiểm cho anh. May sao lúc đó, người xà-ích đã quay trở lại. Ông ta vừa
thong thả bước vào nhà vừa cất giọng ngâm nga cái bài hát ghẹo gái lẳng lơ hồi
nãy :
― ....Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Ở đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy ....
Tay thượng uý quay sang người xà-ích, ngoác mồm cười :
- Sao bố già lại rủ vợ người ta sang với mình mà không sợ
tội ?
- Tôi có rủ ai đâu ? Bài hát của các cụ từ thời xửa thời xưa
đấy chứ ?
- Các cụ ngày xưa cũng bậy bạ ghê nhỉ ?
- Các cụ ấy cũng có cái lưỡi để uốn, hai con mắt liếc gái
như chúng ta bây giờ thôi. Nhưng dẫu có muốn phê bình hay kỉ luật thì họ cũng
đã ngủ ngon dưới ba thước đất. Chẳng ai có thể túm gáy họ lên mà tra khảo nữa.
Nói rồi ông ta đưa mắt nhìn An, vẻ như bảo anh yên tâm. Thấy
thế, An cất tiếng hỏi :
- Bác đã cho ngựa ăn xong rồi hay sao ?
- Xong làm sao được. Nó tha hồ nhẩn nha. Còn đồng chí, đã
xuất trình giấy tờ chưa ?
- Tôi đã đưa cả hai tấm thẻ quân nhân rồi nhưng lính của
đồng chí thượng uý đây lại cất vào túi áo. Ồ, ra thế.
―....Này cô nàng áo thắm, này cô quấn khăn hồng...
Ông ta hát tiếp một câu rồi quay sang tay thượng uý :
- Hai đồng chí này đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp không thể
chờ xe ca quân đội. Thế nên công an thành Vinh mới chỉ đến tôi. Chẳng có lời
sức mấy tôi dám cho ngựa lên tận đây ? Hai người này chẳng có thời gian uống
chè với chúng ta đâu. Nhưng họ có đường phèn ngon lắm, trên xe họ cho tôi vài
miếng ngậm thử, thơm như phấn hoa vậy.
Quay sang An, ông hỏi :
- Đồng chí có thể tặng anh em trong đồn một ít được không ?
Chúng tôi sẽ ngồi uống trà cho ngọt giọng.
An đặt gói đường lên mặt bàn, đáp :
- Có đây. Để làm quà cho các đồng chí.
Anh tủm tỉm cười nhìn tay thượng uý:
- Tôi trung uý, kém đồng chí một hàm. Đáng lẽ có thời gian
ngồi tâm sự hẳn là vui. Nhưng rủi chúng tôi đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.
- Thế hả ?
Thượng uý thò cổ ra khỏi cửa, hỏi vọng đám lính đứng túm tụm
ngoài sân :
- Cậu nào lúc nãy cầm chứng minh thư quân nhân của hai đồng
chí ?
- Dạ em.
- Xem chưa ?
- Dạ, trung uý Chí văn Thành và thượng sĩ công an nhân dân
Nông Tài. Hai đồng chí đều là dân tộc Tày.
- Đem trả cho các đồng chí ấy. Thật đáng tiếc là họ phải làm
nhiệm vụ khẩn cấp.
Cậu lính mang hai tấm thẻ trả cho họ.
Thượng uý trưởng đồn nói :
- Thôi, lúc các đồng chí quay về sẽ gặp lại nhau. Tôi có đứa
em trai họ lấy vợ người Tày, con bé xinh ơi là xinh, da nó trắng nõn như bông,
còn đẹp hơn da mấy bà vợ chuyên gia Liên-xô, Tiệp khắc. Nếu kiếp sau còn có
duyên gặp nhau tôi xin làm rể dân Tày. Chấp thuận chứ ?
- Cảm ơn.
An và Nông Tài chào khắp lượt đám lính rồi quay trở lại con
lộ. Tiếng hát người xà-ích đuổi theo sau lưng :
―... Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn,
nóng cháy,
Anh như đang đi trên lửa như đang ngồi trên than...
An bảo :
- Nếu thoát được, chúng ta phải ngàn lần cảm ơn người chủ xe
ngựa này.
- Đồng ý.
Ven đường, con ngựa đã ăn hết chậu thóc trộn mật đang đứng
liếm mép một cách thoả mãn, giương mắt nhìn hai vị khách. An bảo :
- Giờ thì co cẳng lên.
Hai người hướng về phía đất Lào, cắm đầu đi như chạy.
Họ đi như thế chừng một giờ liên tục, mồ hôi chảy đầm đìa
khắp mặt và thấm đầy lưng áo. Mặt trời đã tụt xuống một con sào, lơ lửng treo
như trái cầu sáng chói trên đỉnh núi phía Tây. Nắng vẫn tràn ngập mênh mông
nhưng không khí đã nguội bớt. Vừa chậm bước chân một chút, An cảm thấy thấm
lạnh hai vai. Phía sau lưng họ, những giải đồi lúp xúp gai và dương xỉ chạy cho
tới hút tầm mắt. Trước mặt, khoảng một thôi đường nữa là tới rừng. Đường viền
sẫm của nó đã hiện lên dọc theo những con đèo liên tiếp. Nông Tài kêu to :
- Rừng kia rồi. Chúng ta sống rồi.
- Xin quỷ thần hai vai phù trợ cho chúng ta. Nhưng phải đi
nhanh lên. Sau lưng là khoảng trống, đường quang. Nếu lũ ngựa biên phòng đuổi
theo chắc không thoát.
- Đồng ý.
Nông Tài đáp và cả hai tiếp tục lao đầu cun cút chạy. Vừa
chạy, họ vừa nhìn mặt trời, như nhìn thứ đồng hồ báo giờ trong cuộc đua việt dã
sinh tử. Cứ như thế, khi đặt chân vào cửa rừng cũng là lúc mặt trời vừa chạm
trên đỉnh núi cao nhất và ngự trị ở đó, kiêu hãnh trong sắc vàng lộng lẫy. An
thấy thấm mệt, bước chậm lại. Nhưng Nông Tài bảo :
- Chưa chậm chân được đâu. Khoảng rừng này thưa lắm, ngựa
chạy tha hồ. Ta phải vào được đến lòng rừng, lối đi vừa lọt bước chân mới mong
thoát hiểm.
Nói rồi, cậu ta len lên đi trước anh, chừng như muốn khích
lệ bạn đồng hành. Dẫu sao, đi dưới bóng cây, tim họ đã bớt đi cơn phấp phỏng.
Hai người vượt qua một cánh rừng dốc xuôi xuống trảng. Một trảng cỏ tí hon, nói
cho đúng là một rẻo chân núi phủ đầy thứ cỏ dài lông xám bạc. Qua đó chừng mươi
phút, họ tới một cánh rừng bằng phẳng hơn nhưng rậm rịt dây leo, lối đi chỉ vừa
lọt một người. Nông Tài vừa thở vừa vuốt mồ hôi mặt :
- Chưa hẳn là lòng rừng nhưng ngựa khó chui vào đường này vì
thòng lọng bẫy.
- Ờ. May cho chúng ta thật.
An vừa nói vừa ngước nhìn những đám dây leo đong đưa trên
đầu, những cánh tay tua tủa như tay bạch tuộc của các vòi cây, trông xa giống
hệt lũ rắn xanh đang ngóc đầu ngoe nguẩy. Dọc lối đi chăng đầy những thứ dây
leo lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều tạo thành những nút thòng lọng mà bất
cứ con ngựa nào rúc vào rừng cũng vướng. Nếu là một đoàn ngựa thì lại càng khó
khăn hơn. Ít nhất, cũng phải có một kẻ mở đường dùng dao quắm phạt hết đám dây
nhợ ngựa mới hòng nhích vó.
Nông Tài quay lại bảo anh:
- Rừng quê ta ít loại dây leo này.
- Ờ.. Nhưng nhiều cây lớn hơn đây.
- Dây leo ở đây nhiều màu lạ. Xem kìa, búi dây bên trái
chúng ta có màu da cam. Còn đám dây quấn ngang thân cổ thụ lại trổ đầy lá tím
như cà dái dê vậy.
- Ờ. Đất khác, rừng khác, cây cũng phải khác...
An đáp, tiếp tục ngẩng lên nhìn những tua dây leo phất phới
trong các kẽ nắng hiếm hoi của hoàng hôn. Khi ánh nắng lướt qua, lớp lông tơ
phủ lên chúng óng ánh như giấy thiếc. Nông Tài không nói gì thêm, lặng lẽ bước.
Đột nhiên, An nghe một tiếng ― Roạt, một tiếng động trầm đục nhưng rất nặng ,
kèm theo mùi hôi khủng khiếp. Mùi hôi khủng khiếp ấy gợi lại màn đêm quen thuộc
của những năm xưa trong các cánh rừng bản Xíu. Óc anh vụt lóe lên tiếng kêu :
Hổ!
Nhẩy ba bước, An vồ lấy thân cổ thụ gần nhất và leo lên với
tất cả sức lực còn lại sau quãng đường chạy bộ. Vượt qua ba đốt chẽ, nơi thân
cây chia nhánh, anh leo tới đốt chẽ cuối cùng tiếp giáp với ngọn cây, yên trí
hoàn toàn rằng hổ không thể nào nhẩy lên được, An mới dừng lại. Tìm cành ngang
lớn nhất, anh ngồi lên hai chân quắp chặt lấy cành, hai tay ôm vòng quanh thân
cây. Xong xuôi, anh mới dám cúi đầu nhìn xuống : Con hổ đang đặt Nông Tài phía
dưới hai chân trước của nó, ngửa cổ giương mắt nhìn anh. Bốn tia mắt giao nhau
ngay tức khắc. An lạnh toát sống lưng. Cặp mắt chúa rừng mở rộng, rọi thẳng vào
anh những tia sáng màu thép trộn lẫn màu vàng ốc. Cặp đồng tử co giãn nhè nhẹ,
hai hàng ria cũng nhúc nhích rung rinh nhè nhẹ trong cái nhìn chăm chú khó cắt
nghĩa. An nghĩ :
― Nó biết còn con mồi thứ hai. Nó sẽ tiếp tục rình cho tới
lúc mình tụt xuống. Giờ là lúc phải hết sức bình tĩnh để vượt qua cơn nguy hiểm
này.
Trước hết, anh cố trấn tĩnh cơn run rẩy để lục túi-dết lấy
ra sợi dây dù vạn năng. Rồi anh tự trói mình vào thân cây, biết đó là cách tốt
nhất để bảo vệ mạng sống. Bởi đã từng có tấm gương của tiền nhân để răn dậy kẻ
đi sau. Thời chú anh còn trẻ có một số thợ săn hoặc kiếm sĩ sống bắng nghề bảo
kê. Hoặc bảo vệ những nhân vật con dòng cháu giống, lắm tiền nhiều của và cũng
đầy rẫy kẻ thù. Hoặc bảo vệ những thương gia trên các chặng đường vùng biên
giới. Lần ấy, một người thợ săn tháp tùng một tay lái buôn thuốc phiện. Anh ta
đi trước, nhưng con hổ lại vồ người đi sau. Người thợ săn trèo lên cây tìm cách
thoát thân, trong khi trèo hoảng hốt đánh rơi khẩu súng. Không còn vũ khí,
người thợ săn chẳng có cách nào hơn là bám chặt lấy cái cây như kẻ chết đuối
bám lấy chiếc bè hộ mạng. Rủi ro là anh ta đã gặp một con hổ thành tinh. Sau
khi chén sạch con mồi thứ nhất nó ngủ ngay dưới gốc cây chờ tiếp con mồi thứ
hai. Trong trường hợp ấy, nếu đủ lòng can đảm và sự tự tin, nạn nhân có thể lừa
lúc con vật ngủ say nhất mà thoát thân. Nhưng người thợ săn này không đủ bản
lĩnh bước qua lưng thú dữ. Anh ta mắc cứng trên cây, suốt đêm gà gật trong nỗi
hãi hùng và trong giá lạnh của khí núi. Hôm sau, con hổ thức dậy, vươn vai duỗi
chân để tìm lại khí thế sau giấc ngủ dài. Rồi nó chuẩn bị tấn công con mồi mới.
Lượn quanh gốc cây vài lượt, nó dừng lại giương mắt trừng trừng nhìn con người
tội nghiệp kia, đoạn buông tiếng gầm thét. Sau một hồi gầm thét, nó lại lượn
vòng quanh gốc cây như một con chó lượn quanh bãi nước đái của chính mình, đoạn
nó lại tiếp tục uy hiếp nạn nhân bằng những tiếng gầm thét. Kẻ xấu số không
chịu nổi ánh mắt loài độc thú và tiếng gầm của nó, thêm nữa, sau một đêm mỏi
nhừ vì sợ hãi, đói khát, anh ta không còn đủ sức bám lấy cành cây nên rơi
xuống, làm bữa ăn linh đình của ngày thứ hai cho chúa sơn lâm.
Câu chuyện này phường thợ săn thường kể đi kể lại sau mỗi
mùa săn chính, quanh bếp lửa và chảo nấu cao. Từ thuở đi theo phường săn, An đã
thuộc lòng. Giờ, nó giúp anh cẩn trọng. Quấn ba vòng dây dù để trói thân mình
vào thân cây, An kiểm tra kĩ các nút thắt, rồi cài lại nắp chiếc túi dết, chỉnh
lại khẩu súng sau lưng cho thuận tiện khi sử dụng. Đoạn, anh cúi xuống tham dự
cuộc thôi miên với con thú. Nhưng, ngược với sự phỏng đoán của anh, con hổ đã
cúi xuống con mồi đặt sẵn dưới hai chân. Tội nghiệp Nông Tài, hẳn từ cú vồ đầu
tiên của dã thú, chàng trai đã chết, không kịp bật một tiếng kêu. Con hổ này đã
quen ăn thịt người. Phải quen vồ người từ lâu lắm, nó mới có thể quật chết họ
mau lẹ như vậy....
Chắc chắn nó phải được liệt kê vào loại hổ thành tinh, loại
độc thú đã thừa thãi kinh nghiệm để biết con người là thứ mồi hảo hạng. Gặp nó,
cửa địa ngục tự động mở ra.
― Từ đầu đến khấu đuôi nó phải dài đến thước tám.
An ước tính. Con hổ này chưa già vì lông còn vàng au và các
vằn đen còn sắc nét như vẽ. Cứ nhìn cách nó vần cái đầu của con mồi khắc biết
nó khéo léo và nhanh nhẹn đến nhường nào. Một sức mạnh không thể gìm nén khiến
An không thể rời mắt nhìn con thú. Có thể là sự sợ hãi. Có thể là nỗi tò mò.
Hoặc cả hai thứ nhào trộn lại. Từ năm mười ba anh đã theo ông chú và phường săn
bản Xíu lên rừng. Chú anh hạ thủ vô số gấu ngựa, lợn lòi, hươu hoẵng và hơn một
tá hổ. Nhưng với anh, sự hiện diện của loài thú này chỉ là hai ngọn lửa xanh lè
từ cặp mắt nó phóng ra khi bắt ánh đèn săn. Mùi hôi và gây đặc biệt không thể
nhầm lẫn với mùi các loài thú khác. Tiếng sột soạt của các đám lá cọ vào vai họ
trong những đêm rừng ẩm lạnh. Và sương giá mịt mùng trong những thời khắc đợi
chờ. Người thợ săn không có quyền chậm trễ nửa giây, nếu họ muốn tồn taị. Nhiều
khi cuộc chờ đợi kéo dài từ chập tối đến quá nửa đêm, ai nấy gần như hoá đá vì
rét lạnh. Nhưng vào thời khắc con thú tiến đến, và khi cặp mắt nó hắt lên những
tia phản chiếu sắc lạnh chính là lúc súng phải nổ ngay. Đạn nhằm vào điểm giữa
hai con mắt. Rồi sau đó, hoặc là con thú chết tại chỗ vì lượng đạn bắn đủ và
trúng các điểm dễ tổn thương, hoặc là phường săn phải theo đuổi con vật cho đến
khi nó chết vì vết thương quá trầm trọng, cuộc rình rập này có khi kéo đến ba
bốn ngày...Cuối cùng, con vật được chở về bản, xẻ thịt, róc xương, và những
chiếc vạc lớn nấu cao được bắc lên bếp lửa.
Như thế đó, là thợ săn nhưng anh chưa từng nhìn thấy hổ
sống, lại càng chưa hình dung tường tận cách nó thịt con mồi. Chưa bao giờ.
― Đây chính là đầu tiên tao tận mắt thấy mày, hỡi chúa sơn
lâm.
Anh thầm nghĩ.
Con vật đang đặt một chân lên cái đầu của Nông Tài, vần qua
vần lại như trẻ con vần quả bóng. Rồi, đột ngột, nó ngoác mồm ra đớp một nhát
vào cổ nạn nhân. An nghe tiếng xương ròn răng rắc vụn giữa hai hàm răng thú.
Con vật táp rất nhanh miếng thứ hai. Cái đầu đứt lìa khỏi thân người lính. Con
thú lấy chân hất nó ra xa như ta ném một viên bi. An nhìn thấy cái đầu đỏ ngòm
của người bạn đường lăn mấy vòng trước khi bắn vào bụi cây gần đó. Anh dường
như tắc thở, nỗi kinh hoàng khiến anh tê liệt chân tay. Một cơn băng giá từ từ
lan toả khắp toàn thân. Anh cảm thấy cơ bắp trở thành co cứng và bất động như
gỗ đá.
― Nếu ta không kịp trói thân vào cây, ắt ta rơi xuống mà
chết như người thợ săn xấu số ngày xưa mà không cần phải đợi qua một đêm trên
cây, cũng không cần bị nó gào thét để uy hiếp.
Ý nghĩ đó thoáng qua óc anh như tia chớp. Đồng thời, một làn
nước ấm nóng đâu đó tuôn chảy trên tấm thân đông cứng và tê liệt vì kinh hoàng
của anh. Phải một lúc sau, An mới biết rằng nước tiểu đã vọt ra mà anh không
hay biết. Nước tiểu chảy dọc theo hai đùi, thấm ướt hai ống quần, tiếp tục bò
xuống hai bàn chân. Khi gió thổi nguội đi chúng khiến anh càng lạnh.
Dưới kia, con hổ đã xé tan quần áo Nông Tài, bắt đầu bữa cỗ
ngon lành của nó. An không dám mở mắt ra nữa. Nỗi tò mò cũng đã tắt ngấm như
ngọn lửa bị tưới nước. Cơn sợ hãi chưa qua nhưng nỗi đau kéo tới. Lúc này anh
mới hoàn toàn hiểu rằng người bạn đồng hành trong cuộc chạy trốn định mệnh này
đã chết, chết một cách thảm khốc ngay dưới mắt anh:
― Nông Tài ơi, chúng ta chạy trốn một cái chết để rồi cái
chết khác lại chờ đón ở nơi đây. Vào lúc cậu ngỡ là bước vào cửa sinh thì lại
sa chân vào cửa tử. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức bảo vệ cậu. Hãy tha
lỗi cho tôi vì tôi không làm trọn phận sự kẻ đưa đường. Lẽ ra, tôi phải là
người đi trước chứ không thể là cậu. Nhưng số phận hay sự rủi ro xui khiến nên
cậu phải thiệt thân. Từ nay, cái chết của cậu đè lên vai tôi, cùng với những
người ruột thịt. Từ nay, lòng oán hận của tôi dệt thêm một mạng sống giống như
sợi dây thắt thêm một nút để ghi nhớ mối thù này.
Anh thầm nói với người xấu số.
Một tình bạn ngắn ngủi kéo dài không quá hai ngày và một
đêm. Nhưng vẫn là một tình bạn thật sự vì nó lôi dẫn họ qua biên giới mong manh
giữa cõi sinh và cõi tử; nếu đã một lần đi qua bờ vực này, cuộc gắn bó sẽ kéo
đến chung thân.
Những tia nắng rọi qua lá rừng không còn màu vàng nữa. Chúng
nhạt màu chín của vỏ chanh. Điệu này chẳng mấy chốc mà tối. Anh phải thoát khỏi
cánh rừng này trước khi đêm sập xuống. An bắt đầu xoa hai bàn tay thật mạnh cho
máu lưu thông. Khi áp hai bàn tay lên má thấy hơi ấm trở lại bình thường anh
mới gỡ khẩu súng khỏi lưng, lên đạn. Mục tiêu thật gần nhưng không dễ vì con hổ
đang cắm cúi ăn, cần cổ và đầu nó di động liên tục. Chỉ có phần lưng và mông nó
là chĩa thẳng về phía anh nhưng đấy lại là chính là những phần không gây nguy
hiểm cho con thú.
Chợt một con tính chạy qua óc não anh :
― Tại sao ta lại tiêu diệt nó? Nếu bọn lính biên phòng đuổi
theo bắt gặp xác hổ, ắt chúng sẽ truy nã ta sang tận đất Lào. Biên giới
Lào-Việt chỉ vẽ trên bản đồ, không tồn tại trong thực tiễn. Đó là những gì ta
đã biết từ cuộc kháng chiến năm xưa. Giờ cũng vậy thôi. Thời gian chưa thay đổi
tình thế. Tốt hơn cả là ta để con thú thoát thân, và bày trò rằng chính ta cũng
đã bị xé xác giữa hai hàm răng hổ. Đó chính là lối thoát chắc chắn nhất trong
hoàn cảnh này.
Sự xác quyết đến mau lẹ. An nhắm vào phần mông gần nhất phô
ra trước nòng súng, bóp cò. Đường bay của viên đạn vô cùng chính xác.
Con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp, quay ngoắt lại phía
anh. Cặp mắt nó chiếu thẳng vào anh những tia sáng hung cuồng. Nó buông con mồi
quay lại lấy đà nhảy vọt lên. Cú nhảy ấy khiến hơi gió tạt vào mặt anh mùi hôi
sặc sụa. Nhưng An dự đoán chính xác, con thú không thể với tới nơi anh ngồi. Nó
chỉ khiến tim anh gõ trống và da anh sởn gai ốc. Viên đạn chỉ phá vào phần mềm
trên mông con thú, cú nhảy của nó hoàn toàn bình thường. Một cú nhảy dũng mãnh.
Ngay trong trí tưởng tượng anh cũng không thể hình dung con vật có thể nhảy cao
được đến thế. Và động tác của nó chuẩn xác, nhẹ nhàng, mềm dẻo như động tác của
một con mèo đang độ trai tơ. Không vồ được mồi, cặp mắt con thú long lên ánh
man dại xen lẫn đau đớn. Nó bước loạng choạng quanh gốc cây vài bước đoạn lùi
lại, gào lên tiếng thứ hai rồi vọt lên cú nhảy tiếp. Cây súng trong tay anh rớt
xuống mà anh không kịp nhoai theo. Khẩu tiểu liên rớt theo chiều dọc, va đập,
tự nổ phát đạn nữa. Con hổ quay ngoắt lại, nhảy bổ vào thứ kẻ thù có hình dạng
lạ lùng đó, táp một miếng với tất cả sức lực và sự điên cuồng vốn có. Rồi nó
gầm lên một tiếng thê lương, có lẽ bởi thứ thép kia khiến hai hàm răng nó bị
tổn thương và cơn đau mới cộng với vết thương nơi mông khiến nó không chịu nổi.
Ngẩng đầu lên nhìn cái con mồi nhỏ bé trên cây với cái nhìn kinh ngạc, nó nhảy
vọt vào bụi rậm và biến đi. An nhìn theo vết cây lá rùng rùng chuyển động, biết
rằng con thú đã đi thẳng. Chờ một lúc lâu để tin chắc con hổ không quay lại nữa
anh mới tháo sợi dây dù, nhét vào túi-dết rồi tụt xuống. Một thứ dính dáp làm
anh vướng víu dưới mông. Lúc ấy, anh chợt hiểu rằng cơn sợ hãi không chỉ khiến
anh vọt nước tiểu mà còn tống cả phân ra ngoài ruột :
― À, người ta nói sợ vãi cứt chính là thế này đây.
Nhưng ý nghĩ đó biến đi nhanh chóng bởi anh không còn thời
gian suy ngẫm. An cởi áo xé ra thành nhiều mảnh, thấm vào đám máu bê bết dưới
cái đầu lâu của Nông Tài, đoạn bưng chiếc đầu lâu đó thả vào một bụi gai dày
rậm mà chắc chắn không con chó săn, sói rừng hoặc lợn lòi nào rúc vào nổi. Rồi
anh vứt chiếc áo tả tơi đẫm máu của mình bên cái xác không đầu của người xấu
số, giờ đây chỉ còn trơ trọi phần bụng và khung xương. Đoạn, anh ném khẩu súng
của mình xuống gần sát khẩu súng của người đồng hành. Nhìn cảnh tượng ghê rợn
đó lần cuối, anh quay lưng co cẳng chạy về phía trước, nơi văng vẳng tiếng chảy
của một con suối. Đến bờ suối, anh định bước xuống tắm thì một cơn buồn nôn
trào thốc lên họng khiến anh không thể nào kìm giữ. Cứ thế, những gì còn lại
trong dạ dày anh vọt ra. Vọt ra cho đến những gợn chất lỏng màu xanh chen màu
vàng và sau đó là thứ nước đen đắng như mật cá. Anh phải quì gối chống hai tay
xuống mặt đất để khỏi ngã gục vì cơn nôn kì lạ. Nôn xong, ruột anh đau quặn
từng hồi. Anh có cảm giác ruột anh đang bị cắt đứt bởi những lưỡi dao vô hình.
Anh định đứng lên cởi khuy quần nhưng cơn đau rút thân anh co rúm lại như một
con tôm bị trụng nước sôi. Anh đành lại quỳ gối xuống, cố gắng nín giữ để có
thể lột chiếc quần ra. Những cơn đau nối tiếp khiến anh không còn đủ sức để làm
việc đó. Anh đành úp mặt xuống cỏ để lấy điểm tựa rồi buông thân nằm nghiêng.
Cũng lúc ấy những luồng phân phọt ra một cách đột ngột như một thứ nước chứa
trong chai bất thình lình bị rút nút. Anh hoàn toàn không còn điều khiển được
cơ thể của mình. Anh nằm nghiêng như thế, chờ cho cơn bệnh khủng khiếp đó đi
qua. Khi không còn gì trong ruột, anh bắt đầu run lên vì rét. Một thứ gía lạnh
từ xương tuỷ toả ra, hoà với hơi lạnh của rừng chiều.
― Mình chưa thể tắm ngay. Mình sẽ chết vì cảm. Mình sẽ chết
ngay trong dòng nước.
Anh nghĩ. Với tay mở chiếc túi dết, anh kéo ra tấm chăn dù
mà Nàng Đông đã kì công khâu từng mũi cho anh từ những tấm dù chiến lợi phẩm
trận Điện Biên. Tung tấm chăn ra, anh trùm kín toàn thân. Rồi nhắm mắt thở từng
hơi dài, anh chờ cơ thể ấm dần lại. Khoảng thời gian đó thật nặng nề. Anh có
linh cảm lũ ngựa biên phòng đang trên đường đuổi theo mình. Không nghe thấy một
tiếng động nhỏ, nhưng chỉ là những hình ảnh được mường tượng theo thuần tuý
theo linh giác.
― Ta cần phải thoát thân. Ta phải sống bằng mọi giá.
Anh nghĩ. Ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ giống
như gió thổi liên hồi vào lò than. Cũng như gió lùa vào lò than, nó hun nóng
lại dần cơ thể băng giá và lả lướt của anh bằng thứ nghị lực của một kẻ cùng
đường, bằng ý chí sống của con thú bị dồn vào bẫy. Chừng hai mươi phút sau, An
cảm thấy nhịp đập của con tim trở lại bình thường. Lật tấm chăn, anh ngồi dậy,
lội xuống suối tắm rửa, giặt bộ quần áo dơ gói vào tấm áo mưa, nhét cẩn thận
vào túi-dết. Đoạn, lội sang bờ suối bên kia anh mặc bộ đồ mới rồi tiếp tục
chạy. Rừng bắt đầu sẫm tối. Anh cố gắng chạy thêm chừng mươi phút nữa mới chịu
lấy cây đèn pin ra dùng. Từ nay trở đi, cuộc sống của anh chỉ còn cây rừng bảo
trợ. Anh phải tiết kiệm từng giọt ánh sáng. Anh cũng phải tiết kiệm từng mảnh
bánh khô cho đến khi tìm được nơi ẩn nấp. Một cơn chóng mặt thoáng qua khiến anh
phải dừng lại, mở túi-dết, móc ra một cục đường phèn bỏ vào miệng. Vị ngọt thấm
vào lưỡi khiến bước chân anh đỡ run rẩy. Rồi lát sau, chất nước đường chảy
xuống, làm hồi sinh cái dạ dầy trống rỗng và bị thương tổn của anh, khiến những
cơn chòng chành chao đảo mất dần đi và anh cảm thấy các động tác của mình trở
nên chính xác. Cứ như thế, An tiến sâu vào con đường tối đen mà anh ngỡ như đã
đi được nhiều lắm. Nhưng nửa giờ sau, anh nghe vẳng đến tiếng vó ngựa dập dồn,
tiếng nói xen lẫn tiếng la hét. Tất thảy những thứ tiếng động ấy vang xa trong
vùng trời đen như mực vùng biên giới.
― Tại sao tiếng vó ngựa nghe gần đến thế ? Hay ta đã lạc
đường và quay vòng trở lại ? Hoặc là chính con đường chạy theo hình vòng thúng
bởi khi ta vượt qua suối, rừng chẳng còn bằng phẳng mà đổ nghiêng như sườn dốc.
Rất có thể là lối mòn này dẫn ta quay lại cánh rừng kề cận nơi Nông Tài đã bị
hổ ăn.
Anh tắt đèn pin, chui vào một bụi rậm, hiểu rằng khi không
thể xác định lối thoát thân thì tốt nhất là ngồi yên một chỗ trong bóng tối.
Như thế còn đỡ nguy hiểm hơn là gây nên tiếng sột soạt và rắc vào đường mòn ánh
sáng nhân tạo của cây đèn. Bọn lính biên phòng sẽ dễ dàng phân biệt được thứ
ánh sáng này với các loại lân tinh. Quả nhiên, tiếng vó ngựa mỗi lúc mỗi gần
hơn và gió đưa đến tai anh tiếng chửi thề của đám lính:
- Từ từ đã. Thúc mẹ nó vào ngựa của tao rồi.
- Tối thế này tránh làm sao được ?
- Đằng nào cũng phải chờ chúng nó vạc đường mới tiến lên
được. Mày đừng có thúc ngựa làm gì.
- Tao có thúc đâu. Tự nó chồm lên đấy chứ.
Một giọng can thiệp, chắc chắn của tay thượng uý trưởng đồn
:
- Thôi đi các cậu. Chớ có cáu kỉnh với nhau. Lát nữa quay
về, anh nuôi khắc có nồi cháo gà bồi dưỡng.
Bọn lính im. Và giọng tay thượng uý lại cất lên :
- Nhanh tay lên một chút. Chớ quên rằng bọn thổ mừ này thạo
đường rừng gấp ngàn lần chúng ta. Bọn họ sinh ra với rừng cây mà.
- Báo cáo thủ trưởng bọn em vẫn cố sức ra tay nhưng lắm dây
nhợ quá. Đoạn đường này thật là chó đểu.
- Có chó đểu mới cần đến ngọn dao nhà nghề của cậu. Rán sức
lên. Tôi cho rằng chúng ta sắp đến nơi. Tài mấy chúng nó cũng không thể chạy
nhanh hơn ngựa...
Những tiếng động chen lẫn tiếng hí của đàn ngựa vọng đến rõ
mồn một. Lính tiên phong đang phạt dây dọn đường cho ngựa tiến lên. Vậy là
chúng đã nhận được lệnh đuổi bắt họ từ lúc tắt mặt trời. Nhưng đám ngựa bị cản
lại khi tiến vào rừng. Nếu lối mòn không chằng chịt những đám thòng lọng xanh,
hẳn bọn lính đã tóm gọn anh khi anh còn đang nằm trùm chăn bên bờ suối, trong
cái tình trạng thê thảm nhục nhã chưa từng có trong đời .
― Dẫu sao giờ đây ta cũng đã lấy lại được tư thế, và nếu có
chạm trán nhau ta vẫn có thể tiêu diệt một vài thằng trước khi chịu nhắm mắt
xuôi tay. „
An nghĩ. Ý nghĩ đó giống như niềm an ủi. Một con côn trùng
nào đó đốt vào gáy đau buốt khiến anh xuýt bật tiếng kêu. Quài tay ra sau gáy,
anh tóm được một con kiến độc to bằng hạt đậu đen, bóp chết nó tức khắc nhưng
con vật cũng kịp chích nọc vào đầu ngón trỏ của anh khiến ngón tay anh buốt
nhói lên. Cũng lúc đó, một tiếng thét vẳng đến :
- Hổ ! Hổ !
Một loạt đạn tới tấp và rối loạn cày lên tức khắc sau tiếng
kêu kinh hoàng đó.
Anh cười thầm :
― Chúng mày có quá nhiều đạn để thị uy với chúa sơn lâm „
Khi loạt đạn dứt, anh nghe rõ tiếng tay thượng uý :
- Cậu nhìn thấy nó ở đâu ?
- Không. Báo cáo thủ trưởng tôi nhìn thấy đám xương lồng
ngực bị gặm hết thịt ở ngay sát chân ngựa.
- Đâu ?
Chưa có tiếng trả lời, đã nghe tay trưởng đồn hét :
- Xuống ngựa đi. Đem đèn chạy ắc-quy lại gần đây.
Tiếng chân chạy, tiếng hò ngựa, tiếng roi vút đen đét. Rồi
sau đó là sự im lặng. Có lẽ đám lính đang dò dẫm xung quanh cái xác không đầu
và đám xương của Nông Tài. Rồi giọng tay thượng uý vang lên, không còn oang
oang hùng hồn như thường lệ :
- Hai khẩu súng ? Con hổ này chén sạch cả hai thằng ?
- Vâng. Chắc nó phải lớn lắm.
- Chưa nghe ai nói hổ ăn thịt được một lần cả hai người.
- Báo cáo thủ trưởng, hổ chưa từng tạt chết một lần cả hai
người vì khi nó vồ được con mồi thì những người khác đã kịp chạy hoặc nổ súng.
Nhưng nó cõng cả con bò chạy bay bay. Lần này, có lẽ hai thằng thổ mừ tận số.
Hoặc chúng nó ngồi nghỉ. Hoặc chúng nó đi cặp díp nhau. Tuy là dân miền núi
nhưng chúng nó chưa lường được những cánh rừng xứ này.
- Không tìm thấy đầu lâu.
- Hổ không bao giờ ăn đầu lâu. Chỉ có sói và lợn lòi. Loài
sói không đứng ăn một chỗ mà thường tranh cướp nhau và kéo mồi ra xa. Tôi cho
rằng chính lũ sói kéo đi một cái xác và cả hai chiếc đầu lâu. Đàn sói này phải
đông lắm.
- Đúng rồi. Chỉ có sói bầy với lợn lòi mới có thể dọn sạch
đi nhanh thế. Tôi chắc rằng loạt đạn chúng ta bắn khi vào rừng đã đuổi chúng
đi. Nhìn đám xương sườn kia cũng biết chúng phàm ăn đến nhường nào.
Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua. Rồi tiếng một cậu lính
trẻ cất lên :
- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta quay về thôi. Ở đây mùi máu
tanh quá.
- Sợ hả ?
Tay thượng uý hỏi với giọng vừa thị uy vừa trịch thượng
nhưng ngay sau đó anh ta quát :
- Cậu nào thu hai khẩu súng kia lại. Nhiệm vụ của chúng ta
đã hoàn thành mà không tốn một giọt máu. Những tên phản bội tổ quốc, làm gián
điệp cho ngoại bang đã bị thú dữ trừng trị thay vì toà án của nhân dân.
An nghe tiếng ho sặc sụa của một cậu lính, chắc là kẻ không
may mắn bị sai đi lượm hai cây súng bê bết máu khô. Sau đó, tiếng giục giã lên
ngựa, tiếng roi vút, tiếng xì xào và sau cùng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng lần
này mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi.
Chờ cho tiếng ngựa chạy gần như tắt hẳn trong không gian, An
mới chui khỏi bụi rậm. Anh quỳ xuống, thầm thì :
- Chúa sơn lâm ơi, mày đã cứu mạng ta.
* * *
Từ năm đó, anh sống trong một bản Vân kiều heo hút, nơi
chính người Lào cũng ít khi đặt chân tới. Hai năm đầu trôi qua trong niềm tin
đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ còn nhìn lại mảnh đất quê hương. Tổ quốc
của anh không còn là Việt nam bởi cái tên đó chỉ còn là niềm oán hận. Anh ngồi
viết đi viết lại câu chuyện bi thảm của gia đình mình bằng một mẩu bút chì,
trên mặt sau của những tờ truyền đơn mà thi thoảng anh nhặt được dưới chợ, một
cái chợ nhỏ xíu trong một thị trấn Lào cũng nhỏ xíu và hẻo lánh, nơi chỉ có
những người lái buôn ít vốn liếng và dư thừa lòng can đảm tìm đến để mua các
loài xạ hương, chồn trắng, trầm hương hay khỉ vàng nuôi làm cảnh. Đến năm thứ
ba, anh bắt đầu hiểu rằng anh phải quay về, anh cần phải quay về mảnh đất thù
nghịch đã từng là tổ quốc của anh. Anh phải quay về Hà nội, cái thành phố địa
ngục mà anh ngỡ không bao giờ còn nhìn thấy. Bởi lịch sử nào cũng phải chết
trong lãng quên và câm lặng. Ở giữa vùng núi non mù mịt này, giữa đám dân nói
một thứ tiếng khác sống một nền văn hoá khác, dầu anh có viết cả ngàn trang
giấy cũng không ai thèm đọc , chẳng ai thèm biết tới và như thế, cuộc chạy trốn
của anh là vô nghĩa. Anh kéo dài cuộc sinh tồn này là để rửa hận nhưng sau cùng
chính cuộc sinh tồn ấy dìm anh vào một đời sống tăm tối vô dụng.
Vậy thì, anh ra đi để còn có ngày về. Anh phải về chính mảnh
đất đã diễn ra tội ác, nơi linh hồn những người ruột thịt chờ đợi anh...
Trước đây, để sống anh đã ra đi bằng mọi giá. Giờ đây, để
trả thù anh cũng phải quay về bằng mọi cách. Quay về ! Quay về ! Quay về !
Quyết định như vậy, nhưng anh phải chờ năm năm sau, An mới
tìm được lối thoát. Đó là khi những tốp lính Việt nam đầu tiên vượt Trường sơn
để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hoành tráng mà mục tiêu của nó là giải phóng
Sài-gòn và sau đó, kéo dài đường biên giới cho đến tận Xiêm rệp. Năm ấy là năm
Quý Mão, mùa xuân năm Quý Mão. Đến mùa thu, máy bay đối phương bắt đầu săn tìm
quân tiên phong trên các cánh rừng dọc Trường sơn. Bom bắt đầu dội xuống những
khu rừng bị đánh dấu nghi hoặc trên bản đồ là có quân Bắc Việt chui lủi hoạt
động. Bởi nước Mỹ là kho vũ khí khổng lồ nên quân đội Sài-gòn có thể ném bom
một cách hào phóng, kiểu như các công tử tỉnh Bạc Liêu thời xa xưa ném tiền vào
canh bạc. Nhờ cơ may đó, anh tìm gặp được một tốp lính bị bom diệt trọn gói, và
trở lại quân đội dưới tấm thẻ quân nhân : Thượng sĩ bộ binh Hoàng An, dân tộc
Tày, quê Đồng Mỏ, Lạng sơn.
Anh được sáp nhập vào đội quân gom góp từ tất cả những tiểu
đoàn, đại đội, trung đội bị xoá sổ rồi sau đó không lâu, lại sáp nhận vào một
cánh quân khác. Trú ẩn dưới cái tên của một người đã chết, anh hiểu rằng cuộc
sống của anh giờ đây chỉ còn lại một mục tiêu. Ngày đó, anh thề trước đất trời
:
Nông văn Thành đã chết vĩnh viễn.
Chí văn Thành cũng vĩnh viễn chết theo.
Chỉ còn lại trên cõi đời một kẻ tên là Hoàng An mà
thôi.
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN CUỐI
CÙNG
- Keeng keeng keeng keeng....
- Keeeng keeng keeng keeng keeng....
Thanh tà-vẹt treo trên cây sấu đung đưa một cách bạo liệt.
Gã trai to lớn, vẻ thô kệch và hung dữ, hẳn là vừa được tuyển từ công trường xẻ
đá hay trạm cưa gỗ về đang ra sức gõ cây búa đại lên tấm tà-vẹt để báo hiệu giờ
ăn sáng. Cái dụng cụ thô kệch này xem ra hữu dụng bởi tiếng kẻng ngân nga vang
dội khắp các khu nhà bệnh viện, có lẽ chỉ thua có tiếng còi xe cứu hoả mà thôi.
Khi tiếng kẻng dứt, cũng là lúc xe chở thức ăn sáng cho bệnh
nhân từ phía đầu hành lang tiến đến. Từ các phòng, đám người chăm sóc bệnh nhân
lục tục xách cà-mèn hay tô đĩa ra nhận phần ăn sáng cho người thân; Vũ lặng lẽ
quan sát họ, cái xã hội thu nhỏ, nơi chiến trường giữa sự sống và cái chết, nơi
sợ hãi đau khổ lẫn hy vọng nhào trộn, trở nên nhù nhoà mờ nhạt với tháng năm,
nơi đa phần con người sống như sự thực hành đơn giản một thói quen.
― Nhưng đâu chỉ đám người vô danh tá túc trong những dãy nhà
ngột ngạt này chấp nhận kiểu sống như vậy ? Ngay cả những kẻ thông minh trác
tuyệt, hoặc ít nhất cũng đã từng được coi như kiểu mẫu của sự sáng suốt, của
tính chính trực và tinh thần tự trọng cũng nhiều phen chấp nhận cuộc sống tầm
thường như đám đàn bà quê mùa đang chen chúc nhau quanh xe thực phẩm kia.
Đương nhiên, họ chẳng cần dán mắt hau háu nhìn vào cái muôi
đang khuấy nồi cháo thịt, hoặc đo đếm xem xuất bánh cuốn cô hộ lý chia cho mình
có đủ tám chiếc hay chỉ có bảy chiếc thôi. Đương nhiên, họ cũng không đau khổ
vì thiếu một chiếc chăn mùa đông hay thiếu vài đồng đưa cho con lên đường ngày
nhập ngũ. Nhưng xét một cách thực sự, họ cũng chỉ sống đúng như những cái máy
thao tác những động tác đã đưa sẵn vào lộ trình, hoặc đúng hơn, như những con
rối múa may theo các tích tuồng viết sẵn.
Vào buổi sáng được tin cô Xuân bị giết, ông đã tới gặp những
con người được coi là ― kiểu mẫu lương tâm. Lúc đó, chưa đến giờ làm việc nên
ông cho xe phóng thẳng đến nhà riêng của họ. Trước tiên, ông lên gặp thủ tướng
Tô. Ông không phải chờ một phút vì chính ông ta cũng đã thức dậy, quần áo chỉnh
tề ngồi trong phòng làm việc. Trước mặt là tách cà-phê và cuốn ― Đại Việt sử kí
toàn thư, cuốn sách mà lần nào tới cũng thấy đặt trên bàn. Cuốn sách kinh niên
ấy đang mở và chủ nhân đang đọc sách một cách chăm chú đến mức mặt cúi gằm
xuống gần như sát vào trang giấy. Khi Vũ bước vào, ông ta vội vã đứng lên,
nhưng không phải để bắt tay ông theo phép lịch sự mà là để đóng chặt hai cánh
cửa phòng. Lúc quay lại, gương mặt ông ta đầm đìa nước mắt.
- Anh...
Vũ vừa cất lời, thủ tướng đã vội xua tay ra hiệu cho ông im
tiếng. Rồi ông ta nhắm mắt lại và những dòng nước mắt tuôn chảy không ngừng từ
cặp mắt nhắm nghiền ấy. Cầm lòng không đậu, Vũ cũng khóc theo. Cứ như thế, cả
hai cùng khóc. Thủ tướng đứng tựa lưng vào cửa còn ông đứng ngay giữa phòng.
Hai người đàn ông đối diện nhau, không thốt một lời, không phác một cử chỉ,
không làm gì hơn là đầm đầm trút lệ. Họ cùng khóc như những người đàn ông khác
cùng uống trà hay cùng nhâm nhi ly rượu. Khóc một cách thầm lén, ghìm giữ nhấn
nuốt tiếng nức nở vì sợ lính gác ngoài hành lang nghe thấy. Họ khóc, trong sự
tự kiểm soát và trong im lặng. Chính lúc ấy, ông hiểu thế nào là đau khổ và
nhục nhã. Những dòng nước mắt lai láng của họ vừa là để tiếc thương cho một
kiếp hồng nhan bạc mệnh vừa là cơn thổ lộ những nhức nhối trong tâm can. Một gã
đàn ông bất lực thảm hại hơn mười lần một người đàn bà yếu đuối. Bởi nó sinh ra
để làm đàn ông, sinh vật tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy. Một bậc nam nhi
bất khả hành động, chỉ biết dìm cay đắng hay uất hận trong nước mắt nào khác
chi đứa trẻ lên năm ? Có lẽ vì ý thức được điều đó nên ông ngẩng lên trước
tiên, lau mặt. Trong khi đó, thủ tướng vẫn tiếp tục khóc, những ngón tay dài và
mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Vũ chú ý đến những ngón tay ấy bởi người ta
thường gọi kiểu tay ấy là tay búp tháp. Những ngón tay ấy run rẩy từ gốc lên
ngọn, giống hệt những cọng lau run rẩy trước cơn gió dữ:
― Phải chăng vì bản chất thư sinh nên ông ta bị áp chế và
biến thành một thứ búp-bê thông thái trong bộ máy quyền lực này ?...
Vũ nghĩ hoài điều đó trong khi chờ thủ tướng ngớt cơn xúc
động. Tô đã khóc rất lâu, từ rất lâu trước khi ông bước vào phòng. Cuốn ― Đại
Việt sử kí toàn thư mở ra là để hứng những dòng lệ tuôn như suối. Hai trang
sách phồng rộp lên từng đám vì ngấm nước:
― Ông ấy không chỉ khóc cho cô Xuân. Ông ấy khóc cho cả bản
thân mình. Chắc chắn là như thế !
Vũ bước đến, đặt tay lên vai thủ tướng thay cho lời chào
trước khi quay ra :
« Ta sẽ chẳng kiếm được một chút cỏn con sự trợ giúp nào từ
con búp-bê thông thái này, ngoài những dòng lệ sướt mướt. Cái dinh thự nguy nga
trước mắt ta chỉ là một toà nhà vô vọng...Nhưng ta cũng chẳng thể buông xuôi
tay...Còn nước còn tát ».
Xuống đường, ông bảo lái xe :
- Bây giờ chúng ta tới nhà đồng chí phó bí thư. Giờ này hẳn
đồng chí ấy chưa đến phòng làm việc.
- Vâng. Còn một tiếng rưỡi nữa mới tới giờ hành chính.
Người lái xe lượn trở lại đường Hoàng Diệu, con phố nổi
tiếng vì là nơi cư trú của các bậc « Lương đống triều đình ». Hai hàng cây bên
hè đứng im như hoá đá trong sương lạnh. Vũ bảo người lái xe dừng lại nơi ngã ba
cho ông xuống rồi anh ta có thể tự do vào phố tìm quán điểm tâm. Đoạn, ông thả
bộ đến nhà phó bí thư Thuận. Ngôi nhà này vốn dĩ đã là biệt thự kiên cố của một
quan chức Pháp. Nhưng ban quản trị trung ương đảng lại sửa chữa cho thêm phần
an toàn. Họ thay thế hàng rào bằng tường kín, cho xây thêm cổng phụ và chòi
canh khiến cho người đứng ngoài nhìn vào, có cảm tưởng đây là nhà tu kín hay
kho vũ khí. Vũ dừng lại trước thanh chắn cổng đồ sộ, sơn khúc trắng khúc đỏ như
kiểu các thanh chắn nơi bến ga bến tàu. Một ổ khoá to hơn bàn tay treo lủng
liểng nơi cổng chính. Chưa đến giờ mở cổng chính nhưng người lính gác đã nhìn
thấy ông, vội bước ra chào rồi mở cánh cổng phụ cho ông bước vào. Đoạn anh ta
lại chui vào chòi gác, nhìn theo. Vũ cảm thấy cái nhìn đó dính vào lưng ông. Sự
xui khiến của linh giác báo cho ông rằng từ nay, bất cứ nơi nào ông đặt chân
tới đều bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi những cặp mắt người trần cũng như
những ống kính được nguỵ trang :
« Ta không ngờ tình thế đến nỗi này. Nhưng đã muốn chơi thì
chấp nhận chơi. Xem chúng bay làm gì được ta ? »
Bản tính Vũ hiền lành nhưng khi bị thách thức ông đột nhiên
trở thành lì lợm. Ông bước thẳng đến toà biệt thự. Lúc đó, chủ nhân cất tiếng
ông gọi từ khu vườn bên trái :
- Tôi ở đây. Vũ ơi.
- A.
- Tôi ở đây cơ. Cậu không thấy những luống hồng vàng đang nở
rộ à ? Lại đây. Đợt hoa này chỉ kéo dài vài tuần lễ thôi mà giống hồng này đặc
biệt quý hiếm và khó chăm sóc.
Thuận đang đứng trong vườn, mặc bộ pi-ja-ma xanh da trời sọc
trắng. Quả thật trước mặt ông ta là một vườn hồng vàng đang nở rộ. Những cánh
hồng mướt mịn như nhung mỏng. Màu vàng của chúng chung chiêng giữa vỏ chanh
chín với lòng đỏ trứng gà. Một thứ màu nhẹ nhàng mơ ảo. Một thứ màu phơn phớt
như hồ nghi, như có thể bay lên tựa cánh chuồn cánh bướm, như có thể bốc hơi
tựa làn sương.
Giá như ở hoàn cảnh bình thường, cảnh tượng thật đáng chiêm
ngưỡng. Nhưng lúc ấy, mọi vẻ đẹp đều khiến ông sôi máu :
- Vườn nhà anh đẹp thật. Hoa hồng nhà anh tuyệt thật.
Vũ vừa nói vừa tiến lại phía chủ nhân với nụ cười :
- Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một vườn hồng tươi đẹp nhường
này. Thiên thai cũng chỉ đến thế mà thôi. Trên đời này dễ mấy ai được hưởng ?
Thuận im lặng trước câu nói không che đậy vẻ khiêu khích lẫn
sự móc máy chua chát. Ông ta tiến đến phía Vũ, chìa tay ra bắt rồi hạ giọng thì
thào :
- Tôi đứng ở đây là để chờ cậu. Không cần gây sự với tôi.
Chúng ta đi về phía cuối vườn để có thể nói chuyện một cách an toàn.
Họ đi song song hai bên luống hồng và tiến về phía cuối khu
vườn, nơi các luống hồng bị ngăn lại bởi một hàng diên vĩ. Dãy cây này viền
quanh một vạt đất chạy dọc chân tường lan sang tận khu vườn đối diện tạo thành
hình chữ L. Vạt đất ấy trồng cỏ kim. Hai người đứng giữa đám cỏ xuân xanh rờn.
Nếu không cất lời, có thể nghe rõ tiếng gió thì thào trong đám cây dâu da nơi
góc tường vọng lại.
Đưa mắt nhìn quanh, Thuận gật gù :
- Ở đây, cây sậy thành Ba-tư không mọc được.
Rồi quay sang Vũ, hỏi :
- Ai báo tin cho cậu sáng nay ?
- Một giọng nguỵ trang, vẻ như bịt mũi hay bị ốm. Còn anh ?
- Cũng chính cái giọng ấy báo tin cho tôi, vào lúc chưa đầy
năm rưỡi.
- Với tôi, cũng chính vào giờ ấy.
- Theo cậu, ai là kẻ có thể báo tin này cho chúng ta, với
cái giọng méo mó một cách cố tình như vậy ? Sao anh lại hỏi tôi ? Anh là uỷ
viên bộ chính trị, phó bí thư đảng. Nói theo kiểu ngày xưa, anh là một trong tứ
trụ triều đình. Còn tôi ? Tôi chỉ là một gã loèn quèn, đứng dưới anh không biết
bao nhiêu cấp ngạch; nếu hiểu một cách thuận lý, chính tôi mới là người được
quyền hỏi anh.
Thuận im lặng thở dài, ông ta cúi nhìn thảm cỏ kim dưới chân
như muốn tìm trong những lá cỏ li ti kia lời giải đáp. Lát sau, ông ta giãi bầy
một cách chậm rãi :
- Tôi biết tôi có lỗi, bởi chính tôi là người cam kết bảo
đảm an toàn cho ba mẹ con cô Xuân trong phiên họp quyết định của bộ chính trị
về vấn đề này.Tôi không ngờ cơ sự xảy ra.
- Anh không ngờ ? Hay là anh có ngờ nhưng anh buông tay cho
kẻ khác hành động ?
Thuận ngước lên nhìn ông :
- Tôi cũng là con nhà có dạy, được học hành tử tế, Vũ ạ. Bởi
thế, tôi xin cậu đừng đổ ngờ cho tôi những điều bỉ ổi như vậy. Nếu không vì tôi
thì ít nhất hãy vì lòng khoan dung trước vong linh những người sinh trưởng ra
tôi. Họ đều là những người tử tế. Tôi không nói dối, trước hết, với một người
như cậu.
Giọng ông ta rung động và hai cánh mũi dầy thịt của ông ta
bắt đầu hoe hoe đỏ. Vũ biết rằng ông ta nói một cách chân thành và sự thành
thực ấy rụi bớt một phần ngọn lửa căm giận đang cháy phừng phừng trong tim ông.
Thuận tiếp tục :
- Lỗi của tôi chính ở chỗ tôi không học được chữ ngờ. Tôi
không dò nổi những ngóc ngách tối tăm trong tâm địa con người. Tôi vẫn nghĩ như
hồi còn sống trên chiến khu : khi bộ chính trị đã đồng lòng thì mọi việc cứ thế
tuần tự như tiến, chẳng cần suy tính. Sự việc này khiến tôi ngã ngửa người. Thế
cờ đã đổi, thời cuộc đã thay mà tư duy của tôi vẫn giản đơn như những năm quá
khứ.. Giờ, sự đã rồi, tôi biết làm sao ?
Vũ tức khắc ngắt lời :
- Sự đã rồi và giờ đây anh thở than rằng biết làm sao ? Nói
nghe đơn giản thật! Này anh Thuận, hãy cố gắng đặt mình vào địa vị của người
khác, dù chỉ một lần. Lúc này, anh đang đứng nói chuyện với tôi. Nhưng lát nữa,
chỉ cần bước chưa đầy một trăm bước chân là vào đến ngôi nhà lộng lẫy kia,
trong đó nào vợ nào con nào cháu nội cháu ngoại....cả một bầu đoàn đông đúc.
Trong cái bầu đoàn ấy, chẳng ai phải chịu cảnh cô đơn trơ trọi, cũng chẳng đứa
bé nào rồi đây sẽ phải chịu cùng một lúc kiếp mồ côi lẫn kiếp lưu đầy. Những
đứa trẻ bị lưu đầy trên chính quê hương mình.
Lảng tránh cái nhìn xoi mói và phẫn nộ của anh, Thuận đưa
mắt nhìn cụm dâu da nơi góc tường tiếp giáp cổng chính, hạ giọng :
- Tôi biết rằng tôi có lỗi với ông cụ.
- Anh nghĩ gì về con người đó ? Giờ đây ông cụ sẽ sống ra
sao khi chính những kẻ vẫn mệnh danh là anh em đồng chí giết hại người ruột
thịt của mình ? Hay các anh, mười hai con người quyền lực nhất nước này cho
rằng ông cụ không phải là con người mà chỉ là gỗ đá ? Vì rằng chính anh là
người đầu tiên và người can thiệp quyết liệt nhất để bãi bỏ đề nghị công khai
hoá quan hệ của anh Cả với cô Xuân. Vì rằng ý kiến của anh có tính chất quyết
định, có sức mạnh thuyết phục thậm chí khống chế nhiều người khác. Tôi đã hỏi
kĩ anh Tô về cuộc họp ấy.
- Tôi biết rằng cậu đang vô cùng căm giận, chẳng những riêng
tôi mà tất cả những ai bãi bỏ mối quan hệ này. Nhưng thực tình, chúng tôi hành
động chỉ vì quyền lợi của dân tộc, và cũng vì uy tín của chính ông cụ.
- Tôi đã nghĩ mãi về cái điều mà các anh thường gọi là uy
tín của cán bộ lãnh đạo, là thần tượng hay hình ảnh người dẫn đường cho nhân
dân. Tôi thấy đó là thứ lý thuyết kì cục và khiên cưỡng. Cuộc đời này đầy rẫy
những người đàn ông lớn tuổi yêu đương say đắm những người đàn bà trẻ hơn mình.
Không chỉ trong hàng vua chúa mà trong cả đám dân đen. Nếu tôi không nhần ngay
ông nội anh cũng có một nàng hầu hai mươi tuổi khi ông cụ đã bảy mươi hai. Điều
này là thực hay là bịa ?
- Điều đó là thực, dù ông nội tôi chỉ là chánh tổng. Tôi vẫn
nhớ hình ảnh ông cụ ngủ trưa, gối đầu lên đùi người đẹp hai mươi tuổi đó và
nàng ta phe phẩy quạt hầu. Tôi cũng nhớ rằng bà nội tôi ăn cơm với hai người
trên nhà chính còn gia đình chúng tôi ăn cơm riêng ở nhà ngang. Tôi cũng nhớ
rằng nàng hầu này lảy kiều rất hay và khi ông tôi hứng lên thường yêu cầu chị
ta hát chầu văn phục vụ khách khứa..Tất cả đều rất thực, Vũ ạ. Nhưng riêng với
anh Cả, sự đó không thể chấp nhận vì ông cụ không thể chỉ sống riêng cho bản
thân. Ông cụ là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho cả dân tộc.
- Vì là ngọn đuốc soi đường nên ông cụ buộc phải thiến như
đám hoạn quan thời xưa hay buộc phải sống chui lủi như kẻ buôn lậu ? Cái trò
này chính các anh đã đặt bầy. Khởi sự từ việc cử cô Minh Thu vác chiếu vác chăn
đến ngôi nhà sàn trên chiến khu. Nếu bây giờ, tổ chức đảng yêu cầu anh lấy cô Minh
Thu thay vì người đàn bà mà anh đang chăn gối, anh tính ra sao ?
Thuận im lặng. Ông ta lại cúi xuống tiếp tục nhìn chăm chú
thảm cỏ dưới chân. Một đám diệp lục mềm mại tựa lông nhung và trông ngon lành
như có thể ăn được.
Vũ tiếp tục:
- Tôi không hiểu nổi danh từ đồng chí hay chiến hữu mà các
anh nói như hát trên đầu lưỡi. Thực tình, tôi không hiểu. Từ xưa đến nay, loài
người liên kết được trước hết là nhờ sự cảm thông. Đám chúng sinh thấp cổ bé
họng cũng biết nói câu : ― Ai cũng xương cũng da, dao cắt vào thịt nào cũng
chảy máu „. Người theo đạo Phật ắt biết câu nói nổi tiếng của Thích ca :― Máu
ai cũng đỏ và nước mắt ai cũng mặn „ Đạo Thiên chúa cũng dậy con người chớ gây
cho kẻ khác điều mình không muốn. Dù tôn giáo
phương tây hay phương đông, con người đều được học cách cư
xử như vậy. Huống chi các anh, những kẻ tự coi là tinh hoa của dân tộc, là lớp
người có đủ thông minh lẫn can đảm, nòng cốt của một đảng bách chiến bách thắng
? Trở lại chuyện gia đình anh Cả, tôi cần nhắc anh nhớ lại một trường hợp tương
tự trong lịch sử, đó là chuyện tình giữa Nguyễn công Trứ với người vợ ba của
ông. Vị quan lớn đa tình và đa tài này từng nói một câu nổi tiếng : ― Ngũ thập
niên tiền...
Thuận gật đầu, đọc tiếp :
- ― Ngũ thập niên tiền, nhị thập niên― Năm mươi năm về trước
ta là chàng trai hai mươi tuổi. Đấy là cách diễn đạt hết sức khôn ngoan dí dỏm
với bạn tình...Ngay với mối tình lãng mạn ấy, Nguyễn công Trứ vẫn là một gương
mặt hiển hách trong lịch sử. Chuyện đó nữa, tôi cũng có nhớ, Vũ ạ, chỉ có điều
là ...
- Chỉ có điều là ...sao ?
- Có điều là chính ông cụ cũng chấp nhận sự hy sinh ấy.
Chính ông cụ cũng không phản bác.
- Trên nguyên tắc biểu quyết, một mình ông cụ không thể
thắng nổi mười hai người. Nói cho thật cặn kẽ chỉ một mình anh Tô muốn ủng hộ
ông cụ. Nhưng sau rốt bị đám đông uy hiếp nên anh ta đành đổi hướng theo các
anh. Như thế, về lý, ông cụ là tuyệt đối thiểu số. Còn về chữ tình, không nói
cũng hiểu rằng ông cụ trông mong ở sự thông cảm của các anh, những người xưa
nay vừa là đồng chí vừa là đàn em. Từ ngày khởi đầu cách mạng cho đến lúc này,
mọi sự vẫn diễn ra như vậy. Có điều ông cụ không nhận ra rằng tình thế đã đổi
thay. Rằng những ngày xưa thân ái đã chết rồi. Và nó đã bắt đầu chết một cách
thật sự ngay khi các cánh quân rời bỏ núi rừng để tiến về năm cửa ô thành phố.
Rằng giờ đây tất cả anh em đồng chí chỉ còn là đám người buôn chung một món
hàng trên một con tầu vượt đại dương mà vì tiền lời của món hàng đó, các anh có
thể quẳng xuống biển bất cứ kẻ vô tội nào cho nhẹ gánh. Rằng trước mắt các anh,
ông cụ chẳng còn là bậc huynh trưởng thân thiết mà chỉ đơn thuần là con vật
hiến tế cho vị thần cách mạng. Cuộc cách mạng này trước hết đem lợi nhuận cho
các anh, những kẻ toạ hưởng kì thành. Điều ấy tôi nói sai hay đúng ?
Thuận không trả lời, ông ta đứng như bức tượng, dán mắt vào
mũi giầy, loại giầy hở gót đi trong nhà, bằng da bò đột lỗ. Vũ cúi nhìn đôi
giầy yểu điệu ấy và không hiểu vì đâu nó khiến cho ngọn lửa trong lòng ông bỗng
nhiên bốc cao như được tưới dầu :
- Anh là người nhiều chữ nhất trong số mười hai nhân mạng ở
bộ chính trị. Anh thông thạo cả tiếng Tàu lẫn tiếng Pháp, anh thuộc làu kinh
điển cổ lẫn kim. Anh thừa biết rằng nếu ông cụ lấy cô Xuân thì cũng chỉ là đàn
ông một vợ đàn bà một chồng, chưa đến mức đa thê như quan thượng thư Nguyễn
công Trứ. Hãy trả lời cho tôi rõ, tại sao Nguyễn công Trứ có thể mà ông cụ thì
không ? Đã bao giờ anh tự đặt câu hỏi này chưa ?
- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều này.
Thuận thú nhận một cách chậm rãi, dường như vừa nói vừa nhai
mỗi lời vừa thốt ra khỏi miệng :
- Thành thực mà nói, đúng là tôi chưa từng nghĩ tới điều
này.
- Vậy thành thực mà nói, anh nghĩ tới điều gì ? Cái gì chứa
chất trong sọ não của các anh, những kẻ tự xưng là đàn em thân thiết của ông cụ
?
Thuận không đáp.
Vũ cảm thấy một cách vô cùng chân xác dòng thác lửa đang
cuồn cuộn chảy. Một dòng thác lửa. Chúng sắp nhấn chìm ông , sắp biến ông thành
tro than. Và cùng với ông, những kẻ liên đới. Ý muốn tàn sát thiêu huỷ khởi dậy
trong tâm hồn ông. Ông nhìn thấy cơn ham muốn đó nở phình ra như trái bóng bơm
căng. Một ham muốn điên cuồng :
« Ta phải chạy khỏi nơi đây. Ta phải đi ngay cho khuất mắt.
Ta không thể chịu đựng được cái gã mặc bộ đồ pi-ja-ma sọc và đi giầy hở gót
này. Cái gã đàn ông đang nhởn nhơ thở hít vườn hồng ngào ngạt của y. »
Vũ thầm nghĩ. Cố gắng dằn cơn thù hận, ông nói :
- Tôi phải về, vì còn hai đứa con ông cụ. Tôi báo cho anh
biết trước nếu anh không tức khắc ngăn chặn, lũ côn đồ sẽ tiếp tục ra tay và
sinh mạng hai đứa trẻ phải tiêu vong. Lúc ấy, e rằng chính anh cũng không sống
nổi nếu anh vẫn còn có lương tâm, cho dù một mảy lương tâm rơi rớt..
- Này Vũ...
Thuận không tỏ ra một chút bực dọc. Ông ta vẫn cúi xuống,
dán mắt vào vườn cỏ như muốn tìm một thứ trợ giúp tinh thần hoặc một niềm an ủi
trong những lá cỏ xanh :
- Tôi biết cậu giận tôi lắm. Cậu chưa đến mức căm thù hay
manh động đã là may. Bởi ai cũng biết cậu là người gắn bó nhất với ông cụ trong
đời sống tình cảm. Rằng hồi ở chiến khu chính cậu đã sang bên thành đoàn để gặp
gỡ cô Thanh Tú. Cũng chính cậu can thiệp để cô Minh Thu thôi vác chăn vác chiếu
đến ngôi nhà sàn. Rồi cũng chính cậu dẫn cô Xuân đến nơi ấy. Rằng cậu là người
duy nhất mà cô Xuân tin cậy và phó thác tổ chức cuộc đời. Rằng cậu cũng là
người duy nhất mà ông cụ có thể nói mọi chuyện một cách không kiêng dè, không ý
tứ. Chúng tôi chưa quên những cuộc gặp gỡ tay đôi. Chỉ cần nghe tiếng cười của
hai người là đủ hiểu mối thâm tình đến đâu. Ngày ấy, chúng tôi thầm cảm ơn trời
đất đã giun rủi cho ông cụ gặp người đàn em chung tình hợp ý. Vì chúng tôi ai
nấy đều bận bịu gia đình riêng, chỉ có cậu tự nguyện chia xẻ thời gian cho ông
cụ mà thôi. Chúng tôi cũng biết rằng chính
vì mối thân tình đó mà cậu phải chịu thua thiệt bởi ông cụ
giữ ý, chẳng bao giờ đề nghị một ưu đãi, thậm chí một thăng tiến ngoại lệ. Phần
cậu, cậu cũng lại e dè vì mối thân tình ấy nên lặng lẽ chấp nhận mọi thiệt
thòi. Sự hy sinh ấy buộc chúng tôi dù muốn hay không cũng phải tôn trọng cậu.
Nhưng về phần tôi, tôi cũng đề nghị cậu cảm thông, nếu điều ấy là khả thể. Quả
tình, tôi không ngờ sự việc diễn tiến theo chiều hướng xấu xa này. Quả tình,
tôi chỉ muốn ông cụ giữ quan hệ riêng trong bóng tối để có thể bảo đảm tuyệt
đối hình ảnh vị cha già dân tộc, vị gia trưởng dành toàn bộ tâm tình và nhiệt
huyết cho đại gia đình tổ quốc. Tôi tin rằng việc sắp xếp của mình là thuận lý.
Chính tôi đề nghị ông cụ khuyên cô Xuân chấp nhận sống ở căn gác hẹp khu phố cổ
như một lương dân. Bởi tôi tin rằng tấm gương giản dị ấy khiến cho ông cụ có
nhiều uy tín hơn với anh em.
- A ! Chính là anh ? Chính anh là người quyết định việc này
?
Vũ cất tiếng kêu kinh ngạc :
- Vậy mà tôi đã cãi cọ không biết bao nhiêu lần với văn
phòng quản trị trung ương đảng. Cũng hẳn là vì lẽ đó mà họ phải nín nhịn trước
những lời sát phạt của tôi. Giờ tôi biết anh mới chính là thủ phạm còn họ chỉ
là những kẻ đi đổ vỏ ốc.
Ông ngừng lại một khoảnh khắc để chắp vá lại những mảnh hồi
ức, rồi hỏi :
- Nhưng nếu để tạo uy tín bằng thứ khổ hạnh chủ nghĩa này
tại sao chính anh không thực thi trước ? Tại sao anh không chấp nhận một mái
nhà tranh có hàng dậu bìm bìm ở ngoại ô mà anh lại ngự toạ trong biệt thự đồ sộ
này ?
- Cậu quên là tôi đang phải điều hành công việc của đất
nước.
- Vậy thì ông cụ là hình nộm của các anh ?
- Ông cụ đứng cao hơn chúng tôi một cái đầu. Ông cụ là lãnh
tụ tối cao của dân tộc.
- Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao nên người đàn bà ngủ cùng
giường với ông cụ phải trú ngụ trong căn gác bình dân nơi ngõ hẹp. Còn người
đàn bà ngủ với anh được quyền sống thênh thang trong ngôi biệt thự hoành tráng
này ? Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao, là linh hồn đất nước nên người vợ trẻ của
ông cụ bị các anh giết như giết một con thỏ còn những người đàn bà ngủ với các
anh, tôi nói rõ ở đây là các anh, trong đó bao gồm cả vợ tôi nữa được quyền
cưỡi xe Volga đi chợ và mua áo quần, bánh kẹo lẫn các đồ mỹ phẩm ở cửa hàng
quốc tế ? Dựa trên nguyên tắc đạo đức nào mà các anh tự cho phép mình được làm
những điều ấy ?
Vũ ngừng lại vì cơn giận khiến ông dường như nghẹn thở.
Thuận không đáp, ông ta lấy chân di di một vật nào đó vô hình trên thảm cỏ,
không ngửng đầu lên. Một cơn gió xuân lạnh lẽo lướt qua khung trời và những vòm
lá dâu da khẽ xạc xào thầm lén. Hồi lâu, Thuận húng hắng cất tiếng ho và buông
từng lời rời rạc :
- Tôi xin lỗi. Tôi rất tiếc là cuộc thảo luận của chúng ta
đi vào ngõ cụt.
- Đi vào ngõ cụt là bởi các anh từ chối nhìn vào trách nhiệm
của mình...Các anh giống lũ trẻ con định ném cái tổ chim nhưng khi viên đá
trúng vào ai đó khiến họ vỡ đầu, ngã lăn quay và đổ máu thì các anh bỏ chạy. Sự
ví von ấy có chính xác hay không ?
- Tôi chưa có câu trả lời cụ thể của anh Sáu. Sáng nay khi
tôi gọi điện, anh ấy vắng nhà. Thư kí thường trực báo rằng anh ấy đang xuống
bãi thể thao chạy bộ. Tôi cho rằng đây là sự lộng hành của bộ trưởng bộ nội vụ.
Có thể là anh Sáu chỉ đưa ra chỉ thị chung chung. Rồi sau đó, Quốc Tuỳ đã vận
hành theo lối suy nghĩ côn đồ của anh ta. Hồi bổ nhiệm anh ta , tôi cũng đã gợi
ý anh Sáu về lý lịch tội phạm của tay bộ trưởng này. Nhưng anh Sáu gạt đi, nói
rằng chúng ta phải tin tưởng ở khả năng cải biến và hoàn thiện con người của
cách mạng.
- Có nghĩa rằng sự việc nằm ngoài lãnh địa của anh. Nói một
cách đích xác hơn anh không có trách nhiệm gì.
- Tôi rất tiếc là chuyện xảy ra theo hướng tồi tệ như vậy.
Tôi sẽ hết sức cố gắng. Tuy nhiên, cậu cũng cố gắng hiểu cho tình cảnh của
chúng tôi.
Nói đoạn , Thuận đưa tay chỉ cho ông hàng diên vĩ lá xoăn
viền quanh thảm cỏ như giải đăng-ten viền quanh cổ áo đàn bà :
- Cậu hãy nhìn kia.
Vũ cúi xuống nhưng ông chẳng nhìn thấy gì hết ngoài những
chùm lá màu tía. Những chiếc lá bóng nhẫy, no nê nước, được chăm sóc thường
xuyên khiến vườn cảnh thật mỹ lệ. Nhưng vẻ đẹp thanh nhàn ấy càng khiến ông
điên tiết . Vũ cau có gắt :
- Tôi chẳng thấy gì hết ngoài sự mỹ miều của khu vườn này ;
mà sự mỹ miều đó giờ đây giống như cái gai chọc vào mắt của tôi.
Thuận chẳng tỏ vẻ phật ý . Nét mặt có đôi phần ngơ ngác và
rầu rĩ, ông ta giơ tay kéo áo Vũ để chỉ cho ông thấy một cái màng nhện lớn
chăng giữa hai cành diên vĩ, trên đó một con ruồi mắc lưới đang ra sức dãy dụa
:
- Cậu có nhìn rõ con ruồi trên tấm lưới nhện kia không ?
Phải chăng nó không gợi cho cậu một liên tưởng nào ? Thủ tướng Tô cũng như tôi
rất dễ rơi vào thân phận của con vật khốn khổ đó. Trước đây, tôi chưa bao giờ
nghĩ đến chuyện này. Chính cái chết của cô Xuân đã mở mắt cho tôi. Tình thế đã
đổi thay. Cuộc cờ đã xoay sang nước khác. Cậu hãy nhìn quanh chúng tôi xem :
lính gác, cần vụ, người nấu bếp, người làm vườn, lái xe, thậm chí đến đầy tớ
lau dọn nhà cửa và công nhân đổ rác khu vực này đều là người của họ. Mới có vài
năm mà mọi sự đã đổi thay. Hai năm trước chia nhau bữa cơm gạo đỏ với cá mắm
trên rừng, tất thảy đều đồng lòng nhất trí. Giờ nhà cao cửa rộng, mọi sự chẳng
như xưa .
Vũ bất giác rùng mình. Ông chợt nhận ra sự hèn mọn của con
người, kể cả những kẻ được coi là quyền cao chức trọng, những cái đầu sáng suốt
nhất của dân tộc, những bậc lương đống của quốc gia. Nhìn thẳng vào mặt vị phó
bí thư, ông cười :
- Điều quan trọng nhất và có tính quyết định nhất chính là
sự đổi thay này : Ngày ở trên rừng mọi người đều dấn thân vì nghĩa lớn, sẵn
sàng chờ đón mọi sự hy sinh kể cả cái chết. Còn giờ đây vì nhà cao cửa rộng,
đầy tớ lẫn lính gác đầy sân nên họ chẳng còn chút khí phách nào của bậc trượng
phu. Phú quý vinh hoa biến con người thành đám dê ngựa được thuần hoá.
Mặt vị phó bí thư đỏ lựng lên, hai cánh mũi tròn nung núc
thịt của ông ta phập phồng. Ông ta quay mặt đi để lảng tránh cái nhìn của Vũ.
Vũ tiếp tục nói :
- Dẫu xảy ra sự gì, tôi cũng phải bảo vệ hai đứa con của ông
cụ....Còn anh, tuỳ lương tâm mà hành xử...
Nói xong, ông quay lưng bước đi.
- Chào anh.
- Để tôi tiễn cậu.
Thuận nói và hai người lại đi ngược chiều luống hồng để ra
cổng. Vừa đi, vị phó bí thư vừa nói lời cuối :
- Tôi sẽ đưa vấn đề này ra bộ chính trị. Tôi sẽ can thiệp
tối đa trong khả năng của mình. Tôi cũng sẽ xin lỗi ông cụ và hy vọng ông cụ
thông cảm cho tôi.
- Tuỳ anh.
Vũ đáp một cách lãnh đạm, giơ tay cho ông ta bắt cũng với vẻ
lạnh nhạt như thế. Rồi ông bước ra lối cổng chính vì giờ đây thanh chắn đã được
nhấc lên, hai cánh cổng sắt nặng trịch đã mở rộng hết cỡ. Chiếc Volga bóng
loáng rời ga-ra tiến ra, đậu vào vị trí chờ đợi. Còn mười lăm phút nữa là đến
giờ hành chính. Ông nhìn thấy Thuận hối hả bước lên tam cấp để vào nhà. Thời
gian vừa đủ cho ông ta thay quần áo.
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (2)
- Cháo của bác đây.
Tiếng một người đàn bà nói sát bên tai khiến ông giật mình.
- Phần cháo sáng của bác đây. Mời bác về phòng ăn cho nóng.
- Cảm ơn cô.
Vũ vồn vã đáp. Cô y tá mang phần ăn sáng cho ông nhoẻn miệng
cười rồi lắc cái đuôi tóc kết sam một cách yểu điệu trước khi quay đi. Vũ nhìn
vào chiếc bát sắt tráng men : Cháo thịt đại trà ; thứ cháo nấu trong những
chiếc nồi đại, cao gần như thùng chứa nhựa đường rồi sau đó được san vào những
chiếc xoong nhôm lớn để chia cho hơn một ngàn con người trong viện. Một cơn
rung mình bỗng chạy qua toàn thân Vũ. Ông bỗng khiếp sợ cái món ăn tập thể này.
Hoặc là những kỉ niệm nặng nề khiến ông chán ăn, hoặc là cái chết của người
cùng phòng làm món cháo trở thành thiu vữa. Hoặc là sự cộng hưởng của cả hai
thứ.
Vũ đưa mắt tìm mấy người đàn bà chăm sóc người bệnh trong
phòng của ông. Trong số đó, ông đặc biệt chú ý đến một bà già xương xẩu, cao
lòng khòng nhưng vững trãi như một dàn giáo. Trước những con mắt hoặc là thán
phục hoặc khiếp sợ của đám hộ lý cũng như y tá, bà ta thường bế bổng ông chồng
lên đem vào phòng tắm như người ta bế bổng một đứa trẻ lên ba. Vậy mà nghe đâu
ông chồng này đã bỏ bà ta mười năm dưới làng, để sống vụng với một nữ đồng chí
trên chiến khu rồi sau ngày giải phóng thủ đô lại gối chăn với một bà goá đất
Hà thành mỡ màng như miếng thịt mông luộc. Giờ, đến lúc gần đất xa trời, hẳn
không thể nhờ cậy được ai nên ông ta lại yêu cầu con cái triệu hồi « bà răng
đen váy ộp » lên nuôi. Bà già xứ quê không thể quen với xuất ăn bệnh viện. Chắc
bà đói dữ nên Vũ thường xuyên thấy bà đi tầm những thứ bánh trái, khoai luộc
sắn luộc về ăn thêm. Lúc này bà đang đứng xếp hàng, tay chìa sẵn chiếc đĩa nhôm
ra chờ đợi xuất bánh cuốn của đức lang quân. Vũ liền bê bát cháo đến :
- Chào chị, hôm nay tôi nhạt miệng không muốn ăn. Chị có thể
gánh vác giùm không ?
- Ồ, quý hoá quá. Em xin bác. Em chờ lấy bánh cuốn rồi đem
về phòng một thể.
Bà đáp vui vẻ. Vũ chào bà rồi đi về phía đầu hành lang. Ông
tính dạo quanh khu vườn vài vòng, khi nào mệt sẽ tới căng-tin uống cà-phê và ăn
bánh rán. Ít ra, nó cũng không kinh sợ như món cháo loãng này. Cúi đầu, Vũ xăm
xăm bước xuống cầu thang. Ông không nhìn thấy một người đàn ông đang đuổi theo
mình :
- Chú Vũ....Chú Vũ...
- Chú Vũ....Đợi tôi đã....
Người khách gọi ba bốn lời ; Vũ mới sực tỉnh quay lại :
- Anh Bắc !
Ông anh đội mũ lá, quần áo nâu đồng bộ như một nông dân thực
thụ, hai tay xách lễ mễ một đống túi lớn túi nhỏ.
- Em xin lỗi, em đang mải đi...
Hai anh em dừng lại giữa cây cầu thang, nhìn nhau. Người anh
nói :
- Chẳng ai cho tôi biết tin hết. Mãi hôm qua con gái cô Thảo
mới rẽ qua nhà.
Vũ cười :
- Đúng vậy. Vân không thể báo tin cho anh vì chính cô ấy gây
ra cơn chấn thương tâm thể khiến em phải vào đây...Còn cơ quan, em yêu cầu họ
không được cho anh biết vì không muốn anh lo buồn.
- Chú bậy quá! Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới,
sao lại dấu tôi ?
- Vì anh đã có quá nhiều việc phải lo rồi.
Vũ đáp , đoạn cúi nhìn mớ túi xách lủng củng trong tay ông
anh :
- Anh mang gì mà lắm thế ?
- Cam vườn nhà, chuối cũng vườn nhà, mật ong cũng chắt ở đõ
ong nhà....Chỉ có mớ tôm biển là tôi mua và tự tay nướng thôi.
- Anh vẫn coi em như trẻ con hay sao ?
- Ô hay. Trẻ con hay người lớn thì chú cũng vẫn là em tôi.
Hai người nhìn nhau. Hai người đàn ông tóc muối tiêu, người
em nhiều muối hơn tiêu, còn ông anh tiêu nhiều hơn muối. Một chút im lặng rưng
rưng rồi ông anh ngượng nghịu cười :
- Tệ thật. Chú lo nhiều việc nên tóc trắng nhiều hơn tôi.
Kiếp dân quê có cái khổ mà cũng có cái sướng. Ngày vài bữa cơm rau. Lặn mặt
trời là cất tiếng ngáy, chẳng phải nghĩ ngợi gì.
- Anh mà không nghĩ ngợi được sao ?...
Vũ bật cười nhại lại rồi bảo :
- Thôi, đưa em cất mấy cái túi rồi anh em mình xuống quán
trà uống nước...Trong phòng bệnh, mùi mẽ chẳng thơm tho gì. Anh cứ đứng đây chờ
em.
Nói đoạn, ông xách mớ túi trở lại phòng. Sau khi xếp gọn
gàng các thứ quà vào chiếc tủ nhỏ, Vũ quay lại cầu thang và hai anh em đi tới
căng-tin bệnh viện. Ở đó, họ ngồi bên ấm trà im lặng. Cả hai nhẩm tính xem lần
cuối cùng gặp nhau đã bao lâu. Rồi, gần như cùng một lúc, họ bật tiếng kêu :
- Thấm thoắt đã hai năm rưỡi.
Ông anh cải chính :
- Hai năm bảy tháng rưỡi rồi.
Cả hai người lại im lặng, như người nọ chờ người kia lên
tiếng trước. Hồi lâu, Vũ bật tiếng kêu :
- Em nhớ mẹ quá, anh Bắc ơi.
Ông anh gật đầu :
- Tôi cũng vậy.
Ngừng lại một giây, ông nói thêm :
- Thật lạ lùng, càng về già càng giống trẻ con. Nhớ mẹ cứ
như hồi lên năm lên sáu.
- Sáng nay, lúc bệnh viện chia cháo, em nhớ lại món cháo cá
mà mẹ vẫn nấu thời xưa. Chỉ nghĩ thôi đã nhỏ dãi vì thèm.
- Ờ, mẹ nấu ăn ngon nức tiếng cả vùng. Chả thế mà cứ ở đâu
có tiệc lớn người ta lại đến chèo kéo. Chú có nhớ đêm sang cát cho bà nội, mẹ
nấu cháo cá quả đãi mấy chục người trong họ ?...
- Có, em như vẫn ngửi thấy mùi thơm của gừng tươi giã, thìa
là hành tăm, hạt tiêu nghiền và ớt tươi dầm nước mắm cốt. Em vẫn nhớ cái ang
rộng đặt đầu hồi mẹ thường nhốt cá quả để ăn dần. Lũ cá quẫy tanh tách suốt
đêm.
Vũ ngừng lời, dường như nếu tiếp tục nói thì ông sẽ bật
khóc. Cái ang cá ấy hai anh em ông thường ra chọc phá, nhiều phen làm lũ cá
nhảy vọt ra sân. Có lần, trong cuộc tập trận giả của lũ trẻ toàn huyện, ông
được đóng vai tướng Đinh bộ Lĩnh. Vì muốn phóng tay khao lũ trẻ cùng phố để
xứng đáng là bậc anh hào, ông về nhà đòi mẹ nấu cháo khao quân. Đương nhiên, bà
từ chối vì xưa nay chưa có ai chiều con để làm một việc rồ dại như vậy. Hôm
sau, thừa lúc mẹ ông đi chợ, Vũ dốc cả một túi ớt bột hai lạng vào ang khiến lũ
cá chết sặc. Trở về nhà, mẹ ông hiểu ngay sự tình. Bà đành đổi giận làm vui,
làm thịt gần hai chục con cá lớn, nấu một nồi ba mươi cháo để khao đại quân của
Đinh bộ Lĩnh phố huyện. Hơn bốn mươi thực khách tí hon được mời đến thưởng thức
cháo cá và các loại bánh kẹo tráng miệng. Ông anh lúc đó phải thay mặt ― tướng
quân Vũ „ đứng lên tuyên bố lý do ― Vũ tướng quân thết lính mừng chiến thắng „
Bởi sau khi gây tội ác, Vũ đã chuồn ngay sang nhà bà ngoại. Khi bữa tiệc kết
thúc, đám trẻ trong huyện no nê xoa bụng ra về, ông Bắc bị phạt nằm úp mặt xuống
chiếc chiếu trải giữa nhà, nhận một loạt mười hai roi tre vút lên mông vì tội a
tòng phá hoại. Trong khi đó, Vũ yên trí nhởn nhơ dưới cánh tay che chở của bà
ngoại, tuy thiệt mất bữa cháo cá nhưng bù lại được bà cho đi ăn phở và các bánh
trái khác. Như thế, ba ngày đêm trôi qua. Tới ngày thứ tư, mẹ ông đến và réo từ
ngoài ngõ :
- Vũ, mẹ tha tội cho con. Không phải trốn nữa. Đi về nhà.
Kỉ niệm đó khiến tim ông tràn đầy xao xuyến. Vũ thầm nghĩ :
― Anh ấy luôn luôn phải chịu đòn thay ta. Anh ấy luôn phải
giơ vai ra đỡ những gánh nặng...Không chỉ tuổi thơ mà cho đến tận lúc này„
Bất giác, ông cúi xuống nhìn bàn tay người anh đang đặt trên
bàn : đó là bàn tay nông dân thực thụ với những ngón tay thô nháp, đen rám vì
nắng cháy, các vành móng tay thâm xì nhựa cây.Bàn tay ấy đặt cạnh bàn tay ông
như một tương phản vô tình. Bởi từ lâu, ông chỉ làm việc trong văn phòng nên
những ngón tay trắng nuột như tay đàn bà đẻ....Đã mười hai năm nay, Bắc phải để
lại gia đình trên phố huyện, giao xưởng mộc nổi tiếng của ông cho đứa con rể
điều hành để về sống nơi quê ngoại của bà mẹ, với danh nghĩa chăm sóc bà mợ già
không chồng không con nhưng thực chất là để nuôi Nghĩa, đứa con gái cô Xuân.
Ngày cô Xuân chết, Vũ cho người nhắn ông lên, bởi chẳng tìm ra ai gánh vác nổi việc
này. Vợ ông, cõng thêm một đứa con trai đã là quá sức. Vả chăng, ai cũng biết
rằng Vân ghét những người cùng giới tính. Bà có thể đóng vai hữu nghị trong
chốc lát với một vài người đàn bà phổi bò hoặc ngu dốt, lợi dụng họ hay biến họ
thành trò chơi, nhưng trong thâm tâm bà không muốn kết giao với bất cứ ai. Bà
chỉ có thể làm bạn với đàn ông. Bà chỉ có thể nuôi một tình cảm thực sự với
người khác giới. Bà yêu ông, nhưng ngoài ông, bà muốn có thường xuyên một đội
ngũ đàn ông vây quanh bà, dưới tất thảy các loại nhãn hiệu như đồng chí, bạn
đồng nghiệp, bạn đồng hương, bạn đồng niên, bạn đồng môn, chị em nuôi, cô cháu
kết nghĩa...Thực chất, đám đàn ông này dù già hay trẻ đều xoay quanh người đẹp
Hà thành như các hành tinh lớn nhỏ xoay quanh một vầng dương, sẵn sàng phục vụ
bà khi cần thiết. Họ chiêm ngưỡng nhan sắc của bà, thèm khát bà một cách thầm
lén, dù trong giấc mơ chính ngọ hay giấc mộng lúc nửa đêm. Như thế, người đẹp
Tố Vân luôn sống với niềm kiêu hãnh của một nữ hoàng không ngai, tuy chẳng
chính thức xưng danh nhưng không thiếu ánh hào quang bao quanh tên tuổi...Và
như thế, trời không thể phú cho bà đủ lòng từ bi để chăm sóc một đứa con gái mồ
côi....Hồi ấy, tuy chưa đủ can đảm để hiểu vợ một cách rạch ròi nhưng ông cũng
biết chắc chắn không thể đưa Nghĩa về sống dưới mái nhà mình. Chẳng còn cách
nào hơn là trông cậy vào tình ruột thịt. Ông sai lái xe về phố huyện mang lá
thư vẻn vẹn một dòng :
― Anh thân mến, em cần gặp anh ngay, càng sớm càng tốt. „
Lái xe đi buổi sớm, tối sẩm quay về Hà-nội mang theo người
anh cả . Buổi tối, ăn cơm xong, họ ra vườn hút thuốc. Ông Bắc hỏi :
- Liệu họ có để cho đứa bé yên thân sinh sống nơi thôn dã
?...Chú đừng quên rằng càng xa thủ đô, càng tối tăm...Côn đồ càng dễ ra tay.
Vũ đáp :
- Em lại nghĩ rằng ở xa, đứa bé sẽ an toàn hơn. Nó là phận
gái, chẳng phải kẻ duy trì nòi giống nên không nằm trong ống kính của họ. Ở xa,
họ bớt chú mục. Bớt chú mục ắt bớt động dã tâm.
Ông anh bảo :
- Vậy là được. Nếu chú đã thu xếp đầy đủ quần áo cho cháu
bé, tôi sẽ đưa nó đi ngay đêm nay.
- Anh không cần đi ngay đêm nay. Lái xe phải ngủ. Nhưng sáng
mai, em sẽ yêu cầu cậu ta đưa anh và con bé lên đường thật sớm. Tuy nhiên...
Lúc đó, chính Vũ lại tần ngần.
Ông thấy áy náy khi buộc người anh phải bỏ gia đình lẫn công
việc để về sống nơi thôn dã, một cuộc sống thiếu ánh điện, thiếu mọi phương
tiện sinh hoạt bình thường. Đang từ ông chủ một xưởng mộc lớn nhất ba huyện,
ông sẽ buộc phải cấy lúa, làm vườn, kẽo kẹt đẩy xe thồ đi bán mít, bán ổi, bán
dứa, bán bưởi, bán xoan...Đang từ bậc gia chủ ngày ngày có cơm bưng nước rót,
ông sẽ phải sống trong ba gian nhà mênh mông tù mù ngọn đèn dầu hoả, phải tự
nấu lấy mấy bữa cơm trong căn bếp mù mịt khói trấu, khói rạ. Ông sẽ phải chịu
đựng nỗi nhớ vợ nhớ con. Ông sẽ phải chịu đựng cả nỗi nhớ nghề, bởi đó chính là
một người thợ có đôi tay vàng, tất thảy những gì ông làm được người trong vùng
trân trọng như những tác phẩm mỹ thuật. Đồ gỗ khảm trai của ông không chỉ để
dùng mà còn được coi như gia sản di tặng cho con cháu. Gia đình nào cũng cố mua
cho được một thứ gì đó, một chiếc tủ chè, tủ đứng, một chiếc búp-phê, hay một
chiếc sập chân quỳ. Và hãnh diện khoe với láng giềng : « Đồ xịn nhà ông Bắc đấy
! »
Nghĩ đến nông nỗi ấy, Vũ đâm ra ngượng ngùng :
- Tuy nhiên, em nghĩ rằng...em thật là có lỗi với anh.
Ông Bắc lắc đầu :
- Chú không cần áy náy. Tôi biết phận mình đã lâu. Ngày chú
còn ở trên chiến khu Việt bắc, mẹ ốm nặng nửa năm liền. Trước khi chết, mẹ dặn
tôi : « Em con về già gặp nhiều điều khổ tâm lắm. Con đừng bỏ nó một mình. Tuy
thiên hạ nói : Anh em kiến giả nhất phận. Nhưng nhà mình phải tuân theo câu này
: Anh em như thể chân tay »
Đoạn ông dập điếu thuốc, đi ngủ.
Hôm sau, ông dắt đứa bé lên xe từ lúc còn mờ sương.
Mười hai năm trôi qua như giấc mộng.
Người anh đã trở thành nông phu đích thực, đúng như Vũ dự
đoán, cho dù ông không cấy lúa. Tiêu chuẩn gạo của ông trên phố, vợ ông mua và
chuyển về từng tháng, tiện thể bà ghé thăm chồng, thu xếp những thứ vặt vãnh mà
người đàn ông không quen đảm nhiệm. Dưới thôn, một mình ông chăm sóc nương
vườn. Vườn trước, vườn sau, trại trồng dứa, sân nuôi gà vịt, mười hai đõ ong
nhà...Xoay sở từ sáng đến tối, chẳng ngày nào thiếu việc. Như thế, ông nuôi
Nghĩa từ năm hai tuổi cho đến lúc này, đã trở thành cô thiếu nữ biết quán xuyến
việc nhà, biết phụ bố đẩy xe thồ đi bán trái cây hoặc gia cầm vào ngày phiên
chợ. Làng xóm gọi họ là bố con ông thợ mộc vì Bắc có đem theo mớ đồ nghề và
những lúc rảnh rỗi, ông ngồi luyện tay đục tay chạm cho khỏi quên. Bà mợ của họ
đã chết từ bẩy năm nay, thọ tám mươi hai tuổi. Nhưng Bắc vẫn ở lại miền quê
cùng đứa bé.
Sau một hồi im lặng, Vũ cất tiếng hỏi :
- Cháu nó ra sao hả anh ?
- Nó khoẻ và ngoan, càng lớn càng hiền lành. Tôi e là nó quá
hiền lành nhút nhát.
- Giỏ nhà ai quai nhà ấy. Mẹ nó xưa cũng hiền lành như vậy.
- Có điều năm nay nó đã tới tuổi dậy thì.
- Chết thật ! Sao em lại quên khuấy đi điều ấy nhỉ ?
Vũ kêu lên rồi nhẩm tính. Quả thật, đứa bé đã đến tuổi dậy
thì. Thời xưa, còn tục tảo hôn, mười ba tuổi người ta đã lấy chồng cưới vợ.
Ngày nay, ấy là tuổi bản lề để con người bước từ thời niên thiếu sang tuổi
thanh xuân.
- Trời đất ơi, nước chảy bèo trôi, thời gian đi như tên
bắn...
- Thế đấy, chú và tôi, chúng ta cũng đã già đi nhiều.
- Mười hai năm qua, anh đã phải xa chị và các cháu để gánh
vác cho em.
- Chú đừng nói thế. Phận sự của chú cũng chính là phận sự
của tôi. Tôi không quản ngại gì. Chỉ có điều khó nghĩ là giờ đây, con bé đã
lớn. Nếu để nó tiếp tục sống dưới làng, nó sẽ trở thành người làm vườn thực
thụ, rồi chẳng mấy lúc, nó sẽ phải lòng một cậu trai làng và biến thành nông
dân. Như thế, xem ra quá thiệt thòi cho thân phận của con bé chăng ? Tuy sống
dưới vòng tay bảo trợ của chúng ta, nhưng danh chính ngôn thuận, đó vẫn là một
công chúa.
- Vâng, anh nói đúng. Việc này hoàn toàn do lỗi ở em. Em mê
mụ đầu óc nên không sớm nghĩ ra điều này.
Vũ nói, đoạn nắm lấy bàn tay ông anh :
- Anh xem này, tay anh đen đủi xù xì còn tay em trắng lốp.
Vậy là bao nhiêu phần vất vả trong gia đình anh gánh hết cho em.
- Chú nói rỡn, ai làm việc văn phòng mà chẳng trắng mặt,
trắng tay ?...
- Em không thể mở miệng cảm ơn anh vì lời lẽ đó tầm thường
nhạt nhẽo. Lẽ ra, theo cung cách thời xưa, em phải quỳ gối trước mặt anh mà vái
tạ.
- Ồ chú Vũ....
Ông anh lắc đầu :
- Đừng nói thế. Chớ bao giờ nên nói thế. Tôi với chú là khúc
ruột trên khúc ruột dưới. Gánh nặng trên vai chú cũng là gánh nặng trên vai
tôi.
Nước mắt trào qua mi, lăn xuống gò má Vũ. Ông quay đầu nhìn
sang khu vườn sau của bệnh viện để tránh những con mắt tò mò. Ông Bắc cũng cúi
xuống, uống liên tục hết chén trà này đến chén trà kia. Cả hai đều nghe rõ
tiếng ong rù rì bay trong đám dâu da. Hồi thơ ấu, vườn nhà họ cũng trồng dâu
da, ong cũng rù rì bay như hôm nay. Những tàn lá dâu da cũng xanh màu xanh mong
manh và đám hoa chua me dại mọc dưới các gốc cây cũng tím màu tím ấy...Cảnh vật
đâu có thay đổi ? Chỉ có một đổi thay là từ hai chú bé mặc quần thủng đít giờ
họ đã trở thành hai gã đàn ông đứng chông chênh giữa tuổi trung niên với tuổi
già.
Hồi lâu, người anh ngẩng đầu lên :
- Việc chú với cô Vân sẽ giải quyết theo hướng nào ?
- Em chưa làm thủ tục ly hôn nhưng sẽ dọn vào cơ quan. Khi
nào thằng bé Trung nghỉ hè em sẽ đón nó về đấy. Bữa trước cậu thư kí đến thăm
em đã yêu cầu chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết để khi ra viện em sẽ về thẳng nơi
ở mới. Còn Vân sẽ ở lại biệt thự với Vinh và chắc chắn, cậu em ruột của cô ấy
sẽ mò tới.
- Khó mà ổn thoả. Tôi nghĩ rằng cô ấy chẳng chịu đâu.
- Bây giờ, em chưa tìm được giải pháp nào hơn.
- Tình thế này, chú khó gánh thêm cháu Nghĩa. Thôi , để tôi
đưa nó lên phố huyện với gia đình. Dẫu sao, gái phố huyện còn đỡ thiệt thòi hơn
là nông dân xóm trại.
- Em xin đội ơn anh, nhưng em sẽ xoay sở tìm nơi nhờ vả. Quả
tình là con bé quá thiệt thòi. Ông Bắc đứng lên :
- Tôi phải quay về nếu không lỡ chuyến tàu chiều. Bỏ con bé
một mình qua đêm e không ổn. Có lẽ tôi phải thu xếp bán nhà cửa vườn tược hoặc
thuê người trông coi để đưa nó lên phố huyện, sớm ngày nào hay ngày ấy.
Ngần ngừ một lát, ông buông tiếng thở dài rồi nói thêm :
- Chú biết không, ối thằng con trai sớm chiều lượn quanh
ngõ. Chưa đầy mười bốn mà con bé đã đẹp nõn ra.Thế nên, tôi chẳng dám để nó ở
một mình.
Nói rồi, ông xoa lưng đứa em trai :
- Chú lo giữ sức khoẻ. Tôi sờ thấy cả dãy xương sườn rồi
đây.
Chụp chiếc mũ lá lên đầu, ông đi.
Vũ ngồi lại, nhìn ông Bắc mất hút trong đám người tấp nập ra
vào trước cửa bệnh viện. Ông không thích cảnh bịn rịn phơi bày trước mặt đám
đông nên không bao giờ đưa tiễn người anh. Trong gia đình ông, thường diễn ra
cảnh trái ngược này : Khi ông về phố huyện thăm ông Bắc, lúc ra đi hai anh em
bìu díu hàng giờ đồng hồ chẳng dứt ra nổi. Bao giờ ông anh cũng mượn cớ tháp
tùng ông em ra xe rồi kéo đi lòng vòng quanh các phố để hỏi thăm láng giềng,
ghé chỗ này một lát uống chén trà, tạt qua chỗ kia một lát thưởng thức bể cá
cảnh hay hòn non bộ. Rồi, đến lúc chót, ông Bắc lại đột ngột kêu lên :
- Thôi chết, tôi quên đưa cho chú gói chè....Chè ướp sen của
bà Liễu trong làng Chẩm Liên đấy. Mùa sen, bao nhiêu hồ sen lớn trong vùng đều
lũ lượt chở hoa đến bán. Tay sao chè của bà ấy thì chẳng ai dám bì. Dân Hà nội
vẫn phải đổ về đây mua.
- Thôi chết, tôi đã nhốt mấy con cá vào túi nước mà lại để
quên trong bếp. Chờ tôi đã. Cá này thuần cá sông loại thượng hạng. Chịu khó
xách về nhốt vào ang, rồi bảo cô Vân nấu cháo hay hấp rượu gừng cho mà ăn.
- Thôi chết, mớ tôm biển tôi đã nướng kĩ lại bỏ quên trong
trạn. Chờ tôi lấy đã. Mang về Hà nội mà uống bia.
Lần nào, ông anh cũng tìm ra đủ thứ quên lãng như thế, và
cuộc tiễn đưa cứ dùng dắng kéo dài. Ngược lại, ông Bắc lên Hà nội chơi, lúc ra
về thường một mình chạy cun cút ra xe, ông em ngồi trong nhìn theo một cách âm
thầm. Tính khí họ trái ngược nhau, cung cách cư xử cũng vậy.
Vũ nhắp một ngụm trà :
« Anh ta thật xứng là người : Quyền huynh thế phụ !... »
Ông thầm nghĩ, nhưng tức khắc lại tự riễu cợt mình :
« Anh ấy thế phụ nhưng chẳng có quyền huynh !... »
Và đúng là như thế. Mọi quyết định lớn trong gia đình chính
ông đảm trách . Nhưng thực hành những nghĩa vụ nặng nề nhất lại chính là ông
anh. Hồi nhỏ, mẹ anh thường nói với cha anh, không ra than phiền, cũng chẳng
phải vui sướng, chỉ đơn thuần là một nhận xét với xiết bao tò mò, kinh ngạc : «
Hai đứa con trai nhà này giống như ăn phải bùa mê hay bả tình của nhau vậy.
Nhưng thằng bé lại to đầu, chuyên sai khiến thằng anh. ».
Vũ cười thầm, đưa chén trà lên uống. Đúng lúc ấy, ông thấy
hai gã Trần Phú và Lê Phương đang khoác tay nhau đi qua sân. Đột nhiên, một ý
tưởng vụt qua óc ông :
« Hai gã này ! Chính là hai gã này. Tại sao không ? Chắc
chắn ta sẽ nhờ cậy được một trong hai kẻ đó. Linh giác mách bảo ta như vậy. »
Ông vội đặt tách trà xuống chạy ra cửa, gọi Trần Phú. Hai
người cùng tức khắc quay lại :
- Ồ, đại nhân....
Lê Phương nhoẻn miệng cười :
- Đại nhân có hẹn với ai hay ra đây để tránh mặt người ?
Vũ hỏi :
- Tránh mặt người ? Anh muốn nói điều gì vậy ?
- Tránh mặt đám đồng chí của anh trong phòng bệnh. Cuộc đối
diện thường xuyên với đám đồng chí đó, hẳn không làm cho anh khoẻ khoắn cả thể
chất lẫn tinh thần ?
- Ồ, đúng vậy.
Vũ thú nhận. Ông quay lại bảo Trần Phú :
- Anh còn nhớ người bệnh nằm đối đầu với tôi không ? Cái tay
sĩ quan từng quen biết anh khi anh phụ trách tiểu đoàn 5O7.
Trần Phú ngơ ngác nhìn ông :
- Tôi chưa kịp định thần để nhớ lại cái thời xa xôi ấy.
- Ồ, cái tay sĩ quan quân đội nhưng không dám vào viện 108
điều trị mà lại trốn sang bên này. Cái người đã gửi lời thăm và nói rằng anh là
người biết chọn đúng con đường của mình trong cuộc đời.
- A ! Giờ thì tôi nhớ ra rồi. Cái gã khò khè môi thâm như
mận Lạng sơn chứ gì ?
- Chính xác. Anh ta đã chết sáng nay.
- Thế a ...
Trần Phú buông tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng chẳng
phải buồn phiền... Rồi anh ta quay sang bảo Lê Phương :
- Gã trung tá này có một cuộc đời sóng gió, đầy ham hố cũng
như tì vết, và đương nhiên là vô số ân oán giang hồ....Lúc nào rảnh tao sẽ kể
cho mày nghe. Được cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đấy...
Quay sang Vũ, anh ta hỏi :
- Khi anh ta chết, nhân viên bệnh viện đưa xuống nhà xác.
Còn người thân chẳng một ai vào, điều đó có đúng không ?
- Sao anh biết ?
- Vì tôi vốn có thói xấu tò mò....Tôi đã quên anh ta từ lâu,
nhưng khi anh nhắc lại, tôi muốn hiểu xem những gì đã diễn ra giữa đám người
cùng thời với mình. Và tôi mở cuộc điều tra tức khắc.
- Đúng, anh ta chết khoảng ba bốn giờ sáng nay. Từ khi anh
ta nhập viện , chẳng thấy một ai bước vào. Cái tủ đầu giường của anh ta chưa
từng có một quả cam hay một gói bánh người khác đem tới. Bác sĩ bảo anh ta nhập
viện đã gần ba tháng.
- Đó là chung cục của một cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta
chuyển đề tài, vì thứ người như vậy chẳng đáng quan tâm vào một buổi sáng đẹp
như sớm nay.
Vũ cất tiếng cười :
- Anh có lý....Vì chính tôi, tôi cũng đang có chuyện đau đầu
và đang muốn nhờ cậy hai anh.
- A...ha ....ha....
Cả hai gã ngoác miệng cười. Tiếng cười của họ ròn rã lan đầy
không trung khiến cho đám người đang ngồi xung quanh tò mò đưa mắt liếc sang.
Lê Phương bảo :
- Một bậc đại nhân quyền cao chức trọng mà lại nói những lời
khiêm nhường như vậy trước mặt hai kẻ lêu lổng, chơi bời ?....Đại nhân định đùa
bọn em hay định nói thật đấy ?...
- Suốt đời tôi, tôi chưa đùa rỡn ai...
Vũ đáp. Và vẻ nghiêm trang của ông khiến hai gã ngậm miệng
lại. Họ bắt đầu chăm chú nghe ông nói.
- Các anh biết rằng tôi lãnh nhận việc nuôi hai đứa con của
một bậc ...huynh trưởng....
- Chúng em đều biết chuyện ấy. Xin đại ca nói tiếp...
- Đứa con trai sống cùng với gia đình tôi. Nhưng đứa con gái
phải về quê sống với anh trai của tôi, một làng hẻo lánh không phải ở tỉnh Bắc
mà tận chót tỉnh Thái Nguyên. Nói thật tình, một đời sống hoàn toàn thôn
dã....Nay cháu đã mười ba tuổi, tôi tính đem cháu về Hà-nội, nhưng chưa biết
nhờ cậy ai.
Lê Phương gỡ cặp kính dày như trôn chén của anh ta xuống,
đưa mắt liếc quanh rồi hạ giọng :
- Đấy chính là đứa con gái đầu lòng của ....bậc trưởng
thượng ?
Dẫu là nhà văn, anh ta cũng phải lúng túng một hồi trước khi
tìm cho được danh từ chính xác, vừa có thể gọi tên người cha bí ẩn kia một cách
rõ ràng, vừa không để cho những lỗ tai bên ngoài đoán định được :
- Đấy chính là những trái cây trong mùa hoa cuối cùng của
cuộc đời bậc cao nhân !
Sau rốt, anh ta tìm lại cách diễn đạt hết sức văn chương.
Vũ gật đầu :
- Chính xác như vậy. Hai đứa trẻ đó cách nhau có hai mươi
tháng thôi.
- Tôi hiểu. Thời gian đó là cuộc truy lĩnh những ham muốn bị
tước đoạt, những dục vọng bị cấm đoán hay ghìm nén suốt cuộc kháng chiến trường
kì. Sau ngày giải phóng thủ đô là thời điểm giải phóng những thân xác bị giam
cầm. Nhưng cuộc giải phóng nào cũng kèm theo những điều kiện khắc nghiệt. Cuộc
giải phóng của dân tộc chúng ta mở ra ngay sau lưng nó những nhà ngục khổng lồ.
- Những nhà ngục khổng lồ ? Ý anh muốn nói gì ?
- Xin lỗi đại ca, những lời lẽ của tôi có thể làm anh phẫn
nộ hay phật ý. Nhưng không thể tìm được danh từ nào chính xác hơn. Sau ngày
giải phóng thủ đô, toàn thể những người Việt nam buộc phải sống bằng các xuất
gạo hẩm của nhà nước và những ô tem phiếu. Điều kiện kèm theo các thứ tem phiếu
đó là sổ hộ khẩu, biện pháp kiểm soát con người còn chặt chẽ hơn chính sách «
Tam gia » của Thương Ưởng thời xưa. Một xã hội mà con người bị khống chế từ
miếng ăn đến sự đi đứng, bị kiểm soát như những con cừu đánh số trong chuồng
cừu, xã hội đó chẳng gọi là nhà ngục khổng lồ thì còn biết gọi bằng danh từ nào
chính xác hơn ?
- Vâng. Quả thực là ...
Vũ đáp, nhưng lòng ông quặn đau. Rồi sau một khoảnh khắc,
ông cố gắng tự trấn tĩnh và nói :
- Vâng. Quả thực là chúng tôi không ngờ được cơ sự diễn ra
theo nông nỗi ấy. Khi dấn thân vào con đường cách mạng, ai nấy đều nghĩ đến
tương lai dân tộc, ai nấy đều mơ đến một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Phan
chu Trinh cũng mơ ước một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Nguyễn thái Học cũng
mơ ước một tương lai rực rỡ cho dân tộc và niềm tin ấy theo ông cho đến tận
đoạn đầu đài. Năm 1946, bao nhiêu chàng trai cảm tử chống lại quân Pháp bằng
bom ba càng, bằng cây súng cổ lỗ mút-cơ-tông và cả bằng dao găm, kiếm ngắn nữa.
Nhưng nếu những người trai này không chết bởi thực dân Pháp, ắt sau ngày chiến
thắng họ cũng sẽ bị các anh kết án và tống giam, hoặc bởi liên quan với quốc
dân đảng, hoặc bởi có gốc tích địa chủ hay tư sản. Tất thảy những ý tưởng tốt
đẹp không thể biện minh cho một chung cuộc đểu cáng, ô nhục như vậy. Xin lỗi
đại ca, nếu sự thẳng thắn của tôi khiến anh phải đau lòng. Nhưng ít ra, một lần
trong đời, chúng ta cũng nên đối đầu với sự thật.
Lê Phương ngừng lời, anh ta quay lại quầy căng-tin cao giọng
gọi :
- Cho ba vại bia lớn nhé. Một đĩa lạc luộc và một đĩa bánh
rán nhân thịt kèm theo.
Trần Phú bật cười hô hố :
- Chiều nay bão cấp bảy sẽ đổ bộ vào đất liền. Bởi cái thằng
kiệt sỉ lõ đít này chưa bao giờ đãi ai dù một tách cà-phê.
Lê Phương quay sang bảo bạn :
- Không kiệt sỉ không phải là tao, mà không mất tiền cho gái
sẽ không phải là mày. Nhưng thực ra mày cũng chỉ để gái moi túi áo bên trái còn
túi bên phải mày vẫn giấu kĩ cho vợ con đấy chứ ?
- Chính xác như vậy.Tao không bác bỏ sự thật. Tao là thằng
dại gái có chừng mực. Bộ máy kiểm toán trong đầu tao tuy nhỏ nhưng hoạt động
liên tục và có hiệu lực.
Hai người lại cất tiếng cười. Vẻ sung sướng của họ khiến ông
sững sờ. Dường như họ sống trong một cõi đời khác. Vừa lúc đó, cô bán căng-tin
bưng ra một mâm đầy nào bia nào đồ nhắm bình dân. Nhà văn đưa mắt lúng liếng
nhìn bạn rồi nói :
- Hôm nay cái thằng đệ nhất kiệt sỉ là tôi khao bia mọi
người để chúc mừng thắng lợi của anh chàng chim gái Trần Phú. Báo tin cho đại
ca mừng là bạn tôi vừa tìm được một cô nàng ngon mắt, ngon cả miệng. Theo
phương thuốc cổ truyền của dân tộc, ắt nàng sẽ chữa được căn bệnh u tiền liệt
tuyến cho cậu ta trong thời gian ngắn nhất.
- Thôi, không phải khua chiêng gõ trống. Để rồi xem. Làm
trước nói sau, các cụ đã dạy như thế.
Trần Phú ngắt lời bạn. Đoạn, anh ta quay sang hỏi Vũ :
- Giờ, xin đại ca uống bia rồi trở lại câu chuyện chính. Nếu
tôi không nhầm anh muốn tìm nơi gửi cháu gái, năm nay tuổi mười ba ?
- Vâng.
- Nó sống ở nông thôn từ thuở nhỏ ?
- Vâng, nói một cách chính xác, từ năm cháu lên hai. Năm nay
nó đã xấp xỉ mười bốn tuổi. Nếu không đưa cháu kịp thời trở lại Hà nội, chắc
chắn nó sẽ trở thành một nông phu. Và sống trọn kiếp sống của người làm vườn,
cấy lúa...
Trần Phú gật đầu :
- Tôi hiểu. Đời người đàn bà ngắn lắm. Trước hết là đàn bà
xứ quê.
Vũ nói tiếp :
- Tôi biết là việc này vô cùng khó khăn. Ngay cả những người
quen thân hàng mấy chục năm nay tôi cũng không dám nghĩ đến. Thành thực mà nói,
chính tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại nảy ra ý định nhờ cậy hai anh ? Hoàn
toàn là sự chỉ định của linh giác...
Trần Phú ngoác mồm cười :
- Linh giác vẫn luôn luôn là người chỉ đường khôn ngoan
nhất. Anh nhờ cậy chúng tôi là đúng. Vì chúng tôi đang ngồi bệt dưới cỏ....Chỉ
có những kẻ đít lấm bùn mới dám dây vào những chuyện như thế này.
Vũ ngơ ngác, ông chưa kịp hiểu anh ta định nói gì. Có lẽ
nhìn thấy vẻ ngơ ngác của ông nên nhà văn đặt vại bia xuống để giải thích thay
cho bạn :
- Có hai thứ người đít lấm bùn. Thứ người đít lấm bùn theo
nghĩa đen tức là nông dân hoặc đám thị dân cùng khổ, những người ấy khó có thể
giúp anh cho dù lòng họ mong muốn. Bởi họ thiếu khả năng, trí tuệ cũng như tài
chính. Thiếu trí tuệ dẫn đến sự sợ hãi kẻ cầm quyền. Thiếu tiền bạc, họ chẳng
thể bao dung ai khi ngay những người thân của họ còn đang đói khổ. Thứ người
đít lấm bùn theo nghĩa bóng là những kẻ tự nguyện sống ngoài vòng quay quyền
lực. Họ chọn cách sống như thế vì họ đủ khả năng nhìn ra sự thấp kém của kẻ cầm
quyền. Thêm nữa, họ cũng tự trang bị một phương tiện tài chính tối thiểu đủ để
duy trì cuộc sinh tồn và có đôi chút dư ra để có thể bao bọc kẻ khác khi cần
thiết. Như thế, họ tương đối tự do.
- Vâng. Giờ thì tôi hiểu. Tuy nhiên...
- Tuy nhiên, anh vẫn ngại ngùng vì chắc chắn đây là chuyện
tầy trời đối với những ai đang sống trong thế giới của anh ?....Chúng tôi hiểu
rất rõ điều đó. Khi sống trong thế giới của quyền lực, sự xếp hạng theo vị trí
quyền lực khống chế tất cả. Càng có quyền, người ta càng ham hố và càng phụ
thuộc vào nó...Còn chúng tôi, chúng tôi là những kẻ gần như đứng bên rìa guồng
máy....Tuy anh bạn tôi là giám đốc một nhà xuất bản nhưng chức đó chẳng qua là
miếng bánh mì khô so với những chức vị thật sự béo bở...Miếng bánh khô chẳng
quết bơ cũng không phết mứt người ta chỉ gặm lúc quá đói ....Không ai mong muốn
phải xài thứ đó suốt đời.....Nhất là khi tuổi đã xế chiều và cần bảo vệ hai hàm
răng....
Ngừng lại, Lê Phương quay sang hỏi bạn :
- Tôi nói thế đúng hay sai, đồng chí giám đốc ?...
- Đúng trăm phần trăm.
Hai người lại phá lên cười. Lát sau, mặt họ đỏ lên vì cơn
cười sặc sụa.
« Họ có một vẻ sung sướng lạ lùng....Một thứ đùa bỡn, cợt
nhả thường trực khiến ta đâm ngờ vực. Chẳng hiểu khi nào họ nói thực và lúc nào
họ nói bỡn ? »
Vũ thầm nghĩ. Không dám bày tỏ nỗi băn khoăn của mình một
cách thẳng thắn nhưng cũng không dám tin vào những điều hai gã đàn ông phong
tình lẻo miệng này vừa nói. Sau một hồi lặng lẽ uống bia, ông cất tiếng hỏi :
- Liệu các anh có thể chịu được sự đe doạ hay quấy rầy của
bộ máy này không ?
Trần Phú đặt vại bia xuống bàn, mặt trở lại nghiêm trang :
- Miệng tôi cười đùa nhưng óc tôi đã tính đủ nước cờ cho
việc anh nhờ cậy. Tôi biết anh là người có bản tính cả lo. Thêm nữa, suốt đời
anh chỉ quen với ngôn ngữ chính thống, thứ ngôn ngữ nghiêm cẩn của các chính
khách và các nhà quản trị hành chính. Gặp lũ lông bông như bọn tôi đây, anh có
đôi phần hoảng hốt cũng là điều dễ hiểu. Thế nên, tôi sẽ lý giải mọi sự một
cách cặn kẽ cho anh yên lòng.
Lần đầu tiên từ khi gặp lại Trần Phú, ông thấy anh ta có một
vẻ mặt nghiêm trang. Có lẽ anh ta muốn làm dịu cơn phấp phỏng trong ông hơn là
để chứng tỏ khả năng giữ tư thế long trọng của kẻ có chức quyền, cho dù thứ
quyền hạng bét :
- Tôi có cô em gái lấy chồng bác sĩ, chính là đứa vẫn làm
bánh Ma-đơ-len, bánh ga-tô và nấu các món ăn đem vào đây nuôi tôi. Vợ chồng nó
vô sinh, đã từ lâu muốn kiếm con nuôi nhưng mọi người, mà trước hết là tôi ngăn
cản. Nuôi con nuôi là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, bởi đa phần những đứa bé bị
cho hoặc bán đi đều có một lịch sử bất thường, chứa đầy những yếu tố bất lợi
cho sự phát triển tâm sinh lý. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng cáng đáng một đứa
bé bị bỏ rơi là việc phúc đức. Việc này có thể làm với một người bình thường
huống chi đối với giọt máu của một bậc cao nhân ? Anh yên tâm đi. Tôi chưa hỏi
ý kiến em tôi nhưng chắc chắn không có gì trở ngại. Chúng tôi sẽ tuyên bố rằng
chúng tôi tìm được một đứa con nuôi. Và rằng chính anh đem cho chúng tôi, ở
ngay đây, trong bệnh viện này. Sự thật ra sao, ta sẽ nói đúng như vậy. Anh, với
danh nghĩa là người đã quen biết tôi hồi ở trên chiến khu Việt bắc. Sự hiểu
biết của chúng tôi chỉ cần hạn định ở mức đó, không hơn một ly. Một đứa con gái
mười ba tuổi không có tiền án tiền sự, chưa từng lừa lọc, giết hại ai, nếu muốn
gây sự cũng khó tìm ra duyên cớ...
- Cảm ơn anh....
Vũ đáp, không khỏi hồi hộp và cảm động. Tuy nhiên, ông vẫn
chưa đủ tin vào những gì đã diễn ra trong cuộc đối thoại ngắn ngủi vừa rồi . Có
thể điều đó quá đẹp để là một sự thật....Uống liên tục vài ngụm bia, ông hắng
giọng rồi gặng hỏi :
- Nhưng chúng ta giả sử rằng....Rằng họ có thể nói toạc ra
sự thật...
- Họ không thể...Và nếu ai dám nói thế tôi sẽ tuyên bố rằng
họ là kẻ phản động, vu cáo bôi nhọ lãnh tụ tối cao....Từ bao năm nay, đảng và
nhà nước đều tuyên truyền giáo dục dân chúng rằng lãnh tụ của chúng ta là vị
cha già dân tộc, người suốt đời tranh đấu vì độc lập và tương lai của đất nước
nên chưa bao giờ có hạnh phúc riêng tư....Tôi sẽ nói đúng trăm phần trăm tất cả
những bài thuyết giáo của ban tuyên huấn trung ương đảng....Tôi sẽ nhắc lại
nguyên si những điều mà họ yêu cầu tôi in ấn từ bao nhiêu năm nay...Tôi sẽ đổ
vào mặt họ chính xác những gì họ đã nôn ra một cách có hệ thống...
- Tuyệt vời...
Nhà văn cất tiếng bình luận :
- Không có phương sách nào hữu hiệu hơn là nhặt viên đá
trước cửa nhà ông Tư râu ném vào vườn ổi nhà ông Tư râu; là lấy gậy của ông
chánh tổng đập vào đầu ông chánh tổng....Tương kế thì tựu kế...Đòn phản công
kiểu này cũng đã có từ hàng ngàn năm nay...Vào thời hiện đại, người ta diễn đạt
một cách tối tân hơn là : Luật phản hồi của chiếc boomerang....Nào, chúng ta
cạn cốc để chúc mừng cho cuộc gặp gỡ hôm nay...
Họ cạn cốc....Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không buông tha Vũ.
Sau một hồi đắn đo, ông lại cất tiếng :
- Tôi không dám phiền anh nhiều đến thế. Thực sự, tôi cảm
thấy không yên lòng....Nếu anh ưng thuận, tháng tháng tôi sẽ cho thư kí mang
tiền và thực phẩm tới góp phần với gia đình...
- May mắn thay chúng tôi chưa cần đến tiêu chuẩn thực phẩm
của các anh...Nói cho cùng, thứ tem phiếu đó chẳng đủ nuôi một con mèo, theo
cái cách người ta vẫn nuôi mèo ở đất Hà thành này từ bao nhiêu năm trước...
Trần Phú đáp. Chừng như đoán được rằng ngần ấy lời lẽ vẫn
chưa đủ khiến cho ông hết băn khoăn, anh ta đưa mắt nhìn quanh. Khi thấy căn
phòng vắng teo, chỉ còn họ là những người khách cuối cùng, anh ta hạ giọng
giảng giải :
- Chúng tôi tuy không thực giầu có nhưng là dân Hà nội cũ,
phải biết dắt lưng ít tiền. Chúng tôi không thể tin tưởng vào sự đưa đường chỉ
lối của những kẻ chiều hôm trước còn ngồi vỉa hè, dốc ống bơ ra đếm mớ xu lẻ
thiên hạ bố thí, sáng hôm sau đã nhẩy lên ghế bộ trưởng bộ tài chính nhờ ân
sủng của cách mạng ...Không, chúng tôi chẳng đến nỗi ngu ngốc như vậy. Tiền của
chúng tôi không thể gửi vào ngân hàng nhà nước, cũng chẳng thể khai báo với các
quan chức vốn dĩ là bọn ăn mày...Chúng tôi phải tìm cách đổi ra thứ gì
đấy....khả dĩ có thể chôn xuống gốc sấu hay gốc cam....Đơn giản thế thôi...Giờ,
anh đã yên lòng hay chưa ?...
- Vâng.
Vũ đáp, và mặt ông lại nóng rát như vừa bị tát. Lần đầu ông
nghe những lời lẽ như thế. Rủi ro thay, nó lại là sự thật. Vậy thì trên cõi đất
này còn có biết bao nhiêu sự thật bị bóp họng hoặc bị chôn vùi ?...
Vừa lúc ấy, tiếng kẻng cất lên , vang rền không trung. Nhìn
ra sân, đã thấy gã trai ngớ ngẩn, to như hộ pháp đang ra sức nện búa vào thanh
tà-vẹt. Cả ba người chẳng ai bảo ai đều đứng lên :
Vũ nói :
- Đã đến giờ ăn cơm trưa. Chào hai anh, tôi phải về
phòng.....Cảm ơn về tất cả những gì các anh đã nói....
- Ồ, đại ca....Chớ nên khách sáo. Mọi thứ đều ở trong tầm
tay. Giờ tôi phải tiễn anh bạn ra phố...Chúc đại ca ngon miệng. Anh cứ chuẩn bị
đồ cho cháu, được đến đâu hay đến đấy, không cần thiết cầu toàn. Phần còn lại
em gái tôi sẽ lo...Tuần sau là chúng tôi có thể đón cháu được rồi...
Trần Phú đáp rồi hai gã khoác tay nhau ra cửa viện. Ông quay
lại khu nhà điều trị, đi trên sân bê-tông mà bập bỗng như bước trên mây....
― Quá đẹp để có thể tin là sự thực.!..
― Ai từng nói câu này nhỉ ?...
Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ, lòng chưa hết xốn xang. Hết cầu
thang, cô y tá trực phòng đã tiến lại trước mặt ông, miệng cười tươi tắn :
- Mời bác về xơi cơm cho nóng. Cháu đặt ở trên mặt tủ rồi.
- Cảm ơn cô nhiều. Tôi về ngay đây.
Cô gái thoăn thoắt bước đi nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nên
vội vàng quay lại :
- Bác có thư nữa ạ....Cháu đã bỏ vào ngăn kéo tủ vì sợ gió
thổi bay hoặc ai đó tò mò giở ra xem...
- Ô...Cảm ơn cô. Có tí tuổi mà đã cẩn thận thế ?...
- Bác quá khen. Cháu chưa bao giờ được coi là người cẩn thận
....Hồi cháu ở nhà mẹ cháu vẫn đặt tên là ― con quạ mổ, ruột để ngoài
da....Nhưng ở xã, thư của cháu thường bị bóc trộm nên ...
- Nên cô có kinh nghiệm về sự tò mò và thói bóc trộm thư của
người khác ...Đó là điều các cụ vẫn gọi ― đứt tay mới hay dao sắc ....Đúng
không ?...
- Thưa bác, đúng thế ạ...
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (3)
Cô cất tiếng đáp hồn nhiên và lại cười, nụ cười khiến gương
mặt cô ngời sáng. Họ chào nhau, cô gái xuống cầu thang và Vũ trở lại phòng. Ông
rảo bước, không khỏi tò mò vì chưa đoán được ai gửi thư cho ông :
― Ai có thể gửi thư cho ta vào lúc này ?...Sáu chăng ?...Y
thường gửi những dòng chữ ghi nguyệch ngoạc trên trang giấy xé ra từ cuốn sổ,
không bao giờ có phong bì để kẻ cầm thư dù là lái xe hay cần vụ đều có thể đọc
được một cách tự do, một thứ thân ái xuồng xã được bộc lộ đầy dụng ý, làm như
giữa hai người có một tình bạn thâm căn cố đế hay rất nhiều đồng loã, đồng
tình...Nhưng thường y chỉ gửi những bức thư kiểu đó khi cần có một cuộc gặp gỡ
đột xuất. Lúc này, ta đang nằm viện, điều đó là bất khả. Còn để thăm hỏi, ngay
hôm ta vào viện y đã cử người mang quà bánh vào rồi, một sự chỉn chu theo nghi
thức. Chắc chắn không thể là y, vậy thì ai ?... ..Ai có thể là tác giả bức thư
này, bức thư đầu tiên kể từ ngày ta được đưa vào viện ?...
Vân chăng ?...Hẳn là cô ấy muốn đề nghị ta tha lỗi hoặc dàn
xếp lần chót cuộc thoả hiệp ?...Trở lại mái nhà xưa, trong tâm hồn rách nát và
một mối tình chẳng còn tình mà chỉ còn lại cặn bã ?... Trở lại mái nhà xưa để
tiếp tục ăn những bữa cơm lặng lẽ, một người nhìn ra sân còn người kia nhìn vào
trong bếp. Sự liên kết bởi thói quen ẩm thực và bởi thiếu phương tiện bếp núc
tự do ?...Trở lại mái nhà xưa vì biệt thự đó là tiêu chuẩn của quan chức cách
mạng và người đẹp Tố Vân vẫn cần đến danh nghĩa của ông chồng như cần đến một
tiện nghi quen thuộc ?...Hoặc vì nàng còn một đứa em trai tồi bại và một đứa
con trai vô dụng mà nếu không có ta chắc chúng chẳng thể tìm được chốn dung
thân ?...
Trong phòng, tiếng thìa bát lanh canh đã vang lên. Những
người bệnh ngồi ăn ngay trên giường, người nhà của họ trải đụp các tấm nhật báo
lên chăn để hứng thức ăn rơi vãi. Xuất cơm của Vũ đặt trên mặt chiếc tủ nhỏ,
nhưng vì vừa uống bia và ăn bánh rán nên ông còn ngang dạ. Mở ngăn kéo tủ, ông
lấy lên chiếc phong bì tự dán bằng giấy kẻ sọc ngang của học trò :
― Thư của thằng bé....Vậy là nó đã biết viết thư....Bức thư
đầu tiên nó viết trong đời ...
Ông giữ nguyên chiếc phong bì trên tay, bồi hồi nhớ lại đứa
bé trai lẫm chẫm bước trong phòng, giọng bập bẹ khi nó tập nói, bàn tay ngọng
nghịu khi lần đầu nó giằng thìa trong tay người lớn để tự xúc cơm ăn.... Những
hình ảnh ấy còn tươi mới như hôm qua, vậy mà giờ đây nó đã biết viết thư cho
ông, đàng hoàng như một kẻ trưởng thành.
Con trai : Trần Trung.
Kính gửi cha : Trần Vũ.
Ông nhìn lần cuối tấm phong bì dán bằng cơm nguội dầy cóc
cách rồi xé ra, lấy thư đọc :
« Cha yêu quý,
Con viết thư này gửi cha, biết cha đang nằm trong viện mà
chẳng có cách nào rời khỏi nơi đây để về. Từ trường sơ tán xuống huyện hơn bốn
mươi cây số nhưng không có xe ca, chỉ có xe ngựa. Mỗi chuyến xe ngựa chở tám
khách nên vé những năm ngàn đồng, vậy mà con để dành hai năm nay mới được ba
ngàn rưỡi. Con có thể đi bộ xuống phố nhưng nếu vậy chẳng đủ thời gian quay lên
và nhà trường sẽ kỉ luật. Không an ủi được cha lúc cha đang đau ốm như vầy, con
thật là có lỗi. Xin cha tha thứ cho con. Con chỉ biết lậy trời cho cha mau lành
bệnh trở về công tác như thường. Ở đây, chúng con vẫn học tốt. Thỉnh thoảng
Vinh có nghỉ học vì đau bụng, nhưng con vẫn chép bài cho anh. Tuần trước, mẹ
Vân lên đây thăm chúng con, có vẻ rất lạ lùng. Con chẳng hiểu chuyện gì xảy ra
dưới Hà nội nhưng mẹ Vân nhìn con chằm chằm rồi bỗng nhiên nói : Chỉ vì anh mà
gia đình chúng tôi tan nát...
Cha yêu quý, con rất khổ tâm nếu con thật sự là nguyên cớ gây
nên sự đổ vỡ trong gia đình. Con chỉ cần biết con là con đẻ của chính cha, điều
đó đã là hạnh phúc. Đối với con, như thế đủ rồi. Chị Nghĩa cũng vậy. Chị ấy
viết thư cho con, bảo rằng xin cha một tấm ảnh của mẹ, rồi giấu vào trong hòm
đừng để mẹ Vân nhìn thấy. Khi nào ra viện, cha hãy cố gắng tìm cho chúng con
cha nhé. Con sẽ làm đúng như lời chị Nghĩa. Con không muốn làm khổ mẹ Vân cũng
như làm thiệt phần của anh Vinh. Cha có thể cho con về sống dưới thôn cùng với
bác cả. Hết hè này, con chuyển về học ở tỉnh cũng không sao. Miễn là gia đình
ta được êm ấm, mẹ Vân và anh Vinh được hài lòng. Con tin rằng chị Nghĩa sẽ rất
vui vì có con, như thế ở nhà quê bác cả sẽ đỡ buồn. Như thế, cha cũng sẽ được
nhẹ gánh và mọi người đều vui vẻ.
Con cũng nói với cha rằng mẹ Vân lên đây với một chú to lớn,
đeo kính đen. Chú ấy chưa từng đến nhà ta bao giờ và có vẻ cư xử rất kì lạ.
Thừa lúc mẹ Vân đang đứng với anh Vinh chú ấy kéo tai con lên bảo ― Tao xem tai
thằng này mềm hay cứng , rồi cầm tai mà xách bổng con lên. Con đau quá nước mắt
chảy ràn rụa. Con suýt hét lên mà phải cố nghiến răng lại vì sợ mẹ mắng. Người
đàn ông này khiến con vô cùng sợ hãi. Con chẳng hiểu vì sao ông ta lại độc ác
với con như vậy....Cha yêu quý, cha hãy cho con về quê, rồi thi thoảng cha về
thăm hai chúng con. Như thế, mọi việc sẽ ổn thoả hơn.
Con vẫn luôn cố gắng học hành để cha khỏi lo buồn. Con cầu
chúc cha mau lành bệnh để cha con ta mau đến ngày gặp mặt.
Con trai của cha hôn cha : Trần Trung.
Vũ vội vã tựa lưng vào tường vì choáng váng :
« Ôi đứa con trai của ta....Tội nghiệp cho nó. Một đứa con
hiếu nghĩa mà chẳng được làm con. Một đứa bé sinh ra đã đầy lòng nhân ái mà
phải sống giữa thế giới của những kẻ bất nhân, bất nghĩa ..
Ôi, tội nghiệp cho chính ta, kẻ nhân danh làm cha mà không
bảo vệ được đứa con sống dưới vòng tay bảo trợ của mình....
...Cũng tội nghiệp cho chính ta vì ta chẳng còn cơ hội để
sinh ra một đứa trẻ có thiện tâm như vậy....Cuộc tình với người đẹp chỉ tạo nên
một thứ sản phẩm không những vô đức vô năng mà còn đầy tì vết, dòng máu khốn
khổ của ta đi lạc vào một thân xác tối tăm và một tâm hồn còn tối tăm hơn nữa.
Đấy thật sự là một cuộc thất bại toàn phần ...
Người đàn bà của ta ! Người đẹp Tố Vân. !.....
Tại sao cô ta có thể hành động độc ác như vậy ?..Người đàn
bà ta đã ấp ủ hơn ba mươi năm trời....Một quãng thời gian dằng dặc với biết bao
kỉ niệm....Nếu không còn tình ít ra cũng còn lại những níu kéo cuối cùng của
nghĩa lý và đạo đức. Một thứ liên đới vô hình buộc con người phải dừng lại
trước những giới hạn. Nhưng người đàn bà này không còn biết đến giới hạn. Thật
kì lạ là cho đến tận giờ ta mới hiểu con người đã đầu gối tay ấp bấy lâu...Cuộc
đời quả là một sân khấu trường kì mà đến lúc hạ màn người ta mới biết được
trắng đen, bởi sự thật được dấu kĩ phía sau những mánh khoé của tích tuồng nhằm
lừa bịp hoặc đánh đố khán giả. ...Cuộc đời cũng giống như trò phù thuỷ trong đó
những loài cóc nhái có thể nhờ phù phép mà biến thành các mỹ nhân hoặc quả bí
có thể biến thành cỗ xe ngựa thếp vàng....Ôi, chẳng phải ngẫu nhiên mà từ ngàn
xưa thiên hạ đã đọc đi đọc lại chuyện Liêu trai, bởi chẳng thiếu gì kẻ sống mê
man trong vòng ân ái cho đến lúc giật mình thức tỉnh thì hoá ra đã chìm đắm bao
nhiêu năm trong lạc thú với bộ xương người ...
Vợ ta !...Tố Vân....Cô ấy đã biến thành kẻ thù tự bao giờ
vậy ?...Gã đeo kính đen kia chẳng phải là ai khác mà chính là tay chân của Sáu.
Chúng giở trò hành hạ thằng bé, đó là dấu hiệu chúng sắp triệu tập ta để đưa ra
một yêu cầu nào đó, với người cha đích thực kia. Điều kiện sinh tồn của kẻ này
trở thành cây gậy chỉ huy với người khác...Ngón đòn này chẳng có gì mới nhưng
điều đáng kinh ngạc là chính cô ta chấp nhận hiệp đồng. Chính cô ta dẫn kẻ thù
nghịch đi làm điều đê tiện ấy ?... Tại sao , chính cô ta ?...... »
Những đợt sóng đen đột ngột hiện lên trước mắt ông. Khi ông
vừa nhìn thấy chúng thì chúng đã vươn lên như những chiếc vòi bạch tuộc khổng
lồ. Và rồi chúng tiếp tục dâng cao, cao hơn cả những mái nhà và khi dội xuống,
chúng khiến ông có cảm tưởng như tấm thân ông tan nát thành bọt sóng. Tiếng gầm
gừ của thuỷ triều dữ tợn và bí ẩn làm sao, dường như chẳng còn là tiếng biển
động mà là tiếng gầm rú của những đàn thú khổng lồ thời hồng hoang. Đột nhiên,
ngọn thuỷ triều biến mất và thay vào đấy là những đàn khủng long đang chạy rầm
rập trên một thảo nguyên mênh mông. Đuổi theo chúng là những lưỡi lửa khổng lồ
tràn lên nhau, chồng gối lên nhau như một đại dương đỏ rực tràn ngập đến chân
trời. Gió dồn thổi tới đâu, mọi loài thảo mộc đều biến thành lò lửa rừng rực
tới đấy. Những cơn bão lửa quây bọc, vây bắt, tàn sát bầy thú. Ông cảm thấy
ngọn lửa ấy thiêu đốt chính ông và khiến mắt ông toé lên những đốm lửa than.
« Tại sao ta lại hoá thân thành một con thú thời hồng hoang
?...Thực hay mơ mà kì cục như vậy ?... »
Ông nghe rõ tiếng lửa bị gió táp phần phật quanh mình. Rồi
lửa táp vào mặt ông, khiến ông muốn hét lên :
« Nước....Cho tôi nước....Gọi xe cứu hoả .... »
Nhưng hình như ông không thể há miệng ra nổi. Hình như ông
ngã xuống, dưới bàn chân khổng lồ của khổng long khác và nhìn thấy trước ông sẽ
biến thành một đống thịt xương vụn nát dưới bàn chân ấy....
Rồi ông nghe mơ hồ tiếng gọi vẳng đến từ đâu đó :
- Bác sĩ....Gọi bác sĩ...
- Cấp cứu đâu ?.....Đem bình ô-xy đến đây...
Một ý nghĩ mơ hồ thoáng qua óc ông :
« Ô, họ lại đem bình ô-xy đến cho anh chàng sĩ quan thở khò
khè, môi thâm như mận Lạng sơn ....Ồ, anh này chết rồi mà còn ngốn khá nhiều
bình ô-xy của viện... »
Bất thình lình, ông nghe tiếng cá quẫy bên tai. Ông chợt nhớ
đó là tiếng cá quẫy trong cái ang mẹ ông thường nhốt cá ở đầu hồi, những con cá
chen thách nhau tanh tách suốt ngày đêm. Bên trên ang cá ấy là mái ngói chạy
dài với đường máng. Còn bên trên mái ngói là bầu trời, một thinh không cao ngất
tràn ngập ánh dương, một màu xanh lơ vô chung vô thuỷ....
* * *
Quân y viện 306 nằm ở bìa rừng, không quá xa dòng suối, điều
kiện tối cần thiết để duy trì một bệnh viện đa chức năng. Toàn bộ các khu nhà
quây tụ trên cao, dưới bóng những tán cây um tùm, dày đặc đến nỗi những ngày hè
chói chang nhất ánh sáng cũng không lọt qua được. Trong bóng râm miên viễn đó,
lủng lẳng các chùm phong lan núi lẫn các cây tổ quạ, loài cây kí sinh có sức
nảy nở lạ thường. Phía sau viện, là một hang đá lớn mà những lúc bị bom dội cấp
tập, có thể chuyển ba mươi thương binh nặng vào trong. Nhà bếp, phòng ăn tập
thể, và kho thuốc men lẫn y cụ đều dồn vào một khóm ngay sát cửa hang, nơi
người ta có thể thường xuyên hứng nước khe để nấu ăn và lau rửa các y cụ bởi
nước suối chỉ có thể dùng giặt giũ đại trà những thứ quần áo và đồ bẩn. Điều
bất tiện là nước khe không đủ dùng. Mà nếu tắm gội bằng nước suối thì sớm hay
muộn tóc cũng rụng. Đối với đám đàn bà con gái, có một cái đầu trọc lốc cũng
đau khổ ngang ngửa như bị bom tiện cụt chân tay. Thế nên ở nơi đây, vệ sinh
thân thể trở thành khổ nạn. Các cô đành phải chờ đến lúc lặn mặt trời mới dám
xách nước khe về lán gội đầu. Còn tắm, phải chờ những đợt mưa nhiều, nước khe
chảy liên miên không cạn. Nếu không, hoặc là xách nước suối lên đánh phèn cho
lắng, hoặc là lau người theo kiểu dân vùng sa mạc. Sau một ngày làm việc căng
thẳng, tối đến lại hì hục xách nước từ dưới suối lên cửa hang, mò từng bước
trên con đường dốc ngược lởm chởm đá. Thêm nữa, đeo năm sáu ống lồ-ô nước trên
lưng leo dốc là cách thức của người vùng núi cao. Đối với những cô gái đồng
bằng, việc đó cũng giống như một thứ lao động của tù khổ sai, phải nghiến răng
lại mà chấp nhận.
Đầu xuân năm 1969, y viện đầy ắp thương binh. Hai người phải
nằm đổi đầu đuôi trên một chiếc giường hẹp như cáng tải thương, đặt ngay trên
những bệ gỗ cao hơn gang tay chút xíu. Số thương binh chờ phẫu thuật nhiều gấp
ba con số bình thường khiến từ bác sĩ đến các nhân viên phải chia ca đổi nhau
làm việc quần quật không nghỉ. Đèn phòng phẫu sáng suốt ngày đêm. Tiếng kêu
gào, tiếng rên rỉ, tiếng cãi cọ cấm cảu và cả tiếng hát của đám thương bệnh
binh đông đúc khiến y viện có một vẻ náo loạn mà trước đó nó chưa từng biết
đến. Mười hai cô gái của y viện không còn thời giờ xách nước tắm, đành phải
quấn ngược tóc lên cao mà nhảy ùm xuống suối, người nọ bảo người kia :
« Thây kệ, tắm cái đã, rồi muốn ra sao thì ra.... »
Thời gian căng thẳng kéo dài hơn một tháng, sau đó số thương
binh nhẹ được chuyển sang điều trị tiếp tại một binh trạm cách đó ba cánh rừng.
Lúc này, các cô gái được hưởng một sự đền bù ngoài sức tưởng tượng : trong đám
thương binh còn ở lại, xuất hiện một hoàng tử quyến rũ, một miếng mồi thật ngon
lành cho tất cả các nữ nhân đang đứng bập bênh trên ranh giới giữa giai đoạn
chót của tuổi thanh xuân với sự lỡ thì. Đó chính là trung tá Hoàng An. Hoàng An
được coi như người đàn ông lý tưởng vì ngoại hình đã đành, nhưng cũng còn vì
lòng can đảm mà không phải bậc nam nhi nào cũng có. Anh chẳng hề cất một tiếng
kêu trong suốt cuộc phẫu thuật không gây mê. Một quân y viện nằm sâu như Viện
306, chẳng thể có đủ thuốc mê cho các ca bình thường nhằm cắt bỏ tứ chi. Hoàng
An bị mảnh pháo tiện đứt cánh tay bên trái. Về đến viện, vết thương bị ga-rô
quá lâu trên đường đã bắt đầu gây hoại thư, và người ta phải tháo khớp vai để
cứu anh. Điều lạ lùng là Hoàng An hồi phục rất nhanh, trong một diễn tiến gần
như thần bí. Đám thương binh xung quanh dù trẻ gấp đôi tuổi đều nhìn anh với
con mắt vừa thán phục vừa ghen tị. Ngay khi vết thương chưa kịp mọc da non, anh
đã dạo chơi nhởn nhơ khắp vùng, đã đặt bẫy bắt dúi, bắt nhím, bắt chồn cho nhà
bếp cải thiện bữa ăn. Rồi khi vết thương lên da non, anh tự nguyện xách nước
suối lên viện giùm các cô gái. Chỉ bằng cánh tay còn lại, chàng trung tá này có
thể làm mọi thứ việc mà một gã trai khác đủ cả hai tay chưa chắc dám đảm đương.
Hoàng An có thể đeo một chùm mười lồ nước trên lưng, tay phải xách thêm bốn năm
lồ khác. Với đôi chân của người thợ săn, anh leo dốc như sơn dương. Mười hai cô
gái viện nhìn anh với con mắt mê mẩn. Trừ dăm cô đã thề non hẹn biển với đồng
nghiệp, số còn lại đều đưa mắt liếc nhau xem ai đã lọt mắt xanh của hoàng tử có
trái tim vàng ?...Nhưng dường như Hoàng An đã chia đều lòng tốt của anh cho tất
cả mọi người, và như thế chưa cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa đám các cô gái
chòng chành chờ đợi ...Cũng vì thế, khi vết thương của anh đã lành, viện trưởng
vẫn nấn ná giữ anh lại thay vì chuyển anh sang một binh trạm để chờ lệnh quân
khu. Nghiễm nhiên, Hoàng An trở thành một nhân viên không phiên chế. Anh có vẻ
vô cùng thoả mãn với vai trò mới. Không ai nói, người ta cũng hiểu rằng ngày
một ngày hai, anh sẽ được chuyển về hậu phương vì mất khả năng chiến đấu. Khi
sắp được hưởng một thứ quyền lợi tối thượng như vậy, cần phải tận tình giúp đỡ
tất cả những ai đang còn trụ lại nơi nguy hiểm và gian lao. Hẳn là nghĩ như thế
nên Hoàng An không tiếc sức lực cũng như thời gian để góp phần cải thiện cuộc
sống chung và giúp đỡ mọi người.
Một buổi sáng giá buốt, sương mù trùm phủ khắp núi non, bỗng
tiếng còi xe vang inh ỏi. Ai đó đứng từ xa gào lên :
- Xe thuốc của quân khu đã tới....
Mọi người trong viện đổ ra, ngơ ngác nhìn nhau :
- Sao điện báo nói hai ngày nữa xe mới đến ?...
- Ai biết được ?...Có lẽ vắng bom oanh tạc nên đường thông
...
Rồi từ y viện trưởng tới các nhân viên đều lũ lượt tụt dốc
xuống đường để nhận thuốc và các y cụ. Hoàng An nhập vào đoàn quân đó. Đúng là
xe chở thuốc của quân khu và cũng đích xác vì máy bay oanh tạc của Mỹ nghỉ cuối
tuần nên đường thông suốt. Ai nấy đều hỉ hả vì ngoài thuốc còn có kẹo bánh và
thuốc lá sợi. Khi mọi kiện hàng đã được khuân hết xuống, xếp thành đống gọn ghẽ
bên lề đường, người lái xe nổ máy cho xe quay lại quân khu tức khắc vì muốn tận
dụng thời gian thuận lợi. Xe vừa lăn bánh được vài mét, anh ta chợt hét váng
lên :
- Tôi quên.
Đoạn cho xe phanh kít lại, anh ta cúi xuống dưới gầm ghế moi
lên một chiếc ba-lô lính cũ nát, lấm lem :
- Viện ta có thương binh nào là Hoàng An không ?...
- Tôi đây.
Hoàng An đã nâng kiện thuốc lên vai lại vội vã đặt xuống,
đáp lời.
Anh lái xe bảo :
- Trên quân khu có gửi cho đồng chí chiếc ba-lô của một liệt
sĩ. Liệu anh ta có thực là họ hàng của đồng chí hay không ?...
- Nếu không phải là người thân thích có lý do gì mà họ lại
gửi cho tôi ?...
Hoàng An vặn lại, mặc dù óc anh thoáng qua những nghi ngờ :
« Ai có thể gửi cho ta ?....Không lẽ đây là ba-lô của thằng
Mèo Mã Lỳ chết dẫm ?.....Ồ không, điều này không tin được. Bởi y họ Mã, sắc tộc
Mèo và ở tận núi Hoàng liên sơn....Không ai có thể nhầm lẫn một cách điên rồ
như thế.... »
Anh lính nhìn Hoàng An, phân vua :
- Không phải chúng tôi tò mò nhưng vì địa chỉ đề rất mơ
hồ....Thêm nữa, trong quân khu này có đến sáu người tên là Hoàng An. Phòng tổ
chức còn đắn đo vì đồng chí quê ở Lạng Sơn nhưng liệt sĩ này lại là người Tầy
tỉnh Thái nguyên.
- A....
An nở nụ cười xí xoá :
- Tỉnh nào cũng là đất nước Việt nam cả...Người Kinh làm ăn
buôn bán khắp nơi, người Tầy chúng tôi tuy không giỏi giang bằng nhưng cũng
biết đi từ tỉnh này qua tỉnh kia để kiếm sống.
- Ô....Nếu vậy thì đồng chí cầm lấy...Tôi sẽ báo cáo với
quân khu rằng kỉ vật đã đến đúng địa chỉ của người thân. Lẽ ra ...
Anh ta ngần ngừ một lát rồi nói tiếp :
- Lẽ ra, theo nguyên tắc, đồng chí phải kí giấy biên nhận.
Nhưng vì tôi còn chuyến hàng thứ hai cho y viện này, mà đồng chí còn ở lại đây
nên lần sau ta sẽ làm việc đó.
- Nhất trí. Tôi sẽ chờ đồng chí lần sau.
Hoàng An đáp.
Anh ta trao chiếc ba-lô rồi xiết chặt tay anh :
- Chúc đồng chí mạnh khoẻ...
- Cảm ơn. Tôi cũng chúc đồng chí lên đường may mắn....
Rồi chiếc xe nổ máy ra đi. Lần này, nó đi thật sự.
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (4)
Hoàng An cúi xuống nhìn chiếc ba-lô bẩn thỉu hôi hám như
chiếc bị ăn mày, đoán rằng nó đã bị ném trong hang đá khá lâu, ít nhất cũng một
hai năm nên những vết máu khô mới mốc meo thành tầng và các vết lỗ chỗ dán nhấm
mới nhiều đến thế. Trên nền vải lem nhem màu cỏ úa ngả sang đen xỉn, găm một
mẩu giấy trắng mà ai đó viết không lâu :
Kỉ vật của trung uý Hoàng huy Tú, tiểu đoàn 115 quân khu 18,
đại đội 3, trung đội 1, liệt sĩ trên chiến trường Thuận hoá. Đề nghị chuyển cho
đại uý Hoàng An , thuộc tiểu đoàn Một, tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã.
Anh tê lặng một hồi. Hoàng văn Tú, cái tên gợi cả một thời
ấm êm, hạnh phúc. Tú là chồng của nàng My, em gái anh. Gia đình Tú ở sát thị xã
Lào Cai, một vùng đất chen chúc những người thiểu số khác sắc tộc. Cha Tú là
thợ rèn nổi tiếng, chắt nội của một người thợ rèn còn nổi tiếng hơn, được đặc
trách rèn vũ khí cho các tướng lĩnh và vương hầu cai quản miền biên giới. Đến
thời cha Tú, người ta không còn sử dụng gươm dáo nên ông chỉ rèn các loại nông
cụ và dao, búa. Nhưng dao đi rừng của ông được coi là vật tuỳ thân tuyệt hảo
đối với người miền núi, còn các loại dao nhọn, dao bầu, dao bản vuông...của ông
được coi là dụng cụ kiếm sống không thể thiếu của đám dân bán thịt trong vùng.
Cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ thành công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, nhờ bà
mối. Một người đàn bà còn ròn rã xinh tươi, tuy đã ngũ tuần. Bà mối này vốn
buôn lâm sản ở Lào Cai, là hàng xóm liền vách với nhà Tú nhưng lại có người chị
ruột lấy chồng bản Xíu. Năm nàng My mười bảy, bà về bản Xíu chơi, gặp cô thiếu
nữ nhu mỳ liền vội vàng quay lại Lào Cai, rồi tức tốc dẫn Hoàng huy Tú lên Thất
Khê tìm con gái ông trưởng bản. Vừa chạm mặt mỹ nhân tháng trước, tháng sau Tú
đã cùng cha mẹ đem lễ vật đến nhà chú thím anh xin cưới. Dịp hôn lễ của họ
chính là dịp anh đặt chân tới thị xã Lào Cai lần đầu tiên....Rồi sau đó, chẳng
còn cơ hội nào quay về đấy...
Năm tháng trôi qua, gia đình Tú đã chuyển xuống sinh sống ở
tỉnh Thái nguyên lúc nào mà anh không hay biết ?....Tuy trong lòng nóng như lửa
đốt, nhưng Hoàng An vẫn khoác chiếc ba-lô vào cánh tay rồi đặt kiện thuốc lên
vai, tiếp tục leo dốc cùng đám nhân viên quân y viện. Phải ba tiếng đồng hồ họ
mới chuyển hết được số hàng vào nhà kho. Chờ mọi người tụ tập trong bếp ăn để
chia bánh kẹo, An xách chiếc ba-lô của Tú đi về phía sườn dốc dẫn xuống dòng
suối, lúc này chẳng một bóng người. Ở đó, anh mở ba-lô một cách cẩn trọng, lấy
ra một bộ quần áo thu-đông, một ống thuốc đánh răng đã dùng dở khô đét, một
chiếc bàn chải đã toẽ hết gai, một chiếc lược sừng nhỏ và một phong bì bọc dán
chằng chịt bởi những lớp vải ni-lông, hẳn được cắt ra từ một tấm áo mưa cũ.
Đoạn anh dốc ngược ba-lô lên rũ một hồi để cứt dán còn bên trong rơi xuống. Một
cây bút bi rơi xuống theo. Mùi hôi mốc bốc lên cùng mùi vải ẩm.
« Đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn ông đẹp
đẽ và cường tráng. Tất cả những gì còn lại của một người chồng và một người
cha. Gia sản của trung uý Hoàng huy Tú. Kỉ vật mà ngày nào đó ta có thể trao
lại cho nàng My cùng những đứa con của nàng....
Anh ngồi như thế hồi lâu trước mớ vật dụng vô nghĩa rồi mới
giở bức thư của Tú ra. Thư dán quá kĩ, chẳng có cách gì gỡ được những lớp vải
ni-lông chằng đụp như vậy. Trong túi anh không có một lưỡi dao, ngay đến cả
chiếc bấm móng tay cũng không có nốt. Sau cùng, anh đành tìm một lưỡi đá nhọn
ven dốc, mài lớp bì thư vào đó theo cách những người nguyên thuỷ cọ đá để lấy
lửa cho bùi nhùi. Khoảng chừng mươi phút sau, anh đã có thể móc ngón tay vào lỗ
rách để xé toang các lớp vải quấn ra. Thư của Hoàng huy Tú viết trên giấy kẻ ô
của học trò vỡ lòng. An trải tờ giấy lên đầu gối, đọc :
Anh thân mến,
Kể từ ngày anh tiễn nàng My lên Lào Cai, bao nhiêu năm tháng
đã trôi qua, bao nhiêu sự việc đã xoay chuyển. Tuy không còn cơ hội gặp nhau
nữa, nhưng em chẳng bao giờ quên anh bởi nàng My luôn luôn nhắc nhớ tới anh.
Chúng em đã có hai con, hai đứa đều là con trai cả. Gia đình em đã chuyển xuống
sinh sống ở Thái nguyên sau ngày anh nhập ngũ, bởi ở dưới đó, cha em tìm được
một đầu mối bán buôn lớn và xưởng rèn gia đình có cơ phát triển. Cha em cũng đã
già nên phần sản xuất do chúng em đảm nhiệm đồng thời thuê thêm non chục thợ.
Em không có điều gì phải phàn nàn ngoại việc trong ba anh em hai người đã phải
lên đường. Không rõ tin tức đứa em út nhưng ngày mai chính em sẽ tham dự chiến đấu
trên mảnh đất Thuận hoá. Lính bước chân vào đây khó có đường về. Người ta bảo
đất này vừa dữ vừa hẹp nên thây người không chôn thành một lớp mà chí ít cũng
dăm bảy tầng chồng chất lên nhau. Chiều nay, toàn đơn vị ngồi viết thư cho gia
đình, em cũng viết thư cho anh. Ai cũng ngầm hiểu rằng đây là lá thư cuối cùng
trong đời lính.
Anh thân mến, anh còn nhớ đêm liên hoan mà anh đã gặp Mã Lỳ
hay không ?...Chính em cũng có mặt đêm hôm ấy. Chính em là con chồn lủi trong
bóng đêm mà anh đã rượt đến tận cửa rừng...Thoạt bước chân đến mảnh đất của
anh, em đã thấy anh đứng với Mã Lỳ nên vội lảng tránh. Bởi do tình cờ mà em đã
thuyên chuyển về chính đơn vị của anh năm năm sau ngày anh ra đi. Cũng do tình
cờ mà em ở cùng trung đội với Mã Lỳ và được gã Mèo này tin cẩn. Có lẽ vì trong
đại đội chỉ có hai chúng em là dân miền núi. Mã Lỳ hoàn toàn không biết chúng
ta là anh em nên đã kể tất cả mọi sự theo...con mắt nhìn của gã. Vào đêm liên
hoan ấy, khi nhìn thấy gã đi với ....bạn mới, em liền đi theo. Em biết chắc
điều gã Mèo sẽ làm. Em đã lên nhà gã. Nhà gã nhỏ hơn chuồng nuôi lợn của chúng
ta. Mọi người ngồi ăn cháo ngô ngay trên nền đất, lợn chạy xung quanh, thúc mõm
cả vào lưng chủ lẫn khách, rồi ỉa lung tung khắp nền nhà...Có lẽ anh khó hình
dung được cảnh tượng đó. Nhưng em đã chứng kiến nên em hiểu Mã Lỳ sẽ làm bất cứ
việc gì để được tiến bộ....Vì vậy em đã đuổi theo y....
Anh thân mến, còn sự việc này chắc anh đã dự đoán nhưng chưa
biết rõ. Nàng Xuân và Nàng Đông đều bị giết cùng năm Con gà(I957), theo cách
lấy chầy gỗ đập vào sọ. Thây Nàng Xuân bị ném ven đường ngoại ô Hà nội giả làm
tai nạn giao thông còn Nàng Đông bị ném dưới chân cây cầu gỗ bắc qua Khe Lan,
trên đường về huyện Thất Khê. Nhưng em cũng chỉ biết điều này ba năm sau, nhờ
một người quen...Bố mẹ vợ em và ông Cao đều bị giết vào mùa đông năm Con
chó(I958), hơn một năm sau cái chết của hai nàng. Bà mối nhắn tin cho em. Khi
em quay trở lại bản Xíu, ba tuần sau cái đêm tai hoạ đó, chỉ thấy tro tàn của
hai ngôi nhà sàn. Dân bản nói rằng đêm hạ tuần tháng trước bỗng nghe tiếng máy
bay trực thăng đổ xuống khu vực suối Sơn ca. Vì trời rất rét thêm nữa đêm tối
đen như mực nên chẳng ai tò mò nhìn ngó. Người ta tin rằng chỉ có máy bay của
bộ đội biên phòng vì lý do đặc biệt nào đấy mới bay vào lúc khuya khoắt như
vậy. Nhưng khoảng chừng nửa giờ sau hai ngôi nhà sàn bốc cháy. Lúc đấy, dân bản
mới hò nhau thắp đèn thắp đuốc đi cứu hộ. Khi họ đến nơi, lửa cháy cao ngất như
rồng táp mà mùi săng vẫn bốc sặc sụa nên chẳng ai dám động chân động tay. Nhìn
qua đám lửa không thấy một bóng người. Dân bản cứ đứng như tượng nhìn từng cây
cột theo nhau đổ. Lửa cháy tới tận hôm sau. Khoảng non trưa, sương quang trời
sáng rõ, người ta mới tìm thấy xác ông Cao bị thui đen trong đám than tro. Còn
bố mẹ vợ em thì mất tăm, vô hình vô dạng. Huyện phổ biến rằng một đội biệt kích
của Mỹ nguỵ từ phía nam bay ra gây hoả hoạn để gieo rắc hoang mang cho đồng bào
dân tộc. Nhưng em biết rằng lũ giết người này chính là bọn đã giết Nàng Đông và
Nàng Xuân. Cái lý của người Tầy chúng ta chỉ ra như vậy.
Anh thân mến, sớm mai chúng em phải lên đường. Chắc sẽ không
có ngày quay lại. Anh hãy cố gắng sống bằng mọi cách để trả mối hận này. Anh
hãy bảo bọc nàng My và những đứa con em. Được như vậy, dù ở dưới mồ, em cũng sẽ
ơn anh mãi mãi...
Em Hoàng huy Tú.
Chữ kí rắn rỏi, không một chút run rẩy. Nét bút của một tay
thợ rèn, quen quai búa từ thuở còn thơ. Anh đặt lá thư xuống. Trời không có gió
nhưng tờ thư run rẩy. Những cơn rung động chạy khắp toàn thân khiến anh nổi da
gà. Rồi những ý nghĩ nối nhau chạy qua óc não anh như đàn chuột lửa :
« Chúng giết hai nàng bằng chầy gỗ vì đó là cách tiết kiệm
và giản đơn nhất cho một cái chết. Chúng giết ông Cao bằng cách đâm chém để
thiên hạ ngờ rằng đó chính là cuộc thanh toán trong giới giang hồ bởi ông Cao
đã rời bản đi lênh đênh chân trời góc biển hai mươi năm. Chúng bắt cóc chú thím
ta lên máy bay để giết họ rồi quăng thây xuống một cách rừng tỉnh khác để không
ai còn có thể dò ra tăm tích và để dễ bề tung tin rằng lũ biệt kích giết người,
bởi chú ta đương kim vẫn là chủ tịch xã, chức quan bé mọn nhất trong bộ máy
quyền lực này....Quả là một bọn sát nhân thành thạo, mọi con tính đều có sẵn
trong ngăn kéo bàn giấy của chúng. Tất thảy những người thân của ta đều bị huỷ
diệt trong một cuộc cờ. Ta chẳng còn ai trên cõi đất này...Chẳng còn ai....
Ngọn lửa trong đầu anh bốc như đám cháy hai ngôi nhà sàn mà
anh mường tượng. Những đàn chuột lửa không ngừng chạy đi chạy lại, nhảy nhót,
khiến anh vừa đau đớn vừa ngứa ngáy, một thứ cảm giác anh chưa từng biết đến và
chẳng thể diễn đạt. Rồi đôi mắt anh bỗng nhiên mờ dần, mờ dần trước đám khói mù
mịt bốc ra ngay trên đỉnh sọ, tựa hồ hộp sọ đã nứt đôi để phun lên những đám
khói ngột ngạt của một cuộc thiêu đốt âm thầm. Một cơn đau khác dưới đám ruột
cuộn lên, trào qua cơ hoành, thốc vào hai lá phổi những luồng khí nóng bỏng,
dường như ngực anh đã trở thành một chiếc nồi súp-de đầy ứ hơi sắp nổ. Đột
nhiên anh cất lên một tiếng thét rợn hồn, một tiếng thét khiến chính anh cũng
choáng váng, chính anh cũng chết lặng đi vì không hiểu nó từ đâu tới. Dường như
chẳng phải chính anh đã cất lên tiếng thét đó, chẳng phải âm thanh kinh dị ấy
vừa thoát ra từ hai lá phổi đầy ứ khí nóng của anh mà đó là tiếng gào của một
con quỷ lạ, một loài ngạ quỷ mượn cổ họng người để trút ra tiếng gào của chính
nó.
Từ phía quân y viện, ai nấy đều đổ xô ra nhìn. Chưa bao giờ
họ nghe thấy một tiếng thét khủng khiếp như thế. Mặc dầu tiếng la hét đau đớn
trong những ca giải phẫu thiếu thuốc gây mê là thứ âm thanh tra tấn thường
xuyên và đã trở thành quen thuộc nhưng đây là lần đầu họ nghe thấy một tiếng
thét kì lạ, trong đó không chỉ có nỗi đau đớn thể chất hay sự thống khổ tâm hồn
mà còn cuồn cuộn những con sóng cuồng nộ của một sức mạnh kinh hoàng. Sức mạnh
của man dại và thù hận. Bốn phía núi rừng rung động. Mọi người ngừng thở vì sợ
hãi. Người ta cho rằng tiếng thét ấy chỉ có thể là tiếng thét của thần sông,
quỷ núi, hoặc của người điên. Một người điên khổng lồ hung dữ và đang ở cực
điểm cơn kích động.....
Chẳng tìm thấy ai ngoài trung tá Hoàng An. Anh đang ngồi một
mình ven con dốc dẫn xuống suối. Một mình anh. Bác sĩ viện trưởng lẫn mọi người
đưa mắt nhìn nhau trong khoảnh khắc rồi tất cả kéo nhau đi tới. Khi nghe thấy
tiếng chân đám đông vang lên phía sau lưng mình, Hoàng An ngoảnh lại, tuy mặt
trắng nhợt nhưng anh đã nhoẻn miệng cười nụ cười dễ mễn mà mọi người quen thuộc
:
- Đây là chiếc ba-lô của đứa em tôi, hy sinh tại chiến
trường Thuận hoá....Tôi không thể chôn nó, cũng không thể khóc thương nó....Tôi
hét lên vì tôi căm thù... Tôi căm thù Mỹ nguỵ....
- Đồng chí An....
Viện trưởng dịu dàng đặt tay lên vai anh :
- Đồng chí hãy về viện nghỉ ngơi....Chiến tranh mà. Tất cả
chúng ta có mặt ở đây đều vì cuộc chiến tranh này...Tất cả chúng ta đều phải
căm thù Mỹ nguỵ....
* * *
Chủ tịch thức dậy lúc nửa đêm. Sau những giấc mơ nặng nề,
mắt ông bỗng nhiên ráo hoảnh và tim ông phập phồng, hồi hộp. Tiếng quật bài
tu-lơ-khơ của hai chàng cận vệ ở bên ngoài tuy khẽ khàng nhưng vẫn vang lên
trong đêm khuya khoắt. Cây kim dạ quang trên mặt đồng hồ chỉ một giờ hai mươi
nhăm. Ông kéo tấm chăn lên cằm, lắng nghe những tiếng thì thầm một cách lơ đãng
:
- Tám nhép.
- Mười nhép.
- Ji cơ.
- Ka cơ...
- Quy rô ...Mày sắp chết rồi con ơi....
- Chết cục cứt tao đây này, ka rô đỏ chon chót nhé. Tao chờ
xem mày xuống cây gì ?...
- Con ơi, mày đã đến ngày tận số. ... Át cơ !...Phăng-teo
đâu rồi, đem xuất xưởng. Nếu không thì bó gối lai hàng cho xong...
- Thôi được, chịu thua ván này....Nếu có quân phăng-teo chắc
chắn tao cho mày sấp mặt keo nữa....Bây giờ là tám ba nhé. Mày vẫn còn nợ tao
năm ván. Khó lòng mà gỡ đêm nay, con ơi...
― Chúng nó sung sướng thật, những đứa trẻ chơi loại cờ này.
Thắng, chúng ăn vài chiếc kẹo vừng hay kẹo lạc....Thua, chúng bị đối phương vẽ
nhọ nồi lên mặt....Ván cờ của chúng không làm tổn hại đến ai, không có máu chảy
đầu rơi, cũng chẳng hận thù ân oán....
Chủ tịch thầm nghĩ. Rồi một gương mặt khác đến với ông, vừa
điệp với gương mặt đứa con trai người tiều phu Xóm Núi, lại vừa nhù nhoà trong
lớp sương mù tưởng tượng. Ông bất giác buông tiếng thở dài :
― Con trai của ta....Nếu lũ phản bội để cho con được sống,
chắc chắn con sẽ có một cuộc sống vô danh vô diện của thứ dân. Con sẽ trà trộn
trong đám người đứng ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Ngày nào đó con sẽ chơi
bài ăn kẹo lạc và vẽ râu nhọ nồi như mấy chú lính ngoài kia....Nhưng biết đâu
con chẳng hài lòng vì cuộc sống vô danh đó ?....Và biết đâu những ván bài ăn
kẹo lạc chẳng đem lại cho con một hạnh phúc thật sự trên cõi đời ?....
Để xua đuổi những ám ảnh, chủ tịch giơ tay định bật cây đèn
ở đầu giường để đọc sách nhưng chợt nhớ ra rằng làm như vậy cuộc chơi cờ của
hai chàng trai ắt phải dẹp bỏ. Họ sẽ phải băn khoăn hỏi xem vì sao ông mất ngủ
?...Có cần gọi bác sĩ hay không ?...Có cần đun nước pha trà không ?...Có cần
chuẩn bị thứ gì đó ăn nhẹ cho đỡ mệt ?...Tất thảy những quan tâm hành chính ấy
khiến ông não lòng. Ông lại nằm xuống, kéo chăn lên cằm, đăm đăm nhìn khoảng
trần nhà mờ tối. Dưới chân tường, ngọn đèn ngủ bé xíu như con đom đóm và cũng
có màu xanh của lửa đom đóm. Ngày ấu thơ, ông vẫn cùng bạn đi bắt đom đóm bỏ
vào những chiếc vỏ trứng gà. Trong bóng đêm, những chiếc vỏ trứng sáng óng ánh
và mùa hè đom đóm ấy là mùa hè thần thoại nhất trong đời ông...
― Giờ đây, liệu thằng bé có chơi đèn đom đóm hay không
?...Nó cũng đang sống nơi thôn dã cùng đám bạn học và xung quanh chúng cũng là
những khu vườn, những bờ cỏ, những nghĩa địa làng um tùm như quang cảnh thời
xưa khi ta còn ở Nghệ An ?...
Ông tự hỏi, nhưng rồi lại tự riễu mình vì đứa con ông sẽ
chẳng bao giờ biết quê quán ở đâu và lúc này chẳng đứa trẻ nào có thể chơi đèn
đom đóm. Đất nước đang trong cuộc binh đao, thay vì ánh lửa lập loè của lân
tinh là đạn các loại pháo cày đỏ trời đêm. Thứ lửa gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng
cái chết...
― Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh....
Một lịch sử đã dằng dặc những cuộc chiến liên miên không
ngưng nghỉ, vậy mà lũ người đam mê vinh quang còn cộng thêm vào đó cuộc chiến
này. Một cuộc chiến vô tiền khoáng hậu cả về phương diện năng lực bị huy động
cũng như những tổn thất máu xương...Ôi cuộc chiến tranh ngu xuẩn, cuộc chiến
tranh đã được thực thi như đòn trừng phạt đối với một dân tộc. Một dân tộc tự
đưa thân mình ra làm tăm-pông giữa hai toa tầu lịch sử, tự sử dụng danh tính
của mình như con tốt đen trong bàn tay của thế nhân, tự hoán cải giang sơn thân
thiết thành chiếc cối xay thịt khổng lồ trong một cuộc huynh đệ tương tàn khủng
khiếp gấp ngàn lần cuộc binh đao Trịnh Nguyễn !...
Ta biết làm gì giờ đây khi ván cờ đã lỡ, khi ta bắt buộc trở
thành con rối gỗ trong tay lũ sát nhân ?...Những người anh em thù nghịch của
ta, chẳng lẽ chúng ngu dại đến mức không có một chút ngờ vực khi dấn thân vào
tấn trò này hay chúng cố tình quay lưng lại với lương tâm vì cuộc ganh đua
quyền lực hấp dẫn hơn thân phận của một dân tộc ?... Ôi danh vọng, vinh quang....những
thứ người ta chẳng thể ăn chẳng thể ngửi chẳng thể làm tình nhưng lại có sức
huỷ diệt kinh hoàng, không chỉ huỷ diệt một cá nhân, một tập đoàn mà cả một nòi
giống..
Nhưng vì cớ chi ta mãi đắm đuối , mãi khổ đau vì dân tộc này
?...
Cái dân tộc cần đến cuộc đời ta như cần một con vật làm lễ
hiến thần linh. Cái dân tộc ngu ngơ cười những nụ cười thoả mãn, cất tiếng tung
hô ta như tung hô một hoàng đế vĩ đại, thần phục ta như đám ba quân thần phục
một nguyên soái lẫy lừng bất khả chiến bại mà không mảy may hiểu một phần nghìn
nỗi đau đớn giằng xé con tim ta, mà không đủ nhân từ ban cho ta một chút cỏn
con hạnh phúc ?... ....Vì cớ gì ta mãi phải dày vò vì cái dân tộc vị kỉ và vô
tình ấy cho dù nó chính là của ta ?...
Ồ không, từ muôn đời người ta đã biết rằng đám đông chỉ là
một luồng gió, một đợt sóng, một trận cuồng phong, một cơn lũ hay một cơn hoả
hoạn....Đám đông vô danh vô tính và vô trách nhiệm trước tất thảy những gì họ
đã làm. Ta không thể lên tiếng oán trách hồ đồ như vậy. Dù muốn hay không dân
tộc này vẫn là dân tộc của ta.
Lý do cuộc sinh tồn của ta là vì nó. Nỗi thống khổ lớn nhất
trong con tim ta cũng là vì nó : Một dân tộc bị đoạ đầy....
Vì chưng ta đã sinh ra chính ở nơi đây, mảnh đất bùn lầy đau
khổ ...Vì chưng sợi dây đàn mong manh nhất trong tâm hồn xứ sở vang vọng nơi
tâm hồn ta cũng như nỗi tủi nhục nghìn năm của nó tẩm liễm vào từng tế bào cơ
thể ta, từ da thịt máu xương cho đến cách cảm thụ sinh tồn...Chính ở nơi đây ta
đã bị kết án vĩnh viễn khổ đau. Chính ở nơi đây ta buộc phải trả món nợ non
sông lưu tồn từ ngàn kiếp !...
Vậy là mọi nẻo đường đều dẫn ông quay lại địa ngục của chính
ông. Không có cách nào trốn thoát....
Chủ tịch bật lên một tiếng rên rồi vội vã nghiến răng lại vì
sợ hai cậu lính bên ngoài nghe thấy. Trái tim ông dường như mắc chứng sung
huyết, nở to ra, đập một cách nặng nề. Ông nghe rõ từng nhịp đập ấy, ông cảm
thấy rõ rệt những cơn co thắt khó khăn của nó :
― Ước gì thay vì một trái tim, con người có thể sở hữu một
cái bơm máu, một thứ dụng cụ đủ chức năng nuôi dưỡng sự tuần hoàn mà chẳng mảy
may gây ra những đớn đau...Giá như ta có một trái tim khác, một bộ óc khác hẳn
ta có thể sống an nhiên ?....Giá như ....
Ông đưa tay lên xoa ngực, sờ đốt xương sườn cuối và bỗng
thương thân:
― Tại sao ta mãi tự đầy đoạ ta trong một nỗi khắc khoải
triền miên, một nuối tiếc dằng dặc và một nỗi nhớ mong không bao giờ nguôi dịu
?...
Tại sao ta không thể lãng quên vì cuộc sống cần đến sự lãng
quên như kẻ mắc chứng nhiễu tâm cần thuốc ngủ ?...Ta đã học cách lãng quên gần như
suốt cuộc đời để rồi khi trở về già mọi bài học đều hoá thành đám tro như đám
tro sau cuộc đốt mã ?.....Cuộc chiến tranh ngu xuẩn này là đòn trừng phạt đối
với dân tộc của ta còn sự vãn hồi trí nhớ là pháp đình tối cao dựng lên để
triệu hồi ta về nghe phán quyết ?...Phải chăng đây chính là một liên đới thảm
khốc giữa thân phận riêng ta với kiếp nạn chung của giống nòi ?...Hay là sự
trùng lặp ngẫu nhiên bí ẩn sẽ còn lại như một câu đố mãi ngàn thu ?...
Ông nghe một tiếng cười khẽ khàng bên tai nên mở mắt ra.
Gã đàn ông có nước da màu nõn chuối đang đứng dựa lưng vào
tường. Bảnh bao trong bộ com-plê màu trắng ngà, thứ màu ông thích nhất. Ông vẫn
nhớ cái cảm giác súng sính hớn hở khi lần đầu có đủ tiền để cắt may bộ com-plê
ấy tại Paris, cái thành phố đắt nhất thế giới, nơi thợ may kiếm tiền nhiều gấp
năm đến mười lần đám thợ các thành phố khác....Bộ quần áo sang trọng đầu tiên
trong tuổi trẻ của ông, giờ đây gã đang mặc. Cũng cách bẻ cổ áo sơ-mi như thế,
cũng chiếc cà-vạt màu xanh dương thẫm điểm chấm trắng và kiểu thắt cà-vạt cũng
là kiểu thắt của thời xưa...Nhưng đó chẳng phải một chàng trai trẻ mà là một kẻ
trạc ngũ tuần, có ngoại hình giống ông như bản chính với bản sao...Một lần nữa,
ông hiểu rằng gã chính là bản diện thứ hai của ông, là kẻ mà lẽ ra ông có thể
trở thành......
Gã đứng tựa lưng vào tường, dáng thong thả và điệu đàng, hai
tay đút trong túi quần, mắt nhìn thẳng vào mặt ông với cái nhìn chăm chú :
- Ngươi không khóc đấy chứ ?...
Ông ngần ngừ một chút rồi đáp :
- Xin lỗi...Tôi không thích câu hỏi của ông.
- Nếu cần, cứ khóc một chút cho nhẹ lòng....Ta vốn rộng
lượng với những kẻ yếu đuối.
- Tôi không quá yếu đuối như ông tưởng.
- Để rồi xem.
- Câu ấy để giành cho trai tráng. Tôi đã ngoại bẩy mươi, câu
nói của ông với tôi là thừa thãi.
- Nếu ngày mai ngươi lên đường về với tổ tiên, ngày hôm nay
câu nói ấy vẫn còn cần thiết.
Ông lặng im vì thấy gã có lý. Nhưng ông cũng không thể thú
nhận thua cuộc. Cách tốt nhất là lặng im. Và ông đưa mắt nhìn lên khoảng trần
nhà mờ tối. Gã mỉm cười nói tiếp :
- Vào tuổi này mà ngươi vẫn cố sức đi tìm lời giải cho những
câu hỏi siêu hình....Thế cũng đáng khen.
- Người ta có thể bị quay đảo bởi những câu hỏi như thế cho
đến tận phút xuống mồ. Vì vậy, cuộc tìm kiếm lời giải cũng là lẽ đương nhiên.
- Có cả ngàn câu hỏi mà nhân loại chẳng bao giờ tìm được câu
trả lời. Vì bản chất cuộc sống là sự đánh đố và thách đố. Sự đánh đố và thách
đố này bao trùm lên mối quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, giữa các nhóm
người khác nhau trên quả địa cầu, và giữa người với người trên tư cách cá
thể...Hãy nhìn lại quãng đời đã qua, ngươi sẽ tìm thấy những lỗ hổng, những mắt
xích yếu kém, những rạn nứt, những đổ vỡ....Tất thảy những thứ đó xảy ra khi
ngươi mất khả năng kiểm soát những phẩm chất cốt lõi nhất của cuộc đời...
- Tôi sẽ cố tìm bằng chứng cho sự lý giải của ông.
- Không phải cố. Chỉ cần ngươi quay đầu lại và nhìn mọi sự
một cách khách quan hơn. Các bằng chứng nằm đầy rẫy trên con đường phía sau
lưng ngươi, như những cột mốc sắp hàng dọc quốc lộ.
- Tôi vẫn luôn cố gắng phân tích sự việc một cách khách
quan. Đấy là đòi hỏi tối cần thiết của người cầm quyền.
- Cái đòi hỏi tối cần thiết ấy lại chính là phần thường
xuyên thiếu hụt nơi kẻ cầm cân nẩy mực. Sự sụp đổ của mọi đế chế, sự tan rã của
mọi vương triều đều xảy ra vì thiếu hụt cái nhìn khách quan. Khách quan đối với
tha nhân chỉ là sườn đất thoai thoải miền thảo nguyên, nhưng khách quan với
chính bản thân là con đường leo lên đỉnh Hymalaya. Ta về đây để chỉ cho ngươi
rõ những vết nứt lớn nhất trong tâm hồn ngươi. Như thế, ta sẽ giúp ngươi tìm
được tự do. Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi cái địa ngục này....
Ông im lặng vì trong thâm tâm ông đang chờ sự giúp đỡ của
gã, chờ một cách thực sự, và điều ấy giống như sự sỉ nhục. Sau một hồi im lặng,
ông thu hết can đảm cất tiếng :
- Vâng. Tôi chờ nghe ông.
Gã mỉm cười, nụ cười của gã vừa có nét quyến rũ truỵ lạc của
Yve Mongtan vừa có vẻ giản dị, hồn nhiên của Jean Gabin thời niên thiếu. Gã
nghiêng đầu sang bên trái một chút, nhìn sâu vào mắt ông với cặp mắt trong suốt
màu nâu :
- Ta bắt đầu bằng nỗi dày vò thường trực nhất của ngươi, cái
chết của người đàn bà ngươi yêu dấu. Ngươi thuận tình chăng ?...
- Tôi có nhiều nỗi dày vò. Trên vai tôi cũng chất chồng vô
số những tiếc thương và ân hận...
- Ta hiểu. Nhưng nỗi tiếc thương cho một dân tộc chỉ có đấng
toàn năng mới đủ quyền lực để hoá giải. Ta, cũng như ngươi chẳng phải là đấng
toàn năng. Ta chỉ có thể giúp ngươi trong cuộc chìm tầu này, trong cái bi kịch
xưa cũ giữa một người đàn ông với một người đàn bà đồng thời giữa một ông vua
già với một ái phi trẻ tuổi. Ngươi nghĩ sao ?
Ông im lặng không trả lời. Gã nhún vai một cách ngạo mạn và
cất tiếng hỏi :
- Vào ngày Nàng Xuân bị giết hại, ngươi đã làm gì ?...
Ông lại tiếp tục im lặng vì không biết trả lời ra sao...Ngày
ấy, ông đã gọi điện cho tướng Long nhưng khi vị tướng này sang, hai người chỉ
trao đổi những sự việc liên quan đến quan hệ quốc tế. Ông đã chờ đợi tướng Long
lên tiếng, nhưng cuộc trò chuyện kéo dài từ tám giờ sáng cho đến mười hai giờ
rưỡi trưa mà ông ta chẳng cất lời. Còn chính ông, ông không dám mở miệng. Ông
hiểu rằng vào lúc ấy, chỉ tướng Long mới đủ khả năng giải quyết sự manh động và
lạm quyền của bộ trưởng Quốc Tuỳ. Toàn bộ các tướng lĩnh và bộ quốc phòng còn
đang nằm dưới tầm tay của ông ta. Nhưng tướng Long đã lờ đi vì chính ông ta
cũng muốn chủ tịch đóng vai thánh sống. Chính ông ta cũng muốn chủ tịch chỉ là
vị cha già của dân tộc mà không để lại mảy may dấu vết của cuộc sống gia đình.
Trò chơi Thánh sống này đem lại lời lãi cho toàn thể bộ máy quyền lực, không
một ai từ chối miếng ăn ngon...
- Ngươi không làm gì cả và miệng ngươi câm như hến, đúng
không ?...
Gã hỏi nhưng không đợi câu trả lời. Gã biết thừa ông không
đủ can đảm để cất tiếng. Đôi mắt đẹp của gã nheo lại trong một cái nhìn vừa khinh
bỉ vừa nhuốm màu thương xót và nói tiếp :
- Nói đúng ra, ngươi mong chờ tướng Long, người đàn em thân
thiết nhất ra tay. Còn chính ngươi, ngươi không dám chủ động lên tiếng, bởi
trong thâm tâm, ngươi lo sợ bị lịch sử kết án : Vì tình riêng mà gây sự biến
cho quốc gia....Ai cũng nhìn thấy cách duy nhất để hành động lúc ấy là sử dụng
lực lượng quân đội vây bắt Quốc Tuỳ đồng thời truất quyền Sáu, tên phản bội đầu
bảng...Nhưng như thế, ắt máu phải đổ. Và ngươi lo sợ cho cái uy danh muôn đời
của ngươi trong cuốn sử đất nước. Vì ngươi là tác giả của khẩu hiệu thơ mộng
này :
― Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công .
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (5)
Ý tưởng của ngươi đẹp đẽ thật và hiệu lực thật....Nhưng chỉ
trong một thời, và trong một cảnh. Thứ đạo đức cốt lõi của những ai đang sống
nơi rừng rậm nơi suối reo vượn hót....Ngươi không hiểu rằng khẩu hiệu đó chỉ là
chiến lược trong cuộc chiến tranh du kích. Nhưng một khi guồng máy quyền lực đã
thiết lập, ý tưởng cao sang ấy chỉ còn là một con chim oanh đẹp đẽ nhưng không
hót được cũng không bay được vì đó là xác điểu nhồi bông. Khẩu hiệu của ngươi
là thứ xăng nhớt chỉ dùng chạy cỗ xe kháng chiến nhưng không dùng được cho bộ
máy điều hành quyền lực, nhất là quyền lực đảng độc tài...Ngươi quá mê mẩn với
cái thứ lời hay ý đẹp của bản thân mà không hiểu rằng ngôn từ cũng như mọi thứ
trên đời có sinh thì có tử. Quyền lực là quyền lực, nó không song hành với mỹ
học hay đạo đức. Tính chất đặc trưng của đời sống là đánh đố và thách đố chính
ở đây. Cú đòn giáng xuống người vợ trẻ của ngươi chính là trận đánh thăm dò. Vì
ngươi đã tự bó tay nên hồi sau những kẻ thù nghịch trèo lên đầu ngươi cũng là
điều dễ hiểu.
- Nhưng tôi cũng không thể yêu cầu tướng Long hành sự...Bởi
điều đó sẽ khiến bao nhiêu con người vô tội phải đổ máu....Đất nước vừa trải
qua chín năm kháng chiến, dân chúng chưa được hưởng yên vui...
- Ồ, muốn tránh máu cũng vẫn đổ....Trên hành tinh này có lúc
nào ngừng tiếng súng đâu ?..Nếu như ngày ấy ngươi tự nguyện hy sinh để tránh
vài vũng máu tươi thì giờ đây ngươi đã không ngăn được những dòng sông máu lênh
láng chảy... Cuộc chiến tranh hiện thời sẽ là cuộc chiến tranh thảm khốc nhất
trong lịch sử dân tộc, một cuộc chiến tranh quỷ khóc thần sầu, bởi số người
chết sẽ lớn hơn tổng số những kẻ đã hy sinh trong các cuộc chống ngoại xâm, từ
thời Minh Nguyên cho đến tận mùa thu năm Ất Dậu(I945)....Điều ta nhận định đúng
hay sai ?...
- Ông biết rằng tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản
nó...Nhưng....
- Nhưng lực bất tòng tâm và ngươi là kẻ ngã ngựa giữa trận
tiền...Ta đặt giả thuyết rằng ngay từ ngày người vợ trẻ của ngươi bị sát hại,
ngươi tổ chức cuộc phản công và thay vì để cho lũ đàn em thù nghịch giam lỏng
ngươi trong cái nhà tù trá hình này, ngươi nhốt bọn chúng trong một nhà ngục
thật sự....Biết đâu ngươi chẳng tránh được cuộc chiến thảm khốc này và tiết
kiệm được biết bao xương máu của lương dân ?....
Ông im lặng thở dài và gã nhún vai nói tiếp :
- Nhưng thôi, chúng ta sẽ không tính lại chữ Nếu...Chữ ấy
luôn luôn là thứ kẹo mút của bọn trẻ lên ba. Ta trở lại với bi kịch gia đình
của ngươi. Và lần này ta không sử dụng từ nếu mà quả quyết rằng tướng Long giữ
im lặng vào lúc ấy, chính vì ông ta cũng muốn trục lợi trong trò chơi ngươi
đóng vai Thánh sống. Dưới bóng của một ông thánh có biết bao nhiêu kẻ được
hưởng phần xôi oản, kẻ hưởng phần to nhất chính là ông ta. Tên tuổi của ngươi
gắn với tên tuổi ông ta trong trận Điện biên Phủ. Vì thế, chính viên tướng này
cũng muốn vĩnh viễn nhốt ngươi trong một ngôi đền. Ồ, trò chơi làm Thánh chính
là trò chơi độc ác nhất cõi đời, ấy là độc đạo chỉ có thể trèo lên mà không có
lối tụt xuống. Kẻ đóng vai Thánh sống phải chết cứng và chết đứng trên bệ của
y, chết trong giá lạnh và mưa gió, chết trong cô đơn tuyệt đối vĩnh hằng, chết
muôn kiếp trong tư thế một bức tượng, vĩnh viễn chẳng còn được chôn cất như
những người khác....Một cái chết vô cùng mệt mỏi....Chết mà không được nằm, đó
là thứ mệt mỏi kéo dài muôn kiếp.... Một kiểu hình phạt độc đáo của Tạo
hoá...Ta nói đúng hay chăng ?...
Gã cất tiếng cười mai mỉa. Ông thấy mặt nóng bừng còn toàn
thân lại lạnh buốt như băng. Dường như lưng ông và hai vai ông đã hoá đá dán
chặt xuống giường. Ông không dám mở mắt nhìn kẻ đối thoại nên đành nhắm mắt lại
và tiếp tục nghe tiếng gã tuôn ra như nghe những viên cuội dốc ra từ một chiếc
hũ sành :
- Ngươi hoàn toàn tê liệt bởi chẳng có một ý tưởng nào rõ
nét chỉ đạo hành động của ngươi vào lúc đó. Ngươi muốn đánh trả kẻ thù nghịch
nhưng không dám thuyết phục đám tay chân. Ngươi đã quên nguyên tắc hành xử của
các quân vương tự ngàn đời :
― Kẻ nào đụng đến tả hữu của ta chính là chặt chân chặt tay
ta ;
Kẻ nào đụng đến máu mủ ruột rà của ta chính là chạm đến con
ngươi mắt của ta vậy....
Lẽ ra, ngươi có thể vạch rõ mối hiểm nguy cho chính tướng
Long và phe nhóm của ông ta. Rằng nếu ông ta giữ im lặng trước sự lạm quyền của
Sáu thì sau cuộc đánh thăm dò này chính ông ta sẽ là một đại thụ cần phải đốn
ngã trước tiên. Rằng kẻ hôm nay ăn cắp một quả trứng ngày mai sẽ ăn cắp một con
thỏ và ngày hôm sau nữa sẽ ăn cắp con bò. Rằng quyền lực chỉ đi theo con đường
của nó mà không bao giờ ngoái lại phía sau để suy ngẫm hay thương tiếc. Nếu
ngươi đủ khôn ngoan để phân tích một cách đầy đủ như vậy, ta cam đoan là người
đàn em của ngươi sẽ ra tay ngay tắp lự, chẳng một phút chần chừ, chẳng mảy may
nao núng. Xưa nay, con người vẫn hành động tức khắc khi chính bản mệnh họ bị đe
doạ. Lòng vị kỉ vốn là bản năng xa xưa và mạnh mẽ nhất của chúng sinh. Nhưng
thay vì hành động với tất cả khả năng sáng suốt của lý trí, ngươi lại im lặng
chờ đợi sự thông cảm một cách ngầm ẩn của đám đàn em. Sự im lặng này không hẳn
vì ngươi hoàn toàn ngu ngốc, nhưng vì ngươi dùng dắng trong tranh tối và tranh
sáng, chính trạng thái mù mờ đó khiến ngươi trở nên tê liệt. Có hai khả thể vào
tình cảnh này : Hoặc ngươi hổ thẹn không dám bảo vệ người đàn bà yêu dấu vì
nàng quá trẻ quá đẹp, một miếng ăn quá ngon đối với cái miệng của vị vua già,
một thứ phản cảm đối với quan niệm chung của thứ dân và vì thế tuy trong lòng
sôi sục yêu đương nhưng ngươi ngại ngùng và không dám công khai bảo vệ tình yêu
đó. Trong trường hợp này đích xác ngươi là kẻ mắc chứng khổ dâm tinh thần. Nếu
không, chỉ còn một cách giải thích khác. Ấy là vì ngươi quá thích thú với vai
trò Thánh sống, là cuộc chơi này thoả mãn cái phần kiêu hãnh nhất trong bản thể
nên ngươi buộc phải chịu đựng sự thiến hoạn cuộc sống bình thường của một người
đàn ông, và do đó ngươi đã cam tâm hy sinh nàng, người đàn bà mà ngươi yêu
nhất. Trong trường hợp đó ngươi là......
Những viên sỏi tiếp tục lăn ra từ miệng chiếc hũ sành, nhưng
tai ông đã ù đi nên ông chỉ còn cảm giác là những đợt mưa rào đâu đó gõ ầm ầm
lên mái tôn, có lẽ mái tôn nhà ngục Hương cảng ....Những đợt mưa rào hung dữ.
Các tấm tôn xám kêu rùng rùng dưới những cơn mưa ấy. Phía trên các mái tôn là
một mảnh trời. Lúc xanh lơ, lúc tối sầm mây giông, lúc trong vắt trong veo, lúc
mịt mù sương khói...Ôi ,chỉ có kiếp tù nhân mới hiểu được tận cùng sự đổi thay
sắc thái của mầu trời. Đã bao nhiêu ngày, ông nhìn bầu trời Hương cảng để hồi
nhớ mảnh trời xứ sở ? Rồi đột nhiên ông thấy nàng xuất hiện trên mái tôn nhà
ngục nhìn ông, cười nụ cười thơ trẻ. Hệt như cô gái mười chín tuổi ngồi trên
cành cây ăn vả trong cánh rừng Việt bắc năm xưa. Hai hàm răng trắng bóng lên
như ngọc trai, và cặp môi lấm lem ruột quả...
Ông cất tiếng gọi nàng nhưng miệng ông bị gắn chặt bởi một
thứ nhựa dính như sơn ta và lưỡi ông dính bết vào hàm.
― Không lẽ ta đã chết và họ trám miệng ta bằng thứ nhựa này
?...
Ông nghĩ, nhưng rồi ông lại nghe tiếng quật bài tu-lơ-khơ
bên ngoài vọng vào phòng và khi mở mắt ra ông vẫn nhìn rõ ngọn đèn ngủ xanh màu
xanh của lửa đom đóm :
― Ồ không, ta đang ở đây....Ta đang ở trên đỉnh Lan
Vu....Đối diện với khu nhà này là khu chùa phụ, nơi sư cụ có hai hàm răng đen
nhánh sống cùng đệ tử ....Rõ ràng ta vừa sang chơi bên ấy, và họ thiết ta nước
vối hãm gừng với chè lam, một thứ chè lam mềm như chuối chín...
Ông định thần, giương mắt nhìn quanh gian buồng lần nữa.
Cảnh vật bình thường. Gã bảnh bao diện com-plê màu trắng ngà đã biến mất. Nơi
gã vừa tựa lưng giờ chỉ còn lờ mờ chiếc khung gỗ trong đó lồng bức ảnh đen
trắng mà ông rất thích : Hoa đào. Bức ảnh ấy chính nàng tặng ông khi họ vừa có
đứa con gái đầu lòng. Không ngày nào ông không đứng trước tấm ảnh đó. Nó là tất
cả những gì còn lại của nàng, gợi về nàng trên cõi đời rộng rênh hoang vắng
này. Hoa đào. Sứ giả của mùa xuân. Hoa đào. Di vật bất tử của mối tình chết
yểu....
Ông thấy vị mặn của muối.
Đó là nước mắt ông hay nước biển năm xưa lạc lối quay về ?.
― A!....Tuổi trẻ của ta...Khúc ca xưa cũ....
Ông vừa chợt nhớ ra câu hát ấy thì một câu hát khác đã trở
lại, láy vọng và nhấn chìm ông trong nỗi tiếc thương :
― Dầu đã lìa xa, lòng ta không nguôi nhớ...
Tiếng hát rền vang trong ông, xuyên xoáy từng tế bào, khiến
cơ thể lẫn tâm hồn ông tan ra như đám cát. Ông thấy những con sóng quật lên
ông, lên cái khối bùi nhùi mà trong đó thịt xương bấy nát hoà trộn cùng thứ khí
đục như mây giông. Ông biết ông không còn là ông nữa, bởi ông nhìn thấy mình
đang dập dềnh trên ngọn sóng, một mớ bọt biển tiếc thương quyện vào đám rong
rêu vật vờ của oán hờn và tuyệt vọng ..*.
Tiếng đập cửa phòng ầm ầm vang lên rồi cánh cửa bật ra. Điện
bên ngoài đã sáng choang. Ông nghe tiếng bác sĩ :
- Thưa chủ tịch, xin phép được thăm bệnh cho người.
- A...
Ông chưa định thần được, cánh cửa đã mở toang và bác sĩ xuất
hiện. Anh ta nói luôn :
- Cảnh vệ nghe nghe tiếng chủ tịch kêu nên sang gọi tôi. Xin
người cứ nằm yên trên giường....
Ông im lặng. Bác sĩ luồn ống nghe để kiểm tra tim phổi ông.
Thứ dụng cụ bằng kim loại lạnh buốt chạm vào da thịt khiến ông rùng mình. Nhưng
những ngón tay bác sĩ rất mềm và ấm nóng, những ngón tay đầy nhục cảm. Hơi thở
của anh ta cũng ấm nóng lướt nhè nhẹ trên trán ông. Mọi động chạm của người đàn
ông này gợi nên những ý nghĩ thầm kín :
― Sự nồng ấm, đó chính là phẩm chất tối thượng của đời sống.
Sự nồng ấm, vừa là hình hài vừa là đường biên của ngọn lửa đam mê...Ngọn lửa
đam mê lớn nhất của đời ta đã dùng để đốt lên đám cháy cách mạng. Nhưng cuộc
cách mạng ấy chẳng đem lại hạnh phúc cho con người. Ngọn lửa đam mê nhỏ nhoi
hơn đốt cháy con tim ta vì nàng. Rốt cuộc nàng đã bị huỷ diệt trong chính thứ
lửa địa ngục ấy. Ôi tội nghiệp thay cho sự uổng phí sinh lực của kiếp người.
Đời ta đã cháy lên như một ngọn lửa hoang, một sự bốc cháy nhầm lẫn, một sự
tiêu xài năng lượng điên rồ. Ta thua kém bất cứ một kẻ bình thường nào khác,
như tay bác sĩ này chẳng hạn. Anh ta có thể dùng năng lượng để sưởi ấm các con
bệnh, để làm nóng lên tấm thân người đàn bà gần gũi, và để hát những khúc tình
ca...„
- Thưa chủ tịch, không có vấn đề gì nghiêm trọng nhưng người
suy nghĩ quá căng nên giấc ngủ không lành....Có lẽ người chấp thuận uống vài
viên an thần hay chăng ?
- Ồ không. Mất ngủ là bệnh của người già. Còn nói mê là bệnh
của trẻ con. Tuy nhiên, khi về già người ta thường cũng hay ngủ mê vì đó là
triệu chứng khởi đầu của sự lú lẫn. Thành thực mà nói, chú đã thấy tôi bắt đầu
lú lẫn hay chưa ?
Ông cất tiếng cười . Bác sĩ cũng cười theo :
- Ồ! Chuyện hài hước.
Ông nói tiếp :
- Tôi hy vọng rằng tôi không bị lú lẫn trước khi chui vào
hòm. Nằm trong lòng ông sáu tấm tha hồ lú lẫn cũng không phương hại tới ai. Còn
bây giờ, chú cứ quay về phòng ngủ tiếp. Không cần quá lo lắng cho tôi. Tôi
chẳng còn trẻ để có quyền ăn no ngủ kĩ. Mắc đôi chứng của bệnh già cũng là lẽ
thường thường tình.
- Nhưng mất ngủ, người sẽ rất mệt.
- Sáng mai, tôi sẽ ngủ bù. Bảo họ chớ đánh thức tôi dậy ăn
bữa sáng.
-Vâng.
- Cứ an tâm về ngủ lại. Chú nữa, chú cũng có quyền ngủ trễ
ngày mai bởi phải thức dậy vào nửa đêm. Lúc này mấy giờ rồi ?...
- Dạ, ba giờ hai mươi nhăm phút.
- Tốt lắm. Còn rất nhiều thời gian để ngủ tiếp.
- Dạ. Chúc chủ tịch ngủ ngon.
Bác sĩ khép cánh cửa lại. Đèn phòng ngoài tắt. Ông nghe
tiếng anh ta bảo hai cậu lính chuyển bàn ghế sang tít đầu hồi bên kia chùa
chính mà đánh bài để ông được hoàn toàn yên tĩnh. Hai chú lính dạ ran rồi lục
cục chuyển bàn ghế. Tiếng chân bác sĩ vang trong đêm nhẹ nhàng nhưng khoáng
đạt. Hẳn đây là một người đàn ông vô cùng nồng ấm trong chuyện gối chăn. Ông
chợt nhớ lại cảm giác sững sờ khi lần đầu nghe anh ta hát. Vì giọng hát ngọt
ngào hay vì lời hát xuyên thấu con tim ông bằng lưỡi gươm tàn khốc :
― Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau?„
Ông nhận ra rằng ông đã quay lại pháp đình, nơi gương mặt
nàng đối diện với gương mặt ông và giữa họ là tấm lưới pha lê dệt bởi muôn
nghìn dòng nước mắt. Ông lên tiếng gọi nàng nhưng nàng không đáp. Tại sao nàng
giữ mãi sự lặng câm ? Tại sao nàng không trách móc, không sỉ mắng ông, dù chỉ
một lời ? Ồ, nếu như vậy hẳn lòng ông vơi nhẹ. Sự lặng câm của nàng là vạc dầu
địa ngục khiến tâm hồn ông bị nung nấu trường kì.
― Sự lặng im của nàng là cuộc tù chung thân đối với ta.
Trước tâm hồn trong trắng của nàng, trước sự tin cậy thơ ngây của nàng, trước
mối tình chân thành và nồng ấm của nàng, ta là kẻ tội đồ ngàn kiếp „
Ồ, không phải chỉ có riêng ông. Những kẻ đã hy sinh nàng một
cách nhẫn tâm rồi cũng phải trả giá. Chỉ một năm sau ngày nàng chết, Ba Danh và
Sáu đã cho xây nhà ngục đặc biệt ở đảo Tuần Châu với ý đồ giam tướng Long vĩnh
viễn trong đó. Nhưng sau khi bàn đi tính lại, chúng e ngại dư luận quốc tế nên
đã bắt ông ta sang làm việc tại uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch, lãnh nhiệm vụ đi
đặt vòng cho đám đàn bà. Toàn bộ cái trò hề nhơ nhuốc này phaỉ chăng là sự trả
thù của tạo hoá ? Bởi con tim nàng quá trong trắng, bởi nhan sắc của nàng là
vưu vật của đất trời, sự thánh thiện của nàng cả thần lẫn quỷ đều phải chứng,
thế nên những kẻ quay mặt đi trước cái chết của nàng đến lượt họ cũng phải chịu
những phản trắc, những đầy đoạ, những sỉ nhục của đám đồng chí bất lương. Dù vì
lý do nào chăng nữa, khi tội ác đã đặt được chân vào cửa đền thì nó sẽ tiếp tục
đi thẳng vào hậu cung mà không gươm dáo nào cản nổi.
Sáng hôm nay, Vũ gọi điện cho ông, chỉ để nói một câu :
― Anh Cả ơi, đại cuộc đã hỏng rồi„
Ông sững sờ, định hỏi thêm nhưng ở đầu bên kia, Vũ đã đặt
máy. Lễ cho ông biết Vũ phải nhập viện ba tuần nay vì bị ngất đột ngột mà không
lập được hồ sơ bệnh lý chính xác. Nhờ cú điện thoại sáng nay, ông hiểu được căn
nguyên sự suy sụp tâm thể mà các bác sĩ phải bó tay. Đồng bệnh tương liên, lẽ
đời như vậy. Tất thảy sự ngờ vực của họ bấy nay đã kết thúc trong tiếng kêu của
con chim trước khi cụp cánh để buông thân rơi xuống vực sâu :
- Than ôi, đại cuộc đã hỏng rồi !....
Tấm áo lót cuối cùng của sự hồ nghi, của sự tự biện minh,
của những hy vọng vớt vát và nguỵ tạo đã rơi xuống. Sự thật phơi mình. Nàng
tiên mỹ miều chỉ còn là con cóc cái ghê tởm. Mỹ nhân yêu kiều hoá thân thành
xác cáo chín đuôi. Hơn một thập kỉ dùng dắng trong sự nhá nhem giữa ánh sáng phán
đoán của lý trí với sự mù loà của lòng kiêu hãnh, giữa sức mạnh của lương tri
với bản năng vị kỉ và niềm si mê tự ngưỡng mộ mình. Chính vào buổi sáng hôm
nay, khi nghe giọng nói khàn đặc của Vũ, ông hiểu rằng đây chính là hồi kết
thúc :
― Ta không còn lý do nào để dung thứ cái chính thể đồi bại
và tàn độc này, cái chính thể mà ta đã tạo ra nhưng nó phản bội lại chính ta
sau khi đã phản bội lại dân tộc. Ta không thể tiếp tục cộng sinh với nó. Một
thứ ngạ quỷ lớn lên trong lòng xứ sở nhưng ngay sau khi lọt lòng lại cắn cổ và
hút máu chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau. Ôi, khốn khổ thay cuộc hoài thai
đau đớn này. Khốn khổ thay cho dân tộc của ta và khốn khổ thay cho chính ta „
Bóng tối trước mặt ông bỗng trở nên đen sẫm màu mực, thứ mực
Tàu mà những ông đồ già thường viết trên giấy đỏ. Óc não ông chợt sáng bừng lên
một hình ảnh cũ, một mảnh đời của quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn nguyên tươi thắm
: Cứ mỗi độ xuân, các nhà nho ngồi mài mực để viết những câu thơ đối vần trong
đó hàm chứa cả ước mơ và hy vọng, vừa là lời chúc tụng vừa là điềm báo triệu
cho tương lai. Những nét chữ thiêng liêng ấy hiện lên trên nền giấy đỏ rực, khi
ngoài kia mưa phùn nhẹ như lông tơ bay trên những vườn đào thắm đào phai ; và
xa hơn nữa những đàn cò trắng dập dìu trên cánh đồng xanh thắm. Ồ, đẹp làm sao
những cặp câu đối mừng xuân. Những nét chữ múa lượn như rồng uốn, như phượng
bay, như mây cuốn. Màu đen, đen đến tận cùng đen. Màu đỏ, đỏ mút mùa đỏ. Cuộc
đời bao giờ cũng là sự đan xen giữa những đối cực. Vậy tại sao ông không sử dụng
nguyên tắc của trò chơi này ? Ý nghĩ ấy vụt đến khiến ông sửng sốt :
― Tại sao ta không dùng cái chết của ta như ông đồ già dùng
thứ mực đen, để tôn vinh lên màu đỏ rực rỡ kia, biểu tượng cho tương lai huy
hoàng của dân tộc ? Tại sao ta không nghĩ ra nước cờ này, đó chính là nước cờ
tối hảo ta sẽ đi trên bàn cờ thế sự. Đấy chính là cách hiệu nghiệm nhất để bóp
chết loài ngạ quỷ, để chuộc lại lỗi lầm của ta trước dân chúng....Đấy cũng
chính là con đường ngắn nhất để ta tìm gặp lại người yêu.„
Tức khắc, ông thấy lòng nhẹ nhõm. Giống như kẻ bấy lâu mò
mẫm trong bóng tối bỗng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
― Ô, tuyệt vời! Cái chết này đem đến cùng một lần sự giải
thoát và cứu rỗi. Tại sao đến tận lúc này ta mới nghĩ ra ? Ôi, bộ óc vô dụng
của ta, ngươi thật nghìn lần đáng trách.„
Ông lật chăn, ngồi bật dậy.
Đã từ lâu ông thuộc như lòng bàn tay lá số của ông, biết
chắc chắn ngày trở về cát bụi sẽ là ngày Mùi tháng Hợi năm Tân Hợi. Nhưng ông
vẫn bật đèn, mở tủ lấy lá số tử vi cũ nát mà ông giữ từ hơn sáu chục năm. Các
nếp gấp đã sờn, màu giấy ngả sang vàng úa. Ông thận trọng mở lá số ra, thận
trọng soi chiếu lại sự tụ hợp của những hung tinh vào thời hạn mà tử thần sẽ
đến tận giường để cắt sinh mạng của ông bằng lưỡi hái. Không có gì sai lệch.
Cuộc kiểm định hoàn toàn chính xác. Trí nhớ của ông vẫn đáng tin cậy như thuở
tráng niên.
― Ồ, sống làm gì thêm hai năm trong cuộc sống tù hãm và
tuyệt vọng này ? Sống làm gì thêm để tiếp tục đóng vai trò một con rối gỗ,
khích lệ những đứa trẻ vô tội lao vào một cuộc chiến sầu thảm và ngu ngốc, để
rồi mai đây lịch sử sẽ lên án ta như lên án một gã vua già hèn nhát hoặc bất
lương ? Cuộc ra đi này sẽ là cách sám hối tốt nhất, nó sẽ trả lại cho ta sự
thanh thản trước pháp đình tối hậu của tâm hồn„
Ông gập lá số lại, cất vào tủ rồi đến bàn giấy, lục tìm
trong ngăn kéo bản di chúc đã phác thảo dở dang từ năm trước. Ông sẽ hoàn tất
nó đêm nay bởi ông quyết định chết vào ngày mồng 2 tháng chín. Theo phép thuật
cổ, kẻ sáng lập ra một vương quốc, một tôn giáo, một môn phái võ lâm mà chết
đúng vào ngày khai sinh các tạo phẩm ấy thì đó sẽ là điềm tiên triệu xác thực,
là bản phán quyết định mệnh cho sự kết thúc không thể tránh được của chính các
tạo phẩm trên.
Sáng hôm sau, cậu lính béo lên đổi ca lúc bảy giờ ba mươi,
như thường lệ. Ông bảo :
- Chúng ta đi lên núi rồi hãy quay lại uống trà.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Tôi muốn leo núi một chút cho dẻo chân. Tôi chưa thấy đói.
- Thưa chủ tịch, con phải chờ lệnh bác sĩ...Con không
dám....
- Yên tâm, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bác sĩ còn đang
ngủ.
Nói đoạn, không chờ cậu ta nói thêm, ông xăm xăm bước. Anh
chàng lính béo chẳng có cách nào hơn là hối hả chạy theo rồi túm lấy cánh tay
ông.
- Thưa chủ tịch, để con dắt người. Giờ này đường rất trơn,
nguy hiểm lắm.
- Ồ!..
Ông quay lại mỉm cười :
- Ông già dưới xóm Tiều phu ngã vào đúng ngày tạnh ráo, và
mặt trời đã đi qua ngọ, đúng không ? Lúc ấy chẳng còn một giọt sương nào trên
cỏ ?
- Dạ, đúng là như vậy nhưng....
- Đừng quá cẩn thận. Chú cứ đi sau lưng tôi là được rồi. Đường
núi hẹp thế này hai người bấu díu vào nhau càng khó đi hơn.
Cậu lính đành lẽo đẽo theo ông. Bởi ông đi nhanh thăn thoắt
nên anh chàng cũng chỉ còn đủ thời gian để bám sát gấu áo ông mà thôi. Càng đi
cậu ta càng thở dữ vì tấm thân nặng nề, cũng vì chưa bao giờ ông đi với nhịp
điệu thần tốc như vậy. Vạt áo bông của ông đập phần phật lên hai chân và đuôi
chiếc khăn quàng len kẻ sọc bay ngoặt lại sau lưng giống như đuôi diều bị gió
thổi. Ông đi thẳng một mạch lên đỉnh Lan Vu, nơi cao nhất, nơi chưa bao giờ ông
đặt chân tới. Ở đấy, ông đứng trên một tảng đá lớn đưa mắt nhìn bao quát đến
chân trời. Những đám mây bồng bềnh lượn quanh đỉnh núi, rồi sà xuống các tầng
núi thấp hơn. Dưới những dãy núi trập chùng ấy là làng mạc. Xa hơn nữa, đồi
nương rồi đồng ruộng trải mút tới chân trời.
A ! Non sông của ông ....
Giang sơn gấm vóc hay miền đất bùn lầy tăm tối ? Nói cách
nào cũng được. Hiểu theo chiều nào cũng đúng. Bởi chỉ có duy nhất một hiện thực
thôi : Đó là mảnh đất của ông, thuộc về ông. Cũng như ông thuộc về nó, mãi mãi.
Tất cả những gì ông có được, tất cả những gì ông đánh mất, tất cả những gì ông
đã làm, tất cả những gì còn lưu tồn như món nợ....tất thảy khởi sự từ nó và kết
thúc cũng bởi nó, mảnh đất này. Quê hương lầm than. Dân tộc nô lệ. Một lịch sử
không có tiếng đàn sáo mà chỉ vang lên tiếng lách cách của gươm đao. Một hiện
sinh chẳng có tiếng cười mà chỉ vút lên tiếng hô Sát Thát. Tiếng hô ấy vang lên
như tiếng hò kéo thuyền dọc con sông dằng dặc mấy ngàn năm.
―A! Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của ta. Đây sẽ là
cuộc tế lễ cuối cùng của ta cho đất nước !
Ông bảo cậu lính béo :
- Tôi muốn đứng ở đây một chút. Chưa bao giờ tôi đặt chân
lên đỉnh núi thiêng liêng này. Quả là điều đáng tiếc.
- Dạ, chúng con cũng chưa bao giờ trèo lên đây. Nghe nói các
vua xưa cứ ba năm lại lên đây tế lễ một lần.
- Ai bảo cậu thế ?
- Dạ, dân xóm Tiều phu kể lại.
- Đúng đấy. Đỉnh Lan Vu là nơi tụ khí thiêng sông núi. Điều
này các cổ nhân đã viết rành rẽ trong sử sách. Chịu khó đọc sẽ hiểu.
- Dạ.
- Bây giờ, cậu lùi xuống dưới kia chờ tôi. Chỗ cụm thông mọc
giữa hai vách đá. Lúc nào cần quay về, tôi sẽ gọi.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Xuống dưới đó chờ tôi. Không cần băn khoăn nữa.
Vì giọng ông cương quyết thậm chí có đôi phần lạnh lẽo nên
cậu lính béo đành lùi lũi tụt xuống bên dưới, đúng nơi ông chỉ định. Đó là
khoảng đất hẹp giữa hai vách đá, nơi vọt lên một cụm thông già. Anh lính béo
chần chừ một thoáng rồi sau rốt, đành ngồi bệt dưới gốc thông, ngước mắt theo
rõi ông.
Còn lại một mình, chủ tịch quay lưng về phía biển đông và
ngoảnh mặt lại phía tây. Đứng im như tượng giây lát, đoạn ông nhắm mắt lại, thu
hết tâm trí để tiếng nói của con tim ông có thể vang dội, để những âm thanh
thầm kín nhất nơi cõi lòng ông có thể lan truyền và vọng động tới các đấng thần
linh :
― Hỡi các vị thần linh đất nước, hỡi những linh hồn cao
thượng của các anh hùng hào kiệt và các bậc quân vương, những người từng khai
phá và bảo vệ giang sơn này. Nếu thân xác các ngài đã tan rã nhưng linh anh của
các ngài vẫn tồn tại và ngự trị vĩnh hằng trên tổ quốc, xin hãy trở về đây để
trợ giúp tôi.
Hỡi Như Lai Phật tổ, tôi chưa từng đi theo đạo của ngài
nhưng tôi may mắn biết được những đệ tử trung thành của Ngài ở nơi đây và tôi
hiểu sức mạnh chinh phục của Ngài với trần thế. Nếu quả thật anh linh của ngài
luôn luôn ngự trị cõi trời tây, xin ngài hãy hợp lực cùng với các vị thần xứ sở
của tôi, để giúp tôi đạt được sở nguyện cuối cùng này :
Tôi, kẻ đã khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt nam vào mùa
thu năm Ất Dậu, tức ngày mồng hai tháng chín theo lịch Ki-tô, xin được rời bỏ
cõi trần vào đúng ngày ấy tháng ấy năm nay, mùa thu Kỉ Dậu. Cái chết của tôi sẽ
là điềm báo triệu và là bản phán quyết khai tử cho chính nó, cái thể chế tàn
độc và phản bội này.
Cái chết của tôi sẽ là tặng phẩm cuối cùng dành cho dân tộc
tôi.
Cái chết của tôi sẽ là chiến thắng cuối cùng có thể gặt hái,
để bù trả lại những thất bại và lỗi lầm tôi đã phạm trong suốt cuộc đời mình.
Cái chết của tôi sẽ là lời sám hối thánh thiện nhất trước
pháp đình tối thượng của thiên nhiên và của lương tâm.
Vậy, tôi tha thiết xin tất cả các ngài hãy giúp cho tôi đạt
được điều ước nguyện!
A...a....a....
A....a....a....
A.....a....a....a....a....
Ông nghe muôn ngàn âm thanh mơ hồ, vừa như tiếng dàn đồng ca
từ biển Đông vẳng lại, chan hoà, nhào trộn cùng tiếng sóng. Lại như tiếng xì
xào thầm thĩ của những cuộc chuyện trò từ ngàn năm xưa vừa được thu hồi. Ông
nhìn thấy những bóng người trong suốt như nước khe, mong manh như bọt sóng,
khoác những thứ y phục xưa cũ, từ các vua triều Lý cho đến vua tổ triều Trần,
người khởi nghiệp phái thiền Trúc Lâm. Từ tướng Đinh bộ Lĩnh cho đến tướng
Quang Trung. Cả vua Lê lẫn tướng Trần nguyên Hãn. Tướng Nguyễn Xảo trong dáng
một con ma không tay và Nguyễn Trãi trong bóng một con ma không đầu....Cuộc hội
ngộ những con người ưu việt nhất của xứ sở, trong đó có biết bao kẻ đã từng là
bằng hữu rồi trở thành thù nghịch theo thời gian....
Phía sau đám người đó, nơi chân trời vàng rực phía tây là
một người cao lớn có gương mặt trầm tĩnh, cặp môi đẹp như hai cánh hồng với nụ
cười thanh thản vĩnh hằng. Ông biết, đó chính là Đức Thế Tôn...
Như thế, lời nguyện cầu của ông đã được chứng.
Ông đứng im như vậy hồi lâu, cảm nhận một hạnh phúc ông chưa
bao giờ biết. Một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác biệt với niềm vui chiến thắng
hay vị ngon của điếu xì-gà. Một thứ hạnh phúc bất khả truyền đạt.
- Thưa chủ tịch, thưa.....
Ông mở mắt ra, thấy cậu lính béo đứng ngay dưới chân mình :
- Tôi có làm sao đâu ?
- Dạ, con thấy người đứng im như tượng. Rồi con bỗng thấy
mặt người đỏ rực lên như say rượu. Con không hiểu vì sao ?
- Không có gì phải sợ. Người ta thường đỏ mặt lên trong
trường hợp nào ? Hoặc hổ thẹn, hoặc sung sướng, đúng thế chăng ? Thế cậu cho
tôi đang hổ thẹn hay đang sung sướng ?
- Dạ....Con sợ...
- Không có vấn đề huyết áp ở đây. Tim tôi đang đập rất bình
thường. Nào, giờ chúng ta sẽ quay xuống.
Ông đáp đoạn tụt xuống tảng đá rồi trở lại lối mòn dẫn xuống
chùa Lan Vu. Cậu lính chạy hồng hộc phía sau giơ tay túm lưng áo bông của ông
và nói :
- Thưa chủ tịch, giờ con không thể nghe lời người. Dường
xuống dốc thường dễ ngã hơn lúc trèo lên dốc.
- Ờ...
Ông tủm tỉm cười, để mặc cho anh chàng túm lưng áo ông kiểu
như trẻ con nắm đuôi áo nhau trong trò chơi rồng rắn. Hồi lâu, anh chàng nói :
- Giờ con sẽ pha trà, người uống xong tập thái cực quyền rồi
hãy điểm tâm.
- Không, từ nay tôi không tập thái cực quyền nữa.
Cậu lính béo lặng im một hồi vì ngạc nhiên. Rồi sau đó,
dường như không chịu nổi cơn tò mò, anh chàng hắng giọng hỏi :
- Nhưng.... Người vẫn dạy thể thao là kỉ luật ?
Đó là thứ kỉ luật nghiêm nhặt nhất mà chúng ta cần phải thực
hành khi muốn duy trì sức mạnh tâm thể. Tuy nhiên, mỗi thời điểm yêu cầu một
thứ thể thao thích hợp. Theo tuổi tác, con người phải thay đổi cách thức ăn
uống cũng như các hình thức thể thao.
Ông đáp khi trong lòng nở nụ cười thầm thĩ :
« Từ nay ta sẽ tập thứ thể thao tương xứng nhất để mùa thu
này ra đi một cách nhẹ nhàng. Bởi nếu ta biết cách bảo dưỡng thân thể như người
thợ biết bảo dưỡng cỗ máy, ắt ta phải biết cách tắt mạng sống của ta như ông
thủ đền tắt một ngọn nến vào lúc bình minh. »
Con đường vòng qua một khe sâu, nước róc rách vọng lên hoà
cùng lời chim chóc. Bình minh núi non bao giờ cũng thần bí và tinh khôi. Mọi
thứ đều vấn vương mây trắng, đều mát lạnh những giọt nước trong veo, đều ngân
nga lời chim. Ông bước phăm phăm như một chàng trai và cảm thấy như lần đầu
nhìn thấy mọi vật. Rồi khi con đường ló ra khỏi đám rừng, chùa Lan Vu hiện lên
đột ngột như bức tranh.
- Ồ, nhanh thật !
Ông buông tiếng kêu.
- Vâng, đường xuống núi bao giờ cũng nhanh gấp bội.
Anh chàng béo đáp.
Họ qua cổng tam quan để vào sân chùa.
Đột nhiên, một màu trắng mênh mông đập vào mắt chủ tịch
khiến ông bàng hoàng như bị loá. Chủ tịch vội dừng lại, định thần rồi hiểu rằng
đó là vườn mai phản chiếu ánh hừng đông. Bất giác ông cất tiếng kêu :
- Ồ, hoa mai nở đầy vườn. Sao lúc đi tôi không nhìn thấy ?
- Dạ, lúc đi trời còn lảng vảng sương mù. Vả chăng người
bước vội vàng nên không để ý. Đây là đợt hoa cuối cùng nở rộ. Sau đó, chỉ còn
các cành lẻ muộn thôi. Sư nữ bảo con như vậy.
- À....ra thế....
Ông dừng lại, giơ tay nhẹ nhàng chạm lên những chùm hoa.
Những cánh hoa ướt lạnh và mịn màng lướt trên da thịt ông,
vuốt ve an ủi. Ánh rạng đông làm những giọt sương còn đọng trên đầu lá sáng loé
như kim cương. Ông nhắm mắt lại để tận hưởng vẻ dịu dàng của những cánh hoa và
để nghe tiếng thì thào gió sớm. Khi ông mở mắt ra, gương mặt nàng đã trồi lên
phía bên kia vườn, đối diện với ông. Nàng tươi tắn trong tấm áo chàm, cái nhìn
êm ả trong vắt, gương mặt hồn hậu tinh khôi. Ông biết rằng đó chính là nàng, là
nàng của ngày hôm nay, là nàng đã được giải thoát khỏi oán hờn hình nhục, là
nàng của tuổi hai mươi, của mối tình bất tử, đang đợi chờ ông ở bên kia bờ dòng
sông U tịch. Đợi chờ...
Ông cất tiếng :
« Giờ đây, ta nói với em, người đàn bà dịu dàng và khiêm ái,
người vợ nồng nàn và rất đỗi thơ ngây, con chim oanh bé nhỏ của riêng ta. Sơn
nữ ơi, ta chuẩn bị lên đường đi gặp nàng đây. »
Đỉnh cao chói lọi
VĨ THANH
Chủ tịch từ trần đúng ngày Quốc Khánh, mồng hai tháng chín
năm Kỉ Dậu. Lũ đàn em thù nghịch tuy chẳng thông kim bác cổ nhưng cũng hiểu
được sự trùng lặp này mang tính nguyền rủa và sẽ dẫn đến đòn trừng phạt không
tránh được của định mệnh đối với thể chế nên chúng lừa dối mọi người bằng cách
tuyên bố rằng ông ra đi vào ngày mồng ba.
Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước
trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như
vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải
thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy
mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão.
Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà,
xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô
cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới
chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng
như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ
sở này.
Tang lễ cử hành tại quảng trường Ba Đình, dưới thác nước.
Lính đứng theo đội hình trong đồng phục quân nhân ướt sũng. Dân chen chúc từ
quảng trường sang các ngả phố, quần đen áo nâu gài băng tang, trùm vải ni-lông.
Các quan chức rường cột quốc gia trên khán đài, có cận vệ giương ô đen che đầu.
Diễn văn thống thiết như mọi sự thống thiết trên cõi đời. Lời lời châu ngọc
tuôn ra để ca ngợi công đức của vị lãnh tụ quốc gia, người khai sinh ra nhà
nước cách mạng, người dìu dắt biết bao đàn em, đào tạo lớp hậu sinh thành những
kẻ kế nghiệp thuỷ chung và tận tuỵ !
Không hiểu vào thời khắc diễn ra cuộc tang lễ này, linh hồn
run rẩy của chủ tịch đang ở nơi đâu ? Nếu khôn ngoan, nó phải trú đậu dưới bóng
cây xà cừ trước cổng bộ quốc phòng, tuy chịu ướt lạnh vì những làn nước như roi
quất, nhưng chắc chắn sẽ quan sát được đầy đủ mọi lớp lang của tấn tuồng. Toàn
dân khóc. Đám dân đen tốt hỉn đã đành, nhưng ngay những kẻ mưu hại ông cũng
khóc rống lên tựa như cha đẻ họ chết thật . Họ khóc thảm khóc thê, nước mắt
chan hoà, giọng tắc nghẹn vì đớn đau, sụt sùi vì mũi rãi. Diễn văn của họ được
tô điểm bằng những tiếng xì mũi rất to và thứ tiếng động thiếu mĩ cảm này được
phóng đại rồi lan truyền trên hệ thống phóng thanh công cộng.
Điều dự đoán của chủ tịch là đúng : Họ khóc thật sự.
Nhưng sự cắt nghĩa của ông lại sai : Họ không khóc vì mường
tượng một ngày nào đấy họ sẽ phải đối mặt với ông trước pháp đình của thiên
nhiên, họ không khóc vì hổ thẹn hay bối rối trước cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra bên
kia bờ con sông U tịch. Ồ không, hoàn toàn không phải những lý do thơ mộng như
thế.
Họ khóc vì họ không thể nào không mưu hại ông, không thể nào
không truy tìm và cầu mong cái chết của ông, vì đó là lối mòn của con đường
quyền lực. Tuy nhiên, đây mới chính là lý do quan trọng nhất, lý do tối hậu
khiến họ phải nức nở trên khán đài: Vào chính thời điểm diễn ra tang lễ, họ mới
hiểu được một cách thật sự họ là ai. Sự tự hiểu vốn là thứ kiến thức khó khăn
nhất có thể truy cập được trong cuộc sống của con người. Rất nhiều kẻ cho đến
khi nhắm mắt xuôi tay vẫn hoàn toàn sống trong bóng tối của chính họ hoặc trong
đám sương mù do trí tưởng tượng của họ tạo nên. Người ta chỉ có thể khám phá ra
chân giá trị của mình nhờ những hoàn cảnh đặc biệt, và trong sự cọ sát với
ngoại giới ; bởi dung mạo của một con người chỉ được nhận diện qua tấm gương
của tha nhân. Cái chết của ông chính là cơ hội ấy. Từ nhiều năm nay, thâu tóm
quyền lực quốc gia, nắm trong tay cả một hệ thống tay sai từ thượng cấp xuống
hạ cấp, từ các vị trí rường cột triều đình xuống tận tên lính gác doanh trại
hoặc bọn chỉ điểm thôn xã ; lũ đàn em thù nghịch của ông tin chắc vào khả năng
khống chế của chúng. Rằng chúng là hoàng đế trên ngôi còn ông là thái thượng
hoàng què liệt trong hậu cung buộc phải làm tất thảy những gì chúng yêu cầu như
một con rối gỗ. Rằng chúng là những anh hùng đương đại còn ông chỉ là tấm bảng
thếp vàng ghi danh sách các liệt tướng đã tan rã dưới đất bùn. Rằng khải hoàn
môn chúng đang xây sẽ vĩnh cửu ngự trị trên cõi đất này còn chiến công của ông
chỉ là khúc nhạc dạo đầu giống như thứ tiền sảnh người ta phải đi qua trước khi
bước vào chính điện. Ngày tang lễ, những ảo vọng đó bốc bay như khói. Chúng
hiểu rằng quyền lực của ông chỉ có thể làm nảy sinh lòng đố kị nhưng bất khả
chiếm đoạt.
Quyền lực của ông, ấy là thứ nam châm được tạo ra dưới bàn
tay thần hoặc quỷ. Từ trường thật của một ông thánh ảo. Khả năng thao thác
ngoại hạng của một quyến rũ ngoại hạng. Sức mạnh vô địch của tất thảy những
niềm tin, những xúc cảm, những huyễn tưởng đã nhào trộn, đã kết tinh, lắng đọng
với thời gian và vĩnh định trong tâm hồn. Tất thảy những bùa phép cùng một lần
dung chứa mọi nghịch lý, cái thăng hoa và cái cặn bã của cùng một trò chơi...
Như thế, chính trong thời khắc định mệnh, chúng hiểu rằng
chúng không là gì cả trước lão già kia. Cho dù chúng đã bỏ ra biết bao công sức
và mánh khoé để tự tuyên truyền về mình, những ngôi sao « sáng hơn nghìn ngọn
nến » vừa xuất hiện trên bầu trời xứ sở....
Sự lan truyền mối xúc động chung vào ngày tang lễ ông giống
như sự lan truyền của bão, lụt hay hoả hoạn. Vì thế, chúng hiểu rằng ông vẫn
sống dù trái tim ông không đập nữa, rằng chúng phải tiếp tục sử dụng cái bóng
của ông để che chắn mái đầu mình, rằng cái khải hoàn môn mà chúng toan tính dựng
lên sẽ không bao giờ có được nếu không nương nhờ tên tuổi người đàn anh. Bởi
vì, sau rốt, dù đau đớn khi lòng tự ái bị tổn thương, dù căm uất sự bất khả của
bản thân hay sự bất công của tạo hoá, chúng cũng hiểu rằng chúng chỉ là lũ chồn
cáo nhảy nhót kiếm ăn sau đuôi một con sư tử. Chúng cần ông, dù ông đã chết
rồi.
Con sư tử già đã chết. Nhưng sự hiện diện của nó lại là điều
kiện tối cần để bảo đảm quyền lực cũng như vinh quang của lũ đàn em nên bằng
mọi giá chúng phải kiến tạo một cái xác nhồi rơm. Vì vậy, gần như tức thời,
lăng Ba đình được khởi công xây cất.
Như thế, chúng tiếp tục phản bội ông vì chủ tịch đã chính
thức viết trong di chúc là sau khi chết thi thể ông phải được hoả thiêu, tro
cốt phải được rải đều trên non sông, rồi sau đó tên ông được khắc lên một tảng
đá nhỏ đặt trên một ngọn đồi khiêm nhường tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng sự phản bội cũng
như tội ác một khi đã khởi hành thường không còn trạm dừng chân.
Tuy nhiên, kể từ ngày mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu, trên
đỉnh trời Hà nội, luôn luôn treo lơ lửng một lưỡi gươm. Một lưỡi gươm khổng lồ,
trong suốt. Người ta có thể nhìn rõ lưỡi gươm ấy vào những ngày thu, trời vắng
mây, đặc biệt những ngày trời biếc xanh, xanh tinh lọc sau mưa bão hoặc sau khi
cầu vồng hiển hiện. Lưỡi gươm ấy nhằm thẳng xuống cột cờ thành Hà nội, chờ đợi
khoảnh khắc định mệnh để rơi xuống, chặt đứt lá cờ đỏ sao vàng, kết thúc cái
chế độ phản trắc và tàn bạo, tiêu diệt loài ngạ quỷ đã cắn cổ hút máu chính dân
tộc nuôi dưỡng nó.
Như thế, lời cầu khấn của chủ tịch đã được chứng giám. Vong
linh thiêng liêng bất tử của các hào kiệt dựng nước và giữ nước, của các đấng
tiên vương ; ngự trị từ bảy tầng mây xuống tận các vùng đất đai, rừng núi, sông
hồ xứ sở ; cũng như anh linh của các chư phật đi lại cõi trời tây đều hiểu và
thuận cho ước nguyện tha thiết này.
Điều còn lại chỉ là sự chờ đợi khoảnh khắc tối hậu. Khi dân
tộc Việt biết rõ sự thật và hiểu được ước nguyện cuối cùng của ông./.
Paris, 19 janvier 2007
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét