Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

Dương Thu Hương- Đỉnh cao chói lọi II

Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC VỐN BUỒN NHỚ VÀ SẦU THƯƠNG CHO CHÍNH NÓ
Khi chủ tịch mở mắt, đã ba giờ chiều.
Ông chưa bao giờ ngủ một giấc trưa dài và nặng nề đến thế. Những giấc mơ ngắn, hãi hùng, xen lẫn những hình ảnh, những ý tưởng còn đọng lại sau câu chuyện về người tiều phu khiến giấc ngủ ấy đẩy ông tụt xuống một vùng sâu. Ông có cảm tưởng vừa tham dự một cuộc nhảy dù đêm mà trong đó ông là gã lính dù nhút nhát bị cưỡng bức lao qua cửa máy bay để buông mình vào một không gian tối tăm đầy hù doạ.
- Thật tồi tệ..
Ông lẩm bẩm rồi bước ra ngoài hiên. Nắng đổ dài quá nửa sân, một thứ nắng trong suốt, vàng nhạt, không mảy may hơi ấm. Những cành mai rung trong gió. Ông ngơ ngẩn nhìn chúng, vẫn như đang chòng chành giữa những cơn mơ vừa qua và hình ảnh mảnh sân chùa trước mắt. Mảnh sân cách ông chưa đầy sải tay, với những hàng gạch vuông, với nắng quái ngã qua mái ngói phía tây. Từ ngôi chùa bên kia sân, tiếng gõ mõ lẫn tiếng đọc kinh vọng ra. Có thể phân biệt giọng của vị sư già và giọng lảnh lói hơn, của sư nữ. Ông lắng nghe hồi lâu tiếng tụng kinh như để tin chắc rằng giấc mơ đã hoàn toàn qua và giờ đây, ông sống trong hiện thực. Cậu lính trẻ phục phịch đang ngủ say trong chiếc võng mắc bên chái hiên đầu chùa, gương mặt đỏ hồng. Tuy còn trẻ, cậu ta cũng đã ngáy, tiếng ngáy khá to. Cả tiếng ngáy ấy nữa, cũng là hiện thực, một hiện thực mạnh mẽ hiển nhiên kéo ông khỏi những giấc mơ miên man, những giấc mơ khiến tâm hồn ông chìm đắm như con tầu bị bẻ hết buồm lái, bị nhấn xuống đáy bùn.
- Ối...Thôi chết rồi...
Cậu lính trẻ đột nhiên vùng dậy, kêu to :
- Xin lỗi, con ngủ quên đi mất.
- Không sao. Chính tôi cũng ngủ quên. Hôm nay thật mát trời.
- Vâng. Xin chủ tịch chờ cho vài phút. Con xin pha trà ngay.
Chàng lính hối hả cuốn võng, rồi đi cắm nước. Phòng quản trị đã thay chiếc ấm điện mới và từ nay cậu ta sẽ không còn phải hì hục đun nước trong gian bếp nhà chùa. Ông nhìn cậu ta, lặng lẽ. Công việc của một ngày quanh đi quẩn lại chỉ thế thôi. Bỗng nhiên, ông nhớ tới tuổi trẻ của mình, không khỏi tò mò :
« Làm sao cậu ta có thể chịu nổi suốt đời thứ công việc tẻ nhạt này ? Một thứ công việc chẳng mảy may thích hợp với tuổi hai mươi ? Phải chăng, vì một niềm sùng kính mà con người phải hy sinh những đam mê khác ? Hoặc chính họ là những người chẳng có đam mê nào đáng giá hơn là đứng trong một đội quân được trả lương để làm một thứ công việc tẻ nhạt suốt cuộc sinh tồn ? »
Nhưng rồi ông vội vã xua đuổi những thắc mắc ấy vì chúng quả là bất tiện. Ông yêu chàng lính trẻ này, có thể là một cảm tình muộn màng và không chờ đón, tuy nhiên nó vẫn luôn luôn là niềm trìu mến đích thực. Ông không muốn có những ý nghĩ xúc phạm đến cậu ta.
- Thưa chủ tịch, mời người vào phòng dùng trà.
- Cảm ơn. Chú pha trà gì vậy ?
- Dạ, trà ướp nhài, như hôm trước.
- Tốt, tôi vào đây.
Ông quay vào phòng, không gian đã thoang thoảng hương nhài. Ấm chè vừa pha toả khói. Rót đầy một chén, ông nhấm nháp từng ngụm nhỏ. Hồi còn ở chiến khu Việt - Bắc, ông cho trồng một bụi nhài ngay sát chân nhà sàn. Bụi nhài ấy mọc nhanh hơn cỏ, chỉ sau một năm đã lan rộng như tấm chiếu đơn. Những chiều hè oi nồng cũng như những đêm mưa rả rích, hương nhài bốc lên ngây ngất. Những bông hoa nhỏ xíu kia, vì sao chúng cho một mùi thơm nồng nàn đến như vậy ? Nhiều đêm, ông đứng bên cửa sổ, nhìn ra khoảng rừng tối đen, thở hít đầy lồng ngực làn khí của rừng đêm hoà với hương nhài. Rồi đến khi có nàng, ông thường gặp hoa nhài hơn, bởi nàng thích cài hoa nhài và hoa ngọc lan trên tóc.
« Ta có nàng trong tay vào năm 1953, khi ấy nàng đã hơn hai mươi tuổi. Từ buổi trưa bắt gặp nàng cùng cô bạn ngồi chia nhau chùm vả trên cây, ta còn phải đợi chờ thêm hai năm nữa. Hai năm trông ngóng, mỏi mòn. Ta đâu có yêu một đứa trẻ vị thành niên ? Về luật đời, ta chẳng mảy may phạm lỗi. Ông lão tiều phu kia còn kết hôn với một cô gái trẻ hơn nàng, cô ta mười tám tuổi. »
Chén trà đã cạn, chỉ sót lại một cánh nhài khô dưới đáy. Chủ tịch chăm chú nhìn cánh hoa héo và chợt hồi nhớ cảm giác ghen tuông của thời đã qua. Ghen tuông, kì cục thay, một thứ yếu đuối bất khả thú nhận.
Ông mường tượng lại không gian lạ lùng đêm ấy, mùi thuốc Ca-ra-ven lẫn mùi thuốc Gaulois ông đốt liên tục thứ nọ xen lẫn thứ kia một cách lộn xộn, và ông cũng hút một cách máy móc, bất tri kì vị. Ông nhớ lại chiếc gạt tàn đất nung đầy ắp đọt thuốc, và mớ tài liệu mà ông lật giở hết trang nọ đến trang kia nhưng không đọc nổi một dòng. Đêm đầu tiên họ làm tình. Đêm đầu tiên tấm thân nõn nà của nàng hiển lộ trước mắt ông, không áo chàm, cũng không áo cánh tân thời, cũng không cả chiếc xu-chiêng may bằng vải phin trắng sợi thưa dếch dác. Chỉ da thịt thuần khiết, vẻ đẹp thuần khiết do thiên nhiên tác tạo. Người xưa bảo : « Trong ngọc, trắng ngà », ông nghe vậy nhưng chỉ tới đêm ấy mới hiểu rõ ý nghĩa từng câu từng chữ. Nhan sắc của nàng đích thực là châu báu. Ông nhớ tiếng nàng cười, dưới ánh sáng mờ mờ của cây đèn nơi góc phòng, hàm răng nàng ánh lên như ngọc. Đấy là khoảnh khắc mà dĩ vãng lẫn tương lai chẳng còn tồn tại, không gian tiêu biến như cõi mộng, và tất thảy những rào cản giữa hai sinh thể rơi xuống. Nàng ở trong ông, tan hoà trong da thịt của ông, nhào quyện trong tâm hồn ông. Mãi mãi. Mãi mãi...
Nhưng cũng thật lạ lùng, vì sao ông lại ghen tuông như vậy ? Trên đường đi của mình, ông đâu thiếu những cuộc gặp gỡ, ông đâu thiếu hơi ấm đàn bà ? Tuy chẳng phải là một gã đàn ông trăng gió, nhưng ông cũng là người từng trải. Vậy mà ông vẫn không tránh khỏi thứ tình cảm thông tục rất đỗi thấp kém này. Sau cuộc làm tình, ông nói với nàng rằng ông cần đọc gấp một mớ tài liệu, rồi ông ra khỏi căn phòng. Nhưng ngồi dưới ánh đèn, ông lật từng trang giấy và mường tượng xem ai là kẻ « đã từng » với nàng ? Ai là người đầu tiên được chiếm cứ tấm thân mỹ miều, tươi thắm ấy ? Ông biết nàng là sơn nữ, cuộc sống của sơn dân phóng khoáng như nước suối, mây rừng. Trai gái đến tuổi trưởng thành được tự do luyến ái. Đối với người châu Á thì dân miền núi chính là thứ người « Âu hoá » trước hết và đầu tiên. Một cô gái khoẻ mạnh, xinh đẹp như nàng, hẳn phải được biết bao chàng trai dòm ngó. Đặc biệt, là những chàng trai đã lớn lên trong cùng một bản, bên cùng một dòng suối, một cánh rừng...
« Ta đã không tránh được thứ tình cảm rất đỗi tầm thường ấy. Cũng thật là khó hiểu, một gã đàn ông đã qua hai mươi năm tuổi trẻ ở phương tây, và người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời ta là người tóc vàng, da trắng. ».
Bất giác, ông buông tiếng thở dài :
« Từ cuộc làm tình đầu tiên đến nay đã hơn nửa thế kỉ. Nói một cách chính xác, đã xấp xỉ sáu mươi năm. Không ai đo dược chiều dài của thời gian, vì nó co giãn theo những kỉ niệm của con người.»
Rót tiếp chén thứ hai, ông nhìn thấy người đàn bà đầu tiên trong làn hơi nước bốc trên miệng chén trà.
« Goá phụ. Người đàn bà trong ngõ hẻm. Cô thợ mũ dày dạn và lỗ mãng, người thày tình ái của ta ... »
Gương mặt chị ta giờ đây nhù nhoà như khói, nhưng hơi thở hổn hển và những tiếng hét đứt quãng của chị ta trong những cuộc làm tình không bao giờ ông có thể quên. Họ đều là dân thuê nhà trong một ngõ cụt, sát phố Saint John, nơi một bồn phun nước nhưng chẳng còn nước đứng han rỉ giữa đám bồ công anh già cỗi. Chị ta hơn ông khá nhiều tuổi, chồng làm bưu tá vừa chết được vài năm. Ba đứa con trứng gà trứng vịt suốt ngày bị nhốt trong nhà. Ngày ấy, ông tròn hai mươi. Chắc hẳn, tuổi trẻ tự nó toát ra vẻ quyến rũ giống như một con cầy hương toát ra chất xạ để lôi cuốn bạn tình. Một buổi chiều, người đàn bà goá gặp ông cùng trên đường quay về ngõ nhỏ, nơi ông thuê căn phòng áp mái, còn chị ta sống trong một căn buồng dành cho người ở, thông lưng với một ga-ra cũ. Chị ta làm thợ khâu, trong một xưởng nhỏ sản xuất các loại mũ ngủ. Hình như đấy là nghề cổ truyền của gia đình, và chị ta đã làm thợ từ thuở mười ba . Họ im lặng đi song song với nhau một đoạn đường, rồi đột nhiên goá phụ mỉm cười hỏi ông :
- Sao, công việc tốt đẹp chứ ?
- Cảm ơn , tôi hy vọng như vậy.
Ông trả lời, trong lòng buồn rười rượi vì đã rạc cẳng tìm việc hơn hai tháng mà chưa thấy mảy may tia hy vọng.
- Tốt.
Người đàn bà tiếp lời, sau đấy chị ta hạ giọng :
- Đêm nay, lúc một giờ, cửa nhà tôi mở. Anh đến chứ ?
Ông sững sờ, chưa biết đối đáp ra sao, người đàn bà đã nắm lấy khuỷu tay ông, bóp mạnh và đồng thời lặp lại :
- Đừng quên nhé. Một giờ đêm nay.
Rồi chị ta rẽ vào nhà mình. Ông đi tiếp một đoạn nữa, tới căn nhà cuối cùng trong ngõ cụt, leo lên tầng trời thứ bẩy. Ở đấy, ông uống nước lã và ăn khúc bánh mì khô cứng còn lại từ hôm trước. Nước lã, bánh mì xuông, chẳng bơ sữa cũng không thịt cá, vậy mà máu vẫn rạo rực. Bộ phận cứng nhất trong cơ thể ông không chờ được đến nửa đêm, đã dựng lên như cột buồm khiến ông phải đi đi lại lại trong phòng, chẳng thể làm một việc gì khác. Tim ông đập dồn vì phấp phỏng còn lý trí nhếch mép cười nụ cười cay đắng. Ông đã từng mường tượng, ông đã từng mơ ước, ông đã từng dàn cảnh bao nhiêu lần cho cuộc làm tình đầu tiên của cuộc đời mình, và bây giờ nó đến, trong sự suồng xã của bức bối, bần hàn. Chẳng có công chúa trong mộng, cũng không phải hoàng tử của lòng em. Chỉ đơn thuần là một người đàn bà goá cần lấp đầy giường chiếu. Hồi ấy, tuy trẻ tuổi, nhưng ông cũng đã thầm chua chát cho số phận mình. Ông chưa bao giờ hình dung người đầu tiên chiếm lĩnh tấm thân trai trẻ của ông lại là chị ta, một bà goá gấp đôi tuổi ông và dẫu tóc vàng da trắng nhưng không mảy may nhan sắc. Dầu vậy, ông vẫn chờ đợi với nỗi bồn chồn của kẻ chưa từng biết mùi đời chuẩn bị nếm bữa cỗ đầu tiên. Rồi tới giờ hẹn. Ông đi đến khuôn cửa đã mở sẵn ấy, không nói nổi một lời. Người đàn bà cũng không nói một lời, kéo ông vào căn buồng riêng, chính là chiếc ga-ra cũ được dán giấy hoa loè loẹt bốn bên, được trang bị một chiếc giường cổ , rộng thênh thang, gần như chiếm toàn bộ diện tích căn phòng. Điều ấy khẳng định rằng ông bưu tá phải là người ngoại cỡ...
« Thật lạ lùng, chẳng có gì số phận kiêng dè, chẳng con đường nào mà nó tha dẫn con người bước đến. »
Cũng thật lạ lùng là ông gần như quên gương mặt goá phụ, nhưng lại nhớ như in hình ảnh gian buồng bé nhỏ, chiếc giường cổ lỗ với những cây trụ sắt vĩ đại đội quả cầu bên trên. Người ta có cảm giác rằng chiếc giường vững trãi, đen xì như máy phóng đá này đã tồn tại từ tời trung cổ và còn tiếp tục tồn tại nhiều thế kỉ nữa. Ông nhớ như in tấm vải trải giường kẻ sọc lớn mầu nâu, tấm chăn phủ mầu cà-phê sữa. Ông nhớ cách thức chị ta dạy ông ái ân, hai cánh tay cô thợ mũ nóng rực nhưng các thớ thịt lại mềm nhão và hai bàn tay thô nháp, đầy vết chai khiến nhiều lúc ông đau điếng khi những vuốt ve trở nên điên cuồng. Ông nhớ cử chỉ dứt khoát và đôi khi hung bạo khi chị ta lột phăng chiếc váy ngủ qua đầu, đoạn vung tay ném xuống sàn. Ông nhớ cốc sữa nóng chị ta mời ông uống, tiếng chiếc thìa khua lanh canh trong đêm khuya khoắt khiến ông sợ hãi vì những đứa bé ngủ cách họ có một bức tường...Tất thảy những chi tiết trong bài thực hành tình dục vỡ lòng. Tuổi hai mươi của ông đã được ghi dấu như thế.
« Điều đáng sợ hãi hơn cả chính là lòng ghen tị chị ta khuấy lên trong khu. Lòng ghen tị của những người đàn bà khiến cho đến giờ ta còn hổ thẹn. »
Cái ngõ nhỏ ấy đầy ắp những đàn bà thiếu vắng đàn ông. Nào là vợ lính không đủ tiêu chuẩn đi theo chồng, nào là quả phụ trong những cuộc chiến tranh thực dân liên miên từ châu Phi sang châu Mỹ, nào là đám đàn bà Ý chạy trốn xứ sở của mình, những người phụ nữ tóc đen nhánh thường bị riễu cợt là « bọn Rita... » Có quá nhiều lý do khiến cho những chiếc giường lạnh lẽo. Goá phụ của ông bưu tá đã túm chặt lấy người tình nhân hai mươi tuổi như kẻ chết đuối vớ được mảnh bè. Thoạt tiên, chị ta còn e dè, nhưng sau đó, chị ta cư xử với ông như cai ngục với tù nhân, như nông phu với mảnh ruộng của gã. Rồi những người đàn bà khác, trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn, dạn dĩ không kém bắt đầu so gươm với kẻ mau chân chạy trước mình. Họ dấy lên những cuộc tranh chấp ghen tuông quanh chàng trai Á đông tươi dòn như trái táo. Ông hổ thẹn. Ông không thể chấp nhận người ta coi mình như một con mồi. Ông lẳng lặng tìm một căn gác xép ở quận khác. Và một đêm, ông xách hành lý ra đi.
*
- Thưa chủ tịch, người dùng trà xong chưa để con dọn.
- Cảm ơn, tôi xong rồi.
Cậu lính bưng khay trà ra ngoài, và ông quen lệ kéo tập tài liệu xuống trước mặt. Quen lệ, ông lật các trang giấy, trong lúc thầm riễu cợt mình :
« Ta lật những trang giấy này chẳng khác chi lật những trang tài liệu đêm năm xưa. Con người nhiều khi giống như cỗ máy. Những cử chỉ máy móc chiếm một phần lớn thời gian. Cuộc sống thực sự cũng như phần nổi của đảo băng, luôn luôn nhỏ bé.»
Nhưng rồi một ý nghĩ khác ập đến tức khắc, như ngọn triều ném trả vào vách đá :
« Nhưng cái phần bé nhỏ ấy mới đích thực là cuộc sống. Nếu cái phần nhỏ bé ấy chẳng tồn tại, kiếp nhân sinh sẽ chẳng còn ý nghĩa mà chỉ là âm bản của tấm ảnh, nơi sự vật hiện lên dưới dạng các bóng ma. »
Sự so sánh ấy bỗng gợi cho ông nhớ lại căn buồng tối, nơi ông từng sống bằng nghề rửa ảnh, cái nghề buồn chán và bạc bẽo, suốt ngày bị giam cầm trong bóng tối, suốt ngày ngửi mùi muối bạc, vào buổi chiều bước ra khỏi chốn ngục tù bé nhỏ ấy thì mắt loá và lưng đau.
« Ồ, không, căn buồng tối xưa kia là nơi ta tự chọn để kiếm miếng bánh hẩm hiu cho qua ngày. Đây mới chính là tù ngục với cả một đội quân canh giữ. Tại sao ? Tại sao ta để chúng dồn ta đến nông nỗi này ?»
Cuối cùng, ông chẳng thể lãng quên, cũng không có khả năng lẩn trốn. Ông buộc phải quay lại với những giấc mộng hãi hùng vừa trải nghiệm trong giấc ngủ trưa. Ông không thể thoát khỏi nàng. Nàng đang đứng đâu đó, ngay sau lưng ông. Bóng nàng trùm lên ông, trong hình dáng yêu kiều và lạnh lẽo. Ông có cảm giác như nàng vừa bước lên từ vùng băng giá, từ một miền mênh mông tuyết trắng, nơi những dòng sông đóng băng trong suốt như thuỷ tinh; nơi những rừng cây khô trụi in lên bầu trời hoang đám cành đen sì, cong queo như lũ rắn; nơi từng bầy quạ vừa bay vừa thả tiếng kêu ai oán như gióng hồi chuông tập hợp những hồn ma...Lạ lùng thay, nàng chưa từng một lần bước chân qua cõi biên thuỳ, nàng bị cầm tù trong tay áo của ông, nàng dâng hiến cuộc đời cho một hạnh phúc phù dù để sau đó bị ném thẳng xuống địa ngục. Vậy mà trong những giấc mơ của ông, nàng trở thành kẻ đồng hành miên viễn. Bất kể nơi đâu ông từng sống, đều có hình bóng nàng. Ông thấy nàng trên con tầu vượt biển, ông thấy nàng trong con hẻm thành Paris, ông thấy nàng ngơ ngẩn trên những hè phố Hương cảng :
―...Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau...‖
Câu hát ấy vang lên giữa thinh không, va đập vào tim ông. Càng ngày, ông càng thấy tâm hồn mình giống như vách núi ven bờ đại dương ngày động bão, nơi những ý nghĩ qua lại, đối chọi không ngưng nghỉ tựa những cơn sóng đập liên hồi vào vách đá, trong một cuộc giao tranh trường kì không phân giải.
― Lẽ ra, ta đã có thể hạnh phúc với nàng. Lẽ ra ta không nên lùi bước trước bọn chúng. Những kẻ đã từng leo lẻo mồm gọi ta là bậc trưởng thượng, là anh cả, và ta đã từng coi chúng như những người đồng chí, những đàn em thân thiết, những kẻ cùng chia xẻ nắm cơm, theo đúng nghĩa của từ copain. Té ra, mọi sự ―đã từng chỉ là những lầm tưởng. Vào một thời khắc nào đấy, mọi giá trị đều lật ngược, tựa hồ ta đã tin tưởng vào những tấm phim âm bản của cuộc sống, cho tới thời khắc chúng hiện hình.
Vào ngày ông đề nghị Bộ chính trị công khai hoá quan hệ của ông với người vợ trẻ, những bộ mặt tươi cười của đám đàn em nhất loạt sa sầm xuống :
- Thưa chủ tịch, lẽ ra người không bao giờ nên đề cập tới vấn đề này. Đó là một tabou, nếu có thể nói một cách chính xác...
Kẻ cất tiếng trước tiên là Thuận, anh ta khá thạo tiếng Pháp, và danh từ tabou anh ta sử dụng chỉ có nửa số người ngồi họp hiểu được thôi. Nhưng những kẻ không hiểu danh từ ấy thì diễn đạt thẳng thừng những ý tưởng của họ một cách thô baọ và xuồng xã.
Tiếp theo Thuận là Sáu. Y giương mắt nhìn ông như tỏ vẻ ngạc nhiên, trong điệu bộ của một vai tuồng , rồi bỗng nhiên nhếch mép :
- Chuyện đàn bà ...Tôi nghĩ rằng chủ tịch nêu vần đề này lên chỉ để làm hài lòng cô Xuân, và đấy là mục tiêu duy nhất. Chắc chắn yêu cầu này do cô Xuân đề xuất...Hoặc có khả năng do gia đình cô ta xúi bẩy. Còn chủ tịch của chúng ta thừa đủ thông minh để hiểu rằng đó là điều không thể chấp nhận.
- Đương nhiên đó là điều bất khả. C’est sur.
Thuận nhấn mạnh, buột miệng buông ra một câu tiếng Pháp, theo thói quen.
Chờ cho cảm giác khó chịu của số người không quen nghe ―ngôn ngữ của kẻ thù trôi qua, Ba Danh lên tiếng:
- Cho dù là cô Xuân, chúng ta cũng không thể khoan nhượng. Người đàn bà chỉ nghĩ tới mái nhà của họ, quyền lợi của bản thân họ, còn chủ tịch phải coi trọng quyền lợi của dân tộc trên mọi thứ quyền lợi khác. Cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi là do toàn dân nhất tề tin tưởng dưới sự lãnh đạo của người. Hình ảnh của người mang lại sức mạnh cho dân tộc. Chúng ta không thể để hình ảnh ấy bị bôi nhọ.
- Thế nào là bôi nhọ ?...Chúng ta không nên dùng những danh từ nặng nề hoặc thái quá.
Tô lên tiếng phản kháng.
Ngay tức khắc, Sáu quay sang áp đảo anh ta :
- Không cần phải kiêng dè, không cần so đo chữ nghĩa. Chúng ta đang đứng trước vấn đề sinh tồn của cách mạng . Lợi ích cách mạng đang bị đe doạ, chúng ta phải tìm mọi cách bảo vệ lợi ích đó. Vì thế, giờ đây chẳng phải lúc chơi chữ hay chọn từ.
- Các đồng chí không nên gay gắt. Đâu sẽ có đó, mọi chuyện sẽ được giải quyết một cách êm thấm với sự đồng thuận của tất thảy mọi người.
Thuận can giải, và anh ta giơ cánh tay lên phác một cử chỉ trịnh trọng như muốn thay lời kết thúc của diễn từ:
- Tôi cho rằng tất thảy chúng ta đều nhất trí : Việc công nhận cô Xuân là điều không thể có, thậm chí không thể nghĩ đến. Tôi hy vọng rằng với tinh thần trách nhiệm cao cả trước toàn thể dân tộc, chủ tịch cần chấp nhận quyết định này. Chúng ta không có con đường thứ hai.
- Chủ tịch là vị cha già của dân tộc.
Sáu tiếp lời, và hai mép y nhếch lên trong một nụ cười thâm thuý:
- Vị cha già dân tộc, là mái nhà che chở cho nhân dân. Từ bao năm nay dân chúng đã quen với hình ảnh này. Chủ tịch cần nhắc cho cô Xuân nhớ lại điều ấy, nếu cô ấy còn tiếp tục đòi hỏi được công khai chấp nhận.
Vào lúc đó, ông thấy lưỡi ông dính bết vào hàm. Mồ hôi ông chảy dọc sống lưng và đôi chân ông lạnh toát như bị chườm nước đá. Những gương mặt quen thuộc bỗng nhiên hoá thành một đám mặt nạ cao-su phập phồng, méo mó, lồi lõm. Lẽ nào ông tìm được sự cảm thông và niềm tin cậy nơi những hình nhân dị dạng kia ?... Những gì ông vẫn tin tưởng đinh ninh chỉ là nhầm tưởng. Cả một bức tường thành sụt lở trong tim. Tâm hồn ông rỗng không, óc não ông tê bại. Ông thấy mình bỗng nhiên trở thành kẻ cấm khẩu. Ông không thể mấp máy đôi môi. Nhưng một khoảnh khắc trôi qua và bản năng thức tỉnh. Một cảnh báo mơ hồ lướt tới khiến ông rùng mình. Ông phải tự trấn tĩnh một hồi trước khi có thể cất tiếng:
- Nếu bộ chính trị đã nhất trí, đương nhiên tôi phải chấp hành. Nhưng các đồng chí đừng quên rằng cô Xuân là người thân thiết của tôi, chúng tôi đã có hai mặt con, và những đứa trẻ ấy là máu huyết của chính tôi.
- Chủ tịch cứ yên tâm. Những người thân của chủ tịch sẽ được cư xử đàng hoàng. Miễn là họ yên tâm sống trong hậu trường của cách mạng.
Người nói lời cuối chính là Thuận, kẻ nổi tiếng chín chắn và nho nhã trong bộ chính trị. Kẻ cũng được tiếng là người đàn ông đạo đức, có nghĩa rằng so với các đồng chí khác anh ta chẳng phải là kẻ đa thê. Thuận chỉ có một người vợ. Với người đàn bà này, anh ta có năm đứa con.
....Ông không còn nhớ đoạn kết của cuộc họp ấy ra sao. Phần cuối của bản án tử hình. Trái tim ông bị đem lên đoạn đầu đài và ở đó lưỡi gươm đao phủ hạ xuống. Dấu ấn sau chót ghi khắc vào tâm hồn ông là cảm thức về sự bất lực của chính mình. Lần đầu tiên, ông chợt nhận ra ông chỉ là một pho tượng gỗ khổng lồ nhưng mọt ruỗng. Những đồng chí thân thiết ẩn núp sau lưng ông để kiếm chác quyền năng. Họ mới thực chất là những ông chủ, những kẻ trục lợi tàn bạo, vô lương. Tất thảy bọn họ đều được sống mãn nguyện cái phần người ở dưới rốn. Hơn phân nửa bọn họ đều có hai vợ và cả mớ nhân tình. Người có vẻ cảm thông nhất với ông chính là Tô, bởi anh ta đã từng hiểu cuộc sống bị thiến hoạn. Vợ Tô vốn mắc chứng hoang tưởng trầm uất từ thời thiếu nữ. Sau khi sinh nở, chị ta trở thành tâm thần phân liệt, phải điều trị tại bệnh viện và nhà an dưỡng dành riêng cho gia đình các uỷ viên bộ chính trị. Ít nhất, Tô cũng đã chịu thiếu thốn gối chăn một thời gian, trước khi anh ta có quan hệ lén lút với một cô đào hát trong đoàn tuồng Liên khu năm và có với cô này một đứa con trai. Nhưng Tô là thiểu số tuyệt đối, thêm nữa bản tính anh ta nhu nhược và cả nể. Suốt đời, Tô là kẻ sắm vai. Anh ta đã thành con rối gỗ từ rất lâu, thành con rối gần như tự nguyện.
Người được tiếng đứng đắn nhất, cao giọng đạo đức nhất, thái độ quyết liệt nhất trong cuộc họp hôm ấy chính là Thuận, kẻ đã từng là cánh tay đắc lực của ông một thời gian dài:
― Nhưng anh ta chưa bao giờ thiếu thốn chuyện gối chăn. Anh ta chỉ có một người vợ, nhưng với người đàn bà này anh ta có năm đứa con, và dù trong chiến tranh hay trong cuộc sống thời bình, đời sống tình dục của người đàn ông này là liên tục.
Ông nhớ lại bữa liên hoan trên chiến khu Việt bắc. Hôm ấy, nhà bếp được lệnh mổ bò. Rượu cần ê hề vì dân bản cung cấp. Sau bữa cơm, mọi người đều chếnh choáng, vui vẻ. Chợt có tiếng la hét, chửi rủa, khóc lóc của một người đàn bà từ khu gia đình vọng tới. Cùng với thứ tiếng động bất nhã và náo loạn của chị ta là tiếng xôn xao, giọng đàn ông xen lẫn giọng đàn bà. Hoảng hốt, chánh văn phòng chạy sang hỏi han. Lát sau, anh ta quay lại báo cáo rằng vợ thủ kho đau đẻ. Người đàn bà này xấu nết nên càng đau, chị ta càng hò tên anh chồng ra mà chửi. Những người xung quanh xúm lại khuyên can. Giờ cơn đau tạm lắng, hội phụ nữ đã cử người dìu chị ta xuống trạm y tế.
Câu chuyện làm bùng nổ những trận cười ròn rã xen lẫn các giai thoại tiếu lâm vừa cổ vừa kim.
Lúc ấy, ông cất tiếng hỏi:
- Ở đây có cô nào chửi chồng khi đau đẻ không đấy ?
- Không có đâu ạ.
Các phu nhân nhất loạt đáp lời. Một người bạo dạn hơn nói tiếp:
- Mà nếu có muốn chửi thì cũng phải nghiến răng chửi thầm cho đỡ tức thôi ạ.
- Cô có lẽ là người thành thực nhất.
Ông mỉm cười tán thưởng, đoạn tiếp tục chọc ghẹo:
- Nhưng tại sao lại bực tức với người chung chăn chung gối ?
- Là vì....vì...
Người đàn bà ấp úng, nửa muốn trả lời, nửa còn dùng dắng. Lúc ấy, ông nghe tiếng Thuận cười phá lên, rồi chính anh ta đáp thay thiếu phụ kia :
- Là vì lúc sướng thì có cả đôi, lúc khổ lại mỗi một thân một mình phải chịu. Đó là cảm thức trước sự bất công của đất trời. Đó là cơn phẫn nộ đòi lợi quyền trước Tạo Hoá.
- Chú quả là người có tài diễn giảng.
Ông lên tiếng ngợi khen, đoạn quay sang vợ Thuận :
- Chú ấy biết nói như thế, hẳn phải biết cư xử như một ông chồng lý tưởng. Tôi nghĩ có đúng không ?
- Dạ ...
Vợ Thuận cũng lại ấp úng như người đàn bà kia, chị ta đưa mắt nhìn chồng và lúc ấy anh ta lại cất tiếng cười ha hả, lần này, với một nỗi khoái trá không che đậy :
- Thưa chủ tịch, trên lĩnh vực này thì người khá ngây thơ. Lý thuyết và thực tiễn luôn luôn luôn luôn là hai đường thẳng song song không bao giờ giao cắt. Nhà tôi vừa mới day dả tôi cả đêm qua vì chuyện phạm luật.
- Phạm luật ? Luật nào ?
Ông cất tiếng hỏi một cách thành thực vì không rõ trong cuộc sống đôi lứa, người ta đề ra những thứ luật gì. Suốt cuộc đời ông, những người đàn bà lướt qua như cơn mưa bóng mây, tạm bợ như quán trọ, mơ hồ như giai nhân trong chuyện Liễu trai, nên thực tình, cuộc sống gia đình đối với ông còn là một lục địa chưa khai phá. Trong khi ông đưa mắt nhìn Thuận thì mặt vợ anh ta đã đỏ gắt như quả gấc chín, còn Thuận đang cười nụ cười mở rộng nhất mà anh ta có thể. Sau đó, anh ta thủng thẳng cắt nghĩa :
- Rất nhiều luật lệ, nhưng chẳng luật lệ nào đứng vững nổi trước tuổi trẻ và những thôi thúc của thân xác. Ví dụ, thời xưa các cụ dạy vợ đẻ xong phải kiêng đủ một trăm ngày, đó là lý thuyết chính thức. Nhưng tôi không tin có ông chồng nào nhịn qua ba tuần lễ. Sau lưng các bà vợ, tôi hỏi vụng mười ông chồng, cả mười ông đều thú nhận là phạm luật. Rồi các bác sĩ đề ra luật : Khi vợ chửa tới tháng thứ chín tuyệt đối cấm đến gần giường, tôi, tôi hành động jusqu’ au bout. Hôm sau cô ấy đi đẻ, đêm trước tôi còn gỡ.
- Anh có thôi đi không, đồ yêu quái.
Vợ Thuận thét lên, có vẻ như sắp khóc vì hổ thẹn. Cả đám người cười lăn cười lộn, vẻ đồng tình ra mặt. Ông vội vã can :
- Thôi, thôi... Khi phụ nữ đã lên tiếng, ấy là mệnh lệnh. Tôi đề nghị các chú chuyển sang đề tài khác.
« Một thời để nhớ, một thời để thương, một thời để thù hận ... »
Một câu văn cũ rích bỗng nhiên quay lại. Ông chợt thấy trong đó những lo-gic thường hằng. Đúng là đã có một thời. Một thời để nhớ.
Một thời đã qua, thời của những kẻ sống trong rừng, hát cùng một khúc quân ca, bước trong cùng một đội hình, chia nhau một bát cơm và cùng có chung niềm tin tưởng. Thời khốn khổ và mộng mơ, khi người ta có thể nói với nhau tất thảy mọi chuyện một cách dễ dàng. Thời mà người ta tưởng chừng tình thân ái là những sợi dây liên kết chặt chẽ, bất chấp mọi ngáng trở, bất chấp thời gian.
« Nhưng từ đâu nảy sinh ra thứ thù nghịch này ? Lòng ghen tị được che giấu hay quyền lực bị tổn thương ?»
Hai giả thuyết ấy đặt ra trước ông như hai ngả đường, ngả nào cũng đầy rắn rết. Bao nhiêu năm đã qua, ông vẫn không hiểu một cách tận tường nguyên nhân sự phản trắc tập thể này. Phải chăng nhan sắc nàng gợi lên trong lòng những người đồng chí của ông mối ghen tuông, hay việc ông yêu nàng khiến cho quyền lực tập thể bị thương tổn. ?
Trước khi gặp Xuân, tổ chức kháng chiến đã quyết định tìm cho ông một người đàn bà, tương lai sẽ là « mẹ già dân tộc ». Việc ông từ chối quyết định của họ , tiếp theo đó mối tình giông bão với người con gái miền núi kia chính là cây búa đập tan cái hình mẫu tượng đài mà những người đồng chí đã dựng sẵn cho ông.
« Nhưng vì sao họ tự phong cho họ thứ quyền hành của ông mai bà mối ? Tất thảy mọi chuyện diễn ra vừa có vẻ như trò chơi ngớ ngẩn lại vừa giống một thứ ma trận bày ra để dẫn ta tới cửa mồ ?»
Ông không còn nhớ chính xác, nhưng vào khoảng mùa đông năm bốn mươi bảy hoặc mùa xuân năm bốn mươi tám, văn phòng lên báo cáo :
- Bộ chính trị đã họp bàn vắng chủ tịch, để quyết định một nữ đồng chí bên hội phụ nữ sang phục vụ người.
- Tại sao không cho tôi biết nội dung cuộc họp đó ?
- Dạ, vì chủ tịch đảm đương trách nhiệm tối cao lãnh đạo cuộc kháng chiến, Trăm công ngàn việc đợi chờ người. Vì thế, chủ tịch chẳng còn thời gian lo chuyện riêng tư. Bộ chính trị phải đứng lên sắp xếp.
- Ồ, nhưng vấn đề tình cảm giữa hai con người không thể giải quyết một cách đơn giản và máy móc như thế. Các chú phân công, nhưng người nữ kia chẳng có chút luyến ái nào thì sự sắp xếp này chính là cực hình đối với cô ta.
- Xin chủ tịch đừng lo, được phục vụ người là vinh dự.
- Nhưng tôi, tôi cũng là một con người, tôi phải xúc động thật sự mọi chuyện mới có thể tốt đẹp.
- Dạ, các uỷ viên bộ chính trị đều nói thực hiện nghị quyết này là để bảo đảm sức khoẻ cho chủ tịch. Theo sách Hải thượng lãn ông nếu âm dương không giao hoà thì mọi chứng bệnh sẽ kéo đến. Sức khoẻ của người chính là vận mệnh dân tộc, tương lai của non sông. Tập thể tổ chức văn phòng có nhiệm vụ chăm lo cho sức khoẻ của người.
- Tôi hiểu, nhưng không thể vì lý do ấy mà giải quyết mọi sự một cách tuỳ tiện.
- Thưa chủ tịch, bên hội phụ nữ đã làm công tác tư tưởng với đồng chí Thu. Đồng chí ấy thuận tình coi việc phục vụ người là phục vụ cách mạng.
- Ồ...
- Thưa chủ tịch, văn phòng được thông báo là bắt đầu từ thứ bảy tuần này.
- Không cần vội vàng đến thế. Mấy năm nay tôi sống chay tịnh có sao đâu ?
Ông đáp, nỗi bực bội xâm chiếm tâm can. Nhưng chánh văn phòng đã vội vã đi ra. Tiếng bước chân anh ta hấp tấp nghiến trên cây cầu thang đầu hồi. Ngay lúc đó, cần vụ bước vào mời ông sang hầm tướng Long đàm đạo. Cuộc gặp này đã vào lịch từ hai tuần trước nên ông lên đường tức khắc, nhưng cảm giác bực dọc vẫn đeo đuổi. Sự khó chịu này gần giống cảm giác bất mãn năm xưa, ông từng có với người goá phụ trong ngõ cụt phố Saint John, khi chị ta săn đuổi và vây hãm ông một cách lộ liễu trước tất thảy láng giềng.
Vừa bước chân vào hầm tướng Long, ông đã hỏi luôn chuyện đó. Anh chàng này giả tảng như không nghe thấy gì, lúi húi pha trà. Rồi lát sau, thủng thẳng đáp :
- C’ est provisoire.
Ông hiểu rằng người ta tìm cho ông một giải pháp tạm thời, nhưng dẫu sao đó vẫn là một sự áp đặt. Ông thấy quyền tự do của mình bị thương tổn.
Cuối tuần đó, vào chiều thứ bẩy, ông chợt thấy bóng đàn bà xuất hiện. Theo thường lệ, cứ thứ bẩy là mọi người rút về khu gia đình trừ đội cận vệ. Lán của họ dựng cách ngôi nhà sàn của ông vài chục bước chân, đứng bên này gọi to bên kia nghe thấy. Ông hầu như đã quên câu chuyện « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » nên vô cùng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà đang trên đường tiến đến khu lán. Lúc ấy, bữa cơm chiều đã xong, bầu trời phía tây chỉ còn lại những ráng mây vàng rực toả thứ ánh sáng không mầu sắc xuống các vòm lá đen thẫm của cây rừng. Trong thứ ánh sáng ấy, và trong không gian hiu quạnh ấy, dáng người đàn bà càng có vẻ yếu ớt, lẻ loi. Ông tự hỏi :
« Ai nhỉ ? Ai có thể đến đây vào lúc này ? »
Về nguyên tắc, đội cận vệ không được quyền tiếp đón người thân trong khu vực cấm. Nếu gia đình lên thăm, họ sẽ được phép nghỉ và gặp gỡ người thân ở khu vực « Trạm trung chuyển » hoặc gọi một cách văn chương hơn : « Nhà hạnh phúc ». Ngôi nhà ấy cách đây ít nhất cũng một dòng suối với hai ngọn đồi. Tò mò, ông tiếp tục nhìn qua khung cửa sổ, theo rõi cái bóng người đang chúi đầu bước. Hình như chị ta còn mang xách vật gì đó khiến dáng đi vừa lật đật vừa nghiêng vẹo. Một dáng đi lao đao, vất vả. Dáng đi ấy gợi nên một thứ tình cảm không chút đáng tôn vinh là lòng thương hại. Lòng thương hại đối với một người đàn ông đã tồi tệ, nhưng với một người đàn bà, sự tồi tệ ấy được nhân hai.
- Ồ, chuyện tầm phào.
Ông tự nhủ một cách khó chịu, vẻ như khó chịu với chính mình. Rồi ông cúi đầu xuống mớ tài liệu. Nhưng một linh cảm mơ hồ mách bảo rằng người đàn bà có dáng đi liêu xiêu kia liên quan tới chính ông chứ không phải với những chàng cận vệ. Lúc ấy, ông mới sực nhớ ra « giải pháp tạm thời » mà tướng Long đã nói, và tức khắc một tiếng kêu thốt lên trong trái tim ông :
- Khốn khổ, đó chính là người đàn bà mà họ đã dành cho ta.
Buông mớ tài liệu xuống, ông ngồi đờ đẫn.
Chắc chắn Hội phụ nữ không còn người nào trông ra hồn mà sống độc thân. Tất cả đều « thuyền có lái, gái có chồng ». Hoa khôi phải kể đến cô Vân, vợ Vũ. Tiếp đến là cô vợ hai của Sáu và cô Tường Vi, chuyển từ đoàn văn công trung ương về. Hai người này được đặt biệt danh là « Nhị vị thục nữ ». Sau đó kể đến « Tam nương thục nữ » cô Lan, cô Huệ, cô Nhi ; ba người đàn bà nổi tiếng khắp chiến khu vì dáng vẻ yểu điệu và tài nội trợ. Những cuộc đón tiếp khách quốc tế, những cuộc liên hoan trọng thể đều phải nhờ đến họ : Họ trưng bầy hoa lá, họ làm bánh trái và các món ăn thị thành, họ dạy các thiếu nữ khác cách trang sức và chính họ cũng là những mỹ nhân trong những bộ áo dài lộng lẫy mà mặc dù cuộc kháng chiến gian nan nhưng họ vẫn cố đem theo. Sau ba mỹ nhân này có thể kể đến vợ Thuận và các phu nhân của chính phủ. Tuy còn đang ở trên rừng nhưng đám nữ nhân này cũng khá đỏm dáng. Người ta cũng chiều chuộng họ mà chuyển một lượng khá dồi dào vải vóc, lụa là, gương lược từ vùng tạm chiếm lên đây , cùng với thứ xa xỉ phẩm dành riêng cho ông :thuốc Ca-ra-ven và thuốc Gaulois.
Về việc này, ông tuyên bố :
« Đấy là thói quen. Ở tuổi tôi, thói quen mạnh hơn người ta tưởng. »
Những người đàn bà dựa vào đấy mà vòi vĩnh :
« Dù ở trên rừng, chúng tôi cũng vẫn là phụ nữ . »
Chính ông ủng hộ bọn họ. Dăm kẻ bực mình nói sau lưng ông :
« Ông ấy đã sống với Tây hai mươi năm, thích uống rượu Tây nên cũng nịnh đầm ...như Tây vậy. »
Vào những buổi liên hoan, ông thấy những người đàn bà kín đáo xịt nước hoa lên cổ áo hay lên những chiếc nơ sa-tanh gài trên tóc. Mùi thơm cũng như nụ cười của họ khiến rừng núi bớt âm u.
Bấy giờ, ông cố điểm lại những người đàn bà từng nhìn thấy, không ai có dáng đi xiêu vẹo kia, cũng chẳng ai tên là Thu...Rõ ràng là tất thẩy đám đàn bà nhan sắc đều đã thuộc phần người khác. Còn lại « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » này ắt hẳn là phần xương xẩu nhất còn sót lại trong Hội phụ nữ, là cá thể mà những người đàn ông tuy có thiếu thốn cũng đành quay mặt đi. Điều ấy chẳng còn ngờ vực.
« Dẫu sao cô ta cũng đã đến đây. »
Ông buông tiếng thở dài rồi đứng lên, sửa sang lại quần áo cho chỉnh tề. Lúc ấy, cần vụ bước vào báo cáo :
- Thưa chủ tịch, nữ đồng chí bên hội phụ nữ đã đến.
- Cảm ơn. Chú có thể nghỉ được.
Ông đáp.
Và cậu ta lỉnh đi nhanh như biến.
Đứng nhìn theo chàng trai một cách ngẩn ngơ, ông thầm hỏi :
« Ta sẽ phải nói với cô ta những gì đây, cho đúng phép ? Bởi người đàn bà này không do ta chọn. Nếu là cuộc gặp gỡ bắt buộc của định mệnh thì nó còn tồi tệ hơn nhưng gì đã trải qua với cô thợ khâu Paris. Bởi nó kèm theo một điều kiện tiên quyết khiến cho cả hai bên bắt buộc ngại ngùng : một cuộc làm tình chẳng có tình, cũng không phải sự đồng thuận giải phóng các nhu cầu thân xác mà chỉ đơn thuần là hành động cách mạng. Điều này vừa giả dối, vừa phi nhân. »
Ý nghĩ ấy khiến ông ngán ngẩm. Nhưng ông vẫn nhớ ông là chủ nhà và có một vị khách đang tới. Ông đứng dậy, bước ra đầu hồi, đón cô ta. Người đàn bà, như ông dự đoán, vừa đặt chân lên bậc thang thứ nhất cây cầu thang. Từ trên cao, ông nhìn thấy đỉnh đầu của cô ta trước hết. Một cái đầu nhỏ bé, tóc thưa thớt rẽ sang hai bên, rồi túm lại phía sau bằng chiếc cặp ba lá nhôm sáng loáng.
« Tóc cô ta thưa như tóc một bà già tám mươi tuổi. Thật khốn khổ. Ta chưa từng thấy người phụ nữ nào tóc thưa đến nỗi nhìn rõ cả mảng da đầu. Mà da đầu cô ta không trắng, nó có mầu nâu.»
Ý nghĩ ấy lướt nhanh. Ông nhớ lại thời ở Paris, ông thường gặp những bà lão rụng gần như hết tóc, phơi cái sọ đỏ hồng. Những bà già đã qua từ lâu cái tuổi còn xúc động hay ham muốn ; cũng không đủ khả năng để làm bất cứ việc gì hữu ích nên suốt ngày họ chậm rãi dạo bước trên hè phố hoặc thơ thẩn quanh công viên, quanh các bồn phun nước để ngắm cây cối hoặc cho chim ăn. Họ luôn luôn đội mũ vải hoặc mũ len, chỉ những ngày quá đỗi nóng nực, họ mới lột những tấm lá nguỵ trang xuống, và thiên hạ mới nhìn thấy cái đầu trơ trụi thảm thương của họ : Dấu vết tuổi già, bản án bất khả kháng của thời gian !
« Người đàn bà này còn trẻ, cớ sao cô ta lại rụng tóc nhanh như vậy ? Có thể do khí hậu rừng, do ăn nước suối, do cuộc sống gian lao. Nhưng những điều kiện tồi tệ ấy được phân phát chung cho tất cả. Tại sao những người đàn bà khác vẫn có quyền « phơi mớ tớc dài óng ả », nói theo giọng văn vẻ của một thi sĩ loại ba ?»
Nhưng lúc ấy vị khách đã vượt qua nấc thang cuối cùng, ngẩng đầu lên. Bắt gặp ánh mắt của ông, toàn thân cô ta đột nhiên co rúm. Từ đôi vai hẹp cho đến cặp đầu gối củ lạc đều khép lại trong cơn ngượng ngùng. Không hiểu sao, chính ông cũng ngượng ngùng khi chứng kiến sự sợ hãi không thể che giấu của người đàn bà, và cảm thấy cuộc gặp gỡ này gần như một hành vi tàn nhẫn.
- Thưa chủ tịch...
Môi cô ta lật bật mãi mới buông ra mấy lời ấp úng.
Ông vội đáp :
- Mời cô vào nhà chơi.
- Dạ...
Người đàn bà đáp trong hơi thở hổn hển. Vừa vào nhà, cô ta vội vàng gỡ chiếc túi dết trên vai mắc vào tay ghế, rồi đặt mớ chiếu và chăn vẫn cắp dưới nách xuống sàn. Ông liếc nhìn, thấy ngay một chiếc gối trắng, kẹp giữa một chiếc chăn bông đơn trấn thủ, cả hai được bó gọn trong chiếc chiếu cá nhân, quấn nhiều vòng dây dù :
« Sợi dây kia sẽ được dùng để treo màn cho chủ nhân sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ắt hẳn tổ chức đã dặn dò cô ta một cách kĩ lưỡng rằng phải mắc chiếc màn ở chái nhà phía trước, nơi được che chắn bởi những tấm mành tre rộng, thả từ áp mái xuống tận sàn. Ở đây, không có chiếc gối thứ hai, không có chiếc chăn thứ hai, không có chỗ dành cho người thứ hai. Thế nên cô ta phải ôm theo đủ thứ. Sự chuẩn bị chu đáo, gọn gàng như tiểu đội đột phá khẩu chuẩn bị bộc phá trước lúc công đồn. Tội nghiệp. »
Ông thầm nghĩ, hình dung cảnh người đàn bà ôm mớ chăn chiếu kia lội qua con suối, vượt qua hai quả đồi :
- Cô mới đi đường, hãy ngồi nghỉ đã.
Ông nói, đoạn đi pha ấm trà mới. Nước đun từ ba giờ chiều không còn đủ độ nóng nên những lá chè nổi lềnh phềnh. Ông phải lắc hồi lâu, nước mới ngả sang màu vàng nhạt :
- Mời cô uống nước. Tôi vừa nhận được đường phèn dân gửi cho.
Ông lấy chiếc bình thuỷ tinh đựng đường phèn Quảng Ngãi, đặt lên bàn :
- Cô ...cô...
- Thưa chủ tịch, em tên là Thu, Minh Thu, bởi bên hội còn có chị Bích Thu nữa.
- A... Hoá ra bên ấy còn cô Bích Thu nữa.
Ông nhắc lại một cách máy móc trong khi cố lục tìm trí nhớ xem đã từng gặp những nữ đồng chí tên Thu lần nào chưa nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy dấu vết. Trong lúc ấy, người đàn bà uống trà. Cô ta có vẻ khát thật sự sau một đoạn đường tuy không phải là quá dài song so với sức vóc cô ta hẳn đã là một cố gắng. Cổ tay cô ta vừa nhỏ vừa gầy giống cổ tay đứa bé, cần cổ cũng phơi những sợi gân dài một cách bối rối vì không thể giấu giếm dưới chiếc cổ sơ-mi cánh nhạn màu xanh lơ. Khi cô ta ngồi trước mặt ông, ông càng thấy rõ lớp tóc mỏng dán vào da đầu, để lộ ra những vệt nâu nhạt. Da cô cũng có mầu nâu, nhưng không phải thứ da bánh mật mà dân gian ca tụng « Da bánh mật, quật chết trâu ». Da cô vừa nâu vừa tái, thứ da thiếu hồng cầu.
Ông không dám nhìn cô lâu, biết cô đang run như giẽ, còn ông, con tim ông tràn ngập nỗi ngao ngán lẫn lòng trắc ẩn. Trắc ẩn cho ai ? Có lẽ sự thương hại này dành cho cả hai phía, người phụ nữ tội nghiệp kia và cho chính ông. Cuộc sống quả là trò đùa tàn nhẫn. Một lớp tuồng bất khả dò đoán. Hoặc là một tai nạn giao thông ?
Quay mặt ra phía cửa sổ, ông nhìn ánh tà dương đang chuyển sang màu tím nhạt , cất tiếng bâng quơ :
- Bên hội phụ nữ có trồng được nhiều rau không ?
- Báo cáo chủ tịch, vườn của chúng em có đủ loại : Rau cải xanh, cải cúc, bắp cải , su hào. Cà tím lẫn cà chua năm nay tốt lắm.
Người đàn bà tội nghiệp túm được câu hỏi vơ vẩn ấy như kẻ đang lạc đường tìm thấy lối ra. Cô ta đáp một cách hào hứng, lưu loát.
- Thế a ? Các cô khá thật.
- Dạ. Các chị lãnh đạo giỏi xoay sở lắm. Chúng em phải cử người xuống tận vùng ráp ranh mua hạt giống rau.
- Thế cô có xuống vùng giáp ranh lần nào không ?
- Thưa chủ tịch...
Cô ta ngước mắt nhìn ông với nỗi hoảng loạn, và tức khắc ông nhận ra sai sót không thể tha thứ của mình. Người được cử xuống vùng giáp ranh, hoặc luồn vào vùng tạm chiếm phải là những người đầy năng lực, ngoài sức khoẻ, sự tháo vát, trí thông minh còn cần đến một ngoại diện hấp dẫn. Đấy là những tiêu chuẩn bất khả đối với người đàn bà đang ngồi co ro trên chiếc ghế mộc trước mắt ông :
- A, tôi hỏi thế thôi. Tổ chức có phân công mới đi được.
- Vâng.
- Tất thảy chúng ta đều phải phục tùng mệnh lệnh của cách mạng, và sự phân công của tổ chức.
- Vâng ạ.
- Cô Thu...
Chỉ chút xíu nữa là ông buông ra một câu hỏi ngu ngốc :― Cô Thu bao nhiêu tuổi nhỉ ?..
Ấy là bởi trong đầu ông đang còn dội lên những câu hỏi thường trực đối với đám nhi đồng: ― Cháu Hồng mấy tuổi nhỉ ? Lại đây nhận kẹo rồi chia cho các bạn; hoặc là :― Cháu Thanh lên mấy nhỉ ? Nhận quà rồi có để dành cho bố mẹ hay không ?Hoặc là :― Cháu Quý năm nay lớn vọt lên đấy, lại đây múa bài con Công cho các chú các bác xem nào.
Những câu hỏi ấy đang còn đóng đinh vào óc não ông bởi chủ nhật trước, ông vừa sang phát kẹo cho lũ trẻ. Chủ tịch hắng giọng giả như một cơn ho làm tắc nghẽn câu nói :
- Cô Thu.....Cô Thu có thường xuyên nhận được tin nhà hay không ?
- Dạ. Nhà em chẳng còn ai ngoài người chị ruột. Nhưng chị ấy đã theo chồng sang đất Thái làm ăn lúc bố mẹ em chết nên không liên lạc được. Đối với em, cách mạng là gia đình.
- Tốt. Cách mạng là gia đình lớn , là mái nhà chung của tất thảy chúng ta.
Ông đáp. Tự thấy mình nhạt nhẽo. Những lời lẽ sáo mòn nhất mà đã từ lâu ông không còn dùng nữa, ngay trong những cuộc họp với đám cán bộ tuyên huấn. Chúng giống bã rau, bã đậu được nấu lại, thứ thức ăn dành riêng cho bò hay lợn. Nhưng người đàn bà lại tỏ vẻ hài lòng. Cô ta ngước nhìn ông, chớp chớp đôi mắt, chẳng rõ để làm duyên hay để biểu thị sự hoan hỉ :
― Cô ta chẳng những xấu mà còn có bộ điệu của một kẻ ngu ngốc. Chắc chắn trong đầu cô ta không có mảy may một ý tưởng nào, ngoài những gì được người khác nhồi nhét cho..
Chân tay ông bỗng rã rời :
― Ta sẽ phải ôm người đàn bà kia hay sao ? Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ phải thực hiện những hành vi tình ái với cô ta ? Điều ấy sẽ không tránh khỏi. Ta cần giải phóng cơ thể khỏi những dồn nén. Ta cần phải giữ trí óc minh mẫn vì cuộc kháng chiến còn lâu dài. Như thế, không có cách gì hơn là phải tiêu diệt những ước vọng của một người đàn ông bình thường. Phải chôn vùi thế giới cảm giác vì ta là hiện thân của tinh thần trách nhiệm. Việc của ta là cáng đáng gánh nặng giang sơn. Nếu thời xưa, đã có kẻ vì trách nhiệm với non sông phải kết hôn với Chung Vô Diệm thì giờ đây, ta cũng phải noi gương cổ nhân mà hành sự.
Nhưng khi mớ lý giáo ấy chấm dứt, tinh thần ông vẫn không mảy may suy xuyển. Ngay cả thứ mà người thường gọi là dồn nén, bình thường vẫn hiển hiện, nhưng lúc này lại biến mất tăm.
― Thật lạ lùng. Bỗng nhiên ta chẳng còn một chút xung năng tình dục. Hoàn toàn rỗng không. Hoàn toàn vô cảm.
Ông biết gã đàn ông nơi bản thể của ông vô cùng cường tráng, và nhu cầu tình dục của gã lớn hơn mức bình thường. Nhiều lần, ông nói thẳng với đám đàn em :
― Tôi chỉ là Cha già từ đỉnh đầu xuống rốn. Còn dưới rốn, tôi vẫn là Anh.
Câu nói ấy được truyền đi như một giai thoại.
Tuy nhiên....Tuy nhiên...
Đứng trước người phụ nữ này, bỗng nhiên cái phần dưới rốn của ông cũng hoá thành Cha già nốt.
Ông sửng sốt :
― Tồi tệ thật. Kim đồng hồ chỉ số sáu. Đó là điều mà chẳng ai ngờ đến. Khi ta sống một mình, nó vẫn hung hăng lồng lộn như con ngựa chiến, vậy mà giờ đây nó lại chụm bốn vó đầu hàng. Kì quái. Chẳng lẽ người đàn bà kia có khả năng tiêu diệt tình dục của bất cứ đối tượng nào trước mặt cô ta ?
Ông thầm hỏi.
Lời giải đáp đến ngay tức khắc :
―Điều ấy chẳng cần hồ nghi. Nếu không, ắt hẳn cô ta đã có chồng. Trên chiến khu, đàn ông đông gấp mười lần đàn bà. Người phụ nữ có quyền chọn bạn tình chứ chẳng phải đàn ông có quyền kén vợ. Rõ ràng là khả năng huỷ diệt ái tình của người đàn bà này rất lớn. Phải chăng đó là cái cớ mà họ chọn cô ấy cho ta ?
Bỗng nhiên, ông giận dữ. Những ý nghĩ rời rạc nện từng nhát búa lên sọ ông:
― Lũ người này tồi tệ thật,
Lý do nào cho phép chúng hành xử với ta như thế ?
Quyền năng nào khiến chúng áp đặt với ta một sự đã rồi.?
Máu dồn lên mặt khiến ông có cảm giác nóng bức. Ông vội rót một chén trà, uống từng ngụm nhỏ, để ghìm cơn giận, thói quen đã có từ lâu. Trong lúc ấy, cô Minh Thu đã uống cạn mấy chén liền, đang ngồi chờ đợi với vẻ nhẫn nhịn của một con chó chầu ngoài sân nhà chủ. Cơn giận dữ khiến ông quên phắt sự hiện diện của người đàn bà bé nhỏ, dúm dó dưới tấm sơ-mi xanh lơ. Cơn giận dữ khiến ông sải những bước dài quanh phòng, tách trà trên tay, mắt nhìn thẳng vào khoảng không gian thù nghịch. Rồi khi ông chợt nhận ra sự bất nhã của mình, ông vội vã quay lại :
- Xin lỗi cô Thu nhé. Tôi đang có nhiều việc phải nghĩ.
- Dạ....Thưa chủ tịch....
Cô ta đáp lí nhí, mặt cúi gằm.
Ông đặt chén trà xuống bàn, kéo ghế ngồi sát người đàn bà :
- Tôi xin lỗi ...Thu nhé....
Ông cố tình xưng hô một cách thân mật. Nhưng chính lúc ấy, con tim ông lại sôi lên vì một cơn cuồng nộ bất thần:
― Tại sao ta phải diễn màn tuồng thảm hại này ? Tại sao ta không nói thẳng cho cô ta biết rằng bộ máy sinh dục của ta giờ đây trở thành vô năng vì nó bị uy hiếp ? Rằng chính cô ta đã tiêu diệt mọi ham muốn nơi người đàn ông. Rằng bất cứ gã đàn ông nào cũng sẽ trở thành kẻ liệt dương hoặc tâm thần khi phải lên giường với cô ta ...
Nhưng trong lúc óc não ông sôi sục những lời rủa xả thì vẻ mặt ông lại nhu thuần như mặt kẻ ngồi thiền, và ông hạ giọng ngọt ngào :
- Tôi thật lòng xin lỗi Minh Thu. Hôm nay, người tôi khó ở. Có lẽ tôi bị sốt từ chiều qua mà chưa kịp uống thuốc.
- Dạ ...thưa....
Người đàn bà lúng búng đáp, mặt càng cúi gằm xuống. Bất chợt, những giọt nước mắt lã chã theo nhau chảy trên sống mũi cô ta. Cô Minh Thu giơ tay áo quệt. Ông vội vã đứng lên, định bụng tìm một tấm khăn tay sạch cho cô. Nhưng rủi thay, chiếc khăn tay duy nhất còn khô ông đang dùng. Những chiếc khác ngâm xà-phòng trong chậu. Ông đành đứng im lặng nhìn người đàn bà tội nghiệp mỗi lúc mỗi nức nở một cách hờn tủi. Vì chẳng mang theo khăn tay, cô cúi xuống, lôi trong túi dết ra một chiếc áo lót, chắc hẳn là áo ngủ, để lau mũi.
― Ta chưa từng gặp người đàn bà nào vô duyên đến thế.
Ông thầm nghĩ, khi nhìn những giọt nước mắt lăn dọc theo sống mũi cô Thu. Một cái mũi nhỏ, đã hớt lại vẹo đầu. Sự lệch lạc của số phận. Đối với người phương Đông tin vào nhân tướng học, cái mũi vừa tượng trưng cho sự nghiệp vừa tượng trưng cho kẻ hôn thú. Người đàn ông nào có cái mũi lệch vẹo ắt hẳn phải lấy thứ đàn bà đần độn, xấu xí hoặc nếu có vài phần nhan sắc thì chỉ là cô đầu, con hát hay gái chuộc từ lầu xanh. Người đàn bà nào có cái mũi lệch vẹo sẽ chẳng thể kiếm được tấm chồng, hoặc nếu có, ắt chẳng phải đấng lang quân tử tế :
― Chắc chắn ta không thể là đấng lang quân tử tế của cô Minh Thu được. Chẳng có đức ông chồng tử tế nào có thể nhìn vợ như nhìn một chiếc bắp cải bầy trong gian hàng thực phẩm như ta lúc này. Những bức tranh tĩnh vật còn khiến ta muôn phần cảm động hơn.
Thời trước, mỗi khi bước chân vào bảo tàng Louvre, ông cảm thấy một mối xúc động lạ lùng khi đứng trước những bức tranh, cho dù ông chẳng được học hội hoạ.
― Nhưng người đàn bà này....quả tình là nỗi bất hạnh, cho chính cô ta và cho ai sẽ phải lên giường với cô ta. Những người khác, có thể lỗ mãng, hung bạo. Có thể ngang ngược, cương cường. Có thể nhu thuận, hiền dịu. Nhưng họ đều toát ra mùi của đàn bà, họ gợi cho người đàn ông niềm hứng khởi. Nếu chẳng phải những đam mê cháy bỏng thì cũng là mối cảm tình nồng ấm. Lỗ mãng như cô thợ khâu mũ, cũng có những dáng nét để người ta xếp cô ta vào phái nữ.
Ông ngẫm nghĩ.
Cô thợ khâu mũ có mớ tóc dầy như bờm ngựa, màu vàng rơm. Khi cô ta thả tóc, tấm lưng được che kín bởi một thác vàng óng ánh. Ông đã từng vuốt ve mớ tóc ấy, tò mò ngắm những sợi tóc loăn xoăn mảnh hơn cả tơ tằm. Một lần, sau cuộc làm tình ông trở về gian gác xép, bất ngờ tìm thấy trong vạt áo mấy sợi tóc của cô. Táy máy, ông thử lấy một sợi buộc vào chiếc đồng hồ quả quýt, rồi đung đưa như đung đưa con lắc, hoàn toàn không ngờ rằng sợi tóc mảnh mai ấy lại có thể treo được một vật nặng hơn nó cả ngàn lần.
Rồi một gương mặt khác, một gương mặt kiêu ngạo với đôi mày xếch quay về. Con tim ông bật lên tiếng chào thầm kín:
― A, chào em...cố nhân.
― A...đó là nàng, người đồng chí!
Người đàn bà đưa mắt nhìn ông đầy hăm doạ, rồi đột ngột cô ta phá lên cười.
Ông mỉm cười theo, vì những cử chỉ ấy đích thực là của cô, người đã từng khiến con tim ông điên đảo, dẫu sự điên rồ ấy cũng chỉ là một cơn sốt chóng qua :
― Chào em, người thân mến, đồng chí thân mến.
Bởi cô đích thị là đồng chí, theo đúng ý nghĩa danh từ chỉ những ai cùng bước chung trên một con đường, theo đuổi chung một mục đích. Gương mặt vuông, tia nhìn vừa quyết liệt vừa thách thức, lời lẽ nảy lửa, thói quyết đoán gần như bạo chúa, tất thảy những nét nổi bật trong tính cách cô, mẫu người tiêu biểu của cách mạng. Cách mạng gầm thét trên hành tinh này bởi có những con người như cô. Những cá thể vừa sáng suốt vừa mù loà, bởi tất thảy sự hăng hái, cuồng nhiệt của họ bị dẫn dắt bởi cảm hứng chiến thắng, cảm hứng chủ đạo của các kiếm sĩ thời xưa khi dấn thân nơi trận mạc. Cảm hứng chiến thắng này là thứ ma lực đưa dẫn họ suốt cuộc hành trình, và họ dấn thân trên mọi nẻo đường tranh đấu, đinh ninh rằng cuộc dấn thân của họ là vì một mục đích chung, nhưng thực chất họ chỉ đi tìm cơ hội làm dịu bầu máu sôi sục của tuổi trẻ, để thoả mãn cơn khát quyền lực, cho dù họ vẫn mượn những mục đích chung để biện minh cho hành động của mình.
― Thôi, không bàn cãi nữa, tôi cho rằng đã đến lúc quyết định.
― Thôi, không lý lẽ dài dòng. Cách mạng đang chờ chúng ta. Giờ là lúc lên đường!
Ông nhớ cách nói nhát gừng của cô, thường là lời cuối cùng của cuộc họp vì những người đàn ông không muốn tranh cãi khi hai má cô đã đỏ rực lên và đôi mắt long lanh giận dữ.
Trong cuộc sống chung ngắn ngủi của họ, cô cũng thường cắt ngang lời ông khi bực tức, với thái độ độc đoán hệt như vậy. Ông nhớ cách cô vung tay lên để biểu thị quyền uy tối thượng của mình, cách cô chồm đến hôn ông thay một lời xin lỗi khi nhận ra mình sai. Và cách cô làm tình. Bao giờ cô cũng là người đi trước, và cô thường cưỡi lên ông với vẻ khoan khoái của một kị sĩ lành nghề trên lưng con tuấn mã trung thành .
― Ồ, ngay cả với cô ấy nữa, ta cũng tìm thấy những nét đáng yêu. Khi cô ấy bực tức mím môi lại, nốt má lúm đồng tiền hiện lên khiến cho những lời lẽ áp đặt kia hoá thành trẻ thơ và ta không thể phản kháng. Sau khi tuyên bố những lời lẽ quá khích hay bày đặt ra những chương trình bạo động, cô ấy biết cách rút lại các ý kiến sống sượng của mình bằng cách phá lên cười. Nụ cười thành thực ấy vừa như tự riễu cợt mình vừa như để xin lỗi người khác và sau rốt, xí xoá đi mọi chuyện.
Trong lúc ông chìm đắm với những hồi ức, cô Minh Thu đã nén được cơn nức nở. Cô ngồi thẳng lưng lên, môi mím chặt. Gương mặt cô không còn thảng thốt hay sợ hãi mà trở nên lầm lì. Bàn tay cô vẫn giữ khư khư chiếc áo lót, đã bị vo viên thành một nắm và chắc chắn ướt đầm nước mắt. Không nhìn ông, cô nhìn thẳng vào bức tường đối diện được dựng thuần bằng gỗ.
Lúc đó, bóng tối bắt đầu tràn ngập. Chủ tịch chợt sực tỉnh, lên tiếng:
- Cô Minh Thu đã bình tâm chưa ?
- Thưa chủ tịch, tôi đã bình tâm.
- Tốt lắm. Chờ tôi thắp đèn. Như thế, chúng ta sẽ thoải mái hơn.
- Vâng.
Ông hơi ngạc nhiên vì giọng nói của cô thay đổi. Nó có vẻ rắn rỏi, dứt khoát thậm chí bất cần đời. Ông thắp một lúc hai ngọn đèn, đặt lên bàn :
- Cô Minh Thu đã muốn đi ngủ chưa ?..
- Thưa chủ tịch, giờ ngủ của tôi là tám rưỡi.
- Tốt lắm. Tôi có thể tìm ra thứ gì đó để đãi khách bây giờ. Ít ra, tối nay cũng là tối thứ bẩy.
Ông đi tìm thứ gì đó khả dĩ đãi khách, nhưng trong tủ của ông chẳng có gì hơn ngoài thuốc lá, và hộp sữa Con chim.
Trong khi ông đi đục hộp sữa, cô Minh Thu đã ra đầu hồi lấy thêm củi chất vào bếp lửa. Lúc nhìn thấy người đàn bà ôm mớ củi quay vào, lòng ông chợt nhen lên một mối động tâm. Một thứ tình cảm phức tạp và mơ hồ tràn ngập tâm hồn ông. Có lẽ đó là sự thương cảm, nỗi buồn, niềm hoài nhớ những hạt mầm hạnh phúc vừa nẩy nở đã nhanh chóng chết thiêu chết rụi trong một cuộc sống lênh đênh , đầy biến động và gian khổ. Cũng có thể đó là sự thấu hiểu cõi người, sự thông cảm trước tha nhân, kẻ cũng bị kết án chung thân bất hạnh như ông, dẫu rằng nguyên cớ khác nhau.
Hoặc có lẽ ....bởi sương đêm bắt đầu toả vào không gian hơi lạnh. Cảm thức về nỗi mịt mù của trời đất đã khơi dậy những mù mịt trong cõi tâm linh ? Có lẽ, và có lẽ...
Ông không còn biết nữa, nhưng khi người đàn bà khom lưng xuống chất củi vào bếp, đoạn vươn cần cổ gầy gò ra thổi lửa khiến những đốm than hồng bay tứ tung, ông bỗng thấy thương cô ta như thương một kiếp đoạ đầy. Ông đưa cốc sữa cho cô Minh Thu và nói :
- Cô uống sữa đi. Rồi tôi đưa đèn cho mắc màn. Hy vọng rằng lần sau, tôi hết sốt, tình hình sẽ khá hơn.
Lần sau, ấy là thứ bẩy tuần sau.
Ông trở về sau một quãng đường dài khảo sát địa hình chiến dịch. Quần áo ông lấm lem bụi đường. Mồ hôi đọng khiến da râm ran ngứa ngáy. Lần ấy nữa, ông cũng quên rằng đây là ngày thứ bẩy, cái mốc thời gian quy định để có một người đàn bà đến phục vụ ông dưới danh nghĩa phục vụ cách mạng. Thành ra, khi đặt chân lên cầu thang bập bùng ánh lửa, ông thốt lên tiếng hỏi :
- Cậu nào trên ấy đấy ?..Sao đốt lửa sớm làm vậy ?
Không ai trả lời.
Cậu cần vụ ghé tai ông, thì thầm :
- Có lẽ đó là người bên hội phụ nữ.
- A...
Ông sực nhớ . Cậu cần vụ hỏi luôn :
- Con có cần ở lại chuẩn bị nước tắm không ạ ?
- Có chứ.
Ông đáp thẳng thừng vì cậu ta vẫn chuẩn bị nước nóng cho ông tắm từ lâu nay. Chiếc nồi đun nước khá to, bằng đồng nặng chịch, và thùng gỗ chứa nước cũng rất lớn, tay trai tráng mới có thể vần đi vần lại. Sau hai ngày đi đường, được tắm sạch sẽ, được thay đồ mới đối với ông là hạnh phúc. Một hạnh phúc bé nhỏ, song le vẫn là hạnh phúc.
Khi họ vào nhà, cô Minh Thu đã ngồi bên bếp, hí hoáy đan. Cái tư thế tuyệt đối cổ điển của một người vợ chờ chồng. Ông cảm thấy vừa hẫng hụt, vừa khó chịu nhưng vẫn phải tươi cười đáp lại lời chào của người đàn bà. Cậu cần vụ săm sắm bước vào gian nhà tắm, đoạn quay ra :
- Thưa chủ tịch, đã có nước nóng trong đó. Bây giờ, con chỉ lo chuẩn bị quần áo cho người là xong.
- Cảm ơn.
Ông quay lại hỏi người đàn bà :
- Chiếc thùng cao thế, làm sao cô vần nổi ?
- Dạ, em làm được.
- Cảm ơn...Nhưng lần sau cứ để cho cần vụ làm. Cậu ấy còn đang tuổi bẻ gẫy sừng trâu.
- Thưa vâng.
Ông bước vào phòng tắm, trút bộ quần áo đầy bụi lẫn mồ hôi, bất giác buông tiếng thở dài. Ngoài kia, cậu lính trẻ đã rút lui, tiếng chân bước trên cầu thang vọng lại. Khi cậu ta đã đi xa, chỉ còn lại là tiếng lửa reo, tiếng nhựa gỗ sôi bọt xèo xèo và tiếng than nổ lép bép. Trong cái không gian quen thuộc của ông, lâu nay chỉ mình ông ngự trị giờ có một người đàn bà xa lạ đang ngồi gẩy từng mũi len. Điệu bộ lóng ngóng kia chứng tỏ cô ta chưa bao giờ cầm kim đan, và đây là bài học vỡ lòng nữ công của mấy chị lãnh đạo. Họ dàn cảnh. Đạo diễn nghiệp dư và diễn viên đặc biệt tồi. Ông thấy tội nghiệp cho họ, cho cô Minh Thu, cho chính ông.
― C’ est la vie. Toujour meme comédie !
Gáo nước đầu tiên bất cẩn dội vào mắt khiến mắt ông cay xè. Ông vội lau mắt bằng chiếc khăn khô, tự nguyền rủa mình lơ đễnh. Rồi chờ cho cơn đau dịu đi, ông mới tiếp tục tắm, vừa tắm vừa nhớ lại lời hứa với người đàn bà. Có vẻ như tình hình không sáng sủa hơn. Nhất là sau một chặng đường dài mệt nhọc :
« Gay go thật. Số phận không mỉm cười với cô ta. Người đàn bà này sinh ra vào giờ nào mà xúi quẩy đến như vậy ? »
Ông thầm nghĩ. Và một nỗi sợ hãi thực sự khiến ông hốt hoảng :
« Nhưng ta không thể đẩy cô ta vào sự tủi nhục đến hai lần. Dẫu sao cô ta cũng là một con người, một người đàn bà. Sự nhục nhã có thể buộc con người tìm đến cái chết ... »
Thời trẻ, ông đọc không ít những chuyện hậu cung. Ông thuộc không ít những cái chết bởi chén vàng đựng thuốc độc, bởi đoản đao cắt họng, hay lụa trắng treo thây lơ lửng trên lầu. Từ hoàng hậu, phi tần , tới cung phi, nữ bộc...biết bao người đàn bà đã tìm cái chết để rửa mối nhục thất tình ...Mà đa phần họ đều là những mỹ nhân. Cô Minh Thu chẳng phải là mỹ nhân, đã đành, nhưng lại nhận sứ mạng « phục vụ cách mạng ». Mặc cảm ắt sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Chẳng cần giầu trí tưởng tượng cũng biết rằng sau buổi tối thứ bẩy tuần trước, cô đã phải thú nhận với cấp lãnh đạo : « Báo cáo, tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. ». Các bậc liền chị đã họp bàn, tìm biện pháp giúp đỡ đàn em suốt một tuần lễ. May mắn cho họ là ông đi khảo sát địa hình chuẩn bị chiến dịch nên họ có cơ dàn cảnh : « Nàng chuẩn bị nước thơm cho chàng tắm và ngồi đan bên bếp lửa... ».
Thật tội nghiệp cho kiếp người !
Nhưng cho dù than thở cho ông hay cho cô ta, ông vẫn không quên rằng lát nữa, ông sẽ phải « động phòng », theo lối nói cổ. Mà cái phần dưới rốn của ông vẫn chưa chịu ngẩng đầu lên. Nỗi lo thất bại chen lẫn nỗi lo sợ trước những phản ứng có thể xảy ra đối với kẻ bị làm nhục khiến ông mất bình tĩnh. Nhưng chính lúc ấy, những thao tác của sự kì cọ đem lại cho ông giải pháp xưa cũ nhưng luôn luôn hiệu nghiệm. Ông tự ve vuốt mình. Trong bóng tối, chỉ có ông với ông thôi. Những động tác quen thuộc giúp cho ông trở nên cân bằng và bình tĩnh. Ông mường tượng lại người đàn bà dâm dục nhất ông từng gặp trong đời, cô nàng mắt xếch. Ông mường tượng cảnh cô cưỡi trên bụng ông, da thịt cô, hơi thở của cô , mái tóc đen óng như than xoã trên vầng trán, lấp lánh dưới ánh đèn..
Và tuổi trẻ của ông quay trở lại...
*
Tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi khiến ông giật mình, bừng tỉnh cơn suy tưởng. Ông định đứng lên nhưng cậu cần vụ đã chạy vụt vào phòng, nhấc máy :
- Thưa chủ tịch, thủ trưởng Vũ.
- Cảm ơn, cậu để đó cho tôi.
Ông cầm ống nói áp lên tai, nghe hơi thở khúc khắc ở bên kia đầu dây :
- Chú làm sao vậy ? Viêm phế quản à ?
- Không, em vừa bị cảm chiều qua.
- Cẩn thận. Dẫu chú trẻ hơn tôi nhiều, nhưng cũng đã qua tuổi tráng niên. Chớ đùa với Tạo hoá.
- Em biết. Anh Cả có khoẻ không ?
- Bình thường. Sau khi chú về, tôi cho người mang thêm ít tiền phúng gia đình tiều phu. Họ chuẩn bị phong bì quá sơ sài.
Ông nghe tiếng cười của Vũ bên kia đầu dây, rồi tiếng đáp :
- Chúng ta luôn luôn quên những tiểu tiết. Chúng ta luôn luôn lơ đãng trước những con tính cụ thể. Nhưng chính các thứ tiểu tiết, và những bài tính tầm thường kiến tạo nên đời sống.
- Nhất trí. Dạo này chú có khuynh hướng trở thành triết gia của chủ nghĩa thực nghiệm. Liệu chú có tính chuyển sang ban tuyên huấn hay không ?
- Ấy chớ.
Ông nghe Vũ cười phá lên với vẻ riễu cợt quen thuộc :
- Ấy chớ, xin anh Cả tha cho em.
Ông cũng cười, và tức khắc chuyển đề tài :
- Hà nội thế nào ?
- Ngày mai sẽ có gió mùa đông bắc. Anh đừng quên trời sẽ còn rét khá lâu.
- Tôi không quên : Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba là rét nàng Bân.
- Vâng. Chính thế nên em phải gọi điện cho anh. Gió bấc về, trên ấy sẽ rét trước. Anh chớ đi dạo trong rừng, bất thần mưa ập xuống dễ bị cảm hàn.
- Tôi sẽ nhớ.
- Em phải đi ngay bây giờ. Họ vừa báo có cuộc họp đột xuất trong văn phòng trung ương, kèm theo bữa ăn tối...Chắc ăn xong sẽ họp luôn...
Anh Cả nhớ giữ gìn.
- Chú cũng vậy. Cho tôi gửi lời thăm cô Vân. Chú thật may mắn có được cô ấy, vừa đẹp người vừa đẹp nết.
- Ô....cảm ơn anh.
Vũ đáp với giọng chế riễu ông chưa từng biết đến và nhắc lại bên kia đầu dây nói :
« Anh Cả gửi lời khen ngợi em, bậc kì nữ đẹp cả người lẫn nết. »
Rồi tức khắc, người đàn em quay lại nói với ông :
- Em đi đây.
Ông nghe tiếng dập máy khá lạ lùng bên kia đầu dây. Một mối ngờ vực lướt qua. Nhưng ông không thể giải đoán. 


Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (2)
Hà nội trở rét. Gió mùa đông bắc lại về.
Những hàng cây thẫm lại trong giá buốt và mặt hồ Tây xao xác muôn triệu lằn sóng. Rặng bằng lăng ven hồ tím màu tím cô liêu. Người đi đường hối hả bước thật nhanh qua đường Cổ Ngư, vì ngại những cơn gió mênh mông tung hoành trên mặt nước. Nhưng ngay lúc đó, những cặp tình nhân vẫn ngồi tình tự ven hồ, mặt quay về hướng gió.
Vũ đưa mắt liếc nhìn họ và thầm nghĩ :
« Nào ai biết những kẻ đắm say kia sẽ sống được bao lâu cơn mơ tình ái ? Nào ai biết năm nào, tháng nào, ngày nào họ sẽ phải khóc hối tiếc vì cơn say đắm hôm nay ? »
Những cặp trai gái co ro ôm nhau trong những tấm áo mưa trong suốt, một thứ thành trì quá mong manh để chống lại gió lạnh tháng hai. Đi hết đường Cổ Ngư, ông tìm một quán nước chè chén, loại quán nước bình dân « một thứ tư thương » cỏn con thảm hại được phép hành nghề trong nền kinh tế triệt để nhà nước hoá. Quán chè này được che chắn bởi những tấm pan-nô cũ nát, dán chằng chịt nhật báo cũ. Nồi hãm chè xanh được ủ trong chiếc dành lớn, lót rơm. Chén sành sứt mẻ, cáu đen cắn chè, đặt lộn xộn trên một chiếc khay lớn, cũng bẩn thỉu không kém. Nhưng dường như hình dạng cùng khốn và bần tiện lại thích ứng với cái xã hội ông đang sống. Bởi nó không gợi nên sự ghen tuông. Bởi nó chỉ có thể gợi nên sự thương hại hoặc ghê tởm. Những thứ được coi là bệnh hoạn hay đáng sỉ nhục trong một xã hội phồn vinh lại tương thích với xã hội này. Đã từ lâu, những ngờ vực đó day dứt ông.
- Dựa xe vào cột đèn và khoá lại. Cẩn trọng là mẹ thành công.
Một giọng sỗ sàng, đầy trịch thượng vang lên. Hoá ra ông lão bán chè chén đã nhìn thấy vị khách lạ nên cất tiếng chỉ dẫn :
- Bác không nhìn thấy chiếc cột đèn kia hay sao ? Để xe ở đấy tôi mới trông được.
Vũ ngẩng lên nhìn quanh quất một hồi mới nhận ra cây cột đèn đứng bên kia đường, nhưng bị che chắn bởi một chiếc xe bò, chất đầy rau muống, bó nào bó nấy dài thượt. Ông dắt xe sang bên kia hè, dựa sát vào xe rau muống, rồi cẩn thận khoá lại.
Ông lão bán hàng chăm chú theo rõi mọi cử chỉ của ông, với vẻ tò mò không đậy điệm. Rồi chờ khi ông bước vào quán, ngồi yên vị trên chiếc ghế dài , tựa vào tấm pan-nô tránh gió, ông lão mới cất tiếng hỏi :
- Bác uống gì, chè xanh hay chè mạn. Hoặc muốn làm ly rượu trắng, tôi cũng có.
Vũ ngạc nhiên :
- Quán nước chè cũng bán rượu ?
- Sao không ?
Ông lão hỏi lại với vẻ thách thức chen riễu cợt :
- Ông tưởng người ta chỉ cần chè mà không cần rượu ? Ông tưởng hễ nhà nước cấm cái gì là người ta phải triệt tiêu thứ ấy hay sao ?
- Tôi không nghĩ đơn giản thế. Nhưng ...
Ông lão cất tiếng cười khà khà :
- Nhưng tôi thấy bác có vẻ tử tế nên mới nói vậy. Nếu là kẻ khác, ắt tôi sẽ uốn lưỡi theo chiều khác.
Vũ cũng bật cười theo :
- Cảm ơn. Bác thấy tôi có vẻ tử tế thật sao ? Nhưng như thế nào gọi là tử tế ?
- Người tử tế có nghĩa là họ không thuộc phường đểu cáng, họ không thể làm những hành vi phản trắc hèn hạ...Ví như những kẻ đến đây lạy lục, xin xỏ tôi bán rượu cho uống. Uống xong rồi, chưa kịp đái chúng đã đi báo công an.
- Rồi sao ?
- Rồi sao ?
Ông lão lặp lại với nụ cười khẩy, đầy vẻ khinh miệt:
- Nhưng công an cũng thế thôi. Khối thằng quen uống rượu. Giá rét thế này tợp một ngụm rượu còn ấm bụng hơn húp bát cháo mậu dịch loãng như nước ốc. Thế nên có vờ vĩnh tịch thu bình rượu của tôi thì ba ngày sau cũng phải trả lại. Có điều khi họ trả thì chỉ còn lại vỏ bình. Tôi tiếp tục gọi người dưới quê đem rượu lên. Mọi sự lại như thường.
Nói tới đó, ông lão cúi xuống lôi từ dưới gầm chõng ra một chiếc thúng phủ kín bao tải. Lật chiếc bao tải lên, ông chỉ cho Vũ chiếc bình đựng rượu cổ lớn, men xanh ngọc :
- Ông đã nhìn thấy chưa ? Nếp cái hoa vàng loại thượng đẳng nhé.
- Cái bình đẹp thật.
Vũ trầm trồ :
- Bình đẹp thế này chắc rượu ngon. Tôi phải xin một chén cho ấm dạ.
- A ha....
Ông lão cất tiếng cười hào sảng khiến chòm râu rung lên bần bật :
- Bình đẹp chưa chắc rượu đã ngon, cũng giống như tốt nước sơn chưa hẳn là gỗ tốt. Nhưng rượu nhà tôi thì chắc chắn phải ngon.
Nói đoạn, ông cúi xuống, mở chiếc hộp gỗ lớn quai đồng, lấy ra chiếc chén sứ sạch bóng, và rót một chén rượu đầy đưa cho Vũ :
- Nếm đi. Rồi sẽ biết thế nào là rượu !
Vũ cầm chén rượu, bâng khuâng. Chiếc chén sứ men lam vẽ phượng, miệng bịt đồng này chính là loại chén xưa kia cha ông thường uống rượu. Chiều chiều, sau khi chăm sóc vườn cây, cha ông đặt chiếc khay đồng nhỏ lên sập. Trên khay, một bộ độc tửu, gồm một chén, một bình rượu nhỏ xíu và một đĩa đồ nhắm. Cụ ngồi ngắm trời đất, nhâm nhi trong lúc chờ bữa cơm tối với gia đình.
- Nào, nhắp thử xem tôi nói thật hay nói bỡn!
Ông già chủ quán giục. Vũ đưa chén rượu lên môi. Mùi thơm của nếp cái thấm đượm vào khứu giác trước khi ông đụng lưỡi vào chất nước của thần Lưu Linh. Mùi thơm ấy gọi đến hương thơm ngày mùa, thứ hương thôn dã nồng nàn của cánh đồng thơ ấu, nơi những lượn sóng vàng tràn phủ lên mặt đất, vây quanh những khuôn làng xanh thẫm luỹ tre, nuốt chửng những dòng mương lăn tăn ánh bạc và ca hát rì rào trong gió. Những cơn gió ngày mùa, ngay chúng cũng tẩm đượm hương thơm. Ông uống một ngụm rượu và cất lời khen:
- Tuyệt vời, tôi chưa từng uống loại rượu nào ngon như thế.
Ông lão hỉ hả :
- Tôi biết ngay mà, chưa một ai dám chê thứ rượu này. Chính người làng tôi nấu đấy. Nhưng cả làng cũng chỉ riêng gia đình cụ cử Khái là đạt đến mức sành điệu thôi.
- Ngon thật.
- Bao nhiêu đợt càn đi, quét lại. Hết du kích đến công an bủa vây tịch thu đồ nghề ném xuống sông. Một nửa làng sạt nghiệp. Nhưng số còn lại vẫn sống, sống chui sống lủi nhưng vẫn sống. Thiên hạ còn kẻ muốn uống rượu, người nấu rượu ắt còn.
- Cụ nói thế mà không sợ hay sao ?
- Tôi đã bảo tôi thấy bác là người tử tế tôi mới nói thật. Còn kẻ khác ắt tôi đổi chiều lưỡi. Cũng như thứ rượu này.
Nói tới đấy, ông cụ lại lôi ra một chiếc thúng khác chỉ cho Vũ xem : Bên trong đó là một thùng nhựa cũ được rửa sạch và đựng rượu.
Vũ sửng sốt kêu :
- Chết nỗi, sao cụ lại đựng rượu bằng thứ thùng nhựa này, như thế độc lắm ?
- Người nào của nấy. Với bác tôi mời rượu thượng hạng, uống bằng chén phượng xanh. Với kẻ khác tôi chỉ bán thứ rượu này và uống trong chén mẻ. Cổ nhân dạy ― Người ba đấng, của ba loài.
- Nhưng ...
- Xưa kia khác, thời nay phải khác. Bác không nhận ra rằng cuộc thế đã lật nhào hay sao ? Tôi trưng bày bình đẹp, chén đẹp ra để lũ khốn nạn tố cáo rằng tôi là thành phần nghi vấn, là phần tử chống đối cách mạng à ?
- Vâng, giờ thì tôi hiểu...
Vũ chậm rãi đáp, và một nỗi đau từ từ ngấm vào tâm hồn ông cùng chất rượu :
― Nếu uống chén phượng xanh mà trở thành kẻ bị nghi vấn thì chính cha ta cũng thuộc về những phần tử nghi vấn hay chống đối. May mà ông cụ đã mất trước ngày bị cùm trói bởi cái cuộc cách mạng mà chính đứa con yêu đã dấn thân vào.
Ông uống ngụm rượu cuối cùng, đưa trả chiếc chén cho ông lão. Ông cụ tức khắc cất nó vào chiếc hộp gỗ, bởi lúc đó một người khách mới bước vào.
- Rét quá, bố già ...cho chén rượu.
Người khách xoa tay, nói. Anh ta đứng chứ không ngồi, chiếc mũ đại cán vẫn chụp trên đầu, bộ dạng như kẻ chạy thợ thuê cho công trường hay nhà máy. Chẳng những anh ta xoa hai tay vào nhau lia lịa mà đôi cẳng chân anh ta cũng rung rung liên hồi khiến tấm thân lắc lư một cách kì cục.
Không ngẩng đầu lên, chủ quán đáp :
- Ờ, rét thật.
Vẻ như nhắc lại một điệp khúc. Đoạn ông cụ rút thùng nhựa, rót rượu vào chiếc chén cũ trong đám chén sứt mẻ, đen xì cắn chè.
Khách tợp một hơi cạn, đoạn chìa chiếc chén ra :
- Chưa mùi mẽ gì, cho tôi chén nữa.
- Ồ, rét tháng hai mà rét gớm rét ghê...
Ông lão đế theo và rót chén rượu thứ hai.
Vũ lẳng lặng nhìn họ, và lẳng lặng theo đuổi những suy tư của ông :
― Chúng ta làm cách mạng để giải phóng con người, nhưng rút cuộc cả xã hội chỉ còn là một tấn tuồng thảm hại, trong đó người lương thiện và trung thực chẳng còn đất sống...Kẻ tồn tại được ắt phải gian manh, phản trắc. Hoặc ít nhất, người dân thấp cổ bé họng như ông lão này, phải coi lối sống hai mặt như một thứ áo giáp tuỳ thân. Thời ta còn thiếu niên, con người không xấu xa dường này. Chính xã hội mới đẩy họ xuống dốc.
- Thôi, chào bố già nhé. Mai con ghé qua trả tiền.
Người khách nói to, đoạn đặt chiếc chén rỗng xuống chõng, đi ra.
Vũ chờ cho anh ta đi xa, lên tiếng :
- Khách của cụ toàn uống rượu chịu như thế hay sao ?
- Không phải chịu, mà là quỵt. Nó nói vậy nhưng chẳng bao giờ trả một xu.
- Tại sao vậy ?
- Ồ, rõ ra bác chẳng phải người hay lê la ở quán xá. Vừa thoạt nhìn thấy bác tôi đã đoán rồi. Thằng ấy thời Tây gọi là anh-đi-ca-tơ. Mình không thí cho nó vài chén, nó lại kiếm chuyện bẩm báo với mấy lão ở đồn công an, rách việc.
- Ồ... Vũ buột tiếng kêu. Ông lão đắc ý gặng hỏi :
- Tôi đã bảo bác chẳng phải người quen lê la quán xá. Điều ấy đúng hay không ?
- Cụ đoán chính xác. Tôi vốn chẳng nhiều thời giờ để rong chơi. Hôm nay đau đầu quá nên mới tìm lối đi giải khuây.
- Thế đấy! Đời mà. Ai chẳng có những chuyện đau đầu, đứt ruột.
Ông lão hạ giọng an ủi, và một vài giây sau,chừng như muốn bộc lộ sự cảm thông một cách hiệu nghiệm hơn, ông nói tiếp :
- Bác có nhắp thêm một chén nữa không ? Lần này, tôi đãi.
- Cảm ơn cụ, tôi vốn không phải người mạnh rượu, dù rượu ở đây là tuyệt hảo.
Vũ đáp.
Ngay lúc ấy, ông thấy vợ dắt xe lên hè. Từ xa, ông đã thấy bà xanh xao, và vì trời rét, bà choàng một chiếc khăn len lớn màu lam khiến gương mặt bà càng thêm rầu rĩ. Vũ đứng lên:
- Trời rét thế này, em ra đường làm gì ?
Bà ngước nhìn ông lặng lẽ và trách móc.
Ông lão chủ quán, dường như đoán trước tình cảnh của họ, liền nói :
- Bác gái đưa xe cho bác trai dắt sang bên kia hè. Để ở đấy, tôi bảo đảm không trộm cắp nào dòm ngó nổi.
- Cảm ơn cụ.
Vân trả lời và đưa xe cho chồng. Rồi bà ngồi vào quán, rùng mình liên tục bởi gió lạnh. Chủ quán vồn vã mời :
- Bác dùng một chén vối hãm gừng cho ấm bụng.
- Cảm ơn cụ. Ở đây còn có cả nước vối hãm gừng ?
- Có đủ. Bởi tôi nhiều khách quen. Các bà ấy chỉ chuộng nước vối hãm gừng thôi.
Nói đoạn, ông cụ lại cúi xuống chõng, kéo ra một chiếc hộp khác, trong đó đựng những chiếc chén gốm nâu sậm, điểm hoa văn màu vàng ốc. Lúc ấy , Vũ đã quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy cụ chủ này giống một nhà ảo thuật với đủ loại thùng, hộp giấu dưới gầm chiếc chõng tre. Ông cười :
- Cụ còn có bao nhiêu thứ hộp nữa để đựng các loại chén khác nhau ?
- Tôi đã nói với bác rồi : Quý nhân phải xứng với quý vật. Người đẹp thế kia ai nỡ bán nước trong chén sành ?
- Ồ, cụ quả thật là người lịch lãm.
- Ông quá lời khen. Tôi chỉ là kẻ chân đất, được đẻ vãi trên đê Yên phụ. Cha mẹ tôi không giầu, nhưng cũng đủ tiền cho tôi học qua xép-ti-phi-ca. Song le người ta đã bảo. Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng an.
Ông cụ cao giọng gần như ngâm nga, gương mặt đầy kiêu hãnh. Vân cất lời :
- Chắc thời trẻ bác phải là người đa tài lắm.
- Ồ, không dám. Bác quá khen. Nhưng quả tình là thời tráng niên tôi cũng chẳng đến nỗi nào....Pas mal.
Ông cụ lại nói tiếng Pháp khiến cho cả hai vợ chồng Vũ kinh ngạc. Vũ mỉm cười :
- Cụ vẫn nhớ được tiếng Pháp ? Thật kì lạ, những người cùng thời với cụ có bao nhiêu chữ nghĩa đều đã giả thầy.
- Già nửa thế kỉ rồi còn gì, óc đã cùn, lưỡi đã nhụt...Nhưng vẫn còn vài chữ lõm bõm sót trong đầu. Giống như mầm rau muống ruộng tháng giêng...Chả vì họ vẫn đe doạ tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù, nên tôi chơi ngông, thi thoảng nói dăm ba tiếng, xem họ làm gì tôi ?
- Cụ không sợ người ta mách lẻo hay sao ?
- Mách lẻo mấy bình rượu thì tôi còn phiền chứ mách lẻo mấy cái tiếng Tây giả cầy này thì tôi chẳng coi ra gì. Tôi đâu phải quan chức nhà nước mà sợ liên luỵ. Đã là thằng đít đen ngồi bán nước ở vỉa hè, hạng lê dân xếp ở tận cùng đáy vực rồi, còn chỗ nào thấp hơn mà lo rơi xuống ?
Ngừng lời, ông cụ lại mỉm cười, nụ cười dân ven đô.
Rồi cả ba người bất đều im lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ của riêng mình.
Lúc đó, một người đàn bà rất trẻ nhưng đã to béo, da đỏ au au bước vào. Chị ta đon đả cất tiếng chào mọi người rồi quay lại hỏi chủ quán :
- Ông lão dọn hàng đều như vắt chanh. Trời rét thế này sao không quấn chăn mà ngủ cho sướng ?
- Ngủ được như chúng mày hoạ có là trai tơ, chẳng còn là ông lão.
- Là ông lão nhưng còn khối bà lão dòm ngó đấy. Chỉ nội làng Yên phụ tính sơ sơ cũng đã có bẩy bà.
- Thui cái mồm mày đi, quen thói nói láo.
- Ông thui mồm cháu, lấy ai hót cho ông vui ? Lấy ai mang bánh dầy, xôi nén của mấy bà nạ dòng đang cố sức ve ông cho ông xơi hàng ngày ?
Nói xong, người đàn bà cười ré lên tinh quái khiến cả ông chủ quán lẫn vợ chồng Vũ cũng phải cười theo. Những múi thịt rung rinh trên tấm thân vạm vỡ, mặt đỏ tưng bừng trong một nỗi vui sướng mộc mạc, người đàn bà khiến cho ngôi quán nhỏ ấm lên. Dứt cơn cười, chị ta rút ra chiếc khăn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán và nói :
- Con đi đây. Chiều thằng bé ghé qua ông cho cháu ăn cơm với.
- Cứ yên tâm mà đi, không phải dặn.
Ông cụ mắng.
Người phụ nữ trẻ lại nhoẻn miệng cười :
- Dạo này ông lão hách ghê. Mới hai tuần vắng ― các nàng hỏi han đã đâm ra cấm cảu.
Nói xong, không chờ cho ông cụ phản ứng, chị ta quay lại chào:
- Hai bác ở chơi nhé. Em xin kiếu.
Rồi, cũng không chờ họ đáp lời chị ta te tái chạy sang hè bên kia ,nhấc càng chiếc xe bò rau muống đẩy xuống lòng đường. Sau khi đã quay xe ngược về phía Quảng bá, chị ta phăm phăm kéo xe đi.
Vũ nhìn theo :
- Người phụ nữ này khoẻ thật, và chắc hẳn là người rất tốt bụng.
Ông lão đáp :
- Trông mặt đã bắt hình dong. Tươi cười như thế nhưng goá chồng đúng năm hai mươi tuổi. Một mình nuôi ba đứa con. Chẳng việc gì từ nan. Làm quần quật như trâu từ lúc tinh mơ cho tới lúc tối đèn. Vậy mà chẳng bao giờ hé miệng thở than một tiếng.
- Vì sao chồng chị ta chết trẻ như vậy ?
- Cả hai đứa đều là người làng tôi, chơi với nhau từ thuở mặc quần thủng đít, lớn lên vừa đủ mười tám tuổi là kết hôn. Đẻ sòn sòn năm một. Đến khi con vợ mang thai đứa thứ ba thì thằng chồng nhập ngũ. Chưa kịp đặt chân vào chiến trường, vừa vượt qua biên giới Lào-Việt đã bị bom dập chết rồi.
Ông lão ngừng lời, cúi xuống tự rót cho mình một chén trà mạn và uống ừng ực như muốn nuốt trôi một nỗi niềm.
Vũ im lặng hồi nhớ tấm Pan-nô treo trên ngã ba đường Quảng bá :
― Anh Cả có lý khi cho rằng cuộc chiến tranh này rồi sẽ là sự hối tiếc lớn nhất của lịch sử. Rằng nỗi thất bại cay đắng nhất trong cuộc đời ông cụ là không thể ngăn cản nó. Đối với ông cụ, cuộc chiến tranh này hoàn toàn giống như cuộc trảm quyết dưới hình thức phanh thây. Nó chính là bốn cỗ xe ngựa oan nghiệt của định mệnh, và dân tộc này là kẻ bị phân thây.
Bỗng nhiên, tiếng còi xe vang lên dập dồn, inh ỏi ngoài phố. Vũ bước khỏi quán, đưa mắt nhìn. Hoá ra một đoàn xe quân sự đang bị cản lại vì đám xe thồ chở vôi sống dựng kềnh càng ngay trên lòng đường. Những người phu thồ hẳn đang dừng ở quán chè nào đó làm ngụm rượu cho ấm bụng, nghe tiếng còi ô-tô liền vội vã bước ra đẩy xe vôi lên vỉa hè. Giây lát sau, đoàn xe được giải phóng ầm ầm phóng qua, xe nào xe nấy trùm kín dù nguỵ trang trên lần mui bạt.
Ông lão chủ quán đưa mắt nhìn theo làn bụi tung bay trên đường phố, bảo vợ chồng Vũ :
- Hai bác chẳng thể ngồi đây lâu, nơi quán xá ồn ã ô hợp lắm. Chỉ lát nữa đám thợ xây, thợ mộc sẽ ghé vào. Tốt nhất là tôi dọn cho hai bác ấm chè nóng với cái hoả lò vào gian nhà sau. Tôi chẳng nhiều tiền nhưng nhà đất thì khá rộng.
- Cụ đúng là người vừa giầu tình vừa chu đáo. Chúng tôi chẳng biết nói sao cho đủ lời cảm ơn.
- Không cần khách khí. Tôi cũng chẳng mấy khi gặp được người đáng để nói những lời tự ruột gan mình.
Ông lão đứng phắt dậy với vẻ nhanh nhẹn ngoài lứa tuổi. Sau khi chuẩn bị khay chè mạn, ông cụ đưa cặp khách quý ra phía sau :
- Bố mẹ tôi để cho tôi cả mảnh vườn trên ngàn mét đất, tưởng tôi con đàn cháu đống, sau này sẽ dựng thêm nhà. Các cụ chẳng ngờ tôi có số độc thân, nội mấy gian nhà các cụ để lại đã mệt công chăm sóc.
Ông giải thích, khi đưa họ đi qua ba gian nhà trên , rồi qua một mảnh sân lát gạch lá nem tới ba gian nhà sau, quay thẳng ra hồ Tây. Đây chỉ là nơi uống trà hay ngắm cảnh. Gian chính giữa đặt bể thả cá vàng, bên trên có hòn non bộ lẫn cụm si cảnh.
- Ồ, sân rộng nhường kia sao cụ chẳng đặt bể cá bên ngoài ?
Vũ cất tiếng.
Ông cụ đáp :
- Tôi biết đặt bể cá ngoài sân là thuận mắt, nhưng hàng xóm có con mèo ma. Bất cứ bể cá vàng nhà ai đặt ngoài sân nó cũng lẻm sạch.
Vũ chưa từng nghe chuyện mèo bắt cá cảnh bao giờ, nhưng ông không dám hỏi thêm. Cụ chủ quán đặt khay trà lên chiếc bàn thấp, kê giữa hai chiếc ghế bành :
- Các bác ngồi đây, có thể vừa ngắm cảnh hồ, vừa trò chuyện. Ở đây kín gió, nhưng tôi sẽ mang cái hoả lò nhỏ vào vì trời rét. Ngoài quán, tôi còn chiếc lớn hơn để đun nước pha trà.
Ông cụ quay đi rồi lát sau mang chiếc hoả lò đỏ rực than đặt trước mặt họ :
- Chừng hai tiếng nữa, có đứa bán rong bánh dầy, xôi nén, các bác có cần tôi gọi nó vào đây.
- Dạ, cảm ơn cụ. Như thế này đã là quá đầy đủ. Lát nữa, nếu đói bụng chúng tôi sẽ cầu cứu.
Vũ đáp.
Ông cụ vừa mỉm cười một cách toại nguyện, vừa giơ tay gãi chòm râu dài tới ngực. Chờ cụ đi khuất, Vũ bảo vợ :
- Bây giờ, là chuyện của chúng ta. Một khung cảnh thơ mộng như thế này mà phải nói những chuyện buồn, kể cũng là đáng tiếc.
Vân im lặng xoay sở trong chiếc ghế bành quá rộng. Sau rốt, tìm được chiếc chăn nhỏ cuộn lại để lót lưng, bà dựng nó áp sát vào lưng ghế, rồi ngồi tựa lên đó. Vũ đưa mắt nhìn những vết thâm hiện lên dưới mắt vợ :
- Có chuyện gì khẩn cấp để em tìm anh vào lúc trời rét mướt thế này ?
- Em là vợ anh, thế chưa đủ hay sao ?..
Bà hỏi vặn lại, giọng thách thức.
Ông không trả lời, quay nhìn ra hồ. Từ cuộc nói chuyện ở bãi ngô ven sông Hồng trở lại, họ không còn nằm chung giường. Ông dọn xuống tầng dưới, làm việc trong phòng khách và ngủ trong phòng trẻ con vì chúng đã quay lại nơi sơ tán. Nhưng một lần, nhìn thấy ông nằm trên chiếc giường của Trung chứ không phải giường của con trai họ, bà đã hét lên :
― Em biết vì sao anh phải nằm trong chiếc giường ấy. Anh có cách giải thích nào khác khi một người cha không chọn hơi ấm của chính con mình ?
Ông đáp lạnh lùng:
― Vì nó chẳng có hơi ấm mà chỉ có mùi hôi.
Bà không thể cãi vì Vinh mắc bệnh hôi nách, thứ bệnh di truyền từ bà Tuyết Bông tới cậu Tùng rồi đến con trai họ. Không những hôi nách mà còn mồ hôi dầu. Cứ qua một ngày không tắm là các nếp áo đều khét, bết đen bụi bẩn. Tuy nhiên, để tránh những cơn ghen bệnh hoạn của bà, ông cho người đem về nhà một chiếc giường bạt gấp. Từ đó, đêm đêm ông ngủ trong góc phòng khách, với tấm màn xanh cũ quây lại hình thước thợ che chiếc giường tạm bợ. Như thế, chỗ ngủ của ông sơ sài như nơi qua đêm của một thứ khách từ quê ra, hoặc của một gã lính nghỉ phép đột xuất.
Còn lại một mình, bà đã treo tấm màn đăng-ten đẹp nhất với những hình thêu Uy-kơ-ren nổi tiếng thay cho tấm màn xanh. Bà cho thay chiếc đèn cũ bằng chùm đèn lộng lẫy nhất gửi mua ở Mạc-tư-khoa. Bà tậu một bộ sa-lông giống hệt sa-lông trong phòng khách sứ quán Liên-xô. Bà cũng cho người mang về chiếc Ra-đi-ô hiệu Ri-gông-đa, với những đĩa nhạc của giới sành điệu. Rồi bà sắm một chiếc tủ kính mới, để trưng bày các loại ly cốc pha-lê Bô-hêm-me, các loại tách chén sứ Tàu, men mỏng như giấy lụa, có thể nhìn thấu chất nước đựng bên trong. Đối diện với chiếc tủ ấy là một búp-phê đồ sộ, trong đó bày các loại bánh kẹo lẫn các loại rượu nước ngoài, những thứ hàng được xách tay từ Mạc-tư-khoa, Pra-ha hay Bou-đa-pet, nơi chốn đáng thèm muốn nhất của đám nhân viên bộ ngoại giao, và là đồ xa xỉ tuyệt đối bất khả hình dung với mấy chục triệu dân đen đang hàng ngày xếp hàng đong gạo mốc. Căn phòng ngủ của bà không đủ sức chứa quá nhiều thứ, bà lấn chiếm luôn căn buồng làm việc cũ của ông, bằng cách cho thợ đục rộng gấp đôi khuôn cửa, thay cánh cửa gỗ lim bằng tấm bình phong mặt đá. Sau cuộc cách mạng ấy, căn phòng ngủ của bà không còn là nơi ngủ mà đã thành phòng khách lộng lẫy, sáng trưng, đầy vẻ mời mọc. Đêm đêm, bà bật ngọn đèn chùm ba tầng, thứ đèn chỉ dành cho đại sảnh, để ngắm bóng mình phản chiếu trên những ô cửa kính. Hoặc bà mở hết cỡ những đĩa nhạc, rồi nằm lên giường bịt tai lại cho khỏi đứt màng nhĩ. Khi thấy những ô cửa sổ hàng xóm lần lượt mở ra, và những cái đầu thò ra khỏi các ô cửa đó nhìn về phía căn nhà của bà với nỗi căm ghét không che đậy, bà lại sợ hãi tắt vội đi. Tất thảy những gì bà làm để khiêu khích ông đều vô hiệu. Có lẽ tình yêu của ông dành cho bà đã chết. Nó chết đuối ở sông Hồng. Giờ đây nó chỉ còn là một thây ma thối rữa dưới đáy phù sa. Nhưng ngược lại, bà không thể không yêu ông, nói cho đúng hơn, bà không ngừng yêu ông bất chấp mọi sự ngang trái đã xảy ra giữa hai người. Có thể là những ngang trái ấy còn khiến bà yêu ông hơn nữa, cảm thấy thiếu ông nhiều hơn nữa. Sự hung bạo và khốc liệt của thứ ái tình này là nỗi bất hạnh. Bởi ở tuổi xế chiều lẽ ra người ta phải sống với nhau bằng một mối tình êm ả, xe kết từ những tháng năm quá vãng.
Nhiều lần, bà tự nhủ :
― Ta đã có tất thảy. Chỉ còn một việc ta chưa dám làm mà thôi. Hãy thử xem sao.
Nhưng mới chỉ nghĩ đến điều ấy, mặt bà đã nóng bừng vì hổ thẹn. Cái điều bà muốn thử, chính là cung cách mà bà thường cao giọng phỉ nhổ, ấy là lối sống của con mẹ Tư hàng cá, nổi danh không chỉ những trong đám quan lại mà còn khắp các phố phường.
Tuy nhiên, bà không ngờ rằng ông, thờ ơ với tất thảy những trò bà đã làm, lại chính là người đầu tiên nói thẳng ra sự thật. Một bữa cơm trưa, họ lẳng lặng ngồi ăn, mỗi người nhìn đi một hướng, như tất thảy những bữa cơm từ ngày họ ly thân, ông bất chợt quay lại bảo bà :
- Em đã làm đủ thứ...Còn khâu cuối cùng, sao không hoàn thành cho trọn bộ ?...
- Anh muốn nói gì ?
- Anh không phải kẻ tò mò, nhưng vì còn bỏ sót một cuốn sách trong ngăn kéo đầu giường nên sáng nay bắt buộc phải trèo lên lấy. Anh thấy em đã có một phòng khách giống hệt phòng khách của con mẹ Tư hàng cá. Vậy còn việc cuối cùng, sao không thử nốt ?
- Anh muốn sỉ nhục em hay sao ?
Bà hét lên.
Ông đáp thản nhiên :
- Trên đời này chẳng ai làm nhục nổi ai. Chỉ có con người tự bôi nhọ bản thân họ mà thôi.
Bà không thể nói thêm, nhưng con tim công phẫn :
« Ai cũng chỉ có một cuộc đời. Tội gì không hưởng. Chỉ có những kẻ ngu ngốc hoặc thui chột điều gì đó nơi bản thân mới không tìm cách sống. »
Rồi sau đó, bà tự nhủ :
« Ta sẽ làm ! Ta sẽ làm ! lúc ấy chớ có kêu than... »
Và bà hình dung căn phòng khách lộng lẫy của mình sẽ dập dìu lũ trai tơ, sẽ vang lừng tiếng nhạc, rượu đỏ và sâm-banh sẽ tuôn như suối. Cuộc hành lạc không chỉ còn trong phim ảnh mà sẽ xảy ra dưới ánh đèn chùm.
Những cuộc trả thù tưởng tượng như thế chỉ sống được đôi ba khoảnh khắc, bởi sau đó, bà tự nhìn thấy mình trong vai người đàn bà xấu xí sa đoạ kia, và hình ảnh ấy khiến bà buồn nôn. Bà quay trở lại địa ngục của bà, một tình yêu bất khả vãn hồi và bất khả quên lãng.
- Em uống trà đi cho ấm.
Thấy vợ lặng thinh, Vũ rót nước đưa cho Vân. Bà đón chén nước trên tay ông, chẳng nói lời cảm ơn cũng chẳng chối từ, đưa lên miệng uống từng ngụm lớn. Ông tự rót cho mình chén thứ hai, rồi cũng uống trong lặng lẽ. Trước mặt họ, hồ Tây trải một màu xám bạc. Không mảy may bóng du thuyền. Chỉ có đám thuyền chài đang bập bềnh trên làn nước, trong cuộc giành giật khắc nghiệt với mưu sinh. Gió dữ, những vàng lưới vừa tung lên gió đã thổi dạt vào lòng thuyền, khiến những con thuyền chao đảo, mũi chúi xuống như sắp bị nhấn chìm. Người ta lái thuyền lượn theo vòng tròn để gỡ lưới và tránh gió. Cứ như thế, cuộc sống tiếp tục. Vũ ngắm nhìn cảnh tượng ấy, thầm hỏi :
― Nếu như ta sống cuộc đời của người dân chài kia, liệu ta có sung sướng, hoặc ít ra có được thanh thản hơn không ?
Nhưng những câu hỏi như thế chẳng bao giờ tìm được lời giải, nên ông lại tiếp tục uống cạn chén trà và nhận thấy Vân đang nhìn mình:
- Nước trà đổ vào ống tay áo anh rồi kìa. Vải ấy không tẩy được đâu. Tẩy là rách.
- Xin lỗi...Anh không để ý.
Ông đáp, và nói thêm :
- Em quả là người chu tất...về phương diện vật chất.
- Còn về phương diện tinh thần, em là con số không, là kẻ tồi bại. Có phải đó là điều anh muốn nói hay không ?
Bà vặn lại, quắc mắt nhìn ông với tư thế của kẻ sẵn sàng lao vào cuộc đấu. Nhưng trong lúc ấy, mặt bà lại tái nhợt và tim đập liên hồi. Ông nhìn bà, với một chút bỡ ngỡ, một chút ngại ngần, và không tránh khỏi, một chút thương hại :
- Anh có cần nhắc lại câu nói chiều qua không ? Chiều qua, chính em cũng có mặt lúc anh đang nói chuyện trong phòng khách. Ông cụ chúc mừng anh vì có được người vợ như em, vừa đẹp người vừa đẹp nết. Em biết rằng từ hồi trên chiến khu cho tới tận lúc này, ông cụ vẫn là người ngưỡng mộ em một cách thành thực.
Bà đỏ mặt, không đáp.
Ông nhắc lại :
- Hay em nghĩ rằng ông cụ làm ngoại giao ?
Bà im lặng.
Ông tiếp :
- Em không dám trả lời vì em biết rằng điều ông cụ nói là hoàn toàn thật bụng. Danh hiệu ― Hoa khôi chiến khu― lẫn ― Mỹ nữ Hà thành― chính ông cụ đặt cho em chứ không phải ai khác. Điều ấy đúng hay sai ?
Bà không đáp.
Ông cười :
- Hôm qua, anh nhắc lại lời khen ngợi ấy vì chính ông cụ yêu cầu. Ông cụ gởi lời thăm em.
- Nhưng anh đã nhắc lại một cách mỉa mai. Anh biết rõ điều đó.
Bà vùng lên phản ứng sau một hồi lâu lặng lẽ. Và ông mỉm cười :
- Anh đã nói rồi, chẳng ai có thể làm nhục được con người trừ bản thân họ. Cũng chẳng ai mỉa mai được kẻ khác nếu bản thân sự thật không bao hàm một thứ mỉa mai.
Mặt bà trắng bệch. Rồi sau khoảnh khắc dùng dằng, bà cúi đầu nói lí nhí :
- Em cũng biết vậy. Vì thế em mới lên đây tìm anh.
- A...a...ra thế...
Ông buông tiếng kêu, một tiếng kêu hững hờ, gần như vô nghĩa. Trong lúc ấy, mắt ông vẫn không ngừng chăm chú theo rõi đám thuyền chài, mỗi lúc mỗi lướt ra xa, trên mặt nước lô nhô sóng bạc.
― Anh ấy chẳng còn đoái hoài đến ta. Anh ấy không còn yêu ta nữa, dù đôi chút.
Bà thầm nghĩ, và trong cơn tuyệt vọng, bà bất thần hét lên :
- Anh là người chồng tồi tệ. Tại sao anh không quay lại nhìn em ? Ít nhất em vẫn đang ngồi trước mặt anh, đang nói chuyện với anh. Một thứ lịch sự cỏn con cũng chẳng còn.
- A...ra vậy...
Ông ngạc nhiên quay lại nhìn bà :
- Nào, bây giờ anh quay lại nhìn em, anh cố gắng lịch sự cho vừa ý em và cố bắt chước một người thanh nhã...Như vậy đã được chưa ?
Bà không trả lời. Và ông nói tiếp :
-Giờ anh đang chăm chú nghe em. Em bắt đầu chứ ?
- Anh không thể bỏ được kiểu nói như vậy hay sao ?
- Chính anh cũng không hiểu mình bắt đầu lối nói như vậy từ lúc nào. Nhưng có lẽ nó đã trở thành thói quen khó sửa.
- Anh Vũ, chúng ta đã từng sống với nhau vô cùng hạnh phúc. Anh không tiếc những ngày ấy hay sao ?
- Anh tiếc vô cùng, nếu em muốn biết sự thật. Anh tiếc và anh khổ tâm nhiều gấp bội phần những gì em có thể tưởng tượng. Nhưng anh không thuộc loại người có thể giả vờ quên, giả vờ mù và giả vờ điếc. Đấy có lẽ chính là đầu mối mọi sự bất hạnh dưới mái nhà mình.
- Em vẫn luôn luôn yêu anh. Nếu không, mọi sự đã khác.
- Anh biết. Cảm ơn em.
Ông bất giác cất tiếng cười :
- Nhưng giờ đây, em có thể làm tất thảy mọi điều, kể cả rập khuôn lối sống của con mẹ Tư bán cá. Anh không can thiệp. Em có quyền tự do hành động theo sở thích...
- Anh không chịu hiểu sự thật. Anh không thay đổi, dù đã gần nửa thế kỉ trôi qua.
- Sự thật nào ?
- Sự thật là anh luôn luôn nhìn cuộc sống theo lối của riêng anh, chỉ riêng anh thôi. Nhưng cuộc sống vận hành theo con đường của chính nó, và vì thế lúc nào anh cũng là người phải hứng mũi chịu sào, lúc nào anh cũng phải đứng nơi đầu sông, cửa bão.
- Anh rất tiếc, nhưng con người anh là do bố mẹ anh sinh thành, tu dưỡng. Khi gặp em, anh đã thành niên, anh không thể thay đổi cho vừa khẩu vị của em.
- Bộ máy nhà nước này có vài trăm người ngang cấp với anh. Chẳng ai phải gánh chịu những nhọc nhằn thua thiệt như anh.
- Em có thể tự giải phóng em khỏi những ràng trói với anh. Em đủ tài lập lại một cuộc sống mới.
- Nhưng mà em yêu anh.
Bà lại hét lên, nước mắt lưng tròng :
- Tại sao ? Tại sao anh không chịu hiểu cái điều đơn giản ấy ?
Vũ im lặng. Một câu hỏi len lỏi trong đầu ông :
― Khi người đàn bà yêu, họ tin rằng họ đủ quyền làm mọi sự, kể cả những trò rồ dại nhất, phi đạo lý nhất. Tất thảy đều nhân danh tình yêu. Liệu đấy có thật sự là tình yêu hay chỉ là cuộc tìm kiếm những thoả mãn quyền năng tinh thần và sự lấp đầy các khát khao thể xác bằng phương tiện được chọn lựa ? Tình yêu, có lẽ là danh từ hàm hồ nhất, bị lạm dụng nhiều nhất và dung chứa nhiều ẩn số nhất trong từ điển của nhân loại.
Vân khóc. Bà rút khăn tay xì mũi trong lúc ông kiên nhẫn xoay chiếc chén rỗng trong lòng tay. Chỉ còn tiếng gió hú trên mặt hồ. Mỗi cơn gió quạt, chiếc lò than lại hồng rực lên, nổ lép bép. Những viên than quả bàng cháy đỏ, gần như trong suốt. Hơi ấm lan toả, vây quanh họ. Vũ cúi nhìn chiếc hoả lò, chờ đợi. Nhưng vì vợ ông khóc khá lâu nên ông tự rót cho mình chén trà nữa.
- Em đã nguôi cơn chưa ?
- ...
- Chúng ta đã già, không cần la hét như vậy. Anh không muốn cụ chủ quán cho rằng chúng ta là những kẻ đầu óc bất thường.
- Em chỉ muốn một điều thôi. Điều duy nhất em muốn là chúng ta hãy thương yêu nhau như ngày xưa. Như thời xưa. Như chúng ta đã từng sống.
- Anh cũng muốn vậy. Nhưng thời gian không quay trở lại. Thời gian có quy luật riêng của nó, cũng như em vừa nói, cuộc đời chỉ đi trên con đường tự nó vạch lối mà thôi.
- Em có thể làm mọi điều anh muốn, miễn là anh yêu em như xưa.
- Cảm ơn...Nhưng anh tin chắc rằng em chỉ có thể làm mọi điều theo ý em, và vì em...
- Anh muốn nói tới căn phòng khách tầng trên.?..Em có thể cho thợ hốt hết mọi thứ đổ ra bãi rác ngay ngày mai...
- Điều ấy chỉ gây thêm tai tiếng. Em từng biết thiên hạ nhìn những người đàn bà kiểu đó ra sao .
- Vậy anh muốn em làm gì ?
- Anh không thể muốn, vì điều anh muốn với em là bất khả.
- Bất khả là vì anh luôn luôn nhìn sự vật ngược chiều với tất thảy mọi người. Hồi trên chiến khu cũng đã như vậy. Điều mà tất cả mọi người cho là đương nhiên, anh quyết liệt phản đối. Điều mà mọi người cho là bất khả, anh tìm cách làm cho bằng được.
- Anh chẳng hiểu em muốn nói gì ? Thực tình là chúng ta gần như không còn nói một ngôn ngữ chung. Kì quái! Em thử cắt nghĩa xem sao ?
- Anh đừng vờ vĩnh.
Bà lại bắt đầu to tiếng. Ông quay nhìn về phía sau để bà dè chừng cụ chủ quán có thể nghe rõ cuộc cãi vã của họ. Bà ngừng lời, uống nốt chén trà nguội để lấy lại bình tĩnh. Đoạn bà tiếp tục :
- Hồi trên chiến khu mọi người đều hài lòng với việc chọn cô Minh Thu cho chủ tịch. Một mình anh phản đối quyết liệt cho đến phút cuối cùng. Một mình anh bỏ phiếu bầu cô Thanh Tú. Anh còn nhớ cuộc đi tuyển quân dưới mấy tỉnh đồng bằng hay không ? Chính anh Sáu đã ra chỉ thị ấy để mọi sự trót lọt.
- Anh nhớ. Ngay hồi ấy anh đã hiểu rằng người ta cố tình đẩy anh đi vắng để làm mọi điều họ muốn.
- Nhưng đó là việc riêng của tổ chức, việc của ông cụ. Đâu phải phận sự của anh ?
Ông đưa mắt nhìn vợ, như nhìn một người đàn bà xa lạ đến từ xứ sở nào đó, từ sa mạc Sa-ha-ra hay quần đảo Ăng-ti-bê chẳng hạn. Và bà đỏ mặt lên trước cái nhìn của ông. Bà lặp lại, vẻ ít tự tin hơn :
- Đấy là việc của tổ chức. Em nói như vậy là sai hay sao ?
Ông chậm rãi hỏi :
- Này Vân, nếu anh chột mắt, anh vẩu răng, anh lùn một thước như những chú lùn hề xiếc. Liệu em có yêu anh, có lấy anh không ?
Bà im lặng.
Ông nhìn bà chăm chú và hỏi tiếp :
- Hoặc nếu anh mắc chứng bạch tạng, anh bị bệnh còi xương, anh có những bàn tay bàn chân sáu ngón, liệu em có lấy anh không ?
Bà không trả lời, quay mặt nhìn ra hồ Tây.
Ông tiếp tục cuộc dồn đuổi :
- Anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày đầu. Khi anh gặp em, cô nữ sinh phố huyện đứng tựa lưng vào cửa, đôi mắt mơ màng, cuốn ―Thằng gù ở nhà thờ Đức bà trong tay. Có lẽ anh đã yêu em khởi từ hình ảnh đó. Giờ anh hỏi, nếu anh chính là thằng gù Qua-si-mô-đô, liệu người đẹp Tố Vân có bằng lòng làm vợ anh hay không ?
Bà tiếp tục nhìn ra hồ, không đáp.
Và ông hỏi tiếp :
- Những điều em không muốn, tại sao em bắt người khác phải chịu ? Tại sao em áp đặt sở thích độc ác của mình lên một người tử tế với em như ông cụ ? Phải chăng chính em đã gợi ý cho bà hội trưởng tiến dẫn cô Minh Thu ôm chăn chiếu đến nhà sàn ?
Vân quay lại, nhìn chồng, và trả lời, với vẻ hồn nhiên xen lẫn ngạc nhiên :
- Bởi anh Sáu mời em lên, hỏi ý kiến. Bởi mọi người đều đồng tình với gợi ý của em. Bởi ông cụ chẳng phải là người bình thường. Anh không nhận ra điều ấy hay sao ?
- Ông cụ là chủ tịch nước. Ông cụ là linh hồn của cuộc kháng chiến. Còn gì nữa ?...
- Ông cụ là cha già của dân tộc...Anh đã quên danh vị ấy.
- Thì sao ?
- Anh hỏi ngớ ngẩn. Đã là cha già dân tộc, ông cụ không thể sống như những người bình thường...Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt chứ ? Anh là người học hành thông minh như thế, sao cái điều cỏn con cũng không hiểu nổi ? Anh Sáu và bao nhiêu người khác nữa đã từng hỏi em như vậy ?
- A...a...a...
- A ...a...a...a...a...a...a...
Tiếng sấm nổ bùng trong đầu ông. Không chỉ một hồi mà là liên hồi. Những chuỗi sấm rền vang như những hồi sấm định mệnh nổ ngày tận thế. Vũ có cảm giác rằng hàng nghìn chuỗi mìn dây đã được gài đặt trong óc não ông, giờ đây, khi trái mìn đầu tiên bùng nổ, chính tiếng nổ của nó kích thích trái mìn thứ hai. Cứ như thế phản ứng dây chuyền tiếp tục.
Trong cơn giông, những tia sét bao giờ cũng bừng lên trước khi tiếng sấm xuất hiện. Phản ứng ấy xảy ra đối với ông, theo chiều ngược lại. Những tiếng sấm nổ ra trước, sau đó mới tới những chùm lửa điện sáng loà. Bầu trời quá vãng được rọi chiếu bởi những làn ánh sáng chói chang. Tất thảy sự vật hiện lên rõ ràng đến từng nét cắt, như núi non hiện lên nơi chân trời trong vắt mùa thu, như vườn tược hiện ra khi sương mù bị quét sạch dưới cái nắng chói chang tháng sáu.
― Giờ ta mới hiểu thứ lô-gic của người đời , đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Đã được phong thánh, đã là cha già dân tộc thì không được quyền hưởng hạnh phúc bình thường. Vì thế mà họ ấn cho ông cụ cô gái già quá lứa, người đã được kêu gọi gả chồng khắp lượt, như thể kêu gọi cuộc quyên góp làm từ thiện, từ thành đoàn đến các hội đoàn khác mà không ai chịu rước đi cho. Cô gái già, ba mươi tám cân, ba mươi tư tuổi.
Tại sao họ không nghĩ rằng ông cụ chính là một quân vương ? Một vị vua thời xưa có quyền được thoả mãn mọi nhu cầu thân xác, thậm chí đến mức tàn bạo và phi lý. Nếu ông cụ có một người vợ trẻ, đó cũng chỉ là một hưởng thụ quá đỗi khiêm nhường ?
Tại sao họ không nghĩ rằng nếu ông cụ được hưởng một chút hạnh phúc cỏn con thì thể chất lẫn tâm hồn ông cụ càng hoàn hảo và như thế, có thể đóng góp nhiều hơn cho dân tộc ?
Tại sao họ có thể tự cho mình quyền hành hạ một cách biển lận con người mà họ phải núp sau lưng để tìm được sự trợ giúp tinh thần cũng như sự thụ đắc quyền lực ?
― Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt...„
Chính trong cái lô-gic này biểu thị sở thích độc ác của nhân loại. Một sở thích ẩn chứa tính đố kị lẫn thói ghen tuông. „
Một nghi vấn chợt đến. Ông quay lại nhìn vào mắt bà :
- Giờ anh đã hiểu mọi sự. Ngày ấy anh đã tin một cách thành thực rằng em cũng xuống núi làm công tác địch vận trong lúc anh vắng mặt trên chiến khu. Giờ anh biết rằng em không đi đâu hết. Em đã ở lại để hoàn tất vai trò cố vấn, để dồn bằng được cô Minh Thu đến ngôi nhà sàn của chủ tịch. Bởi nếu em không chớp thời cơ để đặt mọi người vào thế đã rồi, ắt thành đoàn sẽ cử cô Thanh Tú sang ?
Bà không đáp, nhưng cái nhìn của bà thú nhận sự thật.
Ông hỏi tiếp :
- Em đã tập thói nói dối từ bao giờ ?
Bà quay mặt đi.
Ông hỏi tiếp :
- Tổng kết lại, cuộc đời em có bao nhiêu lần dối trá ? Bao nhiêu lần kể từ ngày em khôn lớn ? Bao nhiêu lần kể từ ngày chúng ta thành vợ thành chồng ?
- ....
- Bây giờ anh mới hiểu rằng anh chính là một thằng ngu ngốc. Nhưng chưa hết. Sau anh, còn một người khác nữa cũng thậm ngu. Chỉ thậm ngu mới có thể đem lòng tin yêu và ngưỡng mộ một kẻ nhẫn tâm với mình như vậy. Ngay tối nay, anh sẽ gọi điện cho ông cụ, nói trắng ra rằng : Anh Cả ơi, anh chớ tưởng anh là người khôn ngoan, chín chắn. Anh không biết rằng anh chính là một thằng ngu, đại đại ngu.
Vân cúi mặt xuống, hai gò má trắng xanh.
Rồi những giọt nước mắt lần lượt chảy dài trên gương mặt đẹp một cách tàn héo của bà. Những nếp nhăn hiện lên sau đuôi mắt. Những chuỗi nếp nhăn ngắn hơn nhưng đậm hơn xếp hàng quanh làn môi xưa kia hồng thắm nay tái nhợt dưới lớp son màu mận già.
Còn ông, ông khép chặt hai vạt áo vì rõ ràng một cơn xốc tinh thần kéo theo cả một cơn đau thể chất. Bỗng nhiên, cả vùng ngực lẫn thượng vị của ông đau quặn từng cơn. Ôm bụng, ông nhớ lại gương mặt bà mẹ , thời ông vừa phải lòng Vân. Dạo ấy, cha ông có vẻ thản nhiên hơn nhưng mẹ ông tỏ ra nhớn nhác thật sự. Ông thường bắt gặp hai người thì thào to nhỏ. Những cuộc trò chuyện ấy tắt ngấm khi ông xuất hiện. Rồi vài tháng sau, mẹ ông mới lựa lời thủ thỉ :
― Con ơi, người xưa dạy: Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Cô Tố Vân tuy dung nhan xinh đẹp, vẻ ngoài giống ông giáo Lương nhưng chưa biết được tâm tính sẽ ra sao? Việc dạy dỗ con cái trong nhà phần lớn do người làm mẹ. Bậc làm cha giống như cây cột lớn chỉ lo việc nâng nóc nhà cho vững mà thôi. Người như bà Tuyết Bông khó có thể đẻ ra một cô gái tử tế. Không chỉ mình mẹ mà các bà láng giềng cũng đều để ý rằng cô Tố Vân không giao du với ai xinh đẹp. Cô chị họ Hiền Trang vừa đẹp vừa giỏi giang hễ đến gần là cô ấy tỏ vẻ khó chịu lảng đi ngay. Cô Hiền Trang kể với người nhà rằng Tố Vân tuyên bố chỉ chơi với ai vừa xấu xí vừa ngu ngốc hơn cô ấy, giống như chọn cái nền để làm cho mình được nổi bật lên. Còn trẻ tuổi mà đã ích kỉ như vậy hẳn là người độc bụng.
Lúc ấy, ông đã tìm mọi lý do để thuyết phục gia đình. Lúc ấy, ông đang si mê. Tất cả những kẻ si mê đều mù. Giờ, ông hiểu rằng mẹ ông hoàn toàn có lý. Rằng vợ ông đã cố tình xúi bẩy mọi người chọn cô Minh Thu, và tìm mọi cách đẩy bật cô Thanh Tú cho bằng được. Vân hành động theo bản năng vị kỉ : Cô ấy muốn tôn tạo nhan sắc mình bằng hình ảnh nhem nhuốc của những người đàn bà xung quanh. Điều khốn nạn hơn cả là những kẻ khác cũng có cùng một sở thích độc ác như vậy :
―Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Người đàn bà này vừa mở mắt cho ta. Sau hơn ba mươi năm chung sống giờ ta mới nhìn rõ chân tướng con người mà ta vẫn coi là vợ.
Tim ông cuộn lên những ngọn sóng lừng. Ông cảm thấy đầu và cơ thể mình như đang tách làm đôi, cả hai phần đều dập dềnh như hai con thuyền bị dồi trên đỉnh sóng. Trong cơn chòng chành ấy, không hiểu vì sao gương mặt tươi cười của chủ tịch trở về. Đấy là hình ảnh trong đêm liên hoan mừng chiến dịch biên giới, ông cụ nâng chén chúc tụng mọi người, và nói lời sau rốt :
- Xin chúc mừng toàn bộ cơ quan, trước hết là những người đàn ông có vợ đẹp. Theo tiêu chuẩn ấy chú Vũ sẽ phải uống cạn ba chén rượu đầy.
― Thật cay đắng. Chính ông cụ là người đầu tiên phong vương cho nhan sắc của cô ta. Ông cụ không ngờ rằng vì những lời khen hào phóng ấy mà ông cụ bị hại. Người ta đầy đoạ ông cụ một cách ngấm ngầm và đầy mưu tính.
Ghìm giữ một cơn đau, ông ngẩng lên nhìn bà, cười :
- Lạ lùng thay số phận. Sao em không lấy Sáu. Em chính là kẻ tâm đầu ý hợp nhất với y ? Mai mỉa thật. Vì sao em lại chọn anh ?
- Vì em yêu anh. Vì em chỉ yêu anh thôi. Nếu không mọi sự đã...
- Nếu không giường chiếu đã sẵn sàng, và các cuộc làm tình sẽ đầy đủ tiện nghi nhất xứ sở, dù trong thời bình hay thời chiến. Anh nói có đúng không ?
- .....
- Nhưng sự trớ trêu của số phận là thường thường những kẻ có sở thích độc ác lại khó kết đôi. Bởi họ muốn bảo đảm tính độc quyền. Bởi họ muốn bảo đảm sinh mệnh cho chính họ. Với kẻ đồng mưu, họ chỉ có thể kết hợp tạm thời, còn nơi hậu trường, họ cần chọn những kẻ hiền lành ngu ngốc cho an toàn vì cuộc sống vốn lâu dài và nhiều biến động. Đó chính là lý do khiến em chọn anh, để mà yêu. Cũng tương tự như Sáu, y không chọn em mà chọn người đàn bà khác.
Bà im lặng.
Và ông chậm rãi nói tiếp, buông từng lời như muốn nghe chính những vọng âm tiếng nói của mình :
- Hơn ba mươi năm để hiểu một con người. Quả là trò chơi cay nghiệt của Tạo hoá. So với lịch sử, ba mươi năm chỉ là chớp mắt. Nhưng đối với cõi người, coi như đã cạn một kiếp nhân sinh.
Bà nhìn vào mắt ông, thấy nỗi tuyệt vọng thăm thẳm trong đôi mắt ấy...Đôi mắt người đàn ông của bà, người bà không ngừng yêu, không ngừng thèm muốn, không ngừng ước ao được sở hữu và ngự trị một cách tuyệt đối. Tháng năm không làm thay đổi những đường nét thanh tao trên gương mặt ông. Những lao lung chẳng hạ gục được con người này mà càng ngày càng đem lại cho ông vẻ đẹp. Có thể chính ông chẳng để ý đến vẻ đẹp ấy. Nhưng bà, bà đọc được nó một cách rõ ràng qua những ham muốn không ngưng cạn của chính bà và qua ánh mắt những người đàn bà xung quanh.
- Anh không còn yêu em nữa ?
Bà cất tiếng hỏi, dù biết nó lạc lõng. Nỗi lo sợ trước một sự tan vỡ hiển nhiên khiến bà mất trí khôn :
- Anh chẳng còn yêu em nữa ?
Bà lặp lại lần nữa, cao giọng hơn, với một nỗi nôn nao điên cuồng và một cơn khắc khoải bất khả che giấu.
Có vẻ như ông không nghe thấy những câu hỏi của bà...Có vẻ như ông đang sống ở một cõi nào khác. Hồi lâu, ông quay lại nhìn bà một cách mơ hồ như nhìn bức ảnh cũ hay thứ đồ vật nhỏ nhoi mốc thếch mà người ta lôi từ trong rương ra sau bao nhiêu năm quên lãng :
- Này Vân, có bao giờ em tự vấn lương tâm ?
- Anh muốn nói gì ?
- Anh muốn biết rằng em có tự hỏi em về những gì em đã làm là thiện hay là ác ? Có bao giờ em thấy lương tâm không yên ổn ? Hoặc em chẳng bao giờ có khái niệm về một thứ gọi là lương tâm ?
- Em không biết. Em sống như mọi người. Những người đàn bà khác hành động ra sao em hành động như thế.
- Dối trá. Những người đàn bà khác không thể ngồi trong phòng của Sáu trò chuyện, bầy mưu tính kế hết giờ nọ qua giờ kia. Những người đàn bà khác không biết mua chuộc và điều khiển bà Hội trưởng Hội phụ nữ bằng những mánh khoé vặt. Những người đàn bà khác cũng không được ông cụ phong danh ― "Hoa khôi chiến khu" hay ― "Mỹ nữ Hà thành".
Em không trả lời anh nữa. Anh không có quyền chất vấn em. Đây chẳng phải nhà giam Hoả Lò.
Bà cau có, nhưng hai cánh mũi đỏ hoe và những cơn nức nở đã rình rập sẵn. Bà hiểu rằng bà thua cuộc. Người đàn ông ngồi trước mặt bà chẳng còn đứng trong vòng phấn định mệnh đã được vạch ra từ cuộc hôn nhân. Ông ấy đã bước qua vòng phấn đó. Bước qua một cách rứt khoát. Bước qua vĩnh viễn. Không mảy may nuối tiếc. Cuộc truy đuổi của bà là uổng công... Nhưng lòng ham muốn của bà vì thế lại tăng lên ngùn ngụt. Giống loài sói rượt mồi, bà không bỏ dở cuộc săn. Bà cất tiếng ho, lấy khăn tay che miệng. Bà cần phải tìm một phương cách nào đấy, hiệu quả hơn. Ngoài kia, những con thuyền vẫn lướt bình lặng trên mặt hồ. Sóng lao xao. Gió lao xao. Nơi đây, gió không thể lọt vào vì lưng tường quay ra hướng bắc. Lò than vẫn đỏ rực trước mắt họ. Nhưng bà vẫn phải cất tiếng ho. Cơn ho bà rặn ra không che được mắt ông, cũng chẳng khiến ông động tâm, ít nhất là vào lúc này.
Chẳng thèm quay lại nhìn bà, ông cất tiếng :
- Bây giờ anh mới hiểu vì sao bao nhiêu năm chúng ta lận đận trong chuyện sinh con. Người đàn bà như em không thể làm mẹ. Bởi nếu em có con gái như những người đàn bà khác, chính em sẽ ghen với con em khi nó tới xuân thì, giống như mụ hoàng hậu dì ghẻ trong chuyện cổ tích ghen tuông và truy đuổi nàng Bạch Tuyết. Mẫu người đàn bà như em đã có tự ngàn xưa.
- Anh không cần nói thêm nữa. Đủ rồi.
Bà vặc lại. Nhưng ông không ngừng lời. Bà chẳng còn quyền lực đối với ông. Ngọn bùa yêu danh tiếng của bà đã hết quyền phép. Bà hoang mang cúi nhìn những ngón tay ngà ngọc của mình đeo lủng liểng các loại nhẫn, dáng nét còn thanh tao nhưng da đã nhăn mốc từng đám và nổi đầy vết đồi mồi. Trong lúc đó, ông tiếp tục trút nốt cơn uất hận :
- Có điều, những người đàn bà như em lại thiếu óc thực tiễn. Chẳng thứ nhan sắc nào tồn tại mãi với thời gian. Cái còn lại lâu bền nhất với con người, chính là tình yêu và tinh thần đạo đức.
- Đạo đức ?
Bà cất giọng cười khẩy, mặt bỗng nhiên bừng bừng như lửa :
- Người đạo đức nhất trên đời này là mẹ anh . Sao anh không ngủ với bà ấy đi ?
- A...a...a...
Ông há hốc mồm, một cử chỉ vô thức. Ông không điều khiển nổi mình. Hình như ông định cất tiếng kêu. Hình như ông định nói điều gì đấy. Nhưng một ngọn triều đen thẫm, cao lừng lững như bức tường thành , đột nhiên dựng đứng trước mặt ông, giống ngọn triều biển Quảng Ninh năm xưa, đêm bão lớn. Ngọn triều hung hãn đó bổ chụp xuống đầu ông, nhấn chìm ông dưới vực đá... 


Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (3)
Khi Vũ tỉnh dậy, ông nằm trong bệnh viện Việt-Xô.
Ấy là giờ cơm trưa nên bệnh nhân ở tất cả các giường đều ngồi dậy chờ người nhà lấy xuất ăn về. Chiếc tủ của ông chất đầy những thứ hoa quả, bánh trái, tất thẩy đều bắt đầu héo úa bởi chưa ai đụng đến.Vũ thấy đầu nặng như đá đè. Ông cố gắng quay sang hai bên để cho các cơ bắp ở cổ mềm trở lại. Những động tác ấy khiến ông đau nhói :
― Ta già rồi...Cơn đau này quật ngã ta.
Ông thầm nghĩ nhưng vẫn tiếp tục cử động một cách kiên nhẫn. Người bệnh nằm đối diện nhìn ông :
- Bác đã tỉnh hẳn rồi chứ ? Chúc mừng nhé.
- Cảm ơn...Tôi nằm bất động mấy ngày rồi ?...
- Ba ngày rưỡi. A, phải...Bốn ngày chẵn cả thẩy. Bác nhập phòng trưa thứ bảy tuần trước. Hôm nay là thứ tư, mười một giờ rưỡi ngày thứ tư.
- Ở đây các bác đếm từng giờ ?
- Bệnh viện cũng tựa như nhà tù, một ngày dài hơn thế kỉ. Bác chưa từng nằm dài hạn bao giờ nên chưa biết.
- Thú thật. Đi thăm mọi người, tôi đã từng. Nhưng chính tôi, đây là lần thứ nhất.
- Tôi cũng nghe nói vậy.
Ông ta cất tiếng cười :
- Cứ ở đây vài tuần rồi sẽ rõ. Trước nghe thiên hạ doạ : ở trong ấy một ngày dài hơn thế kỉ, chẳng tin. Vào đến đây là chân lý sáng tỏ ngay.
- Ra thế...
Ông cũng bật cười. Ngay cái cười cũng khiến các cơ mặt vừa đau vừa co cứng. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã tỉnh. Cơ thể ông chưa thể bị huỷ hoại trong giây phút. Đấy là phần thưởng bù trả cho một cuộc sống thanh sạch, điều độ và những bài tập khí công thường xuyên. Ông đưa hai bàn tay lạnh cứng lên xoa vào nhau, chờ cho chúng ấm nóng rồi bắt đầu đưa lên xoa cổ :
― Ta không thể chịu thua trước khi chống cự lại. Tuổi già, ta chấp nhận ngươi nhưng với tinh thần chủ động. Ta không thể là đầy tớ của ngươi.
Bác sĩ phụ trách bước vào phòng. Một người đàn ông trạc tứ tuần, trầm tĩnh và mệt mỏi. Anh ta bước tới gần giường ông, mỉm cười :
- Chúc mừng bác.
- Chúc mừng anh.
Ông vui vẻ đối đáp :
- Tôi sống được là nhờ anh nên phải chúc mừng anh. Như thế chính xác hơn.
- Không hẳn thế. Bác có một thể chất vững trãi nên bình phục nhanh. Nếu là người khác ắt ...
- Nếu là người khác ắt bỏ mạng ?
- Tôi không định nói thế. Nhưng nếu là người khác rất dễ có những tổn thất lâu dài.
- Ví như đứt mạch máu não, biến chứng tê liệt toàn thân hay bộ phận, ít nhất cũng nghoẹo cổ, méo mồm, v...v...Đúng không ?
- Bác thuộc các hội chứng như người trong nghề .
- Tôi có đọc sách y. Không nhiều nhưng cũng tạm đủ những kiến thức sơ giản. Tôi mở được mắt là biết mình gặp may. Như các cụ dậy : gặp thày gặp thuốc. Nói thêm lời nữa người ta dễ cho là khách sáo nhưng dẫu sao tôi vẫn phải nói : Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vô cùng.
- Không có gì. Đó là phận sự của chúng tôi.
Bác sĩ có vẻ hơi bối rối. Anh ta vội chào ông rồi bước ra khỏi phòng. Lát sau, một cô y tá đi đến :
- Hôm nay bác uống sữa. Ngày mai cũng vậy. Từ thứ sáu trở đi chế độ ăn uống sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình sức khoẻ. Bác sĩ nói rằng có thể bác muốn ăn cháo ngay trong ngày hôm nay nhưng như thế bất lợi.
- Cảm ơn. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Các anh các chị không phải băn khoăn.
- Giờ tôi pha sữa cho bác nhé ?
- Không cần. Tôi chưa thấy đói. Lát nữa, tôi sẽ tự phục vụ mình.
Cô y tá bước đi. Ông tiếp tục xoa và lắc cổ. Một nguyên tắc ông đã thực hành từ thuở trai trẻ và chưa bao giờ vi phạm : Không đói thì không ăn. Vả chăng, những ngày ông mê man, người ta đã liên tục tiếp các chất nước khoáng, đường và đạm nên ông không có cảm giác thiếu hụt. Chỉ một sự tê cứng ngự trị toàn thân. Điều ấy khiến ông khó chịu. Ông bắt đầu cuộc chiến đấu. Nhưng dầu ý chí của ông mạnh mẽ, cơ thể ông chưa thể kham nổi cuộc đọ sức quá sớm. Chỉ hai mươi phút sau, tay ông đã rã rời và ông chìm vào giấc ngủ mới. Lần này, ông ngủ một mạch tới chín giờ tối mới thức dậy, thấy cơn đói đang bào dạ dầy. Ông ngồi lên, tuy có một thoáng lao đao nhưng sau đấy mọi cử động trở lại chính xác và chắc chắn. Ông đứng dậy, pha sữa uống, vừa uống vừa lắng nghe cơ thể hồi dần, nghe hơi ấm lan toả từ lồng ngực cho đến chân tay, nghe máu luân chuyển trong huyết mạch, một cảm thức mới mẻ ông chưa từng biết bao giờ : sự hồi sinh !
- Tôi là láng giềng của bác. Bác có nhớ ra tôi không ?
Có tiếng ai đó cất lên bên tai ông. Ông quay lại, thấy một người đàn ông ăn bận chải chuốt, đứng tựa lưng vào tường, nhìn ông với đôi mắt ấm áp, tươi cười.
- Hình như...
Ông đáp với vẻ bối rối, cố lục tìm trong trí nhớ cái vẻ đỏm dáng kia, cái mốt của những năm bốn mươi, đầu dợn sóng và cổ áo sơ-mi sáng màu bên trong bẻ ra che chiếc áo khoác ngoài màu đặc biệt sẫm :
- Thú thực, vừa quên vừa nhớ...Tuổi già mà ...
Ông đáp, một lần nữa cố lục tìm trong dĩ vãng hình ảnh người đàn ông phương phi, tóc chải kiểu Yve Montand, đôi mắt chạy ngang, sống mũi đều và một cái miệng đỏ hồng, môi cong cong, chắc chắn là loại đàn ông lắm điều, bẻm mép.
- Tôi là Trần Phú, nhưng không phải Trần Phú tổng bí thư đảng hồi tiền khởi nghĩa mà là người khoèo chân sang võng của bác năm bốn mươi bẩy, trong cuộc chỉnh huấn tại bản Nậm Mài. Bác đã nhớ ra chưa ?
- A...a ....giờ thì tôi đã nhớ ra. Bởi anh tự xưng là láng giềng, tôi cứ lục tìm mãi danh sách người quen trong cái phố huyện xưa, nơi chôn rau cắt rốn.
- Nằm sát nhau suốt hai tháng như thế, võng sát võng, chân cọ vào chân, còn hơn là láng giềng chứ. May mà tôi lẫn bác đều không phải người đồng tính, nếu không ắt xảy ra chuyện.
- Đúng thế thật.
Ông xác nhận và bật cười.
Anh chàng Trần Phú hỏi :
- Bác còn mệt lắm không ?
- Đỡ rồi.
- Ngồi cho thẳng lưng rồi cố gắng xuống giường đi lại vài bước. Sau mấy bước đầu tiên, bác sẽ muốn đi một vòng quanh hành lang và tốc độ cứ thế mà thăng tiến. Đấy là cách tốt nhất để giúp máu lưu thông. Bác sẽ hồi sức rất nhanh, tôi tin như vậy.
- Cảm ơn. Tôi cũng hy vọng được như thế.
Ông đáp và đưa mắt tò mò ngắm nhìn anh ta :
- Còn anh, bí quyết nào khiến thời gian không chạm vào anh được ?... Từ đấy đến đây đã hơn hai mươi năm, sau giây phút bỡ ngỡ, tôi thấy anh gần như vẫn giữ được phong độ cũ.
- Tôi thay đổi khá nhiều. Hơn hai mươi năm đâu phải là chốc lát. Anh không nhìn thấy cái bụng tôi sao ?
Nói tới đây anh ta vạch áo Blu-dông lên cho ông xem. Ông thấy bụng anh ta rất đỗi bình thường. Rất đỗi bình thường ngay cả với một người đàn ông tuổi bốn mươi. Ông bảo :
- Tôi không thấy gì. Nhiều lắm là vòng bụng tám mươi. So với mọi người, nó vẫn là con số lý tưởng.
- Ồ, không ....Tôi không thể chấp nhận được. Bác nhớ ngày xưa tôi nổi danh khắp chiến khu là ― Trần Phú eo ếch, vòng bụng sáu mươi chẵn, không hơn một ly. Bụng tôi còn nhỏ và săn hơn cả bụng mỹ nữ.
- Anh điên sao? Hơn hai mươi năm rồi còn gì ?
- Vấn đề là chúng ta kém nên mới để mình tàn phế theo thời gian. Tôi biết có ông cụ ngoài tám mươi da vẫn không nhăn, vòng bụng vẫn sáu mươi tám, không suy suyển.
- Tám mươi mà da không nhăn ? Anh cường điệu. Xin lỗi, tôi không tin nổi.
- Anh phải tin. Rồi anh sẽ phải tin. Tôi lý giải cho ngay đây : Các mỹ nhân vẫn giữ nhan sắc bằng cách xoa mặt. Mát-xa là biện pháp giữ nhan sắc lẫn sức khoẻ cổ truyền. Ở Ba-Tư, người ta bán hàng trăm loại dầu thơm khác nhau cho các phòng tắm phục vụ khách, đương nhiên khách chỉ có thể là vương tôn, vọng tộc hoặc các thương nhân giàu có. Thế nhưng chính mát-xa cũng không thể chống được sự nhăn da bởi khi thao tác, người ta phải kéo da qua lại theo chiều ngang, nghĩa là buộc thớ da giãn nở. Khi đã giãn nở, ắt nó phải biến hình. Vì thế, biện pháp mát-xa tuy khiến cho máu lưu thông, da tươi khoẻ hồng hào nhưng vẫn tiếp tục làm hình thành các nếp nhăn. Để chống lại nhược điểm này, người ta phải tìm đến một phương pháp mới.
- Lý thuyết của anh xem ra chừng hấp dẫn. Tôi bắt đầu tò mò rồi đây.
Ông vừa nói vừa cười, một nụ cười vừa cởi mở vừa đầy tinh thần cảnh giác. Trần Phú cũng cười :
- Anh chưa tin đâu. Nhưng anh tin hay không tin đối với tôi cũng vậy. Tôi chẳng phải thằng Sơn Đông mãi võ bán thuốc ế giữa chợ để moi trong túi anh mấy đồng tiền ?Tôi chỉ hành động theo đúng phương châm :Thấy điều gì tốt đẹp mà chẳng nói cho mọi người cùng hay chính là kẻ biển thủ, cũng như thấy cái hố giữa đường không kêu to cho thiên hạ biết là kẻ có dã tâm.
- Ồ....Đừng đao to búa lớn như vậy...Nào, anh hãy nói về biện pháp của ông lão tám mươi mà da chưa hề nhăn kia.
- Ông lão ấy chính là trưởng môn phái Nhất nam. Nhà ông cụ ở sát gò Đống Đa. Nếu anh muốn, hôm nào tôi sẽ dẫn đến thăm, tiện thể xem đám đệ tử của cụ biểu diễn. Tôi tin là anh sẽ mê môn võ này tắp lự. Còn về phép giữ da cho khỏi nhăn, biện pháp của ông cụ vô cùng đơn giản : Tát !
- Tát ?...
Ông gần như không tin vào tai mình nữa:
- Anh nói gì ? Tát ?
- Tát !
Trần Phú khẳng định một cách lạnh lùng :
- Tát...Nghĩa là tát. Người ta chẳng thể tìm ra từ nào khác để diễn tả cái động tác : Tát...
- Tát ? Tôi không hiểu ?
- Tát, nhưng không phải tát quân thù, tát nảy đom đóm mắt, tát sặc máu mũi máu mồm, tát sái quai hàm rơi răng cửa. Không phải tát để cho người bị tát phải chịu thương tổn hoặc toi mạng. Cùng là tát, nhưng động tác vừa đủ cho máu huyết tuần hoàn, chống lại sự lão hoá, nhưng vẫn giữ được nguyên hình dạng cũ của làn da. Đây, tôi làm mẫu cho anh xem.
Dứt lời, anh ta giơ hai bàn tay cùng một lúc tát lên mặt, trước hết là hai hàm rồi những cái tát nhịp nhàng lan dần dần lên hai gò má, hai thái dương và sau rốt hai bàn tay cùng hội tụ trên trán :
- Bốp, bốp, bốp, bốp, bốp....
Ông không thể ngăn anh ta lại, vừa sửng sốt vừa bối rối trước cuộc thị phạm đầy hào hứng kia, một lát sau ông mới hạ giọng thì thầm :
- Thôi, thôi. Tôi hiểu rồi. Chúng ta không nên làm ảnh hưởng tới những người xung quanh.
Anh ta lập tức hạ giọng thì thầm theo:
- Bác để ý làm quái gì mấy cái xác chết di động ấy ? Muốn sống cho vui vẻ, coi như họ không tồn tại trước mắt mình.
Ông kinh hoàng vì lối nói ngang ngược của anh ta nên vội vàng đứng lên, dù động tác ấy khiến ông hơi choáng váng :
- Chúng ta ra hành lang. Tôi thử xem sao.
Ông vội nói.
- Tốt, để tôi dìu bác đi.
Trần Phú đáp đoạn đưa tay ôm vòng lưng ông. Tay anh ta ấm nóng, rắn chắc, báo hiệu một cơ thể còn vững vàng. Ông thấy dễ chịu khi đi bên cạnh con người này, một cảm giác an toàn và ấm áp. Họ đi dọc hành lang. Cùng với những bước chân, trí nhớ của ông dần le lói ánh hồi quang của những đêm rừng hơn hai mươi năm trước. Ngày ấy, anh chàng sĩ quan Trần Phú loẻo khoẻo, tuy đã nổi danh là bậc chỉ huy đầy triển vọng nhưng suốt ngày chỉ ham làm dáng khoe eo ếch trước đám lính. Hễ anh ta ngồi đâu là lính xúm đen xúm đỏ ở đấy, há hốc mồm nghe anh ta nói chuyện. Chẳng ai biết chính xác những câu chuyện ấy nhưng chắc chắn đó là thứ chuyện tếu táo, bởi sau một hồi yên lặng lại thấy cả đám rú lên cười, cười bò lăn bò toài, cười như mắc chứng động kinh tập thể, cười như lũ điên. Cấp trên, tuy vô cùng tín nhiệm anh ta về kinh nghiệm trận mạc song cũng đầy hồ nghi vì tính cách kì quái của gã trai Hà thành.
Hồi ấy, ban ngày họ phải tham dự các cuộc chỉnh huấn. Ban đêm, lên võng rồi nhưng Trần Phú vẫn không chịu ngủ, thò chân sang khoèo chân ông khiến ông buộc phải chui đầu khỏi màn để nghe anh ta thì thầm đủ loại chuyện tiếu lâm rồi cả hai lấy tay bụm miệng lại cười rinh rích...Ngày ấy, họ là những chàng trai...Giờ, tuổi xuân chỉ còn là hoài niệm ...Hẳn Trần Phú cũng đang nghĩ ngợi điều gì đó nên cái miệng muôn đời tép nhảy của anh ta cũng ngừng hoạt động. Cứ thế, họ im lặng đi mấy vòng quanh hành lang rồi ngồi xuống chiếc ghế dài :
- Bác đã mệt chưa ?
- Lúc đầu, hơi choáng váng. Nhưng sau khi đi hết vòng đầu lại thấy bình thường.
- Như thế là tốt. Cơ thể bác sẽ bình phục một cách hoàn hảo.
- Ai bảo anh thế ?
- Bác sĩ.
- Bác sĩ trưởng phòng ? Người buổi sáng vừa gặp tôi ?
- Đích xác. Bác đã gặp may. Đó là người có tay nghề cao nhất viện. Chính anh ta ra chỉ định kéo dài thời gian hôn mê của bác một cách nhân tạo. Như thế, tránh được khả năng chịu đựng các di chứng đồng thời cơ thể cũng hồi phục nhanh hơn. Tôi theo rõi nhịp thở của bác khi chúng ta đi , và tôi chịu anh chàng này là lão luyện.
- Tôi thấy anh cũng lão luyện không kém....Anh có học y hay sao ?...
- Không. Nhưng tôi đọc. Tôi là giám đốc nhà xuất bản văn hoá thông tin. Vì thế, tôi buộc phải đọc. Vả chăng, khi ta tiến đến tuổi già, sớm hay muộn, muốn hay không bệnh tật cũng sẽ kéo đến. Tốt nhất là phải hiểu chúng trước khi lũ khách không mời này đột nhập vào nhà.
- Anh chuyển ngành từ hồi nào vậy ?
- Tắp lự. Ngay sau ngày giải phóng thủ đô.
- Nhưng...
Ông định hỏi rồi bất chợt ngưng lại. Thời quen biết ông , Trần Phú đã là tiểu đoàn trưởng 5O7, tiểu đoàn quân khu thủ đô. Anh ta được đánh giá là một trong những sĩ quan nổi trội nhất, vì vốn kiến thức, óc sáng tạo và khả năng linh cảm khác thường. Với dáng điệu mảnh dẻ của gã trai Hà thành và cặp môi đỏ như son, vừa bẻm mép vừa đa tình, anh ta khiến biết bao cô nàng chết mê chết mệt đã đành, nhưng cũng thuộc loại chỉ huy được tín nhiệm, có thể bảo lính nhẩy vào lửa mà không sợ phản ứng. Tại sao anh ta lại giã từ quân đội một cách uổng phí khi sự nghiệp đầy hứa hẹn ? Vũ tự hỏi. Nhưng rồi, ông tự biết rằng có những sự thật nằm bên ngoài thứ lô-gic thông thường. Và thứ lô-gic thông thường mà số đông chấp nhận lại dung chứa những phi lý khi ta nhìn từ hướng khác.
Có lẽ, cũng phải trả giá khá đắt ông mới hiểu điều này.
Dường như đoán được những ý nghĩ thầm kín của ông, Trần Phú ngoạc mồm ra cười :
- Bác nuối tiếc cho sự nghiệp quân sự của tôi, đúng không ? Vì rằng đám lính dưới quyền tôi giờ này đã nhất loạt đeo lon tướng ? Trong khi tôi chỉ là anh cán sự văn hoá quèn, chẳng thứ bộ trưởng đã đành, cũng chẳng leo lên nổi chức cục,vụ ? Nhưng đấy chính là tự do của tôi, sự lựa chọn của tôi. Khi đất nước lâm nguy, vì phận sự của công dân tôi đành cầm kiếm. Nhưng trận mạc đã xong, tôi trả lại cho người khác giữ, sự nghiệp của võ quan chẳng phải thứ tôi ham. Giữa mũ mãng cân đai và sự thanh nhàn, tôi chọn vế sau.
- Trước đây, có thể tôi còn băn khoăn, nhưng giờ tôi hiểu là anh có lý.
- Cảm ơn, cái lý của tôi có thể là sự phi lý đối với kẻ khác. Cũng ví như những lời lẽ của tôi có thể làm chướng tai kẻ khác, đám người cùng phòng với anh chẳng hạn. Nhưng cuộc đời chẳng quá dài để khiến ta phải chiều lòng tất thảy chúng sinh.Ta cứ làm điều ta muốn miễn đó chẳng phải những hành vi phi đạo đức hay phi nhân. Nào, tôi tháp tùng anh về phòng. Giờ anh uống thêm cốc sữa nữa rồi đi ngủ. Tôi cam đoan rằng ngày mai anh sẽ ăn được cháo thịt.
Họ về phòng. Ông ngoan ngoãn uống đầy một cốc sữa nóng trước khi đi ngủ. Và quả thật, giấc ngủ của ông viên mãn. Sáng hôm sau, khi ông tỉnh dậy đã thấy Trần Phú đang đấu hót với bác sĩ trưởng phòng ngoài hành lang. Cả hai đều có vẻ hào hứng. Hẳn ông thầy thuốc vừa kinh ngạc vừa thú vị vì gặp được một con bệnh thuộc lòng như cháo chảy mọi ngón nghề của mình. Thấy ông tỉnh giấc, họ quay lại:
- Xin chúc buổi sáng tốt lành.
Trần Phú lên tiếng trước. Bác sĩ mỉm cười tiếp theo :
- Hôm nay bác sẽ ăn cháo thịt. Xin chúc mừng vì bác chuyển giai đoạn dinh dưỡng nhanh gấp bội những người bình thường.
Ông cũng cười, đáp :
- Hẳn là anh bạn tốt bụng của tôi đã đề nghị thầy thuốc cho tôi được leo thang ?
- Không. Chẳng ai có quyền đề nghị. Chỉ định chuyên môn bao giờ cũng độc đoán. Nó chỉ tuân theo những nguyên tắc nghề nghiệp thôi.
Bác sĩ trả lời đoạn giơ tay chào ông rồi vội vã ra đi vì người ta đang gọi anh ta dồn dập từ phía cuối hành lang. Trần Phú vào phòng, trước những ánh mắt hoặc gườm gườm hoặc ghẻ lạnh của đám người xung quanh. Nhưng anh ta tỏ vẻ phớt lờ. Bước tới đầu giường Vũ, anh ta lục soát đống cam, chuối và các loại bánh kẹo chất chồng trên chiếc tủ nhỏ :
- Bác không nên dùng những thứ này...Để tôi đem phân phát cho mấy phòng xung quanh. Tuy gọi là viện Việt-Xô, chuyên dành cho cán bộ cao cấp song cũng ối người chẳng đủ tiền mua hoa quả. Còn những gói bánh này nữa, đem làm từ thiện được rồi; tuổi bác không nên ăn loại bánh kẹo ―quốc doanh. Tôi có thể san sẻ cho bác phần bánh của tôi.
Nói xong, không chờ ông đáp lời anh ta quay quả bước khỏi phòng rồi lát sau trở lại với chiếc làn nhôm. Bỏ tất thảy đám hoa quả, bánh trái vào làn, anh ta mang đi không nói thêm nửa lời. Ông cũng không dám nói gì, lẳng lặng pha sữa uống, thầm ngượng ngùng vì ánh mắt theo rõi của đám người xung quanh. Nhưng cảm giác đói đã trở lại với tốc độ ngựa phi nước đại khiến ông bình tâm. Vừa uống sữa, ông vừa nhìn những vòm cây đung đưa ngoài trời, tưởng như mình đang ở một miền đất lạ, nơi ông chưa từng đặt chân tới và do đó, nó cắt rời với thế giới ông từng sống, nó là sự gián đoạn vĩnh viễn với những ngày sau lưng ông, nó là lục địa mới vừa được mở ra cùng một lần với cuộc trở về từ cõi chết.
Sau bữa cơm trưa, Trần Phú quay trở lại, với một làn đầy hoa quả mới. Anh ta xếp chúng một cách thứ tự lên chiếc tủ đầu giường :
- Anh bắt đầu ăn cháo mặn có nghĩa là anh có thể dùng tất thảy những thứ hoa quả này, chẳng cần kiêng cữ. Còn đây là bánh Phơ-lăng và Ma-đơ-len, chính tay cô em gái tôi làm. Anh có thể ăn kèm khi uống sữa hoặc trà nóng.
- Cảm ơn. Nhưng tôi thật khó nghĩ khi anh quá tốn kém.
- Ồ không. Không quá tốn kém như anh tưởng. Tất cả do em gái tôi chuẩn bị. Tôi vốn được chiều từ nhỏ, dù gia đình khá đông. Thôi, anh nghỉ trưa đi, mai sẽ gặp lại.
- Để tôi đưa chân anh, tiện thể vận động cho sảng khoái.
- Nhất trí.
Khi họ đã ra cầu thang, ông ghé tai anh ta nói nhỏ :
- Những người quanh giường tôi đều nhìn anh với con mắt lạ lùng. Vì sao vậy ?
- Vì sao ?
Trần Phú hỏi lại với giọng ngạc nhiên :
- Anh không hiểu được điều đơn giản ấy hay sao ?
- Thú thực. Tôi không hiểu. Tôi cũng không thể giả vờ làm ra hiểu khi lòng tôi còn đầy thắc mắc. Xin anh thứ lỗi.
Trần Phú quay sang nhìn ông chăm chú, dường như bối rối, dường như cảm động. Đoạn anh ta hạ giọng :
- Nếu người khác đặt câu hỏi này tôi sẽ cho rằng anh ta đóng kịch ― con nai già ngơ ngác. Nhưng với anh, tôi tin đấy là câu hỏi thực tình. Có thể vì sự thơ ngây này tạo nên phẩm chất của anh, và có thể vì thế mà chúng tôi yêu anh, coi anh là người anh hùng cuối cùng của thời đại...
- Ồ...
Giờ, lại đến lượt chính ông bối rối. Ông không quen nghe người ta bầy tỏ tình cảm trực tiếp như thế bao giờ. Trần Phú tiếp tục chăm chú nhìn ông như nhìn một bức tranh trong phòng triển lãm, rồi anh ta cất tiếng:
- Anh không biết rằng xã hội của chúng ta là xã hội phân cấp một cách quyết liệt và dã man cho dù nó vẫn thường xuyên được quảng cáo là bình đẳng, tự do và dân chủ.? Ngay ở đây, người ta cũng vẫn phân hạng, và nhòm ngó nhau theo tiêu chuẩn cấp bậc. Đám người cùng phòng với anh đều là chuyên viên bậc tám, bậc chín, nghĩa là bậc tót vời trong hạng ngạch chuyên viên. Trong khi đó, tôi chỉ là cán sự sáu, vừa đủ ngót nghét nhận sổ vào đây điều trị. Bởi vậy mà họ coi thường tôi. Nhưng trong khi họ vênh váo vì cấp bậc thì về mặt nhân dạng họ chỉ là một đám xác chết biết đi. Anh đã để ý cách họ khua thìa khoắng bát cháo hay họ xêu từng hạt cơm bỏ vào mồm hay chưa ?
- Chưa. Thú thực tôi chưa dám nhìn thẳng hoặc trò chuyện lâu với họ vì ngại.
- Vì sự có mặt của tôi. Và vì họ nhìn tôi với con mắt ác cảm nên anh cũng tự thấy họ không thể có thiện cảm với anh?
Ông mỉm cười thay cho lời thú nhận. Tức khắc Trần Phú cũng cười phá lên :
- Tôi biết ngay mà. Tính anh vốn cả nể. Bản chất anh nho nhã thanh lịch hơn tôi, cho dù tôi gốc trai Hà thành còn anh là dân tỉnh Bắc. Nhưng trong tôi luôn có một kẻ bất cần, một thằng khiêu khích. Đối với hạng người dở dói như vậy, tôi xem như đám nộm bằng giấy bồi. Tôi dìm thói hợm hĩnh của họ chết sặc trong vũng bùn ghen tuông. Anh xem đây...
Trần Vũ vén ống tay áo để cho ông nhìn thấy cánh tay anh ta còn nổi vồng bắp thịt, da đỏ au phủ đầy lông :
- Họ hơn tôi bao nhiêu cấp bậc nhưng cẳng chân họ không nhỉnh hơn cánh tay tôi. Cùng một năm sinh nhưng hai hàm răng họ là của giả trong khi tôi mới rụng một chiếc răng số tám. Buổi sáng, tôi xơi vèo bát phở với hai cái đùi gà trong khi họ khua thìa trong bát cháo loãng ngoét. Buổi trưa tôi chén hai bát cơm đầy với cá nhà kho trong khi họ nhai mãi không hết xuất cơm thịt bò xào dai nhoách của bệnh viện. Đó, chính là lý do mà họ nhìn tôi với những cặp mắt ghen tức nếu không muốn nói thẳng là căm thù. Con người luôn luôn như vậy, muôn kiếp như vậy, cho dù họ đã đứng sát cửa mồ. Anh chẳng cần phải bận tâm. Thôi, anh về phòng nghỉ trưa đi. Mai tôi sẽ đến.
Trần Phú giơ tay chào ông rồi xuống cầu thang. Đúng là anh ta mới chỉ đủ quyền nhận sổ vào viện này, nên phải ở khu nhà cuối cùng, nơi dành cho những bệnh nhân xoàng nhất, không được quyền ưu đãi về thuốc men cũng như chế độ phục vụ. Nhưng những bất lợi về địa vị xã hội lại khơi gợi cho con người này tính vui vẻ bất tận và sự hả hê mà anh ta tìm được trong trò chơi khiêu khích. Tinh thần lạc quan là vũ khí đích thực của anh ta. Ông nghe tiếng gót giầy của Phú nện trên cầu thang một cách nhẹ nhõm, và cùng nhịp chân bước, tiếng hát anh ta khe khẽ vọng lên:
― Rồi sóng sẽ xoá đi tất thảy trên bờ cát
Dấu chân xưa của các lứa đôi và những cặp tình nhân...
Bài hát của những năm bốn mươi. Những chàng sinh viên mơ mộng và những cô nàng thướt tha áo trắng. A! Tuổi trẻ của ông. Bóng ma của nó theo về cùng bài ca cũ. Nhưng ông lập tức xua đuổi chúng bởi một nỗi sợ hãi bóp nghẹt con tim :
― Không!...Không!...Không!...
Ông vội vã trở lại phòng, lên giường nằm hòng kiếm giấc ngủ nữa nhưng giấc ngủ không tới. Sau cùng, ông đành tung chăn ngồi dậy. Người bệnh nằm đối diện với ông mở mắt ra :
- Bác chịu thua, không ngủ được ?
- Vâng.
- Tôi cũng vậy. Không ai thắng được tuổi già.
- Vâng.
- Anh chàng bảnh trai bạn của bác tối nay có đến chơi không ?...
- Không. Anh ấy hẹn ngày mai.
- Anh ta không nhớ tôi nhưng tôi biết anh ta rất rõ.
- Thật vậy sao ?
- Trước đây tôi từng là đồng cấp khi anh ta cầm quân 507.
- Rồi bao lâu sau bác mới chuyển ngành ?
- Tôi không chuyển nhành. Tôi vẫn phục vụ trong quân ngũ cho tới tận giờ.
- Ô...Vậy sao ?
- Bác muốn hỏi vì sao tôi lại lạc vào đây mà chẳng điều trị ở viện IO8, đúng không ? Bởi tôi ở đây cũng giống như con ngựa lạc sang chuồng dê vậy ?
Ông ta nhắm mắt lại. Đôi môi khô thâm xì vừa co vừa giãn trong một nụ cười nhăn nhó và chua chát :
- Bởi giám đốc viện ấy là kẻ thù sinh tử của tôi. Tôi không thể đem thân vào đấy để nó thịt tôi như thịt một con gà.
Vũ lặng thinh, không biết nói gì hơn. Nụ cười nhăn nhó vẫn đọng trên môi người bệnh, khiến mặt ông ta giống chiếc mặt nạ bằng sáp.
Hơi thở ông ta dập dồn và có những tiếng khò khè rất mạnh kèm theo. Thi thoảng, những tiếng khò khè ấy kết thành chuỗi nhất loạt trút ra như gió rít, một thứ âm thanh ma quái.
― Tất thảy đều dẫn tới cái kết thúc. Mọi ngả đường đều dẫn tới một nơi cuối cùng. Nhưng ngay trong hành trình tiến về cõi chết, con người cũng vẫn sống với những ân oán của họ, những giằng trói không thể nào tháo cởi.
Ông nghĩ, khi nhìn con người tội nghiệp kia.
Rồi ông rón rén đứng dậy, đi ra ngoài. Chính lúc ấy, người bệnh lại cất tiếng dù đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Sau một hồi khò khè, giọng anh ta xìu xuống như bánh mì gặp nước :
- Bác nói với Trần Phú rằng anh ta chính là kẻ khôn ngoan và may mắn. Anh ta biết sống đúng cuộc sống của anh ta.
- Vâng, tôi sẽ nói.
- Chớ kể gì về tôi...Cứ bảo rằng một sĩ quan đồng cấp nhắn như vậy.
- Vâng.
- Rằng tôi chúc anh ta càng về già càng vui vẻ.
- Vâng.
- Tôi ...cũng chúc bác được như vậy...
- Cảm ơn.Tôi không may mắn có được cuộc sống vô tư như anh bạn kia.
- Tôi biết....Tôi biết...bác là ai....
Ông ta ngừng lại để thở vì một chuỗi tiếng khò khè lại dồn đến và cái khí cụ ma quái trong lồng ngực ông ta rít lên từng hồi. Lát sau, ông ta nói tiếp:
- Nhưng dù sao....tôi cũng vẫn chúc bác....được hạnh phúc.
Một nụ cười nhăn nhó và chua chát lại xuất hiện trên đôi môi đen tím của ông ta khiến Vũ ái ngại. Ông hỏi :
- Bác có cần tôi đi gọi bác sỹ trực phòng không ?
- Cảm ơn. Tôi biết bệnh của tôi. Bác cứ ra ngoài mà dạo chơi cho thanh thản. Đi đi.
Ông không biết làm gì hơn là đi ra hành lang một cách vội vã. Một cách vội vã, ông xuống cầu thang rồi ra giữa sân bệnh viện, đứng như bức tượng, mắt dán vào những bóng cây như tìm nơi trú ẩn cho tâm hồn đang run rẩy của mình. Nỗi sợ đang dồn đuổi ông:
― Ồ, mấy ngày trước, không hiểu bộ dạng ta có thảm hại như họ hay không ? Ôi, nếu ta cũng có gương mặt vàng xám như sáp ong bẩn, nếu miệng ta cũng há hốc ra như mồm cá ngão chết trên mẹt hàng cá, nếu hai bên mép ta cũng chảy dãi dớt như những kẻ nằm cùng phòng ? Chao ôi, kinh khủng thay cho kiếp người !
Ý nghĩ ấy khiến ông rùng mình liên tục. Những cơn rùng mình làm sởn gai ốc, thật giống cơn rùng mình khi nhiễm lạnh hoặc khi nghe chuyện ma quái :
― Ta cần một cuộc sống lành mạnh và hữu ích. Nếu mai đây, khi ý trời không thuận, ta sẽ tìm đến cái chết một cách thanh thản. Như thế, là cuộc giải phóng tối ưu.
Trước mặt ông, hàng cây đứng la đà trong nắng. Thuần là cổ thụ. Những cây sấu già, những cây xà cừ và những cây bằng lăng hoa tím. Chúng mọc chen chúc nhau, chẳng ra hàng lối nhưng tạo thành hòn đảo giữa khoảnh sân mênh mông. Hẳn là khối diệp lục phì nhiêu này từng cứu vãn nhiều người bệnh trong những cơn khủng hoảng tâm lý, như nó cứu vãn ông vào chính lúc này.
Vũ ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại để nghe tiếng lá xạc xào và tiếng chim chành choẹ nhau. Bất chợt, một vật gì đó ướt nhão rơi toẹt vào mặt ông, ngay chính mũi. Ông mở choàng mắt ra và hiểu rằng một con chim hỗn xược nào đó vừa ỉa đúng mặt mình. Ông lục túi, tìm khăn lau bãi cứt chim. Lúc ông đang cắm cúi lục soát, một bàn tay đã chìa ra trước mặt ông, với một chiếc khăn tay :
- Anh hên đấy. Chim ỉa đúng đầu đúng cổ là có lộc. Chẳng lộc to như tiền tệp vàng khối thì cũng lộc nhỏ như gói bánh, hòn xôi.
Không ngẩng đầu lên, ông vội túm ngay lấy chiếc khăn, vội vã lau mặt :
- Anh tìm ở đâu ra thứ lý thuyết ấy ?
- Thứ lý thuyết ấy có lâu rồi, đại huynh ạ.
Một giọng lạ hoắc cất lên khiến Vũ vội vã ngẩng đầu : Trần Phú không đến một mình mà với một người đàn ông khác. Chính vị khách này vừa cất lời đối đáp ông :
- Đại huynh không biết từ xưa dân chúng đã tin rằng nằm mê thấy phân là có lộc ?
- Cũng đôi lần tôi nghe nhưng không để ý.
Vũ đáp.
Người đàn ông kia ngoác miệng cười, miệng anh ta rộng mênh mông, kéo đến tận hai mang tai khoe ra hai hàm răng vàng khè khói thuốc, đôi mắt hấp háy sau cặp kính cận dày. Gương mặt đen đủi, chẳng có một đường nét khả dĩ vậy mà vẫn toát ra một vẻ hấp dẫn, một thứ hấp dẫn khó cắt nghĩa. Anh ta tiếp tục diễn giảng ý kiến của mình :
- Bởi chúng ta là dân trong xứ trồng lúa nước, nên buộc phải hiểu hàm ý biểu tượng của những giấc mơ phân.
Ông cười. Lúc ấy, Trần Phú mới giới thiệu :
- Đây là anh Trần Vũ, người anh hùng của thời đại...Còn đây là bạn tôi, nhà văn Lê Phương. Chúng tôi cùng bỏ nhà đi theo cách mạng năm bốn mươi lăm, lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi.
Họ bắt tay nhau rồi Trần Phú đề nghị đi đến căng-tin bệnh viện, nơi khả dĩ có đủ bàn ghế ngồi và có thứ để giải khát. Ba người đi hết khoảnh sân là đến căng-tin, một gian nhà rộng thênh thang, vài chục dẫy bàn ghế xếp hàng chờ khách nhưng thực khách lưa thưa chỉ dăm bẩy người, người nào cũng có vẻ đăm chiêu, hờ hững. Họ chọn chiếc bàn ít bụi nhất, phỏng chừng như thế, vì nó được kê gần quầy bán hàng, cũng sát khuôn cửa sổ. Khuôn cửa này mở ra mảnh vườn phía sau viện, tuy nhỏ nhưng cũng xanh rờn bóng cây me, cây dâu da lẫn cây hoa sữa. Quầy bán hàng vắng tanh. Trần Phú đứng giữa khuôn cửa, cất tiếng :
- Này !... Các em bán hàng ơi .
Chẳng thấy ai đáp. Anh ta lại cao giọng hò :
- Này, các nàng căng-tin ơi.
Cũng chẳng ai trả lời. Anh ta phải gần như hét lên :
- Này, căng-tin bệnh viện đâu rồi ? Ai ? Ai bán hàng ở đây ?
Lúc đó, một ông khách đang ngồi ăn bánh rán khuyên :
- Bác phải ra giữa sân mà gọi....Mấy con bán hàng đang đú đởn trong phòng bảo vệ kia kìa ...
- Cảm ơn.
Phú đáp, đoạn anh ta rảo bước qua sân, đến chính giữa cửa phòng bảo vệ mà hỏi :
- Ai bán căng-tin ở đây ? Chúng tôi chờ nửa tiếng rồi.
- Đây ! Chúng em đây ...
Hai ba cô tranh nhau đáp rồi cả đám chạy nhao về phía căng-tin, vừa chạy vừa cười rinh rích. Trần Phú quay lại, giọng không còn cợt nhả mà đầy vẻ khó chịu và đe doạ :
- Nhanh tay lên. Hai phin cà-phê và một ấm trà loại một. Tôi sẽ bỏ qua cho các cô chuyện này.
- Cảm ơn thủ trưởng ạ....Chúng em xin lỗi ạ ...
Mấy cô gái đáp, không còn cười mà bắt đầu sợ hãi. Một cô vội vã lấy giẻ ra lau chiếc bàn họ đang ngồi. Cô thứ hai pha trà và cô thứ ba đổ cà-phê vào phin.
Lúc ấy, Trần Phú ngồi vào bàn :
- Anh Vũ đã nhìn thấy chưa ?
- Tôi có thấy.
- Không hiểu cái ông Trần Phú bí thư đảng cộng sản kia nếu còn sống, ông ta sẽ nghĩ gì về cái tình cảnh này ?
- Thôi, chuyển đề tài.
Lê Phương gàn :
- Chui vào loại đề tài này là chui vào sừng trâu. Một đường hầm không ánh sáng. Bởi chẳng cứ Trần Phú mà biết bao nhiêu con người tài cán hơn ông ta cũng không thể hình dung nổi cái xã hội mà họ tạo ra sẽ mang gương mặt nào. Cách mạng bao giờ cũng là một cuộc hoài thai mà đứa bé ra đời nếu chẳng phải quái thai thì cũng hoàn toàn khác với giấc mơ hay trí tưởng tượng của những người tác tạo nên nó. Chúng ta trở lại với cuộc sống nhỏ bé của mình. Hôm nay là một ngày vui, bởi anh Vũ chính là người mà lâu nay tôi thầm muốn gặp mặt. Câu xưa là « danh kì thanh, tướng bất kì hình »
- Ồ ...Tôi không dám.
- Khi xưa tôi đọc « Một anh hùng thời đại » của Léc-mông-tốp, biết đây là thứ tiểu thuyết- tự truyện, và nhân vật chính rất đẹp trai. Giờ gặp anh, tôi thấy anh cũng đẹp trai như vậy.
- Ồ, các anh quá khen. Tôi đâu phải tài tử điện ảnh ?
Vũ đáp, cảm thấy hai mang tai nóng rần vì ngượng.
Trần Phú lẫn Lê Phương chăm chú nhìn ông như những gã buôn đồ gỗ ngắm một cái tủ khảm trai đủ long, ly, quy, phượng, rồi cả hai cùng ngoác miệng cười :
- Thật sung sướng thay cho ai được làm vợ anh. Một người đàn ông đẹp trai dường ấy mà còn thẹn đỏ tai vào tuổi ngũ tuần.
- Ồ...
Vũ chẳng biết nói năng ra sao. Hai gã đàn ông này lạc từ một miền xa lạ tới, ngôn ngữ của họ, cách biểu đạt của họ, và những ý tưởng của họ, tất thảy đều lạ lùng với ông, với thế giới của ông, thế giới của những con người nằm trong guồng máy quyền lực. Ông đành lái câu chuyện sang hướng khác :
- Đêm qua tôi cứ nghĩ mãi. Hà nội bé như thế vậy mà vì sao sau hơn hai mươi năm chúng ta mới gặp lại nhau, kể từ ngày ở bản Nậm Mài ?
- Vì chúng ta đã rẽ sang những ngả đường khác nhau, và những ngả rẽ ấy càng ngày càng cách xa theo năm tháng. Rồi chúng ta lại gặp nhau ở đây, vì đây là trạm trung chuyển giữa cuộc sống và cái chết. Tất cả những kẻ bước chân vào đây là những kẻ đã được thần chết điểm danh từ xa. Họ cố kéo dài được chút nào hay chút ấy trước cuộc đầu hàng vĩnh viễn.
Trần Phú đáp, bộ điệu hớn hở của anh ta khiến ông phì cười :
- Tôi trông anh giống một thương gia chuẩn bị cưới vợ bé hơn là người chuẩn bị đi đến nghĩa trang.
- Chính xác một nửa. Tôi vào đây vì u tiền liệt tuyến. Bác sĩ đòi mổ nhưng tôi không chịu. Tôi kết hợp uống thuốc với dùng các thực phẩm có dược tính, ví như cà rốt sống, mộc nhĩ, cà chua sống. Đặc biệt phải loại trừ thịt, dù thịt lợn hay thịt bò. Thi thoảng được phép ăn gà vịt, với điều kiện lọc bỏ da và mỡ. Thực phẩm chủ yếu của tôi là cá đồng, tôm sông. Đương nhiên những thứ này do gia đình cung cấp. Qua bốn tháng xét nghiệm lại, phần u đã teo hai trăm gờ-ram. Giờ tôi cố công tìm một em xinh tươi, có khả năng khiến tôi « hoạt động cách mạng » một cách phi thường. Nếu được như vậy, ắt mọi thứ u đều tan biến.
- Tôi nghĩ là anh nói cho vui ...
Ông đáp. Lúc ấy Lê Phương xen vào :
- Anh có lý của anh và Phú có lý của nó. Bởi quan niệm sống của chúng ta khác nhau, nghiệm sinh cũng khác nhau nên niềm tin cũng khác nhau...Nhưng nếu anh chẳng còn nhớ ca dao, tục ngữ, tôi xin biếu anh câu này :
« Thông đái, ngon cơm. »
- Tôi cũng đã từng nghe, nhưng quên sạch. Các anh tài tình thật, làm sao mà những câu tục ngữ cổ xưa ấy còn đọng lại trong não đến tận bây giờ ?
- Bởi chúng tôi sống với chân lý của đám dân đen. Chân lý của dân đen là món hàng tồn kho nhưng không bao giờ mốc. Khi cần thiết, người ta có thể móc chúng ra và đem xài tức khắc, chẳng cần nấu nướng hay thêm hành thêm tỏi. Theo chân lý ấy, nếu đời sống tình dục của người đàn ông được hưng phấn, chính nó sẽ mang lại khả năng tái thiết những bộ phận bắt đầu lão suy.
- Ồ, chân lý của anh nguy hiểm thật. Nó sẽ xui khiến những người đàn ông bỏ gia đình để lao vào những cuộc phiêu lưu tìm hưng phấn.
- Chính xác như vậy. Nhưng không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Vấn đề phải tính ở đây là những trường hợp cụ thể và những nhân cách cụ thể. Không có mẫu số chung cho toàn thể nhân loại trong cuộc truy tìm hạnh phúc. Cũng không có một hằng số cho các cuộc phiêu lưu. Điều cốt yếu là .....
Lê Phương ngừng lời, rút trong một túi áo ra chiếc tẩu to đùng, trong túi áo bên kia gói thuốc lá rời sợi sẫm, rồi từ từ nhồi thuốc vào nõ tẩu. Vũ nhận ra rằng anh chàng nhà văn này có lối nói chuyện theo kiểu chương hồi, nghĩa là anh ta luôn luôn bắt mọi người chờ đợi. Chắc hẳn gã đàn ông xấu xí này đã quyến rũ không ít đàn bà với lối nói duyên dáng bẩm sinh. Ông cười :
- Anh bắt đầu khiến tôi tò mò rồi đây.
- Tôi tiếp tục.
Lê Phương đáp, nhưng anh ta còn rề rà châm lửa, rề rà rít thuốc, rề rà nhả khói...và khoảng thời gian chùng chình ấy khiến ông nghe rõ tiếng ong bay ngoài vườn, rù rì trên đám me xanh.
« Không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Sao đến tuổi này ta mới biết ? Moị sự quá muộn màng. »
Ý nghĩ ấy đưa ông trở lại với hình ảnh người đàn bà của ông : Tố Vân ! Lần đầu tiên, kể từ lúc ông bừng mắt tỉnh cơn hôn mê, cái tên ấy quay trở lại.
« Không....Không ...Không .... »
Ông chối từ quyết liệt vì cảm thấy giông bão sắp nổi lên quanh mình, và ông có nguy cơ bị cuốn vào luồng gió dữ.
Quay đầu lại, ông buộc mình tập trung vào cuộc đối thoại với nhà văn :
- Rồi sao nhỉ ? Tôi đang chờ anh đây.
Lê Phương nhe răng cười :
- Nhưng người đứng đắn như đại ca, nghe làm gì những lý thuyết xằng bậy của lũ đàn em, lũ đực rựa ưa rong chơi trên cõi đời ?
- Vì sao lại phân biệt đối xử như thế ?
- Vì đại ca thuộc loại người lo những việc quốc gia đại sự, chúng em là bọn chỉ thích sống cuộc sống riêng của mình. Chúng em e rằng những lời lẽ buông tuồng của bọn em khiến đại huynh không chấp nhận nổi. Ồ, tôi đã nghe mãi những chuyện tiếu lâm của anh Phú trên rừng năm trước. Có cớ gì mà phải kiêng dè ?
- Vâng. Nhưng hơn hai mươi năm đã qua và thời gian phân cách.
- Quả vậy.
Bất giác, ông buông tiếng thở dài rồi chậm rãi nói tiếp :
- Thời gian phân cách con người, không riêng ai mà cho toàn nhân loại. Nhưng dẫu sao, chúng ta vẫn còn những giá trị chung ; lòng tốt chẳng hạn, hoặc tình bạn, hoặc tình quyến luyến trong gia tộc...Những thứ tình cảm ấy không thể tiêu tán theo thăng trầm của thời cuộc và thời gian...
- Vâng.
- Những lúc khó khăn nhất trong đời, tôi đều cầu cứu người anh trưởng. Ông ấy có thể hiểu tôi ngay trong im lặng. Ông ấy sẵn sàng ghé vai gánh gánh vác gia đình, để tôi được cất bước thênh thang.
- Vâng.
Vũ ngừng lại vì chợt nhận ra rằng ông đang ngỏ nỗi lòng trước hai gã đàn ông mà một người đã quên lãng hơn hai mươi năm và người kia vừa gặp mặt chưa đầy nửa tiếng. Đó là điều ông chưa từng làm. Nâng tách trà lên, ông uống liên tục từng ngụm nhỏ để che cơn bối rối. Và rồi, ông cất tiếng hỏi :
- Còn anh, anh vào đây chữa bệnh gì ?
- Tôi ?
Anh chàng nhà văn hỏi lại, rồi lắc đầu cười :
- Tôi chẳng có bệnh gì mà nếu có bệnh tôi cũng chưa đủ tiêu chuẩn vào đây.
- Anh nói gì ? Anh tham gia cách mạng từ năm bốn mươi nhăm, cùng lần với anh Trần Phú ?
- Vâng, nhưng tôi không đủ tiêu chuẩn để vào đảng. Đã không là đảng viên thì chắc chắn mãn kiếp cũng không được bổ nhiệm vào một chức vị ra hồn. Chẳng những thế, tôi lại can tội luôn luôn yêu các cô nàng xinh tươi. Đối với tôi, đảng cao quý trên lý thuyết, còn các em xinh tươi thì tuyệt vời trên phương diện thực tiễn. Tôi vốn không thích « Thả mồi bắt bóng ». Tôi chọn giá trị thực mà sống, còn đảng vĩ đại, tôi xin nhường cho người khác hưởng.
Nói tới đây, cả hai gã đều cười ha hả. Ông buộc lòng phải cười theo, lòng hồ nghi chẳng biết hai gã đàn ông chớt nhả này nói thật hay nói đùa. Chừng như hiểu được sự phân vân của ông, Trần Phú đỡ lời bạn :
- Lê Phương nói đúng đấy, nó chưa đủ tiêu chuẩn cán sự năm để vào đây chữa bệnh. Nhưng ngày nào cậu ta cũng đến thăm tôi. Nhiệm vụ duy nhất phải hoàn thành là « Nâng cao tinh thần cho đội bạn ». Chi bộ đảng của các anh ít nhất cũng có ba người. Chi bộ của chúng tôi chỉ có hai, thành lập từ năm bốn mươi nhăm đến nay nhưng đặc biệt vững bền, chưa ai đâm dao găm vào lưng ai cả.
- Chính xác như vậy...
Lê Phương khẳng định, tiếp lời anh bạn vàng với điệu bộ quen thuộc của một cặp bài trùng, kẻ tung người hứng :
- Tình đồng chí của chúng tôi không dựa trên lý thuyết vĩ đại « liên hiệp vô sản toàn thế giới ». Chi bộ của chúng tôi dựa trên nền tảng của những thứ tương liên tầm thường vụn vặt, những tình cảm cỏn con.Ví dụ, hồi còn ở trên rừng Việt bắc, nếu gia đình gửi tiếp tế ra thì dù nhiều dù ít phải chia đều làm hai nửa, từ tiền bạc cho tới quần áo,thuốc men. Gặp khi đau ốm thằng nọ phải cõng thằng kia, dù có chảy mồ hôi bẹn, có còng sống lưng cũng phải rán chịu. Còn trong hoà bình, dựa vào nhau mà « tác chiến »
- Tác chiến ?
Thấy vẻ thắc mắc của ông, cả hai đưa mắt nhìn nhau tủm tỉm cười. Rồi, Lê Phương quay lại bảo Trần Phú :
- Đại huynh không có chút khái niệm nào về ngôn ngữ của đám « rong chơi giữa cuộc đời ». Thôi, âu cũng là dịp giải trí cho bậc cao nhân trong lúc anh ấy buộc phải nghỉ ngơi, tôi sẽ bật mí những bí mật cỏn con trong cuộc đời cỏn con của chúng ta. Cậu bằng lòng chứ ?
- Được. Chi bộ thông qua nghị quyết .
Trần Phú đáp và bộ mặt hớn hở mãn kiếp của anh ta đỏ rực lên vì vui thú. Lê Phương rút tẩu thuốc khỏi miệng, đặt một cách cẩn trọng xuống chiếc gạt tàn bằng gốm rồi nói :
- Bọn chúng tôi không được may mắn như anh, hoặc những người đàn ông như anh, chiếm được một nàng tiên xinh đẹp và mãn nguyện cho đến phút chót cuộc đời. Vợ chúng tôi, hoặc nói cho đúng hơn là « những bà lão khả kính sinh ra đám con của chúng tôi » lại luôn luôn có niềm tin vững chắc rằng chúng tôi là những thằng tù chung thân, chung thân dưới quyền cai quản của họ, giống như cái tràng kỉ gụ hay chiếc tủ chè gia bảo đặt năm này qua tháng khác trong nhà. Vì coi chúng tôi là những thứ đồ vật như vậy, nên họ có thể tuỳ tiện phơi ra ngày này qua tháng khác những thứ của nả họ với sự bình tâm của Bao Công Đại nhân trước giờ phán quyết.
- Phải nói cho rõ ràng. Anh Vũ không hiểu « những thứ của nả » là cái gì đâu.
Trần Phú chêm vào.
Nhà văn gật đầu, đôi mắt hấp háy :
- Những thứ của nả này là những thứ phụ tùng đã bị cũ nát. Chắc rằng đại huynh đã từng thấy những ngôi nhà bị trốc vôi tường, dột mái, sụt lở hay gãy kèo gãy cột. Hãy hình dung con người cũng như những ngôi nhà bị bom dội, bão đánh hay thời gian huỷ hoại. Xin đại huynh bỏ qua cho những ngôn từ dung tục này. Nhưng khó có thể tìm những danh từ xác thực hơn để thay thế. Những thứ của nả của các bà là những cặp vú sệ, những cặp mông nhão chảy xuống tận đũng quần, những cặp mắt chẳng còn chút long lanh nào mà chỉ thấy ghèn với nhử. Tóm lại, tất thảy những thứ mà nàng thơ nhìn thấy sẽ bỏ chạy mất dép còn hoạ sĩ tiếp kiến sẽ phải cúi xuống giả bộ mắt loà. Ấy là chưa kể các bà còn xài những thứ áo quần lố lăng hay dơ dáy.
Tới đây, anh ta e hèm hắng giọng như điệu ca sĩ sắp lên sân khấu rồi cạn chén cà-phê. Ông bật cười vì biết rằng anh ta chuẩn bị cho phần chính của câu chuyện, cái phần được mệnh danh một cách điệu đàng là « những bí mật cỏn con của những cuộc đời cỏn con ». Nhưng nhà văn lại đặt chiếc chén rỗng xuống bàn, quay sang bảo bạn :
- Bảo chúng nó pha phin khác đi mày. Cà-phê này còn thua nước giặt tất. Nền ẩm thực cổ truyền của chúng ta đã bị phá huỷ vì thứ mậu dịch quốc doanh này.
- Ờ... Tởm thật.
Trần Phú đáp đoạn anh ta quay lại bảo mấy cô gái bán hàng :
- Pha cho tôi phin cà-phê đúp rồi tính hai lần tiền. Giống như sáng hôm qua.
- Thưa thủ trưởng, có ngay ạ ...
Một cô bẻo lẻo đáp. Hai cô kia hí hoáy chuẩn bị nước sôi và cà-phê. Lê Phương quay lại nhìn Vũ với cặp mắt tươi cười :
- Chắc chắn những điều tôi sắp nói sẽ là thứ bị cấm kị trong môi trường của đại huynh, và cũng chắc chắn là sau những lời tự thú này, chúng tôi sẽ trở thành lũ vô đạo đức trước mắt bậc chính nhân quân tử.
- Ồ ....Chớ nên rào đón như vậy. Mỗi người có một cuộc sống riêng, chẳng nên ví ai với ai.
- Cái bất tiện nhất cho chúng ta là con người khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng hệ thống giá trị quy chiếu lại chỉ có một. Mà hệ thống giá trị này lại được áp đặt bằng luật pháp và quyền lực, buộc mọi người phải tuân theo. Như thế cũng giống như đặt một cái giường chuẩn rồi bắt mọi người phải nằm vào đó, phải cố vừa vặn với cái giường ấy bằng mọi giá...Có lẽ anh không nhớ rằng thời trung cổ, người ta dùng chiếc giường bằng sắt để tra tấn và hành hạ tù nhân, hễ người nào dài quá khổ thì bị chặt chân, còn kẻ nào lùn nằm không kín giường sẽ bị căng tay chân về hai phía...Nhưng thôi, dẫu sao chúng ta cũng đang ngồi trong căn phòng này, được hưởng sự yên tĩnh này, trong cuộc hội ngộ được chờ đón từ lâu. Dù có bị sụt giá hay lên giá trước mắt anh, đối với tôi cũng chẳng có gì quan trọng.
Dứt lời, anh ta lại nhoẻn miệng cười đoạn giơ tay vẫy đám nhân viên bán hàng. Các cô hối hả bưng cà-phê ra. Lần này, khói bốc lên đã có chút hương vị. Hai anh bạn vàng xì xụp uống cà-phê nóng trong khi ông nhâm nhi tiếp cốc trà. Không hiểu vì sao, ông thấy lòng nhẹ nhõm khi ngồi trước hai gã đàn ông bẻm mép này, một cảm giác đã từ lâu biến mất. Có chút gì đó gợi cho ông những cuộc chuyện gẫu thời trai trẻ, một chút hàm hồ, một chút hồ hởi, một chút hóm hỉnh. Và không mảy may ngụ ý hay mưu tính nào ẩn náu phía sau.
- Chà....Thế này mới tạm gọi là cà-phê. Nhưng nếu so với cà-phê của Hà-nội xưa thì chỉ đáng gọi là nước rửa chén.
- Nếu nói tới thời xưa thì suốt ngày chỉ có ngồi than thở : Bao giờ cho đến ngày xưa ? Bánh cốm ngày xưa, mứt sen ngày xưa, chè tàu ngày xưa. Nhưng thôi, đừng nói nữa anh Vũ đau lòng. Anh ấy là một trong những tác giả hăm hở nhất đã tạo nên cái xã hội này.
- Đúng, tôi cũng đau lòng thật. Nhưng tôi đang chờ câu chuyện « đi tác chiến » của hai anh.
- Đây, tôi xin hầu anh tức khắc. Chúng tôi vốn là những kẻ tầm thường, ham sống cuộc sống bình thường, nên luôn luôn nghe theo tiếng gọi của cái thứ mà anh vừa nói là nguồn hưng phấn mới. Tâm hồn chúng tôi chia làm hai nửa, một nửa dành cho những nghĩa vụ, và nửa kia chúng tôi dành riêng cho bản thân. Phải làm sao cho lương tâm không bị cắn rứt nhưng cũng không thể để cho tâm hồn ủ dột mốc meo. Vì thế, cuộc sống của chúng tôi là một chuỗi những mưu mẹo để cân bằng hai vế của phương trình. Tiền lương hàng tháng, các phúc lợi xã hội, chúng tôi đem nộp đều đặn cho vợ, bởi đó chính là người chăn dắt đàn con và cai quản mái nhà. Nhưng các khoản thu nhập khác, chúng tôi gọi là « quỹ đen » để giành cho các cuộc rong chơi. Để chuẩn bị cho các cuộc rong chơi này, buộc phải làm quen với toàn bộ hệ thống các nhà nghỉ, nói đúng hơn là phải tìm mọi cách kết thân với đám cán bộ quản lý các nhà nghỉ, từ núi xuống biển, từ đồng bằng ngược lên thượng du...Việc này, chúng tôi gọi là « cài đặt hệ số an toàn », điều kiện cần nhưng chưa đủ. Muốn đủ, còn phải có trong tay một mớ lệnh điều hành khống chỉ. Khi vào việc, chỉ cần điền lên đó ngày, tháng và một chữ kí bí ẩn như rồng bay phượng múa là xong. Điều may mắn là cả hai bà vợ chúng tôi đều thiếu chỉ số thông minh, đọc thông quốc ngữ nhưng không đủ trình độ để phân biệt các nét chữ thật giả hoặc các loại lệnh công tác khẩn thật hay khẩn vờ. Cả hai điều kiện tiên quyết này do Trần Phú đảm nhiệm vì cậu ta là đảng viên, và dẫu sao cũng có quyền chức hơn tôi.
- Trong trường hợp này thì đảng là hữu dụng.
Trần Phú đế thêm vào một cách khoan khoái :
- Và mỗi lần hành sự tôi lại buộc Lê Phương ca bài « Nhớ ơn Đảng đời đời » Đảng ở đây chẳng phải một khái niệm mơ hồ mà là chính tôi. Tôi phải mất bao nhiêu công sức ngồi họp chi bộ, chịu đựng sự buồn thiu buồn thối hoặc những mưu toan đấu đá, giành giật bẩn thỉu trong những cuộc tụ tập đó.
- Đúng rồi, ăn quả phải biết ơn kẻ trồng cây. Tôi đã ca cái điệp khúc này hơn hai mươi năm ròng, và hy vọng sẽ còn được ca tiếp. Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe những thú vui cỏn con của những gã đàn ông coi cuộc đời này là cuộc rong chơi, một hành trình không ngưng nghỉ từ tuổi thành niên cho đến chiếc quan tài. Ngoài phần nghĩa vụ với vợ con, công việc, đôi khi một ngọn gió mới thổi tới, một bóng hồng bỗng nhiên lạc vào cuộc đời chúng tôi, một em xinh tươi nào đó đang phòng không ôm gối, hoặc đang sùi sụt khóc vì thất tình, hoặc đang nổi máu giang hồ muốn bứt khỏi cái lồng thép của gia đình vì chán một anh chồng yếu gân cốt hoặc vì không chịu nổi sự đàn áp của một bà mẹ chồng phù thuỷ. Tóm lại, trong tất thảy những trường hợp ấy, các quân tử như chúng tôi đây sẵn sàng giúp đỡ. Nếu cánh én xinh tươi bay tới đậu trên vai Trần Phú thì tôi sẽ là người viết và kí lệnh :
« Điều hành đột xuất đến nghiên cứu chương trình N, A, Z.. ; » . Hoặc là :
« Làm báo cáo tường trình chi tiết về các lễ hội dân tộc, trong sự hợp đồng với viện dân tộc học.»
Và ngược lại. Bao giờ cuộc thám hiểm cũng phải có hai người. Tôi vác ba-lô đến nhà Trần-Phú cho vợ con anh ta thấy rõ ràng là hai bậc gia trưởng đang lên đường làm nhiệm vụ. Chúng tôi ngồi ăn bữa cơm cuối cùng trước lúc ra đi với vẻ trịnh trọng như lính cảm tử Nhật uống chén rượu « quyết tử » trước khi xích chân vào máy bay lao thẳng xuống phi hạm Mỹ...
Tới đó, Trần Phú đột ngột cất tiếng cười sằng sặc. Rồi lát sau, vừa lau nước mắt anh ta vừa hỏi bạn :
- Mày có nhớ hồi đi Tam Đảo không ?
- Nhớ. Nhớ như ngày hôm qua.
Lê Phương đáp, đoạn quay sang Vũ giải thích :
- Đấy là một kỉ niệm thuộc loại « không thể nào quên » Bận ấy, có một em nữ diễn viên tập sự bị đuổi khỏi đoàn vì tội không chồng mà chửa. Chẳng hiểu duyên cớ nào hoặc do ai mách bảo mà em tìm đến nhà tôi, khóc lóc. Tôi hoảng hồn vì lúc ấy đã hơn mười giờ. Chỉ một tiếng sau vợ tôi và hai đứa con sẽ về nhà ăn bữa cơm trưa, nếu họ thấy nàng khóc trên vai tôi ắt hẳn là mâm cơm sẽ bay ra sân, và sau đó là những ồn ào náo loạn khác. Nhưng tôi cũng không thể buộc nữ nhân xinh đẹp như thế ra khỏi nhà một cách thô lỗ. Nghĩ mãi không ra giải pháp mà kim đồng hồ cứ phóng như bay, sau cùng hoảng quá tôi đành chở em đến vườn hoa, mua kem cho em giải khát, rồi phóng đến nhà Trần Phú. Đứng dưới cổng, tôi gọi với lên gác hai:
« Phú, mặc quần áo đi ngay.Thằng Đoàn chết rồi. » .
Nhưng chẳng phải Trần Phú mà là vợ nó thò cổ ra :
« Chết sao nhanh thế ? Chiều qua lão ấy còn ngồi đây uống rượu đến sẩm tối mới chịu về ? »
« Tôi không biết, vừa nghe báo tin nó chết tôi liền chạy đến đây. »
Nói xong, tôi tắc cả họng, chẳng hiểu sao lại bịa ra một chuyện rồ dại như vậy. Nhưng lúc đó, tôi nghe trên nhà tiếng vợ Phú thúc chồng mặc quần áo và rồi tiếng chân nó chạy huỳnh huỵch xuống cầu thang. Hai thằng vừa nhìn vào mặt nhau đã phá lên cười, chẳng ngờ vợ Phú cũng le te chạy xuống. Tôi chỉ kịp kêu :
« Vợ mày kìa ! »
Rồi còng lưng cúi gập đầu xuống bụng, tôi rặn ra một tràng ho như nổ cổ nổ họng. Từ cười đổi sang ho, lại trong tư thế cúi gần như gập đôi người, ho giả bỗng hoá thành ho thật. Tràng ho nọ tiếp tràng ho kia, cứ thế tuôn ra không thể kìm chế. Nước mắt tôi chảy ràn rụa, và khi tôi đứng thẳng lên, hẳn là tôi có bộ mặt của một kẻ đích thị mắc chứng ho gà. Tôi phải rút khăn tay lau nước mắt. Đứng trước tôi, vợ Phú cũng khóc sùi khóc sụt :
« Bao giờ đưa đám bảo em nhá. Lão ấy khoẻ như voi mà chết nhanh đến như vậy. Chẳng ai biết được mệnh trời.»
« Được rồi, cô cứ lên nhà, cơ quan định đưa ma ngày nào tôi sẽ rủ cô đi. »
Tôi nói, đoạn bảo Phú ngồi lên xe rồi phóng đến vườn hoa. Dọc đường, Phú chửi :
« Tiên sư thằng điên , sao lại bịa ra một lý do quái gở đến thế ? »
Lúc đó tôi cũng ân hận vì Đoàn là bạn chung thuỷ từ thời thơ ấu của Trần Phú nhưng gặp lúc bối rối nên chẳng thể sáng tác ra màn kịch nào thích hợp hơn. Bởi muốn kéo ai đó tức khắc ra khỏi nhà, chỉ viện đến tai nạn hoặc cái chết của người quen thân mới có thể bảo đảm trăm phần trăm thành công. Vì vậy, tôi bảo Phú rằng, trước hết hãy cứu nguy cho tôi đã, rồi sẽ giải quyết việc khác sau. Đưa anh bạn vàng đến vườn hoa, tôi giới thiệu với người đẹp rằng đây mới chính là bậc quân tử có thể dang tay che chở cho nàng. Đoạn bỏ mặc hai người ngồi tìm hiểu lẫn nhau, tôi phóng về nhà vừa đúng lúc bữa cơm, bà lão khả kính thân sinh ra các con tôi đã gườm gườm nhìn lên cây kim chỉ giờ của chiếc đồng hồ. Nếu tôi chậm chân mươi phút nữa ắt là nước tương nước mắm phải đổ ra mâm và tiếp theo là phần trình diễn những khúc ca dai như chão.
Vũ bật cười, ông bị cuốn vào câu chuyện một cách bất ngờ, và có thể do bản tính thật thà, ông đâm ra lo thay hai gã đàn ông đàng điếm :
- Thế rồi anh giải quyết ra sao về cái chết bịa tạc kia ?
- Ồ, non cao phải có đường trèo chứ. Sau bữa cơm, chờ cho vợ đi làm, con đi học, tôi liền ngồi vào bàn viết bức thư ngắn cho vợ Phú, trong đó nói rằng có một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Người anh họ dưới quê tên là Toàn vừa chết nhưng khi nhận điện tín tôi hoảng hốt trông gà hoá cuốc nên đọc nhầm thành Đoàn. Tóm lại, mọi sự đều yên lành, chỉ có riêng tôi phải về quê đưa đám. Viết xong, tôi phái cậu đàn em trong xưởng phim tôi đang công tác mang thư tức khắc đến nhà Phú.
- Chịu các anh thật.
- Tôi đã nói trước rằng những người mũ cao áo dài như các anh lo việc đại sự. Còn chúng tôi chỉ có mấy thứ mẹo vặt để rong chơi mà chẳng làm tổn hại đến ai.
- Thế cô diễn viên bất hạnh kia sẽ được giải quyết ra sao ?
- Nàng kết Phú. Vậy nàng sẽ trở thành người tình của cậu ta trong thời gian họ còn duyên còn nợ. Việc nàng tìm tôi là nhầm lẫn, ví như con cừu lạc vào chuồng vịt, bởi nàng mê những gã đàn ông cao, to, bóng mượt. Người tình cũ của nàng, tác giả cái thai trong bụng nàng cũng là một gã đẹp mã và bạc tình như Sở Khanh. Tuy nhiên, con người không thay đổi. Nếu tiêu chuẩn cái đẹp đã được định vị một lần thì nó sẽ vĩnh viễn ngự trị như một thứ hình mẫu kêu gọi và dung chứa tình yêu. Theo quy tắc ấy, nàng sẽ chọn Phú. Bởi Phú đẹp trai hơn tôi nhiều nên chẳng những lần ấy mà trong những cuộc phiêu lưu sau này của chúng tôi, em nào thích kẻng trai sẽ thuộc về quyền cai quản của nó. Còn tôi, vừa nhỏ con vừa xấu xí nhưng giỏi hót, em nào thích bùi tai sẽ ngả vào vai tôi. Ấy là sự phân phối theo định luật « lực hấp dẫn tự nhiên ». Chín năm trường kì kháng chiến đã dậy chúng tôi tinh thần yểm trợ tác chiến và khả năng nhường nhịn lẫn nhau. Giữa hai chúng tôi truyền thống ghen tuông, đố kị nổi tiếng của dân Việt nam không tồn tại. Cái thứ « dân tộc tính » đó nằm ngoài khuôn khổ tình bạn của chúng tôi. Chính vì thế, hơn hai mươi năm qua chi bộ này tuyệt đối vững chắc...Sự vững chắc của tình bạn tựa trên nguyên tắc dung chứa và bổ sung lẫn nhau. Phú đẹp trai, tôi xấu xí đen đủi. Nó hào phóng vì xuất thân là cậu ấm Hà nội, tôi keo kiệt « Ăn tép ỉa ra tóc, có chín xu đổi lấy một hào » vì bố mẹ chết sớm, thân tự lo thân từ thuở lên mười. Nó sạch sẽ hơn cả lũ đàn bà đỏm dáng, ngày nào cũng tắm như vịt bất kể mùa đông hay mùa hè ; đi đâu thì chải chuốt trước gương, rồi dí mũi vào cổ áo nách áo hít đi hít lại xem có thơm tho hay không bởi lỡ may giữa đường gặp em nào ngả đầu vào tựa vai đấng anh hùng thì không phải ngất xỉu vì hôi hám. Tôi ngược lại, không thích tắm. Mùa đông một hai tháng không mò vào buồng tắm lương tâm cũng không bị cắn rứt mà linh hồn cũng không đau khổ. Mụ vợ tôi thi thoảng không chịu nổi lại đổ canh riêu cua hay canh thịt lên người tôi để tôi buộc phải tắm.
Vũ không nén nổi bật lên cười và hỏi :
- Thế nếu bà ấy đổ nước rau muống luộc hay canh xuông lên người ông thì ông không chịu bước vào buồng tắm hay sao ?
- Không ! Nước rau muống luộc cũng như nước lã, tôi thay áo là xong. Các vị lãnh đạo thường tự tuyên truyền rằng trong nhà tù đế quốc, họ cương quyết không khai các cơ sở cách mạng. Tôi nghĩ rằng mười ông nói chưa chắc tin được một ông. Còn tôi, tôi cương quyết hơn nhiều : nếu không thực sự bẩn và nhu cầu tắm chưa trở thành cấp bách, tôi không tắm. Bây giờ, để thoả mãn cơn tò mò của anh, người chẳng có mảy may khái niệm nào về những cuộc đời nhỏ bé tầm thường của lũ rong chơi, tôi xin kể nốt hồi cuối. Chúng tôi dẫn em diễn viên xinh đẹp bụng to kia đến nhà nghỉ Tam Đảo. Ở đó, em đóng vai hiền thê của Phú, còn tôi rủ tay giám đốc nhà nghỉ đi săn gà gô ở các vùng rừng lân cận. Qua ba tuần, tay giám đốc này chết mê chết mệt vì đủ loại tiếu lâm. Đêm nào gã cũng dính vào tôi như sơn, ăn tối xong còn pha đến hai ấm chè để ngồi hóng chuyện. Sang tuần thứ tư, đã đến lúc sắp hết hạn « công tác », tôi mới ngỏ lời nhờ gã giúp cho cô em xinh đẹp vào viện huyện nạo thai. Anh ta hăng hái nhận lời tức khắc. Sáng hôm sau, ô-tô nhà nghỉ chở Trần Phú và phu nhân rởm đến bệnh viện huyện giải quyết nỗi buồn, với lý do « nhỡ kế hoạch ». Tóm lại, mọi sự được thu xếp hoàn hảo. Khi chúng tôi quay về Hà-nội, em gái xinh tươi đã cất tiếng cười khanh khách, chẳng còn vẻ tuyệt vọng và hoảng loạn như ngày leo lên căn gác nhà tôi. Rồi sau đó ba năm.
- Cậu nhầm rồi, hơn bốn năm chứ. Nói chính xác là bốn năm hai tháng.
- Ờ, lâu quá nên tôi chẳng còn nhớ chính xác. Bốn năm sau, chúng tôi giúp cho em được tuyển vào đoàn kịch nói tổng cục chính trị. Trong môi trường mới, em gặp được ý trung nhân, một diễn viên xoàng nhưng là người chồng lý tưởng. Trước ngày em lên xe hoa, chúng tôi tổ chức bữa cơm tiễn biệt. Một bữa ăn thịnh soạn nhất có thể có được trong điều kiện sống thời đó. Bữa cơm ly biệt nhằm liệt kê lại những kỉ niệm lần chót như người ta kiểm nghiệm lại mớ quần áo của thây ma lần chót trước lúc đóng hòm. Đôi giọt lệ ngậm ngùi nhỏ xuống và vài lời cảm ơn nồng thắm. Sau đó, đường đời lắm nẻo, nàng ra đi, bóng hồng biền biệt. Còn chúng tôi, quay về với những lão bà khả kính thân sinh ra đám con mình.
Nhà văn ngừng lời, đưa tay sửa cặp kính trên sống mũi rồi hỏi Vũ :
- Sao, anh đã bao giờ nghe những câu chuyện nhảm nhí như thế này chưa ?
- Ồ...thú thực là chưa.
Vũ lúng túng đáp, rồi thú nhận :
- Trong cơ quan của chúng tôi, những sự việc như thế buộc phải đưa ra chi bộ kiểm điểm và cán bộ buộc phải nhận kỉ luật.
- A...ha ...ha...
Cả hai gã đều cất tiếng cười như đập pháo. Rồi Lê Phương lau nước mắt và hỏi ông :
- Vậy những người chịu thi hành kỉ luật có bao giờ dám há mồm ra đề nghị chi bộ kiểm điểm các cấp lãnh đạo cao hơn không ? Bởi ai cũng biết rằng quá nửa số uỷ viên bộ chính trị có hai vợ. Còn bí thư Ba Danh chẳng những hai vợ mà còn một bầy cung phi dưới danh nghĩa y tá. Liệu khi kiểm điểm các đồng chí của mình, anh có nghĩ đến những người cùng phạm một thứ khuyết điểm, cứ coi là như thế, thậm chí còn trầm trọng hơn, sự tái phạm còn nặng nề hơn nhưng vì họ đứng ở vị thế cao hơn, quyền lực mạnh hơn nên họ nghiễm nhiên được tha bổng hay không ?
- Có chứ ! Tôi có nghĩ. Nhưng tôi là kẻ đơn thương độc mã và lực bất tòng tâm.
Ông đáp, không khỏi buông tiếng thởi dài. Và Lê Phương tiếp lời :
- Còn cái guồng máy khổng lồ kia, cái guồng máy quyền lực cứ tiếp tục quay, tiếp tục nghiền nát biết bao con người, với tất cả thói đạo đức giả và sự bất công của nó ?
Ông không biết trả lời ra sao nên đành im lặng. Nỗi ngao ngán tràn ngập tâm hồn. Những điều gã đàn ông đen đủi xấu xí này vừa nói đâu có mới lạ đối với ông ? Ông đã từng nghĩ thầm nghĩ vụng. Nhưng ông chỉ nghĩ một cách lén lút vì không dám và không muốn tin đó là sự thật.
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của ông và của bao người khác dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao? Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy ? Sự đê tiện và phi nhân đó, ông từng biết nhưng ông vẫn muốn tin rằng nó chỉ dành riêng cho một số người trong guồng máy quyền lực. Bởi cuộc cạnh tranh quyền lực từ cổ chí kim và cho đến vĩnh viễn muôn đời vẫn là cuộc đấu tàn khốc nhất trong kiếp nhân sinh, nó tước bỏ mọi phẩm chất tốt đẹp chỉ còn để lại cho con người sự tham lam ô nhục, sự mưu toan đểu cáng và những cuộc trình diễn thói độc ác. Nhưng dẫu sao, ông vẫn không muốn chấp nhận rằng toàn thể cái xã hội mà ông đã đặt biết bao kì vọng lại là xã hội vô đạo đức, lưu manh. Dẫu sao, nó vẫn là canh bạc mà ông cũng như bao nhiêu người cùng thời đã đặt cược toàn bộ cuộc đời. Dẫu sao, nó vẫn là tạo phẩm chung, một cuộc hoài thai tập thể. Không người mẹ nào muốn công nhận rằng mình đẻ ra một quái thai...
Giờ đây nghe chính những hồ nghi ấy thốt ra từ cửa miệng một người xa lạ, kẻ vừa gặp mặt vài giờ, ông hiểu rằng những gì ông còn ngờ vực một cách sợ hãi trong những đêm mất ngủ đã được công chúng coi như sự thực hiển nhiên. Và ông, giống như kẻ trú ngụ trong cung cấm, chỉ có thể nhìn thấy loạn quân khi thành đã vỡ và lửa cháy bốn bề.
Cúi xuống nhìn những ngón tay mình một cách vô thức, Vũ nhận thấy những chiếc móng đã dài mà chưa được cắt, ông giơ lên gẩy móng nọ vào móng kia. Nhà văn nhìn cử chỉ đó, tủm tỉm cười đoạn tiếp lời :
- Giờ anh hiểu vì sao chúng tôi chọn kiếp sống của những kẻ rong chơi, hài lòng cuộc đời cỏn con với những vui thú cỏn con. Đấy là cũng là một cách mà cổ nhân gọi là ở ẩn. Bởi ngay sau ngày giải phóng thủ đô, chúng tôi biết rằng đại sự hỏng rồi, rằng thuyền tình đã vỡ, rằng ước mộng đã tan. Ngày lên đường kháng chiến, tất cả mọi người đều có chung một giấc mơ. Cách mạng, đối với một xã hội trì trệ, hoặc một dân tộc nô lệ là cơ hội thanh lọc vĩ đại, là cơn bão quét sạch rác rưởi và đem lại sức sống mới mẻ, mạnh mẽ. Vì thế, người ta mới chấp nhận chết vì nó. Người ta chết vì non sông, nói đúng hơn, vì một tương lai tươi sáng. Những cuộc cách mạng thật sự bao giờ cũng giải phóng sức sản xuất và nới rộng vùng đất cho tự do. Nhưng cuộc cách mạng này, ngoài cái phần đã làm được là giải phóng dân tộc, nó chẳng những không đem lại tự do, cũng không mở rộng được sức sản xuất mà ngược lại nó thiêu huỷ toàn bộ những giá trị văn hoá đã vĩnh định của dân tộc, nó phá huỷ luôn sức sản xuất. Cải cách ruộng đất chính là cuộc tàn sát có hệ thống và quy mô tầng lớp nông dân có năng lực. Như thế, về phương diện xã hội, cuộc cách mạng này chỉ làm một việc ghê tởm là lật nhào lớp bùn dưới đáy ao lên mặt nước. Và cùng với thứ bùn đó là xác cóc nhái chết cùng mọi thứ rác rưởi lẫn rong bèo.
Anh ta ngừng lời. Ông cảm thấy như vừa bị ai tát một cú nổ đom đóm mắt. Một cái tát không kiêng dè. Một cái tát tàn bạo. Nhưng người đàn ông kia đâu có định nhằm vào cá nhân ông ? Anh ta tuyên bố một sự thật. Sự thật đó cũng chính là giá treo cổ đối với tuổi trẻ của anh ta, và của bao nhiêu chàng trai khác đã chết oan cho ảo vọng. Bởi khi nói lên điều đó mắt anh ta buồn đến thế. Bởi những nếp nhăn hằn trên gương mặt anh ta một cách sầu thảm khi anh ta không cười. Phải chăng những câu chuyện bông lơn nhảm nhí kia cũng chính là một cách để lãng quên đi mối thất vọng lớn lao ? Mối thất vọng của toàn dân tộc !
Cả ba người đều im lặng. Những người khác đã rút đi từ lâu. Chỉ còn lại ba cô bán hàng đứng hí hoáy nhổ lông mày, cô nọ vành mặt cô kia ra mà thực thi cuộc làm đẹp. Họ hồn nhiên coi như trên cõi đất này không có ai. Trần Phú ngứa mồm bảo :
- Ba con bé kia chắc mới từ quê lên. Bọn mình ngồi đây chút nữa chắc chúng nó vén áo lên nhổ lông nách.
- Ồ, không loại trừ khả năng đó. Vì họ chẳng có nhu cầu làm duyên làm dáng hay chơi trò thẹn thùng trước mặt ba lão già.
- Không lẽ bọn mình đã thật sự biến thành giẻ rách hay sao ?...
- Cũng chưa đến nỗi, nếu nhận định một cách khách quan. Hàng hoá hãy còn xài được nếu gặp các mợ nạ dòng ba, bốn chục. Nhưng đây toàn lũ trẻ nõn ra ; mười sáu mười bẩy là cùng. Tuổi đó là tuổi con cháu chúng ta.
- Ôi, tuổi già ! Tuổi già xồng xộc đến sau lưng. Này anh Vũ, anh có cảm thức ra sao đối với tuổi già ?
- Tôi chấp nhận và chung sống hoà bình với nó, trong chừng mực còn có thể.
- Đấy là cách ứng xử khôn ngoan.
Trần Phú nói đoạn đứng lên trước :
- Sắp tới giờ cơm chiều, bệnh nhân phải trở về phòng thôi. Lê Phương tháp tùng anh quay lại khu điều trị. Tôi thanh toán xong sẽ đuổi theo hai người.
Khi ông cùng anh chàng nhà văn bước ra sân, nghe tiếng Trần Phú oang oang bảo mấy cô bé :
- Này, làm đỏm làm dáng thì phải tìm nơi tìm chốn. Đây có phải phòng triển lãm đồ nghề phụ nữ đâu ?
Chẳng nghe thấy tiếng ai trả lời. Hẳn là mấy cô gái kia sợ đến tắc họng. Lát sau, Trần Phú đã đuổi kịp hai người. Họ thong thả quay trở lại khu nhà dành cho cán bộ cao cấp rồi chia tay ở chân cầu thang :
- Chúc đại huynh mau lành bệnh. Hôm nay, thấy mặt người anh hùng, tôi hoàn toàn thoả mãn.
Nhà văn nói lời cuối.
Khi Vũ quay lại phòng, gặp đám y tá xúm quanh bác sĩ trực, một phụ nữ đãy đà trạc ngũ tuần. Họ mang máy hô hấp nhân tạo đến cho người bệnh nằm giường đối diện với ông. Mặt anh ta xám ngoét, mắt nhắm nghiền. Cặp môi mím lại chỉ còn là một vệt thâm. Vũ bước vào vừa đúng lúc y tá chụp mũ thở ô-xy lên mặt người bệnh. Ông lẳng lặng lách sau lưng họ về giường mình.


 
Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (4)
Trời lại mưa, cơn mưa thẹn thùng của mùa xuân.
Những làn mưa thưa hạt, rắc lổ đổ xuống mặt đất một cách e dè rồi sau đó tắt ngấm. Gió từ phía biển Đông cuốn lên đuổi những làn mây lang thang qua khung trời hoang vắng. Mây tím màu hoa cà khiến ông nhớ tới vườn cà quê hương, một quê hương quá đỗi mờ nhạt xa xôi chỉ còn lại vài hoài niệm mún manh và huyền hoặc. Rồi màu mây tím ấy lại gợi cho ông những cánh đồng miền Provence, nơi người ta trồng cỏ thơm lavande để làm nước hoa và xà-phòng. Lần đầu tiên đứng trước cánh đồng mênh mông màu lơ tím, tâm hồn ông tê dại đi vì vẻ đẹp của xứ người. Và ông thầm khóc trong tim :
― Ôi, bao giờ những cánh đồng xứ sở, những miệt đồi mênh mông nắng cháy miền Trung có thể khoác được tấm áo choàng mỹ miều kia ? Ôi, bao giờ những người dân cày quê ta có được vẻ mặt thanh thản như những người nông dân xứ này khi bước trên đất đai của họ ? Ôi, bao giờ những đứa bé chăn bò quê ta có thể ăn mặc chĩnh chện như đứa bé chăn bò đang rong ruổi dưới bóng những hàng bạch dương kia ? Bao giờ và bao giờ ?
Bao nhiêu tháng năm, tim óc ông sôi sục vì câu hỏi ấy. Bao nhiêu tháng năm, ông bị ám ảnh bởi một biểu tượng song trùng, một sự so sánh đau đớn bất khả nguôi dịu, bất khả quên lãng: những đôi chân mang giầy da tất ấm của những người nông dân Pháp đặt bên cạnh những đôi chân nứt nẻ, móng đen xì bùn phèn, với những ngón chân choẽ toác ra vì ngàn năm phải bấm xuống ruộng bùn của dân cày Việt nam. Cặp hình ảnh này theo đuổi ông như hình với bóng, trong những cơn mơ chính ngọ, trong những cơn thổn thức nửa đêm, khi ông ngồi trong nhà tù cũng như khi ông ngồi trên khán đài danh dự. Dân tộc đau khổ của ông. Số phận cay nghiệt mà tạo hoá đã dành cho họ. Bao nhiêu giọt nước mắt ông đã nhỏ vì cái số phận cay nghiệt ấy. Tất cả những gì ông đã cố sức làm, trong hy vọng can trường là cải tạo nó.
― Ta yêu dân tộc của ta như vậy, tại sao họ chẳng yêu ta ? Tại sao họ không thể thí cho ta chút hạnh phúc cỏn con, tầm thường như mọi kiếp nhân sinh khác ?
― Ồ, dân tộc, đó là một khái niệm trừu tượng, một đám đông vô nhân dạng, tiếng ồn ào của một biển hơi thở, sự va đập trong phút chốc của con sóng thời gian. Kẻ ngăn cấm ngươi sống cuộc sống đích thực của con người chính là các đồng chí thân thiết của ngươi, và trước hết là chính ngươi, bởi ngươi đã trót đóng vai ông thánh.
― Nhưng dân tộc của tôi nhỏ yếu, để khích lệ niềm tin và sự can đảm nơi họ, liệu tôi có thể làm gì khác ?
― Ngươi đã chọn lối đi dễ nhất, tương hợp nhất với tầm vóc trí tuệ dân tộc của ngươi, và vì thế ngươi phải trả giá. Trò chơi làm thánh không mới lạ gì trong lịch sử con người. Bệ thờ nào chẳng trang trí bằng những đoá hoa giả, dù bằng bạc, bằng đồng trong thời quá vãng hay bằng các loại nhựa dẻo và kim cương nhân tạo ngày nay. Nhưng mọi trò chơi đều phải trả giá. Trên cõi đời, chẳng thứ gì được cho không.
Người đối thoại với ông hạ lời cuối, với nụ cười riễu cợt trên môi. Đoạn ông ta biến đi theo làn gió. Một cơn gió xuân ẩm ướt mang theo hơi lạnh khiến ông rùng mình. Ông đưa mắt nhìn theo kẻ khinh bạc kia, dường như ông ta đến từ lối rẽ bên trái ngôi chùa, bước qua mảnh sân với vườn mai. Rồi ông ta biến đi cũng theo ngả ấy. Cái gã đàn ông giống ông như tạc, nhưng với làn da xanh màu lá chuối non và cái nhìn đầy vẻ khinh khi.
- Thưa chủ tịch, mời người vào nhà kẻo lạnh.
Cậu lính to béo đã tiến sát lưng ông, cất tiếng đột ngột khiến ông giật nẩy mình.
- Được, tôi vào đây.
Ông đáp, có chút tức giận mà không dám bộc lộ. Dù muốn hay không, ông cũng bị kiểm soát từ mọi phía. Không một phút được tự do. Cuộc đời ông là của dân tộc. Sức khoẻ của ông là của dân tộc. Thời gian của ông cũng là của dân tộc. Không còn gì riêng cho ông nữa sao ? Cuộc chơi này thật cay nghiệt !
- Boong...boong boong...
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Chuông chùa bỗng đổ hồi dồn dập, ròn rã.
- Boong...boong...boong...
Ông quay lại hỏi cậu cần vụ :
- Sao hôm nay nhà chùa gióng chuông nhiều như vậy ?...
- Con quên không thưa với người rằng hôm nay đích thân sư cụ chủ trì lễ giải oan, tẩy trần cho ông Quảng. Nhà chùa sẽ kéo chuông và tụng kinh nhiều hơn thường lệ. Xin chủ tịch thông cảm.
- Chúng ta trú ngụ ở đây là đất nhà chùa. Họ có quyền làm những gì họ muốn.
- Dạ...Nhưng dẫu sao ...
- Hôm nay làm lễ gì, tôi chưa nghe rõ ?
- Dạ, lễ rửa oan, tẩy trần cho người đã khuất....Ông tiều phu dưới xóm đã chết được bốn mươi chín ngày rồi ạ.
- Đã bốn mươi chín ngày rồi ? Nhanh đến thế ?
- Dạ. Hôm qua chủ tịch xã lên tận văn phòng đề nghị anh Lễ cho phép gia đình ông Quảng được lên đây cúng. Khi nào họ lên, đại đội sẽ tăng cường bảo vệ.
- Ra thế...
Ông buông một tiếng hững hờ :
― Đấy chính là việc của họ. Tăng cường bảo vệ để làm gì ? Chắc hẳn để ta khỏi ngã trước nàng vợ goá của ông tiều phu. Còn những người dân quê kia liệu có nhu cầu gì để ám hại một ông chủ tịch ?
Ý nghĩ thầm kín ấy chạy qua óc não ông, vừa như sự riễu cợt lại vừa như lục vấn.
- Mời người dùng trà cho nóng.
- Cảm ơn.
- Chú kê cái ghế xích-đu ra gần cửa cho tôi...Ở đó, tôi có thể đọc báo bằng ánh sáng tự nhiên.
- Dạ, đúng vậy. Hôm nay không có mặt trời.
Cậu lính thật thà đáp rồi loay hoay mang chiếc xích-đu ra kê sát cửa. Ông vừa uống trà vừa nghĩ rằng lát nữa, ông có thể nhìn rõ bầu đoàn thê tử của người tiều phu, trước hết là đứa con trưởng. Câu chuyện này đã trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên kể từ khi ông biết. Nỗi tò mò khôn cưỡng khiến ông nảy ra nhu cầu ngắm những nhân vật đích thực xoay quanh tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch, trớ trêu này. Một nụ cười riễu cợt khác lại nảy sinh :
― A, ngươi thèm khát được thấy mặt đám người này vì họ là tấm gương phản chiếu lại cuộc đời của chính ngươi. Một sự phản chiếu gần như tuyệt đối nhưng theo chiều ngược lại. Bởi gã tiều phu chẳng đóng vai ông thánh, gã sống đúng thân phận con người. Gã là kẻ chiến thắng trên mọi nỗi bất hạnh đã trải nếm, còn ngươi, ngươi là kẻ chiến bại dưới bóng quyền lực và vinh quang. Một kẻ chiến bại câm lặng và thảm hại.
- Thưa chủ tịch, như thế này đã được chưa ạ ?...
- Lui về phía sau một chút nữa là được. Không nên để họ thấy mặt tôi, như vậy phiền cho cả đôi bên.
- Dạ.
- Hình như có tiếng cậu Lễ ?
- Thưa chủ tịch, chính xác như vậy. Anh Lễ đưa quân lên tăng cường đấy ạ. Sau đội tăng cường mới đến gia đình người tiều phu.
- Bảo cậu Lễ là tôi đang đọc tài liệu, cứ việc bố trí người bên ngoài, không cần vào đây bẩm báo với tôi.
- Dạ.
Chàng lính béo liếc lần cuối xem chiếc ghế kê đã thuận hay chưa rồi đi ra đón đội tăng cường. Ông cầm tập tài liệu ra xích-đu ngồi, trong tư thế tiện lợi nhất để có thể quan sát đám người sẽ đi qua mặt ông trước khi vào chùa chính.
Không gian ngào ngạt mùi nhang. Tiếng gõ mõ vang rền khi hồi chuông ngưng lắng. Ông nghe tiếng bước chân đám lính, rồi họ xuất hiện ngay trước hành lang xếp thành một hàng rào. Tất cả nghiêm trang như những pho tượng gỗ, mặt hướng ra ngoài, lưng quay lại phía căn phòng của ông, nơi cánh cửa nửa khép nửa mở để che khuất người ngồi trong. Chừng như Lễ biết ý ông nên đã đứng ở một góc khuất nào đó. Sự vắng mặt anh ta khiến ông dễ chịu hơn.
- Boong...boong...boong....
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Tiếng chuông lại gióng lên để làm hiệu cho đoàn người bước tiến vào chùa. Sư nữ bước ra sân, hai tay chắp hình búp sen đón khách. Người đầu tiên ông nhìn thấy chẳng phải là một thành viên trong gia đình kẻ tiều phu xấu số mà là một sư bác, chắc chắn ngoại ngũ tuần. Theo sau ông ta còn hai sư nữa rồi mới tới người con trai trưởng của ông Quảng. Chủ tịch nhận ra anh ta tức khắc ngay từ cái nhìn đầu tiên và có đôi phần thất vọng. Trên phương diện hình thức, anh ta chẳng gây được chút ấn tượng nào. Một gã đàn ông nhỏ thó, vai lệch, gương mặt nhọn hoắt, không gợi lại chút xíu hình ảnh người cha cũng chẳng có một hạt cỏn con sự quyến rũ nam tính. Anh ta bận quân phục thu-đông cũ, thứ y phục thông dụng của đám cán bộ xã. Anh ta chẳng có râu hùm, cũng không có hàm én, nhưng ngay cả dáng đi cũng lạ kì, dáng đi của anh ta giống hệt dáng đi của những người đàn bà mà đa phần trong số họ phải chấp nhận kiếp cô đầu hay kĩ nữ. Vừa vặn vẹo như rắn trườn vừa nhón gót như loài chim sẻ. Tuy nhiên, với bộ dạng sầu khổ và èo ọt, con người anh ta vẫn toát ra một sức mạnh âm hiểm rất khó miêu tả hay cắt nghĩa. Chủ tịch bất giác buông ra một tiếng : A!...
― Đây chính là con người kiểu mẫu của thứ xảo võ, lối đánh trông tưởng chừng như múa lượn nhưng toàn nhằm vào hiểm huyệt của đối phương. Khi xuống đòn, họ có thể kết thúc đối phương một cách bất ngờ. Nói cách khác, đây là thứ đô vật không bao giờ bước lên võ đài, là kiếm sĩ không xuất hiện lúc thanh thiên bạch nhật mà chỉ quật đổ đối phương bằng cách đứng rình trong bóng tối để đâm họ từ phía sau lưng. Kiểu người này chẳng bao giờ lùi bước trước bất cứ trở ngại nào để đạt được tham vọng của mình, bất chấp lương tri cũng như bất chấp sự khinh bỉ của tha nhân. Nhưng thần hộ mệnh của Quý không đủ quyền năng để giúp anh ta thành công, nên cuộc chiến đấu của kẻ thất phu chỉ tạo ra một đàn những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng lẫn sự chăm sóc.
Ông thầm nghĩ vì đã thấy đội quân ấy đi sau vị gia trưởng, tất cả đều chít khăn tang trắng thay cho khăn sô, sắp hàng theo thứ bậc. Tiếp theo gia đình này là một đám ông bà già; chắc họ là bà con gần gụi của kẻ đã khuất. Cuối cùng là mẹ con cô vợ trẻ với một thanh niên bảnh bao mà ông đoan chắc là chàng sinh viên tên Quỳnh. Đám người không gây ấn tượng nào đặc biệt.
Chủ tịch bất giác nhắm mắt. Nỗi ám ảnh khiến ông quay lại với hình ảnh người con trưởng, lúc này đã vào hẳn trong chùa :
― Một đứa con èo ọt thảm thương như thế mà quyết liệt chống lại cha, hòng dùng vị thế của mình bắt ông ta làm nô lệ ? Phi lý thay cõi đời. Một kẻ sống trong vòng bảo hộ của bậc gia trưởng nhưng lại muốn thực thi quyền năng của y trên chính ông ta, phải chăng đó là sự điên rồ có tính cá biệt hay là nguyên lý chung của muôn loài, tất cả những đứa con cần phải giết cha và những con thú lớn khôn cần phải cắn chết đám thú già để tìm thực phẩm ? Nếu vậy thì khoảng cách giữa con người với muông thú đâu có xa ?
Ngoài sân, chuông gióng giả vang lên, hồi nọ ngưng lắng hồi kia lại tiếp diễn khiến những vọng âm reo như sóng trên khắp các giải núi và không gian chùa Lan Vu ngập tràn một sắc thái thần diệu. Sân chùa vắng tanh vì đoàn người đã vào hết bên trong, chỉ còn lại mớ lá vàng rải rác. Chủ tịch nhìn lên khoảng trời lơ vừa ló rạng sau cơn mưa xuân, tìm lời giải đáp. Nhưng lời giải không tới. Bởi ông không có kinh nghiệm trực tiếp. Bởi ông yêu cha ông, và ông không có nhu cầu cạnh tranh quyền lực hay tiêu diệt kẻ đã sinh thành mình. Ông cũng không tin nhu cầu ấy là phổ biến cho toàn nhân loại :
― Phải chăng vì ta đã giã từ gia đình quá sớm, và ta luôn thiếu vắng người cha, nên trong tim ta ông chỉ là mong mỏi và buồn nhớ ? Nhưng còn hàng triệu người khác vẫn sống với cha mẹ họ một cách an lành? Bi kịch kiểu gia đình kẻ tiều phu kia lần đầu ta mới nghe và mới thấy. Có những đứa con hiếu đễ và những đứa con ngỗ ngược, vô ơn. Nhưng vì dục vọng mà biến thành kẻ cừu thù huyết chiến với bậc sinh thành hẳn chỉ là những cá nhân đặc biệt. Nếu phụ tử tình thâm mà còn những kẻ như vậy thì kể làm chi lũ khác máu tanh lòng ?
Sau cùng, ông nhận thấy ông đã quay lại với cái ngục luyện tội quen thuộc, cái pháp đình mà nơi ấy, ông vừa là quan toà vừa là người biện hộ.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh tập thể đã vang lên. Hôm nay, ba vị sư dưới núi được phép lên đây để hỗ trợ sư cụ và sư nữ. Tiếng mõ vọng nhịp nhàng điểm xuyết tiếng ngân nga vang rền của chuông bát, hoà lẫn tiếng đọc kinh. Đám người bên kia chùa đang sống cuộc sống của họ, niềm tin của họ. Họ tin chắc rằng trời phật, các đáng thần linh tối cao hiểu được những ước nguyện chân thành ấy, rằng những gì họ đang làm giờ đây là để giải đi những oan khuất cho người đã chết, để xoá đi những lỗi lầm của ông ta, để hoàn lại danh dự bị vấy bùn và những thua thiệt phải cam chịu trong câm nín. Và sau rốt, để con đường dẫn tới cõi cực lạc đón nhận kẻ đã từ bỏ cõi trần. Còn ông, ông sống với niềm tin nào bây giờ ?
Một cơn đau chạy dọc sống lưng, khiến hai đùi ông tê lạnh. Chủ tịch khép chặt cánh cửa, quay vào buồng trong. Ông đi nằm. Chưa bao giờ ông đi nằm vào giờ này trừ những trận ốm. Hôm nay, ông không ốm nhưng ông muốn đi nằm. Ông thấy bại hoại. Một sự bại hoại cả phần xác lẫn phần hồn. Ông không thể và cũng không còn muốn giữ đúng những chuẩn mực sinh hoạt của một bậc quân vương. Ông chẳng còn muốn đóng vai một người lãnh đạo có sức khoẻ vô biên, làm việc như cỗ máy không han rỉ
― Suốt đời ta đã phải chèo chống, phải cố gắng hành xử cho thật giống máy inoc. Nhưng con người không thể là cỗ máy. Con người phải han rỉ với tháng năm.
Ông thầm nghĩ, nhưng trước khi nằm xuống vẫn liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường và trải qua một thoáng chùng chình vì đồng hồ mới chỉ chín giờ rưỡi sáng :
― Có ích gì vào lúc này, tinh thần gương mẫu của ông vua già bị giam hãm ? Thôi, hãy chấp nhận thực tế là cõi người hữu hạn và sức người chẳng phải là dòng sông không cạn kiệt với thời gian. Ta đã ngoại thất tuần, ở tuổi này chớ nên bám vào ảo vọng. Suốt đời ta đã hy sinh vì những giấc mơ lớn, những giấc mơ người ta thường gọi là lý tưởng, là mục đích cao thượng. Suốt đời ta quay mặt về phía thánh đường nơi con người dâng hiến tuổi trẻ cũng như sinh mệnh một cách vô tư. Nhưng sau rốt, ta mới nhận ra rằng lý tưởng ấy cũng chỉ là ảo vọng. Nó giống như lâu đài huyền bí đứng trong sương mù bên kia bờ sông quyến rũ những kẻ đứng bên này. Người ta xuống thuyền để bơi sang. Nhưng khi cập bến, thuyền nát ván rơi mà chẳng thấy lâu đài cũng không gặp châu báu. Chỉ đơn thuần là một bãi đất hoang trên đó, ngoài những đống đổ nát là trăm nghìn mảnh thuỷ tinh vỡ phản chiếu ánh cầu vồng.
Ý nghĩ ấy khiến tay chân ông bủn rủn còn tâm hồn ông vật vờ như đám xác phù du bập bềnh sóng đánh. Ngay tức khắc, một cơn giận bùng lên, ông lại cao giọng tự xỉ vả mình :
― Ồ, chớ nên bị lung lạc bởi những ý tưởng bi quan như vậy. Chớ nên dẫm lên vết chân của đám hư vô chủ nghĩa. Ngươi có muốn quay lại thứ chủ nghĩa đó hay không ? Hay ngươi muốn theo dòng tu loã thể, sống cuộc sống của cỏ cây và muông thú ? Với ngần ấy thời gian, cách mạng đã tiến trên một đoạn đường dài. Chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật cũng bày tỏ trước mắt ngươi như năm ngón tay trên một bàn tay đang xoè ra trước mắt. Đích sở thị, chúng ta đã có một đất nước độc lập, chúng ta có quốc kì, có chính phủ, có quân đội, hiện thực của những giấc mơ dài dặc được nuôi dưỡng trên chiến khu.
Gã đàn ông có nước da nhợt nhạt màu xanh nõn chuối chợt quay lại, đứng tựa lưng vào tường và nhếch mép mỉm cười :
― Nhưng chính phủ để làm gì, quốc kì để làm gì khi những người dân còn sống lầm than hơn thuở trước ? Guồng máy quyền lực này có ích gì nếu nó chỉ dùng để bảo đảm lợi ích cho một số ít ỏi trong khi nó đè nén toàn thể dân chúng và đẩy họ vào những cuộc tàn sát tập thể mà cuộc tàn sát tự nguyện lớn nhất chính là cuộc chiến tranh này ? Những đồng chí của ngươi mơ ước một khải hoàn môn lớn hơn nữa để làm vinh danh chúng. Chúng mơ ước một cuộc chiến tranh vĩ đại hơn. Danh từ vĩ đại là con điếm vĩnh hằng tồn tại, vĩnh hằng lừa mị chúng sinh. Cả ngươi nữa, ngươi cũng đã từng bị nó huyễn hoặc. Vì muốn là bó đuốc dẫn đường cho dân chúng, vì muốn là con người vĩ đại, bậc quốc trưởng vĩ đại, ngươi đã tự nguyện đóng vai ông thánh. Và ngươi đã hại nàng, một người đàn bà ngây thơ, hoàn toàn tin cậy nơi ngươi, điều này ta nói đúng hay sai ?
Ông không dám trả lời. Ông không đủ can đảm để trả lời. Kẻ khiêu khích chẳng còn cười mỉm mà nhún vai một cách khinh bỉ. Sau khi ném cho ông cái nhìn hạ cố gã bước qua đầu ông đi ra ngoài qua lối cửa sổ.
Chủ tịch chợt thấy sống mũi cay xè :
― Trời đất ơi, cớ sao ta dễ chảy nước mắt thế này ? Bệnh già chăng, hay vì cơn cớ nào khác nữa ? Một người đàn ông không nên khóc dễ dàng như vậy. Ta đã đổi thay, ta đã đổ đốn ra tự lúc nào ?
Ông tự rủa xả một cách dữ dội, nhưng nước mắt cứ chảy, từ từ lăn xuống hai thái dương rồi chui vào đám tóc. Và bên tai ông, câu hát quen thuộc của chàng bác sĩ vang lên :
― Người yêu dấu ơi...
- A ha ha ha ...
- A ha...ha...ha...ha...ha...ha...ha...
Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn. Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng :
- Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch ?
- Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay chăng ?
Ông ta vặn lại.
Chủ tịch lặng im.
Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười :
- Sao không trả lời thẳng thắn ? Đây đâu còn là cuộc cờ thế sự, là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò ? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù muốn hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả chăng, ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn ?
- Tôi không quen, thưa chủ tịch.
- Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái tỉnh nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám dân Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc rễ của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người ?
- Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.
- Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta ?
- Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.
- Ô , ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn diễn trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều là những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.
- Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn Mỹ cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của bản thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này ?
- Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc chơi ? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm , ta hiểu chúng chính là những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ chưa ?
- Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.
- Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.
- Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông ― Đánh Mỹ đi, đó chỉ là một con hổ giấy....
- A...ha...ha...ha...Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cầnmẫn. Ngươi khá lắm! Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ thời. Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến tích. Ta thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói cho đúng hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài này. Đấy là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên ngươi có mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ phản trắc. Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta nói như tin vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến thành bông, hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn đời chỉ là vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân con những tỉnh phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải đất cỏn con mà các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo, mà chúng ta sớm hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc chiến tranh này là một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ nhàng, không tốn kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính kế mà chỉ lặp lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa :
- Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. ― Toạ sơn quan hổ đấu chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều lần. Thời chiến tranh Nhật - Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng Nhật, cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng, bỏ mặc cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay Nhật để tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân đội được bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những dân tộc Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của các ông. Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ. Mọi trò lừa đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại lịch sử, và quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.
- Hậu thế ? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là vào lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.
- Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền ? Ông tạo dựng vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo ?
- Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh bạc chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta ?
- Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai đổi được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác biệt. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của số phận, và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung hăng nhất đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.
- Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.
- Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để phán đoán và xử trí mọi tình thế.
- Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây. Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước hết là ảo thức về dân chủ , thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ sự thất bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây trong khi lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng ngờ vực ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây để cột trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương đông chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy ngàn năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng chưa ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do người cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp dụng tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân phục lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm bằng đũa và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình đẳng cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ ―đồng chí ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng cách bọn phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là bóng ma nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi chính do sự nhầm lẫn này.
Ô...đồng chí ! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày đặt.
Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là đồng chíhay chưa ?
Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng ?
- Về điều này có thể là ông đúng...
- Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định. Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm tưởng của ngươi ?
- Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.
- Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng ngươi ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai. Làm vua chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý thức là mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên như con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần xác. Cái khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi khóc ngươi cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi thế, ngươi chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ giải thích cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát. Vua diễn trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc chiếc mặt nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích, thậm chí trái ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng phải coi đó là sự đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện này. Ông ta cực thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên cốt, thơ cao sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng đủ tứ thư ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm vua. Trong khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào bất cứ xó xỉnh nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích ông ta đá hoàng hậu đến xảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần văn võ ?
- Tôi nhớ.
- Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn ?
- Đương nhiên, tôi nhớ.
- Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà thân đã từng bày mưu sát hại thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không ?
- Hai lần, nếu tôi không nhầm.
- Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể tướng Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn vẫn được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều đó chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phải kẻ nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như vậy, nếu không vì thoả mãn lòng dục ? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân xác chứa đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê một lần cả trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng tính mạnh hơn, cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh bỉ nên ông ta mới dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để che mắt thiên hạ. Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về quê lấy chồng ắt hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to mắt mà nhìn trò chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời nào cũng vậy.
- Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền thống này.
- Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa. Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất liền thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó xuyên lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi tần ở đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào tơ từ mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy lại tuổi trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dạy thì này.
- Vâng...
Chủ tịch nhếch mép cười :
- Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông : ― Ta rửa bộ phận sinh dục của ta trong bụng họ.
- Cái gì là bộ phận sinh dục ? Ngươi quả là kẻ sính danh từ của bọn mũi lõ mắt xanh ? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của nông phu bản địa :―Ta rửa con cặc của ta trong những cái hẽm của bọn gái non cho nó được dồi dào nhuận khí.Thế đấy ,ngươi đã nghe rõ chưa ?
Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi mắt nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng đều tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch Mãn hắng giọng nói tiếp :
-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các― nữ đồng chínày cho đám quan sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng, nếu chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các giảng đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự rơi rụng của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và hân hạnh mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật nuôi dưỡng rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ sáng tạo trong ta hay chưa ? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của Càn Long chưa ?
Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.
Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn đầy trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè khiến người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy dưới áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe người làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện hình từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là trong thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết các quần thần ; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn ma, dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta vang lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc thì nó sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ tịch Mãn khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức giận. Lần đầu, ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị như khi đọc truyện Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy ông im lặng. Ông ta hạ giọng :
- Sao ? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc đáng lẽ phải làm ?
- Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.
- Vậy ngươi nghĩ gì ?
- Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.
- Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng đều phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết cách nắm vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu la dồn đến nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết ?
- Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao ? Vả chăng, thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất hết trí khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng trước mấy chục triệu thây ma oan uổng kia sao?
- Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng ? Cuộc chơi đã xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta và ngươi cũng vậy.
- Tôi thấy ông cũng khá thành thật.
- Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.
- Nếu đã xác nhận quan hệ anh em - cừu thù, cớ sao ông còn đến đây ?
- Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em- cừu thù nên ta mới đến đây.
- Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên bệ thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước bất cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại. Bởi dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây cất bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương người chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất để giáo huấn cho những kẻ muốn làm vua ?
- Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc. Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng được ! Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân tử Bắc kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn quân vương khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra ngươi nên học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với giấc mơ « Một túp lều tranh hai trái tim vàng ». Làm vua, nghề này đòi hỏi cách xử thế khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được quên. Điều thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo. Ấylà phép vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết lưu thông. Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm cung điện vì máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng loài cây đơm trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không được tưới tắm mà đơm cành kết trái được không ?...Hai nguyên tắc vàng để bảo dưỡng thân tâm và bảo trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới nay đều biết ứng dụng. Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược lại. Đấy là sự nhầm lẫn lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ tiêu diệt sự nghiệp của ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả hai phương diện, thân xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám khắc khoải vì ở trong thế bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an dưỡng Quảng Châu để trói cẳng ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở tại, thích nhìn gái đẹp sở tại. Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây ?
Ông im lặng.
Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời thì cười và nói tiếp :
- Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi ?Tấm thân cá chậu chim lồng.
Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và biến mất. 


Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (5)
- Cốc cốc cốc...
Tiếng gõ mạnh vào cánh cửa khiến ông giật mình. Hai cây kim trên mặt đồng hồ treo tường đã chập lại trên con số mười hai :
― Đã đến giờ cơm trưa „
Ông nghĩ, và lên tiếng :
- Tôi đang nhức đầu. Các chú cứ để cơm ngoài bàn rồi về đại đội.
- Dạ...
Có tiếng đáp khẽ khàng. Sau đó, tiếng cánh cửa sập lại. Chủ tịch tiếp tục nằm nhưng cảm thấy bồn chồn. Mươi phút sau, ông vùng đứng lên, lau mặt và bước ra ngoài. Mấy chiếc phích điện ủ cơm và thức ăn để trên bàn, nhưng nhóm cấp dưỡng lẫn bác sĩ vẫn đứng ngoài hành lang. Họ chưa dám xuống núi mà tụ tập phía sau đội lính gác, ngắm cảnh chùa. Bên kia sân, tiếng mõ, tiếng chuông bát lẫn tiếng đọc kinh vẫn vang lên không mệt mỏi.
Chủ tịch bước ra ngoài :
- Sao các chú không quay xuống núi ? Lát nữa cận vệ sắp cơm cho tôi cũng được...
- Thưa chủ tịch, chúng con phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.
- Thôi được, nếu thế vào sắp cơm cho tôi rồi dọn đi cho tiện. Hôm nay, quả tình tôi không thấy đói.
- Thưa người, hôm nay nhà bếp nấu món cà bung và hoa bí xào mà người vẫn thích. Chủ tịch cố gắng ăn cho hết phần cơm.
- Được rồi...Tôi sẽ cố.
Ông đáp, đoạn đứng nhìn người lính sắp bày thức ăn trên chiếc khay lớn hình chữ nhật. Khi đã xong xuôi, anh ta chúc ông ăn ngon miệng và lui ra. Ngồi xuống trước khay thức ăn, ông nhớ lại lời chủ tịch Mãn :
― Ngươi quên rằng người phương đông cầm đũa và phân biệt ngôi thứ vui tôi một cách rạch ròi.
Cầm đôi đũa mun lên, ông ngắm nghía như lần đầu nhìn thấy chúng :
― Có nghĩa gì, sự khác nhau giữa những con người cầm đũa , cầm nĩa và ăn bốc ? Có nghĩa gì sự phân biệt giữa các thói quen ?
Ý nghĩa ấy lướt qua ông hờ hững, vô cảm như một gương mặt xa lạ và tẻ nhạt. Ông bắt đầu gảy những sợi rau tía tô rắc trên bát cà bung.
Trước kia, ông đặc biệt thích ăn món này. Hồi dạy học ở Phan Thiết, ông có một người hàng xóm lấy vợ Bắc kì, chính người đàn bà này đã cho ông nếm món cà bung. Đấy là người nội trợ theo đúng nghĩa, sống với khát vọng duy nhất là chăm sóc chồng con và vun vén ngôi nhà của mình. Ông chồng là thương gia sành sỏi trên đường sắt Bắc-Nam, quanh năm ăn cao lâu, tiệm khách với bạn buôn cũng như chủ đại lý nhưng vẫn một niềm thán phục tài nấu nướng của vợ. Chính chị ta vạch cho ông cái chân lý cay đắng này :
― Muốn nói rồng nói phượng thì cứ việc nói, nhưng đã nghèo mạt rệp thì làm sao có được món ăn ngon?
Rồi, chị lại cất cao giọng :
― Nhưng giàu cũng chưa hẳn đã biết đường ăn uống. Vàng bạc đầy rương cũng có khi ăn thùng uống vại, hoặc phí phạm đồng tiền mà chỉ chuốc về những thứ tạp nham.
Những lời lẽ thẳng thắn ấy vô tình làm ông tủi hổ khi nghĩ rằng thứ cà lẫn nhút mà dân quê ông lấy làm hãnh diện chẳng qua chỉ là cảm thức tự ti nguỵ trang của cảnh đói nghèo. Vợ người thương gia cũng mở mắt cho ông thấy khẩu vị con người là khác nhau do tập tục và văn hoá. Chị ta dạy ông cách nhận biết một món ăn ngon. Một con cá xẻ đôi đưa cho hai người đầu bếp khác nhau, chế biến khác nhau, gia vị khác nhau có thể đưa tới hai hiệu quả khác biệt. Kỉ niệm về món cà bung là một trong những kỉ niệm vĩnh định thời trai tráng, gắn liền với mảnh đất Phan thiết, với những sườn đồi rậm rì cây cỏ và những tháp Chàm cô liêu trên cồn cát đỏ rực ánh dương.
Một chiều, hết giờ dạy ông trở về nhà cùng lượt với vị thương gia khả kính. Chưa kịp tới xóm trời bất thần đổ mưa. Cả hai buộc phải tạt vào hành lang một ngôi nhà nguyện. Họ vốn là những người láng giềng nhưng chưa bao giờ cùng ngồi một nơi, cùng nói một chuyện. Quan hệ chỉ khuôn định trong những lời chào hỏi lịch sự bên ngoài hàng rào. Cơn mưa ấy chính là cơ hội để họ trò chuyện với nhau. Vị thương gia kia tỏ ý quyến luyến. Khi mưa tạnh, trời đã xẩm tối, ông ta cất tiếng:
- Có thể là tôi quá sỗ sàng, nhưng nếu được xin mời anh sang dùng cơm tối....Một thân trai loay hoay nấu nướng xem ra bất tiện.
- Cảm ơn ông.Tôi vốn đã quen cuộc sống độc thân.
- Ồ không!
Ông ta nằn nì :
- Tôi cũng đã từng sống như anh trước khi lấy vợ. Nhưng chúng ta là láng giềng. Anh một nghề, tôi một nghề, không có gì liên luỵ đến nhau, anh không tranh mối hàng của tôi, tôi cũng không nhằm cướp việc của anh. Nếu chúng ta trở thành thân tình thì hay lắm.
Ông cười thầm vì chưa từng thấy ai đi buôn mà nói năng một cách "thẳng như gậy tre" theo kiểu đó. Nhưng cũng chính vì thế mà ông có cảm tình với người láng giềng và nhận lời. Trở về nhà, ông cất dọn đồ đạc, thay quần áo rồi sang bên nhà vị thương gia. Ông ta đã đứng chực ở cổng, người ở gái đang cho đứa con nhỏ nhất của ông ta ăn cơm trong sân. Chủ nhân mời ông vào nhà và họ ngồi vào bàn tức khắc :
- Đây chỉ là bữa cơm thường. Vì tin rằng ông dễ tính nên chúng tôi mới dám mạo muội mời ông sang. Có gì sơ xuất, xin ông thứ lỗi.
Ông láng giềng nói. Đoạn gọi vợ ra :
- Mợ nó không cần phải lo lắng quá. Hôm nay là bữa cơm nhạt kết giao. Vài bữa nữa ta sẽ làm tiệc thết khách cũng chưa muộn.
Ông lặng thinh nhưng nghĩ thầm :
― Cơm nhạt mà như thế này cũng đã hơn hẳn mâm cỗ ngày tết quê ta.
Chiếc bàn mặt đá của vị thương gia hình rất rộng, nhưng chỉ có ba thực khách. Trên chiếc ghế trống còn lại, chủ nhân đặt một bình hoa xum xuê cắm cúc đại đoá trắng kèm cây lưu ly. Bình hoa vĩ đại đó cao non một thước và có vẻ trang trọng hơn là sự hiện diện của một quan khách. Nó khiến cho gian phòng sang trọng và đem lại cảm giác thoải mái cho mọi người. Trên mặt bàn, bà chủ đặt liễn cơm sứ trắng ủ trong dành vào một góc, góc đối diện là bình rượu thập toàn đại bổ của đức lang quân. Những món ăn bày chính giữa bàn. Vừa nhìn chúng ngay tức khắc nước bọt ông trào ra liên tục. Ông xấu hổ nuốt nước bọt một cách thầm lén nhưng không có cách nào cưỡng chế thứ dịch vị phản thùng này. Nó không ngừng tuôn tràn, bởi hương vị và màu sắc những món ăn không ngừng kích thích. Thoạt tiên, là một con gà giò hầm quỳ trong thẫu, thứ gà ri nhỏ nhưng da mỏng tang, vàng ươm mỡ và bốc mùi thơm của nấm hương tươi. Nấm hương, để nguyên cái, xếp xung quanh con gà như những cánh hoa cúc, tầng tầng lớp lớp chen chúc nhau. Rồi tiếp đấy là món cá cam, đặt trong chiếc đĩa mênh mông, sâu lòng. Cá để nguyên con, nhìn vào chúng như thấy cả biển khơi lẫn các vàng lưới vì cá tươi nguyên, mắt còn đen nhánh, da óng ánh sắc cam. Lũ cá như đang bơi giữa nước sốt trong suốt, lấm tấm điểm ớt đỏ lẫn rau mùi thái vụn. Ông chưa thấy ai làm được món cá cam như vậy, bởi khi ăn, hương vị cam thấm vào khứu giác lẫn vị giác. Vừa nhận thấy chất thịt ngọt lừ của loài cá biển, vừa nhận thấy vị vỏ cam và nước vắt của trái cam. Mọi thứ mùi vị đều rõ rệt, rạch ròi, nhưng hoà quyện vào nhau mà ớt đỏ với rau mùi là những chất gia cố khiến các hương vị kia thêm nổi trội. Ông nhớ rằng tối hôm đó, tuy đã hết sức cố gắng tự kìm giữ, nhưng ông đã ăn món cá cam nhanh như húp cháo. Tuy trong lòng có đôi phần hổ thẹn nhưng sau rốt ông đã tự an ủi mình :
― Nữ thực như miu, nam thực như hổ. Ta đang tuổi tráng niên.
Món thứ hai ông cũng ăn một cách vội vàng hào hển là món cà bung tỏi. Ở quê ông, người ta chỉ quen ăn cà muối xổi hoặc muối chườm. Cà muối xổi thay rau bởi vùng đất ấy rau rất hiếm. Nếu không muối xổi thì họ sẽ luộc dở sống dở chín để chấm nước mắm ớt xanh hay mắm ruốc, thứ nước chấm mặn se lưỡi và cay trào nước mắt. Cà muối chườm là thứ gia bảo của tất cả những loại dân cầy nghèo khổ, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả xứ Bắc. Có câu ca dao riễu cợt đám phú ông tiện tằn bóc lột những chàng rể tương lai:
― Năm năm làm rể chưa qua
Mẹ em đã tốn hết ba vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em
Bữa cơm hôm đó dạy ông rằng người ta có thể chế biến thứ rau này một cách hoàn toàn khác, không còn một chút vị hắc đậm của những món cà nơi quê ông. Món cà bung hôm ấy là thứ hỗn hợp tuyệt vời gồm những miếng đậu mềm nõn rán vàng, thịt rọi rán cháy cạnh rồi thái khẩu, cà chua bột chín đỏ như son cho nước sốt sóng sánh nổi đầy sao mỡ, còn cà chắc chắn đã được ngâm kĩ theo công thức nào đó khiến cho những miếng cà trở nên trắng và thấm đầy mùi vị của các loại rau thơm khác nhau : tía tô, lá lốt, hành tăm. Thêm vào đấy, ê hề tỏi, cả tỏi chiên lẫn tỏi sống. Tỏi chiên chắc chắn để xào cà từ khởi thuỷ, còn tỏi sống dành nêm vào phút chót trước khi múc món ăn đặt lên bàn.
Sau này, trên những con đường của số phận, ông đã từng dự nhiều đại tiệc với những món ăn của các dân tộc từ đông đến tây nhưng chưa ở đâu ông tìm thấy loại thức ăn đứng giữa món canh với món xào, chẳng thể liệt kê được vào loại nào nhưng cho hương vị ngon lành như món cà bung tỏi của người đàn bà ở tỉnh Phan thiết.
- Thưa chủ tịch, mời người dùng cơm kẻo nguội.
- A...
Ông giật mình. Nhóm lính làm bếp đứng ngoài cửa sổ vẫn theo rõi ông :
- Tôi ăn đây.
Ông đáp rồi gắp một đũa cà bung như cái máy. Ông ngửi thấy mùi tỏi, mùi lá lốt lẫn tía tô. Ông cũng ngửi thấy mùi đậu rán, mùi thịt cháy cạnh, mùi cà tím xào mỡ. Nhưng tất thảy những mùi vị ấy không còn giống như những mùi vị ông từng biết thuở xưa. Chúng chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt của mùi vị. Nước bọt không tiết ra, và miếng ăn trở nên nhạt nhẽo. Hương vị thơm tho quyến rũ không còn nữa. Không còn nữa tuổi trai tráng. Không còn nữa những chân trời mời mọc. Không còn nữa niềm tin. Và như thế món cà bung cũng không còn tồn tại. Chỉ còn lại trước mặt ông, trong chiếc đĩa viền chỉ vàng sang trọng này bóng ma của nó. Bóng ma của bữa ăn tối Phan thiết năm xưa.
- Thưa chủ tịch, món cà con nấu có vừa hay nhạt ạ ?
- Vừa, vừa lắm. Cả độ mỡ xào cũng vừa vặn, không nhiều không ít.
Ông vội vã đáp lời, vội vã nuốt, vội vã gắp tiếp gắp cà thứ hai, cố tình chọn mấy nhân tỏi trắng và rau thơm để người đầu bếp yên lòng. Thức ăn mắc trong họng nên ông phải dùng nước canh chiêu cho nó trôi xuống. Người đầu bếp vẫn theo rõi ông qua khuôn cửa sổ một cách chăm chú và thành kính. Ông cố gắng kết thúc bát cơm, chọc đũa sang đĩa thứ hai, lượm mấy nụ hoa bí đỏ xào nhấm nháp như để hoàn tất những thủ tục của một cuộc trình diễn rồi buông đũa :
- Các chú dọn đi cho tôi. Cơm hôm nay rất ngon nhưng tôi không được khoẻ. Có lẽ do nhức đầu. Nhiệm vụ của các chú đã hoàn thành xuất sắc. Chỉ có phần tôi là kém thôi. Nhưng tuổi già là thứ không ai tránh khỏi.
- Thưa chủ tịch, người chưa dùng hết một phần ba xuất cơm.
- Khi nào đến tuổi tôi, các chú sẽ hiểu.
Ông nói, phác một cử chỉ vừa để trấn an nhóm cấp dưỡng , vừa để kết thúc câu chuyện. Bác sĩ biết ý, bước vào chuẩn bị thuốc uống cho ông. Anh ta mở va-ly đồ nghề ra đong đếm, thêm vài ba viên thứ này, bớt vài ba viên thứ kia. Sau rốt, anh ta nhìn nắm thuốc trong lòng tay một cách cẩn trọng trước khi rót nước cho ông chiêu. Xong xuôi, cả bọn rút lui để cần vụ mang cho ông khay trà. Đám lính tăng cường buổi sáng đã được xuống doanh trại ăn cơm, tốp khác vừa lên thay thế.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh vẫn vang lên không ngưng nghỉ. Họ không dừng lại ăn bữa trưa. Nghe nói trước đây, Phật và các đệ tử của ông chỉ ăn ngày một bữa, sau giờ ngọ :
― Tại sao họ có thể chịu đựng suốt đời một chế độ dinh dưỡng khắc nghiệt như vậy mà vẫn mạnh khoẻ ? Nếu ta không nhầm người sáng chế ra tôn giáo này thọ đến tám mươi. Nguồn năng lượng nào bồi bổ cho họ ngoài sức mạnh của niềm tin ?
Ông tự hỏi nhưng tức khắc xoá đi câu hỏi đó vì biết nó nằm ngoài vùng tri thức của mình. Tiếng chuông bát ngân nga điểm nhịp cho những giọng đọc kinh khiến ông quay về với thực tại. Dàn hợp xướng kia là bản kinh cầu hồn cho một kẻ làm cha bị tấn công bởi chính đứa con mình. Nó được tấu lên một cách thực sự bởi những ăn năn hối lỗi của đứa con phản trắc hay chỉ là thứ trò diễn cho hợp với phong tục và thói quen ? Và nếu người cha kia không chết đột ngột bởi tai nạn, nếu ông ta vẫn sống với đầy đủ sự cường tráng của thân xác cũng như sự minh mẫn của trí não, liệu đứa con có bày tỏ lòng sám hối hay không ?
― Dường như câu trả lời sẽ là: "Không"
Ông nghĩ tiếp :
― Than ôi, câu trả lời đã sắp sẵn trong óc não, bởi thế sự đặt bày.
Rồi đột ngột, một nỗi tò mò ập đến :
― Liệu khi ta chết, lũ đồng chí phản nghịch kia có khóc không nhỉ ?
Ông hình dung đám người ấy đứng trên khán đài của quảng trường Ba đình, ắt hẳn là mọi sự phải diễn ra như thế. Trên đầu họ nào cờ rủ, nào chân dung ông viền khăn tang đen, nào những khẩu hiệu thống thiết và hoành tráng, đại loại như :
― Đời đời thương tiếc chủ tịch, người cha già vĩ đại của non sông.
― Chủ tịch sẽ sống mãi trong lòng chúng ta.
Hoặc là :
― Đất nước còn, dân tộc còn, tư tưởng của chủ tịch còn là kim chỉ nam soi đường cho tất cả.
Có thể là tất thảy những mỹ từ hào nhoáng nhất sẽ được sử dụng để ca ngợi công đức của ông. Mỹ từ là thứ ít tốn kém nhất, chúng đề nghị rất nhiều nước bọt nhưng rất ít đức độ lẫn trí thông minh. Thêm vào các mỹ từ, hẳn họ sẽ sử dụng âm nhạc, vì âm nhạc xưa nay vẫn là thứ bùa mê hiệu nghiệm. Đã sẵn bản : "Hồn tử sĩ" Liệu họ sẽ tìm thêm những bản nhạc cổ kim nào để làm mùi mẫn đám quốc tang ? Làn thảm chẳng ? Hay Sa lệch chênh ? Khúc Nam bình hay khúc Nam ai ? Lý chiều chiều hay hát dặm xứ Nghệ ? Ô, xứ sở của ta quá sẵn những khúc hát bi thương để tiễn biệt những kẻ chầu trời.
Bỗng nhiên ông thấy hiển hiện trước mắt ông tấn tuồng hài hước của thế sự, và hình dung đám người đứng trên khán đài trong tang lễ ông sẽ nhất loạt đưa khăn tay lên để lau những giọt nước mắt dù thật hay vờ :
― Chúng sẽ buộc phải làm như khóc và trong thâm tâm chúng vang lên tiếng nghiến răng trèo trẹo : Sao bây giờ mày mới chịu chết, lão khọm già kia ? Bọn ta đã mất bao nhiêu công dàn dựng để tống tiến ngươi sang cõi khác mà cái mạng sống dai nhoách của ngươi vẫn kéo cho đến tận phút này. Quả là một cuộc chịu đựng quá sức.
Nhưng cũng có thể chúng sẽ khóc thật.
Những giọt nước có hoà muối sẽ tuôn ra một cách thật sự từ mắt chúng, bởi chúng khóc trước cho thân phận của mình. Bởi chúng biết rằng chắc chắn sẽ có ngày chúng xuống tuyền đài, nơi hội ngộ cuối cùng của kiếp nhân sinh. Điểm hẹn chung cuộc mà chẳng kẻ nào có thể trốn thoát. Ở nơi đó, chúng sẽ phải đối mặt với ta.
Ý nghĩ ấy khiến ông ngao ngán lắc đầu. Nhưng ông vội vàng chiêu một ngụm nước trà vì sợ đám lính canh bên ngoài nhìn thấy. Họ sẽ cho rằng ông đã đánh mất tự chủ, trở thành con bệnh già. Thuở trước, nhiều lần ông gặp trên đường phố Paris những người già vừa đi vừa lẩm bẩm hoặc cười một mình, ông thầm nghĩ :
― Tội nghiệp thay cho tuổi già.
Giờ đây, sự thương hại đó có thể dành cho chính ông?
Một tiếng cười câm nín vang lên trong tâm tưởng :
― Giá như ta có thể cười một mình, lẩm bẩm một mình như họ?...Nhưng điều tệ hại là ngay thứ tự do ấy ta cũng chẳng có. Điều tệ hại hơn nữa là trí nhớ của ta không hành trình cùng với tháng năm, nó không chịu chìm đắm trong sương mù, nó không chịu nhạt phai cùng tuổi tác. Hình phạt lớn nhất đối với con người là cái thân xác già nua của họ lại chứa đựng một trí nhớ quá sắc bén.Trí nhớ buộc ta phải sống trong một địa ngục thường hằng. Trí nhớ là kẻ dựng nên một pháp đình miên viễn. Trí nhớ là kẻ đồng hành không thể lẩn tránh cũng chẳng dám khước từ. Nếu ta không còn trí nhớ, có thể cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn chăng?
Ông cúi xuống uống tiếp ngụm trà thứ hai, nhìn chất nước màu vàng ốc sóng sánh lưng chén, giống hệt màu món cà-ri đã ăn trước khi rời Quảng Châu. Nhà an dưỡng Quảng châu, cuộc nghỉ ngơi được bố trí lớp lang như một vở chèo hiện đại. Suốt thời gian ông ở đó, nhà bếp chỉ làm những món ăn Việt nam và Trung quốc. Nhưng bữa cuối cùng, bỗng nhiên người đầu bếp Tầu nổi hứng nấu một món ăn Ấn độ đãi ông khi ông ta biết ông sắp ra đi. Đó là sự bí ẩn của ngẫu nhiên. Bữa ăn rất ngon. Khi bước lên máy bay ông vẫn nhớ mùi vị đặc biệt của thứ bột ca-ri lẫn thứ dầu gia chế vào gạo. Chúng khiến cho màu sắc của món ăn thật đẹp. Một màu vàng nhuyễn mịn và óng ánh. Màu sắc ấy gợi sự ấm áp hoặc niềm vui.
Máy bay chở ông trở về Hà nội buổi tối hôm ấy là máy bay trực thăng quân sự. Họ nói với ông rằng cần phải dùng trực thăng, bay thật thấp để tránh lưới cao xạ phòng không. Chiến tranh thường tạo ra trò đùa của sự nhầm lẫn. Muốn bảo đảm tính mạng cho ông, người ta buộc dùng thứ máy bay cổ lỗ, xộc xệch như cỗ máy khâu Xanh-de được lưu giữ trong những gia đình thợ may từ thế kỉ mười chín nhằm tránh cho ông một cái chết không mong muốn bởi chính những người lính của mình. Ông mỉm cười :
- Sống chết của nhân gian, sổ thiên tào đã ghi sẵn. Tổ chức quyết định ra sao, tôi chấp thuận như vậy.
- Thưa chủ tịch...
Người phi công lộ vẻ áy náy, anh ta định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Ông nhìn người lính, ngay tức khắc cảm thấy tin cậy :
- Tôi đã từng ngồi xe trâu kéo. Cưỡi máy bay của chú giờ đây cũng đã là sang. Chẳng cần băn khoăn nhiều.
- Thưa vâng.
Anh ta đáp rồi ngồi vào ghế lái.
Bốn người cần vụ tháp tùng ông ngồi bốn góc theo quy định. Cuộc bay bắt đầu. Khi máy bay vừa lên đủ độ cao cần thiết trên vùng trời Quảng châu, nó đã lúc lắc chồm nẩy như cỗ xe trâu lăn trên đường núi sụt lở. Không khí chao động xung quanh tựa hồ muôn đợt sóng liên tục bổ xuống, nhào trộn với những đám mây. Đêm đen như mực. Ông không thấy gì ngoài một không gian đen mù mịt, không trăng không sao. Cứ như thế họ lặng lẽ bay qua vùng tiếp cận. Nhưng bắt đầu từ lúc máy bay vượt qua biên giới, những làn đạn phòng không túa lên, cày chi chít những rạch lửa đỏ. Mỗi lúc, những đường lửa đạn mỗi thêm chằng chịt. Ông biết rằng họ đã lọt vào vùng trời khống chế bởi cao xạ pháo miền đông bắc, kéo dài từ Lao cai cho đến Quảng Ninh. Người phi công đưa máy bay luồn dưới đám lửa đỏ. Vẻ mặt căng thẳng khiến đôi mắt anh ta như lồi hẳn lên. Mồ hôi anh ta chảy thành dòng lũ lượt sau gáy, thấm ướt đẫm cổ áo quân phục. Mồ hôi cũng nhỏ xuống từ đôi bàn tay. Ông vẫn nhớ hình ảnh đôi bàn tay đó, chúng to dày vững chãi, với đám lông trên mu và trên đốt cuối cùng của các ngón. Ông nhớ rằng ông đã nhìn vào đôi bàn tay ấy, gần như không rời mắt. Những người lính cũng vậy. Họ cũng không thể làm gì hơn là thở một cách hồi hộp và dán mắt vào đôi tay cầm lái của phi công. Sinh mạng cả sáu người phụ thuộc hoàn toàn vào chúng. Đấy là chuyến bay dài nhất trong đời ông. Mỗi phút trôi qua, là một phút hồi hộp lắng nghe tiếng động cơ già nua xọc xạch trong cuộc vận hành khốn khổ và khắc khoải chờ xem điều gì có thể xảy đến ngay phút sau. Mỗi phút trôi qua, người ta biết rằng mạng sống của mình còn thêm một phút và phập phồng vì không hiểu nó còn tiếp tục đứng vững hay không. Ông đã già, cuộc đời đối với ông chẳng bao lăm ý nghĩa. Nhưng người phi công và bốn cậu lính trẻ măng, trong số ấy có những đứa râu chưa kịp mọc. Họ không dám nói gì nhưng ông biết cơn sợ hãi kiến tất cả dường như hoá đá.
Sau cùng, người phi công thở một hơi dài và chỉ cho ông thấy cầu Long biên. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô kính, thấy cây cầu quen thuộc hiện ra trong vùng sáng mờ nhạt của thành phố thời chiến tranh. Không ngoảnh lại phía sau, người phi công lên tiếng :
- Báo cáo chủ tịch, vài phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh.
Lưỡng lự đôi chút, anh ta nói thêm :
- Nếu không có gì đặc biệt.
Ông đáp :
- Có hay không có sự cố đặc biệt cũng chỉ một người giải quyết được. Trên chiếc máy bay này chú là người cầm lái chứ không phải tôi.
- Vâng.
Người lính đáp, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước. Ông nhìn rõ những đường gân phập phồng một bên cổ anh ta, trong gờ sáng rọi lại từ phía trước. Cũng lúc ấy, máy bay bắt đầu lượn vòng tròn. Những người lính ngồi quanh ông vừa thở phào một hơi giờ lại bắt đầu sợ hãi. Cơn khắc khoải của họ nhiễm đầy không gian chứa trong khoang máy bay hẹp. Họ dán mắt vào đốm lửa phản chiếu trên đôi mắt người cầm lái. Và hơi thở của họ phả từng làn hơi nóng sực quanh ông.
Máy bay lượn tiếp vòng thứ hai, rồi vòng thứ ba.
Im lặng đè nặng lên không gian. Nhưng thật lạ lùng là cùng lúc đó, một sự thanh thản bất chợt đến với ông kèm theo nụ cười dí dỏm :
― Sau cùng, mọi cuộc chơi đều đi đến kết thúc. Ít nhất, người ta cũng thấy được màn chót của tấn tuồng. Phải chăng đó cũng là điều hữu ích?
Người phi công đột ngột quay lại nhìn thẳng vào ông, sau khi đã đưa máy bay lượn ba vòng liền trên bầu trời thành phố :
- Thưa chủ tịch, đèn ba-li đặt sai vị trí.
- Chú chắc chắn là như vậy ?
- Thưa chủ tịch, trăm phần trăm.
- Điều đó có nghĩa gì ?
- Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta hạ cánh theo ánh sáng của đèn ba-li đặt sẵn, máy bay sẽ rơi chính giữa hồ Định Công.
Ông lặng im, gần như nghe rõ nhịp đập rối loạn trong lồng ngực bốn người cần vụ trẻ. Ngừng lại vài giây, ông cất tiếng hỏi :
- Chú vào nghề đã lâu ?
- Thưa chủ tịch, chưa hẳn là lâu nhất nhưng mọi sân bay trên đất nước con đều thuộc như lòng bàn tay.
Anh ta đáp với vẻ quả quyết của một người có bản tính thận trọng và ý thức trách nhiệm. Ông hài lòng vì ngay lúc đầu đã đặt niềm tin vào con người này, một người lính trong trăm vạn người lính mà ông mới gặp lần đầu. Ông mỉm cười, đáp :
- Thời xưa những người thợ dệt giỏi dệt gấm trong bóng tối. Họ chỉ cần nghe tiếng thoi đưa và tiếng đập nhịp của guồng sợi mà biết mọi điều xảy ra. Triều đình tuyển chọn thợ dệt đặc biệt tinh xảo cho hoàng cung cũng nhờ phương pháp này. Thứ đó người ta gọi là thủ thuật thử thách bản lĩnh nghề nhiệp. Tôi thấy chú là người lái giỏi. Vậy chú cứ hành xử theo bản lĩnh nghề nghiệp của chú.
- Thưa vâng.
Người phi công đáp. Anh ta hoàn tất nốt vòng lượn thứ tư rồi bắt đầu cho máy bay hạ xuống chính tâm một khoảng không đen kịt. Đôi mắt anh ta phản chiếu lửa đèn, hắt lên những đốm sáng li ti. Cặp hàm vuông, gần như bạnh thêm ra trong sự tập trung cao độ. Đột nhiên, bàn tay người cần vụ ngồi bên trái ông túm lấy cánh tay ông, xiết chặt lại trong một cử chỉ vô thức nửa như muốn tìm nơi ông sự trợ giúp lại nửa như muốn che chắn bảo vệ ông trước hiểm nguy. Những ngón tay cậu ta rắn như đinh khiến ông đau điếng nhưng ông nín thinh chịu đựng. Rồi cuộc hạ cánh hoàn tất. Họ nghe rõ tiếng càng máy bay chạm đất, cảm nhận sự va đập cuối cùng. Tất cả xảy ra trong đêm đen.
Người phi công quay lại hỏi :
- Thưa chủ tịch, chúng ta cứ để đèn hay tắt đèn ?
- Cứ để đèn cho sáng.
Ông đáp.
Liền lúc ấy, giống như phép thuật của quỷ hoặc thần, cả một toà nhà sáng trưng hiện lên trước mắt họ. Toà nhà trung tâm khu sân bay quân sự. Tất cả các khung cửa kính đều sáng loá nhưng không thấy bóng ai. Do linh giác xui khiến, ông quay đầu nhìn về hướng dãy đèn ba-li của sân bay, bắt gặp ánh mắt người phi công cùng lúc. Dãy đèn ấy đặt dọc hồ. Một máng sắt sơn đen dài ngăn ánh sáng tiếp cận với mặt nước. Thời khắc mà họ nhìn rõ cảnh tượng đó cũng chính là thời khắc cả dãy đèn phụt tắt như những ngọn lửa ma trơi. Đồng thời, khuôn cửa lớn của toà nhà trung tâm sân bay mở rộng. Từ trong đại sảnh bước ra một nhóm người. Tất cả có tám nhân mạng. Ba Danh, Sáu, bốn cận vệ và hai người nữa, chắc chắn là cán bộ lãnh đạo phi trường :
― Họ sẽ chết nay mai, những kẻ xấu số này. Bốn cận vệ sẽ bị tiêu diệt tức khắc. Còn hai sĩ quan của trường bay? Cuộc sống của họ sẽ kéo dài một ngày hay hai ngày, ba ngày hoặc đủ một tuần lễ ?„
Ông thầm nghĩ và bất giác rùng mình. Lúc ấy, đèn trên sân cỏ cũng theo nhau bật sáng. Người phi công hỏi :
- Thưa chủ tịch, con có thể tắt động cơ được chưa ?
- Được. Đã tới lúc làm điều đó.
- Vâng.
Anh ta đáp và thi hành mệnh lệnh.
Thang máy bay được chuẩn bị do chính các sĩ quan phi trường. Ông bước xuống, lần lượt bắt tay hai người đàn em thân thiết :
- Chúc mừng anh Cả trở về .
- Xin chào chủ tịch, phong cảnh lẫn con người đất Quảng châu hữu nghị có làm người hài lòng chăng ?
Ông cười :
- Ồ, tôi rất hài lòng, tôi vô cùng hài lòng. Xin cảm ơn các chú.
Và cuộc sống lại tiếp diễn bình thường.
Nhiều ngày sau đó, tâm trí ông quẩn quanh bởi hình ảnh người phi công lái trực thăng. Chắc chắn anh ta đã bỏ mạng cùng với bốn cậu cận vệ trẻ măng kia. Không bao giờ ông gặp lại bốn chàng trai ấy nữa. Đội cận vệ của ông thường xuyên thay đổi nhân sự, nhanh hơn gió thay mùa. Còn người phi công tài năng kia ? Anh ta là ân nhân cứu mạng đối với ông. Một trong số những gương mặt ám ảnh ông gần như thường trực. Gương mặt ấy là tấm gương phản chiếu một sự thật chua chát: Ông là kẻ vô năng đối với tất cả những người đã gia ơn cho mình.
― Ta là kẻ vô năng nhất trong tất cả những kẻ vô năng. Ta là kẻ chịu ơn bội bạc nhất trong những kẻ bội bạc. Đó là một sự thật mà thế gian không tin nổi. Đó cũng là nỗi nhục nhã mà ta chẳng dám thú nhận với ai.
***
Vũ khoác áo, bước ra hành lang.
Ở đó, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, lắng nghe một cách ơ hờ những tiếng động vẳng lại. Khoảng năm giờ sáng, người bệnh nằm đối diện với ông tắt thở, sau một tuần sống cuộc sống nhân tạo. Ông ta tắt thở ngay khi máy hô hấp vẫn vận hành. Bác sĩ trực phòng gọi nhân viên dưới nhà xác cùng với cán bộ quản lý nhân sự lên làm thủ tục để chuyển tử thi đi. Những người bệnh khác ngọ nguậy cổ như những con sâu để quan sát mọi sự. Cặp mắt họ lơ láo, thất thần. Nỗi kinh hoàng khiến những gương mặt vốn đã bợt bạt trở nên vô khí sắc. Một người kéo chăn che kín đầu và lát sau tấm vải lót chăn thấm ướt. Ông ta khóc vụng bên trong. Bầu không khí đó làm Vũ ngột thở nên ông khoác áo, lẳng lặng đi ra.
Hành lang vắng ngắt, chỉ những ngọn đèn dọc tường hắt xuống dãy ghế sơn xanh. Sự vắng vẻ lẫn yên tĩnh tạm thời làm nhẹ lòng người. Tựa lưng vào ghế, Vũ đưa mắt nhìn bức tường đối diện và cứ ngồi như thế hồi lâu, không nghĩ ngợi gì. Lát sau, khuôn cửa rộng trổ ra khu vườn chính của bệnh viện dội lại tiếng chim. Vậy là bình minh đã tới. Chim chóc bắt đầu cuộc sống thường hằng của loài chim. Sau khúc dạo đầu của vài ba con chim cần mẫn nhất là bản hoà tấu của tất thảy các giống chim hội tụ trên vòm cổ thụ. Bản hoà tấu bất tận của đất và trời.
« Duyên cớ gì khiến ta chú tâm đến tiếng chim hót ban mai ? »
Vũ tự hỏi, bởi những năm ở rừng Việt bắc, tiếng chim hót chẳng khiến ông quan tâm đến thế, dù nơi đó chim chóc là một phần cuộc sống chiến khu. Không tìm thấy câu trả lời nên ông nhắm mắt lại, tiếp tục nghe tiếng ríu ran, tiếng líu lo, tiếng thánh thót, tiếng sửng sốt thất thần, tiếng trầm tĩnh rời rạc hay tiếng hối hả tươi vui mà bất khả phân biệt tên gọi của các loài. Ông không thể phân biệt đâu là tiếng hoạ mi, tiếng sơn ca, tiếng vàng anh, tiếng chích choè, tiếng sáo sậu, tiếng sẻ di hay sẻ đồng. Không, ông sẽ hoàn toàn tuyệt vọng nếu muốn trở thành người nuôi chim hay dạy chim chuyên nghiệp. Nhưng ông say mê hoà điệu của tất thảy các giọng hót, bởi chúng đem cho ông niềm vui sống lạ lùng mà mọi thứ giải trí khác đều bất khả.
Đúng lúc ấy, chiếc xe lăn chở tử thi trùm kín vải trắng từ từ tiến đến. Người đẩy xe là nhân viên nhà xác, một người đàn ông to lớn, gương mặt sưng vù như mắc chứng phù thũng bởi tiếp xúc quá nhiều với các thây ma. Đôi mắt anh ta đờ đẫn, nửa như đang nhìn, nửa như đã bất động. Da mặt anh ta cũng vậy, nó có màu vàng ệnh của xác chết. Theo sau anh ta là vài nhân viên hành chính và y tá. Cô bác sĩ trực đứng lại một mình cuối hành lang, nhoài qua khuôn cửa nhìn xuống vườn cây. Hoặc cô ta tìm hơi lạnh của sương mai, hoặc cũng như ông, nghe chim hót. Giờ, Vũ đã hiểu, cơn cớ nào dẫn đến sự chú tâm quá mức của ông tới tiếng chim lúc rạng đông. Lần đầu tiên chính là buổi sáng nghe tin Xuân bị giết. Dưới bóng các vòm lá sấu và mít, ông bất thần đứng như tượng để nghe chim hót, mặc dù người lái xe đã nổ máy dưới lòng đường. Chỉ là một khoảnh khắc, nhưng khoảnh khắc định mệnh. Những con vật nhỏ bé kia không biết rằng chính chúng đã đem cho ông sức mạnh; chính chúng là chiếc phao cứu nạn vào giây phút ông cảm thấy sắp chìm.
Giờ này là lần thứ hai.
Lần này là cái chết của một kẻ xa lạ, nhưng nó đến vào chính lúc ông đang bị uy hiếp. Bởi ông đang ở trong cơn chấn động cả tâm thần lẫn thể xác. Bởi môi trường gợi nên cảnh chìm tầu trong khi ông đang là con thuyền bị sóng đánh tròng trành. Ông buộc phải truy tìm cứu cánh. Nhưng lần này, ông ý thức rõ ràng một sự tìm đến chứ không phải là sự bắt gặp ngẫu nhiên.
« Ta tìm đến khúc nhạc này như kẻ chết đuối nắm lấy mảnh bè mà thần hộ mạng ném xuống. Tiếng chim hót, vẻ đẹp bất tử của thiên nhiên. Phải chăng ngươi là kẻ đồng hành không bao giờ phản trắc, là nơi tựa đỡ không bao giờ sụt lở đối với con người ? »
Cô bác sĩ trực tiến lại phía ông, sau khi đã nhoài người khỏi khuôn cửa sổ khá lâu để hít thở. Đêm lao động căng thẳng còn lưu lại những nếp nhăn trên trán . Lần đầu ông chú ý đến cô ta : một nhan sắc bình thường, dấu vết của cuộc sống thôn dã còn in khá đậm. Cô ta có dáng đi tất bật, thân lao về phía trước, hai đuôi tóc tết sam đánh lúc lắc theo bước chân. Đến trước mặt ông, người đàn bà dừng lại, tươi cười cất tiếng :
- Chào bác, công việc của chúng tôi khiến bác mất ngủ ?
- Tôi còn rất nhiều thời gian để ngủ bù. Bác sĩ không cần lo.
- Hôm nay cơ quan và gia đình có vào thăm bác hay không ?...
- Có chứ. Như thường lệ. Cảm ơn bác sĩ.
Cô ta mỉm cười, nhưng sau đó giơ tay che miệng ngáp rồi đi.
Người đàn bà này vừa được chuyển từ một quân y viện sang nên chưa đủ thời gian nắm vững hoàn cảnh các con bệnh. Cô ta không biết rằng ngay lúc ông nhập viện, bác sĩ trưởng khoa đã yêu cầu vợ ông không được vào thăm ông như thân quyến những người bệnh bình thường khác. Bởi cuộc đối thoại với bà chính là nguyên nhân gây nên cơn chấn động tâm thần dữ dội, kèm theo sự tăng huyết áp và co giãn vành mạch đột ngột, vượt qua mọi lô-gíc bình thường của bệnh học, dẫn đến cơn ngất xỉu của ông. Người ta buộc phải coi bà như tác nhân gây bệnh. Do đó, cuộc tiếp xúc giữa họ cũng phải chờ chỉ định của thầy thuốc. Vũ cảm thấy dễ chịu. Ông tự do. Thời gian đầu, dường như ông không còn mảy may lưu luyến đến gia đình. Ngay tên bà ông cũng quên. Hình ảnh của bà mất tăm tích. Nhan sắc mặn mà thuở xưa trở thành vô hình vô dạng trong lỗ hổng đen ngòm của trí nhớ. Có lẽ cơ thể ông phải sản sinh ra những phản ứng tích cực để tự bảo toàn.
Nhưng hôm nay, khi chiếc xe tang đưa kẻ xấu số khuất rồi, chợt một nỗi âu lo ập tới :
― Nếu ta ra đi đột ngột, liệu Vân và những đứa trẻ sẽ ra sao ?
Ý nghĩ ấy vừa tới, ông đã tự cười mình :
― Ta lại nhớ đến cô ấy. Đó phải chăng còn là tình yêu hay chỉ đơn giản là tinh thần trách nhiệm ? Hoặc chính xác hơn là một sự lạc hướng tâm lý : ta nhớ cô ấy như nô lệ nhớ chủ nô, như kẻ mắc chứng khổ dâm nhớ kẻ bạo dâm, như kẻ bị hành quyết nhớ đến gương mặt tên đao phủ. Một sự tưởng nhớ bệnh hoạn. Nó chứng thực con người vốn dĩ là con vật bị điều khiển bởi thói quen.


Đỉnh cao chói lọi
KÝ ỨC (6)
Ông vùng đứng lên, đi dọc theo hành lang vì cảm thấy nếu còn ngồi lại, ông sẽ bị đè bẹp bởi sự khinh bỉ của chính mình. Vừa đi, ông vừa đưa mắt nhìn xuống sân viện. Chiếc xe chở người chết đang vượt qua sân chính để tiến về phía nhà xác, một khối bê-tông trắng cao ngất, vuông vắn như hộp đựng bích-quy nằm khuất sau khu nhà mổ. Trên những chiếc ghế đá dài xếp quanh các bồn hoa, đã lác đác có người ngồi. Hoặc là những con bệnh sắp bình phục ra ngắm cảnh để tránh không khí ngột ngạt trong các phòng điều trị. Hoặc là đám người nhà bệnh nhân ra nhấm nháp bữa ăn sáng của họ, thường là chiếc bánh mì rắc muối hoặc gói xôi. Thấm thoắt ông đã vào đây đã trọn hai tuần, bắt đầu quen với nhịp điệu cuộc sống mới, hiểu rằng khả năng thích ứng của con người lớn hơn họ vẫn tưởng. Mấy ngày đầu, sau khi được giải phóng khỏi cơn hôn mê nhân tạo, ông hồi phục rất nhanh, cũng căm ghét rất nhanh cuộc sống của con bệnh. Các loại mùi khác nhau của thuốc tiêm cũng như thuốc uống, mùi hôi hám của những cơ thể đau ốm, bạc nhược; mùi thuốc tẩy trùng trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Gương mặt của những người bệnh, đa phần gợi đến những chiếc mặt nạ bằng sáp ong hay vải liệm hồ bột. Những ánh mắt khi lờ đờ như mất hết sinh khí, khi bày tỏ sự cầu khẩn quỵ luỵ, khi ánh lên vẻ tò mò hay nỗi tuyệt vọng, khi bộc lộ sự thèm muốn hay ganh ghen... Một thế giới tâm lý gớm nghiếc khiến ông ghê tởm. Nhưng dần dà, vì bắt buộc phải chịu đựng nó, ông tìm được những kẽ hở mà ở đó, ông có thể thở hít, có thể tự cứu vãn và gạt đi những ý nghĩ u sầu. Ông tự so sánh mình một cách hài hước với những kẻ sống dưới hầm sâu hay địa đạo, dán mũi vào lỗ thông hơi để tìm ô-xy và hương vị của bầu trời. Cái phao cứu hộ lớn nhất của ông chính là vườn cây trung tâm viện. Vũ có thói quen lượn quanh khu vườn bất kể giờ nào rảnh rỗi. Ngay cả lúc trời lất phất mưa, ông cũng lững thững đi quanh các bồn hoa, ngửa mặt nhìn vòm cây xum xuê, tìm bóng chim và nghe tiếng kêu chành choẹ của chúng. Trong túi ông lúc nào cũng dự phòng vài chiếc khăn tay vì ông là nạn nhân thường trực phải hứng chịu các bãi cứt chim. Ông hài lòng vì đã biến thành một cái đích thuận tiện để lũ chim thải bã, chẳng phải vì ông tin vào lý thuyết ― "thấy phân là có lộc" như những người dân quê, nhưng vì ông muốn gần gũi một thế giới sống động đầy cảm hứng. Thế giới ấy tồn tại ngay giữa các khu nhà ảm đạm trong đó đầy ních kẻ sống dở chết dở hoặc các thây ma. Thế giới chim chóc ấy là trạm trung chuyển giữa một bầu trời cao rộng với ông, con người đang quay cuồng trong cơn bão tâm tưởng. Tiếng hót của loài vật bé nhỏ này là tiếng nói của thiên sứ, quà tặng của vị thần bảo mệnh, chiếc bè được chúa Trời ném xuống một cách bí ẩn trong cơn hồng thuỷ vô hình này.
Những cuộc lượn chơi ấy khiến ông quen với một số bệnh nhân có tâm trạng gần như ông, họ cũng bám lấy khu vườn như bám lấy mảnh thiên đường còn rớt lại. Mọi người chạm trán nhau, cúi chào nhau một cách thân thiện và lặng lẽ, rồi đường ai người nấy đi. Khi mỏi gối chân chồn, Vũ lại tìm đến căng-tin, ngồi vào góc bàn sát cửa sổ trông ra mảnh vườn sau của bệnh viện. Ở đó, ông nhấm nháp một ấm trà với một chiếc bánh trong vài ba giờ liền, lắng nghe tiếng ong rù rì sau lưng, nghe mấy cô gái bán hàng chuyện gẫu hoặc tán tỉnh các chàng trai trong đội bảo vệ bệnh viện. Đấy là thời khắc yên tĩnh nhất cho phép ông đối thoại với chính mình.
Cuộc sống, lý tưởng, công việc, gia đình, những con đường đã đi qua, những đoạn đời đang đợi chờ phía trước.
― Phải chăng đại cuộc đã hỏng rồi ?...
Câu hỏi ấy quay vòng như bánh xe luân hồi trong óc não. Câu nói nhẹ nhàng như rỡn cợt của gã đàn ông đeo đôi kính cận dày như trôn chén kia chính là bản án tử hình: Thuyền tình đã vỡ, ước mộng đã tan ? Cuộc cách mạng mà cả dân tộc dấn thân sau rốt chỉ là sự khuấy đáy bùn để làm nổi lên xác thuỷ tộc lẫn rong rêu thối rữa ? Làm sao có thể chấp nhận nỗi đắng cay này ? Biết bao sinh linh đã nằm xuống ? Biết bao đời trai bị đốn như những thân cỏ tháng giêng bị cắt ngang bởi lưỡi hái của tử thần? Biết bao và biết bao?
Nỗi ngờ vực càng ngày càng có nguy cơ trở thành lời khẳng định.
Ông tự thán âm thầm :
― Chẳng phải vì ta xiêu lòng bởi hai gã đàn ông bẻm mép mà vì sự thật đã hiển lộ từ lâu nhưng không ai đủ can đảm đương đầu. Những kẻ đứng ngoài ngoài guồng máy quyền lực chắc chắn phải có cái nhìn khách quan. Có lẽ do thân phận của họ, hoặc nói chính xác hơn do lựa chọn rong chơi mà họ nhìn thời cuộc một cách tỉnh táo. Ta không thể chối cãi rằng đa số những kẻ đứng quanh ta chính là đám cóc nhái chốn sình lầy.
Cùng với ý nghĩ cay đắng ấy, lướt qua một chuỗi dài những gương mặt của đám người chen chúc đứng cùng ông trên khán đài quyền lực. Cái guồng máy nhà nước này đầy rẫy những quân vô lại, những bọn chôm chỉa cướp giật, những con điếm hạ cấp....Tất thảy loại người được gom chung vào một danh từ : bọn vô sản lưu manh. Vì vừa vô sản vừa lưu manh nên chúng hoàn toàn bị điều khiển bởi một niềm say mê bạo liệt, niềm say mê này cho phép dung chứa tất thảy mọi hành động tàn bạo, mọi biện pháp phi nhân tính. Sức mạnh nội tại tiềm tàng trong chúng: Khát vọng quyền lực. Sự tham lam buông thả vô cùng vô tận nảy sinh trên gốc rễ đói nghèo. Nhu cầu không nguôi dịu của một cuộc trả thù vô thức do những khổ đau, thua thiệt, căm giận, thù oán tích tụ trường kì qua năm tháng.
Kỷ niệm về hội nghị 9 chưa phai. Bởi nó đánh dấu bước ngoặt định mệnh của dân tộc cũng như sự ngã ngựa của con người khoác tấm áo bào đẹp nhất.
Buổi sáng ấy oi nồng, oi nồng như bầu không khí bao trùm hội nghị. Mặc dù những chiếc quạt trần xoay tít và những cây quạt đứng xung quanh cũng không ngừng tạt gió nhưng mọi người vẫn cảm thấy ngột ngạt. Đây là phút trọng đại nhất: Người ta lấy biểu quyết cho đường lối chính trị quốc gia. Trên ba trăm năm mươi đại biểu, phe chủ chiến chiếm tuyệt đại đa số, phe chủ hoà là thiểu số bị nghiền nát: Họ đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Thế nhưng họ vẫn can đảm đến giây phút cuối cùng vì trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc. Người đứng lên trước hết là Lê Liêm, thứ trưởng bộ văn hoá. Vì ngồi ngay hàng ghế phía sau nên ông nhìn rõ đám mồ hôi thấm trên lưng áo ông ta. Đám mồ hôi đó thoạt tiên chỉ lớn bằng hai quả quýt, chấm đúng nơi nhô lên của cặp xương bả vai. Chỉ vài phút sau, nó đã loang ra bằng hai bàn tay, rồi rất nhanh thấm ướt toàn bộ tấm lưng và dán chặt vào chiếc may-ô bên trong. Đường gờ hai bên nách may-ô nổi hằn lên rõ mồn một qua lớp vải ướt sũng khiến vị thứ trưởng có vẻ như vừa bước lên từ bể bơi Trúc bạch. Tuy nhiên, ông ta vẫn nói, không bớt một lời, không dè xẻn một ý :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta là đại biểu của một dân tộc độc lập. Chúng ta có quyền lựa chọn cho mình một đường lối tối ưu phù hợp với lợi ích quốc gia. Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc ngày hôm qua, còn biết bao nhiêu vấn đề cần giải quyết. Mìn trên các cánh đồng Mường Cúm, Him-lam chưa đảm bảo đã gỡ hết. Lúa chưa mọc kín những chiến địa cũ. Thương phế binh trong các trại còn đang cần tiếp tục điều trị và giúp đỡ. Nhân dân đang còn thiếu những nhu cầu thiết yếu như thực phẩm, quần áo, thuốc men. Ấy là chưa kể đến các loại sách vở và học cụ của trẻ nhỏ. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta không có lý do gì để dấn thân vào cuộc chiến tranh mới chỉ nhằm chứng minh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai phe đối nghịch vẫn có thể tồn tại song song trên cùng một hành tinh bởi hành tinh này đủ rộng để dung chứa các quốc gia khác nhau và các hệ thống chính trị khác nhau. Chúng ta có thể chiến thắng Mỹ không phải trên chiến trường mà trong cuộc cạnh tranh khoa học, chiến thuật công nghiệp và hiệu năng kinh tế.
Ông không còn nhớ chính xác những gì Lê Liêm đã nói sau đó, nhưng mắt ông dán vào tấm lưng áo ướt sũng mồ hôi khiến ngay cả những đốt xương sống của vị thứ trưởng cũng hiện lên rõ mồn một. Trong lúc ấy, một màu đỏ loang từ từ trên gương mặt ông ta, thoạt tiên từ thái dương và quầng mắt. Sau đó màu đỏ tràn qua hai gò má rồi lan qua cằm, xuống vùng cổ và gáy. Ông cũng nhớ rõ những nét rùng mình thoáng gợn qua khuôn mặt ấy và cơn tự chế khiến cặp môi của Lê Liêm gần như tái nhợt đi. Ông cũng nhớ một cách chi tiết những ánh mắt thù nghịch của đám người xung quanh chiếu vào vị thứ trưởng. Những kẻ ngồi hàng trên quay hẳn lại, nhìn chõ vào mặt người đang phát biểu bằng cái nhìn của kẻ côn đồ, hứa hẹn một cách thẳng thắn đá ném vào đầu hay dao đâm vào cổ. Những kẻ ngồi hàng ghế sau không thể bộc lộ được tinh thần phản đối bằng ánh mắt đe doạ và khinh bỉ đối với "tên xét lại" thì xì xào gây ồn ĩ...Một khoảnh khắc trôi qua, bất thần một đại biểu vọt đứng lên, tách hẳn hàng ghế bước đến trước Lê Liêm, xỉa tay vào mặt ông và hét :
- Nếu mày không câm họng lại. Nếu mày còn tiếp tục phun ra giọng điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.
Lê Liêm ngừng lời, dường như bị một cú đòn phang vào gáy. Ông trân trân nhìn kẻ vừa sỉ nhục mình, thứ trưởng bộ nội vụ Lê chí Thân, lâu la ruột của Quốc Tuỳ. Đưa tay lên gỡ kính, thứ trưởng bộ văn hoá chớp mắt một cách bối rối. Ông không thể tìm được lời đối thoại, dầu ông là người nổi tiếng có tài ăn nói. Hội nghị cũng im lặng theo. Đây là lần đầu, họ chứng kiến cảnh tượng các đồng chí xử sự với nhau theo đúng cung cách của bọn đầu đường xó chợ. Dầu gốc tích ra sao, nhưng khi đã trở nên những kẻ mũ cao áo dài, những đại diện cho dân chúng, bọn họ đều cố gắng giữ một sự nhã nhặn tối thiểu. Đây là lần thứ nhất, sự cặn bã được tự do lên ngôi. Hơn ba trăm con người cúi mặt xuống.
Trên khán đài, Ba Danh và Sáu lặng im.
Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch đứng lên, quay về phía Lê chí Thân, cất giọng thản nhiên, ôn tồn :
- Nếu chú muốn treo cổ chú Lê Liêm, hãy treo cổ tôi trước đã.
Lê chí Thân mím môi, cúi gằm mặt rồi quay về chỗ của y. Hội nghị chết lặng đi trong khoảnh khắc.
Rồi Sáu rung chuông :
- Giờ giải lao đã đến. Mời các đồng chí tạm nghỉ.
Sau hội nghị, Lê Liêm đã viết một bức thư gửi bộ chính trị, trong đó ông yêu cầu những người lãnh đạo cao nhất của đảng giải quyết vụ việc này, bởi ông không tin rằng đảng có thể dung túng cho những hành vi và ngôn từ có tính côn đồ lưu manh được phép tồn tại giữa những uỷ viên trung ương, những đại biểu của dân tộc.
Thứ trưởng bộ văn hoá quá thơ ngây. Ông là con người duy mỹ. Sự duy mỹ không tồn tại được trong xứ sở này. Bộ chính trị mà ông kì vọng sẽ làm trọng tài phân xử giữa ông với kẻ hạ nhục mình lại chính là đám người một đồng một cốt với y. Để xây dựng một khải hoàn môn hùng vĩ, đảng ắt cần đến loại người có khả năng tàn phá và huỷ diệt. Chiến tranh cần các tội phạm, những kẻ sát nhân chuyên nghiệp và nghiệp dư trong số đó đám đâm thuê chém mướn nghiễm nhiên trở thành lớp người đặc biệt có năng lực, được mau chóng nhận diện như lớp tinh hoa. Sự thật ấy đã liệt kê, sơ đồ hoá. Huống chi một số lớn kẻ cầm quyền cũng có gốc rễ là quân lừa đảo, trộm cướp, các phiên bản của tầng lớp lưu manh ?...Tiếng hú của chó sói khiến mọi loài run sợ nhưng lại là tiếng gọi ấm áp thân quen đối với bầy đàn của chúng. Con người như Lê Liêm chính là kẻ lạc loài. Trong khi chờ đợi lá thư trả lời của các « đồng chí lãnh đạo », ông đã bị khai trừ khỏi đảng, thải hồi và quản thúc tại gia, tất thảy mọi hình thức kỉ luật được thi hành gần như một lúc. Vài ngày sau đó, tướng Đặng kim Giang, viện trưởng viện triết học Hoàng minh Chính, nhà văn hoá Nguyễn kiến Giang và non một trăm nhân sĩ khác, những người được định danh là bị đầu độc bởi tư tưởng của tên trùm xét lại Khơ-rút-xốp bị bắt giam. Cùng một tuần lễ, hơn hai mươi tướng lĩnh bị tống vào nhà ngục bởi họ đã từng được đào tạo lâu dài trong trường quân sự Cu-tu-dốp hoặc có quan hệ gần gũi tướng Long. Tuần sau, trên năm trăm sĩ quan quân đội từ cấp đại tá trở xuống, những người từng cộng tác hoặc được nhiệm chức trực tiếp dưới quyền của tướng Long cũng lần lượt bị bắt theo. Họ bị dẫn độ trong các đoàn xe của tổng cục 2, sau đó bị giam tại nhà tù Thanh Liệt ở ngoại ô Hà nội, và hai nhà tù trung ương khác đặt tại Hà Tĩnh và Thái nguyên.
Cuộc chiến tranh mới bắt đầu.
Hành trình của dân tộc đổi hướng.
Cùng với nó là tất thảy những bi kịch của con người thân thiết nhất với ông.
* * *
Bừng mắt dậy, chủ tịch thấy hoa mai nở trắng xóa khuôn cửa sổ. Phải chăng đây là đợt hoa cuối cùng của mùa xuân ? Ông đứng lên, dán mắt qua tấm kính nhìn những cành mai phủ kín hoa giống hệt những chuỗi bông tuyết đọng trên cành thông mùa Noel. Những cánh hoa trắng tinh như tạc bằng sương băng và vườn mai trắng bơi giữa biển sương trắng mênh mông khiến ông hồi tưởng khung trời mùa đông Paris những ngày tuyết đổ.
Paris, chân trời xa xôi không ngừng thiếu vắng nơi ông.
Paris, thành phố của những đam mê mặn nồng và cay đắng.
Ông đã trải qua biết bao mùa đông trong thành phố ấy? Biết bao lần ông đứng nhìn tuyết rơi trên những mái nhà nhấp nhô với cảm thức phức tạp trong đó sự xa cách chen cùng gần gũi, nỗi buồn xen lẫn những ngất ngây. Bởi không có tiền, ông luôn luôn phải thuê những căn buồng áp mái, thứ quán trọ dành cho đám sinh viên nghèo, đám thợ thuyền tỉnh lẻ tới kiếm bánh mì đô thị và đám người lưu vong khốn khổ. Ở những gian phòng áp mái ấy, ông phải chịu đựng cái rét thấu xương nhưng bù lại, có cảm giác gần bầu trời hơn, có thể nhìn những bông tuyết quay cuồng múa lượn một cách ngoạn mục hơn trước khi chúng rơi xuống mặt đất. Đôi khi, vào những rạng đông, thành phố vắng người và ngổn ngang tuyết rơi trở nên hoang vắng lạ lùng, xa cách lạ lùng như chẳng còn là Paris mà chỉ là một bình nguyên tuyết phủ. Đôi khi, vào những hoàng hôn rét cóng, ông nhìn các bông tuyết bay xiên giữa không trung, làm nhập nhoà thêm ánh sáng yếu ớt của những ngọn đèn đường, khiến bầu trời ám mây trở nên âm u huyền bí như bức hoạ đồ được vẽ bằng bàn tay phù thuỷ. Đôi khi, vào những trưa hiu quạnh, ông bước trên hè phố đầy ngập các đống tuyết, ngơ ngẩn nhìn làn tuyết trắng in những vết giày đen bẩn của khách bộ hành. Mùa đông Paris, hơi thở ấm áp ngon lành của những lò bánh mì là thứ hương thơm nồng ấm nhất với chàng trai châu Á. Rất nhiều khi, ông bắt gặp mình đi đi lại lại hàng chục lượt trước ô cửa không cánh trổ sát hè, được chắn bởi những dóng sắt thô đen sì như cửa sổ nhà ngục. Từ những ô cửa chẳng chút gợi cảm đó, hơi nóng của các loại bánh mới ra lò bay lên không ngừng. Và không ngừng, những làn hơi ngào ngạt quyến rũ khách qua đường bởi thứ mùi thơm vô cùng trần thế.
Paris !
Sao đột nhiên nỗi nhớ hoá cồn cào ?
Những cành mai trắng bồng bềnh trong sương trắng đỉnh Lan Vu bỗng gọi về đây một khung trời tràn đầy kỉ niệm. Khung trời xa xôi và gần gũi. Quãng đời tươi thắm nhất. Tuổi trẻ của ông. Đã quá lâu ông không còn thấy thành phố đó. Liệu nó đổi thay nhiều hay vẫn như xưa? Những quán rượu cũ kĩ hẳn sẽ được đổi thay bàn ghế, thay kiểu trang trí và thêm các món nhắm. Các cô hầu bàn sẽ thay trang phục. Những ngôi nhà sẽ thay chủ và thay nước sơn. Những ngọn đèn đường kiểu cổ hẳn sẽ được thay bằng các loại đèn mới. Nhưng tựu trung, nước sông Seine đâu có đổi giòng ? Và những hàng cây vây quanh đảo Saint Louis vẫn trút lá ào ào khi mùa đông tới. Hẳn là thành phố ấy vẫn sống cuộc sống bình thường của nó, ở ngoài ông, không có mặt ông. Ông chỉ là khách trọ một mùa nếu Paris là quán trọ. Ông chỉ là kẻ qua sông một lần nếu nó là con thuyền vĩnh cửu qua lại giữa hai bờ quên nhớ của một dòng sông. Ông chỉ là một khách hàng nghèo khổ, trong túi không đủ tiền để mua một vật ra hồn, đi qua chợ mà đau đáu buồn tủi, nếu Paris là thứ siêu thị miên viễn của phương Tây, nơi sự choáng lộn của xa hoa làm chóng mặt những kẻ nhát gan và làm rơi lệ những kẻ có quá nhiều thèm muốn nhưng túi tiền lại rỗng.
Ồ, nhưng ông đâu có ham muốn tiền tài ? Suốt đời, ông chưa bao giờ dành dụm nổi một món tiền, để tiêu cho riêng ông hoặc trợ giúp một người nào ông muốn giúp. Ngay giờ đây, làm chủ tịch nước mà tiền phúng viếng kẻ tiều phu ông cũng không biết rõ ít nhiều, và không thể tự tay định liệu. Điều đó phải chăng do số phận đặt bày ? Bởi chính ông cũng dửng dưng trước một sự thật lạ lùng như vậy. Nhưng quả tình, ông chưa bao giờ thèm khát sự xa hoa của Paris. Ông nhớ về nó như nhớ một mối tình bất thành và bất khả quên lãng.
Ngoài kia, một cơn gió vừa tới, xô dạt những cành mai. Từng đám cánh hoa rơi lả tả. Chao ôi, sao mà giống những nụ tuyết ở phương trời bên kia ? Lần đầu, nhìn những bông tuyết nhỏ vừa đúng bằng hạt ngô rang nở, ông thốt kêu thành tiếng : « Ồ, xinh xắn làm sao thứ nụ tuyết tí hon này ! ». Nhiều năm sau, ông vẫn tự cười mình vì sự ngô nghê ấy. Với ông, kỉ niệm về tuyết đã trở thành nỗi sầu thương vĩnh cửu, điệp vào nỗi sầu thương một tuổi trẻ bị chôn vùi. Khi đã trở thành một người đàn ông từng trải, vào những ngày tuyết bay mù mịt, con tim ông vẫn thổn thức vì bài hát cũ : Tuyết rơi ! Phải chăng màu trắng của tuyết bay đã làm thành một phần đời ông, một phần không thể thiếu ? Phải chăng những câu ca xưa cũ, một khi đã găm chặt vào tâm khảm, trở thành thứ điệp khúc bất tử vượt qua mọi thăng trầm của số kiếp và mọi sụt lở của thời gian ?
« ....... Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Mon coeur s’ habille de noir .... »
Suốt đời ông, đeo đuổi nỗi nhớ tình yêu. Suốt đời ông, bài hát ấy vang lên như một điệp khúc vô chung và vô thuỷ. Khốn khổ thay cho ông , không thể lấp đầy nỗi trống vắng này. Khốn khổ thay cho kẻ nào tóc đã trắng như sương mà còn nhớ bài « Tuyết rơi » và con tim còn se sắt vì những mối tình bất cập.
- Thưa chủ tịch, xin mời người dùng cháo cho nóng.
- Ồ, nhà bếp đã mang lên ?
- Vâng, bác sĩ yêu cầu người ăn thêm bữa sáng còn bữa trưa rút đi nửa xuất cũng được. Như thế có lợi cho sức khoẻ hơn.
- Tôi đã nghe chú ấy giải thích. Nhưng tôi đã quen ăn hai bữa từ khá lâu.
- Vâng....Nhưng bác sĩ...
- Thôi được, tôi ra đây.
Ông bước ra phòng ngoài. Một mùi thơm lạ lùng từ sân tràn vào khiến ông dừng lại. Ông vừa hồi tưởng mùi thơm của những lò bánh mì Paris mùa đông, phải chăng mùi hương này là mùi hương mộng ảo của ký ức ?
Hồ nghi, ông giương mũi lên hít thở . Cậu lính thấy vậy nói luôn :
- Thưa chủ tịch, đó là mùi chả đậu xanh của nhà chùa. Sáng nay, sư nữ trổ tài rán chả đậu.
- À ra thế. Quả là khác.
- Thưa chủ tịch, khác cái gì ạ ?
- Ồ, tôi muốn nói là mùi thơm này chẳng giống mùi thơm của các món ăn khác.
- Vâng.
Cậu lính lập tức khẳng định :
- Mùi món ăn chay phải khác mùi các món ăn trần ạ.
Ông cười :
- Đúng rồi. Nếu không ai còn dám gọi là chay ?
Cậu lính nhìn ông thăm dò rồi hỏi :
- Thưa chủ tịch, người có muốn nếm thử món ăn nhà chùa không ạ ?
Ông lắc đầu :
- Đừng làm phiền họ như vậy. Chúng ta ở đây đã là xâm phạm vào bờ cõi cũng như tự do của các nhà sư rồi.
- Ồ không.
Chàng trai đáp một cách hăng hái :
- Chính sư nữ đem cho con một đĩa tú hụ. Chả hãy còn nóng nguyên. Con lấy lên một chút để người nếm thử .
Ông chưa kịp trả lời cậu ta đã chạy vụt ra và mất hút trong đám mây trắng khổng lồ đang lướt qua sân. Một phút sau, anh chàng trở lại với đĩa chả đậu bọc trong tấm vải bông dày :
- Mời chủ tịch dùng cho nóng.
- Cảm ơn.
Mùi chả đậu quả là hấp dẫn. Hoặc nó ngon lành thực hoặc vì nó là món ăn lạ nên vị giác của con người bị kích thích và ở trong trạng thái chờ đón. Ông gắp miếng chả lên ăn thử trước cặp mắt hồi hộp của chàng lính trẻ.
- Ngon lắm. Lần đầu tôi mới ăn món này.
Cậu lính toét miệng cười :
- Chả đậu là một trong những món chay ngon nhất đấy ạ. Những dịp đặc biệt nhà chùa mới làm vì mất công.
- Người ta làm theo cách nào ?
- Dạ, trước hết phải đồ đậu xanh lên như đồ xôi. Sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột. Thứ bột này nhào với một chút bột mì hoặc bột gạo nếp cho đủ độ dính kết, rồi thêm muối và gia vị cho vừa vặn. Sau đó đem nặn thành bánh thả vào chảo dầu rán. Hôm nay, sư nữ rán bằng dầu lạc. Nhưng muốn ngon hơn, phải rán bằng dầu vừng hay dầu hướng dương.
- Giỏi lắm. Cậu có thể chuyển thành đầu bếp được rồi đấy.
- Sáng nay con ngồi phụ sư nữ giã đậu, được nghe giảng về mọi loại ăn chay.
- Đời sống của nhà chùa xem ra cũng khá phong phú, phải không ?
- Dạ. Thưa chủ tịch...
Cậu ta lúng búng. Người lính trẻ không biết trả lời ra sao vì câu hỏi của ông quả là nan giải. Ông cười :
- Tôi hỏi đùa thôi. Đời sống của những người tu hành thật sự vô cùng đơn giản. Nhưng sự khó khăn chính là ở chỗ duy trì và bảo dưỡng sự đơn giản ấy.
- Thưa vâng.
Biết rằng chàng trai không thể hiểu những điều mình vừa nói, ông vỗ vai cậu ta :
- Thôi, không phải căng óc đánh vật với chữ nghĩa làm gì cho khổ. Cứ tin rằng đời sống của họ hoàn toàn khác biệt với cuộc sống của chúng ta.
- Thưa vâng.
Chàng trai nói với vẻ sung sướng như vừa trút được gánh nặng, đoạn cậu ta dọn khay đồ ăn đi với nỗi hân hoan như vị tướng trở về thành dẫn theo đoàn xe chất đầy chiến lợi phẩm. Ông đã ăn hết đĩa chả đậu mà bỏ lại bát cháo thịt của nhà bếp.
Chỉ vài tích tắc sau, tiếng cười của chàng trai vang đã lên bên kia sân chùa. Ông không nhìn thấy cậu ta vì những đám mây trắng lướt bay không ngừng, giống đàn bò của Thượng đế bị mục đồng rượt đuổi trên cánh đồng tiên giới. Những đàn bò trắng liên tục diễu hành trước mắt ông. Bỗng nhiên, nỗi cô đơn hiệp đồng với mây trắng bên ngoài làm buốt lạnh con tim. Chủ tịch sững sờ. Ông chưa bao giờ trải nghiệm một thứ cô đơn kinh hoàng như hôm nay. Cô đơn lạ lùng. Cô đơn đến đau buốt ruột gan, tê dại chân tay. Cô đơn như có một thứ lưới sắt vô hình quây chụp lấy ông, trói thít ông trong những mắt lưới tàn nhẫn. Ông hụt hơi. Ông thấy ông không đủ sức chịu đựng thêm dẫu là một khoảnh khắc nỗi cô đơn này cho dù suốt đời ông, cô đơn vẫn là kẻ đồng hành chung thuỷ. Ông bỗng thấy sợ khi phải ngồi lại đây, mình đối mặt với mình :
« Tại sao ta lại yếu đuối đến mức này ? Chẳng lẽ chỉ vì tuổi già mà ta trở nên một kẻ xa lạ và thảm hại ngay với cả bản thân ? »
Ông tự đe nẹt. Trong khi uống từng ngụm trà nhỏ, ông cúi nhìn vào lòng chén, cố tìm trong chất nước sóng sánh vàng kia một liên tưởng, một kỉ niệm về sông suối, một kí ức xa xôi dính líu tới những cuộc tiệc trà, làn khói mềm mại phất phơ bay trên những món ăn nóng hổi. Bất kể thứ chi có thể giúp ông quên đi nỗi cô đơn. Nhưng điều đó trở thành bất khả. Bởi nỗi cô đơn này chính là kẻ song sinh với nỗi quên lãng kia. Khi quên lãng quay đầu chạy đi, nỗi cô đơn này vòng trở lại. Hai thứ thòng lọng thít chặt cổ ông trên giá tử hình.
Chủ tịch đứng lên vì nếu còn ngồi lại ông sẽ ngạt thở. Khoác chiếc áo bông dài lên vai, ông bước ra. Vừa mở cửa, mây trắng đã phả vào mặt ông ướt lạnh. Những viên gạch dưới chân sũng nước như láng mưa. Từ bên chái nhà bên kia khu chùa, cậu lính kêu to :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào. Trời lạnh lắm.
Rồi cậu ta chạy bổ qua sân nhanh như chim cắt và túm lấy ngang lưng ông khi ông vừa định bước xuống tam cấp :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào nhà.
Ông đáp lại một cách ngang bướng :
- Ồ không. Ngồi trong nhà mãi nhức đầu. Vả chăng, tôi phải sang cảm ơn nhà chùa vì món chả đậu.
- Thưa chủ tịch, người đụng đũa đến món ăn chay tịnh của chúng tôi đã là vinh dự cho nhà chùa. Người bất tất phải sang đây.
Ông nghe sư nữ nói rất to, vọng từ bên kia đám mây. Vì đám mây quá lớn, ông sợ bị cảm lạnh nên chờ nó lướt qua sân rồi mới bước tiếp. Chỉ vài chục bước chân mà không nhìn rõ hình người. Đúng là cảnh tượng nơi tận sơn cùng cốc. Đặt chân lên bậc thềm của gian chùa ngang, ông mới nhìn thấy sư nữ đang ngồi giã trầu cho sư cụ. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, bà cụ đã từ trong nhà bước ra :
- Xin mời chủ tịch vào nhà ngay vì trời rất lạnh. Nếu chẳng may người vàng mình sốt mẩy, nhà chùa chúng tôi không biết lấy gì để chuộc lỗi trước nhân dân.
- Bạch sư cụ, người còn nhiều tuổi hơn chúng tôi.
Ông nói vậy nhưng cũng bước vội vào nhà vì sau lưng ông, những đám mây vĩ đại khác đang lù lù tiến đến. Chúng không chỉ bay ngang sân mà sẽ tràn vào tất thảy những khuôn cửa mở khiến các gian nhà ướt lạnh. Sư nữ bỏ cối trầu bước liền theo ông rồi khép luôn cánh cửa. Tiếng cánh cửa quay cót két trên trục gỗ khiến chủ tịch giật mình. Chợt nhớ rằng tiếng cót két này vô cùng quen thuộc với ông thời niên thiếu. Những ngôi nhà gỗ cổ xưa của xứ sở đều xây dựng theo cùng một mẫu, và tiếng cánh cửa nghiến trên trục gỗ vọng lên nỗi buồn nhớ thời đã qua...
- Xin mời chủ tịch ngồi.
Sư cụ mời ông ngồi đối diện với bà, trên chiếc ghế lim cũ nhưng vững trãi mà thời gian khiến nước gỗ bóng như gương. Cậu lính ngồi phía sau lưng ông, trên chiếc ghế đẩu bằng mây đan do sư nữ đem lại. Giữa căn phòng, một lò than hoa tí tách cháy. Thi thoảng, sư nữ lại lấy que khơi cho những viên than cháy đỏ và tiếp thêm than mới. Căn phòng toát lên vẻ ấm cúng mộc mạc và cũ kĩ. Giống như mùi thơm của trầu cau, hơi ấm của cánh tay bà ngoại, nỗi phấp phỏng thần tiên của những câu chuyện cổ tích được nghe kể đêm xuân. Sư nữ rót nước vào bộ chén Bát tràng mời khách. Nhà chùa uống nụ vối hãm gừng. Thứ nước ấy cũng gọi về một mùi hương cổ xưa khiến ông lập tức nhớ đến mẹ ông :
- Bạch sư cụ, nước vối hãm gừng thơm lắm. Vậy mùa hè nhà chùa cũng dùng thứ giải khát này ?
- Thưa chủ tịch, mùa hè chúng tôi uống chè tươi hay cánh cúc khô.
Nói đoạn, bà cụ quay sang bảo sư nữ :
- Con có thứ chè lam mềm để ăn sau bữa cơm. Sao không đem ra mời chủ tịch ?
- Bạch thầy, con xin sám hối. Con vô tình nên quên.
Sư nữ đi sang gian bên, hẳn là nơi cất thứ chè lam đãi khách. Ông im lặng nhìn theo người đàn bà trong tấm áo nâu dài, lơ mơ nghĩ :
« Tại sao cô ta không tìm một mái ấm như nhiều người đàn bà khác ? Liệu nơi này thực sự là miếu đường hay chỉ là nơi tránh nạn tạm thời hoặc là chốn ẩn náu để lãng quên một quá khứ khổ đau, chất chồng tì vết ? Một thứ quy phục số phận, giống như ta vị vua già trong oubliette đỉnh Lan Vu?»
Sư nữ quay ra cung kính đặt lên bàn một đĩa chè lam trắng xoá bột nếp áo. Thứ chè lam được thái sẵn hình quân cờ, đặc biệt mềm dành cho người cao tuổi hoặc trẻ nhỏ :
- Xin mời chủ tịch nếm thứ quà của các bần tăng.
- Xin cảm ơn nhà chùa. Vừa rồi tôi đã được nếm món chả đậu rất ngon. Chắc chè lam cũng sẽ ngon như vậy.
Ông đáp đoạn cầm miếng chè lam lên cắn. Sau đó ông chiêu một ngụm vối hãm gừng. Quả là ngon. Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc đối ẩm này cứu ông khỏi những giây phút trầm cảm. Ông đưa mắt nhìn gian nhà gỗ cổ lỗ một lần nữa, tự hỏi vì sao cho đến tận buổi sáng này ông mới đặt chân vào đây, vượt qua mảnh sân gạch như vượt qua bức tường thành phân định giữa tồn sinh thế tục với cuộc sống của kẻ tu hành, như vượt qua cõi biên thuỳ giữa các vương quốc nếu không đối nghịch thì cũng bất khả tương thích. Ồ, tại sao?
Chủ tịch uống một ngụm lớn như để nuốt trôi những ý nghĩ nặng nề và ông trầm trồ :
- Chè lam ngon thật. Thứ quà này tương hợp một cách tuyệt vời với nước vối.
Đoạn ông cười và nói thêm :
- Tôi ở đây đã hơn một năm mà hôm nay mới dám đặt chân vào nhà chùa. Quả là thiệt thòi. Giá tôi mạo muội phá rối nhà chùa sớm hơn hẳn đã được nếm món chè lam này từ lâu.
- Thưa chủ tịch, nơi ăn chốn ở của bần tăng làm sao đủ thanh lịch để mời người. Vì thế chúng tôi chẳng dám mạo muội.
Sư cụ đáp rồi nở nụ cười. Hai hàm răng bà cụ còn nguyên vẹn, vững trãi và đen nhánh. Chủ tịch cũng cười :
- Chúng ta là láng giềng, lẽ ra phải thăm hỏi kết thân từ lâu mới phải. Lỗi chính là tôi bận quá.
Uống cạn chén nước, ông tiếp :
- Bạch sư cụ, hình như hôm trước nhà chùa làm lễ cầu siêu cho người dưới xóm Tiều Phu ?
- Thưa vâng. Chủ tịch bận trăm công ngàn việc mà vẫn quan tâm đến số phận nhỏ mọn của lê dân, vậy là tâm người lớn lắm. Tôi nghe sư nữ kể lại việc người xuống tận dưới xóm dự lễ tang.
- Bạch sư cụ, tôi chỉ rẽ vào viếng người xấu số.
- Thưa chủ tịch, thế đã là đại hồng phúc cho gia chủ.
- Bạch sư cụ, tiện thể xin người giảng cho tôi rõ thế nào là lễ cầu siêu? Phải chăng mọi người chết đều cần đến lễ cầu siêu hay chỉ riêng những kẻ có số phận oái oăm, trắc trở ?
- Thưa chủ tịch, đạo Phật không bị ràng trói bởi nghi thức. Cũng không quy định rõ người nào cần được cầu siêu và người nào không. Tất thẩy đều tuỳ thuộc sự động tâm của chúng sinh. Chỉ có động tâm chúng sinh mới khai minh, sáng trí ; khi sáng trí họ mới đủ cơ duyên để nhìn ra nghiệp quả của mình. Nhà chùa chỉ làm theo thỉnh nguyện của chúng sinh. Thế nhân thường nói: « Tâm động, quỷ thần tri ». Kẻ tu hành biết là phật tính được khơi như ngọn đèn, vừa rọi sáng cả tinh thần lẫn sinh thể chúng sinh, vừa chiếu qua bẩy vùng trời để làm nở đoá sen phước hạnh.
- Bạch sư cụ, chúng tôi là kẻ ngoại đạo, dù có cố sức cũng không thể hiểu được ngay những kinh điển trong tôn giáo của ngài, nhưng ở góc độ kẻ phàm trần, chúng tôi vô cùng quan tâm đến câu chuyện giữa cha con người tiều phu dưới xóm. Không hiểu nhà chùa cắt nghĩa việc này ra sao ?
- Thưa chủ tịch, Đức Thế Tôn chỉ ra rằng trong mọi kiếp nạn của con người, chữ Tham đặt lên trước hết. Lòng dục che mờ lương tâm như đám mây đen che khuất mặt trời, mặt trăng. Tình cha con, tình thày trò, tình huynh đệ đều bị lòng dục phỉ báng và phá huỷ. Ngay Đức Thế Tôn cũng bị sát hại bởi chính người em họ thân thiết của mình, đại đức Devadatta. Lịch sử các triều đại, từ cổ chí kim, chuyện thái tử giết vua cha đâu có thiếu. Chắc chắn ngài còn đọc nhiều hơn bần tăng.
Dứt lời, sư cụ từ tốn mỉm cười. Và ông lại nhìn thấy hai hàm răng hạt na đen nhánh :
« Ồ, rõ ra đây là một bà già Việt cổ xưa, răng đen váy lĩnh. Trước đây bẩy mươi năm hẳn là một thôn nữ tươi ròn, tràn đầy sức sống. Nhưng nàng không chấp nhận cuộc sống bình thường với những thú vui bình thường nơi thôn xóm mà dùi mài đèn sách để trở thành đệ tử của Như Lai.»
Ông thầm nghĩ, không ngăn được mối thiện cảm với người đối thoại :
- Bạch sư cụ, ngài dẫn giảng thật hay. Quả là ngài đã dày công đèn sách.
- Thưa chủ tịch, bần tăng không dám nhận lời khen. Bất cứ ai ăn mày cửa Phật, đọc kĩ lời dạy của Đức Thế Tôn đều có thể dẫn giảng hay hơn bần tăng gấp bội.
Không chờ ông lên tiếng đáp, bà cụ quay về phía sau hỏi sư nữ :
- Con không thấy là đĩa chè lam sắp hết rồi sao ? Nhà chùa thanh bần nhưng không bao giờ hẹp lòng đãi khách.
- Con xin sám hối. Con mải nghe chuyện của thầy.
Ông mỉm cười vì thấy sư cụ đầy mẫn tiệp ; lối lảng tránh những chủ đề không mong muốn của bà cụ chứng tỏ khả năng phản ứng của cụ nhanh không kém người đang độ thanh xuân. Ông ăn miếng chè lam cuối cùng còn lại trên đĩa, giống như một người hàng xóm quen thuộc đã nửa thế kỉ nay :
- Chè lam quả là ngon. Bạch sư cụ, xin cảm ơn ngài lẫn sư nữ vì sự đón tiếp thịnh tình này. Nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ còn được dịp quấy quả.
- Thưa chủ tịch, ngài đặt chân đến đây là vinh dự cho các bần tăng.
Ông đứng lên.
Và sư cụ cũng đứng lên, chắp tay hình búp sen đáp lễ.
Khi ông trở lại phòng, đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi lăm phút. Vậy là cuộc trò chuyện với nhà chùa kéo dài một tiếng rưỡi. Một tiếng rưỡi, mùi nước vối hãm gừng lẫn nụ cười với hai hàm răng đen nhánh của nhà sư cứu ông thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Bây giờ, ông còn lại với chính ông. Chủ tịch ngồi xuống ghế, bắt đầu sợ hãi khoảng thời gian phía trước. Nỗi cô đơn sẽ quay trở lại. Giá treo cổ sắp hiện hình. Ông biết trốn đi đâu ?
Vào rừng chăng ? Bất khả. Xuống núi chăng ? Không có lý do. Vả chăng, ông không thể tự biến mình thành con bệnh tâm thần trước mắt đám người canh giữ cái nhà ngục mỹ miều này. Lòng tự tôn không cho phép ông hành động buông thả. Đưa mắt nhìn lên giá sách, ông bắt gặp vài chục cuốn đang đọc dở, găm đầy những tấm thẻ tre đánh dấu. Rút một lần ba cuốn, ông bắt đầu lật giở từng trang. Các dòng chữ lướt đi như dãy chấm đen vô hồn, không mảy may ý nghĩa. Khi thì chúng giống như những dãy hoa văn đơn điệu và thô mộc, khi thì chúng trở nên xám xịt như nắm cát và ông không thể phân biệt nổi con chữ. Chủ tịch thở dài, gấp lại cuốn sách, đặt chiếc thẻ tre vào đúng trang cũ. Trên sân chùa, những đám mây trắng khổng lồ vẫn lũ lượt lăn qua. Và những cành mai phủ đầy hoa trắng vẫn nhè nhẹ rung bên ngoài khung cửa khiến con tim ông lại cồn cào nhớ màu tuyết trắng.
« Ta không thể tiếp tục chịu đựng những dày vò khủng khiếp này. Điều đó tồi tệ hơn cả cái chết. »
Ông lại đứng dậy, cầm chiếc áo bông , định bước ra cửa. Nhưng chiếc áo ướt lạnh buộc ông hiểu rằng ông không thể đi đâu vào lúc này. Ông không có cách nào hơn là ngồi lại giữa bốn bức tường tù ngục, đối mặt với chính pháp đình của chính ông.
Mắc lại chiếc áo lên giá treo, ông buông mình xuống ghế, đưa mắt nhìn đám mây cuồn cuộn như đống bông lăn qua sân chùa và nhớ lời sư cụ :
« Đến đức Thế Tôn cũng còn bị sát hại bởi đàn em. Đã khoác áo cà-sa, đã tu luyện đến bậc đại đức mà còn bị lòng dục xui khiến thì huống chi đám người trần tục ? Ta chẳng nên oán trách bọn đồng chí thù nghịch ấy. Kẻ đáng oán trách trước hết là ta. Chính bản thân ta. Hoặc yếu hèn hoặc ngu ngốc, hoặc cả hai. »
Lần này, ông không còn muốn tự bào chữa. Gã luật sư biện hộ cho ông chết rồi chăng ? Ý nghĩ đó lướt qua ông một cách ơ hờ trong khi ông đăm chiêu nhìn một đám mây rách nát đang kéo lê qua sân chùa mớ áo tả tơi của nó. Đột nhiên, hình ảnh ấy xui khiến ông thương cảm chính mình :
Đường đời ngoắt ngoéo quanh co, nào ai biết được nẻo nào mà dấn bước ? Ta đi tìm cho dân tộc ta một thành Paris, nhưng số phận lại dẫn ta đến Mạc-tư-khoa băng giá. Ta đi theo ngọn gió phương tây, nhưng định mệnh lại xua đuổi ta quay về bờ biển phương đông. Suốt đời ta, những ngẫu nhiên tác tạo và xô đẩy. Kiếp người phải chăng cũng chỉ là bèo dạt mây trôi ?...
Một nước Pháp của Đi-đơ-rô và Voltaire mở cánh cửa gọi ta bước vào. Một nước Pháp khác của các quan chức đội mũ cao ống, mặc áo nhấn hai hàng khuy vàng đóng sập cánh cửa đó trước mũi ta như gia nhân một lâu đài đóng sập cánh cửa trước tên hành khất. Những dân tộc nhược tiểu và nô lệ bị xua đuổi khắp các nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc, và con dốc lát đá duy nhất mời đón những bước chân của họ lại chính là con dốc dẫn thẳng xuống địa ngục. Khi ta hiểu ra điều đó thì mọi sự đã muộn mằn.
Cái địa ngục đó giờ đây chẳng còn hồ nghi nữa. Nhưng không kẻ nào đủ lòng ăn năn và sự can đảm để mở mắt nhìn vào. Ông nhớ cảm giác choáng váng khi lần đầu thấy dân chúng xếp hàng lũ lượt như rồng rắn chờ mua thực phẩm. Xe ông gắn kính đen, không ai biết được sự hiện diện của ông. Xe lướt rất nhanh nhưng cũng đủ thời gian để ông nhìn rõ đám dân đen. Và cảnh tượng khổ não ấy đập vào cân não ông như nhát búa. Năm đó, con tim ông đang còn tưng bừng khúc hát « Tiến về thủ đô ». Hai năm chưa đủ làm phai nhạt những vàng son của vinh quang và chưa làm nguội những cơn sôi sục trong huyết mạch. Bận rộn, ông không có thời giờ vi hành. Quãng thời gian tằn tiện bòn mót được ông dành dụm cho nàng nhưng các cuộc gặp gỡ của họ bao giờ cũng vào lúc quá nửa đêm, thông thường sau mười hai rưỡi hoặc một giờ, khi xe ông lướt qua phố xá, mọi sinh hoạt của dân chúng dường như đã kết thúc. Sớm hôm đó, ông hẹn làm việc với một giáo sư lịch sử ngoại quốc. Vì đề tài liên quan đến viện bảo tàng quốc gia nên ông đề nghị điểm hẹn ở ngay nhà bảo tàng. Rồi ông yêu cầu lái xe chọn một lộ trình mới để ông có dịp nhìn phố xá. Đó chính là cơ hội đầu tiên kể từ ngày rời chiến khu về thành phố ông chứng kiến cảnh sinh hoạt của dân. Cảnh tượng không mỹ miều hay lạc quan như ông từng mường tượng. Đám đông hiện lên trước ông, bằng xương bằng thịt, chen chúc, bấn loạn, như đàn cừu trên lối dồn trở lại chuồng. Những gương mặt đập vào thị giác ông là những gương mặt võ vàng đói khát; những gương mặt lầm lụi tối tăm, những gương mặt u uất vì nhẫn nhịn, nhục nhã; những gương mặt kinh hoảng vì bị dồn ép dưới những cảm xúc của sợ hãi, chờ đợi, đau khổ, căm thù. Đấy chính là gương mặt của những kẻ đang đứng mấp mé trên ngưỡng cửa bước vào các bệnh viện thần kinh.
Cố gìm giữ cơn thảng thốt, ông lấy giọng thản nhiên hỏi lái xe :
- Gia đình chú có phải xếp hàng mua gạo như thế kia không ?
Anh ta trả lời tức thì, với nỗi hân hoan không che giấu :
- Thưa chủ tịch, rất may mắn là gia đình chúng con thuộc diện ưu tiên. Nhà nước đem gạo và thực phẩm tới tận cơ quan phục vụ.
- Những ai thuộc diện được ưu đãi như vậy ?
- Thưa chủ tịch, tất thảy những ai trực thuộc bộ máy văn phòng chính phủ hoặc ban quản trị trung ương đảng. Ngoài ra là các bộ phận đặc biệt thuộc các bộ đặc biệt như bộ nội vụ, bộ quốc phòng...và trước
hết là bộ thương mại và thực phẩm vì đó chính là đất sở tại của họ. Nhân viên thuộc các bộ ấy được coi như con vua cháu chúa thời xưa.
- Thế nào là con vua cháu chúa ?
- Thưa người, câu nói đó hàm ý là họ có quyền hưởng thụ ở mức cao nhất. Cùng một thứ sổ gạo nhưng họ được ăn gạo mùa mới, còn thơm phức mùi cám ; trong khi dân chúng phải ăn gạo mục vì nhà nước chỉ bán cho dân những thứ gạo đã qua năm sáu mùa lưu cữu trong kho. Cùng là thịt, nhưng những phần ngon họ lấy trước, còn thịt bụng, thịt mỡ, đầu lợn, họ đem bán cho dân. Nếu không thuộc diện ưu tiên có kiếm được miếng thịt cũng nhục nhã như tù khổ sai đi đập đá vậy. Anh cả của con làm việc trong thư viện quốc gia, cán bộ cấp lãnh đạo nên mỗi tháng được mua năm lạng thịt. Tháng một lần, vợ anh ấy phải dậy từ ba giờ sáng ra chợ Hôm xếp hàng mua. Nhưng lần nào cũng đến non trưa mới trở về nhà, mà lần nào cũng toàn xỏ lợn với thịt bụng vì đám mậu dich viên tuồn thịt bên trong quầy cho người nhà và các cơ quan có mặt hàng đổi chác, ví như các cửa hàng bán gạo, bán vải, đường sữa hoặc nhu yếu phẩm khác. Khi đã thoả mãn tất cả những cuộc trao đổi lợi quyền như vậy, họ mới nhìn ngó đến dân.
- Tại sao các cán bộ lãnh đạo nhà nước không hay biết chuyện này ?
- Dạ.
Người lái xe ấp úng. Anh ta đưa mắt liếc ông rất nhanh, vừa như thăm dò vừa như ngờ vực. Và ông biết rằng ông đã buông ra một câu hỏi vô cùng xuẩn ngốc.
- Có thể là các đồng chí ấy đã biết nhưng chưa đủ thời gian báo cáo lên trên.
Ông tự trả lời. Và anh chàng lái xe vội đáp theo :
- Thưa chủ tịch, đúng là như thế.
Đêm hôm đó, ông ngồi nhìn trăng. Nỗi phân vân khiến ông không ngủ được. Trước mắt ông là vành trăng lưỡi liềm điêu bạc như lá lúa. Dường như nó không toả ra một chút ánh sáng nào. Lũ đom đóm lập loè trên bãi cỏ còn rực rỡ muôn phần hơn nó. Ông nhìn vầng trăng ấy, liên tưởng đến sự suy tàn của mọi sự vật :
« Cuộc đời vốn là cuộc vận hành bất tận, từ nương dâu biến thành bãi biển, con người từ hư vô đến rồi lại quay về với hư vô. Nhưng cớ sao ta bỗng buồn thảm nhường này ? Phải chăng vành trăng chết lụi kia có liên quan ngầm ẩn nào đó với số phận của quốc gia ? Và nó chính là điềm báo triệu cho một sự sụp đổ không chóng thì chày, một kết thúc buộc phải đến ? »
Ý nghĩ đó như lưỡi dao bén của đao phủ gại trên cổ ông, kẻ sẽ bị hành quyết không chầy thì chóng. Ông bỗng thấy buốt lạnh sống lưng. Trước mắt ông lại hiện lên đám đông đói khát, nhục nhằn và bấn loạn chen chúc nhau trước quầy bán gạo. Ông nhìn thấy những cánh tay vươn lên, giằng giật huých đẩy nhau; những cặp mắt trợn ngược tròng, những cần cổ vươn dài về phía khuôn cửa chắn dóng sắt với tất thảy sự chú tâm điên cuồng của loài thú dữ lao về phía con mồi trong nỗi thúc bách của cơn đói. Chao ôi, đó là những đồng bào của ông, những công dân trong cái xã hội mà ông là người khai sinh, những con người mà vì họ ông đã nuôi giấc mộng giải phóng. Đó là ảo ảnh hay sự thật ? Phải chăng mọi cố gắng của ông chỉ là sự lầm tưởng và cái hiện thực này chính là bóng lâu đài soi trên mặt nước dòng sông ma ? Ông tự hỏi rồi không dám tự trả lời. Nỗi hãi hùng quây chụp trí não. Những gương mặt ông nhìn thấy buổi sáng chỉ còn là những tấm gương phản chiếu cuộc sống của một bầy súc vật bị ngược đãi hoặc trạng thái tinh thần của những kẻ nhiễu tâm. Nếu không là những con bệnh tâm thần ắt phải là đám cừu chen chúc bên máng cỏ. Con người bị đầy ải vì miếng ăn. Con người không còn cảm thấy nhục nhã nữa sẽ chỉ còn là con vật trong chuồng chờ đến giờ vục đầu xuống máng. Còn nếu con người biết phẫn nộ, hẳn họ sẽ nuôi lòng thù hận, chờ phút thuận tiện để cắt cổ những tên chúa ngục. Những kẻ giam cầm họ trong kiếp súc sinh.
Ôi, cái chế độ mà ông ra công gây dựng cuối cùng chỉ là một chuồng cừu vĩ đại hay sao ? Hay nó chính là một trại giam khổng lồ, nơi giam hãm con người trong những nhu cầu vật chất hạ cấp nhất, nơi thực thi một cuộc hành xác tập thể, nơi ngự trị một sự tự sỉ nhục có tính triệt để và đại chúng, nơi đào luyện ra nếu không phải những con bò cúi đầu trước bó cỏ thì sẽ là những tên trộm cướp, những kẻ bị rối loạn nhân cách hoặc nhiễu tâm ? Không có cách phân tích nào khác. Và nếu không có cách giải thích nào khác, cái xã hội hiện hành chính là sự thụt lùi bất khả hình dung so với cái xã hội đau khổ thời xưa.
Chao ơi, bao nhiêu con người đã hy sinh, bao nhiêu tài sản đã hao tán, thiêu huỷ, bao nhiêu nỗi gian truân dân tộc của ông đã phải trải nghiệm để sau cùng nó lãnh nhận một cuộc sống dã man như vậy hay sao ? Nếu vậy thì cuộc cách mạng này là cuộc phiêu lưu rủi ro nhất trong các cuộc phiêu lưu của kiếp người. Và nếu vậy, cuộc đời ông là một sự thảm bại không gì có thể so sánh.
Da ông nổi gai ốc. Những cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng khiến ông không kìm được tiếng kêu. Nhưng ngay lúc đó, cần vụ lẫn bác sĩ đã chạy vào. Ông buộc phải bịa ra một cơn đau thể chất để đánh lừa họ.
Vào cuộc họp của bộ chính trị ngay sau đó, ông yêu cầu lật lại chính sách kinh tế để tìm phương sách cứu vãn tình thế. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của hai từ : Hạnh phúc. Mọi cuộc giải phóng không có ý nghĩa nếu nó không làm cho con người hạnh phúc hơn. Mọi cuộc cách mạng cũng chỉ là trò tiêu khiển rồ dại và tàn ác nếu nó không đem cho con người tự do và cuộc sống xứng đáng. Độc lập cũng thế thôi. Độc lập không có mảy may giá trị nếu những dân cư của một nước độc lập lại không thể độc lập với những nhu cầu thiết yếu nhất của sinh tồn, giống những con bò không thể độc lập với mớ cỏ.
Không ai phản đối ông.
Nhưng cũng không ai nghe ông nói cho dù họ vẫn ngồi quanh chiếc bàn đồ sộ, và với ông làm đủ con số mười ba. Ông hiểu điều đó khi nhìn những cặp mắt lơ đãng của họ, những ngón tay gẩy tàn thuốc không mệt mỏi hay xoay tròn chiếc bật lửa một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Hôm qua, họ còn là những chiến sĩ tranh đấu cho một lý tưởng. Giờ đây, họ đang ngồi tính những con tính khác. Cuộc chiến tranh hôm qua đã kết thúc. Hôm nay là lúc các tướng lãnh chia phần xôi thịt trong dinh. Hôm qua ở trên rừng tất cả đều nhận một xuất cơm và một góc suối, không có gì để so đo, chẳng có chi để tính toán. Hôm nay, sự vật xoay vần bởi nếu biệt thự của anh lớn hơn biệt thự của tôi cả ích lợi vật chất lẫn danh tiếng của tôi trước mắt tha nhân sẽ bị thuyên giảm. Ngôi thứ của mỗi kẻ ngồi đây sẽ kèm theo muôn vạn quyền lợi đo đếm được và không đo đếm được ảnh hưởng đến cả một tập đoàn những kẻ dưới trướng trong phủ và những người cùng huyết tộc. Họ không còn quan tâm đến những điều ông quan tâm vì lợi ích của cá nhân bao giờ cũng là thứ gần gũi nhất và là cám dỗ lớn nhất với con người. Những dằn vặt của ông giờ đây, với họ trở nên nhạt nhẽo hoặc bất khả tri. Cả một bộ máy phục vụ bản thân họ cũng như gia đình họ bất kể thời gian và vô giới hạn. Họ sống hoàn toàn theo nguyên tắc vàng của chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc đó chỉ dành riêng cho một nhóm người và loại trừ cả một dân tộc, một dân tộc cừu bò đang chen chúc nhau chờ những bó cỏ ngoài kia.
Ông nhắc lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Không ai phản đối. Không ai đáp lời. Không ai có nhu cầu tranh luận. Rồi sau đó là giờ giải lao. Sau đó một vấn đề khác được đề cập tới, thiết thực hơn, cụ thể hơn nỗi nhục nhằn đau khổ của nhân dân. Nỗi đau khổ của kẻ khác bao giờ cũng mơ hồ và khó cảm nhận. Nỗi đau khổ của nhân dân lại càng mơ hồ và khó cảm nhận hơn. Bởi nhân dân là thứ vô hình vô dạng, không có chân để chạy, không có cánh để bay, không có mỏ để hót. Độc lập không còn là một khát vọng lớn lao của một dân tộc nô lệ và đau khổ mà chỉ còn là một chiến lợi phẩm cụ thể, giống như một con lợn rừng bị hạ dưới ngọn lao của thợ săn. Chừng ấy thịt da chỉ đủ chia cho những kẻ biết cầm lao, cầm mác còn đám đông đứng ngoài hội phường săn là đám chúng sinh ăn chực chầu rìa. Ông hiểu rằng khi cần thiết, con người trở nên câm và điếc một cách dễ dàng. Cũng dễ dàng trở nên tàn nhẫn. Họ, những kẻ quây quần quanh ông, chia chác phần thịt của con lợn rừng vừa bị hạ...Họ trở thành xa lạ với ông. Ông trở thành khó hiểu với họ. Lục địa đã nứt đôi, họ đứng một bờ còn ông bờ khác. Đó là lần đầu tiên ông hiểu sự rạn vỡ của những mối quan hệ thường gọi là đồng chí hay huynh đệ. Những sợi dây gắn bó có thể dệt hàng chục năm hay lâu hơn nữa. Sự phân ly xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, khi nhát kiếm hạ xuống. Nhát kiếm của quyền lực. Trước nó, mọi sợi dây tương thân tương ái chỉ là mớ tơ nhện mong manh.
― Lẽ ra, ta phải hiểu sự tình từ ngày ấy. Phải xoay nước cờ từ ngày ấy. Nhưng ta là kẻ chậm chân nên bị dòng lũ cuốn đi.
― Ồ, nhưng bọn họ quá đông còn ta đơn chiếc. Và thảm hại thay ta phải thuận tình theo họ bởi tin rằng sự thoả hiệp đó cứu vãn được đại sự . Rằng nếu ta vì họ mà hy sinh thì chắc chắn họ phải vì đại nghĩa mà quên đi những tham vọng riêng tư. Sự ngu xuẩn là ở đó. Nước cờ vào thế bí. Họ lợi dụng sự thoả hiệp này để nhấn ta vào hậu cung.
« Nhưng gốc rễ sự thất bại này nằm ở nơi đâu ? Sự ngu xuẩn của chính ta hay con đường ngoắt ngoéo của định mệnh ? Ta đi cùng họ trên một con tàu để rồi khi đến bờ bên kia đại dương thì một mình ta ở lại trên cô đảo ? Hoặc bản chất ta là con sói lẻ bầy nên bất cứ cuộc tụ hợp nào cũng chẳng bền lâu ?»
Phải chăng và phải chăng ....
Những câu hỏi không ngừng quần đảo ông.
Con tim già mệt mỏi của ông thổn thức.
Mây trắng vẫn trôi không ngừng trên đỉnh Lan Vu. Trôi không ngừng mùa tuyết Paris và những hồi quang của một tuổi xuân xa ngái. Óc não ông khoan xoáy bởi những nghi vấn. Rồi lát sau, con tim buồn nhớ của ông chợt quay về thành phố phương tây, nơi vĩnh định một liên kết thầm kín, nơi ghi khắc mãi mãi những khát vọng yêu đương và những cuộc tình chết yểu. Nơi tâm hồn ông ở lại như ngôi nhà côi cút trên bãi biển hoang sau những ngày hè náo nhiệt khách vãng lai. Paris ! thật lạ lùng là khi rời xa nó, ông đã ngoái nhìn lại như nhìn một quán trọ ; vậy mà giờ đây thành phố ấy hiển hiện lên trong trái tim ông như hải cảng cuối cùng mời mọc kẻ lữ hành. Ông nhớ những giảng đường, nơi ông thường đi qua với một nỗi ước ao tuyệt vọng. Ông nhớ những con chim câu dạo quanh căn gác xép nơi ông trú ngụ và tiếng gù của chúng vào lúc xuân sang. Ông nhớ một đứa con thiếu vắng bởi sau khi ông rời xa căn ngõ hẻm sát phố Saint John sáu tháng, một đứa bé đã ra đời. Một đứa con gái, được đặt một cái tên vô cùng thông dụng trên đất Pháp, Louise. Ông không ngờ rằng những đêm chăn gối với cô thợ mũ đã để lại trái cấm. Một sự sao nhãng ngu xuẩn. Phải chờ bẩy năm sau, nhờ một cuộc gặp ngẫu nhiên trên đường ông mới biết được sự thật. Ông hiểu rằng đó chỉ là trái cây không chờ đợi của những cơn điên cuồng thân xác. Nhưng dẫu sao, đứa bé ấy vẫn mang dòng máu của ông, của chính ông. Ông dùng dắng nhiều lần, định quay lại nơi ngõ cũ, tìm gặp cô thợ mũ và Louise. Nhưng trong túi ông không đủ tiền để mua cho con gái một món quà xứng đáng. Và rồi, cơn lốc phiêu dạt của cách mạng cuốn ông đi. Sau rốt, ông chưa từng mua cho con ông một chiếc váy, một đôi giầy. Ông chưa từng bồng con bé lên tay và nhìn vào đôi mắt nó.
« Giờ này nó đã trở thành một người đàn bà, chắc chắn. Hẳn nó đã có chồng con. Có bao giờ nó lục tìm hình ảnh một người cha vắng bóng? Có bao giờ nó nuôi ý định tìm về Việt nam, miền nhiệt đới xa xôi, để nhìn ngó một thứ người xa lạ nhưng ràng buộc với nó bởi sợi dây huyết mạch? Hoặc nó đã quên ta hoàn toàn trước khi biết ta, một sự quên lãng cố tình?
Ý nghĩ đó khiến ông tê tái. Ông rờ ấm trà, muốn uống một ngụm nhưng nước đã nguội. Gương mặt ông hiện lên trên mặt bàn gỗ bóng láng như gương. Ông cúi nhìn cái bóng của mình. Nhìn lặng lẽ. Một tiếng nói thầm thì cất lên trong tâm tư :
"Gã đàn ông này là kẻ làm cha tồi bại nhất trên trái đất. Rồi mai đây, ngươi sẽ phải đối mặt với những người ruột thịt trước pháp đình tối cao của con tim. Cuộc cách mạng mùa thu rồi sẽ chìm mất tăm trong dòng chảy triền miên của lịch sử như tất thảy những cuộc cách mạng khác. Giống như những trận động đất, những cơn sóng thần và những trận lôi đình khạc lửa của các hoả diệm sơn. Thời gian sẽ xoá đi mọi dấu vết. Mọi vương miện đều sẽ rách nát cùng với tháng năm. Mọi ảo tưởng về vinh quang rồi sẽ tan vỡ như vầng trăng trên dòng sông u tịch của các nhà thơ thời trung cổ. Nhưng pháp đình của con tim sẽ mãi mãi dựng lên trên cõi đất của cuộc đời thế tục và pháp đình ấy cũng sẽ mãi mãi dựng lên bên kia bờ con sông Mê, nơi linh hồn những kẻ ra đi chen chúc trên những con thuyền kết bằng tro bụi, với cặp mắt rỗng và ba đồng xu đặt trên chiếc lưỡi lặng câm."
Một tấm lưới vô hình thít chặt lấy chủ tịch khiến ông như ngạt thở.
Đầu ông buốt lạnh trong khi gan ruột bỏng rát như bị lửa rang. Ông nghĩ rằng đây là cơn đau đớn của riêng ông, một mình ông. Bởi là người duy vật, ông không tin vào chuyện thần giao cách cảm. Từ trước tới nay, ông chỉ biết một thế giới hữu hình, chỉ coi là sự thực những gì tác động vào các giác quan, cũng như số đông người.
Tuy nhiên, cơn đau đớn của chủ tịch lại chính là kết quả của sự cộng hưởng với một nỗi đau đớn khác. Bởi trên mảnh đất này còn có một kiếp đoạ đầy khác. Một kẻ vô danh. Một người mà ông không còn nhớ tên và cũng chưa bao giờ biết mặt. Một cái bóng của hư vô. Nhưng cái bóng đó vẫn luôn luôn là một sinh thể bằng xương bằng thịt. Sinh thể ấy không ngừng nghĩ về ông. Kẻ bất hạnh ấy liên kết với ông bởi một số phận oái oăm, một nỗi đau khổ trường kỳ và một cuộc săn đuổi tàn khốc. Nhưng sự đỏng đảnh của số phận lại muốn rằng tất thảy những gì xảy ra với anh ta phải nằm trong bóng tối, bên ngoài vùng hiểu biết cũng như trí tưởng tượng của ông.



Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT
Theo thông báo của ban chỉ huy sư đoàn, bảy giờ tối chương trình biểu diễn mới bắt đầu. Nhưng bữa cơm chiều đã xê dịch từ bốn rưỡi lên ba giờ rưỡi, và cơm nước xong lính tráng đã kéo lên đầy trước sân khấu, nhốn nháo chuyện trò, nhốn nháo chờ đợi, với tất cả vẻ hăm hở của đám đàn ông từ lâu thiếu vắng bóng đàn bà. Mấy anh chàng háu ăn còn cầm trong tay tảng cháy to tướng vừa gặm vừa ngong ngóng nhìn lên mớ phông màn như muốn tìm sau những tấm vải màu loè loẹt ấy hình bóng « công chúa của lòng anh ». Các công chúa mộng tưởng đang còn ngủ trong hầm ban chỉ huy, phần vì mệt mỏi sau quãng đường dài, phần vì nàng nào cũng có nước da xanh rờn và làn môi trắng nhợt vì sốt rét nên chẳng ai muốn lộ diện trước khi son phấn. Các nàng đang còn nằm cuộn lấy nhau như đám sâu tằm trên ván, cố chợp mắt thêm một vài giờ trước khi lên sân khấu. Ban chỉ huy sư đoàn hẹn sẽ đánh thức các cô lúc năm rưỡi. Nhưng chưa đến năm giờ, lính tráng đã hò hét ầm ầm bên ngoài :
- Các nàng tiên ơi, ngủ làm gì nhiều thế ? Mấy năm trời mới được gặp mặt nhau ai mà nỡ quay mặt vào tường ngủ hoài như vậy ?
- Các cô em ơi, dậy đi thôi. Mong mãi mới tới ngày hôm nay.
- Các nàng công chúa đâu rồi ?Cho chúng tôi được chiêm ngưỡng dung nhan một chút ?
Những tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng cười đùa mỗi lúc mỗi ầm ĩ vọng xuống hầm khiến các cô không thể nằm lì, đành ngồi dậy. Cô nào cô nấy ngáp lên ngáp xuống đến sái quai hàm. Trợ lý của sư đoàn trưởng hắng giọng một hồi rồi chui vào hầm, nghiêng đầu ngoẹo cổ nói :
- Xin chị em thông cảm, lính tráng lâu ngày quá không nhìn thấy bóng phụ nữ. Đã hơn ba năm trời trên không cử các đoàn văn công tới đây.
Cô đoàn phó đáp :
- Chúng em đi đến đâu cũng vậy, anh không cần băn khoăn. Chiến trường quá rộng, các đoàn không đủ để phục vụ.
- Cảm ơn, được chị em thể tất là đại may mắn cho sư đoàn. Giờ, tổ anh nuôi mang cơm đến cho chị em dùng bữa rồi hoá trang kẻo muộn.
- Trưởng đoàn đâu rồi ?
- Trưởng đoàn đã dùng bữa với ban chỉ huy ngoài kia. Các nam diễn viên cũng vậy.
Đoàn phó quay lại hét quân :
- Đã thấy chưa ? Riêng chúng ta được ưu tiên ngủ nướng. Mọi người đã cơm nước xong đang lo bố trí phông màn. Còn ai muốn ngáp thì ngáp cho đã thèm rồi chuẩn bị ăn cơm.
Các cô chưa kịp đáp lời tổ anh nuôi đã lóp ngóp chui vào, lục cục xoong nồi với các loại ga-men quân dụng. Anh nào anh nấy hí hửng như bắt được vàng. Họ được ưu tiên gặp các cô trước tiên, mà lại gặp khi chưa son phấn, không nói cũng biết được sự thân tình, giống như khách lạ thì được tiếp ở sa-lông, còn khách thân quen hay họ hàng thì được quyền chui vào bếp :
- Hôm nay chúng tôi đặc biệt làm món nộm rau chuối thịt gà và nấu chè đỗ xanh đãi các cô nương. Sư đoàn phải cử người vào bản Vân-kiều từ tuần trước mua gà, mua đỗ. Chúc các nàng tiên ăn ngon miệng.
- Cảm ơn các anh. Ăn chè này đêm nay múa chắc dẻo tay hơn.
Các cô xúm lại ăn cơm trong khi ba chàng cấp dưỡng ngồi chầu xung quanh, anh xới cơm, anh đơm chè, anh thứ ba hấp háy mắt và ngoác mồm ra cười một nụ cười vô duyên cớ. Trợ lý sư đoàn đứng trong góc hầm, chẳng có việc gì làm nhưng cũng không muốn đi ra sớm hơn ba gã lính nuôi quân, nên vờ rút trong túi ra cuốn sổ tay, xem đi xem lại. Cơm nước xong, ba chàng nuôi quân lễ mễ thu dọn bát đĩa đem đi. Trước khi quay ra còn hẹn là đêm nay, sau khi biểu diễn sẽ có cháo gà đãi khách quý. Hẳn là những con gà này đã được đổi bằng lương khô hay gạo cho dân bản Vân-kiều. Trợ lý sư đoàn liếc đồng hồ rồi hỏi :
- Lúc này đã năm giờ hai mươi phút. Liệu chị em cần bao lâu để hoá trang và thay áo quần ?
- Hai mươi lăm phút, không hơn.
- Hoan hô. Tôi sẽ thông báo cho anh em biết.
Anh ta chui khỏi hầm. Chưa đầy chớp mắt đã nghe tiếng vỗ tay, tiếng hét ầm ĩ của lính bên trên.
Đoàn phó tủm tỉm cười :
- Lính sư này ngầu thật.
Một cô đáp :
- Toàn dân Bắc mà lại.
- Đúng rồi.
Cô thứ hai tiếp lời :
- Họ chờ đợi chúng ta vì vừa muốn xem biểu diễn vừa muốn gặp đồng hương. Nghe nói đoàn văn công tới đây phục vụ mấy năm trước là đoàn Dân ca liên khu năm.
- Liên khu năm ở đâu nhỉ ?
- Rõ là dốt, phục vụ quân đội năm sáu năm mà không phân biệt được các quân khu.
- Ai hơi đâu mà biết. Trên bảo đâu thì đi đấy. Lối nào cũng chỉ thấy suối với rừng...Hết rừng đến suối, hết suối lại rừng, hết bản Vân kiều lại đến bản Lào nưng, Lào thọng. Nơi nào cũng chỉ nhăm nhăm trông vào cái gậy của giao liên mà bước.
- Ờ, tao cũng thế, chẳng biết liên khu là cái gì. Đi đâu cũng chỉ nhìn vào lưng hay vào mông của người đi trước.
- Mông còn là may. Chúng mày không nhớ hồi leo núi Khỉ đái hay sao ? Dốc dựng như tai mèo, gót chân thằng đi trước chạm vào đỉnh đầu thằng đi sau, lấy đâu mà nhìn mông với đít ?
- Ờ, trận ấy khiếp thật. Mây quấn lấy mắt, leo núi mà rờ rẫm như thằng mù. Phúc đức tổ tiên nên không đứa nào rơi xuống vực.
Các cô chưa kịp thay quần áo xong đã nghe trợ lý sư đoàn hắng giọng bên ngoài. Đoàn phó nói với lên :
- Đúng bẩy phút nữa.
Đoạn quay lại bảo chị em :
- Nhanh tay lên. Lính nhảy cỡn lên trên kia rồi. Chắc sư đoàn này bị tù lâu quá trong rừng sâu, không thoáng khí như sư đoàn trước.
- Đúng đấy. Lần trước lính tráng không hò hét loạn xị như hôm nay.
- Thì đã bảo là họ bị nhốt trong sâu lâu quá.
- Đây là đâu vậy ?
- Biết được. Nhưng nghe đoàn trưởng nói mình đang ở trên đất Lào. Mà là vùng xa vùng sâu trên đất Lào.
- Thế hả ? Bốn bề mịt mù những rừng với núi. Bọn mình mà bị lạc chắc chết rũ xương ở đây, chẳng thể tìm được lối quay về.
- Chắc chắn là vậy. Nhưng sống chết có số, lo gì. Bao giờ lính chết hết bọn mình mới phải chịu số phận hẩm hiu như thế. Văn công là mì chính cánh, là vàng ròng của chiến tranh. Không ai để cho chúng ta thất lạc.
Các nàng trang điểm và diện đồ biểu diễn xong nối đuôi nhau chui khỏi hầm. Lính tráng đứng chen chúc hai bên từ cửa hầm cho đến tận sân khấu vỗ tay ran ran, hò hét loạn xạ :
- Các nàng tiên xinh đẹp, nói lên vài câu cho anh em nghe giọng Bắc.
Phó đoàn lúng liếng cười và hỏi :
- Biết nói gì bây giờ nhỉ ?
Thế là đám lính nhao nhao, tranh cướp nhau trả lời :
- Nói bất cứ câu nào...Hoặc kêu to lên cũng được.
- Em ơi, chúng tôi là dân Hải Hưng. Em chỉ cần kêu to lên hai tiếng : Hải Hưng ơi !...Thế là đủ mát dạ lính tráng.
- Gọi riêng Hải Hưng nhà chúng mày, thế còn Hà nội, Hà Tây, Hà bắc, Vĩnh phú nhà chúng tao thì vứt cho chó nhá à ?Thằng này đúng là quân ích kỉ.
- Hải phòng nữa chứ ? Thành phố hoa phượng đỏ mà bị bỏ quên thì bom Mỹ sẽ giáng xuống đầu cả bọn.
- Thôi, không phải cãi nhau nữa. Chị em ơi, cứ chửi cha chúng nó lên một câu cũng được.
Rồi các cánh tay vươn ra sờ vào vai vào áo, ve vuốt đuôi tóc của các nàng. Họ đi đến đâu, lính tráng cuốn theo đến đấy. Ban chỉ huy sư đoàn đứng phía xa, tủm tỉm cười, quan sát cảnh tượng với con mắt thèm thuồng không che giấu. Tuy nhiên, là lãnh đạo, họ phải biết dằn lòng, dù muốn hay không. Theo thông lệ, các cô chia thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp hai ba cô để hàn huyên với lính, trước khi biểu diễn. Lần này cách thức đó xem ra bất ổn vì sư đoàn vừa được bổ sung quân nên vượt số khung. Cả một ngàn lính đứng chen nhau tầng tầng lớp lớp. Đoàn phó ra lệnh :
- Đông thế này không thể nào tâm tình cho xuể. Tôi đề nghị chị em chia theo địa phương, hát phục vụ binh lính ngoài chương trình chính thức. Tổ nhạc công cũng sẽ chia theo.
Được lời, các vị lãnh đạo ban đồng hương hò hét loạn xị :
- Hải Hưng đâu ? Đi theo tôi về phía trái sân khấu, ngay sát chân cột loa phóng thanh.
- Hà nội đâu ? Lính thủ đô rút về phía sau sân khấu, xếp hàng lối cho có trật tự.
- Hà Tây quê lụa đâu, tập trung sát cánh quân Hà nội, phía bên phải hậu trường.
Đám lính tập hợp theo địa phương, anh nọ gọi anh kia, ồn ào hơn chợ vỡ. Đội phó đoàn văn công khoa chân múa tay với tốp nhạc công, chắc hẳn để thương lượng trước một cuộc lao động căng thẳng. Rồi sau đó, người ta thấy kẻ ôm đàn phong cầm, người cầm ghi-ta hay măng-đô-lin, người mang sáo mang tiêu lần lượt tản vào các nhóm lẻ. Cảnh tượng đó đem lại một sắc thái tưng bừng kì lạ cho khu rừng, vốn bình thường chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng mưa bẻ lá, tiếng lính trò chuyện hay cãi lộn, hoặc tiếng bom dội.
*
Đại đội trưởng An đứng bần thần nhìn đám đông vui vẻ ấy, chợt ai đó vỗ vai anh :
- Cậu không tìm được đồng hương Lạng sơn ở đây sao ?
Tiểu đoàn trưởng đã đứng sát lưng An, tủm tỉm cười sau cặp kính cận dày như trôn chén.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, ở đây tôi đơn thương độc mã .
- Bên tiểu đoàn hai cũng có mấy anh Tày mà ?
- Báo cáo, họ là dân Tày Cao- Bằng, sát biên giới. Tôi chưa bao giờ đặt chân lên đất họ mà họ cũng chưa bao giờ xuống Lạng sơn, để thăm vùng Đồng Mỏ quê tôi.
- Ra thế. Cùng là dân Tày cả mà thông thổ khác nhau, tập tục cũng khác nhau. Nhưng tôi là dân Kinh, tôi không thể phân biệt được ai là Tày Lạng sơn, ai là Tày Cao bằng. Tôi thấy các đồng chí đều có những nét tương tự.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, sự khác biệt không nhiều. Nhưng vì các hội đồng hương được chỉ đạo theo đơn vị tỉnh nên chúng tôi không có lý do thành lập hội người Tày trong đơn vị.
- Nguyên tắc ấy là chính xác. Bởi chúng ta không thể cho phép sự phân biệt tồn tại giữa các dân tộc trong lòng một đất nước, giữa những con người cùng mang chung một quốc tịch Việt nam.
- Vâng. Tôi hiểu.
Tiểu đoàn trưởng Nhã rút thuốc lá mời anh, và họ cùng phì phèo nhả khói. Phía sân khấu, trợ lý sư đoàn trưởng đang đứng ngó nghiếng bốn phía, tay cầm loa phóng tay, tay cầm sổ. Đúng khoảnh khắc thuận tiện, khi các bài hát tạm ngừng, anh ta giương loa lên gào :
- Alô, alô....Xin các đồng chí chú ý. Chương trình biểu diễn sẽ lui lại một giờ rưỡi, có nghĩa là sân khấu sẽ mở màn vào lúc tám giờ rưỡi vì lý do đột xuất : Chúng ta phải chờ tiểu đoàn 209 vừa được bổ sung từ miền Bắc vào, đang đóng quân bên kia núi Gấu trúc. Họ không trực thuộc sư đoàn chúng ta mà tác chiến độc lập. Tuy nhiên, vì cùng một chiến trường chúng ta có nghĩa vụ chờ đợi anh em để thưởng thức chương trình văn nghệ đêm nay. Trong lúc chờ đợi, đoàn văn công sẽ tiếp tục biểu diễn lẻ theo yêu cầu của các hội đồng hương kết hợp với sự tham gia của các cây văn nghệ trong đơn vị.
Nghe tới đó, lính tráng nhảy cỡn lên, hò hét vang rừng núi :
- Hoan hô....Hoan hô....
- Ban chỉ huy sư đoàn cứ cho hoãn đến nửa đêm cũng được. Hoãn càng lâu càng tốt.
- Đêm nay sẽ là đêm tuyệt vời nhất từ ba năm nay. Ai có bài tủ thì dọn giọng sẵn đi. Chúng ta sẽ có đàn đệm và cây nhà lá vườn sẽ được dịp trổ tài.
Tiểu đoàn trưởng Nhã hỏi An :
- Đồng chí có biết hát không ?
- Dạ, tôi hoàn toàn ngu dốt trong lĩnh vực này.
- Tôi cũng thế. Chúng ta có thể tranh thủ ngả lưng cho đến lúc sân khấu mở màn. Ít nhất cũng còn hai tiếng rưỡi.
Chính lúc đó, sư đoàn trưởng tiến về phía họ, oang oang cảnh báo :
- Trông điệu bộ các cậu, tôi ngờ rằng các cậu sắp chuồn khỏi đây. Mấy khi được dịp vui mà bỏ phí hoài ?
- Báo cáo sư trưởng, tôi vốn không biết hát, mà tuổi cũng đã ngót nghét ngũ tuần, xương sống hơi bị yếu.
- Vậy tôi trẻ hơn đồng chí hay sao ?
Sư trưởng vặn lại . Quả tình, sư trưởng hơn tiểu đoàn trưởng Nhã dăm tuổi nhưng vốn gốc gác dân chài, năng lượng trong ông còn rất dồi dào. Dẫu chiến tranh và năm tháng tàn phá, ông vẫn giữ được những bắp thịt săn chắc. Vai ông ngang và rộng nhưng vì thiếu chiều cao, thân hình ông gần như một khối vuông. Khi ông đi cạnh tiểu đoàn trưởng, đám lính có chữ thường ví ông với anh hầu Sân-xô trong khi vai Đon-ky-sốt được dành cho người hạ cấp. Sư trưởng không lấy thế làm mếch lòng, thường giả miếng rằng :
―Người ta bảo nhất là sắc tướng, nhị là khí tướng, tam là thanh tướng, tứ mới tới hình tướng. Cậu hơn tớ ở cấp độ thứ bốn nhưng tớ lại hơn cậu ở cấp độ thứ ba. Thế nên tớ mới cầm đầu sư còn cậu thì cầm thằng tiểu.‖
Về mặt thanh tướng, rõ là chẳng ai dám vượt mặt ông. Không chỉ trong sư đoàn mà khắp chiến trường nơi bốn sư đoàn đang quần thảo, giọng nói của ông không ai lẫn được. Giá là danh ca ắt ông phải rung vỡ vô số tấm kính nhà hát. Giọng ông vang như lệnh, thứ giọng đào luyện nhiều đời của những kẻ quen hét thi với sóng. Chỉ cần nghe ông cất tiếng, người ta hiểu ông đang còn là bậc"Chân cứng đá mềm". Vì thế, tiểu đoàn trưởng không ngần ngại đáp lời :
- Ồ, đồng chí già dẻo già dai, không phải loại cua ọp như tôi.
Sư trưởng đành chịu thua:
- Thôi tôi giơ tay hàng các cậu.
Tiểu đoàn trưởng tiếp tục trêu cợt :
- Đồng chí hùng mạnh nên chịu khó ở lại hát thi với đám lính trẻ. Tha cho bọn xương dòn thịt nhão là chúng tôi đây.
Nói rồi ông kéo An đi. Nhưng trong khi ông trở về hầm kiếm giấc ngủ, anh lẳng lặng ra suối tắm. Con suối mênh mông này đẹp hơn cả dòng suối quê anh. Gọi là suối nhưng nó rộng dài đâu kém một dòng sông, và chính nó cũng đổ vào con sông lớn nhất trong vùng. Nước suối trong như thuỷ tinh, không có màu rêu hay màu rỉ đồng như các con suối độc. Các tảng đá sạch bóng, tha hồ ngả lưng nằm hoặc phơi quần áo vào những trưa khô ráo dòn dã mặt trời. Hai bờ suối thoai thoải rải đầy cuội trắng. Đi ngược lên non trăm thước là thác Voi gầm, nước xả từ độ cao hơn chục mét khiến quãng suối bên dưới sôi sùng sục và tất thảy những vật bị cuốn theo dòng nước đều trở thành vũ khí có thể làm thương tổn những kẻ ngu ngốc hoặc vô tình mon men đến tắm dưới chân thác. Nhiều lần, đám lính trẻ tinh nghịch bẻ cành khô ném xuống. Những cành củi này lập tức bị dòng nước lôi vun vút, biến thành một thứ mũi tên có thể đâm chết bất cứ con dê dại dột nào dám liều mạng lội qua. Mỗi lần tới đây, lòng hồi nhớ quê hương lại thiêu đốt trái tim An. Anh trút bỏ quần áo, định lội xuống tắm. Nhưng khi làn nước trong suốt, lăn tăn bọt dâng lên trên gối, anh đột nhiên rùng mình quay lên bờ, mặc lại áo quần. Sự ngăn cản của một bóng ma khiến anh làm những cử chỉ kì quặc như vậy ? Sự khôn ngoan của linh giác đưa đường ? Anh không biết? Người ta không thể hiểu hết mọi hành vi của mình trong suốt cuộc đời. Nhưng lần này, anh biết chắc chắn một sức mạnh vô hình đã xui khiến anh hành động.
« Là em, chính là em ? Hay là cô Nhỏ ? Đích thị một trong hai nàng đã giơ tay ngăn cản bước chân tôi. »
Anh cất tiếng thầm hỏi.
Nhưng chỉ có tiếng lá rì rào trong gió, và tiếng hát từ phía sau bờ cây vẳng đến. Thứ âm nhạc vi vút đó phả vào lưng anh một hơi lạnh mơ hồ.
An khoanh tay lên gối, lắng nghe tiếng thác gầm réo phía thượng nguồn. Như mọi ngày, tiếng thác réo gọi về tiếng đổ của một con thác khác. Một con thác nhỏ bé hơn, dịu dàng hơn, với bề cao không quá ba thước, không đe doạ ai, không hứa hẹn làm thương tổn hay chết chóc một ai, chỉ đơn thuần đem lại vẻ đẹp cho rừng núi. Con thác đó có tên là Sơn Ca ; bởi sơn ca làm tổ trong các khu rừng hai bên và tiếng hót của chúng như khúc nhạc bất tận vang trong không gian tĩnh lặng của núi non. Từ thác Sơn ca vượt qua một cánh rừng thưa và một thung lũng là bản Xíu, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nơi trái tim anh ở lại trong khi đôi chân anh càng ngày càng rời xa, không biết đến bao giờ mới tới ngày quay gót.
« Nhưng quay lại để gặp ai bây giờ nếu còn có ngày ấy ? Hai người thân nhất với ta đã nằm dưới đất đen. Chú thím ta lúc này chắc cũng đã qua đời, em Mai lấy chồng nơi tỉnh khác. Chỉ còn lại một người già. Nhưng rồi ông ấy cũng sẽ phải ra đi theo tiên tổ ! »
Ngày anh lên đường, ông bố vợ sáu mươi chín tuổi. Mười hai năm đã qua. Giờ nếu còn sống, không chắc ông vác nổi bó củi từ dưới gầm sàn lên bếp.
« Ta có còn ai ở nơi ấy nữa, khi ông cụ qua đời ? »
Nhiều lần, anh thầm nhủ. Nhưng quê hương vẫn là quê hương, một dư âm bất tận theo đuổi suốt cuộc đời. Tưởng chừng đã quên, hoặc cố tình quên nhưng bất thần nó quay lại lúc nào ta không biết. Một cành cây gẫy trước mặt, một hòn đá lở ven bờ suối, tiếng hót trong lèn đá của lũ sơn ca...Mọi duyên cớ cỏn con đều khiến nó bị triệu hồi và khiến tim ta nức nở. Đôi khi bừng mắt dậy, trong căn hầm tối đen, An lại nhìn thấy sườn núi rực nắng chiều, nơi bóng áo chàm của nàng xuất hiện. Nàng bước về phía anh, bởi hai nhà cách nhau một sườn núi, đứng bên này có thể nhìn thấy bên kia. Khi nàng đi một mình, khi nàng dắt theo cô Nhỏ, đứa em kém nàng chín tuổi. Tuy là hai chị em nhưng họ gần giống như hai mẹ con vì nàng phải nuôi em từ lúc nó mới lọt lòng. Ngày đứa em gái ra đời cũng là ngày mẹ nàng rời cõi thế. Hai chị em, một người sinh vào mùa đông nên được đặt tên là nàng Đông, một người ra đời vào mùa xuân nên mang tên nàng Xuân. Trong trí nhớ của An, họ luôn luôn xuất hiện trong ánh nắng vàng rực của sườn non, luôn luôn tiến lại phía anh trong vẻ đẹp lộng lẫy mà họ thừa kế của người mẹ đã khuất. An nhìn thấy những hàng mi đen nháy của họ khép lại khi cười, ánh sáng trong vắt rọi lên từ những cặp mắt bồ câu. Anh nhìn thấy khoé môi đỏ thắm màu hoa chuối rừng. Những chiếc vòng bạc xô lanh canh trên cổ tay trắng nõn của họ. Trong cái bản nhỏ xíu mang tên Xíu, trời đã ban tặng cho hai người con gái ấy thứ nhan sắc phi phàm để rối số phận đổi lại bằng những nỗi bất hạnh cũng phi phàm như nhan sắc của họ.
« Các em có làm gì xấu xa đâu ?
Các em không làm hại một con chim huống chi nói đến con người !
Cớ sao trời nỡ bắt các em chịu tai ương như vậy ? »
Tâm hồn anh không ngừng gào thét. Đại đội trưởng An không tin có trời. Anh cất tiếng gọi trời như thói quen, như tất thảy mọi người thường cất tiếng kêu trong cơn tai hoạ nhưng óc não anh ghi khắc đinh ninh gương mặt những kẻ sát nhân bằng xương bằng thịt.
« Có thể chúng quá mạnh mà ta thân côi thế cút nên kiếp này ta sẽ phải nuốt hận bước xuống mồ. Nếu vậy ta sẽ tiếp tục cuộc truy đuổi vào kiếp sau. Nếu kiếp sau chưa đủ, ta sẽ xin trời cho ta thêm một kiếp nữa. Ta sẽ đi đến tận cùng địa ngục để tìm những kẻ đã giết nàng và cô Nhỏ của chúng ta.»
Phía sau bờ cây, ồn ào tiếng các đoàn quân đổ tới. Cửa rừng hẹp nên khi các đơn vị chen lấn một cách vội vã, mọi thứ tiếng động đều dội đi bốn phía và các hồi âm cũng ném trả từ bốn phía vách núi lẫn rừng cây. An biết rằng tiểu đoàn 209 từ bên kia núi Gấu trúc đã sang và giờ biểu diễn sắp tới. Anh đứng dậy, quay lại trảng. Nắng đã tắt từ lâu. Rừng đen thẫm vây bốn bề khiến trảng cỏ trở nên lung linh dưới ánh đèn như nơi chốn nào đó trong thần thoại. Dưới những tấm bạt khổng lồ can nối lại thành một mái nhà mênh mông để bảo đảm an toàn cho cuộc biểu diễn, những ngọn đèn lớn sáng rực. Chiếc máy nổ hai mươi nhăm ngựa của sư đoàn đặt không đủ xa sân khấu khiến tiếng nổ của nó vọng lại, chen lẫn tiếng đàn sáo và tiếng hát. Đám lính mới tới đã tập hợp ở một góc, chờ lệnh, anh nào anh nấy mặt nhễ nhại mồ hôi và hớn hở như trẻ được quà. Các tốp văn công thu quân, tập trung về phía sau cánh gà. Lính tráng rời các hội đồng hương lại tập hợp theo phiên chế. Tiếng còi, tiếng gọi nhau í ới vang khắp nơi.
Tiểu đoàn trưởng Nhã có vẻ tươi tỉnh hơn sau giấc ngủ dặm đã quay lại điều hành lính tráng. An nhìn cảnh tượng một cách ngỡ ngàng. Anh còn đang bị dằng kéo bởi những kỉ niệm. Anh cảm thấy mình đang còn đứng ngoài cuộc vui. Tựa lưng vào một gốc cây, anh đưa mắt nhìn về phía sân khấu, trong khi những tốp lính của đơn vị 209 vẫn tiếp tục từ phía sau vượt lên để chiếm lĩnh khoảnh đất dành cho họ.
- Chí văn Thành ! Chí văn Thành !
Một tiếng gọi đột ngột vang lên bên tai khiến An giật nảy người. Anh quay đầu lại một cách vô thức và khi chợt hiểu điều đó là sai lầm thì một gã trai đã tiến đến sát mặt anh :
- Anh Chí văn Thành !
- !...
- Thành ! Anh không nhận ra em sao ?
Một gương mặt nhoẻn cười trong bóng tối. An tì lưng vào thân cây, toàn thân run như bị điện giật :
- Đồng chí nhầm. Tôi là Hoàng An.
- Anh Chí văn Thành. Mã Lỳ đây. Em là Mã Lỳ.Anh quên em rồi sao ?
- Tôi là Hoàng An.
- Ồ...
Người mới tới quay ngược cây đèn pin để rọi sáng vào chính mặt anh ta.
Gương mặt nhễ nhại mồ hôi bầu bầu theo kiểu mặt đàn bà. Đôi mày vừa ngắn vừa xếch và cặp mắt lá dăm nhỏ nhưng rất sâu nheo lại trong nụ cười. Một chiếc mũi ngắn, lộ thiên. Hai hàm răng nhỏ như răng con nít, có chiếc răng nanh bên trái bịt bạc. An rùng mình. Không còn từ chối được nữa. Đó chính là người đồng đội cũ, Mã Lỳ, dân Mèo, tiểu đội phó tiểu đội một trong trung đội năm xưa anh từng là trung đội trưởng. Chính anh đã đề bạt cậu ta vào chức vụ này. An nắm chặt cánh tay Mã Lỳ, kéo lại gần :
-Giờ tôi đã đổi tên thành Hoàng An. Tôi cấm cậu gọi tôi bằng tên cũ.
Anh buông từng lời, gần như thì thầm.
- A !... Em hiểu. Em hiểu.
Gã trai gật đầu lia lịa.
An nói tiếp :
- Cậu vào xem đi. Lát nữa chúng ta sẽ hàn huyên.
Mã Lỳ dặn :
- Nhớ đấy. Lâu quá chúng ta chẳng gặp nhau.
An gật đầu :
- Các cậu ở đây bao lâu ?
Anh chàng Mèo lắc đầu oai oái :
- Chỉ có trời mới biết. Nhưng tiểu đoàn trưởng báo rằng có thể bọn em còn găm quân ở đây khá lâu để tập luyện trong khi chờ sát nhập vào một sư đoàn thiếu ở chiến trường miền tây. Chưa biết chừng là dăm bảy tháng.
- Vậy còn có nhiều dịp gặp mặt. Bọn tôi vẫn thường qua núi bên ấy.
- Tốt. Thế nào anh em mình cũng phải gặp nhau. Em đi đây.
Cậu ta chạy theo đồng đội. Tích tắc sau, tất cả chỉ còn là một đám đông chuyển động nhập nhoạng hoà với cây rừng, một khối đen bất khả phân biệt. An sực nhớ ra điều gì đó, tức khắc vùng chạy theo Mã Lỳ :
- Mã Lỳ, Mã Lỳ !
- Đợi tôi với, Mã Lỳ !
Anh xô đám lính 209 sang hai bên bờ cây, đuổi theo người đồng đội cũ.
- Mã Lỳ !
- Em đây.
Anh nghe tiếng đáp trả vọng từ đám đông phía trước. Mã Lỳ dừng lại, tách khỏi hàng quân đứng sang mép lối đi để chờ anh. Chẳng bao lâu, họ tìm thấy nhau. Cùng là dân miền núi, rừng cây làm thành một phần đời của họ. Đuổi bắt nhau trong cảnh tối tăm này chẳng phải là điều quá khó đối với An. Khi chợt đến, An thấy Mã Lỳ đang đứng với một người khác nên anh nép mình sau một gốc cây, chờ. Trong bóng đêm, nghe anh chàng Mèo nói :
- Bọn tôi là đồng đội cũ...cậu cứ đi trước rồi lát nữa tôi tìm. Chúng ta sẽ tập hợp theo đơn vị sau giờ biểu diễn.
- Nhất trí.
- Đưa cây đèn pin của cậu cho tôi mượn ; đèn tôi sắp hết pin.
- Dè sẻn thôi đấy. Đường còn dài.
- Được rồi.
Gã trai kia chạy vụt đi. An còn dừng lại vài giây trong bóng tối rồi mới đi tới trước mặt Mã Lỳ :
- Chúng ta cùng nhau xem. Tôi có nhiều điều muốn hỏi cậu.
- Đồng ý.
Họ cùng nhau nhập vào cánh quân 209 để tiến đến sân khấu. Vì là khách, lính 209 được chia nửa phần đất bên trái khiến quân nhà xôn xao ghen tị. Quả là đứng bên trái nhìn lên sân khấu rõ hơn, và tiếng máy nổ nghe nhỏ hơn. An cùng Mã Lỳ ngồi xuống, anh liếc đồng hồ, nói :
- Tôi chỉ được xem đến chín giờ mười lăm. Sau đó phải đổi gác.
- Chính anh phải đảm nhiệm sao ?
- Đại đội tôi đảm nhiệm. Là đại đội trưởng tôi không có quyền ngồi xem khi bọn lính trẻ hơn phải bỏ sân khấu đi tuần.
- Anh luôn luôn là cán bộ gương mẫu. Em chưa quên điều ấy. Kể từ ..ngày chúng ta mới làm quen.
- Chẳng cứ tôi, ở sư đoàn này cán bộ nào cũng xử như vậy.
Gã trai Mèo im lặng một lát rồi hỏi :
- Ở đây đất dữ lắm a ? Em nghe phổ biến đây đã là vùng sâu của quân ta, tựa hồ như an toàn khu thuở trước ?
An cười :
- Đây đúng là vùng sâu của chiến trường. Nhưng không thiếu thám báo địch. Bởi thế ba năm chờ đợi mới có một buổi liên hoan mà lính vẫn phải cắt nhau đi tuần.
- Bọn nó dám luồn vào tận đây sao ?
- Cậu đùa ? Đây không phải thao trường Hà Tây mười hai năm trước. Bây giờ đang là chiến tranh. Cậu tưởng bọn chúng toàn là đồ bị thịt hay búp-bê gỗ chắc ?
Mã Lỳ lặng thinh một lát rồi hỏi :
- Ngần ấy năm anh mới lên đại đội ?
- Cậu quên là tôi bị rượt đuổi phải thay họ đổi tên hay sao ? Còn cậu ?
- Em bây giờ cũng đại đội trưởng rồi. Cấp trên nói nếu tình hình tiến triển tốt, quý sau em sẽ được thăng vượt cấp. Người Mèo đặc biệt trung thành với cách mạng và dũng cảm trong chiến đấu.
- Chúc mừng cậu...
- Ồ....Ồ....Gái đã ra kìa...
Mã Lỳ cất tiếng, chỉ lên sân khấu.
*
Quả nhiên hai cánh màn lụa đỏ đã mở ra, cô gái giới thiệu chương trình tiến đến trước micro cúi chào yểu điệu. Áo dài tứ thân xanh đổi vai hồng vai tím, váy lụa mỡ gà, một vẻ đẹp bị lãng quên, một mẩu đời bình yên bị ngăn cách chợt hiển hiện khiến lính vỗ tay như rồ như dại. Rồi tiếng nhạc cất lên, vang lừng, nao nức. Cả sư đoàn đã chờ đợi bao lâu giờ phút hạnh phúc này ! Nhưng đại đội trưởng An không còn nghe thấy gì, không còn nhìn thấy gì ngoài gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của người đồng đội cũ. Mã Lỳ hoàn toàn chú tâm vào cô gái dẫn chương trình, đôi mắt nhỏ của cậu ta như mờ đi, môi dưới trễ xuống khiến cái miệng há hốc ra một cách vô tình và bất khả kiểm soát :
« Cậu ta sẽ hành động ra sao ? Cậu ta sẽ lặng im vì tình bạn, vì chính ta là người đầu tiên giúp cậu ta hiểu những điều sơ đẳng nhất trong cuộc sống miền xuôi, cũng là người đề bạt cậu ta và giúp cậu ta tiền về quê làm ma cho ông bố. Hoặc cậu ta sẽ tố cáo ta để bày tỏ lòng trung thành với thượng cấp và được cất nhắc một cách đặc biệt hơn ? Nào ai biết được đường đi ngoắt ngoéo của con người ?»
Mười hai năm đã qua nhưng gã trai này dường như không thay đổi. Cậu ta không già đi bao nhiêu vì nước da trơn nhẵn. Nhưng cặp mắt nhỏ và sâu kia thì khôn dò nổi. Hoàng An im lặng theo rõi Mã Lỳ. Gã trai Mèo chắc đang khốn khổ vì thèm đàn bà. Hai mắt gã ướt rượt. Gã thở hổn hển và thè lưỡi liếm môi liên tục. Những người dâm đãng, đàn ông cũng như đàn bà không thể cưỡng chế cử chỉ này. Đó là một trong những dấu hiệu khiến người ta nhận ra họ một cách mau lẹ. An nhớ hồi ở đơn vị cũ, Mã Lỳ đã khổ sở ra sao khi kiếm đàn bà. Và mặc dù là dân Mèo thuần tuý, chân ướt chân ráo xuống miền xuôi, gã cũng đủ ranh ma để tìm một cô gái dở người trong vùng, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách. Giờ thì cậu ta đang há hốc mồm nhìn các nàng tiên áo xống xênh sang trong điệu Múa Đèn :
- Cậu thấy thế nào ? Hay hơn hay tồi hơn Múa Nón của người Thái ?
An cất tiếng hỏi .
- Hay hơn, hay hơn rất nhiều lần.
Mã Lỳ đáp, mắt không rời sân khấu.
- Cậu có thích điệu múa khèn của dân Mèo hay không ?
- Không.
Mã Lỳ đáp gọn lỏn khiến anh ngạc nhiên. Dường như hiểu sự ngạc nhiên đó, gã Mèo giải thích :
- Dân Mèo múa không hay. Múa hay nhất chính là các dân tộc Tây nguyên. Bất kể là Ê-đê, Ba-na hay ai khác.
Tới đó, Mã Lỳ chợt cất tiếng kêu :
- Ô, đã hết rồi.
Và cậu ta tắc lưỡi lắc đầu một cách tiếc rẻ. Hoàng An cười :
- Tôi không ngờ cậu mê văn nghệ đến thế.
- Anh khinh người Mèo không biết thưởng thức văn nghệ hay sao ?...
- Không nên nói thế. Đây là sở thích của từng cá nhân, không liên quan gì đến sắc tộc. Bản tôi toàn dân Tày nhưng có người mê thổi sáo, có thể thức thổi sáo cả đêm trong lúc người khác chỉ uống rượu rồi vùi đầu ngủ.
- Em mê văn nghệ.
Mã Lỳ đáp. Rồi sau một phút chần chừ, nói thêm :
- Nhưng chỉ những tiết mục văn nghệ do con gái làm thôi. Em không thích nhìn bọn đàn ông hát múa.
Tới đó, màn lại mở. An lặng im vì không muốn làm phiền gã Mèo. Dường như toàn bộ tâm trí của cậu ta đang quay đảo dưới ánh đèn sân khấu. Như thế, thời khắc dần trôi, tới chín giờ mười lăm. Anh giơ đồng hồ lên xem rồi bảo Mã Lỳ :
- Đã tới giờ đổi gác. Tôi đi đây.
- Vâng. Rồi chúng ta sẽ gặp nhau.
- Đồng ý. Sau giờ biểu diễn cậu rán chờ tôi nhé.
- Yên tâm. Em sẽ chờ anh.
Hoàng An rút lui về phía sau. Khi đã hoàn toàn ra khỏi đám đông, anh vào sâu trong bìa rừng, chọn một góc thuận tiện để có thể thu mình trong bóng đêm quan sát. Trước mắt anh là một khối đen mênh mông, Mã Lỳ đã mất hút trong đó. Cậu ta vốn nhỏ con, giống số đông đàn ông Mèo, bao giờ cũng chỉ cao ngang vai vợ. Người ta bảo một cặp Mèo ôm nhau giống hệt con chẫu chàng ôm quả dưa ếch là vì thế. Màn đóng rồi màn mở, các tiết mục nối tiếp nhau. Đồng hồ chỉ mười giờ kém hai mươi phút. Như thế đã hai mươi lăm phút trôi qua không xảy ra chuyện gì. An cảm thấy hơi thở của anh bắt đầu trở lại nhẹ nhõm :
« Có lẽ cậu ta không đủ tàn ác để làm điều ấy. Có lẽ cậu ta chưa quên những kỉ niệm tốt đẹp của một thời. »
Nhưng chính lúc niềm lạc quan khởi sự, một bóng người nhỏ bé lom khom đã đứng lên, tách khỏi khối khán giả đông đặc và đen ngòm. Cái bóng đó lách giữa hai cánh quân, với dáng đi lom khom tiếp tục tiến về khán đài phía trước, nơi ban chỉ huy sư đoàn cùng ngồi với ban lãnh đạo tiểu đoàn 209 trên một tấm bạt trải đến tận chân sàn diễn.
Tức khắc, đại đội trưởng An dập tắt niềm lạc quan mong manh vừa chợt nhú như tay đồ tể lành nghề chọc một nhát dao chính xác trăm phần trăm vào cổ lợn :
« Ra thế. Điều ta nghi ngờ là không tránh khỏi. »
An nghĩ, với một chút cay đắng, một chút buồn rầu nhưng cùng lúc đó, trái tim anh không còn phập phồng nữa, nhịp đập của nó trở lại bình thường. Sự hồ nghi và nỗi chờ đợi mong manh bị thiêu cháy. Trạng thái lạnh lùng băng giá xâm chiếm tâm hồn, óc não anh trở nên trống rỗng và trong suốt :
« Việc ắt phải xảy đã xảy ra. Giờ không còn đắn đo, chỉ còn hành động. Ta không muốn tình cảnh này nhưng nó đã tới. Vậy ta sẵn lòng chào đón. »
Anh đưa tay rờ cây tiểu liên cưa nòng bên hông như kiểu nông phu rờ lưng con trâu trước khi bước xuống rạch cày, như gã xà-ích vuốt bờm ngựa trước giờ cho xe chạy. Động tác ấy đã quen thuộc từ thuở mười ba, tuổi bắt đầu theo ông chú lên rừng săn thú. Khi những ngón tay An chạm vào thớ thép lạnh ngắt đó, một luồng xúc động mãnh liệt truyền ngược lại da thịt, lan toả khắp toàn thân và xuyên thấu lên tận óc não anh, đem lại cùng một lần sức mạnh, niềm tin, và ý chí sắt đá. Hơi lạnh của vũ khí truyền cho anh ngọn lửa. Chạm vào nó, giống như người xưa chạm vào hòn đá ước, anh thấy bình tâm, ví như kẻ lữ hành mùa đông bình tâm khi được ngồi dưới mái nhà và được hơ tay lên lửa sưởi. Đối với An, vũ khí tựa hồ con ngựa chiến hoặc con chó săn trung thành. Nó chẳng còn là vật vô tri mà trở thành một phần cơ thể và ý chí. Đời anh là một cuộc tôi luyện trường kì để thứ thép lạnh ngắt đó trở nên một vật có linh hồn.
Trong bóng tối, đại đội trưởng khẽ nhếch mép cười :
« Ta không muốn !Ta không muốn chút nào cuộc săn này. Nhưng chính vì bị săn đuổi, ta đành phải trở thành kẻ đi săn đuổi. »
Anh nhìn thấy Mã Lỳ ngồi thụp xuống, lẫn vào đám cán bộ lãnh đạo. Hẳn đây chính là lúc cậu ta tường trình sự việc một cách vắn tắt và đề nghị sư trưởng đi theo mình vì một « ...bí mật quân sự có tầm quan trọng quốc gia. » An thầm đoán. Quả nhiên, một phút sau, Mã Lỳ đứng lên cùng sư trưởng, cả hai men theo bục sàn diễn để vòng ra phía sau. An ước lượng :
« Hai người vừa xoẳn cao bằng nhau. Nhưng sư trưởng to gấp ba lần gã Mèo còi cọc. Cánh tay ông ta hẳn phải xuýt xoát bằng cẳng chân của gã. »
An không hiểu họ sẽ đi đâu ? Nếu họ lùi ra phía sau sân khấu, sẽ vô cùng bất tiện cho anh vì tổ lính kĩ thuật đang chạy máy nổ ở đó. Nhưng có lẽ giả thuyết này là sai vì một câu chuyện trọng đại không thể thổ lộ ở nơi tiếng nổ ầm ầm và cả tốp người tò mò có thể nhìn nghiêng nhìn ngó. Họ sẽ lùi sâu vào các đám rừng xung quanh chăng ? Nếu vậy, có khả năng đụng độ tốp lính đi tuần. Hoặc chính họ, hoặc chính anh và cuộc xử trí sẽ khó khăn. Tuy nhiên, sư trưởng vốn là người có tật nói rất to, ông ta sẽ phải dẫn gã Mèo đen ra bờ suối, đó là nơi tiếng nói của ông sẽ bị cuốn trong tiếng thác gào và không thể lọt vào lỗ tai bất cứ ai. Và, thật may mắn, đó cũng chính là nơi thuận tiện nhất cho việc xử trí vì bên kia suối là vùng núi chết. Từ bờ suối , chỉ đi qua một bãi sỏi hẹp như dải áo là tới các tường đá dựng thẳng đứng như lưỡi gươm, trên bức tường thành vĩ đại ấy, không một cọng gai nào có thể trồi lên được. Vì thế, không chỉ con người mà đến lũ sơn dương cũng không dám trèo lên . Chẳng phải lính bắc việt mà chính thám báo phía nam đã đặt tên nơi đó là Vùng Núi chết.
An luồn sau các thân cây để theo rõi đường đi của hai con mồi. Quả nhiên, sư trưởng dẫn gã Mèo ra bờ suối. Đoạn đường khá dài để tiếng nhạc mờ dần đi và tiếng thác réo vang dần lên. Cây đèn pin của sư trưởng bịt vải dù, chỉ vẩy ra một tia sáng bằng trái mận. Đèn của gã Mèo rọi sáng nhiều hơn, quét đi quét lại không ngừng trên lối đi. Giống như một con báo, An bước theo họ. Anh không nhận ra rằng gió đã đổi chiều thổi lật nghiêng các vòm lá khiến rừng xao động và tiếng bước chân của các con mồi cũng như kẻ săn mồi đều chìm nghỉm trong tiếng lá reo. Chừng mươi phút, họ tới đúng bãi tắm ; gần như chính xác nơi An vừa ngồi lúc tàn chiều. Một ý nghĩ thoáng qua, ngắn như tia chớp :
« Phải chăng vài giờ trước, ta không muốn tắm trên dòng suối này vì cuộc xử trí ắt phải xảy ra chính nơi đây ? »
Nhưng anh không kịp suy ngẫm thêm vì cuộc đối thoại đã cất lên, rành rẽ từng lời, từng tiếng :
- Thưa sư trưởng, người Mèo chúng tôi vốn tuyệt đối trung thành với cách mạng nên tôi cho rằng tôi có nghĩa vụ báo cáo với đồng chí sự việc này. Một sự việc vô cùng nghiêm trọng.
Mã Lỳ cất tiếng, run rẩy. Có lẽ gã hồi hộp. Có lẽ gã đang dùng dằng giữa nỗi sợ hãi bản thân và nỗi sợ hãi « lương tâm của một kẻ trung thành với đảng và chính quyền »...Hoặc gã đang phân vân giữa nỗi sợ hãi chính anh, kẻ đã thoát khỏi lưới vây của cả một đội quân, con người đáng gờm ; với lòng khao khát quyền lực. Hoặc gã cảm thấy một sự nguy hiểm nào đó ẩn giấu trong cuộc chơi này, giống như một tay thợ săn cảm thấy khí núi bốc lên hơi thở của tử thần khi rẽ vào ngả đường mà sau đó vài khoảnh khắc, anh ta sẽ biến thành con mồi bị nghiền nát giữa hai hàm răng cọp ? An không thể xác định duyên cớ, nhưng anh nghe rõ từng tiếng run rẩy thốt ra và hơi thở ngắt quãng của Mã Lỳ.
« Đồ chó ghẻ ...Quân vừa đéo vừa run... »
Trong thâm tâm, anh buông một tiếng chửi thề khinh bỉ.
Lúc đó, giọng sư trưởng cất lên, đĩnh đạc :
- Tất thảy chúng ta đều có nghĩa vụ trung thành với cách mạng. Đồng chí xác định tư tưởng rõ ràng như vậy là rất tốt. Tôi chờ nghe đồng chí đây.
- Thưa sư trưởng....
Mã Lỳ nói, không còn quá run rẩy sau khi được khích lệ. Tuy nhiên gã Mèo vẫn phải nuốt nước bọt mấy lần để dọn giọng, trước khi tiếp lời :
- Thưa sư trưởng, phải chăng trong sư đoàn ta có đại đội trưởng Hoàng An, người Tày Cao Bằng đang chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí ?
- Đúng !
Sư trưởng khẳng định tức khắc và sau đó tiếp tục nói với cái giọng bất khả điều chỉnh cường độ của ông :
- Đại đội trưởng Hoàng An là người chỉ huy gan dạ, mưu trí và có rất nhiều triển vọng, có thể nói đó là cánh tay phải của tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã..Nhưng quê đồng chí ấy ở Đồng Mỏ Lạng sơn chứ không phải Cao bằng. Tôi thuộc lý lịch đại đội trưởng An như thuộc tiểu sử cá nhân của các tiểu đoàn trưởng dưới quyền tôi vậy.
- Báo cáo sư trưởng, Hoàng An quê chính ở bản Xíu, huyện Thất khê, Cao bằng. Anh ta từng là trung đội trưởng số ba , thuộc đại đội Một, tiểu đoàn 109 đơn vị đặc nhiệm đóng tại Hà Đông năm I957, lúc đó tôi là tiểu đội phó trong trung đội của anh ta. Tên thực của anh ta là Chí văn Thành, được kết nạp đảng sau ngày nhập ngũ, tháng chín năm I95I, ba năm trước ngày giải phóng thủ đô.
- Đồng chí nói sao ? Anh ta đã từng là đảng viên ?
An thấy giọng sư trưởng vói cao lên, ngờ vực. Khi nhập vào cánh quân này dưới cái tên Hoàng An, anh đã sử dụng giấy tờ của một tử sĩ đứng ngoài đảng. Và anh vừa được kết nạp hai năm tròn. Chính sư trưởng đã hạ lệnh kết nạp đảng tại chỗ, sau những thành tích chiến đấu dồn dập của đại đội. An lại nghe Mã Lỳ cười khẩy, và sau một khoảnh khắc ngưng lặng, tiếp tục nói:
- Khi tôi nhập ngũ, Chí văn Thành đã sáu tuổi đảng. Anh ta được kết nạp ngay trên chiến khu Việt bắc.
- Thôi được. Đồng chí nói tiếp đi. Tôi nghe.
- Chính Chí văn Thành giác ngộ tôi vào đảng và đề bạt tôi lên tiểu đội phó.
- Rồi sao ?
- Rồi đột nhiên anh ta bỏ trốn sau một ngày chủ nhật vào thăm Hà nội. Ban chỉ huy không biết lý do ra lệnh truy tìm nhưng không có kết quả. Khoảng một tuần sau bộ tham mưu cử người xuống chính thức thông báo Chí văn Thành là điệp viên do quân đội nguỵ gài vào để đánh phá lực lượng cách mạng. Do bị lộ anh ta đã bỏ trốn cùng với một tên điệp viên khác, trong đội cảnh vệ. Cả hai đều là Tày Cao bằng và quê cùng huyện Thất khê. Lực lượng biên phòng đã đuổi theo họ, qua tận biên giới Việt-Lào nhưng chỉ tìm thấy xác hai người bị hổ ăn và hai cây súng bỏ lại.
- Nếu đã thẩm định là bị hổ ăn thì làm sao còn quay trở lại sống dưới một cái tên khác ? Nhất là khi cả hai cây súng bị ném lại ? Đồng chí có tin rằng một người bỏ trốn có thể vứt bỏ vũ khí để dấn thân vào rừng núi với hai bàn tay trắng, khi trước mặt là thú dữ lẫn kẻ thù ?
Giọng sư trưởng oang oang như đang thuyết trình kế hoạch tấn công trước giờ mở màn chiến dịch. Anh có cảm giác như ông không tin những điều gã Mèo nói và cố sức dẫn dụ gã sang một ngả đường khác. Mã Lỳ ậm ừ hồi lâu vì không tìm được lời giải thích. Nhưng sau đó, gã cất tiếng một cách quả quyết :
- Tôi biết. Điều đồng chí nói là có lý. Nhưng tôi không thể nhầm bởi chính Chí văn Thành cũng đã nhận ra tôi. Chính anh ta dặn tôi rằng không được gọi anh ta bằng tên cũ, rằng anh ta đã bị truy đuổi, đã thay họ đổi tên và ...
Tiếng hoan hô đột nhiên ào ào vang lên, vượt qua các bờ cây vọng đến tận bờ suối. Tiếng lính huýt còi miệng, tiếng hét cuồng nhiệt vang khắp rừng lẫn trảng:
-Hoan hô, hoan hô....
- Lại....Múa lại....
- Một lần nữa !Hoan hô....Một lần nữa đi !
- Một lần nữa.! Xin múa lại lần nữa.
An chắc chắn đó là điệu múa Chàm rông, điệu múa của mùa xuân, điệu múa của tình ái, hội hè và ước vọng. Anh tưởng tượng ra những gương mặt phấn khích của đám đông dưới ánh đèn. Cùng lúc đó, óc não anh vang lên tiếng thầm thì :
― Sư trưởng ơi, tôi với ông không thù oán, không có kỉ niệm buồn phiền. Ông đối với tôi như một người anh hào hiệp nhưng tôi không có cách xử trí nào khác. Xin ông tha thứ cho tôi.
Anh nhắm vào lưng Mã Lỳ, tiêu điểm cách một gang rưỡi từ vai trái lui xuống. Khẩu súng trong tay anh tựa hồ con quay gỗ hồi thơ bé. Tựa hồ con thoi dệt trong tay bà thím. Tựa hồ cái gương tròn khung bạc trong tay nàng. An nhấn cò. Một tiếng nổ. Chắc chắn qủa tim gã Mèo đen phải vỡ tung. Nhích nòng súng chừng nửa ly sang bên trái, hai phát tiếp theo bởi lần này con mồi to khoẻ gấp bội. Cần găm hai lần đạn vào một quả tim ngoại cỡ. Kết quả sẽ bảo đảm một cách tuyệt đối. Tất thảy xảy ra trong ánh chớp. Hai tấm thân đổ sập gần như đồng thời, cùng hướng.
An gỡ cây súng , đặt xuống gốc cây quen thuộc, nơi anh vẫn ngồi một mình buổi chiều. Chéo khẩu súng là cây đèn pin, bọc kín trong tấm vải dù. Mắt anh đã hoàn toàn thuần thục với bóng tối. Chỉ những gợn nước phản chiếu lửa đom đóm bên kia dòng suối, cùng ánh sáng xanh run rẩy của lân tinh dưới các bụi cây là đủ cho anh soi tìm mọi vật. Sau khi đã cất gọn gàng những đồ lủng củng, An bước tới nơi hai tử thi gần như chồng lên nhau thành một khối. Hai cái xác còn nóng hổi. Trước hết anh lột quần của cả hai một cách thận trọng để máu ở phần trên ngực không dây vào chúng. Vũ khí, đèn pin. Rồi bao thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay trong túi áo. Lọ đựng tăm và hộp dầu cù-là. Sổ tay và bút...Tất thảy được gom thành một đống trên cỏ. Sau đấy, anh lột giầy lẫn tất, sắp thành hàng. Ước tính mọi sự chuẩn bị đã tinh tươm, An vác gã Mèo đi ngược lên thác Voi gầm.
Dừng lại thở một vài hơi anh lẳng gã xuống chính ngọn thác, nghe trong đêm tiếng rơi bõm của thây ma, tiếng gào réo của các xoáy nước và nhìn thấy ngọn nước hung dữ cuốn phăng cái vệt đen đen đó đi một cách hăm hở. Quay trở lại, An kéo sư trưởng lên. Ông ta rất nặng. Phải trầy trật lắm anh mới hất được cái xác vạm vỡ, y hệt một bao tải gạo lên lưng. Lần này, anh phải bước lom khom như dân công cõng đạn trèo ngược dốc, rồi bước từng bước một. Nhưng dẫu sao An cũng đến được đỉnh thác mà không phải dừng chân nghỉ một lần nào. Ở đó, An đặt xác chết xuống bờ suối, rút trong túi quần sợi dây dù bất ly thân, tháo nút một cách thận trọng để sợi dây không bị gút rối. Khi đã gỡ được sợi giây một cách hoàn hảo, An buộc một bên chân mình vào gốc cây gần nhất. Rồi, anh thở vài nhịp chậm và sâu để chuẩn bị trước khi thu hết sức lực nâng bổng tử thi lên, ném xuống dòng thác. Tấm thân bất động tròn trùng trục kia rơi xuống tức khắc, kèm theo một tiếng động trầm đục và ngắn ; tựa hồ một thân cổ thụ rớt xuống dòng sâu. Lúc thây ma rơi xuống, An cũng ngã nhào theo, một cánh tay lẫn một bên vai đập vào bờ đá đau điếng. Nếu không có sợi dây bảo mạng kia, chắc chắn anh sẽ trở thành thây ma thứ ba, theo cùng một hành trình với hai kẻ xấu số. Nằm úp mặt xuống bờ suối vài giây cho cơn đau dịu đi, An vùng dậy tháo sợi dây dù, đoạn quay trở lại khúc suối bên dưới. Ở đấy, anh lội xuống dòng nước lạnh buốt, lặn ngụp hồi lâu. Khi ngửi đi ngửi lại, áo quần không còn chút mùi tanh của máu, An trèo lên bãi sỏi lượm cây đèn pin và khẩu súng định bụng trở về hầm. Nhưng chính lúc ngẩng đầu lên, anh chợt nghe tiếng chân chạy, chợt nhìn thấy một bóng đen vụt khuất giữa đám cây đen. Vô cùng mơ hồ, nhưng chắc chắn không phải là một hồn ma. Đó chắc chắn là một sinh thể.
« Có kẻ nào rình rập ta ? Bởi chỉ có tiếng chân đơn lẻ . Không thể là tiếng chân đội lính đi tuần ngẫu hứng đến đây. »
Anh tức khắc đuổi theo bóng đen kia.
Nhưng phải chăng nó là một con người ?...Anh tự hỏi một cách ngờ vực bởi cái sinh vật gây tiếng động kia cũng có thể là chồn hay cáo. Nó biến đi trong chớp mắt, hoàn toàn mất tăm mất dạng như hoà nhập thành một khối với rừng cây. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đuổi theo hướng tiếng động cho đến sát cửa rừng. Tới đó, An buộc phải dừng lại. Dù con mồi kia là người, là ma, hay là chồn cáo anh cũng đành để nó chạy thoát. Nếu không, chính anh cũng có nguy cơ bị bắt gặp trong bộ dạng kẻ sát nhân ướt rượt từ đầu xuống chân.
« Thôi được, tao sẽ tính chuyện với mày sau. »
An nghĩ, quay sang lối trở về hầm. May mắn cho anh vì khu trú quân vắng ngắt. Có lẽ ngay toán lính tuần cũng lượn loanh quanh rồi lại tạt vào trảng, nghếch mắt xem văn công. Trong khu nhà ngầm trung tâm của tiểu đoàn Một, An mắc bộ quần áo ướt vào dàn sấy áo quần. Dàn cây ấy thường xuyên là tủ sấy áo quần cho các sĩ quan, bởi nơi đây, nếu không có lửa quần áo giặt sẽ không bao giờ khô. Hầu như đêm nào cũng có mưa. Những cơn mưa rừng thấm vào quần áo lẫn xương tuỷ. Mưa dứt, hơi sương còn quẩn quanh từ nửa đêm cho đến non trưa. Mặt trời có lên cũng phải vài giờ sau sương mới tan hết. Sương vừa tan được vài giờ chiều đã ngả và lớp sương mới lại ngùn ngụt kéo từ các khe vực lên. Như thế, làm sao áo quần không ẩm mốc. Chẳng có cách nào hơn là phải gây một lò sấy suốt ngày đêm. Những đống củi cháy liu diu không ngừng, không ngừng toả hơi ấm lẫn làn khói đặc ngái mùi các loại nhựa cây bị hun đốt. An đứng ở đó một giây, nhìn đám lửa, cảm thấy buồn nản và dửng dưng. Anh muốn ngủ. Nhưng điều đó là bất khả nên anh lại mặc quần áo mới và quay trở lại trảng, tìm đúng đơn vị của mình, ngồi thu hình phía sau đồng đội một cách lặng lẽ.
Chờ mươi phút trôi qua, anh đặt tay lên vai cậu lính phía trước :
- Thoả mãn chứ ?
Gã trai giật bắn người, quay lại nhìn anh :
- Thủ trưởng đi đâu, giờ mới lại đây ?
- Thủ trưởng Nhã rủ tôi quay lại hầm ngủ nướng. Không dè quá giấc.
- Ôi chao, mất toi nửa đêm rồi còn gì ?
- Đành vậy...Nhưng được dịp béo mắt. Vả chăng, tôi già hơn cậu mươi tuổi, lòng ham hố nhìn gái đẹp cũng phải giảm đi. Điều đó liệu có đúng hay không ?
Cậu lính cười hì hì :
- Thủ trưởng hỏi câu ấy, em xin chịu.
- Thôi xem đi, kẻo lỡ dịp vui.
An nói, cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột rồi lấy bàn tay bên phải bóp cứng vào huyệt vai bên trái. Lúc này, anh mới thấy thân thể đau nhừ sau một cuộc vận động căng thẳng và quá sức. Hai mí mắt anh bắt đầu cứng lại như chì và có vẻ như chúng không còn tuân theo sự điều khiển của chủ nhân :
« Mình không thể ngủ. Không có quyền ngủ lúc này.Ta vừa mới tuyên bố với mọi người là gỡ được giấc ngủ dặm cùng với tiểu đoàn trưởng. Giờ không còn lý do ngủ thêm. »
Nhưng anh bắt đầu ngáp. Và ngáp thì không thể kiềm chế được. Đại đội trưởng đành móc bao thuốc, đốt một điếu. Mùi khói thuốc vừa lan toả, lập tức năm sáu cái đầu quay lại, những cặp mắt thèm thuồng nháo nhác tìm kiếm. Những cánh tay chìa ra tua tủa châu về phía anh :
- Em đã, đại đội trưởng. Em giơ tay trước nhất.
- Láo, tao mới là người giơ tay trước nhất. Mày ngồi hàng trên làm sao ngửi ngay ra hơi khói mà xin ?
- Em đăng kí thứ ba, xin đại đội trưởng đừng quên.
- Tôi nữa chứ ? Phải chăng lính già không được chia phần ?
An bảo :
- Tôi tưởng các cậu đang say sưa xem văn công nên mới dám mở bao thuốc ...Hoá ra mũi người thính thật...
Đám lính nhao nhao đáp :
- Văn công cũng thích mà thuốc lá cũng thèm. Chẳng thứ nào nhịn được thủ trưởng ạ.
- Tôi chỉ xin một hơi thôi, rồi quay lại xem văn công tức khắc... Bảo đảm với đồng chí là như thế.
Điếu thuốc chuyền đi theo hàng quân, đốm lửa đỏ lập loè. Sau cùng nó mất hút trong khi các cánh tay còn tiếp tục giơ lên chờ đón. Mấy hơi thuốc giúp An chống lại cơn buồn ngủ đang muốn kéo anh đổ sập. Anh đưa mắt nhìn lên sân khấu nhưng tai anh lại vang lên tiếng động ầm và đục khi cái xác nặng nề của sư trưởng rơi xuống nước.
« Ông ta quả là một con người cường tráng. Hẳn là một người cha đầy quyền uy với các con và một người chồng không biết mỏi trên giường. Dân xứ biển ăn nhiều cá nên bẩm sinh đã cường dương, chẳng cần cao gấu hay cao hổ. Quả tim ông ta bơm đầy máu. Máu chảy như nước tuôn từ ống lồ-ô... »
An nghĩ và bất giác đưa tay sờ lên cổ xem da thịt anh đã sạch hay chưa ?...Trên đoạn đường tiến lên đỉnh thác, máu tử thi ở trên lưng anh không ngừng chảy, không ngừng tràn qua hai vai sau vòng qua hai bên cổ, rồi đổ chung vào chỗ hõm giữa lồng ngực. Máu chảy như nước tuy chậm hơn, một thứ nước ấm nóng dính dáp. Có lẽ thân thể ông ta chứa một lượng máu nhiều gấp ba lần máu gã Mèo, và quả tim ông ta hẳn cũng to gấp ba lần quả tim của gã...An nhớ lại cảm giác nhầy và ấm của dòng máu bao phủ quanh cần cổ, tràn qua ngực, chảy qua rốn lan xuống tận đám lông mu khiến anh ngứa ngáy. Rồi máu rẽ sang hai bẹn và tiếp tục bò xuống hai đùi dính nhơm nhớp như một thứ nước sốt chắt ra từ nồi hầm thịt lẫn xương. Cảm giác đó thật rõ ràng. Cảm giác đó không thể nào quên được. Máu gần giống một thứ nước sốt hoặc nhựa cây nhưng có hơi ấm và bốc mùi tanh.... An bỗng thấy tay chân rã rời. Niềm oán hận dội lên thành tiếng thầm thì trong tâm khảm :
« Tại sao mày không câm miệng lại, thằng Mèo chết tiệt kia ? Tao đâu có làm tổn hại đến bản thân mày ? Vả chăng, mày đâu biết được vì cơn cớ nào mà tao phải chạy trốn khỏi quê hương ? Làm sao mày hiểu được nỗi khổ đau của kẻ phải xa lìa xứ sở ? Ngọn gió tối tăm nào thổi qua để tai mày nghe lời kẻ khác một cách ngu dại, tấm vải đen độc địa nào che mắt mày để mày nhìn tao một cách độc ác như thế ? »
Trên sân khấu, người ta đang diễn vở chèo ngắn của người Kinh. Tích chèo có tên : « Xuý Vân giả dại ». An không thuộc tích chèo này, anh chỉ nhớ mang máng đó là câu chuyện về một người đàn bà bị tình phụ hoá điên. Cô gái điên trên sân khấu mặc một chiếc váy đỏ như hoa gạo, tóc cài hoa đại trắng. Những động tác rối loạn của cô và gương mặt xinh đẹp tỉnh táo hoàn toàn chẳng ăn nhập vào nhau. Tiếng hát của cô thánh thót, thuần tuý sầu khổ và gợi tình, cũng chẳng phải tiếng hát của người điên mà chỉ là tiếng hót của một con chim mái gọi chim trống vào mùa ân ái.
« Những đôi chim trống mái gọi nhau vào mùa xuân, gù nhau suốt mùa hè, phủ nhau suốt mùa thu và thay nhau ấp trứng suốt mùa đông. Những đôi chim sung sướng. Chỉ có chúng ta là đau khổ. Chúng ta không bao giờ còn có thể gọi nhau, ve vãn nhau bằng lời hay bằng câu hát. Chúng ta không còn được làm tình và không bao giờ còn có thể sinh con đẻ cái để được ấp iu nuôi dưỡng chúng như lũ chim kia nuôi dưỡng lũ chim non. »
Những ý nghĩ ấy chầm chậm lướt qua óc não anh, chầm chậm như những lưỡi dao nung đỏ trong lò rèn áp lên da thịt. Anh nghe thịt da mình bốc cháy xèo xèo dưới lưỡi dao tàn khốc đó. Anh nhớ nàng, người vợ xinh đẹp của anh. Mối tình đầu và cũng là mối tình sau chót. Người đàn bà duy nhất của đời anh. Nàng đã ở trong da thịt anh mười sáu năm tròn, nàng sẽ cư ngụ trong tâm hồn anh cho đến muôn kiếp.
« Nàng Đông ! Em ở đâu bây giờ ? Người tôi yêu ? Hãy mượn gió, mượn cây, mượn lời chim hay tiếng thú trả lời cho tôi biết ? Em ở đâu ? và cô Nhỏ của chúng ta ở đâu ? »
Họ trở thành tình nhân vào năm mười lăm tuổi. Nhưng họ đã là bạn từ thuở chập chững tập đi. Hai nhà là láng giềng gần nhất, cách nhau đúng một sườn đồi. Hai bà mẹ cùng có thai một năm, đẻ họ cùng trong một tuần trăng, nàng đầu tháng và anh cuối tháng. Sang tháng sau, hai gia đình rủ nhau chọn ngày trăng tròn để cùng làm lễ đầy tháng tuổi cho hai đứa trẻ. Dân bản đến nhà nàng ngả bò ăn mừng vào buổi trưa, buổi chiều kéo sang nhà anh quay lợn, thịt gà, nấu cỗ. Cả một ngày vui vẻ, trống phách vang lừng. Cuộc vui kéo thâu đêm, ai nấy đều ngủ lại cho đến hôm sau mới trở về nhà mình. Khoảng sườn đồi mênh mông giống như sân chơi chung của họ thời thơ ấu, nơi nàng lẽo đẽo theo anh lần mò khắp các bụi cây tìm quả chín, bắt cánh cam, bọ rùa hay đào hang dế. Lên năm tuổi, anh dẫn nàng vào những cuộc thám hiểm đầu tiên, họ rời khỏi ngọn đồi quen thuộc để tìm đến những mạch nước khe dẫn về bản, những cọn nước bằng tre quay chậm rãi tưới xuống các cánh ruộng bậc thang, rồi ngược lên cánh rừng lảnh lót tiếng sơn ca. Mùa đông năm ấy, bệnh dịch yết hầu lan khắp huyện. Bản Xíu vốn khuất nẻo, nằm sâu trong một thung lũng cách biệt mà cũng không thoát khỏi tai hoạ chung. An mồ côi từ ngày đó. Cha anh chết hôm trước, hôm sau tới lượt mẹ anh trong trận dịch yết hầu mà đa phần người chết toàn là trẻ nhỏ. Họ là hai nạn nhân duy nhất ở tuổi trưởng thành. Lạ lùng là cùng ở một mái nhà nhưng anh hoàn toàn khoẻ mạnh, trong khi cha mẹ anh và những đứa trẻ bị chết đều phải tập trung vào một dàn hoả táng, chôn chung một góc thung lũng để phòng dịch lây lan.
Người ta vẫn bảo : « Chết cha còn chú, xảy mẹ bú dì ». Không phải nói thêm lời nào trong đại gia đình họ Nông truyền thống. Sau lễ tang, chú thím An nhượng lại ngôi nhà của họ cho gia đình láng giềng, rồi dọn về ngôi nhà sàn của bố mẹ anh để có thể nuôi cháu một cách thuận tiện. Lúc ấy, họ còn là vợ chồng son. Bốn năm sau, anh lên chín, họ mới đẻ đứa con gái duy nhất, đặt tên là Nàng My. Chẳng có điều chi phân biệt giữa hai đứa trẻ ấy, và vốn dĩ chúng cũng thương yêu nhau như cùng mẹ cùng cha. Nàng My ra đời cùng năm với Nàng Nhỏ và như thế, tới lượt chúng, hai cô bé lại trở thành những người bạn từ thuở lẫm chẫm tập đi. Năm anh mười bẩy, chú thím làm lễ cưới cho nàng và anh rồi sau đó, thuận tình ông bố vợ cô đơn, họ được phép về sống với ông trong ngôi nhà sàn bên kia sườn đồi. Một cuộc sống mặn nồng như sự kết nối của các tuần trăng mật. Nói cho đúng hơn là một mùa trăng mật miên viễn. Bởi sau khi cưới hai tuần, anh lại xuống huyện Thất Khê tiếp tục đèn sách. Một tháng một lần, cặp uyên ương được tình tự cùng nhau. Thời gian đó, trường huyện thường không đủ học sinh nên chương trình học kéo dài. Vì lẽ đó anh phải lẽo đẽo đi về hơn mười năm mới kết thúc được chương trình trung cấp. Vào khoá tốt nghiệp năm ấy, người Tày duy nhất chính là anh, Nông văn Thành, niềm tự hào của dân bản Xíu và giấc mơ chung cho tất cả đám dân Tày có của ăn của để.
Lớn lên dưới sự chở che của chú thím như vậy, An không thể làm gì khác hơn là ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý khi chú anh ra lệnh :
- Tuy rằng con đã khá cứng tuổi nhưng vẫn còn trong thời tráng niên. Ta đã lần lữa nhiều năm nay nhưng lần này chính con sẽ phải lên đường tham gia cuộc kháng chiến. Chúng ta thưa nhà, hẹp đất, nhưng không được để cho các bản lớn chê cười.
- Thưa chú, con đã rõ.
- Thím sẽ lo chuẩn bị quần áo, thuốc men và tiền bạc cho con. Con có cần gì nữa không ?
- Dạ, con cần vài ngày để từ biệt bạn bè trong bản và xuống huyện chào mấy ông thầy.
- Được. Chúng ta còn năm ngày mới tới hạn tập trung.
Sau một lát ngần ngừ, anh nói thêm :
- Con chưa làm được gì để giúp chú, từ nhỏ đến lớn chỉ vác gạo vác tiền của gia đình đi học. Giờ lên đường, bỏ lại gánh nặng gia đình.
Chú anh mỉm cười :
- Nuôi con ăn học là để con nên người. Ấy là sở nguyện của chính ta. Giờ con lên đường cũng vì ta thấy gia đình mình không thể trốn tránh nghĩa vụ với đất nước. Việc của con ra đi, cứ yên tâm ra đi. Ở nhà, chúng ta sẽ đùm bọc Nàng Đông. Vả chăng, ta với ông Cao cũng là bạn hữu..

Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (2)
An không dám nói thêm. Anh còn có thể nói thêm được điều gì trước một người đích thực vừa làm chú vừa làm cha ? Vả chăng, đang tuổi tráng niên, anh cũng muốn lên đường. Những chân trời mới lạ mời mọc anh. Những tiếng ầm ì từ khoảng không xa xôi vẳng lại khiến tâm hồn anh nôn nao. Cuộc chiến tranh sôi động của dân tộc vọng đến tận những rẻo rừng hẻo lánh nhất. Nhiều bạn đồng môn của anh đã lên đường. Nàng Xuân cũng rời bản Xíu ra đi khi tròn mười ba tuổi, gia nhập đội thiếu sinh quân của chiến khu. Mai đây, em gái anh có thể được gửi đi học Liên-xô hay Trung quốc theo chương trình đào tạo của chính phủ cách mạng. Như thế đấy, làm sao anh ngồi yên ?Thung lũng êm đềm quê hương bị quây bọc bốn bề bởi rừng núi. Những giải rừng hiền hoà anh đã thuộc kĩ từng lối mòn. Những rặng núi thân quen anh có thể đếm đủ bao nhiêu dòng nước róc rách trên các khe đá chảy xuống. Con thác Sơn ca reo khúc nhạc bất tận từ thuở anh lẫm chẫm tập đi cho tới lúc anh biết làm tình. Những dấu chân của đàn trâu dẫm trên con đường lầy lội vào bản ngày mưa. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chúng vang lên trong các hoàng hôn vắng vẻ. Tất cả quá quen thuộc, quen thuộc đến sờn mòn và bí bức. Anh hiểu rằng anh cần rời bỏ thung lũng thân quen này để biết được thế giới bên ngoài tồn tại ra sao. Anh phải ra đi, tuy anh yêu nàng.
- Anh đi , rồi bao giờ quay về ?..
Nàng hỏi.
- Anh đi đánh giặc. Hết giặc anh sẽ về.
Anh đáp, như hết thảy những người trai thời tao loạn ; nói những lời lẽ đẹp đẽ cổ xưa mà họ đã thuộc lòng.
- Em nhớ anh.
Nàng nói tiếp và bắt đầu khóc.
- Anh cũng nhớ em. Nhưng để làm tròn nghĩa vụ với non sông, anh phải ra đi. Nhớ anh thì hãy chờ anh. Nhất định anh sẽ về.
Anh đáp lại. Cũng những lời lẽ mà các chiến binh ngàn đời đã nói với người vợ trẻ của họ trước khi rời khỏi xóm thôn. Những lời an ủi ấy hẳn dành cho cả kẻ ra đi lẫn người ở lại bởi tuy nói để trấn an người yêu nhưng sống mũi anh cũng bắt đầu cay như ăn nhầm dưa cải muối còn xanh. Nàng gục mặt lên vai anh và nước mắt nàng thấm ướt tấm áo chàm anh đang mặc. Nước mắt nàng ấm nóng. Ấm nóng như là ...
Ý nghĩ ấy khiến An sởn gai ốc. Anh vội nhắm mắt lại. Một hơi gió lạnh thổi tạt từ phía sân khấu vào mặt anh, và cùng lúc ấy, tiếng hát của người đàn bà điên dại mặc váy đỏ, tóc cài hoa đại vang đầy không gian :
― Con gà rừng,
Sao mày ăn lộn với lũ công...
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?...„
An thầm nói với chính mình :
― Cuộc sống vốn dối gian như vậy. Tựa như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nước mắt thơ ngây của em làm nóng vai ta đêm năm xưa. Còn đêm nay, vai ta lại ấm nóng bởi máu người. Máu kẻ phản bội trộn lẫn máu người vô tội. Một kiểu như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nhưng đấy chính là con đường của số phận dẫn đưa. Ta không có cách nào thoát khỏi con đường ấy. Ta sẽ còn tiếp tục đi theo con đường ấy để tìm đến nơi em trú ngụ. Em và nàng Nhỏ của chúng ta „
- Hoan hô........
- Hoan hô....Hoan hô....
Mọi người ào ào đứng lên xung quanh An. Anh vội vã đứng lên theo họ. Đêm biểu diễn kết thúc. Tất cả các diễn viên, các nhạc công cùng đổ ra sân khấu một lần để chào binh lính. Ban chỉ huy lên sân khấu tặng hoa. Gọi là hoa nhưng thực sự chỉ là các bó cỏ lau, kẹp ở giữa một bông chuối rừng hoặc một chùm mẫu đơn núi. Nhưng tất thảy đều tràn đầy phấn khích. Đàn phong cầm kéo vang hết cỡ trước máy phóng thanh để cả người diễn lẫn người xem cùng hát lên bài ca chung cuộc trước lúc chia tay. Người đứng bên trên sân khấu vẫy hoa, lính bên dưới vỗ tay theo nhịp trống :
Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn
Đá mòn mà đôi gót không mòn
Ta không nề gian lao không nề xông pha
Quân về theo gió đang dâng triều lên...
Tiếng vỗ tay dội vang rừng núi. Rồi sau một vài phút ồn ào, sư đoàn phó bước lên trước micro cảm ơn đoàn văn công, đồng thời chúc các đơn vị một thời kì huấn luyện tốt đẹp...An nhìn rõ vẻ nháo nhác tìm kiếm của ông ta trước khi bước lên sân khấu. Bởi người có sứ mạng nói lời kết thúc đêm nay lẽ ra phải là sư trưởng.Vị lãnh đạo đã biến mất một cách thần bí.
Rồi các đơn vị trong tiểu đoàn 209 bắt đầu kiểm lại quân lính trước khi rút lui. Quân của sư đoàn chia ra các ngả về trại. An nhìn thấy tiểu đoàn trưởng Nhã vẻ như đang tìm kiếm mình. Anh giơ tay lên cao vẫy :
- Tiểu đoàn trưởng, đại đội chúng tôi ở đây.
Phía xa, Nhã cao tiếng gọi :
- Đồng chí cho anh em về nghỉ rồi đến gặp tôi.
An ra lệnh cho các trung đội trưởng :
- Các đồng chí có thể về lán. Chẳng còn gì để làm vào lúc này. Sáng mai, chắc chắn lãnh đạo sư đoàn cho anh em ngủ bù. Tôi đoán vậy.
- Báo cáo đại đội trưởng, cho anh em ngủ bù là hợp lý. Giờ đã là ba giờ kém hai mươi nhăm.
Các cánh quân 209 theo nhau rút lui. Gấp gáp, chen lấn, hối hả không thua gì lúc đến. Từng đợt sấm ì ầm đã vọng bên trên các cánh rừng.
- Mau chân lên mày ! Thằng này hậu đậu hay sao thế ?
- Mau thế chó nào được. Đường hẹp bỏ cha.
- Thế thì mày dẹp sang một bên cho tao vượt lên trước.
- Các cậu cãi nhau ngậu xị làm gì vậy ? Vượt lên hay tụt xuống thì cũng chỉ hơn nhau vài thước, trốn không khỏi mưa. Biết điều thì chuẩn bị sẵn vải nhựa ra.
- Lậy trời đừng mưa vội. Lạy trời chờ chúng con về lán rồi hãy đổ mưa. Mưa có to đến mấy cũng được.
- May ra thì thoát được, sấm đằng đông vừa trông vừa chạy, nhưng đêm nay lại sấm đằng tây.
- Đồ ngốc, sấm đằng tây mưa giây gió giật, tuy có muộn hơn nhưng lại dữ dội gấp muôn phần.
- Rồi xem.
Gió đêm cuồn cuộn chảy trên các vòm cây hùng vĩ. Tiếng lắc rắc của các cành lá nghe như chúng sắp gãy ngay trên đầu ta. An chờ cho lính rút lui hết mới thong thả tiến về phía tiểu đoàn trưởng. Ông đang đứng với sư đoàn phó và đám lãnh đạo các tiểu đoàn. Họ đứng thành hình vòng tròn, khi anh bước tới vòng tròn đó mở ra như một cách chờ đợi và chào đón. An hiểu rằng họ không biết tìm thông tin ở đâu ngoài một mình anh :
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đồng chí cho gọi tôi ?
Anh dừng lại trước tiểu đoàn trưởng Nhã, cất tiếng hỏi :
- Lại đây ! Lại gần đây !
Nhã vồn vã :
- Không phải để gặp mình tôi mà toàn thể ban lãnh đạo. Chúng tôi đang lo lắng vì không rõ sư trưởng đi đâu. Vào nửa chừng cuộc biểu diễn, đồng chí ấy đã đi theo một cán bộ đại đội bên tiểu đoàn bạn...Đến bây giờ cũng không thấy hai người quay trở lại. Tiểu đoàn 209 báo cáo rằng trước khi vào bãi xem đại đội trưởng người Mèo này đã gặp đồng chí tại cửa rừng. Và sau đó đồng chí đã cùng với anh ta nhập vào đơn vị 209?
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chính xác là như thế. Tôi ngồi xem với cậu ta cho đến hơn chín giờ. Đột nhiên bị đau bụng nên phải quay về lán lấy thuốc uống. Lúc trở lại trảng tôi tìm về đại đội của mình vì e lính sốt ruột không thấy thủ trưởng đâu.
- Đồng chí là đồng đội cũ với đại đội trưởng người Mèo ?
- Dạ, tôi cùng trung đội với Mã Lỳ từ hồi trên rừng Việt bắc. Nhưng lúc đó cậu ta chỉ là giao liên ngoài phiên chế vì chưa đủ tuổi. Rồi sau ngày giải phóng thủ đô, trên cử người về tuyển lính vượt biên giới làm nhiệm vụ đặc biệt. Một số anh em đã tình nguyện lên đường, trong đó có tôi. Như thế, đã mười lăm năm chúng tôi không gặp nhau.
- Những ngày còn gần gũi cậu ta trên Việt bắc, đồng chí có biết gì về hoàn cảnh riêng tư của cậu ta hay không ?
- Tôi không biết nhiều lắm vì tuổi tác chênh lệch. Cậu ta thân với mấy anh Sán dìu, Sán chỉ vùng Lạng giang Hà bắc hơn tôi. Nhưng thi thoảng nhóm dân tộc chúng tôi gồm sáu chủng loại cũng góp tiền rủ nhau liên hoan. Những dịp ấy, Mã Lỳ thường khoe rằng máu chảy trong người cậu ta không phải thuần tuý máu dân Mèo mà là một thứ hộn huyết . Bà ngoại cậu ta vốn là dân Kinh buôn cá mắm khô gặp thời ly loạn bị cướp hết bạc tiền nên đành ở lại miền núi, lấy ông ngoại cậu ta vốn là tay buôn thuốc phiện có tiếng trong vùng. Hồi nãy, khi chúng tôi mới gặp nhau, Mã Lỳ có nói rằng cậu ta sẽ đi tìm một người bà con trong sư đoàn của chúng ta.
- Sư trưởng ?
Cùng một lúc sư đoàn phó và các tiểu đoàn trưởng bật lên câu hỏi. Không ai trả lời. An hỏi lại họ :
- Các đồng chí nói rằng sư trưởng đã ra đi cùng với Mã Lỳ ?
- Đúng thế. Sau tiết mục hề chèo thứ sáu.
Sư đoàn phó đáp.
- Lúc đó chắc tôi chưa kịp quay lại.
An nói.
Cả đám sĩ quan giương mắt nhìn nhau, người nọ nhìn vào mặt người kia như học trò vỡ lòng nhìn vào tấm bảng đen ghi đầu đề toán cấp một. An chờ đợi vài phút rồi quay sang tiểu đoàn trưởng Nhã :
- Tôi nghĩ họ sang bên kia núi Gấu trúc trước lúc đêm diễn kết thúc. Nếu quả thực sư trưởng là họ hàng của Mã Lỳ, cậu ta sẽ phải gọi đồng chí ấy là cậu. Với người Kinh, họ nhà nội thường coi là gần gụi nhưng với người Mèo, cậu cháu, họ đằng mẹ hay bà ngoại mới thật sự là thân thiết. Ngần ấy năm cách biệt, họ phải có rất nhiều chuyện để nói với nhau.
- Có thể ...
Nhã đáp.
Một tràng sấm ầm ì liên tiếp đuổi nhau từ phương tây vang tới. Vài tia lửa mờ rọi lên vùng trời đêm đen như than. Sư đoàn phó đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói :
- Dù sao chúng ta cũng phải chờ đến sáng mai mới rõ được sự tình. Quả là kì cục. Nếu sư trưởng cần thiết đi đến như vậy, ít nhất đồng chí ấy cũng phải nhắn cho tôi một lời.
Ông móc chiếc đồng hồ trong túi áo ra xem rồi nói tiếp :
- Ba giờ đêm rồi. Chúng ta về hầm thôi. Ngày mai, chín rưỡi sáng ban chỉ huy tập trung. Lính tráng cho ngủ thoả sức.
Quay sang An, ông bảo :
-Cảm ơn đồng chí. Chúc ngủ ngon.
Đám người tản ra theo các lối khác nhau trở về nơi trú ẩn. Tiểu đoàn trưởng Nhã cùng An theo một lối. Trên chặng đường tối đen như mực, bất chợt Nhã buông tiếng thở dài :
- Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy đêm nay vô cùng ảm đạm. Thật phí hoài cả cuộc vui.
- Vâng.
An đáp.
Một chuỗi sấm nữa lại nổ rền. Hơi gió lạnh thổi ràn rạt qua trảng cỏ làm tê lạnh da mặt họ.
Tiểu đoàn trưởng bảo :
- Chạy đi! Gió đã đổi mùi.
- Vâng.
Hai người cùng cắm đầu chạy . Ánh đèn nhoang nhoáng vẩy trong bóng đêm. Mươi phút sau, họ chui được vào hầm. Cũng chính lúc đó, đêm bừng lên từng đám tia chớp, te tướp loằng nhoằng như những bó gân người bị tước nhỏ. Tiếp đó, những hồi sấm liên tục nổ vang ngay trên đầu họ. Rồi mưa quất xuống những loạt liên thanh. Gió bắt đầu gào hú từng cơn, bổng trầm xen những loạt roi mưa quất ràn rạt. Cây cối vặn mình răng rắc, nghiêng ngả bốn bên. Hai người đứng lại trước của hầm một giây, nhìn ra ngoài trời :
- Khiếp thật. Đúng là cơn đằng tây mưa giây gió giật.
Tiểu đoàn trưởng nói.
- Vâng.
An gật đầu.
- Giờ là lúc chúng ta có thể yên tâm ngủ. Ít nhất cũng được đêm nay.
Nhã nói tiếp.
- Vâng, chiến tranh mà. Sống ngày nào hay ngày ấy.
An hoạ theo.
Rồi hai người vào hầm.
Khi đã chui vào màn, An lắng nghe tiếng mưa tuôn như thác xối ngoài trời, thầm nói :
― Ngày mai, không dấu vết nào còn lại trên bờ suối. Có một trăm thứ kính hiển vi cũng không tìm nổi vân tay kẻ sát nhân. Sư trưởng ơi, chớ thù oán tôi mà tội nghiệp. Ông đã trót là người nắm quyền trong bộ máy này. Quyền càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Vinh càng dầy thì nhục càng đậm. Xưa nay sự thế vẫn xảy ra như vậy. Ông hãy ngủ yên nơi chín suối với những người thân thuộc của tôi.„
Anh thở dài. Rồi tức khắc chìm vào giấc ngủ.
***
Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.
Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương lai.
Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không phải đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi đi, trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...
Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ sáng hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt anh cho lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.
Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón :
- Ngủ kĩ vậy ? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm. Tưởng cậu phải nhớ giờ mà dậy ?
- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức dậy hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ cũng nguy hiểm. Sao ? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa ?
- Không thấy gì hết...nhưng...
- Có chuyện gì vậy ?
- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải : Hoặc là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do
hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.
- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.
- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng, cùng là dân miền núi.
An cất tiếng cười :
- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng biết gì về đám dân sơn cước.
- Ồ ....thành thực mà nói...
Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc mỗi khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến. Theo sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất thảy xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu đoàn trưởng Nhã :
- Trước hết, tôi muốn xem người ta tìm thấy những gì trên bờ suối. Bởi, tôi không tin Mã Lỳ rủ sư trưởng xuống suối tắm, nhất là lúc trời đã tối đen và nước đã trở lạnh. Nói thẳng thừng, người Mèo không thích tắm. Họ có thói quen tắm lửa, nhất là những ai đã lâu ngày hút thuốc phiện. Đồng chí biết thuốc phiện đã từng được coi như cơm trắng trong vương quốc người Mèo ?
- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông Hồng. Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân tộc đầu tiên tôi quen biết.
- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì từng thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những chuyến hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng như các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để đổi lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành nghiện thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào, những người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe hoặc đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để hơi nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại thành viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.
- Trời đất ơi, thật thế à ?
Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.
An quay sang nhìn ông ta :
- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện ? Hoặc là tôi phân biệt sắc tộc nên nói xấu người Mèo ?
- Ồ không...
Sư phó gạt đi :
- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu lầm. Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.
An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.
Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó :
- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả thuyết là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu vết ?...
- Yên tâm...Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ đợi kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.
- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.
Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước tiên.
An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc chiến tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn nhiều đám dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất mau vì mưa nắng Trường sơn.
Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm. Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh giới bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm nhiệm giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.
An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước rồi dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên hai phần ba than đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước rồi mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay....biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn nguyên vị trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn cát. Ồ, cơn mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ cao tay đã biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.
- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.
An bất giác thốt lên tiếng kêu :
- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.
- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...
Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp :
- Mùa mưa năm trước, con suối này cuốn đi cả một cặp nai. Lính sư đoàn 89 đóng quân ở mạn dưới nhìn thấy hai con vật còn giãy giụa giữa dòng liền đem súng ra bắn rồi quăng dây kéo vào làm thịt. Kéo được hai con nai vào thì một cậu lại bị rớt xuống và lũ cuốn phăng đi không kịp cất tiếng kêu.
- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ ?
- Nhớ làm sao được ? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ lãnh đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy ?
Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm :
- Khổ thay ! Miếng ăn đổi lấy mạng người.
An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ :
« Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây, hẳn ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia. »
Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã. Họ là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp miền biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và vào buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối. Hẳn không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì xảy ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.
Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát chờ đợi, ông lên tiếng giục An :
- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa ?
- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.
An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở hết cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy :
- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ ? Lính đang mê mải xem văn công, các ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.
- Kê giao là cái gì nhỉ ?
- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai biết cái trò ấy ?
- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không ?
- Lửa với than ! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít ?
- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao ? Giờ tao mới biết...
- Bố sư thằng hề đểu.
- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười ?
Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng sặc,ha hả....Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười rặn ra từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.
An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm. Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người khác.
An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng :
- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng đừng. Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.
- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không muốn nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này ?
- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng chí.
- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em ?
- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.
- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.
- Vâng.
Nhã đáp.
Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát :
« Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều cái chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng, những cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết bò đến như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể phòng ngừa và chống đỡ. »
Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.
Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.
- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo...Tôi đã cùng tiểu đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...
Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố :
- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm giải quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự của mỗi người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau đó, dư luận sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể báo cáo lên cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án binh theo thông lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển công văn đi lại cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi tuyệt đối, giao liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ...Vả lại, chỉ đêm nay mưa rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật còn sót lại trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia đình những người mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số mệnh của sư trưởng và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao ?...Chúng ta hy vọng rằng họ có thể còn tồn tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết rõ.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không mảnh vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó ?
- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm suối là gì ? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.
- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.
- Trí nhớ ông ngắn thế ? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên ?
- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì ? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu tuổi già ?
- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư trưởng còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu như rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn bốn tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu ?
- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu vọng từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.
Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự :
- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu thời gian ?
Anh trợ lý đáp :
- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân đến sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi dọc suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm thước, núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách duy nhất là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày đường, đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim kêu mà các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang núi sau cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường chim bay cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường dài như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và truyền tin riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi bầy.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn toàn có lý.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay sang hỏi sư đoàn phó :
- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay không ?
Sư đoàn phó lắc đầu :
- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy. Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng cũng còn không nổi huống chi trường hợp này ?
- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc ?
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.
- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào. Đất Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng chí quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao ?
Sư đoàn phó đáp lời.
- A...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.
Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng quơ :
- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay không ? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta chẳng còn ân hận nữa.
Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã :
- Đồng chí nằm mơ hả ?
Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai đã quay sang đập vào vai ông :
- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển ? Từ giờ đến chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông Thắng dính bãi mìn, có đúng không ? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim dọn sạch.
An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát người lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có phần kém khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu của tiểu đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc nói cách khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ hành động hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ quan quân đội.
Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng :
- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này xảy ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh nghiệm để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta chịu trách nhiệm tập thể.
Lại im lặng.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như cầu cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong ngõ cụt. Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa về hướng ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm thuốc, bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm thuốc cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên vớ lấy nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.
Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn đứng dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm. Ai cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra. Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay :
- Tôi có ý kiến.
― A, cóc mở miệng rồi đây.
An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời :
- Chúng tôi nghe đây.
- Tôi nghĩ rằng...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu, ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như : ― Chúng ta nghỉ, ăn cơm, hoặc : Đi thôi, đến giờ rồi...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự coi như chịu kỉ luật : Tù mồm.
Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng : người Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào. Bây giờ, tôi giả định....
Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư đoàn phó :
- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.
Mọi người ồ lên tán thưởng :
- Đúng rồi!
- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được ?
- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói không ngoa : Một khi cóc đã mở mồm.
Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua mặt bàn, vỗ vai ông và nói :
- Tuyệt vời!
An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói :
― Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng , chính mày mới được liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố : Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy.
Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng câu hát Con gà rừng :
« Con gà rừng;
Sao mày ăn lộn với lũ công,
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?... » 


 
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (3)
Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên :
- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy ?
- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.
- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.
- Tôi đắng lưỡi.
- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn no mới được uống.
« Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện cho mọi người. »
Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên :
- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa ?
- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng. Lại có canh mà ngụp lặn.
- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ ?
An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi sau anh, đáp thủng thẳng :
- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.
- Ra thế...
An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp :
- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa ?...
- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố ? Nhưng lính tráng nghe lỏm cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn, rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.
- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu ?
- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè xem xong lại có người thiệt mạng.
- Cậu có tin ở số phận hay không ?
- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu ? Chính đạn tự chọn đích mà bay đến. ? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian ?
- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.
- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.
- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy ?
- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt tôi.
Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt nhìn bốn xung quanh. An bảo :
- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.
- Vâng.
Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng :
- Anh biết không , tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy. Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.
- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi biết thôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.
Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở dài :
- Tôi nhớ nhà quá ...
An lặng im, chờ đợi.
Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp :
- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.
- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh :
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.
- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.
- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ xong rồi.
- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không ?
- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.
Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi :
- Bao giờ chiến tranh kết thúc ?
An hỏi lại :
- Bao giờ ?
Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi :
- Anh có nhớ thằng Toàn híp không ?
- Sao không ? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương nó mục chưa nhỉ ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì ? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt, sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe. Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.
An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người đồng đội, anh nói :
- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.
Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc :
― Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp sống.„
Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại, lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ, thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi :
- Họ làm gì bên kia thế ?
Đại đội phó xì mũi và đáp :
- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.
- Sao chúng nó không ra suối ? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước suối giờ này đã ấm lên rồi.
- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối ? Sáng nay lính đổ ra đông nghịt để ngó nghiêng.
- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu ?
- Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác . Bởi khi dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu thai trở lại kiếp người.
- À, ra thế.
An đáp.
Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh :
« Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.
Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ thù chung cần đổi mạng.
Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn.
Anh đứng lên, nói :
- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không ?
Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng :
- Tôi ?...Tôi vừa tắm chiều qua.
An cười bảo :
- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình thường của lính ? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.
- Vâng.
- Đi theo tôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó, An cất cao giọng hỏi :
- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam ?
- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.
- Chờ đấy.
An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá :
― Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này.
Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với chính số mệnh cay nghiệt của mình.
* * *
Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:
― Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa ? Tổ chức cách mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy.
An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài không tắt.
Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng :
- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn Thành nữa mà là Chí văn Thành.
- Tại sao ?
Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi .
- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo. Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.
- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân công đóng trước doanh trại chúng ta ?
- Vâng. Chính xác như vậy.
- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ ? Không dưng, ai làm như vậy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận con cháu không được quyền vặn hỏi.
Anh tủm tỉm cười đáp lại.
Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp :
- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo địa phương. 



Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (4)
Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông thay vào đó chữ Chí. Thế là xong. Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có nhu cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi anh lại là người dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì. Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào cũng biết nguyên tắc này : Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu số được quyền hưởng sự ưu đãi.
― Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu!
Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng chiến cùng với cái tên Chí văn Thành. Dường như cái tên mới này cũng đem lại nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai hiểu nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng cái may lớn nhất là qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy biết nàng đã rời bản Xíu về sống ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh về nàng thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một đứa con ? Anh cũng không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em nhỏ. Ông Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi mới quay về bản cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy, chẳng người đàn ông nào còn có thể bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng cưa chiếm gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa được ngăn thành ba gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa. Trước cửa buồng của đứa bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa cho nó bú. Hoạ hoằn, cả hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ...Thật kì lạ, tiếng chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được. Tiếng chuông giống một thứ âm nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc, giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến se bằng sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh cũng còn nhớ như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao cho nhừ nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để lấy nước rồi cho vào bình. Anh cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc, rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò, chỉ thuần trâu. Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ, anh một bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi. Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu. Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên, anh cưới Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà chẳng ai thắc mắc chuyện họ không có con...Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng thời ấy chuyện hiếm muộn con không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng Nhỏ sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba cảm thấy đầy đủ nên Nàng Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô sinh như láng giềng khuyên.
Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm chặt lấy anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà nội. Còn anh ? Số phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây số, đạp xe không quá một giờ. Đối với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.
Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy ? Tuy phía trên là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chỉ là một gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là hoàng hậu. Liệu có bà hoàng hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân ? Hay vì chúng ta là dân Tày ? Một bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc chính thống ?
Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong điều gì hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong ngôi nhà sàn rộng rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở của những người ở đô thành...
Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ :
- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không ?
- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị như những người bình thường.
- Vậy là em hài lòng, đúng không ?...
- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.
- Chủ tịch có yêu em không ?
- Có chứ.
Nàng Nhỏ kêu to :
- Chủ tịch rất yêu em....
Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng :
- Chủ tịch là người chồng rất tốt.
Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi :
- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc thật sự hay không ?
- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc. Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là bạn gối chăn đắc lực.
- Sao em biết ?
- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.
- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.
Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá lẫn các bậc lương đống triều đình để quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân người Kinh được ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ, cho dù họ mắt híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt con hầu.
Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn tình. Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu. Họ không còn phải ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người đều thấy tâm hồn phơi phới như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ thật sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề mãn nguyện.
An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật. Sau bữa cơm chiều, phải tính cho đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định là chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào dinh nhưng thi thoảng và thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên cho đứa con gái. Một cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức : Nghĩa.
Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình :
- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng ngắc như vậy ? Trung đội của tôi có đến ba cậu tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa; Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa ...
- Ồ, xin anh đừng giận.
Nàng Nhỏ tươi cười can gián :
- Con của chủ tịch mà.
Và vợ anh cũng tiếp lời :
- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.
An im lặng.
Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính anh tìm :
- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.
- Ba ...ba...
Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.
Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn đường chạy qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm nhìn một toà thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn ông sống trong đó, phía sau những hàng rào đầy lính canh, sau những bức tường và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng gặp mặt, chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi cuộc bàn cãi, trò chuyện, mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh, vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng là con người đích thực:
― Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ ? Dầu ông là người có quyền lực cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải rót rượu cho tôi trước.
Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày.
***
Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai. Trước hết, Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm được. Sau đó, nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng xóm đã bảo :
- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc ...Trẻ bú sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi. Tại sao chẳng ai biết chuyện này ?
- Ồ....Chẳng ai biết thật.
Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan, chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình thun thút. Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn hơi mẹ đẻ. Người ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra ban công ngong ngóng chờ dượng Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn. Nhiều khi nó giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe đạp Vĩnh Cửu đen xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ, gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì tưởng như đang còn ở bản Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi cũng cười nụ cười im lặng và rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc sống êm đềm của họ tiếp diễn cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh vừa bước chân vào nhà, Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin :
- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.
- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.
Anh đáp.
Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo :
- Anh nói thật tức cười.
- Sao ? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức cười ?
- Không sai trái cũng không lầm lẫn.
Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:
- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa con trai là vô cùng quan trọng với người làm cha.
- À...Anh hiểu.
Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông :
- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.
- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không ?
- Không....Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ là việc của em. 


Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (5)
An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu hỏi câm lặng. Một bài toán không có lời giải đáp...Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác đã chỉ dẫn những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi người...Ngày hôm sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng lại trước phủ chủ tịch xem...mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng rồi nói :
- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi khác mà chơi.
- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí ? Chỉ do trẻ nó đòi thôi.
Lúc ấy, chính đứa bé cất lời :
- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...
Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã trở nên âm u. Anh nhìn vào toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa :
« Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn vào với đôi mắt thèm khát ? Có ích gì cuộc tình éo le này ? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị vua già, nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu thiếu cảnh ấm êm ? Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một gian ? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng ở đây cuộc sống tiện lợi và văn minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai lầm ?»
Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan phụ trách nhóm lính. Anh ta buông từng lời một cách khô khan :
- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa trẻ đi nơi khác.
Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu :
- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà rồi mua cho con quả bóng. Con nghe rõ chưa ?
Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng , hẳn anh chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách bực tức. Trong thâm tâm, An biết rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi hành một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao, con tim anh cũng không ghìm được cơn phẫn nộ :
« Này ông ? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây - Anh thầm nói với người anh em đồng hao chưa từng gặp mặt - Liệu ông có mường tượng ra cảnh này ? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà không có quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi nhà cha nó đang là chủ nhân ? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm, ngài chủ tịch ? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để hiểu sự tình. Nhưng mai đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ vô tâm buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình ? Cái dinh thự nguy nga kia liệu không có nổi một gian phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ của chúng tôi ăn ở chen chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân ? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên nàng buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình ? Cái triều đình thường ban bố các loại chiếu chỉ : Ưu đãi người thiểu số ! »
Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không nhận ra rằng anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình ảnh những dinh thự nguy nga, vườn bên phải ,vườn bên trái, sân trước sân sau của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh lại tiếp tục đạp theo đường Phan đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ nhân của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong tâm hồn anh.
« Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp. »
Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo nghễ. Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà không có cách nào thoát ra được. Anh thương con bé Mùi ? Anh thương Nàng Nhỏ ? Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc cờ số phận ? Mãi đến bữa cơm tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.
Nàng Đông bảo :
- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không còn phải mang cơm vào viện.
- Sức khoẻ của nó có tốt không ?
- Của ai ? Nàng Nhỏ hay thằng bé ?
- Nàng Nhỏ.
Vợ anh cười :
- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.
Anh bật cười theo :
- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành làm ngược lại. Em không thích như thế hay sao ?
- Em thích.
Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu thơ dại kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng cạn. Anh lại là người phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn sách ở huyện đã đem lại cho anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần, vợ anh nói :
- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.
Và anh đáp lại rằng :
- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ sẵn.
Nàng Đông vặn hỏi :
- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày ?
Anh bảo :
- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ anh. Số kiếp đã định như thế.
- Chao ôi !...
Vợ anh kêu lên :
- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.
Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ, anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa con trai của Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay cả những khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được từ ông thầy dạy sử, người anh chịu ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở huyện Thất Khê.
« Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn ; bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát, ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống. »
Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian không chạm được đến họ, ngược lại , năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí hơn. Đã nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như nhìn những nữ thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa ban ngày cũng không thể tìm được một thứ nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh ; nơi không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ pha-lê vào những ngày tạnh sương mù hay mưa núi ; nơi những rừng hoa mận nở trắng xoá lúc sang xuân ; nơi những thác hoa kim ngân tuôn chảy triền miên dọc theo các dòng suối mùa hè ; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn ; nơi quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt phấn hoa ; nơi khe, suối trong veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc thang...Những mỹ nhân của bản Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại gia cầm gia súc đất nhà. Da họ mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê, cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng cần son môi họ cũng đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn biết bao lạc thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ, dân bản sống theo kiểu người cùng một đại gia đình, không có chuyện tranh cướp tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc vô số những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như thế, anh cũng hiểu vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào đứng vững nổi trước những người đàn bà mà cùng một lần, nhan sắc của họ giống như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn một tổ ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não cũng như tâm cơ. Dù Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ thành trì đó, cần có trí thông minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh ?Hoặc là ỷ thế làm vua, thay vì trân trọng một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị ?
Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh không muốn làm phiền muộn hai người đàn bà, những người anh yêu quý hơn chính bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc chuyện trò rối rít niềm vui và hy vọng của họ :
- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ ?
- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới đón em lúc chín giờ.
- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa ?
- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản thôi : Vì đã có đủ con trai lẫn con gái, chúng ta cần được chính thức hoá trước pháp luật.
- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú lúc tám giờ.
Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan cuộc, hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây thành phố. Con bé nằm lăn ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng của Nàng Nhỏ với người cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc nàng đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên không để tâm đến sự im lặng bất thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm đến ngoại cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó. Nhưng ngoài mọi lý lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua nặng nề. Dù ở trong lớp huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang sống trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong mây. Vì sao ? Anh không hiểu. Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về lại thị trấn Thất Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng đứng giữa bầy vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh thường đến ngồi đóng gói chè giúp đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính sử , của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt truyện đến thuộc làu làu. Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào đó giăng mắc xung quanh như tấm lưới nhện khổng lồ.
Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá. Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng chỗ tẹt như khúc dồi lợn luộc vụng :
- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải thay săm mới thôi.
- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được phân phối săm lốp.
- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào nữa, bảo đảm là như vậy.
Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh mượn xe với điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ một hồi, An kéo được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới muộn. Anh thầm nghĩ rồi dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở trong sân, anh nhận ra con bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm. Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn bồng con bé lên nhà, nhưng bà già hàng xóm đã bảo :
- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như vậy...
Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp :
« Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi vào giờ này ?.. »
Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười :
- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải không ? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm. Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ săm.
- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao ?
Vợ anh hỏi.
- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay, các em cho anh ăn món gì vậy ?
An chuyển chủ đề.
Nàng Đông tiếp lời anh :
- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép của người Kinh.
- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.
- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê quê mình vì họ cho thêm vào nước dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí mật nhà nghề. Nếu anh muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra công thức.
- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có tiếng.
Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh biết rằng không thể nào tiếp tục vờ vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại những mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là người trước tiên đề cập đến sự thật :
- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.
Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng :
- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến của chủ tịch không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.
- Vì lý do gì ?
- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc thôi. Vì....Vì....đấy là nghị quyết của bộ chính trị.
- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ ? Hay chính chủ tịch muốn tuân phục họ ?
Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn muốn đi đến tận cùng sự việc . Anh hỏi Nàng Nhỏ :
- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó ?
- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.
- Ông ấy giải thích ra sao ?
- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp này tất cả bộ chính trị đều quyết định như vậy.
- Ông ấy còn nói gì nữa ?
- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt thòi....rằng chúng ta phải kiên trì sống trong bóng tối một thời gian nữa chờ thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.
- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao ?
- Em không nhớ. vì em cúi xuống lau nước mắt.
- Ông ấy cười hay ông ấy khóc ?
- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng : Họ thật thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta.
- Chúng ta ở đây bao gồm những ai ?
Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả lời mình :
- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói một cách thông thường bốn nhân mạng trong một gia đình. Nếu là một gia đình bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.
Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong trí não anh :
― Nhưng rủi ro thay còn một thứ ― chúng ta khác. Chúng ta này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ anh và em, ba nhân mạng liên quan tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên quan này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ trêu là mọi quyết định liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta.
Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết làm gì bây giờ ? Anh biết làm gì để cứu vãn tình thế, để che chắn những người thân yêu của mình trước cơn gió dữ ? Anh, người đàn ông duy nhất trong cái gia đình bé nhỏ này ? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây ? An cảm thấy nghẹt thở, anh vùng đứng dậy đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất tiếng :
- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị. Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý phi. Nhất là khi vua già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng mê đắm Dương quý phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu sống xa hoa trên lụa là châu báu. Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng. Lâu đài của Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc. Đến chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn cung phi Đặng thị Huệ ở xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao che cho đứa em trai hung tàn bạo ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của lương dân ở đấy. Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn giữa đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê...Kẻ nào trái ý chém chết ngay tức khắc. Sự hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ. Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một võ quan đã chém chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả ba trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược. Chúng ta sống nơi đây như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương y triều đình cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi đứa trẻ con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng có một chút lợi quyền nào. Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với chúng ta như vậy ?
Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh, trừ phi có một ông Trời và một khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ cúng luôn luôn chỉ là những làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện gần gũi nhất mà anh có thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?
- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay không ?...
An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà :
- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống của em, và cuộc sống của những đứa con em.
- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.
- Khi những đứa trẻ lớn lên ?...
Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:
― Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống một cách chính thức với thiên hạ hay sao ? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta ! Chua chát thay cho thân phận những đứa con của một vị vua già ! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay không cũng liên đới với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt. „
Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén :
- Này em, em có thật sự yêu ông ta không ?
Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác :
- Anh hỏi gì ?
- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta chỉ vì ông ta là chủ tịch nước ?
- Em yêu chủ tịch....Em yêu...
Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn. Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi :
- Anh làm sao vậy ? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải không ?
- Ồ không.
An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em anh có một số phận khác. Nhưng sợi dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già mà nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng tốt, dù chỉ làm chồng trong những khoảnh khắc bị cắt rời.
― Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái ? „
Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi; rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông trẻ trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử chỉ âu yếm đường mật mà người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây. Cái sức mạnh đó không giống sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó vô hình vô dạng nhưng anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở trên các triền núi. Cái sức mạnh ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối ấm áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang bập bùng ánh lửa và chen chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn, những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn bánh trái và hoa quả. Thím anh rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản, già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh một sân khấu mà diễn viên duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền thoại của người miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy trường huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng khắp vùng, người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản xuất từ ngôi nhà sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm...Chính với tiền bán những lạng cao ấy ông đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo Trương Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả trận Bạch Đằng với tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông viết thạo.Và sự thần phục ấy lia sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu học sinh trung cấp và chân trời xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh, An hiểu rằng những gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con người lão luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.
― Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng ấy ? Đấy là sự rồ dại. „
An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác dội lại như đáp lời :
― Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao ông vẫn bước chân vào gia đình này sau tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là những người chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua già .
Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa. Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm được triệu hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến tận non trưa. Khi tỉnh giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện lên rõ nét. Chẳng một cảm giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô cảm. Anh chìm đắm trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ làn thức ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của mình. An gục mặt vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của tình yêu khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh bật khóc. Khóc nức nở như một người đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo. Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.

 
Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (6)
Thứ bẩy tuần sau đó, An sẽ không còn thời gian để khóc.
Khi anh đạp xe tới nơi, ba người lính mặc thường phục nhìn anh với những con mắt âm u như mắt loài quỷ dơi chuyên sống trong các hang sâu, trước hết, cái nhìn của Nông Tài, gã người Tày duy nhất trong nhóm cận vệ. Dường như trong cái nhìn của gã, ẩn chứa một tiếng thét hãi hùng câm lặng, một hồi còi báo động, một nỗi sợ hãi bị bóp nghẹn. An đưa mắt nhìn lại Nông Tài, gật đầu chào rồi tiến vào hành lang. Những cái nhìn tối tăm của đám cận vệ đuổi theo anh, như rót xuống lưng anh một thứ chì nung lỏng. Nhưng con tim anh không còn đập dập dồn như lần trước. Một tuần lễ đủ cho anh suy ngẫm và dự phóng mọi tai ương có thể xảy đến với gia đình mình. Kho tàng lịch sử tàng trữ trong trí nhớ giúp anh chuẩn bị. Khi bước vào nhà, An khép chặt hai cánh cửa sau lưng và không ngạc nhiên khi thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc. Họ chỉ có thể khóc thôi, họ còn biết làm gì hơn vào lúc này?... Nhưng tiếng khóc của họ không còn dừng ở mức độ phiền não mà là tiếng khóc của sự kinh sợ và căm uất. Không còn là sự buồn thương cho số phận mà tiếng than ai oán của kẻ bị dày xéo, bị hà hiếp, sống trong cơn kinh hãi trước cái chết đang từ từ tiến đến như một cỗ xe tăng sẽ nghiền nát họ nay mai. An bước tới, không chờ những người đàn bà lên tiếng đã nhìn thấy ngay gương mặt sưng tím vết đòn của Nàng Nhỏ. Anh ngồi xuống, cầm lấy hai cánh tay nàng, vén áo lên để xem những vết cào xước, những vết máu tụ xanh và dấu vết các lằn trói chưa đủ thời gian tẩy xoá.
- Kẻ nào đã dùng nhục hình với em ?
- Quốc Tuỳ.
- Bộ trưởng bộ nội vụ. Cái thằng cha đã đón đường em hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc ?
Nàng Nhỏ gật đầu.
An quay sang hỏi vợ :
- Lúc ấy em ở đâu ?
- Em ở dưới sân với lũ nhỏ và bà già hàng xóm...Vừa bước chân vào nhà là ông ta đã đuổi em xuống sân. Em không thể chống lại vì ông ta rút súng ra doạ nếu kêu to ông ta sẽ bắn vỡ sọ.
- Em có kêu , tiếng kêu ấy cũng chỉ có bà già hàng xóm và ba cậu lính gác nghe thấy mà thôi. Không phải vô cớ mà chúng nó bố trí cho các em ở ngôi nhà này. Thằng khốn nạn ấy đến đây hôm nào ?
- Nó đến đây liên tục từ thứ hai cho đến hôm nay, thứ bảy. Lần nào cũng vào khoảng ba giờ chiều. Lần nào cũng bắt lính gác lui ra ngoài phố, chặn đứng ngoài hành lang không cho ai bước chân vào. Lần nào nó cũng đánh và trói em của chúng ta.
Tới đó, vợ anh bật gào lên :
- Tủi nhục quá anh ơi.
An nhếch mép mỉm cười. Nụ cười đối diện với số phận. Anh không có quyền khóc nữa. Chắc là vì dự cảm mà tuần lễ trước con tim anh đã tan ra trong những dòng nước mắt. Anh phải khóc một lần cho cả kiếp sống của anh. Cầm hai cánh tay nõn nà của Nàng Nhỏ, anh hỏi :
- Nó đã nói những gì với em, thằng chó đểu người Kinh này ?
- Nó bảo rằng nó đã để mắt đến em từ hồi trên chiến khu, khi gặp em lội qua suối. Rằng nếu em khôn ngoan thì phải bằng lòng làm vợ nó từ ngày ấy. Rằng nó đã thề rằng trước sau nó cũng phải chiếm được em.
- Rồi sao ?
- Rồi em nói rằng tôi là vợ chủ tịch. Chúng tôi đã có đủ mặt con trai con gái, ông không được hà hiếp tôi. Nó nhe răng cười nói rằng lão già của mày ở xa lắm, mày kêu lão ấy cũng không nghe thấy, mày gọi lão ấy cũng không thể trả lời. Ở đây tao là vua. Tao muốn ai người ấy phải chịu . Tao muốn giết ai kẻ đó phải chết. Giờ đây tao muốn mày nằm dưới bụng tao. Bởi đó là nghị quyết của bộ chính trị. Bộ chính trị đã quyết định mày phải là vợ tao. Hãy khôn ngoan lên một chút, tao trẻ hơn lão già của mày nhiều. Nếu cái dùi cui của nó bằng gỗ thì của tao bằng thép. Nếu nó đưa mày lên tầng trời thứ ba tao sẽ đưa mày lên tầng trời thứ chín. Nếu nó cho mày hai đứa con, tao sẽ cho mày mười hai đứa liền tù tì. Khôn ngoan thì câm họng lại và dạng chân ra.
Người đàn bà kể đến đâu, nước mắt nàng tuôn rơi đến đấy.
An nghe những viên sắt nung đỏ lăn trong tim mình. Một đoạn sử quay trở lại văng vẳng bên tai anh :
« ...Nhà Chúa hèn nên Đặng Phi thông dâm với Ngự đầu quân, nương dựa vào viên võ quan này để che chở cho đứa em trai ngạo ngược và dâm đãng là Đặng mậu Lân. »
Anh nghĩ :
« Em ta không tự ý ngủ với Ngự đầu quân mà bị nó hãm hiếp sỉ nhục và tra tấn.Vậy ông vua già này còn mười lần hèn hơn Chúa Trịnh ngày xưa. Cơ đồ không còn cứu vãn được. Nếu ta không cao chạy xa bay toàn bộ gia đình ta sẽ biến thành những con ma không đầu lang thang muôn kiếp trong bóng tối. Nỗi oan khiên đau đớn của em ta sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong câm lặng. Và lãng quên. Một kiếp hồng nhan dạt qua cõi đời như xác vờ bập bềnh trên sóng nước. Em ta chẳng có tội tình gì. Từ nhỏ tới lớn nó chưa nỡ nói một lời phạm tổn đến ai. Tâm hồn nó trẻ thơ và trong trắng. Lòng tốt của nó đong đầy gấp ba lần đấu của những người xung quanh. Ta phải tồn tại để cứu gỡ danh dự bị tổn thương của nó. Ta phải sống để làm nhân chứng cho tội ác ghê tởm này. »
Ông thầy huyện Thất Khê đã dậy anh rằng nghề viết sử là nghề của những bậc anh hùng, dám đem mạng mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi thứ vua chúa đều kinh sợ sự thật và muốn những người viết sử phải uốn ngọn bút lông theo ý mình. Biết bao nhiêu cái đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ triều đình, nhưng lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của họ.
« Vậy ta buộc phải trở thành người viết sử. Không phải người viết sử quốc gia nhưng là kẻ chép lại cuộc đời những người thân thiết của riêng ta. »
Anh ôm chặt cả hai người đàn bà một lúc, nhìn họ một lần cuối như để vĩnh viễn ghi khắc những hình ảnh đó trong con tim lẫn óc não mình. Rồi, anh hỏi vợ :
- Em còn mấy chiếc nhẫn ?
- Em còn đủ năm chiếc.
- Em hãy giữ lấy chiếc nhỏ nhất mà anh đánh cho em hồi mình cưới nhau. Còn lại, đưa cả cho anh. Tiền mặt, chắc không có nhiều, nhưng cũng phải cho anh một món để tiêu dọc đường.
- Không, nhà mình còn khá nhiều tiền mặt tích trữ từ năm ngoái. Để em đưa cả cho anh.
- Bao nhiêu ?
- Khoảng chừng năm mươi vạn.
- Anh chỉ cần một nửa thôi. Em giữ một nửa để đi chợ.
Vợ anh vào buồng. Anh nhìn theo tấm lưng thon thả của nàng và nghĩ :
« Em sẽ chẳng còn dịp đi chợ, chẳng còn dịp nấu phở chua theo kiểu Lạng Sơn, người vợ yêu dấu của anh. Cuộc sống của chúng ta bị cắt ngang như thân cây lúa ngày mùa. Chao ôi, cái ngày Nàng Nhỏ được tiến vua chính là ngày tai hoạ cho gia đình chúng ta lẫn dân bản Xíu. Và cái việc đổi họ Nông sang họ Chí chính là việc ngu xuẩn nhất trên trần gian.»
Nàng Đông quay ra với xấp tiền giấy trên tay. Tay kia, nàng cầm một chiếc túi nhỏ như cái mề gà. Đặt xấp tiền lên bàn, nàng mở túi rút ra một sợi dây dài xâu bốn chiếc nhẫn, loại nhẫn gộc không mặt đá cũng không trang trí mà những người buôn bán đường xa thường mang theo :
- Anh phải cất vàng vào túi quần đùi ; cái túi em máy thêm phía trong cạp.
- Anh hiểu rồi.
- Tiền giấy anh chia ra thành nhiều món xếp trong cả túi quần lẫn túi áo, lỡ mất món nọ còn có món kia.
- Anh hiểu.
- Còn lọ dầu xoa chống cảm lẫn thuốc chống đau bụng viên, anh cũng phải cầm theo. Ngoài ra còn đèn pin, bật lửa, dao đi rừng, túi thuốc lá, cao chống rắn độc. Đủ hết chưa ?
- Có đủ trong túi dết.
- Để em xem lại cái túi dết của anh.
- Không thiếu gì hết.
An đáp và thầm nghĩ :
« Có cái thiếu trầm trọng nhất là thiếu em, và Nàng Nhỏ của chúng ta. Bởi anh không thể đưa các em cùng đi trong cuộc hành trình khốn khổ này. Nhưng chúng ta sẽ gặp nhau ở cõi khác, vùng đất khác, nơi hẹn hò chung cuộc của tất thảy chúng sinh. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những người yêu dấu của anh. Nhưng trước khi gặp các em, anh phải làm chuyện này cho ra lẽ. »
Lần cuối cùng, anh cúi xuống, ghì xiết hai người đàn bà, ngửi mùi thơm thân thiết từ những mái tóc óng mượt của họ, chà sát mặt anh vào những gương mặt nõn nà ấy, rồi anh đứng lên :
- Các em đừng bước ra cửa. Đừng đi theo anh. Hôn hai đứa bé cho anh.
- Anh !...
Cả hai người bật kêu lên. An hạ giọng :
- Đừng khóc. Hãy coi mọi sự như chưa từng xảy ra, chưa hề xảy ra. Chúng ta không có cách nào hơn...
*
Anh bước xuống cầu thang, không ngoảnh lại một lần nào nữa.
Trong hành lang, An gọi Nông Tài :
- Cậu có sẵn tiền trong túi không ? Cho tôi mượn một vạn ? Tôi đang định mua mấy món đồ gửi người mang về quê, nhưng chưa chuẩn bị đủ tiền.
Nông Tài đưa mắt nhìn anh :
- Bao giờ trả ?...
- Tuần sau. À, quên...Hai tuần nữa mới tới kì lương. Đến kì lương tôi sẽ trả ngay, không chậm một ngày.
- Trong túi tôi chỉ còn đủ tiền mua vài chiếc bánh rán. Tôi cất tiền ở doanh trại.
- Sắp đến giờ đổi gác rồi còn gì ? Nói với các đồng chí thông cảm cho về sớm một giờ được không ?
- Được thôi. Chờ tôi hỏi đã.
Hành lang không quá dài để cuộc trao đổi của họ có thể lọt vào tai hai người cận vệ kia. An hiểu rằng màn kịch chắc chắn sẽ thành công bởi thông thường, người miền núi vốn không biết nói dối. Chừng ba phút sau đã thấy Nông Tài quay lại :
- Đi thôi, hai đồng chí đều đồng ý cho tôi về trước. Chúng ta đến chỗ tôi gửi xe đạp rồi cùng đạp về doanh trại.
- Đồng ý.
Họ cùng đi ra..
Khi Nông Tài lấy được xe đạp, hai người lặng lẽ đạp xe qua ba con phố. Hoàn toàn tin tưởng rằng không ai rõi theo họ, An dừng lại :
- Tạt vào hè đã.
Nông Tài hiểu ý anh tức khắc, xuống xe. Hai người lên vỉa hè, đứng dưới bóng một cây xà cừ. An hỏi :
- Hai cậu kia có biết rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ phải chết không ?
- Không ai dám nói với ai nhưng cả ba chúng tôi đều ngầm hiểu như vậy. Chúng tôi gác ca chiều. Sự việc xảy ra toàn vào buổi chiều nên chỉ ba chúng tôi chứng kiến. Tốp kia đổi ca từ mười hai giờ đêm đến trưa hôm sau, họ không hay biết gì.
- Vậy sao các cậu không bàn nhau trốn đi ? Trốn đi đâu bây giờ ? Sáng nào cũng điểm quân trước giờ tập thể dục, chiều nào cũng điểm quân trước lúc lên giường ngủ...Vả chăng, nếu muốn trốn họ cũng không bàn với tôi vì tôi là người Tày. Còn tôi, tôi cũng không thể bàn với họ, vì họ là dân Kinh. Bộ trưởng Quốc Tuỳ là người Kinh như họ. Còn Nàng Xuân là người Tày như tôi.
- Liệu họ có ngờ rằng tôi rủ cậu đi trốn không ?
- Không.
- Vì sao ?
- Vì họ cho rằng chúng ta là dân miền núi, những kẻ cả tin và ngu ngốc không dám hành động liều lĩnh như vậy.
- Tốt. Vì chúng ta là những kẻ ngu ngốc nên có thể chúng ta sẽ thoát chết...Còn họ vì là dân đồng bằng khôn ngoan nên họ sẽ cầm chắc cái chết trong tay. Giờ, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải ra ga thôi. Hy vọng rằng chúng ta sẽ không lỡ tàu với tấm chứng minh thư công an nhân dân của cậu...
- Nhưng ...còn quần áo với tiền và đồ đạc của tôi ở doanh trại ?
- Cậu có điên không ? Cởi truồng mà sống còn hơn chết đắp ba bộ quân phục trong hòm. Đi thôi.
Họ đạp thẳng ra sân ga Hàng Cỏ. Ở đấy, hai người gửi xe vào bãi rồi mua vé tầu xuôi Vinh. Đúng như An dự đoán, tấm thẻ công an của Nông Tài được việc. Họ được ưu tiên mua vé tức khắc với lý do « làm nhiệm vụ đặc biệt ». Vừa kịp bước lên toa tầu nhận chỗ, tàu đã hú còi rời ga. An đặt chiếc túi dết ra sau lưng rồi ngồi xuống, đưa mắt nhìn phố phường lướt bên ngoài ô cửa :
« Vĩnh biệt mày, thành phố thù nghịch của tao. Cái thành phố tao từng mơ tưởng bao tháng ngày khi còn ở chiến khu Việt bắc, cái thành phố tao ngỡ là thiên đường nhưng giờ đây lại hoá thành địa ngục. Chính nơi đây sẽ là hầm mộ tăm tối chôn vùi vĩnh viễn những người thân thiết của tao. Vĩnh biệt con quái vật khổng lồ, ghê tởm.»
An nghĩ, khi anh đưa mắt nhìn Hà nội. Lần cuối cùng, chắc chắn sẽ là lần cuối cùng anh còn thấy nó.
- Anh Thành.
Nông Tài chưa kịp ngồi yên chỗ đã chồm qua mặt bàn, ghé tai anh thì thầm hỏi:
- Anh Thành, tôi nghĩ rằng.
- Cậu nghĩ gì ?
- Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại đi về phương nam ? Tiến sâu vào đồng bằng miền Trung, ta sẽ giống con chồn sa xuống ruộng nước; như con cá lăng bị hất lên đồi. Tại sao chúng ta không quay về Thất khê ? Ở đó, chúng ta thuộc đường chính cũng như đường tắt, chúng ta biết suối biết rừng. Trốn ở đâu ta cũng có thể đào cây đào củ hay bẫy thú cầm hơi.
- Đồ ngốc, Thất khê sẽ là nơi đầu tiên họ truy tìm. Chúng ta không thể chui lủi trong rừng mãn kiếp. Vả chăng, có thoát được lưới quây vượt sang biên giới cũng sa vào tay lính Tàu. Bọn này sẽ tức khắc dẫn độ chúng ta trả cho cho nhà nước Việt nam.
- Nhưng ở miền Trung, nơi xa lạ ?
- Chỉ có ở nơi xa lạ mới hòng thoát thân. Từ Vinh lên biên giới Việt-Lào ngắn hơn nhiều lần từ huyện nhà lên biên giới phía bắc.
- Sao anh biết được ?
- Tôi phải biết để có thể thoát thân...Bằng mọi giá tôi phải học để hiểu những điều cần thiết trước khi cất bước.
- Nhưng bên kia biên giới là đất của người Lào. Anh đã biết họ hay chưa ?
- Người Lào và người Tầu giống như con nai với con báo, chẳng thể so sánh với nhau.
Cuộc đối thoại thầm thì của họ chìm trong tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray. Rồi An bảo :
- Ngủ đi.
- Tôi chưa đến giấc. Vả lại bụng đói khó ngủ.
- Đúng. Không ai ngủ được khi đói bụng. Giờ cậu xuống căng-tin mua bánh mì. Ăn xong chúng ta sẽ uống thật no nước. No bụng, dễ ngủ. Bằng mọi giá phải ngủ để lấy sức cho ngày mai.
Nông Tài đứng dậy đi xuống căng-tin ở toa cuối cùng đoàn tầu mua về hai ổ bánh mì to tướng rắc muối tiêu và hai bi-đông nước. Hai người lặng lẽ ăn, lặng lẽ uống nước rồi khoanh tay trước bụng, ngủ ngồi. Con tầu dồi lắc cái đầu của họ như đùa rỡn một quả bóng. Nhưng dẫu sao, sau một hồi chập chờn họ cũng ngủ được một giấc thật sâu cho đến khi tiếng loa phóng thanh oang oang báo tin:
- Tàu đã đến sân ga Vinh.. Xin đồng bào kiểm tra lại hành lý.
An mở choàng mắt. Tàu chạy chầm chậm trước khi dừng lại hẳn. Ánh đèn lờ mờ đỏ quạch rọi trên đầu một đám đông nhốn nháo, đang chen nhau tìm kiếm hành lý trên các giá chứa đồ. Hai người ngồi im bởi họ chỉ có vẻn vẹn chiếc túi dết một quai trong đó chứa tất cả những vật dụng cần thiết cho một cuộc chạy trốn. Họ xuống sân ga khi trời mù sương. Mới bốn giờ sáng. Những cỗ xe ngựa sắp hàng dài ngoài cửa sân ga còn các chủ xe ngồi uống trà hoặc rượu xuông trong dãy quán bán đồ ăn dọc phố. Ở đây, chính khách phải đi tìm chủ xe để thương lượng giá cả. Người đi lại đông, xe ngựa không đủ chuyên chở. Còn chờ xe ca của nhà nước thì phải xếp hàng ít nhất mười tiếng mới có thể mua được một tấm vé. An bảo :
- Chúng ta phải nhanh chân lên.
Anh dẫn Nông Tài dạo một lượt đoạn nhìn vào một ông chủ xe dáng điệu ngang tàng với hàng râu ghi-đông vểnh :
- Chào bác. Chúng tôi có nhiệm vụ đặc biệt trên biên giới. Liệu bác có thể giúp hai anh em tôi được chăng ?
- Các anh là ai chứ ?
- Chúng tôi là công an nhân dân và sĩ quan quân đội. Đây là chứng minh thư của hai anh em tôi.
- Công an nhân dân cũng như sĩ quan quân đội được ưu tiên đi xe nhà nước. Ba ngày một lượt có chuyến xe lên cửa khẩu. Các đồng chí thuê quán trọ rồi báo công an địa phương sắp xếp. Sáng ngày kia khắc có chuyến.
- Nhiệm vụ của chúng tôi khẩn cấp. Chúng tôi không thể chờ được.
- Nhưng các đồng chí cũng không thể thuê xe ngựa của chúng tôi . Ngựa chạy đường núi giá đắt lắm. Ở đây thông thường chúng tôi chỉ chở khách về các thị trấn quanh Vinh mà thôi.
- Đắt mấy chúng tôi cũng chịu. Rồi cơ quan sẽ thanh toán lại.
Chủ xe đưa mắt nhìn họ ngờ vực :
- Một chuyến xe này thông thường chở tám khách.
An cướp lời :
- Chúng tôi trả đủ tám xuất vé và thêm cả tiền hành lý của tám người. Hy vọng bác ưng thuận.
- Được rồi.... Để tôi xem.
Ông râu vểnh ậm ừ.
An nói tiếp :
- Và chúng tôi trả thêm tiền bồi dưỡng ngựa chạy đường xấu. Nếu cần đổi ngựa dọc đường chúng tôi cũng sẵn sàng bao. Miễn sao tranh thủ được thời gian để hoàn thành trách nhiệm vụ đã được giao phó.
- Được.
Tới đó, người chủ xe đứng lên, với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ. Ông ta rút trong túi ra vài đồng xu lẻ trả cô bán nước chè rồi dẫn hai người ra xe. An rút tiền trong túi ra đếm rồi tức khắc đưa hai phần ba tổng số tiền sẽ phải thanh toán cho chủ xe, đoạn nói thêm :
- Còn lại, tôi sẽ trả bác ngay khi nhìn thấy đồn biên phòng hiện lên trước tầm mắt.
- Đồng chí là người rất hào phóng.Vì thế trời đã đưa đường dẫn lối cho đồng chí đến gặp tôi. Nói một cách sòng phẳng, con ngựa của tôi là số một trong đám ngựa chạy xe ở thành phố này. Ngoài nó, chẳng có con nào dám ngược đường lên biên giới... Bởi tôi là người duy nhất cho ngựa ăn ngô trộn mật. Những người khác chỉ cho ngựa ăn cỏ quanh năm.
Ông ta dẫn giải với vẻ đầy kiêu hãnh. Rồi khi đã cẩn thận cho tiền vào túi áo, cẩn thận cài khuy nắp túi, ông ta thượng lên ghế xà-ích, ra roi. Cỗ xe quay chiều ngược đường lên phía tây.
Sau một lát lắng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp nện trên đường phố, An thò cổ ra quan sát :
- Vinh không lớn hơn thị trấn Thất Khê là bao. Nhưng kiểu nhà ở đây hơi khác. Vì sao đâu đâu cũng nhìn thấy những thùng tô-nô sơn đỏ thế kia ?
- Các đồng chí mới lần đầu đặt chân đến đây, đúng không ?
Người xà-ích quay lại hỏi.
Vâng. Quả tình như vậy.
An đáp. Người xà-ích giơ roi chỉ về những giải núi chập trùng nơi chân trời phía trước và nói :
- Phía tây là nơi gió Lào thổi tới. Xứ chúng tôi hứng gió Lào, thứ gió thổi đến đâu cây cối quắt queo tới đấy. Chẳng những cây cối ngoài vườn mà ngay đến đồ đạc như giường tủ bàn ghế hay các thứ vật dụng khác trong nhà cũng đều khô cong khô nỏ và biến thành thứ củi bắt lửa nhanh nhậy. Vì lẽ đó chống hoả hoạn là công việc của toàn dân. Những chiếc thùng tô-nô sơn đỏ kia do chính quyền phân phát cho các nhà để dự trữ nước. Ai lười biếng để thùng vơi nước sẽ bị láng giềng tố cáo và phải chịu cảnh cáo hoặc kỉ luật.
- Đội cứu hoả của thành phố ăn lương nhà nước để làm việc đó. Cớ sao buộc mọi nhà dân ?
- Đội cứu hoả ở đây biên chế nhiều gấp ba lần các thành phố khác. Nhưng cho dù có đông gấp hai mươi lần họ cũng chẳng thể chống nổi hoả hoạn trong cơn gió Lào. Gió Lào, còn gọi là gió lửa, chính nó gây nên các vụ cháy chứ chẳng cần thêm vào sự sơ xuất của con người.
- Vậy sao ! Thật đáng sợ.
An đáp, trong khi những ý nghĩ khác chạy thoăn thoắt trong óc não anh :
― Gió Lào! Hung hiểm thay. Vậy mà chúng ta đang tiến về hang ổ cái lò lửa đó. Chẳng có thứ thiên tai nào hung hiểm hơn thứ tai hoạ gây nên bởi con người. Chẳng có thiên nhiên nào tàn độc hơn thứ tàn độc của con người đối xử với nhau.
Đoạn, anh quay sang bảo Nông Tài :
- Nghe bác xà-ích nói gì chưa ? Từ hôm nay sẽ phải hành quân trong thứ gió Lào bỏng rát đó. Bây giờ ngủ đi mà lấy sức.
- Đường lắc như xóc đĩa, ngủ làm sao ?
- Vậy thì nhắm mắt lại.
Người lái xe quay lại góp lời :
- Đúng đấy, nhắm mắt được phút nào hay phút ấy. Chỉ lát nữa, mặt trời lên, mắt sẽ chói như bị kim đâm. Khách từ phía Bắc vào đây đều kêu trời thứ nắng bỏng của Nghệ An.
- Quê hương chủ tịch họ Chí !
- Đích xác là như vậy.
Ông chủ xe râu vểnh đáp và cất tiếng ngâm : « Đất nghèo sinh bậc anh hùng... »
- Bác ngâm thơ hay thật.
An gật gù tán thưởng khi thâm tâm anh cất tiếng cười khinh bỉ :
« Ồ, ông ta đúng là một bậc anh hùng. Nhưng ông ta cũng lại chính là kẻ hèn nhát nhất trên cõi đất này, một người chồng không bảo vệ nổi vợ, một người cha không che chở nổi những đứa con. »
Bên ngoài, nhà cửa đã thưa vắng. Ngoảnh lại nhìn, thành phố Vinh chỉ còn là một khối hỗn độn với dăm ba ống khói đang nhả lên trời thứ khói đen nhờ bẩn thỉu.
An hỏi người xà-ích :
- Liệu chúng ta có đến được biên giới trước lúc tối trời ?...
- Tuỳ. Tuỳ theo chân ngựa chạy. Tuỳ theo trời nắng hay mưa. Bởi mùa này khí hậu thất thường như trở bàn tay, có khi đang nắng đẹp trời xanh lồng lộng bỗng nhiên mưa giông gió giật ầm ầm kéo đến. Nha khí tượng chưa bao giờ dự đoán chính xác những cơn bão miền Trung. Nhưng nếu chúng ta gặp may, ngựa không giở chứng giữa đường, ta sẽ đến cửa đồn biên phòng khi mặt trời còn đứng cao hơn một con sào trên đỉnh núi.
- Tức là khoảng bốn giờ chiều ? Ý bác muốn nói vậy ?
- Tôi không hay xem giờ. Nghề đánh xe buộc chúng tôi suốt ngày đêm rong ruổi trên đường, sớm hay muộn cũng vậy. Nhưng tôi nhớ là thường thường, khi xe đến đây, mặt trời còn đứng cao hơn ngọn núi phía tây chừng một con sào.
- Sớm chút nào hay chút ấy. Qua biên giới, chúng tôi còn phải đi bộ một thôi đường khá xa.
- Ô....
Người chủ xe cất tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng không ra hứa hẹn. Rồi ông ta thủng thẳng buông tiếng :
- Để rồi xem.
An nhìn những giải đồi cằn cỗi phía trước, nơi bắt buộc họ phải vượt qua trước khi tới miền biên giới : Chúng mênh mông trống vắng, dường như có thể phóng tầm mắt đến hút tận chân trời. Không một cụm rừng, cũng chẳng một ngọn núi. Chỉ triền miên những giải đồi trơ trụi trên đó mọc thuần một loài gai thấp lè tè không quá sải tay và các loại dương xỉ. Nếu bị rượt đuổi ở nơi này, cái chết sẽ cầm chắc.
« Liệu hôm nay các đồn biên phòng Thất Khê đã nhận lệnh truy nã hay chưa ? » .
An thầm nghĩ và hình dung cảnh tượng sẽ diễn ra sau lưng họ. Trước hết đơn vị anh và đơn vị của Nông Tài sẽ báo cáo sự mất tích của hai gã « dân tộc thiểu số ». Phaỉ hai mươi bốn giờ sau mới có thể ra lệnh truy nã theo thông lệ nhưng trường hợp này gã bộ trưởng Quốc Tuỳ ắt phải quyết định sớm hơn. Trên các chuyến tàu ngược Lạng Sơn và Lao cai lính sẽ giăng hàng khám xét để bắt hai kẻ « đào ngũ » Liệu chúng sẽ gán cho họ những tội danh nào để hợp lý hoá việc ban bố lệnh « truy nã tội phạm » ? Nếu không cướp của giết người ắt chỉ còn là tội làm gián điệp cho ngoại bang. Và đó là tội danh tiện lợi nhất để kích động lòng căm thù cũng như sự khinh bỉ của dân chúng :
« Ta tin chắc rằng giờ đây chúng ta đã trở thành những tên gián điệp nguy hiểm, âm mưu lật đổ nhà nước vì nhận tiền viện trợ của ngoại bang. Sẽ không có một cách giải thích nào khác. »
An thầm nghĩ với nỗi buồn chua chát vì nhớ lại bao nhiêu lần từng đứng dưới cờ tuyên thệ trung thành chiến đấu cho tổ quốc, thề tiêu diệt đến kẻ thù cuối cùng dám xâm phạm vào nền chuyên chính vô sản của nhân dân. Giờ đây, anh đã trở thành thứ kẻ thù ấy, chính anh và gã Nông Tài ngồi một bên đang lơ láo đưa mắt nhìn cảnh vật. Cuộc sống quả là trò lường gạt khủng khiếp mà biết bao nhiêu triệu con người chỉ là đám đông khờ khạo bị xỏ mũi dắt đi như một đàn trâu.
« Nhưng còn hai người đàn bà, chúng sẽ làm gì họ ? »
« Chúng sẽ không làm gì hết bởi họ đã là hai tù nhân trong căn gác ấy, và họ không có cách nào chống lại chúng. Nhưng hai gã cận vệ kia ắt sẽ bị gọi lên răn đe phải khâu mồm câm họng.
Hai kẻ khốn khổ đó có đủ liều mạng để trốn đi hay chăng ?...
Không ! Dù có bạo gan họ cũng không còn cơ may để làm điều đó. Sau cuộc bỏ trốn của Nông Tài, họ sẽ thường xuyên sống dưới sự kiểm soát của đồng đội. Họ sẽ phải ngậm đắng nuốt cay giả câm giả điếc, giống như thứ xác chết biết đi hay hình nhân bằng gỗ đứng trong cái hành lang dài dặc và thiếu ánh mặt trời kia.
Gã bộ trưởng dâm đãng sẽ không thay đổi lính gác trong thời gian tới. Một tuần, hai tuần hoặc ba tuần ? Tất cả tuỳ thuộc vào cơn dâm dục của y. Khi đã no nê thú tính, hai người đàn bà cùng hai người cận vệ kia sẽ cùng một lượt xuống mồ. Hai gã lính ấy, chắc chắn cũng như anh đã từng giơ nắm tay hàng ngàn lượt dưới quốc kì thề tiêu diệt kẻ thù của nhân dân và bảo vệ tổ quốc ! »
- Tại sao anh cười ? Anh cười gì vậy ?
Nông Tài bất chợt cất tiếng hỏi khiến An giật bắn mình. Anh vội đáp :
- Nhớ ra một chuyện tiếu lâm.
- Vậy thì kể đi cho đỡ buồn.
- Không kể được. Bậy bạ lắm.
Nông Tài lặng im với vẻ bất mãn.
An chợt nhận ra rằng anh đã có thói cười gằn khi những nỗi đau băm chém con tim. Cái thói quen lạ lùng này vừa mới hình thành đã trở nên thuần thục như vốn nó gắn liền với anh từ muôn thuở.
― Gã trai của bản Xíu năm xưa đã chết hẳn rồi, ta chẳng còn nhìn thấy nó.
Anh thầm nghĩ. Nhưng lát sau, một câu hỏi não lòng lại vang lên bên tai :
― Nhưng còn hai đứa trẻ ? Liệu lũ chó đểu kia sẽ làm gì chúng ?
Anh hình dung đôi mắt đen như hạt nhãn của con bé Mùi, hơi thở thơm tho của nó khi nó thỏ thẻ bên tai anh, cái cảm giác mềm mại khi những sợi tóc của nó cọ vào bên má, một thứ tình ngọt ngào êm ấm dâng lên mỗi khi con bé đặt hai bàn tay bé xíu của nó vào bàn tay rộng lớn của anh. Đôi bàn tay người thợ săn. Nghĩ tới đó, An lại thấy một lưỡi dao quắm bén nhọn đang thọc ngoáy tim mình. Máu chảy ròng ròng từ những vết thương ấy :
― Không!Ta không thể nghĩ đến những điều ấy nữa. Coi như phía sau
lưng ta chỉ là một nấm mồ lặng câm và tăm tối. Không còn ai, không còn bản Xíu, không còn cả chú thím ta và ông bố vợ. Tất cả đều bị xoá đi trên mặt đất này. Ta sẽ là kẻ cuối cùng. Kẻ cuối cùng buộc phải sống để tố cáo lũ đao phủ người Kinh. Ta phải làm được điều đó bằng mọi giá.
Đột nhiên, An cảm thấy mệt mỏi. Anh bảo Nông Tài :
- Nằm xuống đi. Tôi đau lưng lắm. Mỗi băng ghế đủ cho bốn người ngồi nên ta có thể nằm duỗi chân cho thoải mái. Đừng quên rằng qua đồn biên phòng chẳng còn xe ngựa cũng chẳng có xe trâu. Chỉ có hai bàn chân thôi. Đường xa dốc ngược. Chẳng dễ đâu.
- Đồng ý.
Gã trai đáp ngoan ngoãn và chuyển sang bên chiếc ghế băng đối diện. Người xà-ích quay lại bảo :
- Các đồng chí cứ nghỉ ngơi. Đến nơi, tôi khắc gọi.
An nhắc lại :
- Khi nhìn thấy đồn biên phòng tôi sẽ trả nốt tiền cho bác. Nếu ngựa chạy tốt, đến sớm hơn lệ thường chúng tôi sẽ gửi thêm tiền để bác mua ngô mua mật bồi dưỡng cho nó.
- Được thôi.
Người chủ xe vui vẻ đáp đoạn cất tiếng hát một điệu hát cổ mà An chưa từng nghe. Giọng ông ta khá ấm, vang rất to giữa miền đồi hoang. Chắc hẳn thời trai trẻ ông ta phải là một ca sĩ nơi thôn xóm, cũng như những tài tử thổi tiêu thổi sáo thâu đêm trên bản Xíu quê anh. An nằm xuống ghế, lắng nghe câu hát một cách chăm chú. Câu hát xứ này trộn lẫn một cách ngô nghê ý thơ lẫn những câu nói dung tục, tầm thường :
― ...Này, cô nàng ở bên kia sông ,
Cô nàng áo thắm, cô nàng quấn khăn hồng,
Có chồng rồi hay còn chờ đợi người tới gọi,
Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Nơi đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy,
Ngại ngần chi, cuộc sống ngắn chẳng tầy gang,
Hãy lội sang đây, cô nàng xinh đẹp,
Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn nóng cháy
Anh như bước đi trên lửa, như đang ngồi trên than....
Bước chạy của con ngựa đường trường gieo một thứ điệp khúc buồn tẻ, hoà cùng tiếng hát rền rĩ tiếc thương của người xà-ích nhiễm đầy đầu óc lẫn con tim An . Dần dà, giấc ngủ đến, cuốn anh vào những làn sóng đen ngòm của nó.


Đỉnh cao chói lọi
NGƯỜI ANH EM (7)
- Dậy thôi. Đồn biên phòng kia rồi.
Tiếng hô của người chủ xe khiến cả hai người đều bật dậy.
- Ối cha, chói mắt quá....
Nông Tài vừa lật chiếc mũ úp trên mặt đã kêu váng lên.
Không kêu nhưng An phải vội vàng nhắm ngay mắt lại vì thứ ánh sáng chói chang như muôn ngàn chiếc kim đâm làm họ chảy nước mắt tức thì.
Sau một hồi nhắm mắt, úp trở lại chiếc mũ lên mặt cho quen dần với thứ ánh sáng gay gắt này, An mới dám mở mắt ra. Người chủ xe nói :
- Tôi đã nói trước mà. Người nào từ xứ Bắc vào cũng la ó hoảng hồn vì nắng Nghệ An. Đó còn là may mắn vì hôm nay không có gió Lào.
- Nếu có gió Lào nữa thì sao ?
- Các đồng chí sắp sang bên đó. Không cần tò mò ngày mai khắc biết.
- Đồn biên phòng đâu ?
- Nhìn thấy chưa ? Cái đốm đỏ cao nhất, đó là nơi cắm cờ của đồn lính. Thời trước là cờ Pháp. Sau ngày cách mạng là cờ đỏ sao vàng.
An rút tiền đếm rồi đưa cho người chủ xe :
- Bác cầm lấy. Chắc dư tiền mua mật và thóc cho chú ngựa.
Người xà-ích bỏ tiền vào túi rồi cúi xuống gầm xe lôi lên hai bó lá chuối khô :
- Đồng chí hào phóng quá, tôi cũng phải biết phận sự của mình. Người ta bảo : có đi có lại mới toại lòng nhau. Đây là hai cân đường phèn hảo hạng. Các đồng chí có thể ngậm khi đi rừng cho đỡ khát. Nếu muốn may mắn vượt qua đồn biên phòng thì có thể tặng lính một nửa. Trên đó họ buồn nên hễ cứ có người là họ tìm đủ cách vặn vẹo giấy tờ để chuyện vãn cho vui.
- Có cái lệ đó hay sao ?
- Chẳng có lệ nào cả nhưng ở đó họ buồn....Thi thoảng lắm mới có một chuyến xe ngựa ngược lên đây. Còn lại là xe quân đội. Xe khách chẳng qua lối này. Nếu đồng chí bị nhốt ở đồn biên phòng ấy quanh năm đồng chí cũng sẽ làm như họ thôi.
- Cảm ơn bác.
An nói và đưa gói đường phèn lên ngửi. Quả là thơm. Anh bảo :
- Cũng phải tặng họ một nửa thôi. Chúng tôi cần phải đi khi còn ánh mặt trời.
- Nếu không có đường phèn ắt hai đồng chí phải ngủ đêm ở đó sáng mai mới lên đường được. Đa phần lính là dân Bắc. Họ phải lục hỏi đủ thứ chuyện ngoài quê hương.
An lặng thinh. Nhưng Nông Tài chăm chú nhìn một hồi rồi quay lại bảo anh, giọng hốt hoảng :
- Anh Thành, họ đứng dàn hàng đón đường chúng ta trên đỉnh đồi.
Anh đưa mắt nhìn lên thấy ngọn cờ đỏ đã hiện rõ. Đúng là lính đứng giăng thành hàng chắn ngang đường. Vẻ như một cuộc vây ráp đã chuẩn bị sẵn. Bất giác An đưa tay rờ khẩu súng bên hông. Cùng một lúc, Nông Tài cũng làm cử chỉ đó. Hai người đưa mắt nhìn nhau. Rồi An trấn tĩnh lại và hạ giọng thản nhiên hỏi người xà-ích :
- Vì cớ gì họ đứng thành hàng như thế kia ?
- Vì buồn.
Ông ta đáp gọn lỏn, tay không ngừng ra roi trên lưng ngựa. Xe đang lên dốc và con ngựa có vẻ như bắt đầu chùng chân.
- Hây ,hây... Dấn lên! Con mẹ mày, sắp tới nơi rồi đừng giở chứng. Cố lên, lát nữa ông sẽ cho ba đấu thóc trộn mật. Cố lên, chỉ còn đoạn này nữa thôi.
Ông ta mắng con vật. Dường như con vật khôn ngoan này hiểu được ý chủ nên nó lại lên vó. Chiếc xe chồm lên rồi tiếp tục chạy bon bon. Lúc ấy, người xà-ích quay lại :
- Tôi đã bảo rằng bất cứ ai ở tình thế của họ cũng sẽ làm thế thôi. Họ ra đây để nhìn xe ngựa. Lát nữa họ sẽ nhìn các đồng chí rồi tranh thủ chuyện vãn. Mong sao họ sẽ để cho các đồng chí đi một cách sớm sủa.
- A...Ra thế.
An cất tiếng, rời tay khỏi vũ khí. Anh trù tính cách thức có thể vượt qua cửa ải này một cách mau lẹ và an toàn.
― May sao chúng ta là dân Tày. Chúng ta chẳng biết gì nhiều mà chuyện vãn với đám lính Kinh. Mà giờ đây , cũng chẳng còn chút cảm tình cỏn con nào để nói những chuyện vớ vẩn.
Nghĩ một lát, anh nói :
- Bác thật là người tốt bụng. Bác có thể đứng chuyện vãn với họ một lát để họ buông chúng tôi đi sớm hay không ? Đường rừng ban đêm không dễ dàng mà ngủ lại thì lỡ nhiệm vụ. Chúng tôi có thể biếu thêm tiền bác.
- Không phải mua tôi bằng tiền.
Người xà-ích đáp cộc lốc :
- Tôi chỉ lấy đầy đủ phần quyền lợi của tôi cũng như của con ngựa thôi. Nếu tôi tham quá ắt trời giáng hoạ. Nhưng tôi hứa là giúp các đồng chí. Tôi sẽ ngồi tán chuyện với họ ở đó chừng nửa giờ. Mặt trời còn đứng trên đỉnh núi một con sào rưỡi.
Chừng mươi phút sau họ lên tới đỉnh đồi. Đám lính không chậm một giây, quây lấy chiếc xe ngựa, mặt anh nào anh nấy tí tởn như bắt được quà :
- Chào các đồng chí.
Người xà- ích cất tiếng oang oang:
Lính tranh nhau đáp :
- Chào bác. Lâu lắm mới thấy xe ngựa leo lên đây.
- Ồ; ngựa lên đây một lần về phải bồi dưỡng cả tháng. Chỉ có những dịp đặc biệt tôi mới ra roi. Hôm nay, tôi chở hai đồng chí quân nhân làm nhiệm vụ đặc biệt.
- Nhiệm vụ nào thì cũng xuống đây chuyện trò cái đã.
An và Nông Tài nhẩy xuống, rút chứng minh thư xuất trình. Nhưng một anh chàng túm cả hai tấm thẻ cho vào túi áo mà chẳng thèm đưa mắt liếc qua. Rồi, anh khác, đeo lon thượng uý bảo :
- Mời các đồng chí vào đồn chơi.
Nói xong, cả bọn kéo nhau đi trước, An và Nông Tài buộc phải lẽo đẽo theo. Chừng như nhìn thấy vẻ lo âu trên mặt họ, người chủ xe lên tiếng :
- Các đồng chí cứ vào nghỉ chân uống nước. Tôi cho ngựa ăn rồi lên ngay. Nhớ đem theo gói đường phèn chưa ?
- Tôi cầm theo đây rồi.
An đáp.
Đồn biên phòng xây trên đỉnh đèo, ba toà nhà hình chữ môn như kiểu nhà người Việt ở đồng bằng với mảnh sân ở giữa lát đá hộc. Cây cột cờ trồng ngay phía trước toà nhà chính, thân gỗ đã mốc từng đám và trắng phếch màu thời gian. Đầu hồi toà nhà chính giáp một lô-cốt nhỏ bằng xi-măng, chắc chắn xây từ thời Pháp thuộc. Kề đó, một trạm kiểm soát bằng gỗ. Phía sau lưng toà nhà bên trái, tụt xuống sườn đồi chừng dăm chục thước là tàu ngựa có chừng hơn chục con đang đứng nhai cỏ. Tầu ngựa này có ba lần rào thép gai bảo vệ vì ở đây, ngựa là phương tiện giao thông chính của lính biên phòng:
― Ngày mai, chính lũ ngựa kia sẽ rượt đuổi chúng ta. Rồi xem ta có thoát nổi hay không. Nhưng trường hợp rủi ro, ít nhất ta cũng phải cho nửa tá bọn bay xuống âm phủ trước khi ta nhắm mắt.
Anh trù liệu trong khi quan sát cảnh vật. Rồi họ bước vào gian nhà chính, rộng thênh thang với chiếc bàn lớn như bàn bóng ping-pông kê giữa, trên đó ngổn ngang nào ấm nước, nào báo chí vừa mới vừa cũ, nào ra-đi-ô, nào bao thuốc, dao găm, dao nhíp, mũ vải, đèn pin...Bốn bức tường xung quanh dán la liệt các tấm ảnh cắt từ hoạ báo ra, thuần là các cô nàng xinh đẹp trong các đoàn văn công và các nhà hát, nào là Thị Mầu lên chùa, nào là Xuý Vân giả dại, nào là đám múa Hoa đăng hay đội múa Hoa thơm bướm lượn...tất cả chen chúc nhau lộn xộn chẳng ra hàng lối chi. Tay thượng uý, ắt hẳn là trưởng đồn, ném một cái lệnh giữa khoảng không :
- Cậu nào đi đun nước pha ấm chè mới.
Một tiếng đáp từ ngoài sân tức khắc vọng lại :
- Báo cáo thủ trưởng, tổ anh nuôi nhen lửa rồi...
― Mình sẽ chết tắc ở đây với bọn chúng....Phải tìm cách thoát thôi...
An thầm nghĩ và lên tiếng :
- Báo cáo đồng chí....
- Được rồi. Uống nước xong báo cáo cũng chưa muộn. Chúng ta đều là lính cả. Đồng chí bộ binh, tôi biên phòng. Cùng dân phải thức dậy khi nghe kèn tò tí te buổi sáng. Mấy khi gặp nhau. Đồng chí có đi bây giờ cũng không kịp. Nhìn mặt trời thế thôi nhưng tối nhanh lắm. Vùng này ban ngày nắng chói mắt ban đêm sương núi dày như bông.
An cảm thấy như gần tắc thở. Thứ ― tình ái lính này quả thật nguy hiểm cho anh. May sao lúc đó, người xà-ích đã quay trở lại. Ông ta vừa thong thả bước vào nhà vừa cất giọng ngâm nga cái bài hát ghẹo gái lẳng lơ hồi nãy :
― ....Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Ở đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy ....
Tay thượng uý quay sang người xà-ích, ngoác mồm cười :
- Sao bố già lại rủ vợ người ta sang với mình mà không sợ tội ?
- Tôi có rủ ai đâu ? Bài hát của các cụ từ thời xửa thời xưa đấy chứ ?
- Các cụ ngày xưa cũng bậy bạ ghê nhỉ ?
- Các cụ ấy cũng có cái lưỡi để uốn, hai con mắt liếc gái như chúng ta bây giờ thôi. Nhưng dẫu có muốn phê bình hay kỉ luật thì họ cũng đã ngủ ngon dưới ba thước đất. Chẳng ai có thể túm gáy họ lên mà tra khảo nữa.
Nói rồi ông ta đưa mắt nhìn An, vẻ như bảo anh yên tâm. Thấy thế, An cất tiếng hỏi :
- Bác đã cho ngựa ăn xong rồi hay sao ?
- Xong làm sao được. Nó tha hồ nhẩn nha. Còn đồng chí, đã xuất trình giấy tờ chưa ?
- Tôi đã đưa cả hai tấm thẻ quân nhân rồi nhưng lính của đồng chí thượng uý đây lại cất vào túi áo. Ồ, ra thế.
―....Này cô nàng áo thắm, này cô quấn khăn hồng...
Ông ta hát tiếp một câu rồi quay sang tay thượng uý :
- Hai đồng chí này đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp không thể chờ xe ca quân đội. Thế nên công an thành Vinh mới chỉ đến tôi. Chẳng có lời sức mấy tôi dám cho ngựa lên tận đây ? Hai người này chẳng có thời gian uống chè với chúng ta đâu. Nhưng họ có đường phèn ngon lắm, trên xe họ cho tôi vài miếng ngậm thử, thơm như phấn hoa vậy.
Quay sang An, ông hỏi :
- Đồng chí có thể tặng anh em trong đồn một ít được không ? Chúng tôi sẽ ngồi uống trà cho ngọt giọng.
An đặt gói đường lên mặt bàn, đáp :
- Có đây. Để làm quà cho các đồng chí.
Anh tủm tỉm cười nhìn tay thượng uý:
- Tôi trung uý, kém đồng chí một hàm. Đáng lẽ có thời gian ngồi tâm sự hẳn là vui. Nhưng rủi chúng tôi đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.
- Thế hả ?
Thượng uý thò cổ ra khỏi cửa, hỏi vọng đám lính đứng túm tụm ngoài sân :
- Cậu nào lúc nãy cầm chứng minh thư quân nhân của hai đồng chí ?
- Dạ em.
- Xem chưa ?
- Dạ, trung uý Chí văn Thành và thượng sĩ công an nhân dân Nông Tài. Hai đồng chí đều là dân tộc Tày.
- Đem trả cho các đồng chí ấy. Thật đáng tiếc là họ phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.
Cậu lính mang hai tấm thẻ trả cho họ.
Thượng uý trưởng đồn nói :
- Thôi, lúc các đồng chí quay về sẽ gặp lại nhau. Tôi có đứa em trai họ lấy vợ người Tày, con bé xinh ơi là xinh, da nó trắng nõn như bông, còn đẹp hơn da mấy bà vợ chuyên gia Liên-xô, Tiệp khắc. Nếu kiếp sau còn có duyên gặp nhau tôi xin làm rể dân Tày. Chấp thuận chứ ?
- Cảm ơn.
An và Nông Tài chào khắp lượt đám lính rồi quay trở lại con lộ. Tiếng hát người xà-ích đuổi theo sau lưng :
―... Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn, nóng cháy,
Anh như đang đi trên lửa như đang ngồi trên than...
An bảo :
- Nếu thoát được, chúng ta phải ngàn lần cảm ơn người chủ xe ngựa này.
- Đồng ý.
Ven đường, con ngựa đã ăn hết chậu thóc trộn mật đang đứng liếm mép một cách thoả mãn, giương mắt nhìn hai vị khách. An bảo :
- Giờ thì co cẳng lên.
Hai người hướng về phía đất Lào, cắm đầu đi như chạy.
Họ đi như thế chừng một giờ liên tục, mồ hôi chảy đầm đìa khắp mặt và thấm đầy lưng áo. Mặt trời đã tụt xuống một con sào, lơ lửng treo như trái cầu sáng chói trên đỉnh núi phía Tây. Nắng vẫn tràn ngập mênh mông nhưng không khí đã nguội bớt. Vừa chậm bước chân một chút, An cảm thấy thấm lạnh hai vai. Phía sau lưng họ, những giải đồi lúp xúp gai và dương xỉ chạy cho tới hút tầm mắt. Trước mặt, khoảng một thôi đường nữa là tới rừng. Đường viền sẫm của nó đã hiện lên dọc theo những con đèo liên tiếp. Nông Tài kêu to :
- Rừng kia rồi. Chúng ta sống rồi.
- Xin quỷ thần hai vai phù trợ cho chúng ta. Nhưng phải đi nhanh lên. Sau lưng là khoảng trống, đường quang. Nếu lũ ngựa biên phòng đuổi theo chắc không thoát.
- Đồng ý.
Nông Tài đáp và cả hai tiếp tục lao đầu cun cút chạy. Vừa chạy, họ vừa nhìn mặt trời, như nhìn thứ đồng hồ báo giờ trong cuộc đua việt dã sinh tử. Cứ như thế, khi đặt chân vào cửa rừng cũng là lúc mặt trời vừa chạm trên đỉnh núi cao nhất và ngự trị ở đó, kiêu hãnh trong sắc vàng lộng lẫy. An thấy thấm mệt, bước chậm lại. Nhưng Nông Tài bảo :
- Chưa chậm chân được đâu. Khoảng rừng này thưa lắm, ngựa chạy tha hồ. Ta phải vào được đến lòng rừng, lối đi vừa lọt bước chân mới mong thoát hiểm.
Nói rồi, cậu ta len lên đi trước anh, chừng như muốn khích lệ bạn đồng hành. Dẫu sao, đi dưới bóng cây, tim họ đã bớt đi cơn phấp phỏng. Hai người vượt qua một cánh rừng dốc xuôi xuống trảng. Một trảng cỏ tí hon, nói cho đúng là một rẻo chân núi phủ đầy thứ cỏ dài lông xám bạc. Qua đó chừng mươi phút, họ tới một cánh rừng bằng phẳng hơn nhưng rậm rịt dây leo, lối đi chỉ vừa lọt một người. Nông Tài vừa thở vừa vuốt mồ hôi mặt :
- Chưa hẳn là lòng rừng nhưng ngựa khó chui vào đường này vì thòng lọng bẫy.
- Ờ. May cho chúng ta thật.
An vừa nói vừa ngước nhìn những đám dây leo đong đưa trên đầu, những cánh tay tua tủa như tay bạch tuộc của các vòi cây, trông xa giống hệt lũ rắn xanh đang ngóc đầu ngoe nguẩy. Dọc lối đi chăng đầy những thứ dây leo lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều tạo thành những nút thòng lọng mà bất cứ con ngựa nào rúc vào rừng cũng vướng. Nếu là một đoàn ngựa thì lại càng khó khăn hơn. Ít nhất, cũng phải có một kẻ mở đường dùng dao quắm phạt hết đám dây nhợ ngựa mới hòng nhích vó.
Nông Tài quay lại bảo anh:
- Rừng quê ta ít loại dây leo này.
- Ờ.. Nhưng nhiều cây lớn hơn đây.
- Dây leo ở đây nhiều màu lạ. Xem kìa, búi dây bên trái chúng ta có màu da cam. Còn đám dây quấn ngang thân cổ thụ lại trổ đầy lá tím như cà dái dê vậy.
- Ờ. Đất khác, rừng khác, cây cũng phải khác...
An đáp, tiếp tục ngẩng lên nhìn những tua dây leo phất phới trong các kẽ nắng hiếm hoi của hoàng hôn. Khi ánh nắng lướt qua, lớp lông tơ phủ lên chúng óng ánh như giấy thiếc. Nông Tài không nói gì thêm, lặng lẽ bước. Đột nhiên, An nghe một tiếng ― Roạt, một tiếng động trầm đục nhưng rất nặng , kèm theo mùi hôi khủng khiếp. Mùi hôi khủng khiếp ấy gợi lại màn đêm quen thuộc của những năm xưa trong các cánh rừng bản Xíu. Óc anh vụt lóe lên tiếng kêu : Hổ!
Nhẩy ba bước, An vồ lấy thân cổ thụ gần nhất và leo lên với tất cả sức lực còn lại sau quãng đường chạy bộ. Vượt qua ba đốt chẽ, nơi thân cây chia nhánh, anh leo tới đốt chẽ cuối cùng tiếp giáp với ngọn cây, yên trí hoàn toàn rằng hổ không thể nào nhẩy lên được, An mới dừng lại. Tìm cành ngang lớn nhất, anh ngồi lên hai chân quắp chặt lấy cành, hai tay ôm vòng quanh thân cây. Xong xuôi, anh mới dám cúi đầu nhìn xuống : Con hổ đang đặt Nông Tài phía dưới hai chân trước của nó, ngửa cổ giương mắt nhìn anh. Bốn tia mắt giao nhau ngay tức khắc. An lạnh toát sống lưng. Cặp mắt chúa rừng mở rộng, rọi thẳng vào anh những tia sáng màu thép trộn lẫn màu vàng ốc. Cặp đồng tử co giãn nhè nhẹ, hai hàng ria cũng nhúc nhích rung rinh nhè nhẹ trong cái nhìn chăm chú khó cắt nghĩa. An nghĩ :
― Nó biết còn con mồi thứ hai. Nó sẽ tiếp tục rình cho tới lúc mình tụt xuống. Giờ là lúc phải hết sức bình tĩnh để vượt qua cơn nguy hiểm này.
Trước hết, anh cố trấn tĩnh cơn run rẩy để lục túi-dết lấy ra sợi dây dù vạn năng. Rồi anh tự trói mình vào thân cây, biết đó là cách tốt nhất để bảo vệ mạng sống. Bởi đã từng có tấm gương của tiền nhân để răn dậy kẻ đi sau. Thời chú anh còn trẻ có một số thợ săn hoặc kiếm sĩ sống bắng nghề bảo kê. Hoặc bảo vệ những nhân vật con dòng cháu giống, lắm tiền nhiều của và cũng đầy rẫy kẻ thù. Hoặc bảo vệ những thương gia trên các chặng đường vùng biên giới. Lần ấy, một người thợ săn tháp tùng một tay lái buôn thuốc phiện. Anh ta đi trước, nhưng con hổ lại vồ người đi sau. Người thợ săn trèo lên cây tìm cách thoát thân, trong khi trèo hoảng hốt đánh rơi khẩu súng. Không còn vũ khí, người thợ săn chẳng có cách nào hơn là bám chặt lấy cái cây như kẻ chết đuối bám lấy chiếc bè hộ mạng. Rủi ro là anh ta đã gặp một con hổ thành tinh. Sau khi chén sạch con mồi thứ nhất nó ngủ ngay dưới gốc cây chờ tiếp con mồi thứ hai. Trong trường hợp ấy, nếu đủ lòng can đảm và sự tự tin, nạn nhân có thể lừa lúc con vật ngủ say nhất mà thoát thân. Nhưng người thợ săn này không đủ bản lĩnh bước qua lưng thú dữ. Anh ta mắc cứng trên cây, suốt đêm gà gật trong nỗi hãi hùng và trong giá lạnh của khí núi. Hôm sau, con hổ thức dậy, vươn vai duỗi chân để tìm lại khí thế sau giấc ngủ dài. Rồi nó chuẩn bị tấn công con mồi mới. Lượn quanh gốc cây vài lượt, nó dừng lại giương mắt trừng trừng nhìn con người tội nghiệp kia, đoạn buông tiếng gầm thét. Sau một hồi gầm thét, nó lại lượn vòng quanh gốc cây như một con chó lượn quanh bãi nước đái của chính mình, đoạn nó lại tiếp tục uy hiếp nạn nhân bằng những tiếng gầm thét. Kẻ xấu số không chịu nổi ánh mắt loài độc thú và tiếng gầm của nó, thêm nữa, sau một đêm mỏi nhừ vì sợ hãi, đói khát, anh ta không còn đủ sức bám lấy cành cây nên rơi xuống, làm bữa ăn linh đình của ngày thứ hai cho chúa sơn lâm.
Câu chuyện này phường thợ săn thường kể đi kể lại sau mỗi mùa săn chính, quanh bếp lửa và chảo nấu cao. Từ thuở đi theo phường săn, An đã thuộc lòng. Giờ, nó giúp anh cẩn trọng. Quấn ba vòng dây dù để trói thân mình vào thân cây, An kiểm tra kĩ các nút thắt, rồi cài lại nắp chiếc túi dết, chỉnh lại khẩu súng sau lưng cho thuận tiện khi sử dụng. Đoạn, anh cúi xuống tham dự cuộc thôi miên với con thú. Nhưng, ngược với sự phỏng đoán của anh, con hổ đã cúi xuống con mồi đặt sẵn dưới hai chân. Tội nghiệp Nông Tài, hẳn từ cú vồ đầu tiên của dã thú, chàng trai đã chết, không kịp bật một tiếng kêu. Con hổ này đã quen ăn thịt người. Phải quen vồ người từ lâu lắm, nó mới có thể quật chết họ mau lẹ như vậy....
Chắc chắn nó phải được liệt kê vào loại hổ thành tinh, loại độc thú đã thừa thãi kinh nghiệm để biết con người là thứ mồi hảo hạng. Gặp nó, cửa địa ngục tự động mở ra.
― Từ đầu đến khấu đuôi nó phải dài đến thước tám.
An ước tính. Con hổ này chưa già vì lông còn vàng au và các vằn đen còn sắc nét như vẽ. Cứ nhìn cách nó vần cái đầu của con mồi khắc biết nó khéo léo và nhanh nhẹn đến nhường nào. Một sức mạnh không thể gìm nén khiến An không thể rời mắt nhìn con thú. Có thể là sự sợ hãi. Có thể là nỗi tò mò. Hoặc cả hai thứ nhào trộn lại. Từ năm mười ba anh đã theo ông chú và phường săn bản Xíu lên rừng. Chú anh hạ thủ vô số gấu ngựa, lợn lòi, hươu hoẵng và hơn một tá hổ. Nhưng với anh, sự hiện diện của loài thú này chỉ là hai ngọn lửa xanh lè từ cặp mắt nó phóng ra khi bắt ánh đèn săn. Mùi hôi và gây đặc biệt không thể nhầm lẫn với mùi các loài thú khác. Tiếng sột soạt của các đám lá cọ vào vai họ trong những đêm rừng ẩm lạnh. Và sương giá mịt mùng trong những thời khắc đợi chờ. Người thợ săn không có quyền chậm trễ nửa giây, nếu họ muốn tồn taị. Nhiều khi cuộc chờ đợi kéo dài từ chập tối đến quá nửa đêm, ai nấy gần như hoá đá vì rét lạnh. Nhưng vào thời khắc con thú tiến đến, và khi cặp mắt nó hắt lên những tia phản chiếu sắc lạnh chính là lúc súng phải nổ ngay. Đạn nhằm vào điểm giữa hai con mắt. Rồi sau đó, hoặc là con thú chết tại chỗ vì lượng đạn bắn đủ và trúng các điểm dễ tổn thương, hoặc là phường săn phải theo đuổi con vật cho đến khi nó chết vì vết thương quá trầm trọng, cuộc rình rập này có khi kéo đến ba bốn ngày...Cuối cùng, con vật được chở về bản, xẻ thịt, róc xương, và những chiếc vạc lớn nấu cao được bắc lên bếp lửa.
Như thế đó, là thợ săn nhưng anh chưa từng nhìn thấy hổ sống, lại càng chưa hình dung tường tận cách nó thịt con mồi. Chưa bao giờ.
― Đây chính là đầu tiên tao tận mắt thấy mày, hỡi chúa sơn lâm.
Anh thầm nghĩ.
Con vật đang đặt một chân lên cái đầu của Nông Tài, vần qua vần lại như trẻ con vần quả bóng. Rồi, đột ngột, nó ngoác mồm ra đớp một nhát vào cổ nạn nhân. An nghe tiếng xương ròn răng rắc vụn giữa hai hàm răng thú. Con vật táp rất nhanh miếng thứ hai. Cái đầu đứt lìa khỏi thân người lính. Con thú lấy chân hất nó ra xa như ta ném một viên bi. An nhìn thấy cái đầu đỏ ngòm của người bạn đường lăn mấy vòng trước khi bắn vào bụi cây gần đó. Anh dường như tắc thở, nỗi kinh hoàng khiến anh tê liệt chân tay. Một cơn băng giá từ từ lan toả khắp toàn thân. Anh cảm thấy cơ bắp trở thành co cứng và bất động như gỗ đá.
― Nếu ta không kịp trói thân vào cây, ắt ta rơi xuống mà chết như người thợ săn xấu số ngày xưa mà không cần phải đợi qua một đêm trên cây, cũng không cần bị nó gào thét để uy hiếp.
Ý nghĩ đó thoáng qua óc anh như tia chớp. Đồng thời, một làn nước ấm nóng đâu đó tuôn chảy trên tấm thân đông cứng và tê liệt vì kinh hoàng của anh. Phải một lúc sau, An mới biết rằng nước tiểu đã vọt ra mà anh không hay biết. Nước tiểu chảy dọc theo hai đùi, thấm ướt hai ống quần, tiếp tục bò xuống hai bàn chân. Khi gió thổi nguội đi chúng khiến anh càng lạnh.
Dưới kia, con hổ đã xé tan quần áo Nông Tài, bắt đầu bữa cỗ ngon lành của nó. An không dám mở mắt ra nữa. Nỗi tò mò cũng đã tắt ngấm như ngọn lửa bị tưới nước. Cơn sợ hãi chưa qua nhưng nỗi đau kéo tới. Lúc này anh mới hoàn toàn hiểu rằng người bạn đồng hành trong cuộc chạy trốn định mệnh này đã chết, chết một cách thảm khốc ngay dưới mắt anh:
― Nông Tài ơi, chúng ta chạy trốn một cái chết để rồi cái chết khác lại chờ đón ở nơi đây. Vào lúc cậu ngỡ là bước vào cửa sinh thì lại sa chân vào cửa tử. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức bảo vệ cậu. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không làm trọn phận sự kẻ đưa đường. Lẽ ra, tôi phải là người đi trước chứ không thể là cậu. Nhưng số phận hay sự rủi ro xui khiến nên cậu phải thiệt thân. Từ nay, cái chết của cậu đè lên vai tôi, cùng với những người ruột thịt. Từ nay, lòng oán hận của tôi dệt thêm một mạng sống giống như sợi dây thắt thêm một nút để ghi nhớ mối thù này.
Anh thầm nói với người xấu số.
Một tình bạn ngắn ngủi kéo dài không quá hai ngày và một đêm. Nhưng vẫn là một tình bạn thật sự vì nó lôi dẫn họ qua biên giới mong manh giữa cõi sinh và cõi tử; nếu đã một lần đi qua bờ vực này, cuộc gắn bó sẽ kéo đến chung thân.
Những tia nắng rọi qua lá rừng không còn màu vàng nữa. Chúng nhạt màu chín của vỏ chanh. Điệu này chẳng mấy chốc mà tối. Anh phải thoát khỏi cánh rừng này trước khi đêm sập xuống. An bắt đầu xoa hai bàn tay thật mạnh cho máu lưu thông. Khi áp hai bàn tay lên má thấy hơi ấm trở lại bình thường anh mới gỡ khẩu súng khỏi lưng, lên đạn. Mục tiêu thật gần nhưng không dễ vì con hổ đang cắm cúi ăn, cần cổ và đầu nó di động liên tục. Chỉ có phần lưng và mông nó là chĩa thẳng về phía anh nhưng đấy lại là chính là những phần không gây nguy hiểm cho con thú.
Chợt một con tính chạy qua óc não anh :
― Tại sao ta lại tiêu diệt nó? Nếu bọn lính biên phòng đuổi theo bắt gặp xác hổ, ắt chúng sẽ truy nã ta sang tận đất Lào. Biên giới Lào-Việt chỉ vẽ trên bản đồ, không tồn tại trong thực tiễn. Đó là những gì ta đã biết từ cuộc kháng chiến năm xưa. Giờ cũng vậy thôi. Thời gian chưa thay đổi tình thế. Tốt hơn cả là ta để con thú thoát thân, và bày trò rằng chính ta cũng đã bị xé xác giữa hai hàm răng hổ. Đó chính là lối thoát chắc chắn nhất trong hoàn cảnh này.
Sự xác quyết đến mau lẹ. An nhắm vào phần mông gần nhất phô ra trước nòng súng, bóp cò. Đường bay của viên đạn vô cùng chính xác.
Con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp, quay ngoắt lại phía anh. Cặp mắt nó chiếu thẳng vào anh những tia sáng hung cuồng. Nó buông con mồi quay lại lấy đà nhảy vọt lên. Cú nhảy ấy khiến hơi gió tạt vào mặt anh mùi hôi sặc sụa. Nhưng An dự đoán chính xác, con thú không thể với tới nơi anh ngồi. Nó chỉ khiến tim anh gõ trống và da anh sởn gai ốc. Viên đạn chỉ phá vào phần mềm trên mông con thú, cú nhảy của nó hoàn toàn bình thường. Một cú nhảy dũng mãnh. Ngay trong trí tưởng tượng anh cũng không thể hình dung con vật có thể nhảy cao được đến thế. Và động tác của nó chuẩn xác, nhẹ nhàng, mềm dẻo như động tác của một con mèo đang độ trai tơ. Không vồ được mồi, cặp mắt con thú long lên ánh man dại xen lẫn đau đớn. Nó bước loạng choạng quanh gốc cây vài bước đoạn lùi lại, gào lên tiếng thứ hai rồi vọt lên cú nhảy tiếp. Cây súng trong tay anh rớt xuống mà anh không kịp nhoai theo. Khẩu tiểu liên rớt theo chiều dọc, va đập, tự nổ phát đạn nữa. Con hổ quay ngoắt lại, nhảy bổ vào thứ kẻ thù có hình dạng lạ lùng đó, táp một miếng với tất cả sức lực và sự điên cuồng vốn có. Rồi nó gầm lên một tiếng thê lương, có lẽ bởi thứ thép kia khiến hai hàm răng nó bị tổn thương và cơn đau mới cộng với vết thương nơi mông khiến nó không chịu nổi. Ngẩng đầu lên nhìn cái con mồi nhỏ bé trên cây với cái nhìn kinh ngạc, nó nhảy vọt vào bụi rậm và biến đi. An nhìn theo vết cây lá rùng rùng chuyển động, biết rằng con thú đã đi thẳng. Chờ một lúc lâu để tin chắc con hổ không quay lại nữa anh mới tháo sợi dây dù, nhét vào túi-dết rồi tụt xuống. Một thứ dính dáp làm anh vướng víu dưới mông. Lúc ấy, anh chợt hiểu rằng cơn sợ hãi không chỉ khiến anh vọt nước tiểu mà còn tống cả phân ra ngoài ruột :
― À, người ta nói sợ vãi cứt chính là thế này đây.
Nhưng ý nghĩ đó biến đi nhanh chóng bởi anh không còn thời gian suy ngẫm. An cởi áo xé ra thành nhiều mảnh, thấm vào đám máu bê bết dưới cái đầu lâu của Nông Tài, đoạn bưng chiếc đầu lâu đó thả vào một bụi gai dày rậm mà chắc chắn không con chó săn, sói rừng hoặc lợn lòi nào rúc vào nổi. Rồi anh vứt chiếc áo tả tơi đẫm máu của mình bên cái xác không đầu của người xấu số, giờ đây chỉ còn trơ trọi phần bụng và khung xương. Đoạn, anh ném khẩu súng của mình xuống gần sát khẩu súng của người đồng hành. Nhìn cảnh tượng ghê rợn đó lần cuối, anh quay lưng co cẳng chạy về phía trước, nơi văng vẳng tiếng chảy của một con suối. Đến bờ suối, anh định bước xuống tắm thì một cơn buồn nôn trào thốc lên họng khiến anh không thể nào kìm giữ. Cứ thế, những gì còn lại trong dạ dày anh vọt ra. Vọt ra cho đến những gợn chất lỏng màu xanh chen màu vàng và sau đó là thứ nước đen đắng như mật cá. Anh phải quì gối chống hai tay xuống mặt đất để khỏi ngã gục vì cơn nôn kì lạ. Nôn xong, ruột anh đau quặn từng hồi. Anh có cảm giác ruột anh đang bị cắt đứt bởi những lưỡi dao vô hình. Anh định đứng lên cởi khuy quần nhưng cơn đau rút thân anh co rúm lại như một con tôm bị trụng nước sôi. Anh đành lại quỳ gối xuống, cố gắng nín giữ để có thể lột chiếc quần ra. Những cơn đau nối tiếp khiến anh không còn đủ sức để làm việc đó. Anh đành úp mặt xuống cỏ để lấy điểm tựa rồi buông thân nằm nghiêng. Cũng lúc ấy những luồng phân phọt ra một cách đột ngột như một thứ nước chứa trong chai bất thình lình bị rút nút. Anh hoàn toàn không còn điều khiển được cơ thể của mình. Anh nằm nghiêng như thế, chờ cho cơn bệnh khủng khiếp đó đi qua. Khi không còn gì trong ruột, anh bắt đầu run lên vì rét. Một thứ gía lạnh từ xương tuỷ toả ra, hoà với hơi lạnh của rừng chiều.
― Mình chưa thể tắm ngay. Mình sẽ chết vì cảm. Mình sẽ chết ngay trong dòng nước.
Anh nghĩ. Với tay mở chiếc túi dết, anh kéo ra tấm chăn dù mà Nàng Đông đã kì công khâu từng mũi cho anh từ những tấm dù chiến lợi phẩm trận Điện Biên. Tung tấm chăn ra, anh trùm kín toàn thân. Rồi nhắm mắt thở từng hơi dài, anh chờ cơ thể ấm dần lại. Khoảng thời gian đó thật nặng nề. Anh có linh cảm lũ ngựa biên phòng đang trên đường đuổi theo mình. Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, nhưng chỉ là những hình ảnh được mường tượng theo thuần tuý theo linh giác.
― Ta cần phải thoát thân. Ta phải sống bằng mọi giá.
Anh nghĩ. Ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ giống như gió thổi liên hồi vào lò than. Cũng như gió lùa vào lò than, nó hun nóng lại dần cơ thể băng giá và lả lướt của anh bằng thứ nghị lực của một kẻ cùng đường, bằng ý chí sống của con thú bị dồn vào bẫy. Chừng hai mươi phút sau, An cảm thấy nhịp đập của con tim trở lại bình thường. Lật tấm chăn, anh ngồi dậy, lội xuống suối tắm rửa, giặt bộ quần áo dơ gói vào tấm áo mưa, nhét cẩn thận vào túi-dết. Đoạn, lội sang bờ suối bên kia anh mặc bộ đồ mới rồi tiếp tục chạy. Rừng bắt đầu sẫm tối. Anh cố gắng chạy thêm chừng mươi phút nữa mới chịu lấy cây đèn pin ra dùng. Từ nay trở đi, cuộc sống của anh chỉ còn cây rừng bảo trợ. Anh phải tiết kiệm từng giọt ánh sáng. Anh cũng phải tiết kiệm từng mảnh bánh khô cho đến khi tìm được nơi ẩn nấp. Một cơn chóng mặt thoáng qua khiến anh phải dừng lại, mở túi-dết, móc ra một cục đường phèn bỏ vào miệng. Vị ngọt thấm vào lưỡi khiến bước chân anh đỡ run rẩy. Rồi lát sau, chất nước đường chảy xuống, làm hồi sinh cái dạ dầy trống rỗng và bị thương tổn của anh, khiến những cơn chòng chành chao đảo mất dần đi và anh cảm thấy các động tác của mình trở nên chính xác. Cứ như thế, An tiến sâu vào con đường tối đen mà anh ngỡ như đã đi được nhiều lắm. Nhưng nửa giờ sau, anh nghe vẳng đến tiếng vó ngựa dập dồn, tiếng nói xen lẫn tiếng la hét. Tất thảy những thứ tiếng động ấy vang xa trong vùng trời đen như mực vùng biên giới.
― Tại sao tiếng vó ngựa nghe gần đến thế ? Hay ta đã lạc đường và quay vòng trở lại ? Hoặc là chính con đường chạy theo hình vòng thúng bởi khi ta vượt qua suối, rừng chẳng còn bằng phẳng mà đổ nghiêng như sườn dốc. Rất có thể là lối mòn này dẫn ta quay lại cánh rừng kề cận nơi Nông Tài đã bị hổ ăn.
Anh tắt đèn pin, chui vào một bụi rậm, hiểu rằng khi không thể xác định lối thoát thân thì tốt nhất là ngồi yên một chỗ trong bóng tối. Như thế còn đỡ nguy hiểm hơn là gây nên tiếng sột soạt và rắc vào đường mòn ánh sáng nhân tạo của cây đèn. Bọn lính biên phòng sẽ dễ dàng phân biệt được thứ ánh sáng này với các loại lân tinh. Quả nhiên, tiếng vó ngựa mỗi lúc mỗi gần hơn và gió đưa đến tai anh tiếng chửi thề của đám lính:
- Từ từ đã. Thúc mẹ nó vào ngựa của tao rồi.
- Tối thế này tránh làm sao được ?
- Đằng nào cũng phải chờ chúng nó vạc đường mới tiến lên được. Mày đừng có thúc ngựa làm gì.
- Tao có thúc đâu. Tự nó chồm lên đấy chứ.
Một giọng can thiệp, chắc chắn của tay thượng uý trưởng đồn :
- Thôi đi các cậu. Chớ có cáu kỉnh với nhau. Lát nữa quay về, anh nuôi khắc có nồi cháo gà bồi dưỡng.
Bọn lính im. Và giọng tay thượng uý lại cất lên :
- Nhanh tay lên một chút. Chớ quên rằng bọn thổ mừ này thạo đường rừng gấp ngàn lần chúng ta. Bọn họ sinh ra với rừng cây mà.
- Báo cáo thủ trưởng bọn em vẫn cố sức ra tay nhưng lắm dây nhợ quá. Đoạn đường này thật là chó đểu.
- Có chó đểu mới cần đến ngọn dao nhà nghề của cậu. Rán sức lên. Tôi cho rằng chúng ta sắp đến nơi. Tài mấy chúng nó cũng không thể chạy nhanh hơn ngựa...
Những tiếng động chen lẫn tiếng hí của đàn ngựa vọng đến rõ mồn một. Lính tiên phong đang phạt dây dọn đường cho ngựa tiến lên. Vậy là chúng đã nhận được lệnh đuổi bắt họ từ lúc tắt mặt trời. Nhưng đám ngựa bị cản lại khi tiến vào rừng. Nếu lối mòn không chằng chịt những đám thòng lọng xanh, hẳn bọn lính đã tóm gọn anh khi anh còn đang nằm trùm chăn bên bờ suối, trong cái tình trạng thê thảm nhục nhã chưa từng có trong đời .
― Dẫu sao giờ đây ta cũng đã lấy lại được tư thế, và nếu có chạm trán nhau ta vẫn có thể tiêu diệt một vài thằng trước khi chịu nhắm mắt xuôi tay. „
An nghĩ. Ý nghĩ đó giống như niềm an ủi. Một con côn trùng nào đó đốt vào gáy đau buốt khiến anh xuýt bật tiếng kêu. Quài tay ra sau gáy, anh tóm được một con kiến độc to bằng hạt đậu đen, bóp chết nó tức khắc nhưng con vật cũng kịp chích nọc vào đầu ngón trỏ của anh khiến ngón tay anh buốt nhói lên. Cũng lúc đó, một tiếng thét vẳng đến :
- Hổ ! Hổ !
Một loạt đạn tới tấp và rối loạn cày lên tức khắc sau tiếng kêu kinh hoàng đó.
Anh cười thầm :
― Chúng mày có quá nhiều đạn để thị uy với chúa sơn lâm „
Khi loạt đạn dứt, anh nghe rõ tiếng tay thượng uý :
- Cậu nhìn thấy nó ở đâu ?
- Không. Báo cáo thủ trưởng tôi nhìn thấy đám xương lồng ngực bị gặm hết thịt ở ngay sát chân ngựa.
- Đâu ?
Chưa có tiếng trả lời, đã nghe tay trưởng đồn hét :
- Xuống ngựa đi. Đem đèn chạy ắc-quy lại gần đây.
Tiếng chân chạy, tiếng hò ngựa, tiếng roi vút đen đét. Rồi sau đó là sự im lặng. Có lẽ đám lính đang dò dẫm xung quanh cái xác không đầu và đám xương của Nông Tài. Rồi giọng tay thượng uý vang lên, không còn oang oang hùng hồn như thường lệ :
- Hai khẩu súng ? Con hổ này chén sạch cả hai thằng ?
- Vâng. Chắc nó phải lớn lắm.
- Chưa nghe ai nói hổ ăn thịt được một lần cả hai người.
- Báo cáo thủ trưởng, hổ chưa từng tạt chết một lần cả hai người vì khi nó vồ được con mồi thì những người khác đã kịp chạy hoặc nổ súng. Nhưng nó cõng cả con bò chạy bay bay. Lần này, có lẽ hai thằng thổ mừ tận số. Hoặc chúng nó ngồi nghỉ. Hoặc chúng nó đi cặp díp nhau. Tuy là dân miền núi nhưng chúng nó chưa lường được những cánh rừng xứ này.
- Không tìm thấy đầu lâu.
- Hổ không bao giờ ăn đầu lâu. Chỉ có sói và lợn lòi. Loài sói không đứng ăn một chỗ mà thường tranh cướp nhau và kéo mồi ra xa. Tôi cho rằng chính lũ sói kéo đi một cái xác và cả hai chiếc đầu lâu. Đàn sói này phải đông lắm.
- Đúng rồi. Chỉ có sói bầy với lợn lòi mới có thể dọn sạch đi nhanh thế. Tôi chắc rằng loạt đạn chúng ta bắn khi vào rừng đã đuổi chúng đi. Nhìn đám xương sườn kia cũng biết chúng phàm ăn đến nhường nào.
Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua. Rồi tiếng một cậu lính trẻ cất lên :
- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta quay về thôi. Ở đây mùi máu tanh quá.
- Sợ hả ?
Tay thượng uý hỏi với giọng vừa thị uy vừa trịch thượng nhưng ngay sau đó anh ta quát :
- Cậu nào thu hai khẩu súng kia lại. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành mà không tốn một giọt máu. Những tên phản bội tổ quốc, làm gián điệp cho ngoại bang đã bị thú dữ trừng trị thay vì toà án của nhân dân.
An nghe tiếng ho sặc sụa của một cậu lính, chắc là kẻ không may mắn bị sai đi lượm hai cây súng bê bết máu khô. Sau đó, tiếng giục giã lên ngựa, tiếng roi vút, tiếng xì xào và sau cùng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng lần này mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi.
Chờ cho tiếng ngựa chạy gần như tắt hẳn trong không gian, An mới chui khỏi bụi rậm. Anh quỳ xuống, thầm thì :
- Chúa sơn lâm ơi, mày đã cứu mạng ta.
* * *
Từ năm đó, anh sống trong một bản Vân kiều heo hút, nơi chính người Lào cũng ít khi đặt chân tới. Hai năm đầu trôi qua trong niềm tin đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ còn nhìn lại mảnh đất quê hương. Tổ quốc của anh không còn là Việt nam bởi cái tên đó chỉ còn là niềm oán hận. Anh ngồi viết đi viết lại câu chuyện bi thảm của gia đình mình bằng một mẩu bút chì, trên mặt sau của những tờ truyền đơn mà thi thoảng anh nhặt được dưới chợ, một cái chợ nhỏ xíu trong một thị trấn Lào cũng nhỏ xíu và hẻo lánh, nơi chỉ có những người lái buôn ít vốn liếng và dư thừa lòng can đảm tìm đến để mua các loài xạ hương, chồn trắng, trầm hương hay khỉ vàng nuôi làm cảnh. Đến năm thứ ba, anh bắt đầu hiểu rằng anh phải quay về, anh cần phải quay về mảnh đất thù nghịch đã từng là tổ quốc của anh. Anh phải quay về Hà nội, cái thành phố địa ngục mà anh ngỡ không bao giờ còn nhìn thấy. Bởi lịch sử nào cũng phải chết trong lãng quên và câm lặng. Ở giữa vùng núi non mù mịt này, giữa đám dân nói một thứ tiếng khác sống một nền văn hoá khác, dầu anh có viết cả ngàn trang giấy cũng không ai thèm đọc , chẳng ai thèm biết tới và như thế, cuộc chạy trốn của anh là vô nghĩa. Anh kéo dài cuộc sinh tồn này là để rửa hận nhưng sau cùng chính cuộc sinh tồn ấy dìm anh vào một đời sống tăm tối vô dụng.
Vậy thì, anh ra đi để còn có ngày về. Anh phải về chính mảnh đất đã diễn ra tội ác, nơi linh hồn những người ruột thịt chờ đợi anh...
Trước đây, để sống anh đã ra đi bằng mọi giá. Giờ đây, để trả thù anh cũng phải quay về bằng mọi cách. Quay về ! Quay về ! Quay về !
Quyết định như vậy, nhưng anh phải chờ năm năm sau, An mới tìm được lối thoát. Đó là khi những tốp lính Việt nam đầu tiên vượt Trường sơn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hoành tráng mà mục tiêu của nó là giải phóng Sài-gòn và sau đó, kéo dài đường biên giới cho đến tận Xiêm rệp. Năm ấy là năm Quý Mão, mùa xuân năm Quý Mão. Đến mùa thu, máy bay đối phương bắt đầu săn tìm quân tiên phong trên các cánh rừng dọc Trường sơn. Bom bắt đầu dội xuống những khu rừng bị đánh dấu nghi hoặc trên bản đồ là có quân Bắc Việt chui lủi hoạt động. Bởi nước Mỹ là kho vũ khí khổng lồ nên quân đội Sài-gòn có thể ném bom một cách hào phóng, kiểu như các công tử tỉnh Bạc Liêu thời xa xưa ném tiền vào canh bạc. Nhờ cơ may đó, anh tìm gặp được một tốp lính bị bom diệt trọn gói, và trở lại quân đội dưới tấm thẻ quân nhân : Thượng sĩ bộ binh Hoàng An, dân tộc Tày, quê Đồng Mỏ, Lạng sơn.
Anh được sáp nhập vào đội quân gom góp từ tất cả những tiểu đoàn, đại đội, trung đội bị xoá sổ rồi sau đó không lâu, lại sáp nhận vào một cánh quân khác. Trú ẩn dưới cái tên của một người đã chết, anh hiểu rằng cuộc sống của anh giờ đây chỉ còn lại một mục tiêu. Ngày đó, anh thề trước đất trời :
Nông văn Thành đã chết vĩnh viễn.
Chí văn Thành cũng vĩnh viễn chết theo.
Chỉ còn lại trên cõi đời một kẻ tên là Hoàng An mà thôi. 

Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG
- Keeng keeng keeng keeng....
- Keeeng keeng keeng keeng keeng....
Thanh tà-vẹt treo trên cây sấu đung đưa một cách bạo liệt. Gã trai to lớn, vẻ thô kệch và hung dữ, hẳn là vừa được tuyển từ công trường xẻ đá hay trạm cưa gỗ về đang ra sức gõ cây búa đại lên tấm tà-vẹt để báo hiệu giờ ăn sáng. Cái dụng cụ thô kệch này xem ra hữu dụng bởi tiếng kẻng ngân nga vang dội khắp các khu nhà bệnh viện, có lẽ chỉ thua có tiếng còi xe cứu hoả mà thôi.
Khi tiếng kẻng dứt, cũng là lúc xe chở thức ăn sáng cho bệnh nhân từ phía đầu hành lang tiến đến. Từ các phòng, đám người chăm sóc bệnh nhân lục tục xách cà-mèn hay tô đĩa ra nhận phần ăn sáng cho người thân; Vũ lặng lẽ quan sát họ, cái xã hội thu nhỏ, nơi chiến trường giữa sự sống và cái chết, nơi sợ hãi đau khổ lẫn hy vọng nhào trộn, trở nên nhù nhoà mờ nhạt với tháng năm, nơi đa phần con người sống như sự thực hành đơn giản một thói quen.
― Nhưng đâu chỉ đám người vô danh tá túc trong những dãy nhà ngột ngạt này chấp nhận kiểu sống như vậy ? Ngay cả những kẻ thông minh trác tuyệt, hoặc ít nhất cũng đã từng được coi như kiểu mẫu của sự sáng suốt, của tính chính trực và tinh thần tự trọng cũng nhiều phen chấp nhận cuộc sống tầm thường như đám đàn bà quê mùa đang chen chúc nhau quanh xe thực phẩm kia.
Đương nhiên, họ chẳng cần dán mắt hau háu nhìn vào cái muôi đang khuấy nồi cháo thịt, hoặc đo đếm xem xuất bánh cuốn cô hộ lý chia cho mình có đủ tám chiếc hay chỉ có bảy chiếc thôi. Đương nhiên, họ cũng không đau khổ vì thiếu một chiếc chăn mùa đông hay thiếu vài đồng đưa cho con lên đường ngày nhập ngũ. Nhưng xét một cách thực sự, họ cũng chỉ sống đúng như những cái máy thao tác những động tác đã đưa sẵn vào lộ trình, hoặc đúng hơn, như những con rối múa may theo các tích tuồng viết sẵn.
Vào buổi sáng được tin cô Xuân bị giết, ông đã tới gặp những con người được coi là ― kiểu mẫu lương tâm. Lúc đó, chưa đến giờ làm việc nên ông cho xe phóng thẳng đến nhà riêng của họ. Trước tiên, ông lên gặp thủ tướng Tô. Ông không phải chờ một phút vì chính ông ta cũng đã thức dậy, quần áo chỉnh tề ngồi trong phòng làm việc. Trước mặt là tách cà-phê và cuốn ― Đại Việt sử kí toàn thư, cuốn sách mà lần nào tới cũng thấy đặt trên bàn. Cuốn sách kinh niên ấy đang mở và chủ nhân đang đọc sách một cách chăm chú đến mức mặt cúi gằm xuống gần như sát vào trang giấy. Khi Vũ bước vào, ông ta vội vã đứng lên, nhưng không phải để bắt tay ông theo phép lịch sự mà là để đóng chặt hai cánh cửa phòng. Lúc quay lại, gương mặt ông ta đầm đìa nước mắt.
- Anh...
Vũ vừa cất lời, thủ tướng đã vội xua tay ra hiệu cho ông im tiếng. Rồi ông ta nhắm mắt lại và những dòng nước mắt tuôn chảy không ngừng từ cặp mắt nhắm nghiền ấy. Cầm lòng không đậu, Vũ cũng khóc theo. Cứ như thế, cả hai cùng khóc. Thủ tướng đứng tựa lưng vào cửa còn ông đứng ngay giữa phòng. Hai người đàn ông đối diện nhau, không thốt một lời, không phác một cử chỉ, không làm gì hơn là đầm đầm trút lệ. Họ cùng khóc như những người đàn ông khác cùng uống trà hay cùng nhâm nhi ly rượu. Khóc một cách thầm lén, ghìm giữ nhấn nuốt tiếng nức nở vì sợ lính gác ngoài hành lang nghe thấy. Họ khóc, trong sự tự kiểm soát và trong im lặng. Chính lúc ấy, ông hiểu thế nào là đau khổ và nhục nhã. Những dòng nước mắt lai láng của họ vừa là để tiếc thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh vừa là cơn thổ lộ những nhức nhối trong tâm can. Một gã đàn ông bất lực thảm hại hơn mười lần một người đàn bà yếu đuối. Bởi nó sinh ra để làm đàn ông, sinh vật tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy. Một bậc nam nhi bất khả hành động, chỉ biết dìm cay đắng hay uất hận trong nước mắt nào khác chi đứa trẻ lên năm ? Có lẽ vì ý thức được điều đó nên ông ngẩng lên trước tiên, lau mặt. Trong khi đó, thủ tướng vẫn tiếp tục khóc, những ngón tay dài và mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Vũ chú ý đến những ngón tay ấy bởi người ta thường gọi kiểu tay ấy là tay búp tháp. Những ngón tay ấy run rẩy từ gốc lên ngọn, giống hệt những cọng lau run rẩy trước cơn gió dữ:
― Phải chăng vì bản chất thư sinh nên ông ta bị áp chế và biến thành một thứ búp-bê thông thái trong bộ máy quyền lực này ?...
Vũ nghĩ hoài điều đó trong khi chờ thủ tướng ngớt cơn xúc động. Tô đã khóc rất lâu, từ rất lâu trước khi ông bước vào phòng. Cuốn ― Đại Việt sử kí toàn thư mở ra là để hứng những dòng lệ tuôn như suối. Hai trang sách phồng rộp lên từng đám vì ngấm nước:
― Ông ấy không chỉ khóc cho cô Xuân. Ông ấy khóc cho cả bản thân mình. Chắc chắn là như thế !
Vũ bước đến, đặt tay lên vai thủ tướng thay cho lời chào trước khi quay ra :
« Ta sẽ chẳng kiếm được một chút cỏn con sự trợ giúp nào từ con búp-bê thông thái này, ngoài những dòng lệ sướt mướt. Cái dinh thự nguy nga trước mắt ta chỉ là một toà nhà vô vọng...Nhưng ta cũng chẳng thể buông xuôi tay...Còn nước còn tát ».
Xuống đường, ông bảo lái xe :
- Bây giờ chúng ta tới nhà đồng chí phó bí thư. Giờ này hẳn đồng chí ấy chưa đến phòng làm việc.
- Vâng. Còn một tiếng rưỡi nữa mới tới giờ hành chính.
Người lái xe lượn trở lại đường Hoàng Diệu, con phố nổi tiếng vì là nơi cư trú của các bậc « Lương đống triều đình ». Hai hàng cây bên hè đứng im như hoá đá trong sương lạnh. Vũ bảo người lái xe dừng lại nơi ngã ba cho ông xuống rồi anh ta có thể tự do vào phố tìm quán điểm tâm. Đoạn, ông thả bộ đến nhà phó bí thư Thuận. Ngôi nhà này vốn dĩ đã là biệt thự kiên cố của một quan chức Pháp. Nhưng ban quản trị trung ương đảng lại sửa chữa cho thêm phần an toàn. Họ thay thế hàng rào bằng tường kín, cho xây thêm cổng phụ và chòi canh khiến cho người đứng ngoài nhìn vào, có cảm tưởng đây là nhà tu kín hay kho vũ khí. Vũ dừng lại trước thanh chắn cổng đồ sộ, sơn khúc trắng khúc đỏ như kiểu các thanh chắn nơi bến ga bến tàu. Một ổ khoá to hơn bàn tay treo lủng liểng nơi cổng chính. Chưa đến giờ mở cổng chính nhưng người lính gác đã nhìn thấy ông, vội bước ra chào rồi mở cánh cổng phụ cho ông bước vào. Đoạn anh ta lại chui vào chòi gác, nhìn theo. Vũ cảm thấy cái nhìn đó dính vào lưng ông. Sự xui khiến của linh giác báo cho ông rằng từ nay, bất cứ nơi nào ông đặt chân tới đều bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi những cặp mắt người trần cũng như những ống kính được nguỵ trang :
« Ta không ngờ tình thế đến nỗi này. Nhưng đã muốn chơi thì chấp nhận chơi. Xem chúng bay làm gì được ta ? »
Bản tính Vũ hiền lành nhưng khi bị thách thức ông đột nhiên trở thành lì lợm. Ông bước thẳng đến toà biệt thự. Lúc đó, chủ nhân cất tiếng ông gọi từ khu vườn bên trái :
- Tôi ở đây. Vũ ơi.
- A.
- Tôi ở đây cơ. Cậu không thấy những luống hồng vàng đang nở rộ à ? Lại đây. Đợt hoa này chỉ kéo dài vài tuần lễ thôi mà giống hồng này đặc biệt quý hiếm và khó chăm sóc.
Thuận đang đứng trong vườn, mặc bộ pi-ja-ma xanh da trời sọc trắng. Quả thật trước mặt ông ta là một vườn hồng vàng đang nở rộ. Những cánh hồng mướt mịn như nhung mỏng. Màu vàng của chúng chung chiêng giữa vỏ chanh chín với lòng đỏ trứng gà. Một thứ màu nhẹ nhàng mơ ảo. Một thứ màu phơn phớt như hồ nghi, như có thể bay lên tựa cánh chuồn cánh bướm, như có thể bốc hơi tựa làn sương.
Giá như ở hoàn cảnh bình thường, cảnh tượng thật đáng chiêm ngưỡng. Nhưng lúc ấy, mọi vẻ đẹp đều khiến ông sôi máu :
- Vườn nhà anh đẹp thật. Hoa hồng nhà anh tuyệt thật.
Vũ vừa nói vừa tiến lại phía chủ nhân với nụ cười :
- Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một vườn hồng tươi đẹp nhường này. Thiên thai cũng chỉ đến thế mà thôi. Trên đời này dễ mấy ai được hưởng ?
Thuận im lặng trước câu nói không che đậy vẻ khiêu khích lẫn sự móc máy chua chát. Ông ta tiến đến phía Vũ, chìa tay ra bắt rồi hạ giọng thì thào :
- Tôi đứng ở đây là để chờ cậu. Không cần gây sự với tôi. Chúng ta đi về phía cuối vườn để có thể nói chuyện một cách an toàn.
Họ đi song song hai bên luống hồng và tiến về phía cuối khu vườn, nơi các luống hồng bị ngăn lại bởi một hàng diên vĩ. Dãy cây này viền quanh một vạt đất chạy dọc chân tường lan sang tận khu vườn đối diện tạo thành hình chữ L. Vạt đất ấy trồng cỏ kim. Hai người đứng giữa đám cỏ xuân xanh rờn. Nếu không cất lời, có thể nghe rõ tiếng gió thì thào trong đám cây dâu da nơi góc tường vọng lại.
Đưa mắt nhìn quanh, Thuận gật gù :
- Ở đây, cây sậy thành Ba-tư không mọc được.
Rồi quay sang Vũ, hỏi :
- Ai báo tin cho cậu sáng nay ?
- Một giọng nguỵ trang, vẻ như bịt mũi hay bị ốm. Còn anh ?
- Cũng chính cái giọng ấy báo tin cho tôi, vào lúc chưa đầy năm rưỡi.
- Với tôi, cũng chính vào giờ ấy.
- Theo cậu, ai là kẻ có thể báo tin này cho chúng ta, với cái giọng méo mó một cách cố tình như vậy ? Sao anh lại hỏi tôi ? Anh là uỷ viên bộ chính trị, phó bí thư đảng. Nói theo kiểu ngày xưa, anh là một trong tứ trụ triều đình. Còn tôi ? Tôi chỉ là một gã loèn quèn, đứng dưới anh không biết bao nhiêu cấp ngạch; nếu hiểu một cách thuận lý, chính tôi mới là người được quyền hỏi anh.
Thuận im lặng thở dài, ông ta cúi nhìn thảm cỏ kim dưới chân như muốn tìm trong những lá cỏ li ti kia lời giải đáp. Lát sau, ông ta giãi bầy một cách chậm rãi :
- Tôi biết tôi có lỗi, bởi chính tôi là người cam kết bảo đảm an toàn cho ba mẹ con cô Xuân trong phiên họp quyết định của bộ chính trị về vấn đề này.Tôi không ngờ cơ sự xảy ra.
- Anh không ngờ ? Hay là anh có ngờ nhưng anh buông tay cho kẻ khác hành động ?
Thuận ngước lên nhìn ông :
- Tôi cũng là con nhà có dạy, được học hành tử tế, Vũ ạ. Bởi thế, tôi xin cậu đừng đổ ngờ cho tôi những điều bỉ ổi như vậy. Nếu không vì tôi thì ít nhất hãy vì lòng khoan dung trước vong linh những người sinh trưởng ra tôi. Họ đều là những người tử tế. Tôi không nói dối, trước hết, với một người như cậu.
Giọng ông ta rung động và hai cánh mũi dầy thịt của ông ta bắt đầu hoe hoe đỏ. Vũ biết rằng ông ta nói một cách chân thành và sự thành thực ấy rụi bớt một phần ngọn lửa căm giận đang cháy phừng phừng trong tim ông.
Thuận tiếp tục :
- Lỗi của tôi chính ở chỗ tôi không học được chữ ngờ. Tôi không dò nổi những ngóc ngách tối tăm trong tâm địa con người. Tôi vẫn nghĩ như hồi còn sống trên chiến khu : khi bộ chính trị đã đồng lòng thì mọi việc cứ thế tuần tự như tiến, chẳng cần suy tính. Sự việc này khiến tôi ngã ngửa người. Thế cờ đã đổi, thời cuộc đã thay mà tư duy của tôi vẫn giản đơn như những năm quá khứ.. Giờ, sự đã rồi, tôi biết làm sao ?
Vũ tức khắc ngắt lời :
- Sự đã rồi và giờ đây anh thở than rằng biết làm sao ? Nói nghe đơn giản thật! Này anh Thuận, hãy cố gắng đặt mình vào địa vị của người khác, dù chỉ một lần. Lúc này, anh đang đứng nói chuyện với tôi. Nhưng lát nữa, chỉ cần bước chưa đầy một trăm bước chân là vào đến ngôi nhà lộng lẫy kia, trong đó nào vợ nào con nào cháu nội cháu ngoại....cả một bầu đoàn đông đúc. Trong cái bầu đoàn ấy, chẳng ai phải chịu cảnh cô đơn trơ trọi, cũng chẳng đứa bé nào rồi đây sẽ phải chịu cùng một lúc kiếp mồ côi lẫn kiếp lưu đầy. Những đứa trẻ bị lưu đầy trên chính quê hương mình.
Lảng tránh cái nhìn xoi mói và phẫn nộ của anh, Thuận đưa mắt nhìn cụm dâu da nơi góc tường tiếp giáp cổng chính, hạ giọng :
- Tôi biết rằng tôi có lỗi với ông cụ.
- Anh nghĩ gì về con người đó ? Giờ đây ông cụ sẽ sống ra sao khi chính những kẻ vẫn mệnh danh là anh em đồng chí giết hại người ruột thịt của mình ? Hay các anh, mười hai con người quyền lực nhất nước này cho rằng ông cụ không phải là con người mà chỉ là gỗ đá ? Vì rằng chính anh là người đầu tiên và người can thiệp quyết liệt nhất để bãi bỏ đề nghị công khai hoá quan hệ của anh Cả với cô Xuân. Vì rằng ý kiến của anh có tính chất quyết định, có sức mạnh thuyết phục thậm chí khống chế nhiều người khác. Tôi đã hỏi kĩ anh Tô về cuộc họp ấy.
- Tôi biết rằng cậu đang vô cùng căm giận, chẳng những riêng tôi mà tất cả những ai bãi bỏ mối quan hệ này. Nhưng thực tình, chúng tôi hành động chỉ vì quyền lợi của dân tộc, và cũng vì uy tín của chính ông cụ.
- Tôi đã nghĩ mãi về cái điều mà các anh thường gọi là uy tín của cán bộ lãnh đạo, là thần tượng hay hình ảnh người dẫn đường cho nhân dân. Tôi thấy đó là thứ lý thuyết kì cục và khiên cưỡng. Cuộc đời này đầy rẫy những người đàn ông lớn tuổi yêu đương say đắm những người đàn bà trẻ hơn mình. Không chỉ trong hàng vua chúa mà trong cả đám dân đen. Nếu tôi không nhần ngay ông nội anh cũng có một nàng hầu hai mươi tuổi khi ông cụ đã bảy mươi hai. Điều này là thực hay là bịa ?
- Điều đó là thực, dù ông nội tôi chỉ là chánh tổng. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ ngủ trưa, gối đầu lên đùi người đẹp hai mươi tuổi đó và nàng ta phe phẩy quạt hầu. Tôi cũng nhớ rằng bà nội tôi ăn cơm với hai người trên nhà chính còn gia đình chúng tôi ăn cơm riêng ở nhà ngang. Tôi cũng nhớ rằng nàng hầu này lảy kiều rất hay và khi ông tôi hứng lên thường yêu cầu chị ta hát chầu văn phục vụ khách khứa..Tất cả đều rất thực, Vũ ạ. Nhưng riêng với anh Cả, sự đó không thể chấp nhận vì ông cụ không thể chỉ sống riêng cho bản thân. Ông cụ là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho cả dân tộc.
- Vì là ngọn đuốc soi đường nên ông cụ buộc phải thiến như đám hoạn quan thời xưa hay buộc phải sống chui lủi như kẻ buôn lậu ? Cái trò này chính các anh đã đặt bầy. Khởi sự từ việc cử cô Minh Thu vác chiếu vác chăn đến ngôi nhà sàn trên chiến khu. Nếu bây giờ, tổ chức đảng yêu cầu anh lấy cô Minh Thu thay vì người đàn bà mà anh đang chăn gối, anh tính ra sao ?
Thuận im lặng. Ông ta lại cúi xuống tiếp tục nhìn chăm chú thảm cỏ dưới chân. Một đám diệp lục mềm mại tựa lông nhung và trông ngon lành như có thể ăn được.
Vũ tiếp tục:
- Tôi không hiểu nổi danh từ đồng chí hay chiến hữu mà các anh nói như hát trên đầu lưỡi. Thực tình, tôi không hiểu. Từ xưa đến nay, loài người liên kết được trước hết là nhờ sự cảm thông. Đám chúng sinh thấp cổ bé họng cũng biết nói câu : ― Ai cũng xương cũng da, dao cắt vào thịt nào cũng chảy máu „. Người theo đạo Phật ắt biết câu nói nổi tiếng của Thích ca :― Máu ai cũng đỏ và nước mắt ai cũng mặn „ Đạo Thiên chúa cũng dậy con người chớ gây cho kẻ khác điều mình không muốn. Dù tôn giáo
phương tây hay phương đông, con người đều được học cách cư xử như vậy. Huống chi các anh, những kẻ tự coi là tinh hoa của dân tộc, là lớp người có đủ thông minh lẫn can đảm, nòng cốt của một đảng bách chiến bách thắng ? Trở lại chuyện gia đình anh Cả, tôi cần nhắc anh nhớ lại một trường hợp tương tự trong lịch sử, đó là chuyện tình giữa Nguyễn công Trứ với người vợ ba của ông. Vị quan lớn đa tình và đa tài này từng nói một câu nổi tiếng : ― Ngũ thập niên tiền...
Thuận gật đầu, đọc tiếp :
- ― Ngũ thập niên tiền, nhị thập niên― Năm mươi năm về trước ta là chàng trai hai mươi tuổi. Đấy là cách diễn đạt hết sức khôn ngoan dí dỏm với bạn tình...Ngay với mối tình lãng mạn ấy, Nguyễn công Trứ vẫn là một gương mặt hiển hách trong lịch sử. Chuyện đó nữa, tôi cũng có nhớ, Vũ ạ, chỉ có điều là ...
- Chỉ có điều là ...sao ?
- Có điều là chính ông cụ cũng chấp nhận sự hy sinh ấy. Chính ông cụ cũng không phản bác.
- Trên nguyên tắc biểu quyết, một mình ông cụ không thể thắng nổi mười hai người. Nói cho thật cặn kẽ chỉ một mình anh Tô muốn ủng hộ ông cụ. Nhưng sau rốt bị đám đông uy hiếp nên anh ta đành đổi hướng theo các anh. Như thế, về lý, ông cụ là tuyệt đối thiểu số. Còn về chữ tình, không nói cũng hiểu rằng ông cụ trông mong ở sự thông cảm của các anh, những người xưa nay vừa là đồng chí vừa là đàn em. Từ ngày khởi đầu cách mạng cho đến lúc này, mọi sự vẫn diễn ra như vậy. Có điều ông cụ không nhận ra rằng tình thế đã đổi thay. Rằng những ngày xưa thân ái đã chết rồi. Và nó đã bắt đầu chết một cách thật sự ngay khi các cánh quân rời bỏ núi rừng để tiến về năm cửa ô thành phố. Rằng giờ đây tất cả anh em đồng chí chỉ còn là đám người buôn chung một món hàng trên một con tầu vượt đại dương mà vì tiền lời của món hàng đó, các anh có thể quẳng xuống biển bất cứ kẻ vô tội nào cho nhẹ gánh. Rằng trước mắt các anh, ông cụ chẳng còn là bậc huynh trưởng thân thiết mà chỉ đơn thuần là con vật hiến tế cho vị thần cách mạng. Cuộc cách mạng này trước hết đem lợi nhuận cho các anh, những kẻ toạ hưởng kì thành. Điều ấy tôi nói sai hay đúng ?
Thuận không trả lời, ông ta đứng như bức tượng, dán mắt vào mũi giầy, loại giầy hở gót đi trong nhà, bằng da bò đột lỗ. Vũ cúi nhìn đôi giầy yểu điệu ấy và không hiểu vì đâu nó khiến cho ngọn lửa trong lòng ông bỗng nhiên bốc cao như được tưới dầu :
- Anh là người nhiều chữ nhất trong số mười hai nhân mạng ở bộ chính trị. Anh thông thạo cả tiếng Tàu lẫn tiếng Pháp, anh thuộc làu kinh điển cổ lẫn kim. Anh thừa biết rằng nếu ông cụ lấy cô Xuân thì cũng chỉ là đàn ông một vợ đàn bà một chồng, chưa đến mức đa thê như quan thượng thư Nguyễn công Trứ. Hãy trả lời cho tôi rõ, tại sao Nguyễn công Trứ có thể mà ông cụ thì không ? Đã bao giờ anh tự đặt câu hỏi này chưa ?
- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều này.
Thuận thú nhận một cách chậm rãi, dường như vừa nói vừa nhai mỗi lời vừa thốt ra khỏi miệng :
- Thành thực mà nói, đúng là tôi chưa từng nghĩ tới điều này.
- Vậy thành thực mà nói, anh nghĩ tới điều gì ? Cái gì chứa chất trong sọ não của các anh, những kẻ tự xưng là đàn em thân thiết của ông cụ ?
Thuận không đáp.
Vũ cảm thấy một cách vô cùng chân xác dòng thác lửa đang cuồn cuộn chảy. Một dòng thác lửa. Chúng sắp nhấn chìm ông , sắp biến ông thành tro than. Và cùng với ông, những kẻ liên đới. Ý muốn tàn sát thiêu huỷ khởi dậy trong tâm hồn ông. Ông nhìn thấy cơn ham muốn đó nở phình ra như trái bóng bơm căng. Một ham muốn điên cuồng :
« Ta phải chạy khỏi nơi đây. Ta phải đi ngay cho khuất mắt. Ta không thể chịu đựng được cái gã mặc bộ đồ pi-ja-ma sọc và đi giầy hở gót này. Cái gã đàn ông đang nhởn nhơ thở hít vườn hồng ngào ngạt của y. »
Vũ thầm nghĩ. Cố gắng dằn cơn thù hận, ông nói :
- Tôi phải về, vì còn hai đứa con ông cụ. Tôi báo cho anh biết trước nếu anh không tức khắc ngăn chặn, lũ côn đồ sẽ tiếp tục ra tay và sinh mạng hai đứa trẻ phải tiêu vong. Lúc ấy, e rằng chính anh cũng không sống nổi nếu anh vẫn còn có lương tâm, cho dù một mảy lương tâm rơi rớt..
- Này Vũ...
Thuận không tỏ ra một chút bực dọc. Ông ta vẫn cúi xuống, dán mắt vào vườn cỏ như muốn tìm một thứ trợ giúp tinh thần hoặc một niềm an ủi trong những lá cỏ xanh :
- Tôi biết cậu giận tôi lắm. Cậu chưa đến mức căm thù hay manh động đã là may. Bởi ai cũng biết cậu là người gắn bó nhất với ông cụ trong đời sống tình cảm. Rằng hồi ở chiến khu chính cậu đã sang bên thành đoàn để gặp gỡ cô Thanh Tú. Cũng chính cậu can thiệp để cô Minh Thu thôi vác chăn vác chiếu đến ngôi nhà sàn. Rồi cũng chính cậu dẫn cô Xuân đến nơi ấy. Rằng cậu là người duy nhất mà cô Xuân tin cậy và phó thác tổ chức cuộc đời. Rằng cậu cũng là người duy nhất mà ông cụ có thể nói mọi chuyện một cách không kiêng dè, không ý tứ. Chúng tôi chưa quên những cuộc gặp gỡ tay đôi. Chỉ cần nghe tiếng cười của hai người là đủ hiểu mối thâm tình đến đâu. Ngày ấy, chúng tôi thầm cảm ơn trời đất đã giun rủi cho ông cụ gặp người đàn em chung tình hợp ý. Vì chúng tôi ai nấy đều bận bịu gia đình riêng, chỉ có cậu tự nguyện chia xẻ thời gian cho ông cụ mà thôi. Chúng tôi cũng biết rằng chính
vì mối thân tình đó mà cậu phải chịu thua thiệt bởi ông cụ giữ ý, chẳng bao giờ đề nghị một ưu đãi, thậm chí một thăng tiến ngoại lệ. Phần cậu, cậu cũng lại e dè vì mối thân tình ấy nên lặng lẽ chấp nhận mọi thiệt thòi. Sự hy sinh ấy buộc chúng tôi dù muốn hay không cũng phải tôn trọng cậu. Nhưng về phần tôi, tôi cũng đề nghị cậu cảm thông, nếu điều ấy là khả thể. Quả tình, tôi không ngờ sự việc diễn tiến theo chiều hướng xấu xa này. Quả tình, tôi chỉ muốn ông cụ giữ quan hệ riêng trong bóng tối để có thể bảo đảm tuyệt đối hình ảnh vị cha già dân tộc, vị gia trưởng dành toàn bộ tâm tình và nhiệt huyết cho đại gia đình tổ quốc. Tôi tin rằng việc sắp xếp của mình là thuận lý. Chính tôi đề nghị ông cụ khuyên cô Xuân chấp nhận sống ở căn gác hẹp khu phố cổ như một lương dân. Bởi tôi tin rằng tấm gương giản dị ấy khiến cho ông cụ có nhiều uy tín hơn với anh em.
- A ! Chính là anh ? Chính anh là người quyết định việc này ?
Vũ cất tiếng kêu kinh ngạc :
- Vậy mà tôi đã cãi cọ không biết bao nhiêu lần với văn phòng quản trị trung ương đảng. Cũng hẳn là vì lẽ đó mà họ phải nín nhịn trước những lời sát phạt của tôi. Giờ tôi biết anh mới chính là thủ phạm còn họ chỉ là những kẻ đi đổ vỏ ốc.
Ông ngừng lại một khoảnh khắc để chắp vá lại những mảnh hồi ức, rồi hỏi :
- Nhưng nếu để tạo uy tín bằng thứ khổ hạnh chủ nghĩa này tại sao chính anh không thực thi trước ? Tại sao anh không chấp nhận một mái nhà tranh có hàng dậu bìm bìm ở ngoại ô mà anh lại ngự toạ trong biệt thự đồ sộ này ?
- Cậu quên là tôi đang phải điều hành công việc của đất nước.
- Vậy thì ông cụ là hình nộm của các anh ?
- Ông cụ đứng cao hơn chúng tôi một cái đầu. Ông cụ là lãnh tụ tối cao của dân tộc.
- Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao nên người đàn bà ngủ cùng giường với ông cụ phải trú ngụ trong căn gác bình dân nơi ngõ hẹp. Còn người đàn bà ngủ với anh được quyền sống thênh thang trong ngôi biệt thự hoành tráng này ? Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao, là linh hồn đất nước nên người vợ trẻ của ông cụ bị các anh giết như giết một con thỏ còn những người đàn bà ngủ với các anh, tôi nói rõ ở đây là các anh, trong đó bao gồm cả vợ tôi nữa được quyền cưỡi xe Volga đi chợ và mua áo quần, bánh kẹo lẫn các đồ mỹ phẩm ở cửa hàng quốc tế ? Dựa trên nguyên tắc đạo đức nào mà các anh tự cho phép mình được làm những điều ấy ?
Vũ ngừng lại vì cơn giận khiến ông dường như nghẹn thở. Thuận không đáp, ông ta lấy chân di di một vật nào đó vô hình trên thảm cỏ, không ngửng đầu lên. Một cơn gió xuân lạnh lẽo lướt qua khung trời và những vòm lá dâu da khẽ xạc xào thầm lén. Hồi lâu, Thuận húng hắng cất tiếng ho và buông từng lời rời rạc :
- Tôi xin lỗi. Tôi rất tiếc là cuộc thảo luận của chúng ta đi vào ngõ cụt.
- Đi vào ngõ cụt là bởi các anh từ chối nhìn vào trách nhiệm của mình...Các anh giống lũ trẻ con định ném cái tổ chim nhưng khi viên đá trúng vào ai đó khiến họ vỡ đầu, ngã lăn quay và đổ máu thì các anh bỏ chạy. Sự ví von ấy có chính xác hay không ?
- Tôi chưa có câu trả lời cụ thể của anh Sáu. Sáng nay khi tôi gọi điện, anh ấy vắng nhà. Thư kí thường trực báo rằng anh ấy đang xuống bãi thể thao chạy bộ. Tôi cho rằng đây là sự lộng hành của bộ trưởng bộ nội vụ. Có thể là anh Sáu chỉ đưa ra chỉ thị chung chung. Rồi sau đó, Quốc Tuỳ đã vận hành theo lối suy nghĩ côn đồ của anh ta. Hồi bổ nhiệm anh ta , tôi cũng đã gợi ý anh Sáu về lý lịch tội phạm của tay bộ trưởng này. Nhưng anh Sáu gạt đi, nói rằng chúng ta phải tin tưởng ở khả năng cải biến và hoàn thiện con người của cách mạng.
- Có nghĩa rằng sự việc nằm ngoài lãnh địa của anh. Nói một cách đích xác hơn anh không có trách nhiệm gì.
- Tôi rất tiếc là chuyện xảy ra theo hướng tồi tệ như vậy. Tôi sẽ hết sức cố gắng. Tuy nhiên, cậu cũng cố gắng hiểu cho tình cảnh của chúng tôi.
Nói đoạn , Thuận đưa tay chỉ cho ông hàng diên vĩ lá xoăn viền quanh thảm cỏ như giải đăng-ten viền quanh cổ áo đàn bà :
- Cậu hãy nhìn kia.
Vũ cúi xuống nhưng ông chẳng nhìn thấy gì hết ngoài những chùm lá màu tía. Những chiếc lá bóng nhẫy, no nê nước, được chăm sóc thường xuyên khiến vườn cảnh thật mỹ lệ. Nhưng vẻ đẹp thanh nhàn ấy càng khiến ông điên tiết . Vũ cau có gắt :
- Tôi chẳng thấy gì hết ngoài sự mỹ miều của khu vườn này ; mà sự mỹ miều đó giờ đây giống như cái gai chọc vào mắt của tôi.
Thuận chẳng tỏ vẻ phật ý . Nét mặt có đôi phần ngơ ngác và rầu rĩ, ông ta giơ tay kéo áo Vũ để chỉ cho ông thấy một cái màng nhện lớn chăng giữa hai cành diên vĩ, trên đó một con ruồi mắc lưới đang ra sức dãy dụa :
- Cậu có nhìn rõ con ruồi trên tấm lưới nhện kia không ? Phải chăng nó không gợi cho cậu một liên tưởng nào ? Thủ tướng Tô cũng như tôi rất dễ rơi vào thân phận của con vật khốn khổ đó. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Chính cái chết của cô Xuân đã mở mắt cho tôi. Tình thế đã đổi thay. Cuộc cờ đã xoay sang nước khác. Cậu hãy nhìn quanh chúng tôi xem : lính gác, cần vụ, người nấu bếp, người làm vườn, lái xe, thậm chí đến đầy tớ lau dọn nhà cửa và công nhân đổ rác khu vực này đều là người của họ. Mới có vài năm mà mọi sự đã đổi thay. Hai năm trước chia nhau bữa cơm gạo đỏ với cá mắm trên rừng, tất thảy đều đồng lòng nhất trí. Giờ nhà cao cửa rộng, mọi sự chẳng như xưa .
Vũ bất giác rùng mình. Ông chợt nhận ra sự hèn mọn của con người, kể cả những kẻ được coi là quyền cao chức trọng, những cái đầu sáng suốt nhất của dân tộc, những bậc lương đống của quốc gia. Nhìn thẳng vào mặt vị phó bí thư, ông cười :
- Điều quan trọng nhất và có tính quyết định nhất chính là sự đổi thay này : Ngày ở trên rừng mọi người đều dấn thân vì nghĩa lớn, sẵn sàng chờ đón mọi sự hy sinh kể cả cái chết. Còn giờ đây vì nhà cao cửa rộng, đầy tớ lẫn lính gác đầy sân nên họ chẳng còn chút khí phách nào của bậc trượng phu. Phú quý vinh hoa biến con người thành đám dê ngựa được thuần hoá.
Mặt vị phó bí thư đỏ lựng lên, hai cánh mũi tròn nung núc thịt của ông ta phập phồng. Ông ta quay mặt đi để lảng tránh cái nhìn của Vũ. Vũ tiếp tục nói :
- Dẫu xảy ra sự gì, tôi cũng phải bảo vệ hai đứa con của ông cụ....Còn anh, tuỳ lương tâm mà hành xử...
Nói xong, ông quay lưng bước đi.
- Chào anh.
- Để tôi tiễn cậu.
Thuận nói và hai người lại đi ngược chiều luống hồng để ra cổng. Vừa đi, vị phó bí thư vừa nói lời cuối :
- Tôi sẽ đưa vấn đề này ra bộ chính trị. Tôi sẽ can thiệp tối đa trong khả năng của mình. Tôi cũng sẽ xin lỗi ông cụ và hy vọng ông cụ thông cảm cho tôi.
- Tuỳ anh.
Vũ đáp một cách lãnh đạm, giơ tay cho ông ta bắt cũng với vẻ lạnh nhạt như thế. Rồi ông bước ra lối cổng chính vì giờ đây thanh chắn đã được nhấc lên, hai cánh cổng sắt nặng trịch đã mở rộng hết cỡ. Chiếc Volga bóng loáng rời ga-ra tiến ra, đậu vào vị trí chờ đợi. Còn mười lăm phút nữa là đến giờ hành chính. Ông nhìn thấy Thuận hối hả bước lên tam cấp để vào nhà. Thời gian vừa đủ cho ông ta thay quần áo.



Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (2)
- Cháo của bác đây.
Tiếng một người đàn bà nói sát bên tai khiến ông giật mình.
- Phần cháo sáng của bác đây. Mời bác về phòng ăn cho nóng.
- Cảm ơn cô.
Vũ vồn vã đáp. Cô y tá mang phần ăn sáng cho ông nhoẻn miệng cười rồi lắc cái đuôi tóc kết sam một cách yểu điệu trước khi quay đi. Vũ nhìn vào chiếc bát sắt tráng men : Cháo thịt đại trà ; thứ cháo nấu trong những chiếc nồi đại, cao gần như thùng chứa nhựa đường rồi sau đó được san vào những chiếc xoong nhôm lớn để chia cho hơn một ngàn con người trong viện. Một cơn rung mình bỗng chạy qua toàn thân Vũ. Ông bỗng khiếp sợ cái món ăn tập thể này. Hoặc là những kỉ niệm nặng nề khiến ông chán ăn, hoặc là cái chết của người cùng phòng làm món cháo trở thành thiu vữa. Hoặc là sự cộng hưởng của cả hai thứ.
Vũ đưa mắt tìm mấy người đàn bà chăm sóc người bệnh trong phòng của ông. Trong số đó, ông đặc biệt chú ý đến một bà già xương xẩu, cao lòng khòng nhưng vững trãi như một dàn giáo. Trước những con mắt hoặc là thán phục hoặc khiếp sợ của đám hộ lý cũng như y tá, bà ta thường bế bổng ông chồng lên đem vào phòng tắm như người ta bế bổng một đứa trẻ lên ba. Vậy mà nghe đâu ông chồng này đã bỏ bà ta mười năm dưới làng, để sống vụng với một nữ đồng chí trên chiến khu rồi sau ngày giải phóng thủ đô lại gối chăn với một bà goá đất Hà thành mỡ màng như miếng thịt mông luộc. Giờ, đến lúc gần đất xa trời, hẳn không thể nhờ cậy được ai nên ông ta lại yêu cầu con cái triệu hồi « bà răng đen váy ộp » lên nuôi. Bà già xứ quê không thể quen với xuất ăn bệnh viện. Chắc bà đói dữ nên Vũ thường xuyên thấy bà đi tầm những thứ bánh trái, khoai luộc sắn luộc về ăn thêm. Lúc này bà đang đứng xếp hàng, tay chìa sẵn chiếc đĩa nhôm ra chờ đợi xuất bánh cuốn của đức lang quân. Vũ liền bê bát cháo đến :
- Chào chị, hôm nay tôi nhạt miệng không muốn ăn. Chị có thể gánh vác giùm không ?
- Ồ, quý hoá quá. Em xin bác. Em chờ lấy bánh cuốn rồi đem về phòng một thể.
Bà đáp vui vẻ. Vũ chào bà rồi đi về phía đầu hành lang. Ông tính dạo quanh khu vườn vài vòng, khi nào mệt sẽ tới căng-tin uống cà-phê và ăn bánh rán. Ít ra, nó cũng không kinh sợ như món cháo loãng này. Cúi đầu, Vũ xăm xăm bước xuống cầu thang. Ông không nhìn thấy một người đàn ông đang đuổi theo mình :
- Chú Vũ....Chú Vũ...
- Chú Vũ....Đợi tôi đã....
Người khách gọi ba bốn lời ; Vũ mới sực tỉnh quay lại :
- Anh Bắc !
Ông anh đội mũ lá, quần áo nâu đồng bộ như một nông dân thực thụ, hai tay xách lễ mễ một đống túi lớn túi nhỏ.
- Em xin lỗi, em đang mải đi...
Hai anh em dừng lại giữa cây cầu thang, nhìn nhau. Người anh nói :
- Chẳng ai cho tôi biết tin hết. Mãi hôm qua con gái cô Thảo mới rẽ qua nhà.
Vũ cười :
- Đúng vậy. Vân không thể báo tin cho anh vì chính cô ấy gây ra cơn chấn thương tâm thể khiến em phải vào đây...Còn cơ quan, em yêu cầu họ không được cho anh biết vì không muốn anh lo buồn.
- Chú bậy quá! Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới, sao lại dấu tôi ?
- Vì anh đã có quá nhiều việc phải lo rồi.
Vũ đáp , đoạn cúi nhìn mớ túi xách lủng củng trong tay ông anh :
- Anh mang gì mà lắm thế ?
- Cam vườn nhà, chuối cũng vườn nhà, mật ong cũng chắt ở đõ ong nhà....Chỉ có mớ tôm biển là tôi mua và tự tay nướng thôi.
- Anh vẫn coi em như trẻ con hay sao ?
- Ô hay. Trẻ con hay người lớn thì chú cũng vẫn là em tôi.
Hai người nhìn nhau. Hai người đàn ông tóc muối tiêu, người em nhiều muối hơn tiêu, còn ông anh tiêu nhiều hơn muối. Một chút im lặng rưng rưng rồi ông anh ngượng nghịu cười :
- Tệ thật. Chú lo nhiều việc nên tóc trắng nhiều hơn tôi. Kiếp dân quê có cái khổ mà cũng có cái sướng. Ngày vài bữa cơm rau. Lặn mặt trời là cất tiếng ngáy, chẳng phải nghĩ ngợi gì.
- Anh mà không nghĩ ngợi được sao ?...
Vũ bật cười nhại lại rồi bảo :
- Thôi, đưa em cất mấy cái túi rồi anh em mình xuống quán trà uống nước...Trong phòng bệnh, mùi mẽ chẳng thơm tho gì. Anh cứ đứng đây chờ em.
Nói đoạn, ông xách mớ túi trở lại phòng. Sau khi xếp gọn gàng các thứ quà vào chiếc tủ nhỏ, Vũ quay lại cầu thang và hai anh em đi tới căng-tin bệnh viện. Ở đó, họ ngồi bên ấm trà im lặng. Cả hai nhẩm tính xem lần cuối cùng gặp nhau đã bao lâu. Rồi, gần như cùng một lúc, họ bật tiếng kêu :
- Thấm thoắt đã hai năm rưỡi.
Ông anh cải chính :
- Hai năm bảy tháng rưỡi rồi.
Cả hai người lại im lặng, như người nọ chờ người kia lên tiếng trước. Hồi lâu, Vũ bật tiếng kêu :
- Em nhớ mẹ quá, anh Bắc ơi.
Ông anh gật đầu :
- Tôi cũng vậy.
Ngừng lại một giây, ông nói thêm :
- Thật lạ lùng, càng về già càng giống trẻ con. Nhớ mẹ cứ như hồi lên năm lên sáu.
- Sáng nay, lúc bệnh viện chia cháo, em nhớ lại món cháo cá mà mẹ vẫn nấu thời xưa. Chỉ nghĩ thôi đã nhỏ dãi vì thèm.
- Ờ, mẹ nấu ăn ngon nức tiếng cả vùng. Chả thế mà cứ ở đâu có tiệc lớn người ta lại đến chèo kéo. Chú có nhớ đêm sang cát cho bà nội, mẹ nấu cháo cá quả đãi mấy chục người trong họ ?...
- Có, em như vẫn ngửi thấy mùi thơm của gừng tươi giã, thìa là hành tăm, hạt tiêu nghiền và ớt tươi dầm nước mắm cốt. Em vẫn nhớ cái ang rộng đặt đầu hồi mẹ thường nhốt cá quả để ăn dần. Lũ cá quẫy tanh tách suốt đêm.
Vũ ngừng lời, dường như nếu tiếp tục nói thì ông sẽ bật khóc. Cái ang cá ấy hai anh em ông thường ra chọc phá, nhiều phen làm lũ cá nhảy vọt ra sân. Có lần, trong cuộc tập trận giả của lũ trẻ toàn huyện, ông được đóng vai tướng Đinh bộ Lĩnh. Vì muốn phóng tay khao lũ trẻ cùng phố để xứng đáng là bậc anh hào, ông về nhà đòi mẹ nấu cháo khao quân. Đương nhiên, bà từ chối vì xưa nay chưa có ai chiều con để làm một việc rồ dại như vậy. Hôm sau, thừa lúc mẹ ông đi chợ, Vũ dốc cả một túi ớt bột hai lạng vào ang khiến lũ cá chết sặc. Trở về nhà, mẹ ông hiểu ngay sự tình. Bà đành đổi giận làm vui, làm thịt gần hai chục con cá lớn, nấu một nồi ba mươi cháo để khao đại quân của Đinh bộ Lĩnh phố huyện. Hơn bốn mươi thực khách tí hon được mời đến thưởng thức cháo cá và các loại bánh kẹo tráng miệng. Ông anh lúc đó phải thay mặt ― tướng quân Vũ „ đứng lên tuyên bố lý do ― Vũ tướng quân thết lính mừng chiến thắng „ Bởi sau khi gây tội ác, Vũ đã chuồn ngay sang nhà bà ngoại. Khi bữa tiệc kết thúc, đám trẻ trong huyện no nê xoa bụng ra về, ông Bắc bị phạt nằm úp mặt xuống chiếc chiếu trải giữa nhà, nhận một loạt mười hai roi tre vút lên mông vì tội a tòng phá hoại. Trong khi đó, Vũ yên trí nhởn nhơ dưới cánh tay che chở của bà ngoại, tuy thiệt mất bữa cháo cá nhưng bù lại được bà cho đi ăn phở và các bánh trái khác. Như thế, ba ngày đêm trôi qua. Tới ngày thứ tư, mẹ ông đến và réo từ ngoài ngõ :
- Vũ, mẹ tha tội cho con. Không phải trốn nữa. Đi về nhà.
Kỉ niệm đó khiến tim ông tràn đầy xao xuyến. Vũ thầm nghĩ :
― Anh ấy luôn luôn phải chịu đòn thay ta. Anh ấy luôn phải giơ vai ra đỡ những gánh nặng...Không chỉ tuổi thơ mà cho đến tận lúc này„
Bất giác, ông cúi xuống nhìn bàn tay người anh đang đặt trên bàn : đó là bàn tay nông dân thực thụ với những ngón tay thô nháp, đen rám vì nắng cháy, các vành móng tay thâm xì nhựa cây.Bàn tay ấy đặt cạnh bàn tay ông như một tương phản vô tình. Bởi từ lâu, ông chỉ làm việc trong văn phòng nên những ngón tay trắng nuột như tay đàn bà đẻ....Đã mười hai năm nay, Bắc phải để lại gia đình trên phố huyện, giao xưởng mộc nổi tiếng của ông cho đứa con rể điều hành để về sống nơi quê ngoại của bà mẹ, với danh nghĩa chăm sóc bà mợ già không chồng không con nhưng thực chất là để nuôi Nghĩa, đứa con gái cô Xuân. Ngày cô Xuân chết, Vũ cho người nhắn ông lên, bởi chẳng tìm ra ai gánh vác nổi việc này. Vợ ông, cõng thêm một đứa con trai đã là quá sức. Vả chăng, ai cũng biết rằng Vân ghét những người cùng giới tính. Bà có thể đóng vai hữu nghị trong chốc lát với một vài người đàn bà phổi bò hoặc ngu dốt, lợi dụng họ hay biến họ thành trò chơi, nhưng trong thâm tâm bà không muốn kết giao với bất cứ ai. Bà chỉ có thể làm bạn với đàn ông. Bà chỉ có thể nuôi một tình cảm thực sự với người khác giới. Bà yêu ông, nhưng ngoài ông, bà muốn có thường xuyên một đội ngũ đàn ông vây quanh bà, dưới tất thảy các loại nhãn hiệu như đồng chí, bạn đồng nghiệp, bạn đồng hương, bạn đồng niên, bạn đồng môn, chị em nuôi, cô cháu kết nghĩa...Thực chất, đám đàn ông này dù già hay trẻ đều xoay quanh người đẹp Hà thành như các hành tinh lớn nhỏ xoay quanh một vầng dương, sẵn sàng phục vụ bà khi cần thiết. Họ chiêm ngưỡng nhan sắc của bà, thèm khát bà một cách thầm lén, dù trong giấc mơ chính ngọ hay giấc mộng lúc nửa đêm. Như thế, người đẹp Tố Vân luôn sống với niềm kiêu hãnh của một nữ hoàng không ngai, tuy chẳng chính thức xưng danh nhưng không thiếu ánh hào quang bao quanh tên tuổi...Và như thế, trời không thể phú cho bà đủ lòng từ bi để chăm sóc một đứa con gái mồ côi....Hồi ấy, tuy chưa đủ can đảm để hiểu vợ một cách rạch ròi nhưng ông cũng biết chắc chắn không thể đưa Nghĩa về sống dưới mái nhà mình. Chẳng còn cách nào hơn là trông cậy vào tình ruột thịt. Ông sai lái xe về phố huyện mang lá thư vẻn vẹn một dòng :
― Anh thân mến, em cần gặp anh ngay, càng sớm càng tốt. „
Lái xe đi buổi sớm, tối sẩm quay về Hà-nội mang theo người anh cả . Buổi tối, ăn cơm xong, họ ra vườn hút thuốc. Ông Bắc hỏi :
- Liệu họ có để cho đứa bé yên thân sinh sống nơi thôn dã ?...Chú đừng quên rằng càng xa thủ đô, càng tối tăm...Côn đồ càng dễ ra tay.
Vũ đáp :
- Em lại nghĩ rằng ở xa, đứa bé sẽ an toàn hơn. Nó là phận gái, chẳng phải kẻ duy trì nòi giống nên không nằm trong ống kính của họ. Ở xa, họ bớt chú mục. Bớt chú mục ắt bớt động dã tâm.
Ông anh bảo :
- Vậy là được. Nếu chú đã thu xếp đầy đủ quần áo cho cháu bé, tôi sẽ đưa nó đi ngay đêm nay.
- Anh không cần đi ngay đêm nay. Lái xe phải ngủ. Nhưng sáng mai, em sẽ yêu cầu cậu ta đưa anh và con bé lên đường thật sớm. Tuy nhiên...
Lúc đó, chính Vũ lại tần ngần.
Ông thấy áy náy khi buộc người anh phải bỏ gia đình lẫn công việc để về sống nơi thôn dã, một cuộc sống thiếu ánh điện, thiếu mọi phương tiện sinh hoạt bình thường. Đang từ ông chủ một xưởng mộc lớn nhất ba huyện, ông sẽ buộc phải cấy lúa, làm vườn, kẽo kẹt đẩy xe thồ đi bán mít, bán ổi, bán dứa, bán bưởi, bán xoan...Đang từ bậc gia chủ ngày ngày có cơm bưng nước rót, ông sẽ phải sống trong ba gian nhà mênh mông tù mù ngọn đèn dầu hoả, phải tự nấu lấy mấy bữa cơm trong căn bếp mù mịt khói trấu, khói rạ. Ông sẽ phải chịu đựng nỗi nhớ vợ nhớ con. Ông sẽ phải chịu đựng cả nỗi nhớ nghề, bởi đó chính là một người thợ có đôi tay vàng, tất thảy những gì ông làm được người trong vùng trân trọng như những tác phẩm mỹ thuật. Đồ gỗ khảm trai của ông không chỉ để dùng mà còn được coi như gia sản di tặng cho con cháu. Gia đình nào cũng cố mua cho được một thứ gì đó, một chiếc tủ chè, tủ đứng, một chiếc búp-phê, hay một chiếc sập chân quỳ. Và hãnh diện khoe với láng giềng : « Đồ xịn nhà ông Bắc đấy ! »
Nghĩ đến nông nỗi ấy, Vũ đâm ra ngượng ngùng :
- Tuy nhiên, em nghĩ rằng...em thật là có lỗi với anh.
Ông Bắc lắc đầu :
- Chú không cần áy náy. Tôi biết phận mình đã lâu. Ngày chú còn ở trên chiến khu Việt bắc, mẹ ốm nặng nửa năm liền. Trước khi chết, mẹ dặn tôi : « Em con về già gặp nhiều điều khổ tâm lắm. Con đừng bỏ nó một mình. Tuy thiên hạ nói : Anh em kiến giả nhất phận. Nhưng nhà mình phải tuân theo câu này : Anh em như thể chân tay »
Đoạn ông dập điếu thuốc, đi ngủ.
Hôm sau, ông dắt đứa bé lên xe từ lúc còn mờ sương.
Mười hai năm trôi qua như giấc mộng.
Người anh đã trở thành nông phu đích thực, đúng như Vũ dự đoán, cho dù ông không cấy lúa. Tiêu chuẩn gạo của ông trên phố, vợ ông mua và chuyển về từng tháng, tiện thể bà ghé thăm chồng, thu xếp những thứ vặt vãnh mà người đàn ông không quen đảm nhiệm. Dưới thôn, một mình ông chăm sóc nương vườn. Vườn trước, vườn sau, trại trồng dứa, sân nuôi gà vịt, mười hai đõ ong nhà...Xoay sở từ sáng đến tối, chẳng ngày nào thiếu việc. Như thế, ông nuôi Nghĩa từ năm hai tuổi cho đến lúc này, đã trở thành cô thiếu nữ biết quán xuyến việc nhà, biết phụ bố đẩy xe thồ đi bán trái cây hoặc gia cầm vào ngày phiên chợ. Làng xóm gọi họ là bố con ông thợ mộc vì Bắc có đem theo mớ đồ nghề và những lúc rảnh rỗi, ông ngồi luyện tay đục tay chạm cho khỏi quên. Bà mợ của họ đã chết từ bẩy năm nay, thọ tám mươi hai tuổi. Nhưng Bắc vẫn ở lại miền quê cùng đứa bé.
Sau một hồi im lặng, Vũ cất tiếng hỏi :
- Cháu nó ra sao hả anh ?
- Nó khoẻ và ngoan, càng lớn càng hiền lành. Tôi e là nó quá hiền lành nhút nhát.
- Giỏ nhà ai quai nhà ấy. Mẹ nó xưa cũng hiền lành như vậy.
- Có điều năm nay nó đã tới tuổi dậy thì.
- Chết thật ! Sao em lại quên khuấy đi điều ấy nhỉ ?
Vũ kêu lên rồi nhẩm tính. Quả thật, đứa bé đã đến tuổi dậy thì. Thời xưa, còn tục tảo hôn, mười ba tuổi người ta đã lấy chồng cưới vợ. Ngày nay, ấy là tuổi bản lề để con người bước từ thời niên thiếu sang tuổi thanh xuân.
- Trời đất ơi, nước chảy bèo trôi, thời gian đi như tên bắn...
- Thế đấy, chú và tôi, chúng ta cũng đã già đi nhiều.
- Mười hai năm qua, anh đã phải xa chị và các cháu để gánh vác cho em.
- Chú đừng nói thế. Phận sự của chú cũng chính là phận sự của tôi. Tôi không quản ngại gì. Chỉ có điều khó nghĩ là giờ đây, con bé đã lớn. Nếu để nó tiếp tục sống dưới làng, nó sẽ trở thành người làm vườn thực thụ, rồi chẳng mấy lúc, nó sẽ phải lòng một cậu trai làng và biến thành nông dân. Như thế, xem ra quá thiệt thòi cho thân phận của con bé chăng ? Tuy sống dưới vòng tay bảo trợ của chúng ta, nhưng danh chính ngôn thuận, đó vẫn là một công chúa.
- Vâng, anh nói đúng. Việc này hoàn toàn do lỗi ở em. Em mê mụ đầu óc nên không sớm nghĩ ra điều này.
Vũ nói, đoạn nắm lấy bàn tay ông anh :
- Anh xem này, tay anh đen đủi xù xì còn tay em trắng lốp. Vậy là bao nhiêu phần vất vả trong gia đình anh gánh hết cho em.
- Chú nói rỡn, ai làm việc văn phòng mà chẳng trắng mặt, trắng tay ?...
- Em không thể mở miệng cảm ơn anh vì lời lẽ đó tầm thường nhạt nhẽo. Lẽ ra, theo cung cách thời xưa, em phải quỳ gối trước mặt anh mà vái tạ.
- Ồ chú Vũ....
Ông anh lắc đầu :
- Đừng nói thế. Chớ bao giờ nên nói thế. Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới. Gánh nặng trên vai chú cũng là gánh nặng trên vai tôi.
Nước mắt trào qua mi, lăn xuống gò má Vũ. Ông quay đầu nhìn sang khu vườn sau của bệnh viện để tránh những con mắt tò mò. Ông Bắc cũng cúi xuống, uống liên tục hết chén trà này đến chén trà kia. Cả hai đều nghe rõ tiếng ong rù rì bay trong đám dâu da. Hồi thơ ấu, vườn nhà họ cũng trồng dâu da, ong cũng rù rì bay như hôm nay. Những tàn lá dâu da cũng xanh màu xanh mong manh và đám hoa chua me dại mọc dưới các gốc cây cũng tím màu tím ấy...Cảnh vật đâu có thay đổi ? Chỉ có một đổi thay là từ hai chú bé mặc quần thủng đít giờ họ đã trở thành hai gã đàn ông đứng chông chênh giữa tuổi trung niên với tuổi già.
Hồi lâu, người anh ngẩng đầu lên :
- Việc chú với cô Vân sẽ giải quyết theo hướng nào ?
- Em chưa làm thủ tục ly hôn nhưng sẽ dọn vào cơ quan. Khi nào thằng bé Trung nghỉ hè em sẽ đón nó về đấy. Bữa trước cậu thư kí đến thăm em đã yêu cầu chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết để khi ra viện em sẽ về thẳng nơi ở mới. Còn Vân sẽ ở lại biệt thự với Vinh và chắc chắn, cậu em ruột của cô ấy sẽ mò tới.
- Khó mà ổn thoả. Tôi nghĩ rằng cô ấy chẳng chịu đâu.
- Bây giờ, em chưa tìm được giải pháp nào hơn.
- Tình thế này, chú khó gánh thêm cháu Nghĩa. Thôi , để tôi đưa nó lên phố huyện với gia đình. Dẫu sao, gái phố huyện còn đỡ thiệt thòi hơn là nông dân xóm trại.
- Em xin đội ơn anh, nhưng em sẽ xoay sở tìm nơi nhờ vả. Quả tình là con bé quá thiệt thòi. Ông Bắc đứng lên :
- Tôi phải quay về nếu không lỡ chuyến tàu chiều. Bỏ con bé một mình qua đêm e không ổn. Có lẽ tôi phải thu xếp bán nhà cửa vườn tược hoặc thuê người trông coi để đưa nó lên phố huyện, sớm ngày nào hay ngày ấy.
Ngần ngừ một lát, ông buông tiếng thở dài rồi nói thêm :
- Chú biết không, ối thằng con trai sớm chiều lượn quanh ngõ. Chưa đầy mười bốn mà con bé đã đẹp nõn ra.Thế nên, tôi chẳng dám để nó ở một mình.
Nói rồi, ông xoa lưng đứa em trai :
- Chú lo giữ sức khoẻ. Tôi sờ thấy cả dãy xương sườn rồi đây.
Chụp chiếc mũ lá lên đầu, ông đi.
Vũ ngồi lại, nhìn ông Bắc mất hút trong đám người tấp nập ra vào trước cửa bệnh viện. Ông không thích cảnh bịn rịn phơi bày trước mặt đám đông nên không bao giờ đưa tiễn người anh. Trong gia đình ông, thường diễn ra cảnh trái ngược này : Khi ông về phố huyện thăm ông Bắc, lúc ra đi hai anh em bìu díu hàng giờ đồng hồ chẳng dứt ra nổi. Bao giờ ông anh cũng mượn cớ tháp tùng ông em ra xe rồi kéo đi lòng vòng quanh các phố để hỏi thăm láng giềng, ghé chỗ này một lát uống chén trà, tạt qua chỗ kia một lát thưởng thức bể cá cảnh hay hòn non bộ. Rồi, đến lúc chót, ông Bắc lại đột ngột kêu lên :
- Thôi chết, tôi quên đưa cho chú gói chè....Chè ướp sen của bà Liễu trong làng Chẩm Liên đấy. Mùa sen, bao nhiêu hồ sen lớn trong vùng đều lũ lượt chở hoa đến bán. Tay sao chè của bà ấy thì chẳng ai dám bì. Dân Hà nội vẫn phải đổ về đây mua.
- Thôi chết, tôi đã nhốt mấy con cá vào túi nước mà lại để quên trong bếp. Chờ tôi đã. Cá này thuần cá sông loại thượng hạng. Chịu khó xách về nhốt vào ang, rồi bảo cô Vân nấu cháo hay hấp rượu gừng cho mà ăn.
- Thôi chết, mớ tôm biển tôi đã nướng kĩ lại bỏ quên trong trạn. Chờ tôi lấy đã. Mang về Hà nội mà uống bia.
Lần nào, ông anh cũng tìm ra đủ thứ quên lãng như thế, và cuộc tiễn đưa cứ dùng dắng kéo dài. Ngược lại, ông Bắc lên Hà nội chơi, lúc ra về thường một mình chạy cun cút ra xe, ông em ngồi trong nhìn theo một cách âm thầm. Tính khí họ trái ngược nhau, cung cách cư xử cũng vậy.
Vũ nhắp một ngụm trà :
« Anh ta thật xứng là người : Quyền huynh thế phụ !... »
Ông thầm nghĩ, nhưng tức khắc lại tự riễu cợt mình :
« Anh ấy thế phụ nhưng chẳng có quyền huynh !... »
Và đúng là như thế. Mọi quyết định lớn trong gia đình chính ông đảm trách . Nhưng thực hành những nghĩa vụ nặng nề nhất lại chính là ông anh. Hồi nhỏ, mẹ anh thường nói với cha anh, không ra than phiền, cũng chẳng phải vui sướng, chỉ đơn thuần là một nhận xét với xiết bao tò mò, kinh ngạc : « Hai đứa con trai nhà này giống như ăn phải bùa mê hay bả tình của nhau vậy. Nhưng thằng bé lại to đầu, chuyên sai khiến thằng anh. ».
Vũ cười thầm, đưa chén trà lên uống. Đúng lúc ấy, ông thấy hai gã Trần Phú và Lê Phương đang khoác tay nhau đi qua sân. Đột nhiên, một ý tưởng vụt qua óc ông :
« Hai gã này ! Chính là hai gã này. Tại sao không ? Chắc chắn ta sẽ nhờ cậy được một trong hai kẻ đó. Linh giác mách bảo ta như vậy. »
Ông vội đặt tách trà xuống chạy ra cửa, gọi Trần Phú. Hai người cùng tức khắc quay lại :
- Ồ, đại nhân....
Lê Phương nhoẻn miệng cười :
- Đại nhân có hẹn với ai hay ra đây để tránh mặt người ?
Vũ hỏi :
- Tránh mặt người ? Anh muốn nói điều gì vậy ?
- Tránh mặt đám đồng chí của anh trong phòng bệnh. Cuộc đối diện thường xuyên với đám đồng chí đó, hẳn không làm cho anh khoẻ khoắn cả thể chất lẫn tinh thần ?
- Ồ, đúng vậy.
Vũ thú nhận. Ông quay lại bảo Trần Phú :
- Anh còn nhớ người bệnh nằm đối đầu với tôi không ? Cái tay sĩ quan từng quen biết anh khi anh phụ trách tiểu đoàn 5O7.
Trần Phú ngơ ngác nhìn ông :
- Tôi chưa kịp định thần để nhớ lại cái thời xa xôi ấy.
- Ồ, cái tay sĩ quan quân đội nhưng không dám vào viện 108 điều trị mà lại trốn sang bên này. Cái người đã gửi lời thăm và nói rằng anh là người biết chọn đúng con đường của mình trong cuộc đời.
- A ! Giờ thì tôi nhớ ra rồi. Cái gã khò khè môi thâm như mận Lạng sơn chứ gì ?
- Chính xác. Anh ta đã chết sáng nay.
- Thế a ...
Trần Phú buông tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng chẳng phải buồn phiền... Rồi anh ta quay sang bảo Lê Phương :
- Gã trung tá này có một cuộc đời sóng gió, đầy ham hố cũng như tì vết, và đương nhiên là vô số ân oán giang hồ....Lúc nào rảnh tao sẽ kể cho mày nghe. Được cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đấy...
Quay sang Vũ, anh ta hỏi :
- Khi anh ta chết, nhân viên bệnh viện đưa xuống nhà xác. Còn người thân chẳng một ai vào, điều đó có đúng không ?
- Sao anh biết ?
- Vì tôi vốn có thói xấu tò mò....Tôi đã quên anh ta từ lâu, nhưng khi anh nhắc lại, tôi muốn hiểu xem những gì đã diễn ra giữa đám người cùng thời với mình. Và tôi mở cuộc điều tra tức khắc.
- Đúng, anh ta chết khoảng ba bốn giờ sáng nay. Từ khi anh ta nhập viện , chẳng thấy một ai bước vào. Cái tủ đầu giường của anh ta chưa từng có một quả cam hay một gói bánh người khác đem tới. Bác sĩ bảo anh ta nhập viện đã gần ba tháng.
- Đó là chung cục của một cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta chuyển đề tài, vì thứ người như vậy chẳng đáng quan tâm vào một buổi sáng đẹp như sớm nay.
Vũ cất tiếng cười :
- Anh có lý....Vì chính tôi, tôi cũng đang có chuyện đau đầu và đang muốn nhờ cậy hai anh.
- A...ha ....ha....
Cả hai gã ngoác miệng cười. Tiếng cười của họ ròn rã lan đầy không trung khiến cho đám người đang ngồi xung quanh tò mò đưa mắt liếc sang. Lê Phương bảo :
- Một bậc đại nhân quyền cao chức trọng mà lại nói những lời khiêm nhường như vậy trước mặt hai kẻ lêu lổng, chơi bời ?....Đại nhân định đùa bọn em hay định nói thật đấy ?...
- Suốt đời tôi, tôi chưa đùa rỡn ai...
Vũ đáp. Và vẻ nghiêm trang của ông khiến hai gã ngậm miệng lại. Họ bắt đầu chăm chú nghe ông nói.
- Các anh biết rằng tôi lãnh nhận việc nuôi hai đứa con của một bậc ...huynh trưởng....
- Chúng em đều biết chuyện ấy. Xin đại ca nói tiếp...
- Đứa con trai sống cùng với gia đình tôi. Nhưng đứa con gái phải về quê sống với anh trai của tôi, một làng hẻo lánh không phải ở tỉnh Bắc mà tận chót tỉnh Thái Nguyên. Nói thật tình, một đời sống hoàn toàn thôn dã....Nay cháu đã mười ba tuổi, tôi tính đem cháu về Hà-nội, nhưng chưa biết nhờ cậy ai.
Lê Phương gỡ cặp kính dày như trôn chén của anh ta xuống, đưa mắt liếc quanh rồi hạ giọng :
- Đấy chính là đứa con gái đầu lòng của ....bậc trưởng thượng ?
Dẫu là nhà văn, anh ta cũng phải lúng túng một hồi trước khi tìm cho được danh từ chính xác, vừa có thể gọi tên người cha bí ẩn kia một cách rõ ràng, vừa không để cho những lỗ tai bên ngoài đoán định được :
- Đấy chính là những trái cây trong mùa hoa cuối cùng của cuộc đời bậc cao nhân !
Sau rốt, anh ta tìm lại cách diễn đạt hết sức văn chương.
Vũ gật đầu :
- Chính xác như vậy. Hai đứa trẻ đó cách nhau có hai mươi tháng thôi.
- Tôi hiểu. Thời gian đó là cuộc truy lĩnh những ham muốn bị tước đoạt, những dục vọng bị cấm đoán hay ghìm nén suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sau ngày giải phóng thủ đô là thời điểm giải phóng những thân xác bị giam cầm. Nhưng cuộc giải phóng nào cũng kèm theo những điều kiện khắc nghiệt. Cuộc giải phóng của dân tộc chúng ta mở ra ngay sau lưng nó những nhà ngục khổng lồ.
- Những nhà ngục khổng lồ ? Ý anh muốn nói gì ?
- Xin lỗi đại ca, những lời lẽ của tôi có thể làm anh phẫn nộ hay phật ý. Nhưng không thể tìm được danh từ nào chính xác hơn. Sau ngày giải phóng thủ đô, toàn thể những người Việt nam buộc phải sống bằng các xuất gạo hẩm của nhà nước và những ô tem phiếu. Điều kiện kèm theo các thứ tem phiếu đó là sổ hộ khẩu, biện pháp kiểm soát con người còn chặt chẽ hơn chính sách « Tam gia » của Thương Ưởng thời xưa. Một xã hội mà con người bị khống chế từ miếng ăn đến sự đi đứng, bị kiểm soát như những con cừu đánh số trong chuồng cừu, xã hội đó chẳng gọi là nhà ngục khổng lồ thì còn biết gọi bằng danh từ nào chính xác hơn ?
- Vâng. Quả thực là ...
Vũ đáp, nhưng lòng ông quặn đau. Rồi sau một khoảnh khắc, ông cố gắng tự trấn tĩnh và nói :
- Vâng. Quả thực là chúng tôi không ngờ được cơ sự diễn ra theo nông nỗi ấy. Khi dấn thân vào con đường cách mạng, ai nấy đều nghĩ đến tương lai dân tộc, ai nấy đều mơ đến một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Phan chu Trinh cũng mơ ước một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Nguyễn thái Học cũng mơ ước một tương lai rực rỡ cho dân tộc và niềm tin ấy theo ông cho đến tận đoạn đầu đài. Năm 1946, bao nhiêu chàng trai cảm tử chống lại quân Pháp bằng bom ba càng, bằng cây súng cổ lỗ mút-cơ-tông và cả bằng dao găm, kiếm ngắn nữa. Nhưng nếu những người trai này không chết bởi thực dân Pháp, ắt sau ngày chiến thắng họ cũng sẽ bị các anh kết án và tống giam, hoặc bởi liên quan với quốc dân đảng, hoặc bởi có gốc tích địa chủ hay tư sản. Tất thảy những ý tưởng tốt đẹp không thể biện minh cho một chung cuộc đểu cáng, ô nhục như vậy. Xin lỗi đại ca, nếu sự thẳng thắn của tôi khiến anh phải đau lòng. Nhưng ít ra, một lần trong đời, chúng ta cũng nên đối đầu với sự thật.
Lê Phương ngừng lời, anh ta quay lại quầy căng-tin cao giọng gọi :
- Cho ba vại bia lớn nhé. Một đĩa lạc luộc và một đĩa bánh rán nhân thịt kèm theo.
Trần Phú bật cười hô hố :
- Chiều nay bão cấp bảy sẽ đổ bộ vào đất liền. Bởi cái thằng kiệt sỉ lõ đít này chưa bao giờ đãi ai dù một tách cà-phê.
Lê Phương quay sang bảo bạn :
- Không kiệt sỉ không phải là tao, mà không mất tiền cho gái sẽ không phải là mày. Nhưng thực ra mày cũng chỉ để gái moi túi áo bên trái còn túi bên phải mày vẫn giấu kĩ cho vợ con đấy chứ ?
- Chính xác như vậy.Tao không bác bỏ sự thật. Tao là thằng dại gái có chừng mực. Bộ máy kiểm toán trong đầu tao tuy nhỏ nhưng hoạt động liên tục và có hiệu lực.
Hai người lại cất tiếng cười. Vẻ sung sướng của họ khiến ông sững sờ. Dường như họ sống trong một cõi đời khác. Vừa lúc đó, cô bán căng-tin bưng ra một mâm đầy nào bia nào đồ nhắm bình dân. Nhà văn đưa mắt lúng liếng nhìn bạn rồi nói :
- Hôm nay cái thằng đệ nhất kiệt sỉ là tôi khao bia mọi người để chúc mừng thắng lợi của anh chàng chim gái Trần Phú. Báo tin cho đại ca mừng là bạn tôi vừa tìm được một cô nàng ngon mắt, ngon cả miệng. Theo phương thuốc cổ truyền của dân tộc, ắt nàng sẽ chữa được căn bệnh u tiền liệt tuyến cho cậu ta trong thời gian ngắn nhất.
- Thôi, không phải khua chiêng gõ trống. Để rồi xem. Làm trước nói sau, các cụ đã dạy như thế.
Trần Phú ngắt lời bạn. Đoạn, anh ta quay sang hỏi Vũ :
- Giờ, xin đại ca uống bia rồi trở lại câu chuyện chính. Nếu tôi không nhầm anh muốn tìm nơi gửi cháu gái, năm nay tuổi mười ba ?
- Vâng.
- Nó sống ở nông thôn từ thuở nhỏ ?
- Vâng, nói một cách chính xác, từ năm cháu lên hai. Năm nay nó đã xấp xỉ mười bốn tuổi. Nếu không đưa cháu kịp thời trở lại Hà nội, chắc chắn nó sẽ trở thành một nông phu. Và sống trọn kiếp sống của người làm vườn, cấy lúa...
Trần Phú gật đầu :
- Tôi hiểu. Đời người đàn bà ngắn lắm. Trước hết là đàn bà xứ quê.
Vũ nói tiếp :
- Tôi biết là việc này vô cùng khó khăn. Ngay cả những người quen thân hàng mấy chục năm nay tôi cũng không dám nghĩ đến. Thành thực mà nói, chính tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại nảy ra ý định nhờ cậy hai anh ? Hoàn toàn là sự chỉ định của linh giác...
Trần Phú ngoác mồm cười :
- Linh giác vẫn luôn luôn là người chỉ đường khôn ngoan nhất. Anh nhờ cậy chúng tôi là đúng. Vì chúng tôi đang ngồi bệt dưới cỏ....Chỉ có những kẻ đít lấm bùn mới dám dây vào những chuyện như thế này.
Vũ ngơ ngác, ông chưa kịp hiểu anh ta định nói gì. Có lẽ nhìn thấy vẻ ngơ ngác của ông nên nhà văn đặt vại bia xuống để giải thích thay cho bạn :
- Có hai thứ người đít lấm bùn. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa đen tức là nông dân hoặc đám thị dân cùng khổ, những người ấy khó có thể giúp anh cho dù lòng họ mong muốn. Bởi họ thiếu khả năng, trí tuệ cũng như tài chính. Thiếu trí tuệ dẫn đến sự sợ hãi kẻ cầm quyền. Thiếu tiền bạc, họ chẳng thể bao dung ai khi ngay những người thân của họ còn đang đói khổ. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa bóng là những kẻ tự nguyện sống ngoài vòng quay quyền lực. Họ chọn cách sống như thế vì họ đủ khả năng nhìn ra sự thấp kém của kẻ cầm quyền. Thêm nữa, họ cũng tự trang bị một phương tiện tài chính tối thiểu đủ để duy trì cuộc sinh tồn và có đôi chút dư ra để có thể bao bọc kẻ khác khi cần thiết. Như thế, họ tương đối tự do.
- Vâng. Giờ thì tôi hiểu. Tuy nhiên...
- Tuy nhiên, anh vẫn ngại ngùng vì chắc chắn đây là chuyện tầy trời đối với những ai đang sống trong thế giới của anh ?....Chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Khi sống trong thế giới của quyền lực, sự xếp hạng theo vị trí quyền lực khống chế tất cả. Càng có quyền, người ta càng ham hố và càng phụ thuộc vào nó...Còn chúng tôi, chúng tôi là những kẻ gần như đứng bên rìa guồng máy....Tuy anh bạn tôi là giám đốc một nhà xuất bản nhưng chức đó chẳng qua là miếng bánh mì khô so với những chức vị thật sự béo bở...Miếng bánh khô chẳng quết bơ cũng không phết mứt người ta chỉ gặm lúc quá đói ....Không ai mong muốn phải xài thứ đó suốt đời.....Nhất là khi tuổi đã xế chiều và cần bảo vệ hai hàm răng....
Ngừng lại, Lê Phương quay sang hỏi bạn :
- Tôi nói thế đúng hay sai, đồng chí giám đốc ?...
- Đúng trăm phần trăm.
Hai người lại phá lên cười. Lát sau, mặt họ đỏ lên vì cơn cười sặc sụa.
« Họ có một vẻ sung sướng lạ lùng....Một thứ đùa bỡn, cợt nhả thường trực khiến ta đâm ngờ vực. Chẳng hiểu khi nào họ nói thực và lúc nào họ nói bỡn ? »
Vũ thầm nghĩ. Không dám bày tỏ nỗi băn khoăn của mình một cách thẳng thắn nhưng cũng không dám tin vào những điều hai gã đàn ông phong tình lẻo miệng này vừa nói. Sau một hồi lặng lẽ uống bia, ông cất tiếng hỏi :
- Liệu các anh có thể chịu được sự đe doạ hay quấy rầy của bộ máy này không ?
Trần Phú đặt vại bia xuống bàn, mặt trở lại nghiêm trang :
- Miệng tôi cười đùa nhưng óc tôi đã tính đủ nước cờ cho việc anh nhờ cậy. Tôi biết anh là người có bản tính cả lo. Thêm nữa, suốt đời anh chỉ quen với ngôn ngữ chính thống, thứ ngôn ngữ nghiêm cẩn của các chính khách và các nhà quản trị hành chính. Gặp lũ lông bông như bọn tôi đây, anh có đôi phần hoảng hốt cũng là điều dễ hiểu. Thế nên, tôi sẽ lý giải mọi sự một cách cặn kẽ cho anh yên lòng.
Lần đầu tiên từ khi gặp lại Trần Phú, ông thấy anh ta có một vẻ mặt nghiêm trang. Có lẽ anh ta muốn làm dịu cơn phấp phỏng trong ông hơn là để chứng tỏ khả năng giữ tư thế long trọng của kẻ có chức quyền, cho dù thứ quyền hạng bét :
- Tôi có cô em gái lấy chồng bác sĩ, chính là đứa vẫn làm bánh Ma-đơ-len, bánh ga-tô và nấu các món ăn đem vào đây nuôi tôi. Vợ chồng nó vô sinh, đã từ lâu muốn kiếm con nuôi nhưng mọi người, mà trước hết là tôi ngăn cản. Nuôi con nuôi là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, bởi đa phần những đứa bé bị cho hoặc bán đi đều có một lịch sử bất thường, chứa đầy những yếu tố bất lợi cho sự phát triển tâm sinh lý. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng cáng đáng một đứa bé bị bỏ rơi là việc phúc đức. Việc này có thể làm với một người bình thường huống chi đối với giọt máu của một bậc cao nhân ? Anh yên tâm đi. Tôi chưa hỏi ý kiến em tôi nhưng chắc chắn không có gì trở ngại. Chúng tôi sẽ tuyên bố rằng chúng tôi tìm được một đứa con nuôi. Và rằng chính anh đem cho chúng tôi, ở ngay đây, trong bệnh viện này. Sự thật ra sao, ta sẽ nói đúng như vậy. Anh, với danh nghĩa là người đã quen biết tôi hồi ở trên chiến khu Việt bắc. Sự hiểu biết của chúng tôi chỉ cần hạn định ở mức đó, không hơn một ly. Một đứa con gái mười ba tuổi không có tiền án tiền sự, chưa từng lừa lọc, giết hại ai, nếu muốn gây sự cũng khó tìm ra duyên cớ...
- Cảm ơn anh....
Vũ đáp, không khỏi hồi hộp và cảm động. Tuy nhiên, ông vẫn chưa đủ tin vào những gì đã diễn ra trong cuộc đối thoại ngắn ngủi vừa rồi . Có thể điều đó quá đẹp để là một sự thật....Uống liên tục vài ngụm bia, ông hắng giọng rồi gặng hỏi :
- Nhưng chúng ta giả sử rằng....Rằng họ có thể nói toạc ra sự thật...
- Họ không thể...Và nếu ai dám nói thế tôi sẽ tuyên bố rằng họ là kẻ phản động, vu cáo bôi nhọ lãnh tụ tối cao....Từ bao năm nay, đảng và nhà nước đều tuyên truyền giáo dục dân chúng rằng lãnh tụ của chúng ta là vị cha già dân tộc, người suốt đời tranh đấu vì độc lập và tương lai của đất nước nên chưa bao giờ có hạnh phúc riêng tư....Tôi sẽ nói đúng trăm phần trăm tất cả những bài thuyết giáo của ban tuyên huấn trung ương đảng....Tôi sẽ nhắc lại nguyên si những điều mà họ yêu cầu tôi in ấn từ bao nhiêu năm nay...Tôi sẽ đổ vào mặt họ chính xác những gì họ đã nôn ra một cách có hệ thống...
- Tuyệt vời...
Nhà văn cất tiếng bình luận :
- Không có phương sách nào hữu hiệu hơn là nhặt viên đá trước cửa nhà ông Tư râu ném vào vườn ổi nhà ông Tư râu; là lấy gậy của ông chánh tổng đập vào đầu ông chánh tổng....Tương kế thì tựu kế...Đòn phản công kiểu này cũng đã có từ hàng ngàn năm nay...Vào thời hiện đại, người ta diễn đạt một cách tối tân hơn là : Luật phản hồi của chiếc boomerang....Nào, chúng ta cạn cốc để chúc mừng cho cuộc gặp gỡ hôm nay...
Họ cạn cốc....Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không buông tha Vũ. Sau một hồi đắn đo, ông lại cất tiếng :
- Tôi không dám phiền anh nhiều đến thế. Thực sự, tôi cảm thấy không yên lòng....Nếu anh ưng thuận, tháng tháng tôi sẽ cho thư kí mang tiền và thực phẩm tới góp phần với gia đình...
- May mắn thay chúng tôi chưa cần đến tiêu chuẩn thực phẩm của các anh...Nói cho cùng, thứ tem phiếu đó chẳng đủ nuôi một con mèo, theo cái cách người ta vẫn nuôi mèo ở đất Hà thành này từ bao nhiêu năm trước...
Trần Phú đáp. Chừng như đoán được rằng ngần ấy lời lẽ vẫn chưa đủ khiến cho ông hết băn khoăn, anh ta đưa mắt nhìn quanh. Khi thấy căn phòng vắng teo, chỉ còn họ là những người khách cuối cùng, anh ta hạ giọng giảng giải :
- Chúng tôi tuy không thực giầu có nhưng là dân Hà nội cũ, phải biết dắt lưng ít tiền. Chúng tôi không thể tin tưởng vào sự đưa đường chỉ lối của những kẻ chiều hôm trước còn ngồi vỉa hè, dốc ống bơ ra đếm mớ xu lẻ thiên hạ bố thí, sáng hôm sau đã nhẩy lên ghế bộ trưởng bộ tài chính nhờ ân sủng của cách mạng ...Không, chúng tôi chẳng đến nỗi ngu ngốc như vậy. Tiền của chúng tôi không thể gửi vào ngân hàng nhà nước, cũng chẳng thể khai báo với các quan chức vốn dĩ là bọn ăn mày...Chúng tôi phải tìm cách đổi ra thứ gì đấy....khả dĩ có thể chôn xuống gốc sấu hay gốc cam....Đơn giản thế thôi...Giờ, anh đã yên lòng hay chưa ?...
- Vâng.
Vũ đáp, và mặt ông lại nóng rát như vừa bị tát. Lần đầu ông nghe những lời lẽ như thế. Rủi ro thay, nó lại là sự thật. Vậy thì trên cõi đất này còn có biết bao nhiêu sự thật bị bóp họng hoặc bị chôn vùi ?...
Vừa lúc ấy, tiếng kẻng cất lên , vang rền không trung. Nhìn ra sân, đã thấy gã trai ngớ ngẩn, to như hộ pháp đang ra sức nện búa vào thanh tà-vẹt. Cả ba người chẳng ai bảo ai đều đứng lên :
Vũ nói :
- Đã đến giờ ăn cơm trưa. Chào hai anh, tôi phải về phòng.....Cảm ơn về tất cả những gì các anh đã nói....
- Ồ, đại ca....Chớ nên khách sáo. Mọi thứ đều ở trong tầm tay. Giờ tôi phải tiễn anh bạn ra phố...Chúc đại ca ngon miệng. Anh cứ chuẩn bị đồ cho cháu, được đến đâu hay đến đấy, không cần thiết cầu toàn. Phần còn lại em gái tôi sẽ lo...Tuần sau là chúng tôi có thể đón cháu được rồi...
Trần Phú đáp rồi hai gã khoác tay nhau ra cửa viện. Ông quay lại khu nhà điều trị, đi trên sân bê-tông mà bập bỗng như bước trên mây....
― Quá đẹp để có thể tin là sự thực.!..
― Ai từng nói câu này nhỉ ?...
Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ, lòng chưa hết xốn xang. Hết cầu thang, cô y tá trực phòng đã tiến lại trước mặt ông, miệng cười tươi tắn :
- Mời bác về xơi cơm cho nóng. Cháu đặt ở trên mặt tủ rồi.
- Cảm ơn cô nhiều. Tôi về ngay đây.
Cô gái thoăn thoắt bước đi nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nên vội vàng quay lại :
- Bác có thư nữa ạ....Cháu đã bỏ vào ngăn kéo tủ vì sợ gió thổi bay hoặc ai đó tò mò giở ra xem...
- Ô...Cảm ơn cô. Có tí tuổi mà đã cẩn thận thế ?...
- Bác quá khen. Cháu chưa bao giờ được coi là người cẩn thận ....Hồi cháu ở nhà mẹ cháu vẫn đặt tên là ― con quạ mổ, ruột để ngoài da....Nhưng ở xã, thư của cháu thường bị bóc trộm nên ...
- Nên cô có kinh nghiệm về sự tò mò và thói bóc trộm thư của người khác ...Đó là điều các cụ vẫn gọi ― đứt tay mới hay dao sắc ....Đúng không ?...
- Thưa bác, đúng thế ạ... 

Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (3)
Cô cất tiếng đáp hồn nhiên và lại cười, nụ cười khiến gương mặt cô ngời sáng. Họ chào nhau, cô gái xuống cầu thang và Vũ trở lại phòng. Ông rảo bước, không khỏi tò mò vì chưa đoán được ai gửi thư cho ông :
― Ai có thể gửi thư cho ta vào lúc này ?...Sáu chăng ?...Y thường gửi những dòng chữ ghi nguyệch ngoạc trên trang giấy xé ra từ cuốn sổ, không bao giờ có phong bì để kẻ cầm thư dù là lái xe hay cần vụ đều có thể đọc được một cách tự do, một thứ thân ái xuồng xã được bộc lộ đầy dụng ý, làm như giữa hai người có một tình bạn thâm căn cố đế hay rất nhiều đồng loã, đồng tình...Nhưng thường y chỉ gửi những bức thư kiểu đó khi cần có một cuộc gặp gỡ đột xuất. Lúc này, ta đang nằm viện, điều đó là bất khả. Còn để thăm hỏi, ngay hôm ta vào viện y đã cử người mang quà bánh vào rồi, một sự chỉn chu theo nghi thức. Chắc chắn không thể là y, vậy thì ai ?... ..Ai có thể là tác giả bức thư này, bức thư đầu tiên kể từ ngày ta được đưa vào viện ?...
Vân chăng ?...Hẳn là cô ấy muốn đề nghị ta tha lỗi hoặc dàn xếp lần chót cuộc thoả hiệp ?...Trở lại mái nhà xưa, trong tâm hồn rách nát và một mối tình chẳng còn tình mà chỉ còn lại cặn bã ?... Trở lại mái nhà xưa để tiếp tục ăn những bữa cơm lặng lẽ, một người nhìn ra sân còn người kia nhìn vào trong bếp. Sự liên kết bởi thói quen ẩm thực và bởi thiếu phương tiện bếp núc tự do ?...Trở lại mái nhà xưa vì biệt thự đó là tiêu chuẩn của quan chức cách mạng và người đẹp Tố Vân vẫn cần đến danh nghĩa của ông chồng như cần đến một tiện nghi quen thuộc ?...Hoặc vì nàng còn một đứa em trai tồi bại và một đứa con trai vô dụng mà nếu không có ta chắc chúng chẳng thể tìm được chốn dung thân ?...
Trong phòng, tiếng thìa bát lanh canh đã vang lên. Những người bệnh ngồi ăn ngay trên giường, người nhà của họ trải đụp các tấm nhật báo lên chăn để hứng thức ăn rơi vãi. Xuất cơm của Vũ đặt trên mặt chiếc tủ nhỏ, nhưng vì vừa uống bia và ăn bánh rán nên ông còn ngang dạ. Mở ngăn kéo tủ, ông lấy lên chiếc phong bì tự dán bằng giấy kẻ sọc ngang của học trò :
― Thư của thằng bé....Vậy là nó đã biết viết thư....Bức thư đầu tiên nó viết trong đời ...
Ông giữ nguyên chiếc phong bì trên tay, bồi hồi nhớ lại đứa bé trai lẫm chẫm bước trong phòng, giọng bập bẹ khi nó tập nói, bàn tay ngọng nghịu khi lần đầu nó giằng thìa trong tay người lớn để tự xúc cơm ăn.... Những hình ảnh ấy còn tươi mới như hôm qua, vậy mà giờ đây nó đã biết viết thư cho ông, đàng hoàng như một kẻ trưởng thành.
Con trai : Trần Trung.
Kính gửi cha : Trần Vũ.
Ông nhìn lần cuối tấm phong bì dán bằng cơm nguội dầy cóc cách rồi xé ra, lấy thư đọc :
« Cha yêu quý,
Con viết thư này gửi cha, biết cha đang nằm trong viện mà chẳng có cách nào rời khỏi nơi đây để về. Từ trường sơ tán xuống huyện hơn bốn mươi cây số nhưng không có xe ca, chỉ có xe ngựa. Mỗi chuyến xe ngựa chở tám khách nên vé những năm ngàn đồng, vậy mà con để dành hai năm nay mới được ba ngàn rưỡi. Con có thể đi bộ xuống phố nhưng nếu vậy chẳng đủ thời gian quay lên và nhà trường sẽ kỉ luật. Không an ủi được cha lúc cha đang đau ốm như vầy, con thật là có lỗi. Xin cha tha thứ cho con. Con chỉ biết lậy trời cho cha mau lành bệnh trở về công tác như thường. Ở đây, chúng con vẫn học tốt. Thỉnh thoảng Vinh có nghỉ học vì đau bụng, nhưng con vẫn chép bài cho anh. Tuần trước, mẹ Vân lên đây thăm chúng con, có vẻ rất lạ lùng. Con chẳng hiểu chuyện gì xảy ra dưới Hà nội nhưng mẹ Vân nhìn con chằm chằm rồi bỗng nhiên nói : Chỉ vì anh mà gia đình chúng tôi tan nát...
Cha yêu quý, con rất khổ tâm nếu con thật sự là nguyên cớ gây nên sự đổ vỡ trong gia đình. Con chỉ cần biết con là con đẻ của chính cha, điều đó đã là hạnh phúc. Đối với con, như thế đủ rồi. Chị Nghĩa cũng vậy. Chị ấy viết thư cho con, bảo rằng xin cha một tấm ảnh của mẹ, rồi giấu vào trong hòm đừng để mẹ Vân nhìn thấy. Khi nào ra viện, cha hãy cố gắng tìm cho chúng con cha nhé. Con sẽ làm đúng như lời chị Nghĩa. Con không muốn làm khổ mẹ Vân cũng như làm thiệt phần của anh Vinh. Cha có thể cho con về sống dưới thôn cùng với bác cả. Hết hè này, con chuyển về học ở tỉnh cũng không sao. Miễn là gia đình ta được êm ấm, mẹ Vân và anh Vinh được hài lòng. Con tin rằng chị Nghĩa sẽ rất vui vì có con, như thế ở nhà quê bác cả sẽ đỡ buồn. Như thế, cha cũng sẽ được nhẹ gánh và mọi người đều vui vẻ.
Con cũng nói với cha rằng mẹ Vân lên đây với một chú to lớn, đeo kính đen. Chú ấy chưa từng đến nhà ta bao giờ và có vẻ cư xử rất kì lạ. Thừa lúc mẹ Vân đang đứng với anh Vinh chú ấy kéo tai con lên bảo ― Tao xem tai thằng này mềm hay cứng , rồi cầm tai mà xách bổng con lên. Con đau quá nước mắt chảy ràn rụa. Con suýt hét lên mà phải cố nghiến răng lại vì sợ mẹ mắng. Người đàn ông này khiến con vô cùng sợ hãi. Con chẳng hiểu vì sao ông ta lại độc ác với con như vậy....Cha yêu quý, cha hãy cho con về quê, rồi thi thoảng cha về thăm hai chúng con. Như thế, mọi việc sẽ ổn thoả hơn.
Con vẫn luôn cố gắng học hành để cha khỏi lo buồn. Con cầu chúc cha mau lành bệnh để cha con ta mau đến ngày gặp mặt.
Con trai của cha hôn cha : Trần Trung.
Vũ vội vã tựa lưng vào tường vì choáng váng :
« Ôi đứa con trai của ta....Tội nghiệp cho nó. Một đứa con hiếu nghĩa mà chẳng được làm con. Một đứa bé sinh ra đã đầy lòng nhân ái mà phải sống giữa thế giới của những kẻ bất nhân, bất nghĩa ..
Ôi, tội nghiệp cho chính ta, kẻ nhân danh làm cha mà không bảo vệ được đứa con sống dưới vòng tay bảo trợ của mình....
...Cũng tội nghiệp cho chính ta vì ta chẳng còn cơ hội để sinh ra một đứa trẻ có thiện tâm như vậy....Cuộc tình với người đẹp chỉ tạo nên một thứ sản phẩm không những vô đức vô năng mà còn đầy tì vết, dòng máu khốn khổ của ta đi lạc vào một thân xác tối tăm và một tâm hồn còn tối tăm hơn nữa. Đấy thật sự là một cuộc thất bại toàn phần ...
Người đàn bà của ta ! Người đẹp Tố Vân. !.....
Tại sao cô ta có thể hành động độc ác như vậy ?..Người đàn bà ta đã ấp ủ hơn ba mươi năm trời....Một quãng thời gian dằng dặc với biết bao kỉ niệm....Nếu không còn tình ít ra cũng còn lại những níu kéo cuối cùng của nghĩa lý và đạo đức. Một thứ liên đới vô hình buộc con người phải dừng lại trước những giới hạn. Nhưng người đàn bà này không còn biết đến giới hạn. Thật kì lạ là cho đến tận giờ ta mới hiểu con người đã đầu gối tay ấp bấy lâu...Cuộc đời quả là một sân khấu trường kì mà đến lúc hạ màn người ta mới biết được trắng đen, bởi sự thật được dấu kĩ phía sau những mánh khoé của tích tuồng nhằm lừa bịp hoặc đánh đố khán giả. ...Cuộc đời cũng giống như trò phù thuỷ trong đó những loài cóc nhái có thể nhờ phù phép mà biến thành các mỹ nhân hoặc quả bí có thể biến thành cỗ xe ngựa thếp vàng....Ôi, chẳng phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa thiên hạ đã đọc đi đọc lại chuyện Liêu trai, bởi chẳng thiếu gì kẻ sống mê man trong vòng ân ái cho đến lúc giật mình thức tỉnh thì hoá ra đã chìm đắm bao nhiêu năm trong lạc thú với bộ xương người ...
Vợ ta !...Tố Vân....Cô ấy đã biến thành kẻ thù tự bao giờ vậy ?...Gã đeo kính đen kia chẳng phải là ai khác mà chính là tay chân của Sáu. Chúng giở trò hành hạ thằng bé, đó là dấu hiệu chúng sắp triệu tập ta để đưa ra một yêu cầu nào đó, với người cha đích thực kia. Điều kiện sinh tồn của kẻ này trở thành cây gậy chỉ huy với người khác...Ngón đòn này chẳng có gì mới nhưng điều đáng kinh ngạc là chính cô ta chấp nhận hiệp đồng. Chính cô ta dẫn kẻ thù nghịch đi làm điều đê tiện ấy ?... Tại sao , chính cô ta ?...... »
Những đợt sóng đen đột ngột hiện lên trước mắt ông. Khi ông vừa nhìn thấy chúng thì chúng đã vươn lên như những chiếc vòi bạch tuộc khổng lồ. Và rồi chúng tiếp tục dâng cao, cao hơn cả những mái nhà và khi dội xuống, chúng khiến ông có cảm tưởng như tấm thân ông tan nát thành bọt sóng. Tiếng gầm gừ của thuỷ triều dữ tợn và bí ẩn làm sao, dường như chẳng còn là tiếng biển động mà là tiếng gầm rú của những đàn thú khổng lồ thời hồng hoang. Đột nhiên, ngọn thuỷ triều biến mất và thay vào đấy là những đàn khủng long đang chạy rầm rập trên một thảo nguyên mênh mông. Đuổi theo chúng là những lưỡi lửa khổng lồ tràn lên nhau, chồng gối lên nhau như một đại dương đỏ rực tràn ngập đến chân trời. Gió dồn thổi tới đâu, mọi loài thảo mộc đều biến thành lò lửa rừng rực tới đấy. Những cơn bão lửa quây bọc, vây bắt, tàn sát bầy thú. Ông cảm thấy ngọn lửa ấy thiêu đốt chính ông và khiến mắt ông toé lên những đốm lửa than.
« Tại sao ta lại hoá thân thành một con thú thời hồng hoang ?...Thực hay mơ mà kì cục như vậy ?... »
Ông nghe rõ tiếng lửa bị gió táp phần phật quanh mình. Rồi lửa táp vào mặt ông, khiến ông muốn hét lên :
« Nước....Cho tôi nước....Gọi xe cứu hoả .... »
Nhưng hình như ông không thể há miệng ra nổi. Hình như ông ngã xuống, dưới bàn chân khổng lồ của khổng long khác và nhìn thấy trước ông sẽ biến thành một đống thịt xương vụn nát dưới bàn chân ấy....
Rồi ông nghe mơ hồ tiếng gọi vẳng đến từ đâu đó :
- Bác sĩ....Gọi bác sĩ...
- Cấp cứu đâu ?.....Đem bình ô-xy đến đây...
Một ý nghĩ mơ hồ thoáng qua óc ông :
« Ô, họ lại đem bình ô-xy đến cho anh chàng sĩ quan thở khò khè, môi thâm như mận Lạng sơn ....Ồ, anh này chết rồi mà còn ngốn khá nhiều bình ô-xy của viện... »
Bất thình lình, ông nghe tiếng cá quẫy bên tai. Ông chợt nhớ đó là tiếng cá quẫy trong cái ang mẹ ông thường nhốt cá ở đầu hồi, những con cá chen thách nhau tanh tách suốt ngày đêm. Bên trên ang cá ấy là mái ngói chạy dài với đường máng. Còn bên trên mái ngói là bầu trời, một thinh không cao ngất tràn ngập ánh dương, một màu xanh lơ vô chung vô thuỷ....
* * *
Quân y viện 306 nằm ở bìa rừng, không quá xa dòng suối, điều kiện tối cần thiết để duy trì một bệnh viện đa chức năng. Toàn bộ các khu nhà quây tụ trên cao, dưới bóng những tán cây um tùm, dày đặc đến nỗi những ngày hè chói chang nhất ánh sáng cũng không lọt qua được. Trong bóng râm miên viễn đó, lủng lẳng các chùm phong lan núi lẫn các cây tổ quạ, loài cây kí sinh có sức nảy nở lạ thường. Phía sau viện, là một hang đá lớn mà những lúc bị bom dội cấp tập, có thể chuyển ba mươi thương binh nặng vào trong. Nhà bếp, phòng ăn tập thể, và kho thuốc men lẫn y cụ đều dồn vào một khóm ngay sát cửa hang, nơi người ta có thể thường xuyên hứng nước khe để nấu ăn và lau rửa các y cụ bởi nước suối chỉ có thể dùng giặt giũ đại trà những thứ quần áo và đồ bẩn. Điều bất tiện là nước khe không đủ dùng. Mà nếu tắm gội bằng nước suối thì sớm hay muộn tóc cũng rụng. Đối với đám đàn bà con gái, có một cái đầu trọc lốc cũng đau khổ ngang ngửa như bị bom tiện cụt chân tay. Thế nên ở nơi đây, vệ sinh thân thể trở thành khổ nạn. Các cô đành phải chờ đến lúc lặn mặt trời mới dám xách nước khe về lán gội đầu. Còn tắm, phải chờ những đợt mưa nhiều, nước khe chảy liên miên không cạn. Nếu không, hoặc là xách nước suối lên đánh phèn cho lắng, hoặc là lau người theo kiểu dân vùng sa mạc. Sau một ngày làm việc căng thẳng, tối đến lại hì hục xách nước từ dưới suối lên cửa hang, mò từng bước trên con đường dốc ngược lởm chởm đá. Thêm nữa, đeo năm sáu ống lồ-ô nước trên lưng leo dốc là cách thức của người vùng núi cao. Đối với những cô gái đồng bằng, việc đó cũng giống như một thứ lao động của tù khổ sai, phải nghiến răng lại mà chấp nhận.
Đầu xuân năm 1969, y viện đầy ắp thương binh. Hai người phải nằm đổi đầu đuôi trên một chiếc giường hẹp như cáng tải thương, đặt ngay trên những bệ gỗ cao hơn gang tay chút xíu. Số thương binh chờ phẫu thuật nhiều gấp ba con số bình thường khiến từ bác sĩ đến các nhân viên phải chia ca đổi nhau làm việc quần quật không nghỉ. Đèn phòng phẫu sáng suốt ngày đêm. Tiếng kêu gào, tiếng rên rỉ, tiếng cãi cọ cấm cảu và cả tiếng hát của đám thương bệnh binh đông đúc khiến y viện có một vẻ náo loạn mà trước đó nó chưa từng biết đến. Mười hai cô gái của y viện không còn thời giờ xách nước tắm, đành phải quấn ngược tóc lên cao mà nhảy ùm xuống suối, người nọ bảo người kia :
« Thây kệ, tắm cái đã, rồi muốn ra sao thì ra.... »
Thời gian căng thẳng kéo dài hơn một tháng, sau đó số thương binh nhẹ được chuyển sang điều trị tiếp tại một binh trạm cách đó ba cánh rừng. Lúc này, các cô gái được hưởng một sự đền bù ngoài sức tưởng tượng : trong đám thương binh còn ở lại, xuất hiện một hoàng tử quyến rũ, một miếng mồi thật ngon lành cho tất cả các nữ nhân đang đứng bập bênh trên ranh giới giữa giai đoạn chót của tuổi thanh xuân với sự lỡ thì. Đó chính là trung tá Hoàng An. Hoàng An được coi như người đàn ông lý tưởng vì ngoại hình đã đành, nhưng cũng còn vì lòng can đảm mà không phải bậc nam nhi nào cũng có. Anh chẳng hề cất một tiếng kêu trong suốt cuộc phẫu thuật không gây mê. Một quân y viện nằm sâu như Viện 306, chẳng thể có đủ thuốc mê cho các ca bình thường nhằm cắt bỏ tứ chi. Hoàng An bị mảnh pháo tiện đứt cánh tay bên trái. Về đến viện, vết thương bị ga-rô quá lâu trên đường đã bắt đầu gây hoại thư, và người ta phải tháo khớp vai để cứu anh. Điều lạ lùng là Hoàng An hồi phục rất nhanh, trong một diễn tiến gần như thần bí. Đám thương binh xung quanh dù trẻ gấp đôi tuổi đều nhìn anh với con mắt vừa thán phục vừa ghen tị. Ngay khi vết thương chưa kịp mọc da non, anh đã dạo chơi nhởn nhơ khắp vùng, đã đặt bẫy bắt dúi, bắt nhím, bắt chồn cho nhà bếp cải thiện bữa ăn. Rồi khi vết thương lên da non, anh tự nguyện xách nước suối lên viện giùm các cô gái. Chỉ bằng cánh tay còn lại, chàng trung tá này có thể làm mọi thứ việc mà một gã trai khác đủ cả hai tay chưa chắc dám đảm đương. Hoàng An có thể đeo một chùm mười lồ nước trên lưng, tay phải xách thêm bốn năm lồ khác. Với đôi chân của người thợ săn, anh leo dốc như sơn dương. Mười hai cô gái viện nhìn anh với con mắt mê mẩn. Trừ dăm cô đã thề non hẹn biển với đồng nghiệp, số còn lại đều đưa mắt liếc nhau xem ai đã lọt mắt xanh của hoàng tử có trái tim vàng ?...Nhưng dường như Hoàng An đã chia đều lòng tốt của anh cho tất cả mọi người, và như thế chưa cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa đám các cô gái chòng chành chờ đợi ...Cũng vì thế, khi vết thương của anh đã lành, viện trưởng vẫn nấn ná giữ anh lại thay vì chuyển anh sang một binh trạm để chờ lệnh quân khu. Nghiễm nhiên, Hoàng An trở thành một nhân viên không phiên chế. Anh có vẻ vô cùng thoả mãn với vai trò mới. Không ai nói, người ta cũng hiểu rằng ngày một ngày hai, anh sẽ được chuyển về hậu phương vì mất khả năng chiến đấu. Khi sắp được hưởng một thứ quyền lợi tối thượng như vậy, cần phải tận tình giúp đỡ tất cả những ai đang còn trụ lại nơi nguy hiểm và gian lao. Hẳn là nghĩ như thế nên Hoàng An không tiếc sức lực cũng như thời gian để góp phần cải thiện cuộc sống chung và giúp đỡ mọi người.
Một buổi sáng giá buốt, sương mù trùm phủ khắp núi non, bỗng tiếng còi xe vang inh ỏi. Ai đó đứng từ xa gào lên :
- Xe thuốc của quân khu đã tới....
Mọi người trong viện đổ ra, ngơ ngác nhìn nhau :
- Sao điện báo nói hai ngày nữa xe mới đến ?...
- Ai biết được ?...Có lẽ vắng bom oanh tạc nên đường thông ...
Rồi từ y viện trưởng tới các nhân viên đều lũ lượt tụt dốc xuống đường để nhận thuốc và các y cụ. Hoàng An nhập vào đoàn quân đó. Đúng là xe chở thuốc của quân khu và cũng đích xác vì máy bay oanh tạc của Mỹ nghỉ cuối tuần nên đường thông suốt. Ai nấy đều hỉ hả vì ngoài thuốc còn có kẹo bánh và thuốc lá sợi. Khi mọi kiện hàng đã được khuân hết xuống, xếp thành đống gọn ghẽ bên lề đường, người lái xe nổ máy cho xe quay lại quân khu tức khắc vì muốn tận dụng thời gian thuận lợi. Xe vừa lăn bánh được vài mét, anh ta chợt hét váng lên :
- Tôi quên.
Đoạn cho xe phanh kít lại, anh ta cúi xuống dưới gầm ghế moi lên một chiếc ba-lô lính cũ nát, lấm lem :
- Viện ta có thương binh nào là Hoàng An không ?...
- Tôi đây.
Hoàng An đã nâng kiện thuốc lên vai lại vội vã đặt xuống, đáp lời.
Anh lái xe bảo :
- Trên quân khu có gửi cho đồng chí chiếc ba-lô của một liệt sĩ. Liệu anh ta có thực là họ hàng của đồng chí hay không ?...
- Nếu không phải là người thân thích có lý do gì mà họ lại gửi cho tôi ?...
Hoàng An vặn lại, mặc dù óc anh thoáng qua những nghi ngờ :
« Ai có thể gửi cho ta ?....Không lẽ đây là ba-lô của thằng Mèo Mã Lỳ chết dẫm ?.....Ồ không, điều này không tin được. Bởi y họ Mã, sắc tộc Mèo và ở tận núi Hoàng liên sơn....Không ai có thể nhầm lẫn một cách điên rồ như thế.... »
Anh lính nhìn Hoàng An, phân vua :
- Không phải chúng tôi tò mò nhưng vì địa chỉ đề rất mơ hồ....Thêm nữa, trong quân khu này có đến sáu người tên là Hoàng An. Phòng tổ chức còn đắn đo vì đồng chí quê ở Lạng Sơn nhưng liệt sĩ này lại là người Tầy tỉnh Thái nguyên.
- A....
An nở nụ cười xí xoá :
- Tỉnh nào cũng là đất nước Việt nam cả...Người Kinh làm ăn buôn bán khắp nơi, người Tầy chúng tôi tuy không giỏi giang bằng nhưng cũng biết đi từ tỉnh này qua tỉnh kia để kiếm sống.
- Ô....Nếu vậy thì đồng chí cầm lấy...Tôi sẽ báo cáo với quân khu rằng kỉ vật đã đến đúng địa chỉ của người thân. Lẽ ra ...
Anh ta ngần ngừ một lát rồi nói tiếp :
- Lẽ ra, theo nguyên tắc, đồng chí phải kí giấy biên nhận. Nhưng vì tôi còn chuyến hàng thứ hai cho y viện này, mà đồng chí còn ở lại đây nên lần sau ta sẽ làm việc đó.
- Nhất trí. Tôi sẽ chờ đồng chí lần sau.
Hoàng An đáp.
Anh ta trao chiếc ba-lô rồi xiết chặt tay anh :
- Chúc đồng chí mạnh khoẻ...
- Cảm ơn. Tôi cũng chúc đồng chí lên đường may mắn....
Rồi chiếc xe nổ máy ra đi. Lần này, nó đi thật sự. 

 
Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (4)
Hoàng An cúi xuống nhìn chiếc ba-lô bẩn thỉu hôi hám như chiếc bị ăn mày, đoán rằng nó đã bị ném trong hang đá khá lâu, ít nhất cũng một hai năm nên những vết máu khô mới mốc meo thành tầng và các vết lỗ chỗ dán nhấm mới nhiều đến thế. Trên nền vải lem nhem màu cỏ úa ngả sang đen xỉn, găm một mẩu giấy trắng mà ai đó viết không lâu :
Kỉ vật của trung uý Hoàng huy Tú, tiểu đoàn 115 quân khu 18, đại đội 3, trung đội 1, liệt sĩ trên chiến trường Thuận hoá. Đề nghị chuyển cho đại uý Hoàng An , thuộc tiểu đoàn Một, tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã.
Anh tê lặng một hồi. Hoàng văn Tú, cái tên gợi cả một thời ấm êm, hạnh phúc. Tú là chồng của nàng My, em gái anh. Gia đình Tú ở sát thị xã Lào Cai, một vùng đất chen chúc những người thiểu số khác sắc tộc. Cha Tú là thợ rèn nổi tiếng, chắt nội của một người thợ rèn còn nổi tiếng hơn, được đặc trách rèn vũ khí cho các tướng lĩnh và vương hầu cai quản miền biên giới. Đến thời cha Tú, người ta không còn sử dụng gươm dáo nên ông chỉ rèn các loại nông cụ và dao, búa. Nhưng dao đi rừng của ông được coi là vật tuỳ thân tuyệt hảo đối với người miền núi, còn các loại dao nhọn, dao bầu, dao bản vuông...của ông được coi là dụng cụ kiếm sống không thể thiếu của đám dân bán thịt trong vùng. Cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ thành công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, nhờ bà mối. Một người đàn bà còn ròn rã xinh tươi, tuy đã ngũ tuần. Bà mối này vốn buôn lâm sản ở Lào Cai, là hàng xóm liền vách với nhà Tú nhưng lại có người chị ruột lấy chồng bản Xíu. Năm nàng My mười bảy, bà về bản Xíu chơi, gặp cô thiếu nữ nhu mỳ liền vội vàng quay lại Lào Cai, rồi tức tốc dẫn Hoàng huy Tú lên Thất Khê tìm con gái ông trưởng bản. Vừa chạm mặt mỹ nhân tháng trước, tháng sau Tú đã cùng cha mẹ đem lễ vật đến nhà chú thím anh xin cưới. Dịp hôn lễ của họ chính là dịp anh đặt chân tới thị xã Lào Cai lần đầu tiên....Rồi sau đó, chẳng còn cơ hội nào quay về đấy...
Năm tháng trôi qua, gia đình Tú đã chuyển xuống sinh sống ở tỉnh Thái nguyên lúc nào mà anh không hay biết ?....Tuy trong lòng nóng như lửa đốt, nhưng Hoàng An vẫn khoác chiếc ba-lô vào cánh tay rồi đặt kiện thuốc lên vai, tiếp tục leo dốc cùng đám nhân viên quân y viện. Phải ba tiếng đồng hồ họ mới chuyển hết được số hàng vào nhà kho. Chờ mọi người tụ tập trong bếp ăn để chia bánh kẹo, An xách chiếc ba-lô của Tú đi về phía sườn dốc dẫn xuống dòng suối, lúc này chẳng một bóng người. Ở đó, anh mở ba-lô một cách cẩn trọng, lấy ra một bộ quần áo thu-đông, một ống thuốc đánh răng đã dùng dở khô đét, một chiếc bàn chải đã toẽ hết gai, một chiếc lược sừng nhỏ và một phong bì bọc dán chằng chịt bởi những lớp vải ni-lông, hẳn được cắt ra từ một tấm áo mưa cũ. Đoạn anh dốc ngược ba-lô lên rũ một hồi để cứt dán còn bên trong rơi xuống. Một cây bút bi rơi xuống theo. Mùi hôi mốc bốc lên cùng mùi vải ẩm.
« Đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn ông đẹp đẽ và cường tráng. Tất cả những gì còn lại của một người chồng và một người cha. Gia sản của trung uý Hoàng huy Tú. Kỉ vật mà ngày nào đó ta có thể trao lại cho nàng My cùng những đứa con của nàng....
Anh ngồi như thế hồi lâu trước mớ vật dụng vô nghĩa rồi mới giở bức thư của Tú ra. Thư dán quá kĩ, chẳng có cách gì gỡ được những lớp vải ni-lông chằng đụp như vậy. Trong túi anh không có một lưỡi dao, ngay đến cả chiếc bấm móng tay cũng không có nốt. Sau cùng, anh đành tìm một lưỡi đá nhọn ven dốc, mài lớp bì thư vào đó theo cách những người nguyên thuỷ cọ đá để lấy lửa cho bùi nhùi. Khoảng chừng mươi phút sau, anh đã có thể móc ngón tay vào lỗ rách để xé toang các lớp vải quấn ra. Thư của Hoàng huy Tú viết trên giấy kẻ ô của học trò vỡ lòng. An trải tờ giấy lên đầu gối, đọc :
Anh thân mến,
Kể từ ngày anh tiễn nàng My lên Lào Cai, bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, bao nhiêu sự việc đã xoay chuyển. Tuy không còn cơ hội gặp nhau nữa, nhưng em chẳng bao giờ quên anh bởi nàng My luôn luôn nhắc nhớ tới anh. Chúng em đã có hai con, hai đứa đều là con trai cả. Gia đình em đã chuyển xuống sinh sống ở Thái nguyên sau ngày anh nhập ngũ, bởi ở dưới đó, cha em tìm được một đầu mối bán buôn lớn và xưởng rèn gia đình có cơ phát triển. Cha em cũng đã già nên phần sản xuất do chúng em đảm nhiệm đồng thời thuê thêm non chục thợ. Em không có điều gì phải phàn nàn ngoại việc trong ba anh em hai người đã phải lên đường. Không rõ tin tức đứa em út nhưng ngày mai chính em sẽ tham dự chiến đấu trên mảnh đất Thuận hoá. Lính bước chân vào đây khó có đường về. Người ta bảo đất này vừa dữ vừa hẹp nên thây người không chôn thành một lớp mà chí ít cũng dăm bảy tầng chồng chất lên nhau. Chiều nay, toàn đơn vị ngồi viết thư cho gia đình, em cũng viết thư cho anh. Ai cũng ngầm hiểu rằng đây là lá thư cuối cùng trong đời lính.
Anh thân mến, anh còn nhớ đêm liên hoan mà anh đã gặp Mã Lỳ hay không ?...Chính em cũng có mặt đêm hôm ấy. Chính em là con chồn lủi trong bóng đêm mà anh đã rượt đến tận cửa rừng...Thoạt bước chân đến mảnh đất của anh, em đã thấy anh đứng với Mã Lỳ nên vội lảng tránh. Bởi do tình cờ mà em đã thuyên chuyển về chính đơn vị của anh năm năm sau ngày anh ra đi. Cũng do tình cờ mà em ở cùng trung đội với Mã Lỳ và được gã Mèo này tin cẩn. Có lẽ vì trong đại đội chỉ có hai chúng em là dân miền núi. Mã Lỳ hoàn toàn không biết chúng ta là anh em nên đã kể tất cả mọi sự theo...con mắt nhìn của gã. Vào đêm liên hoan ấy, khi nhìn thấy gã đi với ....bạn mới, em liền đi theo. Em biết chắc điều gã Mèo sẽ làm. Em đã lên nhà gã. Nhà gã nhỏ hơn chuồng nuôi lợn của chúng ta. Mọi người ngồi ăn cháo ngô ngay trên nền đất, lợn chạy xung quanh, thúc mõm cả vào lưng chủ lẫn khách, rồi ỉa lung tung khắp nền nhà...Có lẽ anh khó hình dung được cảnh tượng đó. Nhưng em đã chứng kiến nên em hiểu Mã Lỳ sẽ làm bất cứ việc gì để được tiến bộ....Vì vậy em đã đuổi theo y....
Anh thân mến, còn sự việc này chắc anh đã dự đoán nhưng chưa biết rõ. Nàng Xuân và Nàng Đông đều bị giết cùng năm Con gà(I957), theo cách lấy chầy gỗ đập vào sọ. Thây Nàng Xuân bị ném ven đường ngoại ô Hà nội giả làm tai nạn giao thông còn Nàng Đông bị ném dưới chân cây cầu gỗ bắc qua Khe Lan, trên đường về huyện Thất Khê. Nhưng em cũng chỉ biết điều này ba năm sau, nhờ một người quen...Bố mẹ vợ em và ông Cao đều bị giết vào mùa đông năm Con chó(I958), hơn một năm sau cái chết của hai nàng. Bà mối nhắn tin cho em. Khi em quay trở lại bản Xíu, ba tuần sau cái đêm tai hoạ đó, chỉ thấy tro tàn của hai ngôi nhà sàn. Dân bản nói rằng đêm hạ tuần tháng trước bỗng nghe tiếng máy bay trực thăng đổ xuống khu vực suối Sơn ca. Vì trời rất rét thêm nữa đêm tối đen như mực nên chẳng ai tò mò nhìn ngó. Người ta tin rằng chỉ có máy bay của bộ đội biên phòng vì lý do đặc biệt nào đấy mới bay vào lúc khuya khoắt như vậy. Nhưng khoảng chừng nửa giờ sau hai ngôi nhà sàn bốc cháy. Lúc đấy, dân bản mới hò nhau thắp đèn thắp đuốc đi cứu hộ. Khi họ đến nơi, lửa cháy cao ngất như rồng táp mà mùi săng vẫn bốc sặc sụa nên chẳng ai dám động chân động tay. Nhìn qua đám lửa không thấy một bóng người. Dân bản cứ đứng như tượng nhìn từng cây cột theo nhau đổ. Lửa cháy tới tận hôm sau. Khoảng non trưa, sương quang trời sáng rõ, người ta mới tìm thấy xác ông Cao bị thui đen trong đám than tro. Còn bố mẹ vợ em thì mất tăm, vô hình vô dạng. Huyện phổ biến rằng một đội biệt kích của Mỹ nguỵ từ phía nam bay ra gây hoả hoạn để gieo rắc hoang mang cho đồng bào dân tộc. Nhưng em biết rằng lũ giết người này chính là bọn đã giết Nàng Đông và Nàng Xuân. Cái lý của người Tầy chúng ta chỉ ra như vậy.
Anh thân mến, sớm mai chúng em phải lên đường. Chắc sẽ không có ngày quay lại. Anh hãy cố gắng sống bằng mọi cách để trả mối hận này. Anh hãy bảo bọc nàng My và những đứa con em. Được như vậy, dù ở dưới mồ, em cũng sẽ ơn anh mãi mãi...
Em Hoàng huy Tú.
Chữ kí rắn rỏi, không một chút run rẩy. Nét bút của một tay thợ rèn, quen quai búa từ thuở còn thơ. Anh đặt lá thư xuống. Trời không có gió nhưng tờ thư run rẩy. Những cơn rung động chạy khắp toàn thân khiến anh nổi da gà. Rồi những ý nghĩ nối nhau chạy qua óc não anh như đàn chuột lửa :
« Chúng giết hai nàng bằng chầy gỗ vì đó là cách tiết kiệm và giản đơn nhất cho một cái chết. Chúng giết ông Cao bằng cách đâm chém để thiên hạ ngờ rằng đó chính là cuộc thanh toán trong giới giang hồ bởi ông Cao đã rời bản đi lênh đênh chân trời góc biển hai mươi năm. Chúng bắt cóc chú thím ta lên máy bay để giết họ rồi quăng thây xuống một cách rừng tỉnh khác để không ai còn có thể dò ra tăm tích và để dễ bề tung tin rằng lũ biệt kích giết người, bởi chú ta đương kim vẫn là chủ tịch xã, chức quan bé mọn nhất trong bộ máy quyền lực này....Quả là một bọn sát nhân thành thạo, mọi con tính đều có sẵn trong ngăn kéo bàn giấy của chúng. Tất thảy những người thân của ta đều bị huỷ diệt trong một cuộc cờ. Ta chẳng còn ai trên cõi đất này...Chẳng còn ai....
Ngọn lửa trong đầu anh bốc như đám cháy hai ngôi nhà sàn mà anh mường tượng. Những đàn chuột lửa không ngừng chạy đi chạy lại, nhảy nhót, khiến anh vừa đau đớn vừa ngứa ngáy, một thứ cảm giác anh chưa từng biết đến và chẳng thể diễn đạt. Rồi đôi mắt anh bỗng nhiên mờ dần, mờ dần trước đám khói mù mịt bốc ra ngay trên đỉnh sọ, tựa hồ hộp sọ đã nứt đôi để phun lên những đám khói ngột ngạt của một cuộc thiêu đốt âm thầm. Một cơn đau khác dưới đám ruột cuộn lên, trào qua cơ hoành, thốc vào hai lá phổi những luồng khí nóng bỏng, dường như ngực anh đã trở thành một chiếc nồi súp-de đầy ứ hơi sắp nổ. Đột nhiên anh cất lên một tiếng thét rợn hồn, một tiếng thét khiến chính anh cũng choáng váng, chính anh cũng chết lặng đi vì không hiểu nó từ đâu tới. Dường như chẳng phải chính anh đã cất lên tiếng thét đó, chẳng phải âm thanh kinh dị ấy vừa thoát ra từ hai lá phổi đầy ứ khí nóng của anh mà đó là tiếng gào của một con quỷ lạ, một loài ngạ quỷ mượn cổ họng người để trút ra tiếng gào của chính nó.
Từ phía quân y viện, ai nấy đều đổ xô ra nhìn. Chưa bao giờ họ nghe thấy một tiếng thét khủng khiếp như thế. Mặc dầu tiếng la hét đau đớn trong những ca giải phẫu thiếu thuốc gây mê là thứ âm thanh tra tấn thường xuyên và đã trở thành quen thuộc nhưng đây là lần đầu họ nghe thấy một tiếng thét kì lạ, trong đó không chỉ có nỗi đau đớn thể chất hay sự thống khổ tâm hồn mà còn cuồn cuộn những con sóng cuồng nộ của một sức mạnh kinh hoàng. Sức mạnh của man dại và thù hận. Bốn phía núi rừng rung động. Mọi người ngừng thở vì sợ hãi. Người ta cho rằng tiếng thét ấy chỉ có thể là tiếng thét của thần sông, quỷ núi, hoặc của người điên. Một người điên khổng lồ hung dữ và đang ở cực điểm cơn kích động.....
Chẳng tìm thấy ai ngoài trung tá Hoàng An. Anh đang ngồi một mình ven con dốc dẫn xuống suối. Một mình anh. Bác sĩ viện trưởng lẫn mọi người đưa mắt nhìn nhau trong khoảnh khắc rồi tất cả kéo nhau đi tới. Khi nghe thấy tiếng chân đám đông vang lên phía sau lưng mình, Hoàng An ngoảnh lại, tuy mặt trắng nhợt nhưng anh đã nhoẻn miệng cười nụ cười dễ mễn mà mọi người quen thuộc :
- Đây là chiếc ba-lô của đứa em tôi, hy sinh tại chiến trường Thuận hoá....Tôi không thể chôn nó, cũng không thể khóc thương nó....Tôi hét lên vì tôi căm thù... Tôi căm thù Mỹ nguỵ....
- Đồng chí An....
Viện trưởng dịu dàng đặt tay lên vai anh :
- Đồng chí hãy về viện nghỉ ngơi....Chiến tranh mà. Tất cả chúng ta có mặt ở đây đều vì cuộc chiến tranh này...Tất cả chúng ta đều phải căm thù Mỹ nguỵ....
* * *
Chủ tịch thức dậy lúc nửa đêm. Sau những giấc mơ nặng nề, mắt ông bỗng nhiên ráo hoảnh và tim ông phập phồng, hồi hộp. Tiếng quật bài tu-lơ-khơ của hai chàng cận vệ ở bên ngoài tuy khẽ khàng nhưng vẫn vang lên trong đêm khuya khoắt. Cây kim dạ quang trên mặt đồng hồ chỉ một giờ hai mươi nhăm. Ông kéo tấm chăn lên cằm, lắng nghe những tiếng thì thầm một cách lơ đãng :
- Tám nhép.
- Mười nhép.
- Ji cơ.
- Ka cơ...
- Quy rô ...Mày sắp chết rồi con ơi....
- Chết cục cứt tao đây này, ka rô đỏ chon chót nhé. Tao chờ xem mày xuống cây gì ?...
- Con ơi, mày đã đến ngày tận số. ... Át cơ !...Phăng-teo đâu rồi, đem xuất xưởng. Nếu không thì bó gối lai hàng cho xong...
- Thôi được, chịu thua ván này....Nếu có quân phăng-teo chắc chắn tao cho mày sấp mặt keo nữa....Bây giờ là tám ba nhé. Mày vẫn còn nợ tao năm ván. Khó lòng mà gỡ đêm nay, con ơi...
― Chúng nó sung sướng thật, những đứa trẻ chơi loại cờ này. Thắng, chúng ăn vài chiếc kẹo vừng hay kẹo lạc....Thua, chúng bị đối phương vẽ nhọ nồi lên mặt....Ván cờ của chúng không làm tổn hại đến ai, không có máu chảy đầu rơi, cũng chẳng hận thù ân oán....
Chủ tịch thầm nghĩ. Rồi một gương mặt khác đến với ông, vừa điệp với gương mặt đứa con trai người tiều phu Xóm Núi, lại vừa nhù nhoà trong lớp sương mù tưởng tượng. Ông bất giác buông tiếng thở dài :
― Con trai của ta....Nếu lũ phản bội để cho con được sống, chắc chắn con sẽ có một cuộc sống vô danh vô diện của thứ dân. Con sẽ trà trộn trong đám người đứng ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Ngày nào đó con sẽ chơi bài ăn kẹo lạc và vẽ râu nhọ nồi như mấy chú lính ngoài kia....Nhưng biết đâu con chẳng hài lòng vì cuộc sống vô danh đó ?....Và biết đâu những ván bài ăn kẹo lạc chẳng đem lại cho con một hạnh phúc thật sự trên cõi đời ?....
Để xua đuổi những ám ảnh, chủ tịch giơ tay định bật cây đèn ở đầu giường để đọc sách nhưng chợt nhớ ra rằng làm như vậy cuộc chơi cờ của hai chàng trai ắt phải dẹp bỏ. Họ sẽ phải băn khoăn hỏi xem vì sao ông mất ngủ ?...Có cần gọi bác sĩ hay không ?...Có cần đun nước pha trà không ?...Có cần chuẩn bị thứ gì đó ăn nhẹ cho đỡ mệt ?...Tất thảy những quan tâm hành chính ấy khiến ông não lòng. Ông lại nằm xuống, kéo chăn lên cằm, đăm đăm nhìn khoảng trần nhà mờ tối. Dưới chân tường, ngọn đèn ngủ bé xíu như con đom đóm và cũng có màu xanh của lửa đom đóm. Ngày ấu thơ, ông vẫn cùng bạn đi bắt đom đóm bỏ vào những chiếc vỏ trứng gà. Trong bóng đêm, những chiếc vỏ trứng sáng óng ánh và mùa hè đom đóm ấy là mùa hè thần thoại nhất trong đời ông...
― Giờ đây, liệu thằng bé có chơi đèn đom đóm hay không ?...Nó cũng đang sống nơi thôn dã cùng đám bạn học và xung quanh chúng cũng là những khu vườn, những bờ cỏ, những nghĩa địa làng um tùm như quang cảnh thời xưa khi ta còn ở Nghệ An ?...
Ông tự hỏi, nhưng rồi lại tự riễu mình vì đứa con ông sẽ chẳng bao giờ biết quê quán ở đâu và lúc này chẳng đứa trẻ nào có thể chơi đèn đom đóm. Đất nước đang trong cuộc binh đao, thay vì ánh lửa lập loè của lân tinh là đạn các loại pháo cày đỏ trời đêm. Thứ lửa gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng cái chết...
― Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh....
Một lịch sử đã dằng dặc những cuộc chiến liên miên không ngưng nghỉ, vậy mà lũ người đam mê vinh quang còn cộng thêm vào đó cuộc chiến này. Một cuộc chiến vô tiền khoáng hậu cả về phương diện năng lực bị huy động cũng như những tổn thất máu xương...Ôi cuộc chiến tranh ngu xuẩn, cuộc chiến tranh đã được thực thi như đòn trừng phạt đối với một dân tộc. Một dân tộc tự đưa thân mình ra làm tăm-pông giữa hai toa tầu lịch sử, tự sử dụng danh tính của mình như con tốt đen trong bàn tay của thế nhân, tự hoán cải giang sơn thân thiết thành chiếc cối xay thịt khổng lồ trong một cuộc huynh đệ tương tàn khủng khiếp gấp ngàn lần cuộc binh đao Trịnh Nguyễn !...
Ta biết làm gì giờ đây khi ván cờ đã lỡ, khi ta bắt buộc trở thành con rối gỗ trong tay lũ sát nhân ?...Những người anh em thù nghịch của ta, chẳng lẽ chúng ngu dại đến mức không có một chút ngờ vực khi dấn thân vào tấn trò này hay chúng cố tình quay lưng lại với lương tâm vì cuộc ganh đua quyền lực hấp dẫn hơn thân phận của một dân tộc ?... Ôi danh vọng, vinh quang....những thứ người ta chẳng thể ăn chẳng thể ngửi chẳng thể làm tình nhưng lại có sức huỷ diệt kinh hoàng, không chỉ huỷ diệt một cá nhân, một tập đoàn mà cả một nòi giống..
Nhưng vì cớ chi ta mãi đắm đuối , mãi khổ đau vì dân tộc này ?...
Cái dân tộc cần đến cuộc đời ta như cần một con vật làm lễ hiến thần linh. Cái dân tộc ngu ngơ cười những nụ cười thoả mãn, cất tiếng tung hô ta như tung hô một hoàng đế vĩ đại, thần phục ta như đám ba quân thần phục một nguyên soái lẫy lừng bất khả chiến bại mà không mảy may hiểu một phần nghìn nỗi đau đớn giằng xé con tim ta, mà không đủ nhân từ ban cho ta một chút cỏn con hạnh phúc ?... ....Vì cớ gì ta mãi phải dày vò vì cái dân tộc vị kỉ và vô tình ấy cho dù nó chính là của ta ?...
Ồ không, từ muôn đời người ta đã biết rằng đám đông chỉ là một luồng gió, một đợt sóng, một trận cuồng phong, một cơn lũ hay một cơn hoả hoạn....Đám đông vô danh vô tính và vô trách nhiệm trước tất thảy những gì họ đã làm. Ta không thể lên tiếng oán trách hồ đồ như vậy. Dù muốn hay không dân tộc này vẫn là dân tộc của ta.
Lý do cuộc sinh tồn của ta là vì nó. Nỗi thống khổ lớn nhất trong con tim ta cũng là vì nó : Một dân tộc bị đoạ đầy....
Vì chưng ta đã sinh ra chính ở nơi đây, mảnh đất bùn lầy đau khổ ...Vì chưng sợi dây đàn mong manh nhất trong tâm hồn xứ sở vang vọng nơi tâm hồn ta cũng như nỗi tủi nhục nghìn năm của nó tẩm liễm vào từng tế bào cơ thể ta, từ da thịt máu xương cho đến cách cảm thụ sinh tồn...Chính ở nơi đây ta đã bị kết án vĩnh viễn khổ đau. Chính ở nơi đây ta buộc phải trả món nợ non sông lưu tồn từ ngàn kiếp !...
Vậy là mọi nẻo đường đều dẫn ông quay lại địa ngục của chính ông. Không có cách nào trốn thoát....
Chủ tịch bật lên một tiếng rên rồi vội vã nghiến răng lại vì sợ hai cậu lính bên ngoài nghe thấy. Trái tim ông dường như mắc chứng sung huyết, nở to ra, đập một cách nặng nề. Ông nghe rõ từng nhịp đập ấy, ông cảm thấy rõ rệt những cơn co thắt khó khăn của nó :
― Ước gì thay vì một trái tim, con người có thể sở hữu một cái bơm máu, một thứ dụng cụ đủ chức năng nuôi dưỡng sự tuần hoàn mà chẳng mảy may gây ra những đớn đau...Giá như ta có một trái tim khác, một bộ óc khác hẳn ta có thể sống an nhiên ?....Giá như ....
Ông đưa tay lên xoa ngực, sờ đốt xương sườn cuối và bỗng thương thân:
― Tại sao ta mãi tự đầy đoạ ta trong một nỗi khắc khoải triền miên, một nuối tiếc dằng dặc và một nỗi nhớ mong không bao giờ nguôi dịu ?...
Tại sao ta không thể lãng quên vì cuộc sống cần đến sự lãng quên như kẻ mắc chứng nhiễu tâm cần thuốc ngủ ?...Ta đã học cách lãng quên gần như suốt cuộc đời để rồi khi trở về già mọi bài học đều hoá thành đám tro như đám tro sau cuộc đốt mã ?.....Cuộc chiến tranh ngu xuẩn này là đòn trừng phạt đối với dân tộc của ta còn sự vãn hồi trí nhớ là pháp đình tối cao dựng lên để triệu hồi ta về nghe phán quyết ?...Phải chăng đây chính là một liên đới thảm khốc giữa thân phận riêng ta với kiếp nạn chung của giống nòi ?...Hay là sự trùng lặp ngẫu nhiên bí ẩn sẽ còn lại như một câu đố mãi ngàn thu ?...
Ông nghe một tiếng cười khẽ khàng bên tai nên mở mắt ra.
Gã đàn ông có nước da màu nõn chuối đang đứng dựa lưng vào tường. Bảnh bao trong bộ com-plê màu trắng ngà, thứ màu ông thích nhất. Ông vẫn nhớ cái cảm giác súng sính hớn hở khi lần đầu có đủ tiền để cắt may bộ com-plê ấy tại Paris, cái thành phố đắt nhất thế giới, nơi thợ may kiếm tiền nhiều gấp năm đến mười lần đám thợ các thành phố khác....Bộ quần áo sang trọng đầu tiên trong tuổi trẻ của ông, giờ đây gã đang mặc. Cũng cách bẻ cổ áo sơ-mi như thế, cũng chiếc cà-vạt màu xanh dương thẫm điểm chấm trắng và kiểu thắt cà-vạt cũng là kiểu thắt của thời xưa...Nhưng đó chẳng phải một chàng trai trẻ mà là một kẻ trạc ngũ tuần, có ngoại hình giống ông như bản chính với bản sao...Một lần nữa, ông hiểu rằng gã chính là bản diện thứ hai của ông, là kẻ mà lẽ ra ông có thể trở thành......
Gã đứng tựa lưng vào tường, dáng thong thả và điệu đàng, hai tay đút trong túi quần, mắt nhìn thẳng vào mặt ông với cái nhìn chăm chú :
- Ngươi không khóc đấy chứ ?...
Ông ngần ngừ một chút rồi đáp :
- Xin lỗi...Tôi không thích câu hỏi của ông.
- Nếu cần, cứ khóc một chút cho nhẹ lòng....Ta vốn rộng lượng với những kẻ yếu đuối.
- Tôi không quá yếu đuối như ông tưởng.
- Để rồi xem.
- Câu ấy để giành cho trai tráng. Tôi đã ngoại bẩy mươi, câu nói của ông với tôi là thừa thãi.
- Nếu ngày mai ngươi lên đường về với tổ tiên, ngày hôm nay câu nói ấy vẫn còn cần thiết.
Ông lặng im vì thấy gã có lý. Nhưng ông cũng không thể thú nhận thua cuộc. Cách tốt nhất là lặng im. Và ông đưa mắt nhìn lên khoảng trần nhà mờ tối. Gã mỉm cười nói tiếp :
- Vào tuổi này mà ngươi vẫn cố sức đi tìm lời giải cho những câu hỏi siêu hình....Thế cũng đáng khen.
- Người ta có thể bị quay đảo bởi những câu hỏi như thế cho đến tận phút xuống mồ. Vì vậy, cuộc tìm kiếm lời giải cũng là lẽ đương nhiên.
- Có cả ngàn câu hỏi mà nhân loại chẳng bao giờ tìm được câu trả lời. Vì bản chất cuộc sống là sự đánh đố và thách đố. Sự đánh đố và thách đố này bao trùm lên mối quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, giữa các nhóm người khác nhau trên quả địa cầu, và giữa người với người trên tư cách cá thể...Hãy nhìn lại quãng đời đã qua, ngươi sẽ tìm thấy những lỗ hổng, những mắt xích yếu kém, những rạn nứt, những đổ vỡ....Tất thảy những thứ đó xảy ra khi ngươi mất khả năng kiểm soát những phẩm chất cốt lõi nhất của cuộc đời...
- Tôi sẽ cố tìm bằng chứng cho sự lý giải của ông.
- Không phải cố. Chỉ cần ngươi quay đầu lại và nhìn mọi sự một cách khách quan hơn. Các bằng chứng nằm đầy rẫy trên con đường phía sau lưng ngươi, như những cột mốc sắp hàng dọc quốc lộ.
- Tôi vẫn luôn cố gắng phân tích sự việc một cách khách quan. Đấy là đòi hỏi tối cần thiết của người cầm quyền.
- Cái đòi hỏi tối cần thiết ấy lại chính là phần thường xuyên thiếu hụt nơi kẻ cầm cân nẩy mực. Sự sụp đổ của mọi đế chế, sự tan rã của mọi vương triều đều xảy ra vì thiếu hụt cái nhìn khách quan. Khách quan đối với tha nhân chỉ là sườn đất thoai thoải miền thảo nguyên, nhưng khách quan với chính bản thân là con đường leo lên đỉnh Hymalaya. Ta về đây để chỉ cho ngươi rõ những vết nứt lớn nhất trong tâm hồn ngươi. Như thế, ta sẽ giúp ngươi tìm được tự do. Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi cái địa ngục này....
Ông im lặng vì trong thâm tâm ông đang chờ sự giúp đỡ của gã, chờ một cách thực sự, và điều ấy giống như sự sỉ nhục. Sau một hồi im lặng, ông thu hết can đảm cất tiếng :
- Vâng. Tôi chờ nghe ông.
Gã mỉm cười, nụ cười của gã vừa có nét quyến rũ truỵ lạc của Yve Mongtan vừa có vẻ giản dị, hồn nhiên của Jean Gabin thời niên thiếu. Gã nghiêng đầu sang bên trái một chút, nhìn sâu vào mắt ông với cặp mắt trong suốt màu nâu :
- Ta bắt đầu bằng nỗi dày vò thường trực nhất của ngươi, cái chết của người đàn bà ngươi yêu dấu. Ngươi thuận tình chăng ?...
- Tôi có nhiều nỗi dày vò. Trên vai tôi cũng chất chồng vô số những tiếc thương và ân hận...
- Ta hiểu. Nhưng nỗi tiếc thương cho một dân tộc chỉ có đấng toàn năng mới đủ quyền lực để hoá giải. Ta, cũng như ngươi chẳng phải là đấng toàn năng. Ta chỉ có thể giúp ngươi trong cuộc chìm tầu này, trong cái bi kịch xưa cũ giữa một người đàn ông với một người đàn bà đồng thời giữa một ông vua già với một ái phi trẻ tuổi. Ngươi nghĩ sao ?
Ông im lặng không trả lời. Gã nhún vai một cách ngạo mạn và cất tiếng hỏi :
- Vào ngày Nàng Xuân bị giết hại, ngươi đã làm gì ?...
Ông lại tiếp tục im lặng vì không biết trả lời ra sao...Ngày ấy, ông đã gọi điện cho tướng Long nhưng khi vị tướng này sang, hai người chỉ trao đổi những sự việc liên quan đến quan hệ quốc tế. Ông đã chờ đợi tướng Long lên tiếng, nhưng cuộc trò chuyện kéo dài từ tám giờ sáng cho đến mười hai giờ rưỡi trưa mà ông ta chẳng cất lời. Còn chính ông, ông không dám mở miệng. Ông hiểu rằng vào lúc ấy, chỉ tướng Long mới đủ khả năng giải quyết sự manh động và lạm quyền của bộ trưởng Quốc Tuỳ. Toàn bộ các tướng lĩnh và bộ quốc phòng còn đang nằm dưới tầm tay của ông ta. Nhưng tướng Long đã lờ đi vì chính ông ta cũng muốn chủ tịch đóng vai thánh sống. Chính ông ta cũng muốn chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc mà không để lại mảy may dấu vết của cuộc sống gia đình. Trò chơi Thánh sống này đem lại lời lãi cho toàn thể bộ máy quyền lực, không một ai từ chối miếng ăn ngon...
- Ngươi không làm gì cả và miệng ngươi câm như hến, đúng không ?...
Gã hỏi nhưng không đợi câu trả lời. Gã biết thừa ông không đủ can đảm để cất tiếng. Đôi mắt đẹp của gã nheo lại trong một cái nhìn vừa khinh bỉ vừa nhuốm màu thương xót và nói tiếp :
- Nói đúng ra, ngươi mong chờ tướng Long, người đàn em thân thiết nhất ra tay. Còn chính ngươi, ngươi không dám chủ động lên tiếng, bởi trong thâm tâm, ngươi lo sợ bị lịch sử kết án : Vì tình riêng mà gây sự biến cho quốc gia....Ai cũng nhìn thấy cách duy nhất để hành động lúc ấy là sử dụng lực lượng quân đội vây bắt Quốc Tuỳ đồng thời truất quyền Sáu, tên phản bội đầu bảng...Nhưng như thế, ắt máu phải đổ. Và ngươi lo sợ cho cái uy danh muôn đời của ngươi trong cuốn sử đất nước. Vì ngươi là tác giả của khẩu hiệu thơ mộng này :
― Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công . 


Đỉnh cao chói lọi
ƯỚC NGUYỆN (5)
Ý tưởng của ngươi đẹp đẽ thật và hiệu lực thật....Nhưng chỉ trong một thời, và trong một cảnh. Thứ đạo đức cốt lõi của những ai đang sống nơi rừng rậm nơi suối reo vượn hót....Ngươi không hiểu rằng khẩu hiệu đó chỉ là chiến lược trong cuộc chiến tranh du kích. Nhưng một khi guồng máy quyền lực đã thiết lập, ý tưởng cao sang ấy chỉ còn là một con chim oanh đẹp đẽ nhưng không hót được cũng không bay được vì đó là xác điểu nhồi bông. Khẩu hiệu của ngươi là thứ xăng nhớt chỉ dùng chạy cỗ xe kháng chiến nhưng không dùng được cho bộ máy điều hành quyền lực, nhất là quyền lực đảng độc tài...Ngươi quá mê mẩn với cái thứ lời hay ý đẹp của bản thân mà không hiểu rằng ngôn từ cũng như mọi thứ trên đời có sinh thì có tử. Quyền lực là quyền lực, nó không song hành với mỹ học hay đạo đức. Tính chất đặc trưng của đời sống là đánh đố và thách đố chính ở đây. Cú đòn giáng xuống người vợ trẻ của ngươi chính là trận đánh thăm dò. Vì ngươi đã tự bó tay nên hồi sau những kẻ thù nghịch trèo lên đầu ngươi cũng là điều dễ hiểu.
- Nhưng tôi cũng không thể yêu cầu tướng Long hành sự...Bởi điều đó sẽ khiến bao nhiêu con người vô tội phải đổ máu....Đất nước vừa trải qua chín năm kháng chiến, dân chúng chưa được hưởng yên vui...
- Ồ, muốn tránh máu cũng vẫn đổ....Trên hành tinh này có lúc nào ngừng tiếng súng đâu ?..Nếu như ngày ấy ngươi tự nguyện hy sinh để tránh vài vũng máu tươi thì giờ đây ngươi đã không ngăn được những dòng sông máu lênh láng chảy... Cuộc chiến tranh hiện thời sẽ là cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, một cuộc chiến tranh quỷ khóc thần sầu, bởi số người chết sẽ lớn hơn tổng số những kẻ đã hy sinh trong các cuộc chống ngoại xâm, từ thời Minh Nguyên cho đến tận mùa thu năm Ất Dậu(I945)....Điều ta nhận định đúng hay sai ?...
- Ông biết rằng tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản nó...Nhưng....
- Nhưng lực bất tòng tâm và ngươi là kẻ ngã ngựa giữa trận tiền...Ta đặt giả thuyết rằng ngay từ ngày người vợ trẻ của ngươi bị sát hại, ngươi tổ chức cuộc phản công và thay vì để cho lũ đàn em thù nghịch giam lỏng ngươi trong cái nhà tù trá hình này, ngươi nhốt bọn chúng trong một nhà ngục thật sự....Biết đâu ngươi chẳng tránh được cuộc chiến thảm khốc này và tiết kiệm được biết bao xương máu của lương dân ?....
Ông im lặng thở dài và gã nhún vai nói tiếp :
- Nhưng thôi, chúng ta sẽ không tính lại chữ Nếu...Chữ ấy luôn luôn là thứ kẹo mút của bọn trẻ lên ba. Ta trở lại với bi kịch gia đình của ngươi. Và lần này ta không sử dụng từ nếu mà quả quyết rằng tướng Long giữ im lặng vào lúc ấy, chính vì ông ta cũng muốn trục lợi trong trò chơi ngươi đóng vai Thánh sống. Dưới bóng của một ông thánh có biết bao nhiêu kẻ được hưởng phần xôi oản, kẻ hưởng phần to nhất chính là ông ta. Tên tuổi của ngươi gắn với tên tuổi ông ta trong trận Điện biên Phủ. Vì thế, chính viên tướng này cũng muốn vĩnh viễn nhốt ngươi trong một ngôi đền. Ồ, trò chơi làm Thánh chính là trò chơi độc ác nhất cõi đời, ấy là độc đạo chỉ có thể trèo lên mà không có lối tụt xuống. Kẻ đóng vai Thánh sống phải chết cứng và chết đứng trên bệ của y, chết trong giá lạnh và mưa gió, chết trong cô đơn tuyệt đối vĩnh hằng, chết muôn kiếp trong tư thế một bức tượng, vĩnh viễn chẳng còn được chôn cất như những người khác....Một cái chết vô cùng mệt mỏi....Chết mà không được nằm, đó là thứ mệt mỏi kéo dài muôn kiếp.... Một kiểu hình phạt độc đáo của Tạo hoá...Ta nói đúng hay chăng ?...
Gã cất tiếng cười mai mỉa. Ông thấy mặt nóng bừng còn toàn thân lại lạnh buốt như băng. Dường như lưng ông và hai vai ông đã hoá đá dán chặt xuống giường. Ông không dám mở mắt nhìn kẻ đối thoại nên đành nhắm mắt lại và tiếp tục nghe tiếng gã tuôn ra như nghe những viên cuội dốc ra từ một chiếc hũ sành :
- Ngươi hoàn toàn tê liệt bởi chẳng có một ý tưởng nào rõ nét chỉ đạo hành động của ngươi vào lúc đó. Ngươi muốn đánh trả kẻ thù nghịch nhưng không dám thuyết phục đám tay chân. Ngươi đã quên nguyên tắc hành xử của các quân vương tự ngàn đời :
― Kẻ nào đụng đến tả hữu của ta chính là chặt chân chặt tay ta ;
Kẻ nào đụng đến máu mủ ruột rà của ta chính là chạm đến con ngươi mắt của ta vậy....
Lẽ ra, ngươi có thể vạch rõ mối hiểm nguy cho chính tướng Long và phe nhóm của ông ta. Rằng nếu ông ta giữ im lặng trước sự lạm quyền của Sáu thì sau cuộc đánh thăm dò này chính ông ta sẽ là một đại thụ cần phải đốn ngã trước tiên. Rằng kẻ hôm nay ăn cắp một quả trứng ngày mai sẽ ăn cắp một con thỏ và ngày hôm sau nữa sẽ ăn cắp con bò. Rằng quyền lực chỉ đi theo con đường của nó mà không bao giờ ngoái lại phía sau để suy ngẫm hay thương tiếc. Nếu ngươi đủ khôn ngoan để phân tích một cách đầy đủ như vậy, ta cam đoan là người đàn em của ngươi sẽ ra tay ngay tắp lự, chẳng một phút chần chừ, chẳng mảy may nao núng. Xưa nay, con người vẫn hành động tức khắc khi chính bản mệnh họ bị đe doạ. Lòng vị kỉ vốn là bản năng xa xưa và mạnh mẽ nhất của chúng sinh. Nhưng thay vì hành động với tất cả khả năng sáng suốt của lý trí, ngươi lại im lặng chờ đợi sự thông cảm một cách ngầm ẩn của đám đàn em. Sự im lặng này không hẳn vì ngươi hoàn toàn ngu ngốc, nhưng vì ngươi dùng dắng trong tranh tối và tranh sáng, chính trạng thái mù mờ đó khiến ngươi trở nên tê liệt. Có hai khả thể vào tình cảnh này : Hoặc ngươi hổ thẹn không dám bảo vệ người đàn bà yêu dấu vì nàng quá trẻ quá đẹp, một miếng ăn quá ngon đối với cái miệng của vị vua già, một thứ phản cảm đối với quan niệm chung của thứ dân và vì thế tuy trong lòng sôi sục yêu đương nhưng ngươi ngại ngùng và không dám công khai bảo vệ tình yêu đó. Trong trường hợp này đích xác ngươi là kẻ mắc chứng khổ dâm tinh thần. Nếu không, chỉ còn một cách giải thích khác. Ấy là vì ngươi quá thích thú với vai trò Thánh sống, là cuộc chơi này thoả mãn cái phần kiêu hãnh nhất trong bản thể nên ngươi buộc phải chịu đựng sự thiến hoạn cuộc sống bình thường của một người đàn ông, và do đó ngươi đã cam tâm hy sinh nàng, người đàn bà mà ngươi yêu nhất. Trong trường hợp đó ngươi là......
Những viên sỏi tiếp tục lăn ra từ miệng chiếc hũ sành, nhưng tai ông đã ù đi nên ông chỉ còn cảm giác là những đợt mưa rào đâu đó gõ ầm ầm lên mái tôn, có lẽ mái tôn nhà ngục Hương cảng ....Những đợt mưa rào hung dữ. Các tấm tôn xám kêu rùng rùng dưới những cơn mưa ấy. Phía trên các mái tôn là một mảnh trời. Lúc xanh lơ, lúc tối sầm mây giông, lúc trong vắt trong veo, lúc mịt mù sương khói...Ôi ,chỉ có kiếp tù nhân mới hiểu được tận cùng sự đổi thay sắc thái của mầu trời. Đã bao nhiêu ngày, ông nhìn bầu trời Hương cảng để hồi nhớ mảnh trời xứ sở ? Rồi đột nhiên ông thấy nàng xuất hiện trên mái tôn nhà ngục nhìn ông, cười nụ cười thơ trẻ. Hệt như cô gái mười chín tuổi ngồi trên cành cây ăn vả trong cánh rừng Việt bắc năm xưa. Hai hàm răng trắng bóng lên như ngọc trai, và cặp môi lấm lem ruột quả...
Ông cất tiếng gọi nàng nhưng miệng ông bị gắn chặt bởi một thứ nhựa dính như sơn ta và lưỡi ông dính bết vào hàm.
― Không lẽ ta đã chết và họ trám miệng ta bằng thứ nhựa này ?...
Ông nghĩ, nhưng rồi ông lại nghe tiếng quật bài tu-lơ-khơ bên ngoài vọng vào phòng và khi mở mắt ra ông vẫn nhìn rõ ngọn đèn ngủ xanh màu xanh của lửa đom đóm :
― Ồ không, ta đang ở đây....Ta đang ở trên đỉnh Lan Vu....Đối diện với khu nhà này là khu chùa phụ, nơi sư cụ có hai hàm răng đen nhánh sống cùng đệ tử ....Rõ ràng ta vừa sang chơi bên ấy, và họ thiết ta nước vối hãm gừng với chè lam, một thứ chè lam mềm như chuối chín...
Ông định thần, giương mắt nhìn quanh gian buồng lần nữa. Cảnh vật bình thường. Gã bảnh bao diện com-plê màu trắng ngà đã biến mất. Nơi gã vừa tựa lưng giờ chỉ còn lờ mờ chiếc khung gỗ trong đó lồng bức ảnh đen trắng mà ông rất thích : Hoa đào. Bức ảnh ấy chính nàng tặng ông khi họ vừa có đứa con gái đầu lòng. Không ngày nào ông không đứng trước tấm ảnh đó. Nó là tất cả những gì còn lại của nàng, gợi về nàng trên cõi đời rộng rênh hoang vắng này. Hoa đào. Sứ giả của mùa xuân. Hoa đào. Di vật bất tử của mối tình chết yểu....
Ông thấy vị mặn của muối.
Đó là nước mắt ông hay nước biển năm xưa lạc lối quay về ?.
― A!....Tuổi trẻ của ta...Khúc ca xưa cũ....
Ông vừa chợt nhớ ra câu hát ấy thì một câu hát khác đã trở lại, láy vọng và nhấn chìm ông trong nỗi tiếc thương :
― Dầu đã lìa xa, lòng ta không nguôi nhớ...
Tiếng hát rền vang trong ông, xuyên xoáy từng tế bào, khiến cơ thể lẫn tâm hồn ông tan ra như đám cát. Ông thấy những con sóng quật lên ông, lên cái khối bùi nhùi mà trong đó thịt xương bấy nát hoà trộn cùng thứ khí đục như mây giông. Ông biết ông không còn là ông nữa, bởi ông nhìn thấy mình đang dập dềnh trên ngọn sóng, một mớ bọt biển tiếc thương quyện vào đám rong rêu vật vờ của oán hờn và tuyệt vọng ..*.
Tiếng đập cửa phòng ầm ầm vang lên rồi cánh cửa bật ra. Điện bên ngoài đã sáng choang. Ông nghe tiếng bác sĩ :
- Thưa chủ tịch, xin phép được thăm bệnh cho người.
- A...
Ông chưa định thần được, cánh cửa đã mở toang và bác sĩ xuất hiện. Anh ta nói luôn :
- Cảnh vệ nghe nghe tiếng chủ tịch kêu nên sang gọi tôi. Xin người cứ nằm yên trên giường....
Ông im lặng. Bác sĩ luồn ống nghe để kiểm tra tim phổi ông. Thứ dụng cụ bằng kim loại lạnh buốt chạm vào da thịt khiến ông rùng mình. Nhưng những ngón tay bác sĩ rất mềm và ấm nóng, những ngón tay đầy nhục cảm. Hơi thở của anh ta cũng ấm nóng lướt nhè nhẹ trên trán ông. Mọi động chạm của người đàn ông này gợi nên những ý nghĩ thầm kín :
― Sự nồng ấm, đó chính là phẩm chất tối thượng của đời sống. Sự nồng ấm, vừa là hình hài vừa là đường biên của ngọn lửa đam mê...Ngọn lửa đam mê lớn nhất của đời ta đã dùng để đốt lên đám cháy cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng ấy chẳng đem lại hạnh phúc cho con người. Ngọn lửa đam mê nhỏ nhoi hơn đốt cháy con tim ta vì nàng. Rốt cuộc nàng đã bị huỷ diệt trong chính thứ lửa địa ngục ấy. Ôi tội nghiệp thay cho sự uổng phí sinh lực của kiếp người. Đời ta đã cháy lên như một ngọn lửa hoang, một sự bốc cháy nhầm lẫn, một sự tiêu xài năng lượng điên rồ. Ta thua kém bất cứ một kẻ bình thường nào khác, như tay bác sĩ này chẳng hạn. Anh ta có thể dùng năng lượng để sưởi ấm các con bệnh, để làm nóng lên tấm thân người đàn bà gần gũi, và để hát những khúc tình ca...„
- Thưa chủ tịch, không có vấn đề gì nghiêm trọng nhưng người suy nghĩ quá căng nên giấc ngủ không lành....Có lẽ người chấp thuận uống vài viên an thần hay chăng ?
- Ồ không. Mất ngủ là bệnh của người già. Còn nói mê là bệnh của trẻ con. Tuy nhiên, khi về già người ta thường cũng hay ngủ mê vì đó là triệu chứng khởi đầu của sự lú lẫn. Thành thực mà nói, chú đã thấy tôi bắt đầu lú lẫn hay chưa ?
Ông cất tiếng cười . Bác sĩ cũng cười theo :
- Ồ! Chuyện hài hước.
Ông nói tiếp :
- Tôi hy vọng rằng tôi không bị lú lẫn trước khi chui vào hòm. Nằm trong lòng ông sáu tấm tha hồ lú lẫn cũng không phương hại tới ai. Còn bây giờ, chú cứ quay về phòng ngủ tiếp. Không cần quá lo lắng cho tôi. Tôi chẳng còn trẻ để có quyền ăn no ngủ kĩ. Mắc đôi chứng của bệnh già cũng là lẽ thường thường tình.
- Nhưng mất ngủ, người sẽ rất mệt.
- Sáng mai, tôi sẽ ngủ bù. Bảo họ chớ đánh thức tôi dậy ăn bữa sáng.
-Vâng.
- Cứ an tâm về ngủ lại. Chú nữa, chú cũng có quyền ngủ trễ ngày mai bởi phải thức dậy vào nửa đêm. Lúc này mấy giờ rồi ?...
- Dạ, ba giờ hai mươi nhăm phút.
- Tốt lắm. Còn rất nhiều thời gian để ngủ tiếp.
- Dạ. Chúc chủ tịch ngủ ngon.
Bác sĩ khép cánh cửa lại. Đèn phòng ngoài tắt. Ông nghe tiếng anh ta bảo hai cậu lính chuyển bàn ghế sang tít đầu hồi bên kia chùa chính mà đánh bài để ông được hoàn toàn yên tĩnh. Hai chú lính dạ ran rồi lục cục chuyển bàn ghế. Tiếng chân bác sĩ vang trong đêm nhẹ nhàng nhưng khoáng đạt. Hẳn đây là một người đàn ông vô cùng nồng ấm trong chuyện gối chăn. Ông chợt nhớ lại cảm giác sững sờ khi lần đầu nghe anh ta hát. Vì giọng hát ngọt ngào hay vì lời hát xuyên thấu con tim ông bằng lưỡi gươm tàn khốc :
― Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau?„
Ông nhận ra rằng ông đã quay lại pháp đình, nơi gương mặt nàng đối diện với gương mặt ông và giữa họ là tấm lưới pha lê dệt bởi muôn nghìn dòng nước mắt. Ông lên tiếng gọi nàng nhưng nàng không đáp. Tại sao nàng giữ mãi sự lặng câm ? Tại sao nàng không trách móc, không sỉ mắng ông, dù chỉ một lời ? Ồ, nếu như vậy hẳn lòng ông vơi nhẹ. Sự lặng câm của nàng là vạc dầu địa ngục khiến tâm hồn ông bị nung nấu trường kì.
― Sự lặng im của nàng là cuộc tù chung thân đối với ta. Trước tâm hồn trong trắng của nàng, trước sự tin cậy thơ ngây của nàng, trước mối tình chân thành và nồng ấm của nàng, ta là kẻ tội đồ ngàn kiếp „
Ồ, không phải chỉ có riêng ông. Những kẻ đã hy sinh nàng một cách nhẫn tâm rồi cũng phải trả giá. Chỉ một năm sau ngày nàng chết, Ba Danh và Sáu đã cho xây nhà ngục đặc biệt ở đảo Tuần Châu với ý đồ giam tướng Long vĩnh viễn trong đó. Nhưng sau khi bàn đi tính lại, chúng e ngại dư luận quốc tế nên đã bắt ông ta sang làm việc tại uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch, lãnh nhiệm vụ đi đặt vòng cho đám đàn bà. Toàn bộ cái trò hề nhơ nhuốc này phaỉ chăng là sự trả thù của tạo hoá ? Bởi con tim nàng quá trong trắng, bởi nhan sắc của nàng là vưu vật của đất trời, sự thánh thiện của nàng cả thần lẫn quỷ đều phải chứng, thế nên những kẻ quay mặt đi trước cái chết của nàng đến lượt họ cũng phải chịu những phản trắc, những đầy đoạ, những sỉ nhục của đám đồng chí bất lương. Dù vì lý do nào chăng nữa, khi tội ác đã đặt được chân vào cửa đền thì nó sẽ tiếp tục đi thẳng vào hậu cung mà không gươm dáo nào cản nổi.
Sáng hôm nay, Vũ gọi điện cho ông, chỉ để nói một câu :
― Anh Cả ơi, đại cuộc đã hỏng rồi„
Ông sững sờ, định hỏi thêm nhưng ở đầu bên kia, Vũ đã đặt máy. Lễ cho ông biết Vũ phải nhập viện ba tuần nay vì bị ngất đột ngột mà không lập được hồ sơ bệnh lý chính xác. Nhờ cú điện thoại sáng nay, ông hiểu được căn nguyên sự suy sụp tâm thể mà các bác sĩ phải bó tay. Đồng bệnh tương liên, lẽ đời như vậy. Tất thảy sự ngờ vực của họ bấy nay đã kết thúc trong tiếng kêu của con chim trước khi cụp cánh để buông thân rơi xuống vực sâu :
- Than ôi, đại cuộc đã hỏng rồi !....
Tấm áo lót cuối cùng của sự hồ nghi, của sự tự biện minh, của những hy vọng vớt vát và nguỵ tạo đã rơi xuống. Sự thật phơi mình. Nàng tiên mỹ miều chỉ còn là con cóc cái ghê tởm. Mỹ nhân yêu kiều hoá thân thành xác cáo chín đuôi. Hơn một thập kỉ dùng dắng trong sự nhá nhem giữa ánh sáng phán đoán của lý trí với sự mù loà của lòng kiêu hãnh, giữa sức mạnh của lương tri với bản năng vị kỉ và niềm si mê tự ngưỡng mộ mình. Chính vào buổi sáng hôm nay, khi nghe giọng nói khàn đặc của Vũ, ông hiểu rằng đây chính là hồi kết thúc :
― Ta không còn lý do nào để dung thứ cái chính thể đồi bại và tàn độc này, cái chính thể mà ta đã tạo ra nhưng nó phản bội lại chính ta sau khi đã phản bội lại dân tộc. Ta không thể tiếp tục cộng sinh với nó. Một thứ ngạ quỷ lớn lên trong lòng xứ sở nhưng ngay sau khi lọt lòng lại cắn cổ và hút máu chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau. Ôi, khốn khổ thay cuộc hoài thai đau đớn này. Khốn khổ thay cho dân tộc của ta và khốn khổ thay cho chính ta „
Bóng tối trước mặt ông bỗng trở nên đen sẫm màu mực, thứ mực Tàu mà những ông đồ già thường viết trên giấy đỏ. Óc não ông chợt sáng bừng lên một hình ảnh cũ, một mảnh đời của quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn nguyên tươi thắm : Cứ mỗi độ xuân, các nhà nho ngồi mài mực để viết những câu thơ đối vần trong đó hàm chứa cả ước mơ và hy vọng, vừa là lời chúc tụng vừa là điềm báo triệu cho tương lai. Những nét chữ thiêng liêng ấy hiện lên trên nền giấy đỏ rực, khi ngoài kia mưa phùn nhẹ như lông tơ bay trên những vườn đào thắm đào phai ; và xa hơn nữa những đàn cò trắng dập dìu trên cánh đồng xanh thắm. Ồ, đẹp làm sao những cặp câu đối mừng xuân. Những nét chữ múa lượn như rồng uốn, như phượng bay, như mây cuốn. Màu đen, đen đến tận cùng đen. Màu đỏ, đỏ mút mùa đỏ. Cuộc đời bao giờ cũng là sự đan xen giữa những đối cực. Vậy tại sao ông không sử dụng nguyên tắc của trò chơi này ? Ý nghĩ ấy vụt đến khiến ông sửng sốt :
― Tại sao ta không dùng cái chết của ta như ông đồ già dùng thứ mực đen, để tôn vinh lên màu đỏ rực rỡ kia, biểu tượng cho tương lai huy hoàng của dân tộc ? Tại sao ta không nghĩ ra nước cờ này, đó chính là nước cờ tối hảo ta sẽ đi trên bàn cờ thế sự. Đấy chính là cách hiệu nghiệm nhất để bóp chết loài ngạ quỷ, để chuộc lại lỗi lầm của ta trước dân chúng....Đấy cũng chính là con đường ngắn nhất để ta tìm gặp lại người yêu.„
Tức khắc, ông thấy lòng nhẹ nhõm. Giống như kẻ bấy lâu mò mẫm trong bóng tối bỗng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
― Ô, tuyệt vời! Cái chết này đem đến cùng một lần sự giải thoát và cứu rỗi. Tại sao đến tận lúc này ta mới nghĩ ra ? Ôi, bộ óc vô dụng của ta, ngươi thật nghìn lần đáng trách.„
Ông lật chăn, ngồi bật dậy.
Đã từ lâu ông thuộc như lòng bàn tay lá số của ông, biết chắc chắn ngày trở về cát bụi sẽ là ngày Mùi tháng Hợi năm Tân Hợi. Nhưng ông vẫn bật đèn, mở tủ lấy lá số tử vi cũ nát mà ông giữ từ hơn sáu chục năm. Các nếp gấp đã sờn, màu giấy ngả sang vàng úa. Ông thận trọng mở lá số ra, thận trọng soi chiếu lại sự tụ hợp của những hung tinh vào thời hạn mà tử thần sẽ đến tận giường để cắt sinh mạng của ông bằng lưỡi hái. Không có gì sai lệch. Cuộc kiểm định hoàn toàn chính xác. Trí nhớ của ông vẫn đáng tin cậy như thuở tráng niên.
― Ồ, sống làm gì thêm hai năm trong cuộc sống tù hãm và tuyệt vọng này ? Sống làm gì thêm để tiếp tục đóng vai trò một con rối gỗ, khích lệ những đứa trẻ vô tội lao vào một cuộc chiến sầu thảm và ngu ngốc, để rồi mai đây lịch sử sẽ lên án ta như lên án một gã vua già hèn nhát hoặc bất lương ? Cuộc ra đi này sẽ là cách sám hối tốt nhất, nó sẽ trả lại cho ta sự thanh thản trước pháp đình tối hậu của tâm hồn„
Ông gập lá số lại, cất vào tủ rồi đến bàn giấy, lục tìm trong ngăn kéo bản di chúc đã phác thảo dở dang từ năm trước. Ông sẽ hoàn tất nó đêm nay bởi ông quyết định chết vào ngày mồng 2 tháng chín. Theo phép thuật cổ, kẻ sáng lập ra một vương quốc, một tôn giáo, một môn phái võ lâm mà chết đúng vào ngày khai sinh các tạo phẩm ấy thì đó sẽ là điềm tiên triệu xác thực, là bản phán quyết định mệnh cho sự kết thúc không thể tránh được của chính các tạo phẩm trên.
Sáng hôm sau, cậu lính béo lên đổi ca lúc bảy giờ ba mươi, như thường lệ. Ông bảo :
- Chúng ta đi lên núi rồi hãy quay lại uống trà.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Tôi muốn leo núi một chút cho dẻo chân. Tôi chưa thấy đói.
- Thưa chủ tịch, con phải chờ lệnh bác sĩ...Con không dám....
- Yên tâm, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bác sĩ còn đang ngủ.
Nói đoạn, không chờ cậu ta nói thêm, ông xăm xăm bước. Anh chàng lính béo chẳng có cách nào hơn là hối hả chạy theo rồi túm lấy cánh tay ông.
- Thưa chủ tịch, để con dắt người. Giờ này đường rất trơn, nguy hiểm lắm.
- Ồ!..
Ông quay lại mỉm cười :
- Ông già dưới xóm Tiều phu ngã vào đúng ngày tạnh ráo, và mặt trời đã đi qua ngọ, đúng không ? Lúc ấy chẳng còn một giọt sương nào trên cỏ ?
- Dạ, đúng là như vậy nhưng....
- Đừng quá cẩn thận. Chú cứ đi sau lưng tôi là được rồi. Đường núi hẹp thế này hai người bấu díu vào nhau càng khó đi hơn.
Cậu lính đành lẽo đẽo theo ông. Bởi ông đi nhanh thăn thoắt nên anh chàng cũng chỉ còn đủ thời gian để bám sát gấu áo ông mà thôi. Càng đi cậu ta càng thở dữ vì tấm thân nặng nề, cũng vì chưa bao giờ ông đi với nhịp điệu thần tốc như vậy. Vạt áo bông của ông đập phần phật lên hai chân và đuôi chiếc khăn quàng len kẻ sọc bay ngoặt lại sau lưng giống như đuôi diều bị gió thổi. Ông đi thẳng một mạch lên đỉnh Lan Vu, nơi cao nhất, nơi chưa bao giờ ông đặt chân tới. Ở đấy, ông đứng trên một tảng đá lớn đưa mắt nhìn bao quát đến chân trời. Những đám mây bồng bềnh lượn quanh đỉnh núi, rồi sà xuống các tầng núi thấp hơn. Dưới những dãy núi trập chùng ấy là làng mạc. Xa hơn nữa, đồi nương rồi đồng ruộng trải mút tới chân trời.
A ! Non sông của ông ....
Giang sơn gấm vóc hay miền đất bùn lầy tăm tối ? Nói cách nào cũng được. Hiểu theo chiều nào cũng đúng. Bởi chỉ có duy nhất một hiện thực thôi : Đó là mảnh đất của ông, thuộc về ông. Cũng như ông thuộc về nó, mãi mãi. Tất cả những gì ông có được, tất cả những gì ông đánh mất, tất cả những gì ông đã làm, tất cả những gì còn lưu tồn như món nợ....tất thảy khởi sự từ nó và kết thúc cũng bởi nó, mảnh đất này. Quê hương lầm than. Dân tộc nô lệ. Một lịch sử không có tiếng đàn sáo mà chỉ vang lên tiếng lách cách của gươm đao. Một hiện sinh chẳng có tiếng cười mà chỉ vút lên tiếng hô Sát Thát. Tiếng hô ấy vang lên như tiếng hò kéo thuyền dọc con sông dằng dặc mấy ngàn năm.
―A! Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của ta. Đây sẽ là cuộc tế lễ cuối cùng của ta cho đất nước !
Ông bảo cậu lính béo :
- Tôi muốn đứng ở đây một chút. Chưa bao giờ tôi đặt chân lên đỉnh núi thiêng liêng này. Quả là điều đáng tiếc.
- Dạ, chúng con cũng chưa bao giờ trèo lên đây. Nghe nói các vua xưa cứ ba năm lại lên đây tế lễ một lần.
- Ai bảo cậu thế ?
- Dạ, dân xóm Tiều phu kể lại.
- Đúng đấy. Đỉnh Lan Vu là nơi tụ khí thiêng sông núi. Điều này các cổ nhân đã viết rành rẽ trong sử sách. Chịu khó đọc sẽ hiểu.
- Dạ.
- Bây giờ, cậu lùi xuống dưới kia chờ tôi. Chỗ cụm thông mọc giữa hai vách đá. Lúc nào cần quay về, tôi sẽ gọi.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Xuống dưới đó chờ tôi. Không cần băn khoăn nữa.
Vì giọng ông cương quyết thậm chí có đôi phần lạnh lẽo nên cậu lính béo đành lùi lũi tụt xuống bên dưới, đúng nơi ông chỉ định. Đó là khoảng đất hẹp giữa hai vách đá, nơi vọt lên một cụm thông già. Anh lính béo chần chừ một thoáng rồi sau rốt, đành ngồi bệt dưới gốc thông, ngước mắt theo rõi ông.
Còn lại một mình, chủ tịch quay lưng về phía biển đông và ngoảnh mặt lại phía tây. Đứng im như tượng giây lát, đoạn ông nhắm mắt lại, thu hết tâm trí để tiếng nói của con tim ông có thể vang dội, để những âm thanh thầm kín nhất nơi cõi lòng ông có thể lan truyền và vọng động tới các đấng thần linh :
― Hỡi các vị thần linh đất nước, hỡi những linh hồn cao thượng của các anh hùng hào kiệt và các bậc quân vương, những người từng khai phá và bảo vệ giang sơn này. Nếu thân xác các ngài đã tan rã nhưng linh anh của các ngài vẫn tồn tại và ngự trị vĩnh hằng trên tổ quốc, xin hãy trở về đây để trợ giúp tôi.
Hỡi Như Lai Phật tổ, tôi chưa từng đi theo đạo của ngài nhưng tôi may mắn biết được những đệ tử trung thành của Ngài ở nơi đây và tôi hiểu sức mạnh chinh phục của Ngài với trần thế. Nếu quả thật anh linh của ngài luôn luôn ngự trị cõi trời tây, xin ngài hãy hợp lực cùng với các vị thần xứ sở của tôi, để giúp tôi đạt được sở nguyện cuối cùng này :
Tôi, kẻ đã khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt nam vào mùa thu năm Ất Dậu, tức ngày mồng hai tháng chín theo lịch Ki-tô, xin được rời bỏ cõi trần vào đúng ngày ấy tháng ấy năm nay, mùa thu Kỉ Dậu. Cái chết của tôi sẽ là điềm báo triệu và là bản phán quyết khai tử cho chính nó, cái thể chế tàn độc và phản bội này.
Cái chết của tôi sẽ là tặng phẩm cuối cùng dành cho dân tộc tôi.
Cái chết của tôi sẽ là chiến thắng cuối cùng có thể gặt hái, để bù trả lại những thất bại và lỗi lầm tôi đã phạm trong suốt cuộc đời mình.
Cái chết của tôi sẽ là lời sám hối thánh thiện nhất trước pháp đình tối thượng của thiên nhiên và của lương tâm.
Vậy, tôi tha thiết xin tất cả các ngài hãy giúp cho tôi đạt được điều ước nguyện!
A...a....a....
A....a....a....
A.....a....a....a....a....
Ông nghe muôn ngàn âm thanh mơ hồ, vừa như tiếng dàn đồng ca từ biển Đông vẳng lại, chan hoà, nhào trộn cùng tiếng sóng. Lại như tiếng xì xào thầm thĩ của những cuộc chuyện trò từ ngàn năm xưa vừa được thu hồi. Ông nhìn thấy những bóng người trong suốt như nước khe, mong manh như bọt sóng, khoác những thứ y phục xưa cũ, từ các vua triều Lý cho đến vua tổ triều Trần, người khởi nghiệp phái thiền Trúc Lâm. Từ tướng Đinh bộ Lĩnh cho đến tướng Quang Trung. Cả vua Lê lẫn tướng Trần nguyên Hãn. Tướng Nguyễn Xảo trong dáng một con ma không tay và Nguyễn Trãi trong bóng một con ma không đầu....Cuộc hội ngộ những con người ưu việt nhất của xứ sở, trong đó có biết bao kẻ đã từng là bằng hữu rồi trở thành thù nghịch theo thời gian....
Phía sau đám người đó, nơi chân trời vàng rực phía tây là một người cao lớn có gương mặt trầm tĩnh, cặp môi đẹp như hai cánh hồng với nụ cười thanh thản vĩnh hằng. Ông biết, đó chính là Đức Thế Tôn...
Như thế, lời nguyện cầu của ông đã được chứng.
Ông đứng im như vậy hồi lâu, cảm nhận một hạnh phúc ông chưa bao giờ biết. Một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác biệt với niềm vui chiến thắng hay vị ngon của điếu xì-gà. Một thứ hạnh phúc bất khả truyền đạt.
- Thưa chủ tịch, thưa.....
Ông mở mắt ra, thấy cậu lính béo đứng ngay dưới chân mình :
- Tôi có làm sao đâu ?
- Dạ, con thấy người đứng im như tượng. Rồi con bỗng thấy mặt người đỏ rực lên như say rượu. Con không hiểu vì sao ?
- Không có gì phải sợ. Người ta thường đỏ mặt lên trong trường hợp nào ? Hoặc hổ thẹn, hoặc sung sướng, đúng thế chăng ? Thế cậu cho tôi đang hổ thẹn hay đang sung sướng ?
- Dạ....Con sợ...
- Không có vấn đề huyết áp ở đây. Tim tôi đang đập rất bình thường. Nào, giờ chúng ta sẽ quay xuống.
Ông đáp đoạn tụt xuống tảng đá rồi trở lại lối mòn dẫn xuống chùa Lan Vu. Cậu lính chạy hồng hộc phía sau giơ tay túm lưng áo bông của ông và nói :
- Thưa chủ tịch, giờ con không thể nghe lời người. Dường xuống dốc thường dễ ngã hơn lúc trèo lên dốc.
- Ờ...
Ông tủm tỉm cười, để mặc cho anh chàng túm lưng áo ông kiểu như trẻ con nắm đuôi áo nhau trong trò chơi rồng rắn. Hồi lâu, anh chàng nói :
- Giờ con sẽ pha trà, người uống xong tập thái cực quyền rồi hãy điểm tâm.
- Không, từ nay tôi không tập thái cực quyền nữa.
Cậu lính béo lặng im một hồi vì ngạc nhiên. Rồi sau đó, dường như không chịu nổi cơn tò mò, anh chàng hắng giọng hỏi :
- Nhưng.... Người vẫn dạy thể thao là kỉ luật ?
Đó là thứ kỉ luật nghiêm nhặt nhất mà chúng ta cần phải thực hành khi muốn duy trì sức mạnh tâm thể. Tuy nhiên, mỗi thời điểm yêu cầu một thứ thể thao thích hợp. Theo tuổi tác, con người phải thay đổi cách thức ăn uống cũng như các hình thức thể thao.
Ông đáp khi trong lòng nở nụ cười thầm thĩ :
« Từ nay ta sẽ tập thứ thể thao tương xứng nhất để mùa thu này ra đi một cách nhẹ nhàng. Bởi nếu ta biết cách bảo dưỡng thân thể như người thợ biết bảo dưỡng cỗ máy, ắt ta phải biết cách tắt mạng sống của ta như ông thủ đền tắt một ngọn nến vào lúc bình minh. »
Con đường vòng qua một khe sâu, nước róc rách vọng lên hoà cùng lời chim chóc. Bình minh núi non bao giờ cũng thần bí và tinh khôi. Mọi thứ đều vấn vương mây trắng, đều mát lạnh những giọt nước trong veo, đều ngân nga lời chim. Ông bước phăm phăm như một chàng trai và cảm thấy như lần đầu nhìn thấy mọi vật. Rồi khi con đường ló ra khỏi đám rừng, chùa Lan Vu hiện lên đột ngột như bức tranh.
- Ồ, nhanh thật !
Ông buông tiếng kêu.
- Vâng, đường xuống núi bao giờ cũng nhanh gấp bội.
Anh chàng béo đáp.
Họ qua cổng tam quan để vào sân chùa.
Đột nhiên, một màu trắng mênh mông đập vào mắt chủ tịch khiến ông bàng hoàng như bị loá. Chủ tịch vội dừng lại, định thần rồi hiểu rằng đó là vườn mai phản chiếu ánh hừng đông. Bất giác ông cất tiếng kêu :
- Ồ, hoa mai nở đầy vườn. Sao lúc đi tôi không nhìn thấy ?
- Dạ, lúc đi trời còn lảng vảng sương mù. Vả chăng người bước vội vàng nên không để ý. Đây là đợt hoa cuối cùng nở rộ. Sau đó, chỉ còn các cành lẻ muộn thôi. Sư nữ bảo con như vậy.
- À....ra thế....
Ông dừng lại, giơ tay nhẹ nhàng chạm lên những chùm hoa.
Những cánh hoa ướt lạnh và mịn màng lướt trên da thịt ông, vuốt ve an ủi. Ánh rạng đông làm những giọt sương còn đọng trên đầu lá sáng loé như kim cương. Ông nhắm mắt lại để tận hưởng vẻ dịu dàng của những cánh hoa và để nghe tiếng thì thào gió sớm. Khi ông mở mắt ra, gương mặt nàng đã trồi lên phía bên kia vườn, đối diện với ông. Nàng tươi tắn trong tấm áo chàm, cái nhìn êm ả trong vắt, gương mặt hồn hậu tinh khôi. Ông biết rằng đó chính là nàng, là nàng của ngày hôm nay, là nàng đã được giải thoát khỏi oán hờn hình nhục, là nàng của tuổi hai mươi, của mối tình bất tử, đang đợi chờ ông ở bên kia bờ dòng sông U tịch. Đợi chờ...
Ông cất tiếng :
« Giờ đây, ta nói với em, người đàn bà dịu dàng và khiêm ái, người vợ nồng nàn và rất đỗi thơ ngây, con chim oanh bé nhỏ của riêng ta. Sơn nữ ơi, ta chuẩn bị lên đường đi gặp nàng đây. »


Đỉnh cao chói lọi
VĨ THANH
Chủ tịch từ trần đúng ngày Quốc Khánh, mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu. Lũ đàn em thù nghịch tuy chẳng thông kim bác cổ nhưng cũng hiểu được sự trùng lặp này mang tính nguyền rủa và sẽ dẫn đến đòn trừng phạt không tránh được của định mệnh đối với thể chế nên chúng lừa dối mọi người bằng cách tuyên bố rằng ông ra đi vào ngày mồng ba.
Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão. Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà, xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ sở này.
Tang lễ cử hành tại quảng trường Ba Đình, dưới thác nước. Lính đứng theo đội hình trong đồng phục quân nhân ướt sũng. Dân chen chúc từ quảng trường sang các ngả phố, quần đen áo nâu gài băng tang, trùm vải ni-lông. Các quan chức rường cột quốc gia trên khán đài, có cận vệ giương ô đen che đầu. Diễn văn thống thiết như mọi sự thống thiết trên cõi đời. Lời lời châu ngọc tuôn ra để ca ngợi công đức của vị lãnh tụ quốc gia, người khai sinh ra nhà nước cách mạng, người dìu dắt biết bao đàn em, đào tạo lớp hậu sinh thành những kẻ kế nghiệp thuỷ chung và tận tuỵ !
Không hiểu vào thời khắc diễn ra cuộc tang lễ này, linh hồn run rẩy của chủ tịch đang ở nơi đâu ? Nếu khôn ngoan, nó phải trú đậu dưới bóng cây xà cừ trước cổng bộ quốc phòng, tuy chịu ướt lạnh vì những làn nước như roi quất, nhưng chắc chắn sẽ quan sát được đầy đủ mọi lớp lang của tấn tuồng. Toàn dân khóc. Đám dân đen tốt hỉn đã đành, nhưng ngay những kẻ mưu hại ông cũng khóc rống lên tựa như cha đẻ họ chết thật . Họ khóc thảm khóc thê, nước mắt chan hoà, giọng tắc nghẹn vì đớn đau, sụt sùi vì mũi rãi. Diễn văn của họ được tô điểm bằng những tiếng xì mũi rất to và thứ tiếng động thiếu mĩ cảm này được phóng đại rồi lan truyền trên hệ thống phóng thanh công cộng.
Điều dự đoán của chủ tịch là đúng : Họ khóc thật sự.
Nhưng sự cắt nghĩa của ông lại sai : Họ không khóc vì mường tượng một ngày nào đấy họ sẽ phải đối mặt với ông trước pháp đình của thiên nhiên, họ không khóc vì hổ thẹn hay bối rối trước cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra bên kia bờ con sông U tịch. Ồ không, hoàn toàn không phải những lý do thơ mộng như thế.
Họ khóc vì họ không thể nào không mưu hại ông, không thể nào không truy tìm và cầu mong cái chết của ông, vì đó là lối mòn của con đường quyền lực. Tuy nhiên, đây mới chính là lý do quan trọng nhất, lý do tối hậu khiến họ phải nức nở trên khán đài: Vào chính thời điểm diễn ra tang lễ, họ mới hiểu được một cách thật sự họ là ai. Sự tự hiểu vốn là thứ kiến thức khó khăn nhất có thể truy cập được trong cuộc sống của con người. Rất nhiều kẻ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn hoàn toàn sống trong bóng tối của chính họ hoặc trong đám sương mù do trí tưởng tượng của họ tạo nên. Người ta chỉ có thể khám phá ra chân giá trị của mình nhờ những hoàn cảnh đặc biệt, và trong sự cọ sát với ngoại giới ; bởi dung mạo của một con người chỉ được nhận diện qua tấm gương của tha nhân. Cái chết của ông chính là cơ hội ấy. Từ nhiều năm nay, thâu tóm quyền lực quốc gia, nắm trong tay cả một hệ thống tay sai từ thượng cấp xuống hạ cấp, từ các vị trí rường cột triều đình xuống tận tên lính gác doanh trại hoặc bọn chỉ điểm thôn xã ; lũ đàn em thù nghịch của ông tin chắc vào khả năng khống chế của chúng. Rằng chúng là hoàng đế trên ngôi còn ông là thái thượng hoàng què liệt trong hậu cung buộc phải làm tất thảy những gì chúng yêu cầu như một con rối gỗ. Rằng chúng là những anh hùng đương đại còn ông chỉ là tấm bảng thếp vàng ghi danh sách các liệt tướng đã tan rã dưới đất bùn. Rằng khải hoàn môn chúng đang xây sẽ vĩnh cửu ngự trị trên cõi đất này còn chiến công của ông chỉ là khúc nhạc dạo đầu giống như thứ tiền sảnh người ta phải đi qua trước khi bước vào chính điện. Ngày tang lễ, những ảo vọng đó bốc bay như khói. Chúng hiểu rằng quyền lực của ông chỉ có thể làm nảy sinh lòng đố kị nhưng bất khả chiếm đoạt.
Quyền lực của ông, ấy là thứ nam châm được tạo ra dưới bàn tay thần hoặc quỷ. Từ trường thật của một ông thánh ảo. Khả năng thao thác ngoại hạng của một quyến rũ ngoại hạng. Sức mạnh vô địch của tất thảy những niềm tin, những xúc cảm, những huyễn tưởng đã nhào trộn, đã kết tinh, lắng đọng với thời gian và vĩnh định trong tâm hồn. Tất thảy những bùa phép cùng một lần dung chứa mọi nghịch lý, cái thăng hoa và cái cặn bã của cùng một trò chơi...
Như thế, chính trong thời khắc định mệnh, chúng hiểu rằng chúng không là gì cả trước lão già kia. Cho dù chúng đã bỏ ra biết bao công sức và mánh khoé để tự tuyên truyền về mình, những ngôi sao « sáng hơn nghìn ngọn nến » vừa xuất hiện trên bầu trời xứ sở....
Sự lan truyền mối xúc động chung vào ngày tang lễ ông giống như sự lan truyền của bão, lụt hay hoả hoạn. Vì thế, chúng hiểu rằng ông vẫn sống dù trái tim ông không đập nữa, rằng chúng phải tiếp tục sử dụng cái bóng của ông để che chắn mái đầu mình, rằng cái khải hoàn môn mà chúng toan tính dựng lên sẽ không bao giờ có được nếu không nương nhờ tên tuổi người đàn anh. Bởi vì, sau rốt, dù đau đớn khi lòng tự ái bị tổn thương, dù căm uất sự bất khả của bản thân hay sự bất công của tạo hoá, chúng cũng hiểu rằng chúng chỉ là lũ chồn cáo nhảy nhót kiếm ăn sau đuôi một con sư tử. Chúng cần ông, dù ông đã chết rồi.
Con sư tử già đã chết. Nhưng sự hiện diện của nó lại là điều kiện tối cần để bảo đảm quyền lực cũng như vinh quang của lũ đàn em nên bằng mọi giá chúng phải kiến tạo một cái xác nhồi rơm. Vì vậy, gần như tức thời, lăng Ba đình được khởi công xây cất.
Như thế, chúng tiếp tục phản bội ông vì chủ tịch đã chính thức viết trong di chúc là sau khi chết thi thể ông phải được hoả thiêu, tro cốt phải được rải đều trên non sông, rồi sau đó tên ông được khắc lên một tảng đá nhỏ đặt trên một ngọn đồi khiêm nhường tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng sự phản bội cũng như tội ác một khi đã khởi hành thường không còn trạm dừng chân.
Tuy nhiên, kể từ ngày mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu, trên đỉnh trời Hà nội, luôn luôn treo lơ lửng một lưỡi gươm. Một lưỡi gươm khổng lồ, trong suốt. Người ta có thể nhìn rõ lưỡi gươm ấy vào những ngày thu, trời vắng mây, đặc biệt những ngày trời biếc xanh, xanh tinh lọc sau mưa bão hoặc sau khi cầu vồng hiển hiện. Lưỡi gươm ấy nhằm thẳng xuống cột cờ thành Hà nội, chờ đợi khoảnh khắc định mệnh để rơi xuống, chặt đứt lá cờ đỏ sao vàng, kết thúc cái chế độ phản trắc và tàn bạo, tiêu diệt loài ngạ quỷ đã cắn cổ hút máu chính dân tộc nuôi dưỡng nó.
Như thế, lời cầu khấn của chủ tịch đã được chứng giám. Vong linh thiêng liêng bất tử của các hào kiệt dựng nước và giữ nước, của các đấng tiên vương ; ngự trị từ bảy tầng mây xuống tận các vùng đất đai, rừng núi, sông hồ xứ sở ; cũng như anh linh của các chư phật đi lại cõi trời tây đều hiểu và thuận cho ước nguyện tha thiết này.
Điều còn lại chỉ là sự chờ đợi khoảnh khắc tối hậu. Khi dân tộc Việt biết rõ sự thật và hiểu được ước nguyện cuối cùng của ông./.
Paris, 19 janvier 2007
HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét