Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

CẢNH VÀ NGƯỜI XỨ NAM KỲ (Phạm Quỳnh)


—o0o—

Làm trai đã đáng nền trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủcách làm  một “nền trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua  mười ngày ở Huế, mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ (…)
(…) lời ca dao kia  là tả cái chí của những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại  hợp với cái cảnh một kẻ thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa  lúc trong nước còn hiếm người mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho mình!…
Song
Đi cho biết đó biết đây
nhà với mẹ đến ngày nào khôn.
Ca dao cũng lại có câu như thế, thì tuy ở Huế mười ngày,  Nam Kỳ một tháng, chưa đủ làm được “nền trai” Nam Việt, mà cũng đủ học “khôn” được ít nhiều.
(…) Nhưng trước khi kể chuyện Nam Kỳ,ởng nên giải qua cái tính cách hai cuộc du lịch trước sau khác nhau thế nào. Lần trước  là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích đời xưa, mỗi  bước như động đến tấm lòng hoài cổ.
(…) Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi.  Nam Kỳ là một nơi đất mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng bận lòng đến những  nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi  người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng càng lắm,  đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai. Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cáiơng lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng.
(…) Hồi sửa soạn đi Nam Kỳ vừa gặp có chuyến tàu lớn ở Nhật  Bản về. Tàu hiệu Porthos của công ty Hằng hải Á Đông (Cie des Messageries maritimes), vừa to, vừa mau, các chiếc khác đi Hải  Phòng – Sài Gòn phải năm ngày năm đêm, chiếc này đi chỉ đầy ba đêm hai ngày
(…) Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới  hơn một ngàn rưởi cây lô mét. Tang tảng sáng ngày thứđã vào tới cửa Sài Gòn.
(…) Nay thế là đã tới đất Nam Kỳ rồi. Sài Gòn cách bể những 60 cây lô mét, nên tự cửa Cần Giờ vào, đi ngược con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7 giờ sáng thì tàu vừa ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh  em bà con sắp ở tàu xuống.
(…) Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy qua cầu Khánh Hội,  hô hấp cái không khí mát  buổi sáng, mới bắt đầu tiếp xúc cái cảnh sắc, cái  khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố tây, cái khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Tạm để đồ hành lý ở nhà khách sạn, rồi đi thăm các người quen thuộc, phần nhiều là quen tên thuộc tiếng mà chưa từng tiếp mặt bao giờ. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat.
(…) Kể to lớn thì đường Catinat chưa phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng tức như đường Paul Bert ở Hà Nội là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường mở sau đều tiếp phụ xung  quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường  chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner.
(…) Các cửa  hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau  xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như  nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch  đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì  xe hơi không biết mấy trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru,  như vô số những làn sóng tự ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnhợng gì đẹp bằng  đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch  sự, ở  nhà  thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật  là nghiễm nhiên ra cái cảnhợng một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong  phú, thiên hạ thái bình. Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện  còn mấy nghìn vạn con người đương lầm than trong vòng máu lửa!
Người ta thường gọi Sài Gòn là cái  “hạt  báu của Á Đông” (la perle de l’Extrême- Orient). Tôi chưa từng được biết những nơi đô hội lớn ở Á Đông, như Hương Cảng (Hongkong), Thượng Hải (Changhaï), Tân  Gia Ba (Singapore), nhưng chắc rằng những nơi  ấy tuy có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa  sang sắp đặt, về cái qui mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch sẽ, mĩ miều khả ái, chơn chu mà sán lạn như hạt  châu mới rũa, thì còn kém Sài Gòn nhiều. Đường  phố  như vẽ  bằng   tay,  kẻ  bằng  thước, đều đặn, thẳng thắn, rộng rãi khang trang, nhiều đường ở giữa lại để những khoảng rộng trồng cỏ, đặt nhữngợng đồng kỷ niệm, chiều đến hàng trăm cái đèn điện lớn chiếu  sáng như một dẫy dài những quả ba lông lấp loáng thả phấp phới ngay trên giữa đường phố, coi rất là ngoạn mục. Đẹp nhất, coi  trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu  vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơiớng phủ. Mà phủ Toàn Quyền ở đây, qui mô cũng  đẹp hơn ở Hà Nội.
(…) Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức  trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát tây, v.v… Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hôtel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây”, vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây). Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước trông thẳng ra đường Charner vừa dài vừa rộng,  đi đằng xa lại, coi cũng có cái  vẻ trang nghiêm,   xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương!
(…) Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà  thờ Hà Nội, mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng sủa đi tự ngoài VũngTàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ. Lại nhà dây thép, trong gian giữa có cáiợng đồng người đàn bà ngồi trên quả địa cầu, để biểu hiện cái tin tức của người ta nhờ dây thép mà truyền được đi khắp thế giới, coi cũng mạnh mẽ và  có ý tứ lắm. Chỉ hiềm chỗ đặt khí tối, giá người nào bước vào vô ý không ngửng mặt lên thì không biết! Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ  thì  rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu. Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với  thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối  tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối  tàu. Còn các châu thành khác ở Lục tỉnh, thì những nơi quan sở là tây mà chốn phố phường là tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái  vẻ An Nam hơn.
(…) Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ. Không kể “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) viết bằng chữ Pháp, – gần  đây báo ấy cũng mới xuất bản thêm một tập phụ trương bằng quốc  ngữ, mỗi tuần lễ một kỳ, đều là Quốc dân diễn đàn, – còn các báo  khác thì có những tờ như sau này:Nông cổ mín đàm, chuyên chủ về nông nghiệp, thương nghiệp, mở ra đã lâu, là tờ báo có tuổi  nhất ở Nam Kỳ, hiện ông Nguyễn Chánh Sắt làm quản lý và chủ bút, ông cũng là một nhà trước thuật có tiếng ở Nam Kỳ. (…)
Nữ giới chung (Femina annamite) là tờ báo riêng cho các bậc nữ lưu, chủ nhiệm là ông Trần Văn  Chim  và  ông Lê Đức;  -Nam Việt tề gia nhựt báo (Journal de la  famille annamite), của một bà đầm làm báo ở Sài  Gòn mở ra để riêng cho đàn bà con gái An Nam coi; -Nhựt báo tỉnh  (Moniteur des provinces), là một tờ công báo, dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong  quan lại; – Nam Kỳ địa phận, là một tờ báo của nhà Trung. – Lại  gần đây nghe nói mới xuất bản một tờ Thời báo, một tờ đặt tên nôm là Đèn nhà Nam. Đèn nhà Nam, cái tên sáng sủa thay! Ước gì  đèn được sáng tỏ mà chiếu khắp chốn kẻ chợ nhà quê, nơi hang cùng ngõ hẻm, phá được cái thành hôn mê mà soi tỏ con đường  tiến bộ. Đó là cái mục đích chung của cả báo giới ta vậy. Mấy tờ báo trên đó là xuất bản ở Sài Gòn. Còn ở Long Xuyên có Đại Việt tập chí, thể tạp chí, mỗi tháng một kỳ, của hội Khuyến học Long Xuyên, cái chủ nghĩa, cái tôn chỉ cũng giống như Nam Phong vậy. Lại ở Cần Thơ, có tờ An Hà nhựt báo, ông huyện Võ Văn Thơm làm quản lý, có một phần chữ tây, một phần quốc ngữ, chuyên về nông nghiệp thương nghiệp.
(…) nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần  lại thịnh hơn nghề  làm  báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã  bớt  đi  nhiều, mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể. Thứ nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu  cũ, như Tam quốc, Thủy hử, Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường,Tùy Đường, Đông Châu, Phong thần, Đại Hồng bào, Tiểu Hồng  bào, v.v… nếu sưu tập cả lại thì làm được một cái  thư viện nhỏ! Những tiểu thuyết tàu tự tám mươi đời  triều ấy văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn những truyện huyền hoặc quái đản, của mấy bác cuồng nho bên tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng khả kinh thay! Không trách cáiởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội  cũng vì đó.
(…) Ấy là cái tệ các tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của  phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại  thậm hơn nữa, vì cách đặt để đủ làm cho bại  hoại phong tục, điên  đảo luân thường vậy. Tôi  biết có bộ tiểu  thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh  hành trong bọn phụ nữ. Coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào!  Gia đình tan cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cáiơng lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó. Các nhà làm sách có nghĩ tới không? Hay chỉ chủ bán cho chạy hàng, thâu được nhiều bạc, còn những lẽ cương thường luân lý mặc quách cho ai?
(…) Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều  như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một  cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách và có tiền thừa  mua sách. Như vậy mà nếu có những báo thiệt tốt, sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ Trung Kỳ, trăm người chưa được một người  đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm báo làm sách thật  không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá tiếc thay cho những  bậc trí thức trong  Lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong  hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách, ham mua sách của người  dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra  gì, thật uổng quá.
Nay nhân nói về nghề làm báo làm sách, nên xét qua cái tình trạng văn quốc ngữ ở Nam Kỳ thế nào. Chữ quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả, nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chưa được phát  đạt lắm. Trừ mấy nhà văn sĩ có tiếng, còn thì cái trình độ quốc văn đại để hãy còn kém. (…)
Gần Sài Gòn có tỉnh lỵ Gia Định, cách đô thành một cây lô  mét. (…)
trước kia cái tên Gia Định thường dùng để chỉ chung cả đất Nam Kỳ vậy.
Nay Gia Định còn có hai cái cổ tích có tiếng, là nơi “Lăng Ông” và nơi “Lăng Cha Cả”. “Lăng Ông” tức là mộ quan Tả quân Lê Văn Duyệt, “Lăng Cha Cả” tức là mộ cụ Giám mục Bách Đa Lộc (évêque d Adran); hai người đều có công to với Đức Cao Hoàng ta  ngày xưa. Nay mộ các ngài  người dân kêu là “lăng” là có ý suy tôn cái công nghiệp lớn của haingài. “Lăng Ông” ở ngay giữa tỉnh lỵ,  sau có cái điện thờ, gọi là “miếu”.
(…) Lăng Cha Cả thì ở xa hơn về phía Bắc một chút. Nơi đó mát mẻ thanh thú, tĩnh mịch êm đềm, thật là xứng đáng làm chỗ ở sau cùng của một bậc đạo nhân đôn hậu.(…)
Lăng xây kín như kiểu một cái đình lối ta. Chính mộ Cha Cả là cái sập đá to ở giữa, xung quanh đặt cửa bức bàn.(…)
Sau lưng lăng Cha Cả có cái mộ địa chôn các cố đạo.
Lâu nay vẫn nghe nói Nam Kỳ có quan Diệp Văn Cương là một bậc danh sĩ trong Lục châu, khi tới Sài Gòn chỉ ước ao được tiếp mặt ngài. Đương buổi trong nước hiếm nhân tài như lúc này, được biết tiếng một người nào thật trong lòng hâm mộ vô cùng. Quan Diệp có cái biệt thự ở làng An Nhơn, trên Gò Vấp một ít. Vậy một hôm cùng người bạn lên thăm ngài. Ngài tuổi đã cao, ước đến sáu mươi, mà người còn mạnh mẽ tinh anh lắm. Hán học đã thâm, tây học cũng rộng, thật là gồm Âu Á đúc một lò. Lại thêm sự kinh lịch cũng nhiều, đời quan Toàn quyền De Lanessan đã từng sung chức trọng yếu ở Súy  phủ, làm tay ngoại giao  cho  Triều  đình.  Cái nội  dung cuộc chánh trị nước ta vào hồi đó, không gì là ngài không  tỏờng. Ước gì khi nào hồi hưu – vì hiện nay ngài còn dạy học trường Chasseloup -Laubat – ngài sẽ chép ra một tập “Ký ức lục”,  thuật lại những việc hồi bấy giờ thì sau này giúp cho quốc sử được nhiều lắm.(…)
Nay được nghe chuyện ngài nói cũng đã vui thay. Ngài có cái tài nói chuyện không ai  bằng, đủ khiến cho người ta buồn hóa ra vui được. Mà xét kỹ lịch sử sự nghiệp ngài, có lẽ cái chủ nghĩa của ngài tức là cái “khoái lạc chủ nghĩa” vậy. Chắc ngài tự nghĩ rằng nhân sinh ở đời cốt lấy sự vui sướng cho mình làm hơn; cõi đời đã là một cuộc phù sinh thì  sống ngày nào nên hưởng hết cái hạnh phúc ngày đó mới là phải, cớ chi mà bận lòng những sự phiền muộn xa xôi. Vui sướng cho mình mà cũng có ảnh hưởng sang kẻ khác nữa: tức như kẻ thư sinh đa sầu này ngồi nghe truyện ngài mà  trong lòng cũng du khoái được một lúc. Như thế thì cái  “khoái lạc chủ nghĩa” chẳng là một cái chủ nghĩa rất hay mà rất tiện rư?(…)
Lệnh lang là ông Diệp Văn Kỳ, người còn trẻ mà đã có tiếng  là một tay văn hay trong Lục châu. Ông có đọc tôi nghe mấy bài  kịch soạn khéo lắm, điều hòa được cái tinh thần mới của nghề diễn kịch tây với cái hình thức cũ của nghề hát tuồng hát bội ta. Mong  rằng ông sớm in thành vở cho bọn ta được đọc.(…)
Đất Nam Kỳ rộng bằng già nửa Bắc Kỳ và chia ba một phần Trung Kỳ[1], nhưng phần nhiều là đất đồng bằng, không có nhiều  rừng rú như Bắc Kỳ, không có nhiều núi non như Trung  Kỳ.(…)
Nay xét ra Nam Kỳ thật là thổ địa tốt có một và khí hậu nóng suốt năm. Nên Nam Kỳ tuy mới khai thác tự Bản Triều ta, trước sau không đầy ba trăm năm, mà ngày nay giàu có đông đúc như vậy, thật là nhờ cái  sức đất nhiều. Lại thêm khí hậu cả năm ấm đều, người ta hình như cứ tự  nhiên mà sinh trưởng, không có khó nhọc gì, không phải thời tiết thay đổi khi nóng khi lạnh, không phải thiên tai giáng hạ khi hạn khi lụt, suốt năm như một ngày, thành ra người dân lâu dần mất cái tính chịu khó mà sinh ra lười  biếng, vì không cần phải xuất lực cho lắm mới đủ nuôi thân, đủ giữ mình. Dẫu có xuất lực cũng là chỉ cho đủ đường sinh nhai mà thôi. Vả khí hậu Nam Kỳ không phải là cái khí hậu giúp cho sự nỗ lực, chính là cái khí hậu tiêu sức khỏe, tán tinh thần: buổi trưa từ mười hai giờ đến ba giờ mà nằm nghỉ thì thấy trong người như  không còn khí lực gì nữa, chân tay rời rạc, đầu óc nặng nề, như cái  áp lực vô hình của không khí nó đè cả lên thân thể, không muốn nhấc mình lên nữa. Phải đợi cho có trận mưa rào xuống thì người  mới được thư thái một chút. Như thế thì người ta còn có gì là cái  ham muốn ra công xuất lực mà động tác, hăm hở hăng hái mà mở mang, bao nhiêu tinh lực hình như bị cái khí hậu nó tiêu tán  mất cả, không thể chung đúc thành cái chí to mưu lớn mà gây nên những sự nghiệp phi thường.(…)
Thật thế, đất Nam Kỳ muốn mở mang cho hết sức, phải cần có người Bắc Kỳ Trung kỳ vào sinh cơ lập nghiệp trong ấy mới  được. Không những dân Nam Kỳ có ít người và cũng không có tính  chăm làm, nhưng hiện nay đã là thừa đủ ăn rồi, không cần phải làm nữa. Mà ngoài Bắc thì lại nhiều người quá mà ít đất làm.(…)
Nếu nay chịu về Nam Kỳ là nơi người ta đương thiếu người làm mà kiếm việc thì lợi biết bao nhiêu, lợi cho cả người Nam, cả người Bắc. Huống đất Nam Kỳ không phải là đất lam chướng gì, toàn là đồng bằng bát ngát, chỉ vì chưa khai khẩn  hết nên  phải  bỏ hoang mà thôi. Nhưng  đất hoang ở đây chẳng qua là đất bỏ cỏ chưa phá rãy đến và chưa thành ruộng, không phải là những rừng rậm núi xanh như các nơi  mạn ngược ngoài ta. Sự khai khẩn cũng không có khó gì: mùa  hanh đến cho mớ lửa là bao nhiêu cỏ khô cháy hết, cái xác, cái rễ ải ra thành một thứ phì liệu không gì tốt bằng; chỗ nào đất thấp  nhiều nước thì đào cái kênh cho nước tháo ra con sông nào gần  đấy: như thế là trong một vài mùa đất hoang thành ra đất thuộc. Từ xưa đến nay chỉ vì thiếu nhân công nên không thể làm  được, không  phải vì cớ gì  khác.(…)
Trong các cách làm giàu, nghề nông  là cái cách  dễ hơn và chóng hơn cả. Vì  nông nghiệp mạnh nhờ ở thiên thời địa lợi nhiều, mà nhờ ở nhân lực có một phần, nên chắc hơn các nghề khác. Nếu được thời tiết thuận hòa, ruộng đồng mầu mỡ, thì làm giàu có khó chi? Đất Nam Kỳ thật hiệp cách như vậy, quả là chốn tiên cảnh của nhà nông. Chỉ khuyên đồng bào ta nên hết sức mà khai khẩn,hiệp kẻ Nam người Bắc, người đem nhân công, kẻ xuấtbản, ra công mở mang cho bao nhiêu đất  hoang thành ruộng cả, thật là giúp được một phần to trong cái thuật phú quốc vậy.
(…) Ngày 9 tháng 9 tây ra xe lửa xuống Mỹ Tho. Muốn đi về mặt Tây nam tất phải do Mỹ Tho.(…)
Từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, từ quận nọ sang quận kia, từ chợ nọ sang chợ kia, đều có đường cái tốt lắm, cây trồng đôi  bên, đá đổ phẳng lì, chẳng kém gì đường trong thành phố, chỗ nào  qua sông qua lạch đều có xây cầu xây cống bằng xi-manh cốt sắt (cimentarmé), xe tay, xe ngựa, xe hơi, đi đi lại lại, dễ dàng lắm. (…)
Mỹ Tho thì thật ra cái phong thể một tỉnh lớn; trên bến dưới  thuyền, nhà cửa đông đúc, phố xá rộng rãi. Tỉnh thành ở ngay trên  bờ sông Tiền Giang, xe lửa gần đến tỉnh đi men trên bờ sông, trông  ra trời nước mênh mông thật rõ cái cảnh tràng giang đại hải. Sông  này tức là sông Mê Kông đây. Nhưng vào đến tỉnh thì giữa sông có cái cù lao lớn nên trông lòng sông hẹp lại, chỉ bằng sông Nhị Hà trước Hà Nội mà thôi. Buổi chiều đứng trên nhà lầu trông xuống  dưới bến, thuyền bè đậu xan xát, đèn lửa thắp lô nhô, tiếng hát  dưới đò, giọng ca trên bến, không gì vui bằng.
(…) Phong cảnh Chợ Giữa cũng  lại  là  cái  phong  cảnh  rất  mến người: trên bến dưới thuyền, giữa một tòa Chợ Lớn, chung quanh dãy phố bán hàng, bốn bề thời các ngõ các xóm. Đường rộng  thênh thênh như đường cái quan, nhà cửa rộng rãi cao ráo, chẳng khác gì  một tỉnh nhỏ ngoài mình. Cứ coi cái cảnhợng sáng sủa vui vẻ, mĩ miều mà khả ái của một chốn nhà quê đó, thì đủ biết xứ Nam  Kỳ giàu có trù mật là dường  nào. Ôi!  Cũng  thì  một nhà quê mà sánh với nhà quê này thì nhà quê ngoài mình quê mùa cỏ rả biết  bao nhiêu! Mà thật, làm dân xứ Nam Kỳ sướng thật,cầy cấy ít ruộng vườncũng thừa đủ nuôi thân, không phải khó nhọc, suốt năm vô lo vô lự, nhàn hạ dong chơi, lụt không có, hạn không có, mưa dầm gió bấc cũng không, tiền công trong làng đã nhiều, bổ bán đóng góp không phải chịu, pháp luật Nhà nước đã nghiêm, đàn anh bắt nạt cũng khó lòng, ưu du tuế nguyệt, suốt năm như  một ngày, anh áo cánh trắng bong, quần thâm lĩnh bóng, chị kiềng vàng đeo cổ, ô soạn cầm tay; còn cảnhợng gì vui thú bằng! Cao hơn một bậc nữa thì đến các ông điền chủ lớn, thật là lục địa tiểu thần tiên. Thiếtởng suốt nước Nam, từ Nam chí Bắc, không có hạng người nào sướng bằng bọn điền chủ lớn ở Nam Kỳ. Giàu hàng ức triệu, sa sỉ thật vô song, cửa nhà như cung điện, trang sức  không ai bằng, mà người thường mộc mạc, lo nghĩ chẳng bận lòng;  cứ vật chất thượng, thử hỏi trần gian còn gì khoái lạc bằng! Xét về phương diện ấy, đất Nam Kỳ thật là nơi quí địa của cái “vật chất  chủ nghĩa” (matérialisme) vậy.(…)
Tự Mỹ Tho lên Long Xuyên phải đi ngược sông Tiền Giang (Bassac ou Fleuve antérieur), đi tàu chạy thường vừa mất đầy một  ngày, từ sáng sớm đến tối mịt. Vậy suốt một ngày được ngắm  phong cảnh sông Mê Kông. Nhưng thật đi trên sông Mê Kông mà không ngờ là sông Mê Kông, lắm khiởng ở trong cái kênh cái  lạch nào, không mấy lúc có cái cảm giác là ở giữa chốn tràng  giang. Vì trong khoảng từ Mỹ Tho lên Châu Đốc, trong sông đầy những cù lao cùng bãi cát, lắm nơi to rộng lắm, từng làng từng tổng ở vừa, đầy những cây cỏ um tùm, chật mất cả lòng sông, nên coi hẹp đi; tàu lại thường chạy len lỏi ở trong kênh trong vàm gần những nơi có dân cư, để đỗ khách đón khách, không mấy khi ra đến mặt ngoài sông, nên không biết sông rộng chừng nào. Cách nửa giờ một giờ, tàu lại đậu vài ba phút, có khi đậu ngoài xa xa,  khách lên xuống phải thuê đò ngang để đáp tàu hay là ghé bờ, có khi đậu ngay bên bờ, nhìn vào thì thấy nhà cửa san sát, phố xá đông đảo, thường những cây cối ùm tùm che lấp, đứng ngoài xa  trông không rõ. Có khiởng tàu đậu ở trước cái bãi bỏ hoang, chỉ trông thấy những cây cỏ xanh dì, nhìn kỹ mới biết là có làng xóm ở trong đám cây đó, và chắc là làng xóm to nên tàu mới dừng như vậy. Coi đó thì biết cây cối trong này sầm uất là dường nào, không  phải là những cây cao cỗi lớn như các miền rừng núi, nhưng là những cây cỏ tốtơi rậm rạp như thi nhau mà mọc, đủ biết chất đất màu mỡ biết bao nhiêu. Lắm khi chiếc tàu như đi ở giữa hai  bứcờng cây vậy. Mà ở trong đó là có các làng xóm người ở cả, vì những đất ở bờ sông này dễ cầy cấy nên không mấy chỗ bỏ hoang. Chưa khai khẩn đến là phần nhiều những đất ở xa sông lớn, đào  kênh thoát nước khó và đi lại giao thông cũng chưa tiện; chớ đất gần sông màu mỡ đệ nhất, tiện lợi có một,  thường là những nơi giàu có trù mật cả. Thường trông bên bờ có những nhà ngói nền cao, cửa kính cửa chớp, hàng rào sắt chạy dài, thềm xây ngay trên  mặt nước, ngoài đặt cái cầu nhỏ dựng nhà thủy tọa con, lại thấy vài ba cái “thuyền máy” (canots automobiles) để chung quanh; hỏi  ra thời là nhà thày cai tổng, cụ điền chủ, hay ông “hội đồng” nào, toàn là những mặt phú hào trong một xứ. Coi những cơ ngơi đó thì  đủ biết các bậc chủ nhân ông giàu có là dường nào. Có nơi xây trên  bờ sông dài đến mấy trăm thước, trong những nhà, những vườn,  những lầu, những gác, nhấp nhô như một cái thành nhỏ, tàu chạy  một thôi mới hết, mà toàn là dinh cơ của một người! Thôi, đến sự phong lưu sa sỉ của các bậc giàu có trong này, về đường ăn ở tiêu  xài, thì thật không kể sao cho xiết được, mỗi bước như trông thấy cái biểu chứng hiển nhiên vậy.
(…) Chừng 7, 8 giờ tối thì tới Long Xuyên. Long Xuyên như chia ra hai tỉnh khác nhau: một bên là chợ có hàng quán phố xá đông, một bên là tỉnh, có dinh các quan và các công sở. Tàu đến chợ trước, rồi mới đến tỉnh, cách nhau một thôi đường dài.(…)
Bên chợ còn đông đúc, kẻ đi người lại, đèn lửa  sáng quang, bên tỉnh thì tối mò, vài mươi thước mới có một cây  đèn lo ló, không rõ đường đi.
(…) Xứ Nam kỳ là xứ sống về nghề nông mà giàu về nghề nông. Vậy nghề nông ở đây thật là nghề căn bản, thật là cái nguồn lợi to nhất trong bản xứ. Cái nguồn lợi ấy nếu thu hoạch được hết thì người dân còn giàu có biết bao nhiêu. Nhưng xét ra trong nông nghiệp xứ Nam kỳ có cái hiểmợng càng ngày càng to, không phá được thì cái nguồn lợi kia không mấy nỗi mà về tay người ngoài mất cả. Cái hiểmợng ấy như sau này. Người dân bản xứ chỉ biết làm ruộng lấy thóc mà thôi. Thóc ấy ăn không tài nào hết, phải làm ra gạo mà bán cho ngoài: dân cũng chỉ mong có bán được  nhiều mới có nhiều tiền tiêu. Nhưng cái công xay thóc bán gạo ấy  không bởi người mình mà ở cả tay khách trú. Người mình dẫu giàu  đến đâu cũng không có thể nào mà đặt nhà máy lớn xay hàng  ngàn tấn thóc một ngày được; lại dù giỏi đến đâu cũng chưa thuộc cách buôn bán với nước ngoài bằng người  Khách. Vậy thì về hai đường đó hiện chưa thể thoát li người Khách được; thành ra người mình chỉ biết cầy sâu cuốc bẫm mà làm ra cho nhiều thóc, đến khi hoạch lợi thì người ngoài nó chia cho bao nhiêu là được bấy nhiêu  mà thôi.
(…) Những người tri thức lấy làm sốt ruột, muốn tìm phương lập  kế mà vãn hồi lại.
Năm 1912, nhờ có ông quan chủ tỉnh giỏi (tức là quan Maspero, hiện nay làm quyền Thống đốc Nam kỳ, hồi bấy giờ làm công sứ tỉnh Mỹ Tho), các nhà điền chủ lớn ở tỉnh Mỹ Tho họp  nhau lại thành hội để gìn giữ cho lợi quyền nhà nông; hội ấy đặt  tên là “Nông nghiệpơng tế hội”.
(…) Con đường tự Long Xuyên đến Cần Thơ tốt lắm, giữa đổ đá, hai bên trồng cây, cái xe bon bon chạy giữa, coi phong cảnh rất là ngoạn mục. Vả đại để đường lộ trong Nam kỳ này ở đâu cũng tốt như vậy.(…)
(…) Cần Thơ có cái vẻ mĩ miều xinh xắn, sạch sẽ phong quang, thật xứng tên làm tỉnh đầu về miền Tây (la capitale de l Ouest). Đường phố thênh thang, cửa nhà san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn các tỉnh khác, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn.
(…) Sáng sớm hôm sau tôi xuống tàu đi Sa Đéc. Đi Sa Đéc là đi xuôi giở xuống, tự Long Xuyên đi 6 giờ sáng, ước 9 giờ tới nơi. (…)
Vào trọ ở nhà “bun ga lâu” (bungalow, tức là nhà khách sạn), để đồ hành lí, rồi đi dạo chơi phố phường. Các tỉnh Nam kỳ có cái  rất tiện cho những khách lữ hành qua lại: là tỉnh nào cũng có một nhà khách sạn sắp đặt theo lối tây, có buồng ngủ sạch sẽ, cơm ăn chỉnh đốn, thường là người Tây lĩnh chưng mà  quan  cai  trị chủ tình giám đốc, khách lạ mới đến vào trọ đấy vừa tiện và vừa chắc chắn không quan ngại gì, hơn là vào các hàng cơm khách cơm ta.(…)
Duy có các nhà “bun ga lâu” ở Nam  kỳ tính tiền ăn tiền trọ đắt quá, ăn hai bữa cơm, ngủ một đêm, lấy  tới năm đồng bạc, nên khách không được đông lắm. Muốn cho thật  tiện lợi và được nhiều khách qua lại thì phải đặt giá rẻ lắm mới  được. Nhưng trong Nam kỳ này sự ăn dùng vốn đắt đỏ và đường  tiêu xài thường phí phao lắm, gắp mấy lần ngoài ta.
Tỉnh Sa Đéc ở chạy dài hai bên bờ sông, coi phồn thịnh đông đúc lắm. Nhưng phố xá buôn bán cũng chỉ thuần là người Khách, không có một nhà An Nam nào. Vả không một ở Sa Đéc, tỉnh nào cũng vậy, nơi chợ phố toàn thị là Khách với Chà; lại không những các tỉnh thành, đến chốn nhà quê, có ý nhận phàm nơi nào coi ra  hơi có người ở đông đúc, tất có một vài tiệm Chệt bán đồ ăn và đồ tạp hóa, lại có khi có một bác Chà bán vải.(…)
(…)Trong các phố ta thì thường trông thấy những nếp nhà nho nhỏ xinh xinh, có thềm mà không có lầu, nửa kiểu tây, nửa kiểu tàu, tĩnh mịch êm đềm, coi có cái vẻ phong thú lắm: chắc là nhà của quan phủ huyện, của  thày cai tổng, của cụ điền chủ hay của ông “hội đồng” nào. Nhìn cái dáng nhà đủ biết người trong nhà là những bậc an nhàn vô sự,  phú quí phong lưu. Những nếp nhà xinh xinh đó, tức là một cái đặc sắc của các tỉnh Nam kỳ vậy.
Ở Sa Đéc có một ngày một đêm, rồi đi đường bộ xuống Vĩnh Long. Sa Đéc cách Vĩnh Long ước chừng 20  cây lô mét, đi xe  hơi mất chừng một  giờ.(…)
Tỉnh Vĩnh Long này là một tỉnh cũ, nên sánh với  các tỉnh khác còn có một vài nơi cổ tích. Cái khí vị trong tỉnh  thành cũng ra cái khí vị cũ, hơi giống như các tỉnh ngoài ta. Đi ra  ngoài tỉnh một ít, người ta còn chỉ cái nền thành Vĩnh Long cũ. Tôi  có thăm miếu thờ quan Phan Thanh Giản, ngài là người tỉnh này;  trong miếu có bức tranh họa hình ngài theo một tấm ảnh ngài  chụp cùng với bộ sứ hồi sang sứ bên Paris. Đứng trong miếu, trước  hình ảnh ngài mà lại hồiởng đến lịch sử quan Phan, ngậm ngùi  than thay cho cái tâm sự bồi hồi của một vị đại thần gặp giữa lúc bước nước gian nan. Tỉnh Vĩnh Long lại có một cái Văn Miếu, qui  mô cũng phỏng theo các nơi văn miếu ngoài ta mà cách sắp đặt sơ sài lắm: ở gian giữa không có bài vị đức Thánh sư, chỉ treo có một  cái tranh hình ông Khổng râu xồm tóc bới của các hiệu Khách  thường bán! Than ôi! Phu tử lạc loài đến đây làm gì? Ai la người  còn biết cúng tế ngài cho hợp lễ, hợp những lễ phép ngài đã đặt ra, vì sách ngài còn mấy người đọc nữa? Trong miếu có đôi liễn khắc  của cụ nguyên Hóc bộ Cao Xuân Dục làm mùa thu năm quí mão. (…)
Đại để các đình chùa miếu vũ ở đây có cái vẻ bỏ hoang cả, coi như người dân không thường tới lui lễ bái. Nhưng rực rỡ phong quang thời là các “nhà làng”, tức là nơi hội sở của các làng. Có lắm nhà, như “nhà làng” Long hồ ở giữa tỉnh Vĩnh Long, nguy nga như  tòa Đốc lý, nhà thị sảnh một tỉnh lớn. (…)
Nhìn cái cảnhợng thành Vĩnh Long thật có cái vẻ cũ hơn các tỉnh thành khác như Sa Đéc, Cần Thơ, rõ biết là cái đất đã từng có chút lịch sử. Ngài đưa đến chơi một ông cụ bà con với ngài, người đã có tuổi: cụ có nho học và đã từng đi du lịch buôn bán ngoài Bắc kỳ Trung kỳ nhiều, kiến  văn rất rộng, nghị luận rất hay. Ngồi nói chuyện với cụ lâu lắm, cụ nói nhiều lời xác đáng, nhiều câu dĩnh ngộ. Bàn về cái tính tình người Bắc người Nam cụ phán đoán mấy lời rằng: “Người Bắc có khôn khéo hơn chúng tôi thật, nhưng có cái tính duy kỷ, người nào  chỉ biết phận người nấy mà thôi, đối với người ngoài hay biến báo,  không được thật thà như người trong này. Tôi đi lại buôn bán với  các ông nhiều, tôi đã từng nhận biết. Nhà này thiếu thức hàng  này, biết rằng nhà láng giềng có, nhưng không hề mách bảo cho người mua biết bao giờ. Chúng tôi thì không thế: “chúng tôi nhẹ dạ và thật thà hơn các ông. Nhà tôi có vườn bầu vườn bí, nhà láng giềng thiếu cứ việc sang cắt mà ăn; khi khác tôi có cần đến trái gì  trong vườn họ tôi cũng cứ việc sang mà bứt lấy, tự nhiên như vậy, không ai quan tâm gì về sự đó. Cái bụng ”của anh của tôi” nó không có cách biệt nhau lắm như ngoài các ông. Chúng tôi được cái tính đó hơn người Bắc”. Trưởng giả kinh lịch đã nhiều, phán đoán  như vậy, tôi cũng xin vâng, không biết đáp lại thế nào.
(…) Vả ở Sài Gòn đến hai ba tuần lễ thì cũng đã chán lắm rồi; đất Sài Gòn không có cái phong thú gì, chỉ là chốn mài miệt ăn chơi, tiêu xài lãng phí, vốn không phải là sự sở thích của mình.
Một hôm ông Diệp Văn Kỳ lại chỗ trọ, rủ đi xe hơi lên chơi đồn điền cao su của quan Diệp Văn Cương ở trên Biên Hòa. Lúc ra  đi đã về chiều, lên đến nơi thì trời tối cũng không xem được gì, nhưng khi đi đường được biết cái phong cảnh miền cao nguyên ở Nam kỳ. Phong cảnh này thật là khác cái phong cảnh mấy tỉnh  Tây Nam mình vừa đi qua mới rồi. Đất đây cao và khô, toàn là đất gò đất núi cả, lắm chỗ đường xe đi sẻ ngang vào giữa khoảng rừng cỏ bãi hoang, cảnhợng cũng đìu hiu tịch mịch như lắm nơi ở Trung kỳ. Vả đất này mới là đất cao nguyên, chưa phải là đất núi:  núi thì còn xa lên trên nữa, vào vùng Mọi ở. Đất này chỉ ưa trồng cao su mà thôi. Có nhiều cái đồn điền rộng lắm, phần nhiều là của người Tây cả; vả gần khắp tỉnh Biên Hòa toàn thị là đồn điền cao su hết, ruộng lúa thì không có mấy và khô khan cầy cấy khó lắm.  Miền Tây Nam coi ra phong đăng trù mật bao nhiêu thì miền Đông Bắc này coi lơ thơ xơ xác bấy nhiêu. Dân nghèo, người ít, đất rắn, cây cằn, ít những nơi đô hội lớn, thưa những chốn làng xóm to. Quan lại mà bổ vào những châu quận đây chắc không  được tốt bổng bằng miền dưới, tức cũng như quan lại ngoài  ta  phải  bổ lên Trung du Thượng du mà không được ở vùng Nam Thái vậy. Nhân  tình ở đâu cũng là nhân tình, mà quan trường xứ Nam kỳ chẳng  khác gì quan trường xứ Bắc. Ôi! tiếng tham nhũng ở đâu cũng đã thành cái thanh danh riêng của bọn quan lại vậy. Tựu trung có người tốt, mà cả đoàn đã mang tiếng với quốc dân lâu lắm vậy. Tiếng ấy, quan lại ta có mong bao giờ rửa cho sạch không? Theo ý ông Diệp Văn Kỳ thì khó lòng mà rửa cho sạch được: ông đối với sự hành động của bọn đó, vốn có cái ác cảm riêng, thường thổ lộ ra lời  nói câu chuyện.
Còn phải đợi một tuần lễ nữa mới có chuyến tàu lớn bên Tây sang, đáp vào đây, rồi đi ra Bắc. Làm gì cho qua thì giờ bây giờ?  Ngày ngày bèn đi dạo chơi khắp trong các phố phường, khi ở Sài Gòn, khi về Chợ Lớn. Sài Gòn thì đã nghiễm nhiên thành một tỉnh tây rồi. Ngoài các phố tây với mấy phố khách, hàng buôn bán An  Nam ít lắm. Những nghề người mình hay làm nhất là nghề chưng khách sạn – mà khách sạn cũng là chỉ có buồng ngủ thôi,không có cơm ăn -, nghề húi tóc, nghề chụp ảnh, nghề chữa máy và cho thuê  xe đạp, nghề thợ kim hoàn, v.v., toàn thị là những nghề nhỏ mọn tầm thường cả. Ở đường Catinat là đường lớn nhất ở Sài Gòn, có được mươi lăm tiệm bán hàng Bắc kỳ: đồ thêu, đồ khảm, đồ đồng,  đồ the lụa, v.v. Tiệm lớn nhất là tiệm của ông Đào Huống Mai, là nhà mĩ nghệ có tiếng ở Hà Nội ta. (…)
Tôi có bàn với mấy ông rằng ngày nay Nam Bắc giao thông có lẽ mỗi ngày một nhiều hơn trước, các ông nên họp thành một hội  thân ái gồm cả các người Bắc kỳ ở Nam kỳ, rồi tìm cách đặt lấy một nhà hội quán tại Sài Gòn, trước là để làm nơi cho anh em đồng xứ mình tới lui mà chuyện trò cho vui, sau là làm một chốn công sở để tìm phương đặt kế giúp cho người Bắc vào trong này doanh nghiệp làm ăn. Nói rằng cổ động cho dân Bắc kỳ vào Nam  kỳ mà sinh cơ lập nghiệp thì vẫn hay lắm, vẫn phải lắm, nhưng  những người vào  tới nơi bỡ ngỡ chưa biết đâu vào đâu, chưa  biết cách làm ăn ra làm sao, mà không có người cũ khuyên bảo chỉ dẫn  cho, thì khó lòng mà tháo vát cho xong. Nếu có một nhà hội như  vậy thì người mới đến ở trên tàu xuống đến ngay nhà hội hỏi han các cách, tiện lợi biết bao nhiêu. Hội lại sẽ có những đại biểu ở Lục  tỉnh báo cáo về cho Hội biết cái tình hình về nông nghiệp thương nghiệp các nơi thế nào, cùng là chỗ nào làm nghề gì tiện, chỗ nào đất khai khẩn tốt, hoặc có người hỏi đến thì Hội chỉ bảo cho, chẳng là giúp đỡ được nhau lắm ru? (…)
Chiều chiều thường về chơi Chợ Lớn, đi xe lửa không đầy nửa giờ. Cái cảnhợng Chợ Lớn thật là sầm uất phồn thịnh có một; nhưng nghiễm nhiên là một tỉnh Tàu! Tối đến đèn điện sáng  choang, hàng bày la liệt, đồ tây đồ tàu, đồ ăn đồ uống, tiếng đánh “toan” xì xồ, tiếng thanh la ánh ỏi, tiếng “hầu sáng” gọi đồ ăn,  tiếng hàng rong rao thức bán, ồn ào rộn rịp, tấp nập linh đình, mỗi tối trông thấy cái cảnhợng ấy không thể không khen thay cho giống Khách có cái sức sinh hoạt lạ lùng, đi trú ngụ ở đất người mà  lập  thành  hẳn  một tỉnh riêng của mình, đoạt người bản xứ ra ngoài cái vòng quyền lợi mình! Than ôi! Đất khách quê nhà, quê  nhà mà sao thành đất khách? Lợi quyền ở tay mình mà sao để ra  tay người? Ngày nay người Nam kỳ đã tỉnh ngộ, biết hợp quần mà tranh giành lại với giống Khách về đường nông nghiệp. Nhưng về đường thương nghiệp thì biết bao giờ cho mình bằng nó? Sự khuyết điểm đó mới thật là to và cái hiểmợng này mới thật  đáng lo vậy. Vì thương nghiệp với công nghệ có cái quan hệ rất  mật thiết với nhau: một xứ tuyệt nhiên không có công nghệ như xứ Nam kỳ, thế tất là phải dùng đồ ngoại hóa; đã phải dùng đồ ngoại  hóa thì thoát li tay bọn Khách sao được? Làm đôi guốc gỗ người  mình cũng không làm được, thì trách sao không phải chịu cái  quyền áp chế trong sự buôn bán của nó? Tôi thường trông thấy Khách gánh nước, Khách bán củi: còn nghề gì nữa là nó không  tranh hết của mình? (…)
*
*  *
Đọc Quốc sử có một điều rất đáng hưng khởi trong lòng: là cái công phu lớn lao của tổ tiên ta trong mấy mươi thế kỷ khai thác được suốt một cõi đất Đông Dương này, khiến cho ngày nay từ giáp ranh nước Tàu cho đến vũng bể Xiêm La, từ bến sông Mê Kông cho đến bờ bể Đông Hải, dân An Nam ta thuần là một giống  người, cùng một cỗi rễ mà ra, cùng một tiếng nói, cùng một  phong tục, cái tính  tìnhởng cũng không khác gì nhau. Thử hỏi khắp trong thế giới đã có một dân nào thuần nhất như dân ta chưa? Ngót hai mươi triệu người sinh trưởng ở một cõi đất mênh mông, trong hơn hai mươi thế kỷ, đã từng lắm phen sướng khổ cùng nhau, nguy hiểm có nhau, dần dần gây nên một mối quốc hồn tuy  lúc bình thường như u ẩn không hiện ra, mà gặp buổi quốc gia đa nạn đột khởi ra những người anh hùng chí sĩ lập nên những sự nghiệp  phi  thường. Cái quốc hồn ấy, phàm người có tấm lòng khối óc, những khi trông thấy quốc vận suy vi, ai là người chẳng hình  như nghe thấy cái tiếng kêu ai oán như não nùng than khóc ở trong lòng? Ngày nay có người lấy lẽ chính trị nhất thời, lấy sự gián cách không đâu, mà phân biệt ra kẻ Nam người Bắc, coi nhau  hầu như khác giống khác giòng, không biết rằng dù kẻ Bắc dù người Nam tuy ăn ở xa cách nhau mà trong lòng cùng là mang nặng một tấm quốc hồn như nhau; chỉ vì cái quốc hồn ấy không thường có dịp phát hiện  ra nên không ngờ khôngởng  vậy. (…)
Tôi càng đi du lịch trong Nam kỳ lại càng thấy cái cảm giác rõ ràng rằng người Nam người Bắc thật là con một nhà, nếu biết đồng tâm hiệp lực thì cái tiền đồ của nước Nam ta không thể nào hạn lượng cho được.Tôi xin đốt lửa thắp hương mà cầu nguyện cho cái mối đồng tâm ấy ngày một bền chặt, thật là may cho nước nhà lắm lắm.
Hà Nội, tháng 11 năm 1918 – tháng 1 năm 1919.
P.Q.
Nguồn Blog PT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét