Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

VŨ HOÀNG CHƯƠNG: …" THƠ TA CHẲNG VIẾT CHO ĐỜI…"

VŨ HOÀNG CHƯƠNG:
" THƠ TA CHẲNG VIẾT CHO ĐỜI…" “












Năm sinh đúng của Vũ Hoàng Chương là  1915; nhưng trong khai sinh đề ngày 5/5/1916 tại Nam Định. Và tính theo âm lịch, ngày 4 tháng 11 năm  Ất Mão. Chính quán làng Phù  Ửng, tỉnh Hưng Yên.  Đậu Tú  tài Pháp xong ra làm Sếp ga.  Tác phẩm xuất bản từ 1940 đến 1975 trên dưới 20 cuốn, có tác phẩm đã dịch ra Pháp, Anh, Đức ngữ. Về thơ : Thơ Say ( 1940), Mây ( 1943),  Rừng Phong ( Saigon 1954), Hoa Đăng ( Saigon 1959),  Tâm tình người đẹp ( thơ viết lối “Nhị thập bát tú” ( Saigon 1961),” Trời một phương” ( Saigon 1962 ) … kịch thơ :” Vân Muội” ( 1942),” Trương Chi”, “Hồng Điệp” ( 1944), về văn xuôi: “Loạn trung bút “( Saigon 1970),” Ta đã làm chi dời ta” ( hồi ký , 1974, tái bản ,  Nxb Hội  Nhà văn / Chi nhánh phía Nam  , Saigon 1993) ,   dịch  sang Pháp, Anh, Đức.. :” Pòemes choisis “( Saigon 1963, tựa Simone Kuhnen d la Coeuillerie ), “Nouveaux Poems “( Saigon 1970), “Communions Poems “( Anh-Mỹ ngữ),” Die achtundzwanzig Sterne “ (Đức ngữ, Nxb Hamburg, 1966).
P.Mérimée, nhà    văn Pháp của thế kỷ trước đã gióng tiếng nói báo hiệu :” Sau đàn bà mới tới văn chương !”. Với Vũ Hoàng Chương, (VHC) hẳn là  một nàng Kiều Thu nào đó đã cùng nhà thơ chia sẻ hận tình, xảy ra vào 12 tháng 6 – hình ảnh  lãng đãng nàng thơ thiếu phụ kia đã ám ảnh tâm linh Vũ Hoàng Chương trọn đời thi thật đậm nét, đế`n nỗi VHC phải bật thành thơ:
“ Tháng sáu mưới hai từ đây nhé
  Chung đôi từ đấy nhé lìa  đôi
  Em xa lạ  quá còn đâu phải 
Tố  của Hoàng xưa Tố của tôi…” 
hoặc :
“..Kiều Thu hề Tố em ơi
  Ta  dương lửa đốt tơi bời mái Tây  “.
“Mây” ra mắt vào 1943, chứng giám mối tình lỡ chàng thi nhân thất tình,  khiến chàng muốn thiêu hủy tâm can, bật thành thơ, hòng mong  được giải thoá t- để rồi nào có thể quên dễ dàng !  Sau này, ở “ Rừng Phong” sau mười mấy năm hình ảnh:
” Tố của Hoàng ơi” 
   từ hư không lại trở về không hư”,
  “ lẽ nào mộng cả  thôi ư? “ 
dẫn  đến kết cục não lòng:
“ Người ơi giọt bể chưa dư tang điền “.
Vậy nàng thơ  có phương danh  “  Tố” là ai?
Theo Tạ Tỵ,  kể lại trong một hồi ký” Mười khuôn mặt văn nghệ / Tạ Tỵ/ Nam Chi Tùn thư, Saigon 1970)- thì nàng Tố có hai chị em đều đẹp cả, nhan sắc dư thừa, và nhà ở trên đường Capitaine Bruisseau, gần Place Négrier. (Cửa Nam ,Hà Nội bây giờ ) . Và nhà thơ chỉ yêu một nàn, yêu  đơn tư một chiều - còn Tố có yêu lại không, chẳng ai iết lộ điều bí ẩn này.  Sau nàng Tố đi lấy chồng, chẳng ai có thể làm khác hơn  !!
Từ  tan vỡ một cách rất vô  tình, lại rất hợp lý này, sau này VHC  đành cưới nàng Đinh Thị Thục Oanh làm vợ.   Thục Oanh là chị ruột Đinh Hùng, hơn Đinh Hùng 1 tuổi, sinh ở Manila (Phillipimes) khi cha làm công chức cho Pháp đổi sang đây.
Trước 1975, tôi có  gặp bà, ấy là vào một buổi  đó là lần , tôi đưa Vũ Hoàng Chương v một  căn nhà nhỏ ở gần chợ Vườn Chuối ( Saigon 3).  Chẳng là lần ấy, nhà thơ Nhất Tuấn ( Phạm Hậu, giám đốc Nha Vô tuyến Truyền thanh Saigon ) mời chúng tôi làm  giám khảo  cuộc thi Thơ Tết của Đài có VHC hiện diện.
Sau 1975, gặp lại bà  Thục Oanh  nhiều lần, cũng nhờ nữ Thư Linh dẫn tới giới thiệu – từ đó, tôi cảm nhận được rằng người đàn bà làm vợ nhà thơ ấy thật phi thường , không chỉ có sức chịu đựng dẻo dai vô biên,  cộng với tấm lòng hy sinh   thật cao cả làm vợ một thi tài hoa , luôn luôn  mặc complet bảnh bao, túi rỗng vì nghiện ngập. Hãy cùng nghe lời  tán dương Thục Oanh , qua Tạ Tỵ:
“…Ôi thật tội nghiệp cho thân phận đàn bà, đúng là: “ Thân em như giọt mưa sa !” Nàng Oanh, một người đàn bà phi thường, có một sức chịu đựng vô biên và có tấm lòng hy sinh cao cả. Trong suốt cuộc đời làm vợ VHC, một người chồng, tuy nổi danh về thi ca nhưng lại nghiện hút, gia đình thường túng thiếu.  Có buổi sáng, tôi đến thăm Chương tại căn nhà ở gần phốHàng Da (Hà  Nội- TP.chú thích) . Lúc tôi đến đã hơn 9 giờ sáng, Chương vẫn chưa tỉnh.  Bà Oanh yên lặng như cái bóng, đứng chải đầu bên chiếc cửa sổ nhỏ . (….)
–“ Ngồi chơi anh, đêm qua anh Chương thức khuya quá !”
Tôi( Tạ Tỵ) tìm không ra chỗ, đành ngồi xuống chiếu. Tôi nhìn Chương nằm trên tấm nệm cũ. Toàn chân Chương như dán xuống mặt nệm.  Da mặt tái mét, đôi mắt mở hé trề xuống như còn muốn hút ….”
Người đàn bà mang tên Kiều Thu hoặc Tố-  được nhắc nhở thật nhiều lần trong thơ  VHC – với nàng thơ mang tên Tố- tác giả yêu  đơn phương, vì vậy rất có thể chính nàng thơ cũng không thể hay biết VHC yêu mình ?!
Còn nàng Thục Oanh, vợ chính thức VHC- thì tác giả chỉ” nhắc nhở tên nàng Thục Oanh   duy nhất một lần” - trong tập thơ” Hoa Đăng” mà thôi.
Trước 1950, chính xác hơn 1947- VHC rạt rào tình cảm, dễ  rung động nhịp sống “  thời cách mạng” , tác giả viết bài” Nhớ về Hà Nội vàng son “- có những đoạn thơ thật mượt mà, rung động thật sự :
NHỚ  VỀ HÀ NỘI VÀNG SON (*)
..”  Ôi ngày mười chín  ngày oanh liệt
  Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương
  Hà  Nội tiếng reo hò bất tuyệt 
  Vang vang bờ nọ Thái Bính Dương ?
  Ba mươi sáu phố ngay hôm ấy
Là  những giòng sông đỏ sóng cờ 
  Nền thắm nhụy vàng hoa vĩ đại
Năm cánh xòe trên năm cửa ô  
(…………………………………….)
Ôi ngày mười chin ngày oanh liệt
Vạn  ước mong dồn một ước mong
  Ôi mùa thu ấy, mùa trin tưởng
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng …
  Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi
Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời
Như  thoảng Mê Giang trào sóng thẳm 
Hoành  Sơn tân lĩnh kết hoa tươi “[]
--------------
(*) Trích lại từ  “ Lược sử văn nghệ  Việtnam- Nhà văn tiến chiến 1930-1945/ Thế Phong . Bài thơ này trước đã in trong” Tập văn Cách mạng và Kháng chiến “(Nxb Sư thật 1947)- khi trích đăng lại bị “Sở Phối hợp Nghệ thuật” ( Ban Kiểm duyệt / Bộ Thông tin VNCH) cắt bỏ 2 đoạn. Tôi không còn nhớ đến nữa, cho tới đầu năm 1999, kịch tác gia Hoàng  Như Mai (Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân bây giờ) đọc cho nghe 2 đoạn thơ thiếu trong bài - nên mới có cơ hội bổ sung. ( 2 đoạn 3 và 4 in chữ đậm).
------------
Trở  lại cùng người đàn bà  mang tên Đinh Thi Thục Oanh - do chính phu quân mô tả , thì:
Khi lập gia đình, chú trể ở  luôn bên nhà vợ cùng em vợ  tọa lạc tại Ngõ Bò. Nhưng VHV “ chơi chữ’ gọi”  Ngõ Bò”   thành “ Hoàng Ngưu hạng”, và  tác giả giải nghĩa:
” .. nếu dịch chữ nào nghĩa nấy thì đó là” Ngõ Trâu  Vàng “.  Căn nhà 5 gian lợp ngói, cửa bức bàn , hiên rộng tới 3 thước, có thể trải chiếu ngồi, nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài sân; nếu hội họp để uống rượu ngâm thơ thì 20 người ngồi vẫn còn thừa chỗ.  Chỉ phải cái nhà hơi tối, vì chẳng có một cửa sổ nào , lại ở vào một ngõ không được hưởng tiện nghi điện lực (…) mà người nọ nhìn người kia vẫn mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.  Thục Oanh và Thứ Lang ( Đinh Hùng- TP chú thích)  bất chấp.  Hoàng đến nhập tịch cũng bất chấp luôn …. “.
Bạn bè  văn chương đến thăm VHC hoặc  Đinh Hùng đều được Thục Oanh  tiếp đãi khách thật chu đáo, nồng hậu, VHC tự kể :
“… Nào Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Lê Văn Trương, vv…Nguyễn Bính  thì đi đâu  một dạo, hình như vào Sài Gòn – lúc phản hồi” Kinh đô văn nghệ” là đóng đô  ngay ( tại đây) , nằm lỳ (ở) Ngõ Trâu Vàng đến 1 tháng  là ít ! Phải chịu  Thục Oanh là một người thản nhiên có một.  Bạn của Thứ Lang hay Hoàng đến,  Oanh đối đãi rất thật tình.  Có khi cơm gà cá gỏi,  rượu thịt ê hề, có  khi ăn khoai trừ bữa hay ăn cháo trắng thay cơm. Rất có thể môt hôm nào đó mỗi người – chủ cũng như khách – chỉ được thưởng thức một chén cơm rang, hay một củ khoai, hoặc vừa đúng 3 thìa cháo.  (…) Hoàng ưa nhắc lại (của VHC) :
Ăn ít mới ngon ! …. (*)
--------------------------------------------------
(*) trích từ hồi ký ”Ta đã làm chi đời ta”/ Vũ Hoàng Chương. Ở đây dùng bản in Nxb Hội Nhà văn/ Chi nhánh Phía Nam do Ý Nhi  xuất bản, Sài Gòn 1993).

Cái thời’  chữ nghĩa bán ra tiền”  thời tiền chiến rất khác bây giờ  - thơ in ra còn bán ra tiền.  Có  tiền mới có nhiều bữa ăn thịnh soạn do Thục Oanh đãi khách, có khi kéo dài tới ngày hôm sau. Cho tới lúc” bây giờ tiền hết gạo không” thì cả hai anh em VHC và Đinh Hùng phái “ hạ sơn” đòi tiền “ mãi văn” từ các báo đã in bài của họ:

“…Thường thường chia quân 2 ngả.  Hoàng không biết Thứ Lang đã” bán” những bài tùy bút nào, nhưng về phía Hoàng thì đã” đi đứt” vở kịch thơ” Trương Chi”, rồi đến vở “ Hồng Điệp” cũng đi luôn ,cả một phần  tác quyền tập thơ” Mây”. Kể ra văn chương lúc đó cũng còn có giá….”
Kể  chuyện giai thọai nhà văn, nhà thơ nghèo, có khi thôi , có điều ngẫm của họ” như VHC tả lại- thì” vật được tặng trong ngày cưới, ( kiểm lại) chỉ còn thấy đôi giầy cườm của Đỗ quân tặng, rồi tấm lụa mỡ gà óng ánh của Lê Trọng Quỹ cho,  đến chiếc vòng huyền của Lê Thanh.  Nhìn lại, chẳng thứ gì đáng giá ,khi quy ra tiền.  Còn chú rể ( VHC)  thì lại ngắm nghía không chan mắt một tập giấy của Nguyễn Tuân tặng để viết – lại cả bút máy cũ mèm từ tay Chu Ngọc tặng; mà tất cả quy ra tiền, thật mà nói chẳng có cái gì đáng giá cả. Bởi lẽ, họ có “ sẵn cái gì thì tặng cái nấy ” cốt ở tấm lòng quý mến nhau là chính “-  đây chẳng phải chuyện bịa, mà chính chú rể, thi VHC tự kể :
“…Giấy của Nguyễn Tuân thì ai còn lạ gì ! Đó là thứ giấy báo in tầm thường, ở chỗ nó được cắt thành khổ vuông, mỗi bề hai gang tay, nghênh ngang ra mặt.  Cách mép giấy chừng một đốt ngón tay, Nguyễn cho in 1 cái khung là những giòng kẻ lờ mờ.  Bên phía dưới khung lại có in 2 chữ” Nguyễn Tuân” –thủ bút của đương sự.  Tất cả đều dùng màu xanh lá mạ, rất hợp với nền vàng….”

Trở  lại với tập thơ” Mây”  của VHC- đó là 1942, có  ghi lại chuyện kể vui vui thế này – anh chị em văn hữu rất sốt ruột đợi thi phẩm ” Mây của VHC ra đời- kể cả một số văn hữu không mấy thân thiết  với tá c giả đi nữa - như “ cặp bài trùng song sinh “Huy Cận và Xuân Diệu .  Có một buổi, gã Huy Cận và Vũ Hoàng Chương rất tình cờ đụng mặt nhau ở Cổng Chéo- Hàng Lược.  Chả biết ông Xuân Diệu đề tựa cho  Huy Cận ra sao , tàn ma tán mãnh , bi thảm-hóa” nỗi sầu biển lớn, sông dài” bạn  thơ Huy Cận có nỗi khổ lớn lao ra sao, th chỉ một “ Dieu seul le sait” mà thôi ! (có Trời mới biết!) – còn ngoài đời – chàng kỹ dư nông nghiệp thời Tây nhiều bổng lộc, thì làm sao Huy Cận có nỗi khổ’ như biển rộng, sông dài” cho được!. Một lần, chàng Huy Cận và Vũ Hoàng Chương tình cờ gặp nhau ở Cổng Chéo (Hàng Lược)  thì cả hai, ai nấy tay bắt mặt mừng. Riêng chàng Huy Cận lại cười típ mắt,  nổi hứng ngâm   luôn 2 câu thơ:
         “ Đã lâu lại gặp Chàng Say :
          “Lửa Thiêng “ xin đốt cho “Mây  “xuống trần.
Cứ  như  ý diễn từ  2  câu thơ kia , thì  “Lửa thiêng / Huy  Cận”  đã chẳng còn giá trị gì, cứ đốt ra tro để chào mừng một thi phẩm tuyệt tác của VHC sắp chào đời vậy.
  Ngâm xong, thú quá, chàng Huy Cận lôi xềnh xệc Vũ Hoàng Chương vào một hiệu phở ở Hàng Đồng, khăng khăng đòi đãi Hoàng một chầu kỳ no mới thôi !( “ Ta đã làm chi đời ta/ Vũ Hoàng  Chương”).


Bây giờ  bàn đến “ thơ  xuân VHC” sau 1954, từ  khi chàng “ Say” lên tàu  ‘ há mồm”  của Hải quân Hoa Kỳ chở  kìn kìn  gần 1 triệu di dân vô Nam- từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc  Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- từ 17 vỹ tuyến trở vào thuộc quyền  Quốc gia Việt Nam-( theo Hiệp định  Genève 20/7/1954)- thì thơ xuân VHC  vẫn chỉ hướng về” mùa xuân dĩ vãng” – khai bút thơ xuân hôm nay  mà chỉ nhắc lại xuân qua.  
Tôi cho trích lại toàn bài “Thơ xuân qua thi ca của vài thi nhân tiền chiến”(  tạp chí” Văn hóa Á châu” ( Saigon 1960, bài của Thế Phong) - trong đó có bàn đến thơ xuân VHC:

“….Tác giả  “ Mây” , “ Say”, “ Rừng Phong”, “ Hoa đăng”  vv… thơ vàng son, và kịch thơ “ vân Muội” lại “ ảo huyền”, than thở cùng mây , bay theo gió : “ Em ơi! lửa tắt bình khô rượu / Đời vắng em rồi say với ai !?” hoặc  giải mộng yêu đương cũng chỉ mang sầu, thêm lụy, dầu muốn vượt qua hay từ chối- thỉ chẳng còn “ neo” thoát, dù quyết bỏ phương xa một dặm đường xưa, lối cũ – thì VHC vẫn” yêu một phút để mang sầu trọn kiếp /  tình mười năm còn lại mấy tờ thư “ mà thôi ! . Thi đã từng nhìn lại khởi điểm con đường đã đi, trải qua bao năm, tháng, chao ôi, vẫn chỉ là ảo mộng có muốn trở về ngôi chính vị , chỉ khi nào đã từ bỏ trần giớ imà ca lên : “Ta còn để lại gì không ?/ Kìa nón đá lở, này sông cát bồi ! “.
Đã có lúc  chán ngán đến đầu đốt tay,  sầu tới đầu lưỡi giai cấp mình- VHC thử bước sang địa hạt thơ đấu tranh- đi tìm một chân trời mới cho đỡ buồn nản, cũng là cách ủng hộ đường lối chính trị quốc gia. ( sau này tác giả được giải thưởng thơ  Tổng thống VNCH, qua  tập” Hoa đăng”)- Những bài thơ viết theo kiểu” Nhớ về Hà Nội vàng son”  ( 1945)  đến “ Hoa đăng” ( sau 1954) , nhưng dễ mấy khi từ bỏ được ngay bản chất, và thất bại ngay ở đầ sóng ngọn nước.( “ Xôn xao hành khúc xây đời mới / Trang khúc du dương ngọn quốc kỳ” vẫn là”làm dáng văn chương, và thật đúng:” Tóc bạc má hồng mê vận hội!” quả đã muộn màng !
Con đường dò ,   tìm hiểu khả năng thi phú tác giả, liệu còn; hoặc đã cạn mà không hay biết ?!  Dẫn chứng đôi câu trong bài “ Thoát hình”:
“…. Kìa mảnh da ngà  đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở  ai người biết ?
Từng khóc từng reo đã mấy lần ?”
Tuy vậy vẫn có  thể đo được:
“Lòng cây mấy thuở ai người biết ?

”-  hoặc trong bài “ Công chúa  Paris”:
“…Rồi mỗi lần  thu hội ý
Hoa đăng lại vượt Trùng Dương
Tháp lại truyền tin báo hỷ
Cưới nàng công chúa  Tây Phương ...”
Ba năm trước, thi sĩ  còn nhớ: “ bảy màu mây của Tháp Ngà  vấn vương ”,  hòa đồng biến chuyển đời riêng  với cơn sóng  chính trị vần vũ: đất nước chia đôi, rời “kinh đô văn nghệ” , vào miền Nam tìm Tự do :
“…Thuyền thơ chở hứng lên cao
  Sóng xuân lại có đêm nào nguyệt hoa
Bạc trôi từng lớp sao  sa
Bảy màu mây của Tháp Ngà vấn vương …“
( Xuân thanh bình)
Thi sĩ  còn đủ khả năng tìm Hội  để kết ”Hoa đăng”? đó là  câu hỏi tác gải tự đặt cho bản thân từ  3 năm trước :
  “… Thời gain có mỏi cánh chim bằng ?
       Vũ trụ sang mùa tận thế  chăng?
      Anh vẫn còn thơ về  dâng bút
      Em có còn hoa đủ kết hoa đăng ?” 
(Tuổi xanh)
Thi sĩ  còn đủ sức theo một  đoàn thám hiểm để mơ  tới đỉnh” Himalaya-Cho-Oyu” -  nhưng thi đã đạt được ước mộng của mười mấy năm xưa: mơ được viễn du theo người tình  cùng về” Kinh đô Ánh sáng”- thực tế tác giả mở mắt ra thấy  mình  vẫn đành ở lại:
“…Quán rượu liền đêm chuốt đắng cay
     Buồn mưa, trăng lạnh, nắng hoa gầy
     Nắng mưa đã trải tình nhân thế
    Lưu lạc sầu chung một hướng say
      Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu Trai
    Ra đi chẳng hẹn một ngày mai
    Em ơi ! lửa tắt bình khô rượu
    Đời vắng em rồi say với ai ?

   Phương Âu mờ mịt lối quê  nàng
   Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
   Ghé  bần vào đây người hải ngoại
   Chiều sương mặt bể có mơ màng ?

  Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không ?
  Mà  đáy lòng trắng một mùa  đông
  Tương tư  đốt thuốc thâu canh đợi
  Thoáng gió trà mi động mấy bông ?[]
( Đời vắng em rồi say với ai ?)
Mộng Liêu Trai của Bồ Tùng Linh ấp mộng lớn có mục đích” cải tạo xã hội”, kết tinh từ đời sống nguyên hình để thể hiện ước vọng- còn Vũ Hoàng Chương thì "mộng Liêu Trai cá nhân chỉ thấp như ngọn cỏ ,” như thế sao ? VHC vẫn không nản lòng, nuôi mộng để có ngày toại nguyện, là gặp được giai nhân cùng dệt khúc “ cố nhân kỳ ngộ”:
  “…Nàng mang vòng ngọc giai nhân
      Tà áo vòng gai thi
      Tìm nhau đã mấy trăm lần
       Mới thỏa u hoài vạn kỷ  ..”
(Công chúa Paris)
Gọi là”  đường thơ mới” của thi sĩ  nổi tiếng VHC từ tiền chiến- bởi tôi nhận thấy rằng ít nhất “đường thơ có Công chúa Paris” làm khuây khỏa nhà thơ yêu mến phần nào ẩn ức của bèo giạt bến mê của ít nhất hơn một lần:
  “…Nhổ neo rồi, thuyền ai xin mặc sóng
      Xô về đông hay dạt tới phương Đoài
       Xa mặt đất, giữa vô cùng cao rộng
      Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi !”
     ( Phương xa )
Chí  tang bồng ấy , đã:
   “…Đây người thơ mộng Trang Chu
        Nhẹ cánh tìm mai đỉnh tuyết
       Đưa đường lên ngọn CHO-OYU
      Đã sẵn mùi hương diễm tuyệt !”
( Tuyết hận )
Mùa xuân trong đời thơ thi sĩ VHC, hoặc hầu hết các nhà  thơ tiền chiến đều tìm nguồn  dĩ  vãng. Có nhà thơ  nhớ tiếc kỷ niệm quá  vãng của mình trong tuổi thanh xuân yêu  đương , trẻ trung.  Trường hợp này là  VHC.  Tác giả nhớ  lại thuở “Tuổi vàng” hay” Tuổi đá” – một lối gọi “ thời son trẻ”, thời mái đầu xanh có giấc mộng đẹp thuở ban đầu.  Mộng đẹp rồi qua đi theo năm tháng,  bây giờ nhìn lại, dễ mấy ai không luyến tiếc. Chẳng thế mà nhà văn  Pháp nổi danh như Marcel Proust chỉ rặt tìm dĩ vãng đã mất , qua   tác phẩm coi như tuyệt bút, đó là “À la recherche du temps perdu” đó sao?  Và ở bên ta là nhà thơ Vũ Hoàng Chương”:
TUỔI XANH

Trăng dịu từ  khi gặp gió lành
Sông lam từ  buổi gặp non xanh
Từ  hương quen bướm trời quen đất
Em đã yêu rồi, đã của Anh.

Thuở  ấy tuổi  Vàng hay tuổi  Đá ?
Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ!
Gối xuân chỉ  biết từ nghiêng sóng
Vần  điệu trôi dài mãi tuổi thơ.

Tuổi dầu Vàng hay  dầu Đá qua
Vàng chưa  ai nhạt đá ai nhòa
Trái tim vẫn tuổi  Đồng trinh bạch
Thì  sắc hương còn vẹn tuổi Hoa

Thời gian có  mỏi cánh chim bằng?
Vũ  trụ sang mùa tận thế  chăng ?
Anh vẫn còn thơ  về giáng bút
Em còn  Hoa đủ kết hoa đăng !

Hoa gieo ánh sáng ngập tình yêu
Bút vẽ  thành Thơ giấc mộng đầu
Nắng rộng mưa dài thu một nét
Không gian còn lại có bề sâu

Lứa  đôi tái thế vẫn tương phùng
Nguyên thủy nào  đâu khác Cực chung !
Anh muốn dìu Em giờ  Hiện tại
Nghe trăng hòa  điệu nước lên cung

Hòa  điệu lên cung trăng nước dậy
Xuyên ngang gió  trận dọc mấy thành ?
Tuổi Thơ  này với Hoa niên ấy
Muôn trước ngàn sau thăm thẳm xanh[].
V.H.C.
Một bài thơ  nữa của VHC. – tôi là  đọc giả rất yêu mến  thơ  ông-  đó là bài”  Nguyện cầu”. 
(trong tập thơ” Rừng Phong” ( 1954) – bây giờ ai sẽ là người đọc lại , sau  biến  cố 30/4/1975 – Có thể cho chính  Vũ Hoàng Chương chăng? Giả thiết chính tác giả nghe lại , hẳn là ông sẽ thấm thía” nỗi- đau -nhục”biết chừng nào ?! Với tôi, đây là một bài thơ tuyệt tác của Vũ Hoàng Chương:
NGUYỆN CẦU

Ta còn  để lại gì không ? 
Kìa non đá lở, này sông cát bồi 
Lang thang  từ  độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
  Trông ra Bến Hoặc Bờ Mê
Ngàn thu nửa chớp bốn bề một phương 
Ta van cát bụi trên  đường
Dù  dơ dù sạch đừng vương gót này 
  Để ta tròn một kiếp say
  Cao xanh liều một cánh tay níu trời
  Thơ ta chẳng viết cho đời 
Không vang nhịp khóc giây cười nào đâu ?
Tám hương đốt nén linh sầu 
Nhớ  quê dằng dặc ta cầu  đó thôi 
Đêm nào ta trở về Ngôi
Hồn thơ  sẽ hết luân hồi thế  gian !
  Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ  chi còn mất hơi tàn thanh  âm ! []
V.H.C.
Sau biến cố  30/4/ 1975, V.H.C và vợ sống trong một phòng ở 326 Nguyễn  Trọng Tuyển, quận Tân Bình, tp. HCM, do  nữ Mộng  Tuyết cho  ở nhờ. Chẳng là trước đó, VHC được Giải thưởng thơ Quốc gia do Tổng thống Diệm trao tặng, vợ chồng nhà thơ dự định mua căn nhà nhỏ- thì Mộng  Tuyết mời về ở cho tới  ngày 30 tháng 4, 1975- VNCH không còn tên trên bản đồ-  văn nghệ tiền chiến ngoài Hà Nội vào Nam,  với tư thế kẻ thắng trận, đầu hất ngược, mắt hếch, nhìn văn nghệ ” Ngụy” miền Nam” bằng nửa con ngươi “- thì VHC  là “ thi tiền chiến di cư vào Nam  chống Cộng điên cuồng, lại được giải thưởng thơ “ Tổng thống Ngô Đình Diệm, thời Đệ I Cộng hòa“- bị ghi vào “sổ đen của Lực lượng Cách mạng ”.

Nữ  sĩ Mộng Tuyết  - dù với tư cách “ “vợ hờ ” Đông Hồ - mời  các nhà thơ VNDCCH tiếp quản miền Nam  (Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận thì phải ? vv..) đến dự tiệc, hẳn rằng sự có mặt vợ chồng thi VHC sẽ làm mất ngon bữa tiệc, còn là một chướng ngại vật, khó coi , dầu  bà chủ Mộng Tuyết không thể đuổi ngay VHC đi cho khuất mắt. Nên, bà chủ Mộng Tuyết bèn lấy   một mảnh giất nhỏ, viết hàng chũ” CẤM KHÔNG ĐƯỢC LÊN LẦU “ dán ở cầu thang (phía dưới nơi trú ngụ của VHC) bởi ở lầu 1, nơi bữa  đại tiệc đang  diễn ra, tiếp đón các nhà văn miền Bắc ”thắng trận”.( - hình như  tôi viết ở đâu đó, và đã in  trong một cuốn sách nào đó đã xuất bản, khiến   tác giả ”Nàng Ái cơ trong chậu úp” bất bình, sau này tôi cho xuất bản “T.T.KH.,  Nàng là ai”, bà ta có cơ hội trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên , và “ mạt sát” tôi thậm tệ- kể cả một cô bé đàn em của bà trong nhóm Quỳnh Dao, hiện ở hải ngoại-  đó là nữC.M.N  về” hùa” viết bài” trảm nhà văn cao bồi T.P, “tác thiệt” T.T.KH, Nàng là ai ?”hay “ Ai là Nàng?” trên mục” Chốn bụi hồng”- báo của nhà thơ Thái Tú Hạp chủ trương ở hải ngoại. Tôi được biết  tin này , kiểu ” nghe hơi nồi trõ…” từ phóng viên văn học  Trần Nhật Thu của  báo “Văn nghệ  tp. HCM” báo lại.

Chẳng bao lâu, khi  sĩ quan, và công chức cao cấp chính quyền VNCH “đi học tập cải tạo”, thì VHC có tên trong danh sách được đi ”cải tạo dài hạn”. VHC không bị đưa đi xa, vì già yếu, ốm đau, nghiện hút, nên “ tạm giam phạm nhân sau đó vào 1976.

  Năm 1999,  Nxb Đồng Nai cấp phép “ Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn” : đề cập  Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tam Lang và Mai Lâm-Nguyễn Đắc Lộc” – tại “ Chương I” Vũ Hoàng Chương (1915-1976, tôi viết:”…Một trong 12 bài thơ di cảo của Vũ Hoàng Chương thâu thập được từ Hoàng  Tấn (tác giả” Nguyễn Bính, một vì sao sáng”- Nxb Đồng Nai 1999)cho chép lại.  Cũng theo Hoàng Tấn, tác giả V.H.C làm tặng Quách Thị Hồ, người hát ca trù hay nhất Việtnam (danh hiệu NSND), xưa từng là bạn cố tri của VHC.
Hát ca trù  cần có “ đàn đáy”, do đó nội dung bài thơ sau đây đầy ắp những” từ”  hát cô đầu, âm thanh vang tiếng sênh, đàn,  phách “. ( tr. 13-16, sách đã dẫn).
             CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU
            Sáng chưa tối hẳn tối chưa  đành
            Gà lợn om sòm một bức tranh
            Nhạc đã có tai thơ  có họa
           Biết chăng ai đó mắt ai xanh ?

           Dấu hỏi xoay quanh một cuộc đời
           Sên bò trong óc máu thắm rơi
           Chiều nay một dấu than buông lửng
           Đanh đóng vào xăng tiếng trẳm lời

          Chúng ta mất hết cả rồi sao ?
          Cả đến âm thanh một thuở  nào
          Da trống tơ đàn ôi trúc phách
          Đều khô  như khúc hát gầy hao (?)

         Đàn mang trơ đáy mà  không đáy
         Mất hết rồi sao sợi nhớ  thương
        Tay phách từ lâu nay lạc phách
        Không còn đựng mãi bến Tầm Dương

        Hơi ca nóng đã tan thành tuyết
        Để tiếp vào cho nó đỡ xanh
       Bạc mệnh hỡi ai hoàn mệnh bạc
       Đâu còn ấm nữa rượu tàn canh ?
       
       Hay là đêm ấy Ngưu lìa Chúc
       Xé nát mình ra hoen mắt ai?
       Còn có gì đâu cho mắt trống
       Đập lên hoang vắng đến ghê người !

       Âm thanh mất hết còn chi đâu ?
       Gắng gượng cho thêm hồn nhọc  đau
      Ba kiếp long đong ngồi chụm lại
       Chúng ta mất hết chỉ còn nhau.
Sài  Gòn sau 1975.
 V.H.C.
  Sau khi sách phát hành, tôi nhận được một bài báo từ  Sacramento (thủ phủ  California) gửi về-  do Hoàng  Hương Trang viết, đả kích  người viết sách thậm tệ. Nào người viết không chịu đi sưu tập tài liệu, nhà ở quận I có xa gì, sao không tới Nhà Làng (ngã ba  Nguyễn Văn Lạc + Xô Viết Nghệ Tĩnh) quận  Bình  Thạnh) để gặp vợ V.H.C là Thục Oanh lấy tài liệu có phải chính xác hơn là chép lại từ ” một Hồ Tăng Ấn V.C. thì biết gì?” - Hồ Tăng Ấn là bút danh Hoàng Tấn - TP chú thích ). Lối viết ”thô bạo” của H.H. Trang đã’ nổi danh” từ trước 1975, từng  dọa” lấy quần đàn bà đẻ trùm lên đầu ”linh mục, nhà văn biên khảo Thanh Lãng”, tuy vậy tôi vẫn chấp nhận được. Sau đó, tôi lại được đọc một bài báo khá rất dài, đăng trên tập san “Tiếng vang” (cũng từ Sacto gửi về)  của Đinh  Nhật Thịnh, anh ta lên án tôi viết sai lạc về VHC- mà anh  dung tư liệu văn học loại” bagatelle” của H.H. Trang. Riêng H.H. Trang còn viết một bài nữa, lên án “ Thế Phong vô hạnh, ngủ với đàn bà “ đàn chị” để có “ cơm no bò cưỡi “- thì chuyện này H.H. Trang  viết thuộc loại” nghe hơi nồi trõ, nghe mõ ông sư”(biết cả điều không biết), không đúng sự thực, chỉ với mục đích bêu xấu đối thủ . Sở dĩ nói vậy, tôi có thể kể cho cô ta nghe một chuyện” cơm no bò cưỡi “của tôi với một cô chủ quán cà phê ở   đường Lý Thái Tổ (Saigon 10) vào năm 195- chưa hề viết ra - chỉ vì tôi không dám thò mặt về nhà trọ thuê (ở xóm đạo sau Nhà thờ trên đường Lý Thái Tổ- nơi này họaĐinh Cường đã đến đấy cùng  đóng sách “Lược sử văn nghệ Việtnam- Nhà văn hậu chiến: 190O-1956” in rô nê ô) tới hạn kỳ không có tiền trả, nên được cô chủ quán” thương người lâm nạn” , cho phép giải chiếu ngủ trên sàn quán cà phê sau 11 giờ đêm (tất nhiên ngủ cùng) , khi quán đã đóng cửa. Cô có dáng người   cao, bây giờ gọi là ”người đẹp chân dài” , rất tử tế đối xử với  tôi- hệt Natacha , nhân vật nữ trong một truyện viết về mùa thu của Maxime Gorki.  Tôi vẫn thầm đội ơn cô chủ quán cà phê ấy, đến nay , tính ra đã trên 50 năm.
Vào dịp  nhà thơ Ý Nhi, Trưởng Chi nhánh Nxb Hội Nhà văn  tại  Phía Nam, nhờ tôi chở đến nhà bà Thục Oanh , để trả bản quyền” Ta đã làm chi đời ta” của Vũ Hoàng Chương mà Ý Nhi đã in - tôi bèn phỏng vấn Thục Oanh về bài thơ “ Chúng  ta mất hết cả rồi sao?” của chồng bà.  Bà đồng ý ngay, đọc cho chép câu sai -  xem đính chính.  Tôi in thêm tờ rơi ,  lồng vào sách” Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn” trước khi đưa phát hành.
             ĐÍNH CHÍNH
Trong sách “ Chiêu niệm  bốn nhà văn Sài Gòn” có một số chữ sai, ở bài” Một trong 12 bài di cảo của Vũ Hoàng Chương (tr. 17) đã được Đinh Thị Thục Oanh ( vợ VHC )đính chính vào ngày 17 tháng 7 năm 1999.  Buổi ấy, tôi cùng nhà thơ nữ Ý Nhi đem sách tặng và thăm vợ nhà thơ quá cố Vũ Hoàng Chương. Chữ in đậm là đúng nguyên tác của tác giả.
           Sáng chưa sáng hẳn tối chưa  đành
           Gà lợn om sòm cả bức tranh
           Rằng vách có tai thơ có họa
           Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh

           Dấu hỏi xoay quanh trọn kiếp người
           Sên bò nát óc máu thắm rơi
           Chiều nay một dấu than buông dứt
           Đanh đóng vào xăng tiếng trả lời

          Chúng ta mất hết cả rồi sao ?
          Cả đến âm thanh một thuở  nào !
          Da trống tơ đàn ôi trúc phách
          Đều khổ như khúc hát gầy hao

         Đàn mang tiếng đáy mà không đáy
         Mất hết rồi sao sợi nhớ  thương
         Tay phách từ lâu nay  lạc phách
         Không còn đựng mãi bến tầm Dương.

        VŨ HOÀNG CHƯƠNG.


(trích “ Chiêu Niệm 4 Nhà Văn SàiGòn”/Thế Phong, Nxb Đồng Nai 1999 - bài viết này có sửa lại.).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét