—o0o—
Làm trai đã đáng nền trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách
làm một “nền trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua
mười ngày ở Huế, mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ (…)
(…) lời ca dao kia là tả cái chí của những
bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ thư
sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người mới ra
lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn thay, có
đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho mình!…
Song
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ đến ngày nào khôn.
Ca dao cũng lại có câu như thế, thì tuy ở
Huế mười ngày, Nam Kỳ một tháng, chưa đủ làm được “nền trai” Nam Việt,
mà cũng đủ học “khôn” được ít nhiều.
(…) Nhưng trước khi kể chuyện Nam Kỳ, tưởng
nên giải qua cái tính cách hai cuộc du lịch trước sau khác nhau thế
nào. Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích
đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ.
(…) Lần này thì thật khác:
cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là
một nơi đất mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả;
người ta đương hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho
mau, chưa từng bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn
muộn. Đất cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc
miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những
đồng rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi
người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó
nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng
càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai.
Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái
cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng.
(…) Hồi sửa soạn đi Nam Kỳ vừa gặp có chuyến tàu lớn ở Nhật Bản về. Tàu hiệu Porthos của công
ty Hằng hải Á Đông (Cie des Messageries maritimes), vừa to, vừa mau,
các chiếc khác đi Hải Phòng – Sài Gòn phải năm ngày năm đêm, chiếc này
đi chỉ đầy ba đêm hai ngày
(…) Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới hơn một ngàn rưởi cây lô mét. Tang tảng sáng ngày thứ tư đã vào tới cửa Sài Gòn.
(…) Nay thế là đã tới đất Nam Kỳ rồi.
Sài Gòn cách bể những 60 cây lô mét, nên tự cửa Cần Giờ vào, đi ngược
con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7 giờ sáng thì tàu vừa
ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh em bà
con sắp ở tàu xuống.
(…) Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy
qua cầu Khánh Hội, hô hấp cái không khí mát buổi sáng, mới bắt đầu
tiếp xúc cái cảnh sắc, cái khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu
ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố tây, cái
khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Tạm để đồ hành lý ở nhà khách
sạn, rồi đi thăm các người quen thuộc, phần nhiều là quen tên thuộc
tiếng mà chưa từng tiếp mặt bao giờ. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy
đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat.
(…) Kể to lớn thì đường Catinat chưa
phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng tức như đường Paul Bert ở Hà
Nội là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành
trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường
mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner.
(…) Các cửa hàng lớn, hàng
tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người
Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát
tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước
chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường
Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy
đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì xe hơi không biết mấy
trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru, như vô số những làn sóng tự
ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnh tượng
gì đẹp bằng đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà,
con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch sự, ở nhà thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật là nghiễm nhiên ra cái cảnh tượng
một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong phú, thiên hạ thái bình.
Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện còn mấy nghìn vạn con người
đương lầm than trong vòng máu lửa!
Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt báu của Á
Đông” (la perle de l’Extrême- Orient). Tôi chưa từng được biết những
nơi đô hội lớn ở Á Đông, như Hương Cảng (Hongkong), Thượng Hải
(Changhaï), Tân Gia Ba (Singapore), nhưng chắc rằng những nơi ấy tuy
có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa sang sắp
đặt, về cái qui mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch
sẽ, mĩ miều khả ái, chơn chu mà sán lạn như hạt châu mới rũa, thì còn
kém Sài Gòn nhiều. Đường phố như vẽ bằng tay, kẻ bằng thước, đều
đặn, thẳng thắn, rộng rãi khang trang, nhiều đường ở giữa lại để những
khoảng rộng trồng cỏ, đặt những tượng
đồng kỷ niệm, chiều đến hàng trăm cái đèn điện lớn chiếu sáng như một
dẫy dài những quả ba lông lấp loáng thả phấp phới ngay trên giữa đường
phố, coi rất là ngoạn mục. Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường
đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh
soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai
đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng
kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm,
xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn Quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội.
(…) Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát tây, v.v… Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hôtel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây”, vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây). Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị
sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước
trông thẳng ra đường Charner vừa dài vừa rộng, đi đằng xa lại, coi cũng
có cái vẻ trang nghiêm, xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương!
(…) Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà
thờ Hà Nội, mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng
sủa đi tự ngoài VũngTàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ. Lại nhà dây thép, trong gian giữa có cái tượng đồng người đàn bà ngồi trên quả địa cầu, để biểu hiện cái tin tức của người
ta nhờ dây thép mà truyền được đi khắp thế giới, coi cũng mạnh mẽ và
có ý tứ lắm. Chỉ hiềm chỗ đặt khí tối, giá người nào bước vào vô ý không
ngửng mặt lên thì không biết! Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi
ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một
cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà
Nội chẳng thấm vào đâu. Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà,
cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ
hơn Hà thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội
mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra
cái cảm giác một nơi đô hội theo lối tàu. Còn các châu thành khác ở Lục
tỉnh, thì những nơi quan sở là tây mà chốn phố phường là tàu, phần An
Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi
cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn.
(…) Báo giới trong Nam Kỳ thạnh
lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng quốc
ngữ. Không kể “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) viết bằng chữ
Pháp, – gần đây báo ấy cũng mới xuất bản thêm một tập phụ trương bằng
quốc ngữ, mỗi tuần lễ một kỳ, đều là Quốc dân diễn đàn, – còn các báo
khác thì có những tờ như sau này:Nông cổ mín đàm, chuyên chủ về nông
nghiệp, thương nghiệp, mở ra đã lâu, là tờ báo có tuổi nhất ở Nam Kỳ,
hiện ông Nguyễn Chánh Sắt làm quản lý và chủ bút, ông cũng là một nhà trước thuật có tiếng ở Nam Kỳ. (…)
Nữ giới chung
(Femina annamite) là tờ báo riêng cho các bậc nữ lưu, chủ nhiệm là ông
Trần Văn Chim và ông Lê Đức; -Nam Việt tề gia nhựt báo (Journal de
la famille annamite), của một
bà đầm làm báo ở Sài Gòn mở ra để riêng cho đàn bà con gái An Nam coi;
-Nhựt báo tỉnh (Moniteur des provinces), là một tờ công báo, dịch
những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại; – Nam Kỳ địa phận, là một tờ báo của nhà Trung. – Lại gần đây nghe nói mới xuất bản một tờ Thời báo, một tờ đặt tên nôm là Đèn nhà Nam. Đèn nhà Nam, cái tên sáng sủa thay! Ước gì đèn được sáng tỏ mà chiếu khắp chốn kẻ chợ nhà quê, nơi hang cùng ngõ hẻm, phá được cái thành hôn mê mà soi tỏ con đường tiến bộ. Đó là cái mục đích chung của cả báo giới ta vậy. Mấy tờ báo trên đó là xuất bản ở Sài Gòn. Còn ở Long Xuyên có Đại Việt tập chí, thể tạp chí, mỗi tháng một kỳ, của hội
Khuyến học Long Xuyên, cái chủ nghĩa, cái tôn chỉ cũng giống như Nam
Phong vậy. Lại ở Cần Thơ, có tờ An Hà nhựt báo, ông huyện Võ Văn Thơm
làm quản lý, có một phần chữ tây, một phần quốc ngữ, chuyên về nông
nghiệp thương nghiệp.
(…) nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh
lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây
đã bớt đi nhiều, mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số
những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể. Thứ
nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu cũ, như Tam quốc, Thủy hử, Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường,Tùy Đường, Đông Châu, Phong thần, Đại Hồng bào, Tiểu Hồng bào,
v.v… nếu sưu tập cả lại thì làm được một cái thư viện nhỏ! Những tiểu
thuyết tàu tự tám mươi đời triều ấy văn chương đã chẳng ra gì mà truyện
thì toàn những truyện huyền hoặc quái đản, của mấy
bác cuồng nho bên tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những
bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ
cũng khả kinh thay! Không trách cái tư tưởng
quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra
những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội cũng vì đó.
(…) Ấy là cái tệ các tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của
phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại thậm hơn nữa, vì cách
đặt để đủ làm cho bại hoại phong tục, điên đảo luân thường vậy. Tôi
biết có bộ tiểu thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh hành trong
bọn phụ nữ. Coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào! Gia đình tan
cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cái tương lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó. Các nhà làm
sách có nghĩ tới không? Hay chỉ chủ bán cho chạy hàng, thâu được nhiều
bạc, còn những lẽ cương thường luân lý mặc quách cho ai?
(…) Song có một điều nên chú ý, là
báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều
người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc
sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy mà nếu có những báo thiệt tốt,
sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân
Bắc Kỳ Trung Kỳ, trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ,
mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn
quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy
làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn
quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm
báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá
tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi
dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong
hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách, ham mua sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá.
Nay nhân nói về nghề làm báo làm
sách, nên xét qua cái tình trạng văn quốc ngữ ở Nam Kỳ thế nào. Chữ quốc
ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết
cả, nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chưa được phát đạt lắm. Trừ mấy nhà văn sĩ có tiếng, còn thì cái trình độ quốc văn đại để hãy còn kém. (…)
Gần Sài Gòn có tỉnh lỵ Gia Định, cách đô thành một cây lô mét. (…)
trước kia cái tên Gia Định thường dùng để chỉ chung cả đất Nam Kỳ vậy.
Nay
Gia Định còn có hai cái cổ tích có tiếng, là nơi “Lăng Ông” và nơi
“Lăng Cha Cả”. “Lăng Ông” tức là mộ quan Tả quân Lê Văn Duyệt, “Lăng Cha
Cả” tức là mộ cụ Giám mục Bách Đa Lộc (évêque d Adran); hai người đều
có công to với Đức Cao Hoàng ta ngày xưa. Nay mộ các ngài người dân
kêu là “lăng” là có ý suy tôn cái công nghiệp lớn của haingài. “Lăng Ông” ở ngay giữa tỉnh lỵ, sau có cái điện thờ, gọi là “miếu”.
(…) Lăng Cha Cả thì ở xa hơn về
phía Bắc một chút. Nơi đó mát mẻ thanh thú, tĩnh mịch êm đềm, thật là
xứng đáng làm chỗ ở sau cùng của một bậc đạo nhân đôn hậu.(…)
Lăng xây kín như kiểu một cái đình lối ta. Chính mộ Cha Cả là cái sập đá to ở giữa, xung quanh đặt cửa bức bàn.(…)
Sau lưng lăng Cha Cả có cái mộ địa chôn các cố đạo.
Lâu nay vẫn nghe nói Nam Kỳ có
quan Diệp Văn Cương là một bậc danh sĩ trong Lục châu, khi tới Sài Gòn
chỉ ước ao được tiếp mặt ngài. Đương buổi trong nước hiếm nhân tài như
lúc này, được biết tiếng một người nào thật trong lòng hâm mộ vô cùng.
Quan Diệp có cái biệt thự ở làng An Nhơn, trên Gò Vấp một ít. Vậy một
hôm cùng người bạn lên thăm ngài. Ngài tuổi đã cao, ước đến sáu mươi, mà
người còn mạnh mẽ tinh anh lắm. Hán học đã thâm, tây học cũng rộng,
thật là gồm Âu Á đúc một lò. Lại thêm sự kinh lịch cũng nhiều, đời quan
Toàn quyền De Lanessan đã từng sung chức trọng yếu ở Súy phủ, làm tay
ngoại giao cho Triều đình. Cái nội dung cuộc chánh trị nước ta vào
hồi đó, không gì là ngài không tỏ tường.
Ước gì khi nào hồi hưu – vì hiện nay ngài còn dạy học trường Chasseloup
-Laubat – ngài sẽ chép ra một tập “Ký ức lục”, thuật lại những việc
hồi bấy giờ thì sau này giúp cho quốc sử được nhiều lắm.(…)
Nay được nghe chuyện ngài nói cũng
đã vui thay. Ngài có cái tài nói chuyện không ai bằng, đủ khiến cho
người ta buồn hóa ra vui được. Mà xét kỹ lịch sử sự nghiệp ngài, có lẽ
cái chủ nghĩa của ngài
tức là cái “khoái lạc chủ nghĩa” vậy. Chắc ngài tự nghĩ rằng nhân sinh ở
đời cốt lấy sự vui sướng cho mình làm hơn; cõi đời đã là một cuộc phù
sinh thì sống ngày nào nên hưởng hết cái hạnh phúc ngày đó mới là phải,
cớ chi mà bận lòng những sự phiền muộn xa xôi. Vui sướng cho mình mà
cũng có ảnh hưởng sang kẻ khác nữa: tức như kẻ thư sinh đa sầu này ngồi
nghe truyện ngài mà trong lòng cũng du khoái được một lúc. Như thế thì
cái “khoái lạc chủ nghĩa” chẳng là một cái chủ nghĩa rất hay mà rất
tiện rư?(…)
Lệnh lang là ông Diệp Văn Kỳ,
người còn trẻ mà đã có tiếng là một tay văn hay trong Lục châu. Ông có
đọc tôi nghe mấy bài kịch soạn khéo lắm, điều hòa được cái tinh thần
mới của nghề diễn kịch tây với cái hình thức cũ của nghề hát tuồng hát bội ta. Mong rằng ông sớm in thành vở cho bọn ta được đọc.(…)
Đất Nam Kỳ rộng bằng già nửa Bắc Kỳ và chia ba một phần Trung Kỳ[1], nhưng phần nhiều là đất đồng bằng, không có nhiều rừng rú như Bắc Kỳ, không có nhiều núi non như Trung Kỳ.(…)
Nay xét ra Nam Kỳ thật là thổ địa
tốt có một và khí hậu nóng suốt năm. Nên Nam Kỳ tuy mới khai thác tự Bản
Triều ta, trước sau không đầy ba trăm năm, mà ngày nay giàu có đông đúc
như vậy, thật là nhờ cái sức đất nhiều. Lại thêm khí hậu cả năm ấm
đều, người ta hình như cứ tự nhiên mà sinh trưởng, không có khó nhọc
gì, không phải thời tiết thay đổi khi nóng khi lạnh, không phải thiên
tai giáng hạ khi hạn khi lụt, suốt năm như một ngày, thành ra người dân
lâu dần mất cái tính chịu khó mà sinh ra lười biếng, vì không cần phải
xuất lực cho lắm mới đủ nuôi thân, đủ giữ mình. Dẫu có xuất lực cũng là
chỉ cho đủ đường sinh nhai mà thôi. Vả khí hậu Nam Kỳ không phải là cái
khí hậu giúp cho sự nỗ lực, chính là cái khí hậu tiêu sức khỏe, tán tinh
thần: buổi trưa từ mười hai giờ đến ba giờ mà nằm nghỉ thì thấy trong
người như không còn khí lực gì nữa, chân tay rời rạc, đầu óc nặng nề,
như cái áp lực vô hình của không
khí nó đè cả lên thân thể, không muốn nhấc mình lên nữa. Phải đợi cho
có trận mưa rào xuống thì người mới được thư thái một chút. Như thế thì
người ta còn có gì là cái ham muốn ra công xuất lực mà động tác, hăm
hở hăng hái mà mở mang, bao nhiêu tinh lực hình như bị cái khí hậu nó
tiêu tán mất cả, không thể chung đúc thành cái chí to mưu lớn mà gây
nên những sự nghiệp phi thường.(…)
Thật thế, đất Nam Kỳ muốn mở mang cho
hết sức, phải cần có người Bắc Kỳ Trung kỳ vào sinh cơ lập nghiệp trong
ấy mới được. Không những dân Nam Kỳ có ít người và cũng không có tính
chăm làm, nhưng hiện nay đã là thừa đủ ăn rồi, không cần phải làm nữa.
Mà ngoài Bắc thì lại nhiều người quá mà ít đất làm.(…)
Nếu nay chịu về Nam Kỳ là nơi
người ta đương thiếu người làm mà kiếm việc thì lợi biết bao nhiêu, lợi
cho cả người Nam, cả người Bắc. Huống đất Nam Kỳ không phải là đất lam
chướng gì, toàn là đồng bằng bát ngát, chỉ vì chưa khai khẩn hết nên
phải bỏ hoang mà thôi. Nhưng đất hoang ở đây chẳng qua là đất bỏ cỏ
chưa phá rãy đến và chưa thành ruộng, không phải là những rừng rậm núi
xanh như các nơi mạn ngược ngoài ta. Sự khai khẩn cũng không có khó gì:
mùa hanh đến cho mớ lửa là bao nhiêu cỏ khô cháy hết, cái xác, cái rễ
ải ra thành một thứ phì liệu không
gì tốt bằng; chỗ nào đất thấp nhiều nước thì đào cái kênh cho nước
tháo ra con sông nào gần đấy: như thế là trong một vài mùa đất hoang
thành ra đất thuộc. Từ xưa đến nay chỉ vì thiếu nhân công nên không thể
làm được, không phải vì cớ gì khác.(…)
Trong các cách làm giàu,
nghề nông là cái cách dễ hơn và chóng hơn cả. Vì nông nghiệp mạnh nhờ
ở thiên thời địa lợi nhiều, mà nhờ ở nhân lực có một phần, nên chắc hơn
các nghề khác. Nếu được thời tiết thuận hòa, ruộng đồng mầu mỡ, thì làm
giàu có khó chi? Đất Nam Kỳ thật hiệp cách như vậy, quả là chốn tiên
cảnh của nhà nông. Chỉ khuyên đồng bào ta nên hết sức mà khai khẩn,hiệp kẻ Nam người Bắc, người đem nhân công, kẻ xuất tư bản, ra công mở mang cho bao nhiêu đất hoang thành ruộng cả, thật là giúp được một phần to trong cái thuật phú quốc vậy.
Từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, từ quận nọ
sang quận kia, từ chợ nọ sang chợ kia, đều có đường cái tốt lắm, cây
trồng đôi bên, đá đổ phẳng lì, chẳng kém gì đường trong thành phố, chỗ
nào qua sông qua lạch đều có xây cầu xây cống bằng xi-manh cốt sắt
(cimentarmé), xe tay, xe ngựa, xe hơi, đi đi lại lại, dễ dàng lắm. (…)
Mỹ Tho thì thật ra cái phong thể một tỉnh lớn; trên bến dưới thuyền, nhà cửa
đông đúc, phố xá rộng rãi. Tỉnh thành ở ngay trên bờ sông Tiền Giang,
xe lửa gần đến tỉnh đi men trên bờ sông, trông ra trời nước mênh mông
thật rõ cái cảnh tràng giang đại hải. Sông này tức là sông Mê Kông đây.
Nhưng vào đến tỉnh thì giữa sông có cái cù lao lớn nên trông lòng sông
hẹp lại, chỉ bằng sông Nhị Hà trước Hà Nội mà thôi. Buổi chiều đứng trên nhà lầu trông xuống dưới bến, thuyền bè đậu xan xát, đèn lửa thắp lô nhô, tiếng hát dưới đò, giọng ca trên bến, không gì vui bằng.
(…) Phong cảnh Chợ Giữa
cũng lại là cái phong cảnh rất mến người: trên bến dưới thuyền,
giữa một tòa Chợ Lớn, chung quanh dãy phố bán hàng, bốn bề thời các ngõ
các xóm. Đường rộng thênh thênh như đường cái quan, nhà cửa rộng rãi cao ráo, chẳng khác gì một tỉnh nhỏ ngoài mình. Cứ coi cái cảnh tượng sáng sủa vui vẻ, mĩ miều mà khả ái của một chốn nhà quê đó, thì đủ biết xứ Nam Kỳ giàu có trù mật là dường nào. Ôi! Cũng thì một nhà quê mà sánh với nhà quê này thì nhà quê
ngoài mình quê mùa cỏ rả biết bao nhiêu! Mà thật, làm dân xứ Nam Kỳ
sướng thật,cầy cấy ít ruộng vườncũng thừa đủ nuôi thân, không phải khó
nhọc, suốt năm vô lo vô lự, nhàn
hạ dong chơi, lụt không có, hạn không có, mưa dầm gió bấc cũng không,
tiền công trong làng đã nhiều, bổ bán đóng góp không phải chịu, pháp
luật Nhà nước
đã nghiêm, đàn anh bắt nạt cũng khó lòng, ưu du tuế nguyệt, suốt năm
như một ngày, anh áo cánh trắng bong, quần thâm lĩnh bóng, chị kiềng
vàng đeo cổ, ô soạn cầm tay; còn cảnh tượng gì vui thú bằng! Cao hơn một bậc nữa thì đến các ông điền chủ lớn, thật là lục địa tiểu thần tiên. Thiết tưởng
suốt nước Nam, từ Nam chí Bắc, không có hạng người nào sướng bằng bọn
điền chủ lớn ở Nam Kỳ. Giàu hàng ức triệu, sa sỉ thật vô song, cửa nhà như
cung điện, trang sức không ai bằng, mà người thường mộc mạc, lo nghĩ
chẳng bận lòng; cứ vật chất thượng, thử hỏi trần gian còn gì khoái lạc
bằng! Xét về phương diện ấy, đất Nam Kỳ thật là nơi quí địa của cái “vật chất chủ nghĩa” (matérialisme) vậy.(…)
Tự Mỹ Tho lên Long Xuyên phải đi
ngược sông Tiền Giang (Bassac ou Fleuve antérieur), đi tàu chạy thường
vừa mất đầy một ngày, từ sáng sớm đến tối mịt. Vậy suốt một ngày được
ngắm phong cảnh sông Mê Kông. Nhưng thật đi trên sông Mê Kông mà không
ngờ là sông Mê Kông, lắm khi tưởng
ở trong cái kênh cái lạch nào, không mấy lúc có cái cảm giác là ở giữa
chốn tràng giang. Vì trong khoảng từ Mỹ Tho lên Châu Đốc, trong sông
đầy những cù lao cùng bãi cát, lắm nơi to rộng lắm, từng làng từng tổng ở
vừa, đầy những cây cỏ um tùm, chật mất cả lòng sông, nên coi hẹp đi;
tàu lại thường chạy len lỏi ở trong kênh trong vàm gần những nơi có dân
cư, để đỗ khách đón khách, không mấy khi ra đến mặt ngoài sông, nên
không biết sông rộng chừng nào. Cách nửa giờ một giờ, tàu lại đậu vài ba
phút, có khi đậu ngoài xa xa, khách lên xuống phải thuê đò ngang để
đáp tàu hay là ghé bờ, có khi đậu ngay bên bờ, nhìn vào thì thấy nhà cửa san sát, phố xá đông đảo, thường những cây cối ùm tùm che lấp, đứng ngoài xa trông không rõ. Có khi tưởng
tàu đậu ở trước cái bãi bỏ hoang, chỉ trông thấy những cây cỏ xanh dì,
nhìn kỹ mới biết là có làng xóm ở trong đám cây đó, và chắc là làng xóm
to nên tàu mới dừng như vậy. Coi đó thì biết cây cối trong này sầm uất
là dường nào, không phải là những cây cao cỗi lớn như các miền rừng
núi, nhưng là những cây cỏ tốt tươi rậm rạp như thi nhau mà mọc, đủ biết chất đất màu mỡ biết bao nhiêu. Lắm khi chiếc tàu như đi ở giữa hai bức tường
cây vậy. Mà ở trong đó là có các làng xóm người ở cả, vì những đất ở bờ
sông này dễ cầy cấy nên không mấy chỗ bỏ hoang. Chưa khai khẩn đến là
phần nhiều những đất ở xa sông lớn, đào kênh thoát nước khó và đi lại
giao thông cũng chưa tiện; chớ đất gần sông màu mỡ đệ nhất, tiện lợi có
một, thường là những nơi giàu có trù mật cả. Thường trông bên bờ có
những nhà ngói nền cao, cửa kính cửa chớp, hàng rào sắt chạy dài, thềm xây ngay trên mặt nước, ngoài đặt cái cầu nhỏ dựng nhà thủy tọa con, lại thấy vài ba cái “thuyền máy” (canots automobiles) để chung quanh; hỏi ra thời là nhà thày
cai tổng, cụ điền chủ, hay ông “hội đồng” nào, toàn là những mặt phú
hào trong một xứ. Coi những cơ ngơi đó thì đủ biết các bậc chủ nhân ông
giàu có là dường nào. Có nơi xây trên bờ sông dài đến mấy trăm thước,
trong những nhà, những vườn, những lầu, những gác, nhấp nhô như một cái thành nhỏ, tàu chạy một thôi mới hết, mà toàn là dinh cơ của một người! Thôi, đến sự phong lưu sa sỉ của các
bậc giàu có trong này, về đường ăn ở tiêu xài, thì thật không kể sao
cho xiết được, mỗi bước như trông thấy cái biểu chứng hiển nhiên vậy.
(…) Chừng 7, 8 giờ tối thì tới Long Xuyên. Long Xuyên như chia ra hai tỉnh
khác nhau: một bên là chợ có hàng quán phố xá đông, một bên là tỉnh, có
dinh các quan và các công sở. Tàu đến chợ trước, rồi mới đến tỉnh, cách
nhau một thôi đường dài.(…)
Bên chợ còn đông đúc, kẻ đi người lại,
đèn lửa sáng quang, bên tỉnh thì tối mò, vài mươi thước mới có một cây
đèn lo ló, không rõ đường đi.
(…) Xứ Nam kỳ là xứ sống về nghề
nông mà giàu về nghề nông. Vậy nghề nông ở đây thật là nghề căn bản,
thật là cái nguồn lợi to nhất trong bản xứ. Cái nguồn lợi ấy nếu thu
hoạch được hết thì người dân còn giàu có biết bao nhiêu. Nhưng xét ra
trong nông nghiệp xứ Nam kỳ có cái hiểm tượng càng ngày càng to, không phá được thì cái nguồn lợi kia không mấy nỗi mà về tay người ngoài mất cả. Cái hiểm tượng
ấy như sau này. Người dân bản xứ chỉ biết làm ruộng lấy thóc mà thôi.
Thóc ấy ăn không tài nào hết, phải làm ra gạo mà bán cho ngoài: dân cũng
chỉ mong có bán được nhiều mới có nhiều tiền tiêu. Nhưng cái công xay
thóc bán gạo ấy không bởi người mình mà ở cả tay khách trú. Người mình
dẫu giàu đến đâu cũng không có thể nào mà đặt nhà máy
lớn xay hàng ngàn tấn thóc một ngày được; lại dù giỏi đến đâu cũng
chưa thuộc cách buôn bán với nước ngoài bằng người Khách. Vậy thì về
hai đường đó hiện chưa thể thoát li người Khách được; thành ra người
mình chỉ biết cầy sâu cuốc bẫm mà làm ra cho nhiều thóc, đến khi hoạch
lợi thì người ngoài nó chia cho bao nhiêu là được bấy nhiêu mà thôi.
(…) Những người tri thức lấy làm sốt ruột, muốn tìm phương lập kế mà vãn hồi lại.
Năm
1912, nhờ có ông quan chủ tỉnh giỏi (tức là quan Maspero, hiện nay làm
quyền Thống đốc Nam kỳ, hồi bấy giờ làm công sứ tỉnh Mỹ Tho), các nhà điền chủ lớn ở tỉnh Mỹ Tho họp nhau lại thành hội để gìn giữ cho lợi quyền nhà nông; hội ấy đặt tên là “Nông nghiệp tương tế hội”.
(…) Con đường tự Long Xuyên đến Cần Thơ
tốt lắm, giữa đổ đá, hai bên trồng cây, cái xe bon bon chạy giữa, coi
phong cảnh rất là ngoạn mục. Vả đại để đường lộ trong Nam kỳ này ở đâu
cũng tốt như vậy.(…)
(…) Cần Thơ có cái vẻ mĩ miều xinh
xắn, sạch sẽ phong quang, thật xứng tên làm tỉnh đầu về miền Tây (la
capitale de l Ouest). Đường phố thênh thang, cửa nhà san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn các tỉnh khác, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn.
(…) Sáng sớm hôm sau tôi xuống tàu đi Sa
Đéc. Đi Sa Đéc là đi xuôi giở xuống, tự Long Xuyên đi 6 giờ sáng, ước 9
giờ tới nơi. (…)
Vào trọ ở nhà “bun ga lâu” (bungalow, tức là nhà khách
sạn), để đồ hành lí, rồi đi dạo chơi phố phường. Các tỉnh Nam kỳ có
cái rất tiện cho những khách lữ hành qua lại: là tỉnh nào cũng có một nhà khách
sạn sắp đặt theo lối tây, có buồng ngủ sạch sẽ, cơm ăn chỉnh đốn,
thường là người Tây lĩnh chưng mà quan cai trị chủ tình giám đốc,
khách lạ mới đến vào trọ đấy vừa tiện và vừa chắc chắn không quan ngại
gì, hơn là vào các hàng cơm khách cơm ta.(…)
Duy có các nhà “bun ga lâu” ở Nam kỳ tính tiền ăn tiền trọ đắt quá,
ăn hai bữa cơm, ngủ một đêm, lấy tới năm đồng bạc, nên khách không
được đông lắm. Muốn cho thật tiện lợi và được nhiều khách qua lại thì
phải đặt giá rẻ lắm mới được. Nhưng trong Nam kỳ này sự ăn dùng vốn đắt
đỏ và đường tiêu xài thường phí phao lắm, gắp mấy lần ngoài ta.
Tỉnh Sa Đéc ở chạy dài hai bên bờ
sông, coi phồn thịnh đông đúc lắm. Nhưng phố xá buôn bán cũng chỉ thuần
là người Khách, không có một nhà An
Nam nào. Vả không một ở Sa Đéc, tỉnh nào cũng vậy, nơi chợ phố toàn thị
là Khách với Chà; lại không những các tỉnh thành, đến chốn nhà quê,
có ý nhận phàm nơi nào coi ra hơi có người ở đông đúc, tất có một vài
tiệm Chệt bán đồ ăn và đồ tạp hóa, lại có khi có một bác Chà bán vải.(…)
(…)Trong các phố ta thì thường trông thấy những nếp nhà nho nhỏ xinh xinh, có thềm mà không có lầu, nửa kiểu tây, nửa kiểu tàu, tĩnh mịch êm đềm, coi có cái vẻ phong thú lắm: chắc là nhà của quan phủ huyện, của thày cai tổng, của cụ điền chủ hay của ông “hội đồng” nào. Nhìn cái dáng nhà đủ biết người trong nhà là những bậc an nhàn vô sự, phú quí phong lưu. Những nếp nhà xinh xinh đó, tức là một cái đặc sắc của các tỉnh Nam kỳ vậy.
Ở Sa Đéc có một ngày một đêm, rồi đi
đường bộ xuống Vĩnh Long. Sa Đéc cách Vĩnh Long ước chừng 20 cây lô
mét, đi xe hơi mất chừng một giờ.(…)
Tỉnh Vĩnh Long này là một tỉnh cũ,
nên sánh với các tỉnh khác còn có một vài nơi cổ tích. Cái khí vị
trong tỉnh thành cũng ra cái khí vị cũ, hơi giống như các tỉnh ngoài
ta. Đi ra ngoài tỉnh một ít, người ta còn chỉ cái nền thành Vĩnh Long
cũ. Tôi có thăm miếu thờ quan Phan Thanh Giản, ngài là người tỉnh này;
trong miếu có bức tranh họa hình ngài theo một tấm ảnh ngài chụp cùng
với bộ sứ hồi sang sứ bên Paris. Đứng trong miếu, trước hình ảnh ngài
mà lại hồi tưởng đến lịch sử quan Phan, ngậm ngùi than thay cho cái tâm sự bồi hồi của một
vị đại thần gặp giữa lúc bước nước gian nan. Tỉnh Vĩnh Long lại có một
cái Văn Miếu, qui mô cũng phỏng theo các nơi văn miếu ngoài ta mà cách
sắp đặt sơ sài lắm: ở gian giữa không có bài vị đức Thánh sư, chỉ treo
có một cái tranh hình ông Khổng râu xồm tóc bới của các
hiệu Khách thường bán! Than ôi! Phu tử lạc loài đến đây làm gì? Ai la
người còn biết cúng tế ngài cho hợp lễ, hợp những lễ phép ngài đã đặt
ra, vì sách ngài còn mấy người đọc nữa? Trong miếu có đôi liễn khắc của cụ nguyên Hóc bộ Cao Xuân Dục làm mùa thu năm quí mão. (…)
Đại để các đình chùa miếu vũ
ở đây có cái vẻ bỏ hoang cả, coi như người dân không thường tới lui lễ
bái. Nhưng rực rỡ phong quang thời là các “nhà làng”, tức là nơi hội sở của các làng. Có lắm nhà, như “nhà làng” Long hồ ở giữa tỉnh Vĩnh Long, nguy nga như tòa Đốc lý, nhà thị sảnh một tỉnh lớn. (…)
Nhìn cái cảnh tượng
thành Vĩnh Long thật có cái vẻ cũ hơn các tỉnh thành khác như Sa Đéc,
Cần Thơ, rõ biết là cái đất đã từng có chút lịch sử. Ngài đưa đến chơi
một ông cụ bà con với ngài, người đã có tuổi: cụ có nho học và đã từng
đi du lịch buôn bán ngoài Bắc kỳ Trung kỳ nhiều, kiến văn rất rộng,
nghị luận rất hay. Ngồi nói chuyện với cụ lâu lắm, cụ nói nhiều lời xác
đáng, nhiều câu dĩnh ngộ. Bàn về cái tính tình người Bắc người Nam cụ
phán đoán mấy lời rằng: “Người Bắc có khôn khéo hơn chúng tôi thật,
nhưng có cái tính duy kỷ, người nào chỉ biết phận người nấy mà thôi,
đối với người ngoài hay biến báo, không được thật thà như người trong
này. Tôi đi lại buôn bán với các ông nhiều, tôi đã từng nhận biết. Nhà này thiếu thức hàng này, biết rằng nhà láng
giềng có, nhưng không hề mách bảo cho người mua biết bao giờ. Chúng tôi
thì không thế: “chúng tôi nhẹ dạ và thật thà hơn các ông. Nhà tôi có vườn bầu vườn bí, nhà láng
giềng thiếu cứ việc sang cắt mà ăn; khi khác tôi có cần đến trái gì
trong vườn họ tôi cũng cứ việc sang mà bứt lấy, tự nhiên như vậy, không
ai quan tâm gì về sự đó. Cái bụng ”của anh của tôi”
nó không có cách biệt nhau lắm như ngoài các ông. Chúng tôi được cái
tính đó hơn người Bắc”. Trưởng giả kinh lịch đã nhiều, phán đoán như
vậy, tôi cũng xin vâng, không biết đáp lại thế nào.
(…) Vả ở Sài Gòn đến hai ba tuần
lễ thì cũng đã chán lắm rồi; đất Sài Gòn không có cái phong thú gì, chỉ
là chốn mài miệt ăn chơi, tiêu xài lãng phí, vốn không phải là sự sở
thích của mình.
Một hôm ông Diệp Văn Kỳ lại chỗ trọ, rủ đi xe hơi lên chơi đồn điền cao su của quan
Diệp Văn Cương ở trên Biên Hòa. Lúc ra đi đã về chiều, lên đến nơi thì
trời tối cũng không xem được gì, nhưng khi đi đường được biết cái phong
cảnh miền cao nguyên ở Nam kỳ. Phong cảnh này thật là khác cái phong
cảnh mấy tỉnh Tây Nam mình vừa đi qua mới rồi. Đất đây cao và khô, toàn
là đất gò đất núi cả, lắm chỗ đường xe đi sẻ ngang vào giữa khoảng rừng
cỏ bãi hoang, cảnh tượng
cũng đìu hiu tịch mịch như lắm nơi ở Trung kỳ. Vả đất này mới là đất
cao nguyên, chưa phải là đất núi: núi thì còn xa lên trên nữa, vào vùng
Mọi ở. Đất này chỉ ưa trồng cao su mà thôi. Có nhiều cái đồn điền rộng
lắm, phần nhiều là của người
Tây cả; vả gần khắp tỉnh Biên Hòa toàn thị là đồn điền cao su hết,
ruộng lúa thì không có mấy và khô khan cầy cấy khó lắm. Miền Tây Nam
coi ra phong đăng trù mật bao nhiêu thì miền Đông Bắc này coi lơ thơ xơ
xác bấy nhiêu. Dân nghèo, người ít, đất rắn, cây cằn, ít những nơi đô
hội lớn, thưa những chốn làng xóm to. Quan lại mà bổ vào những châu quận
đây chắc không được tốt bổng bằng miền dưới, tức cũng như quan lại
ngoài ta phải bổ lên Trung du Thượng du mà không được ở vùng Nam Thái
vậy. Nhân tình ở đâu cũng là nhân tình, mà quan trường xứ Nam kỳ
chẳng khác gì quan trường xứ Bắc. Ôi! tiếng tham nhũng ở đâu cũng đã
thành cái thanh danh riêng của bọn
quan lại vậy. Tựu trung có người tốt, mà cả đoàn đã mang tiếng với quốc
dân lâu lắm vậy. Tiếng ấy, quan lại ta có mong bao giờ rửa cho sạch
không? Theo ý ông Diệp Văn Kỳ thì khó lòng mà rửa cho sạch được: ông đối
với sự hành động của bọn đó, vốn có cái ác cảm riêng, thường thổ lộ ra lời nói câu chuyện.
Còn phải đợi một tuần lễ nữa mới
có chuyến tàu lớn bên Tây sang, đáp vào đây, rồi đi ra Bắc. Làm gì cho
qua thì giờ bây giờ? Ngày ngày bèn đi dạo chơi khắp trong các phố
phường, khi ở Sài Gòn, khi về Chợ Lớn. Sài Gòn thì đã nghiễm nhiên thành
một tỉnh tây rồi. Ngoài các phố tây với mấy phố khách, hàng buôn bán
An Nam ít lắm. Những nghề người mình hay làm nhất là nghề chưng khách
sạn – mà khách sạn cũng là chỉ có buồng ngủ thôi,không có cơm ăn -, nghề
húi tóc, nghề chụp ảnh, nghề chữa máy và cho thuê xe đạp, nghề thợ kim
hoàn, v.v., toàn thị là những nghề nhỏ mọn tầm thường cả. Ở đường
Catinat là đường lớn nhất ở Sài Gòn, có được mươi lăm tiệm bán hàng Bắc
kỳ: đồ thêu, đồ khảm, đồ đồng, đồ the lụa, v.v. Tiệm lớn nhất là tiệm của ông Đào Huống Mai, là nhà mĩ nghệ có tiếng ở Hà Nội ta. (…)
Tôi có bàn với mấy ông rằng ngày
nay Nam Bắc giao thông có lẽ mỗi ngày một nhiều hơn trước, các ông nên
họp thành một hội thân ái gồm cả các người Bắc kỳ ở Nam kỳ, rồi tìm
cách đặt lấy một nhà hội
quán tại Sài Gòn, trước là để làm nơi cho anh em đồng xứ mình tới lui
mà chuyện trò cho vui, sau là làm một chốn công sở để tìm phương đặt kế
giúp cho người Bắc vào trong này doanh nghiệp làm ăn. Nói rằng cổ động
cho dân Bắc kỳ vào Nam kỳ mà sinh cơ lập nghiệp thì vẫn hay lắm, vẫn
phải lắm, nhưng những người vào tới nơi bỡ ngỡ chưa biết đâu vào đâu,
chưa biết cách làm ăn ra làm sao, mà không có người cũ khuyên bảo chỉ
dẫn cho, thì khó lòng mà tháo vát cho xong. Nếu có một nhà hội như vậy thì người mới đến ở trên tàu xuống đến ngay nhà hội
hỏi han các cách, tiện lợi biết bao nhiêu. Hội lại sẽ có những đại biểu
ở Lục tỉnh báo cáo về cho Hội biết cái tình hình về nông nghiệp thương
nghiệp các nơi thế nào, cùng là chỗ nào làm nghề gì tiện, chỗ nào đất
khai khẩn tốt, hoặc có người hỏi đến thì Hội chỉ bảo cho, chẳng là giúp
đỡ được nhau lắm ru? (…)
Chiều chiều thường về chơi Chợ Lớn, đi xe lửa không đầy nửa giờ. Cái cảnh tượng Chợ Lớn thật là sầm uất phồn thịnh có một; nhưng nghiễm nhiên là một tỉnh Tàu! Tối đến đèn điện
sáng choang, hàng bày la liệt, đồ tây đồ tàu, đồ ăn đồ uống, tiếng
đánh “toan” xì xồ, tiếng thanh la ánh ỏi, tiếng “hầu sáng” gọi đồ ăn,
tiếng hàng rong rao thức bán, ồn ào rộn rịp, tấp nập linh đình, mỗi tối
trông thấy cái cảnh tượng
ấy không thể không khen thay cho giống Khách có cái sức sinh hoạt lạ
lùng, đi trú ngụ ở đất người mà lập thành hẳn một tỉnh riêng của mình, đoạt người bản xứ ra ngoài cái vòng quyền lợi mình! Than ôi! Đất khách quê nhà, quê nhà mà
sao thành đất khách? Lợi quyền ở tay mình mà sao để ra tay người? Ngày
nay người Nam kỳ đã tỉnh ngộ, biết hợp quần mà tranh giành lại với
giống Khách về đường nông nghiệp. Nhưng về đường thương nghiệp thì biết
bao giờ cho mình bằng nó? Sự khuyết điểm đó mới thật là to và cái hiểm tượng
này mới thật đáng lo vậy. Vì thương nghiệp với công nghệ có cái quan
hệ rất mật thiết với nhau: một xứ tuyệt nhiên không có công nghệ như xứ
Nam kỳ, thế tất là phải dùng đồ ngoại hóa; đã phải dùng đồ ngoại hóa
thì thoát li tay bọn Khách sao được? Làm đôi guốc gỗ người mình cũng
không làm được, thì trách sao không phải chịu cái quyền áp chế trong sự
buôn bán của nó? Tôi thường trông thấy Khách gánh nước, Khách bán củi: còn nghề gì nữa là nó không tranh hết của mình? (…)
*
* *
Đọc Quốc sử có một điều rất đáng hưng khởi trong lòng: là cái công phu lớn lao của tổ
tiên ta trong mấy mươi thế kỷ khai thác được suốt một cõi đất Đông
Dương này, khiến cho ngày nay từ giáp ranh nước Tàu cho đến vũng bể Xiêm
La, từ bến sông Mê Kông cho đến bờ bể Đông Hải, dân An Nam ta thuần là
một giống người, cùng một cỗi rễ mà ra, cùng một tiếng nói, cùng một
phong tục, cái tính tình tư tưởng
cũng không khác gì nhau. Thử hỏi khắp trong thế giới đã có một dân nào
thuần nhất như dân ta chưa? Ngót hai mươi triệu người sinh trưởng ở một
cõi đất mênh mông, trong hơn hai mươi thế kỷ, đã từng lắm phen sướng khổ
cùng nhau, nguy hiểm có nhau, dần dần gây nên một mối quốc hồn tuy lúc
bình thường như u ẩn không hiện ra, mà gặp buổi quốc gia đa nạn đột
khởi ra những người anh hùng chí sĩ lập nên những sự nghiệp phi
thường. Cái quốc hồn ấy, phàm người có tấm lòng khối óc, những khi trông
thấy quốc vận suy vi, ai là người chẳng hình như nghe thấy cái tiếng
kêu ai oán như não nùng than khóc ở trong lòng? Ngày nay có người lấy lẽ
chính trị nhất thời, lấy sự gián cách không đâu, mà phân biệt ra kẻ Nam
người Bắc, coi nhau hầu như khác giống khác giòng, không biết rằng dù
kẻ Bắc dù người Nam tuy ăn ở xa cách nhau mà trong lòng cùng là mang
nặng một tấm quốc hồn như nhau; chỉ vì cái quốc hồn ấy không thường có
dịp phát hiện ra nên không ngờ không tưởng vậy. (…)
Tôi càng đi du lịch trong Nam kỳ lại càng thấy cái cảm giác rõ ràng rằng người Nam người Bắc thật là con một nhà, nếu biết đồng tâm hiệp lực thì cái tiền đồ của nước
Nam ta không thể nào hạn lượng cho được.Tôi xin đốt lửa thắp hương mà
cầu nguyện cho cái mối đồng tâm ấy ngày một bền chặt, thật là may cho
nước nhà lắm lắm.
Hà Nội, tháng 11 năm 1918 – tháng 1 năm 1919.
P.Q.
Nguồn Blog PT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét