Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

(Chu Văn Sơn)         

"Ném mình vào cuộc thơ này, ViLi mang theo một tâm niệm : Đỉnh cao sự sống là hợp linh nghệ thuật và tình yêu. Tất nhiên, để có thể lên đỉnh ấy, không thể thiếu một hợp linh khác : nội lực và cật lực."
1. Để được đón đợi
Tôi vẫn cho rằng mỗi nghệ sĩ đích thực phải là hiện thân của một giá trị sống, giá trị người nào đó. Bằng tiềm hướng nhân bản, bằng văn hóa và trải nghiệm trường đời, người ấy đã bừng ngộ về giá trị sống, giá trị người kia. Rồi cứ thế suốt đời dồn toàn bộ tâm huyết và nghệ thuật của mình để làm sáng danh cho giá trị ấy, dù không phải lúc nào cũng ý thức kĩ về nó. Đấy là gốc rễ của mọi cái mới chân chính trong nghệ thuật. Thiếu điều này, cách tân chỉ còn là những loay hoay vụn vặt về hình thức. Tuy nhiên, cái mới lại thường gây hấn, gây sốc đối với tập quán. Nó không dễ được chia sẻ ngay, tiếp nhận liền. Có khi còn bị ngờ vực, dằn hắt nữa. Nhưng, đã làm nghệ thuật thì không thể khác! Chỉ có những kẻ dám dấn thân mới chịu nổi tai ách này. Khuôn mặt nghệ thuật của nghệ sĩ, nghiệt thay, lại được định dạng bởi chính những điều ấy. Sáng tạo và đày ải, lấy khổ làm sướng, nuốt buồn nhả vui, khó chịu thì chịu khó… chính là nghệ thuật vậy.
Cuộc dấn thân của Vi Thùy Linh (còn gọi là ViLi), vậy là, đã mười lăm năm. Để được chấp nhận, thật lắm truân chuyên. Nhớ hồi mới trồi lên, mầm thơ Linh chưa được nâng niu đã phải đương đầu. Mưa đá của hoài nghi tới tấp trút xuống. Nếu non bấy, hẳn chồi mầm kia đã tiêu rồi. May nhờ nội lực, nó đã thách thức những bài bác cay nghiệt để gắng vượt lên. Mỗi tập mới là một vụ nổ chữ mới. Mười lăm năm, dẹp sang bên những băng rôn khua chiêng, hàng tít gõ trống, Linh vẫn là hiện tượng trẻ khuấy được dư luận nhất trong đời sống thơ Việt. Đến nay, mỗi xuất hiện mới của Linh xem chừng đều muốn làm bận rộn cả người đọc lẫn giới truyền thông. Mười lăm năm là cái giá để được đón đợi chăng?
Dù sao, đến tập thơ thứ năm Phim đôi - Tình tự chậm này [1], có thể xem Vi Thùy Linh đã cắm xong cái mốc cho một chặng thơ mình. Ngoái lại, người đọc đã có thể “tính sổ” cùng Linh. Có thể xem chặng thơ như một bộ phim dài năm tập. Suốt cả năm tập, phim chỉ có một nhân vật trung tâm thôi: nàng Eva Linh lụy tình, cứ trồng mình giữa vườn địa đàng của thì hiện tại mà thèm xây dựng một đế chế yêu. Với ViLi, yêu là thơ là dệt tầm gai[2]… là sống.

2. Nữ quyền hay Ái quyền
Bây giờ mà nói Vi Thùy Linh trở thành chính mình chỉ bởi sự đam mê đề tài tình yêu, thì liệu có… nhàm quá không? Dù với Linh, đường thơ - đường tình là một, dù tỉ lệ thơ tình hoàn toàn áp đảo, dù các tập thơ Linh luôn có những cái tựa cực … tình (Khát, ViLi in love, Phim đôi - tình tự chậm), thì việc chuyên thơ tình đâu còn làm nên khác biệt ! Đã có chán vạn thi sĩ ái tình rồi !
Bao người đã tưởng điều làm nên “thương hiệu” ViLi chẳng qua chỉ là ngang nhiên đưa vào thơ các “cảnh nóng”, gây sốc với ngay cả những người hiếu sốc, kiểu như “Khỏa thân trong chăn / Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối lên đùi / Mình ôm lấy Anh ôm mình / Biết sự bình yên của mặt đất”, “Em kéo áo lên để anh tràn tinh khôi và mãnh liệt”, “Cài then em bằng anh”, “Không còn biết một chấn động nào hơn / Anh xoáy vào em / Cơn lốc”… Thực ra, viết sau những đại bút như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa…, rồi những cây bút khác như Nhã Ca, Dư Thị Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên… có đến mấy thế hệ, thì trình ra những cảnh được/bị xem là hot thời đương đại kia đâu còn là độc diễn nữa !
Không ít người lại đinh ninh cái đáng nói nhất của ViLi là sự kiên tâm nâng tình yêu lên thành tôn giáo. Ồ, tôn giáo hóa những điều mình tôn thờ vốn là nét phổ biến của kẻ lãng mạn. Nếu nói riêng trong thơ tình ở ta, người gần nhất xem tình yêu là tôn giáo thì cũng đã khởi nghiệp cách nay dư nửa thế kỉ và đã chia lìa với thế giới này cũng có tới một thập niên rồi. Coi tình yêu là tôn giáo, xem ra, là câu chuyện cũng đã… xưa.
Vậy, đâu mới là Vi Thùy Linh ?
Rất nhiều người đã cả quyết: điểm đáng kể của Linh là tiếng nói nữ quyền trong tình yêu. Tôi cũng từng tin thế. Linh là một nữ sĩ, mọi biểu tỏ tình yêu đều từ vai nữ, cách nói năng lại có cái vẻ “gây hấn”, vậy xem Linh là phát ngôn viên cho nữ quyền thì phải quá còn gì. “Nữ quyền luận” chẳng phải đang xôm, đang mốt trở lại đó sao ! Nhưng lắng kĩ, té ra, nhầm. Té ra, khoa học cũng thời thượng. Tiếng nói nữ quyền ở ta ít nhất đã có từ thời Xuân Hương rồi[3]. Với lại, Linh có lên tiếng như nạn nhân của nam quyền đâu. Trong thơ, Linh chẳng đòi quyền riêng gì cho giới nữ ! Một người đòi quyền cho người nữ, thì sao lại hân hoan làm một nô lệ tự nguyện đến thế này: Hình như tôi đã lớn lên cùng tình yêu dành cho Anh, từ khi bắt đầu là bào thai con gái trong bụng mẹ / Tôi hôn Anh rưng rưng và biết mình đang trở thành nô lệ của tình yêu, một nô lệ không cần được giải phóng. Một người bất bình với  nam quyền, muốn tranh giành vị thế với đàn ông thì sao có thể viết những dòng tôn vinh đàn ông đến nhường này: Không cần Chúa Trời, Anh sáng tạo em bằng sức mạnh phồn sinh / Em thấy mình thực sự là phụ nữ khi có Anh - điều tất yếu và linh thánh… Em quỳ xuống Anh gọi Bình minh sáng thế… Giới quyền không phải chuyện của Linh. Cái làm bận tâm thi sĩ này, thực ra, là Ái quyền. Quyền được yêu như một Con Người viết hoa. Đối với con người, quyền được yêu bao giờ cũng là phần đáng giá nhất của quyền sống. Ý thức về ái quyền, ca tụng và đấu tranh cho ái quyền, đó là nguồn cảm hứng sôi nổi nhất của hồn thơ Linh. Nó làm nên khuôn mặt nghệ thuật Vi Thùy Linh trong thơ đương đại: “Em yêu Anh như yêu sự hiện diện của chúng mình trên trái đất / Mặc tháng năm chạy về cuối mắt / Mặc thế gian đổi thay từng giờ khắc / Chúng mình yêu nhau”, “Ta / lúc nào cũng phá giới để yêu / thì có nên tu không ?/ Biết tu ở kiếp nào ?/ Hôn nhau tràn tràn / Ta tu suốt đời dưới gốc cây bồ đề - Anh / Chúng mình siêu thoát”,Em yêu Anh cuồng điên / Yêu đến tan cả em… Kẻ thù của ái quyền trong thơ Linh không phải nam quyền, cường quyền hay thần quyền. Nó là sự giả dối và ươn hèn khiến con người đánh mất những tình yêu đẹp đẽ. Nó là tập quán lạc hậu của một cộng đồng chưa thực có truyền thống tôn trọng cá nhân nên cũng chưa biết tôn trọng tình yêu đầy đủ, trái lại, vẫn còn nhiều kì thị, thóc mách trước những biểu tỏ riêng tư của đôi lứa. Mà giành quyền sống cho tình yêu trước những thế lực như vậy, còn gian nan và dai dẳng gấp bội phần so với những thế lực khác. Ta hiểu vì sao, Linh xem sống là được yêu. Ta hiểu vì sao Linh thèm muốn những nụ hôn của tình yêu được đàng hoàng công khai dưới ánh ngày, được tự do biểu tỏ trước đám đông. Ta hiểu vì sao Linh thèm khát cái hạnh phúc được Hôn nhau giữa thủ đô La Mã… Anh ôm em bay giữa bầu trời Ý… quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp, thèm được Uống nhau không biết mệt / Cho cả thế giới nhìn…
 3. Giữa vườn địa đàng…
Chữ ái quyền không chỉ mang hàm nghĩa quen nhất là quyền được yêu. Nó còn tiềm ẩn một nét nghĩa khác cũng hết sức đáng kể : quyền năng của tình yêu. Thơ ViLi là sự ca tụng quyền năng đó.
Đích cuối cùng của văn minh, tiến bộ có phải là xây dựng một cơ ngơi vật chất huy hoàng cho thế giới này không ? Không. Mọi nỗ lực của văn minh, tiến bộ đều phải nhắm cái đích tối hậu: làm sao cho loài người biết nhìn nhận tình yêu là cái nhụy của sự sống và biết sống trong tình yêu. Nhưng thực tại lại ngày một xác xơ. Trái đất vốn là vườn địa đàng giờ đã bị xâm lấn bởi cái gọi là văn minh. Nó lan tới đâu, những nẻo vườn liền bị san lấp, chôn vùi. Con người thì sẵn sàng xắn ra từng mảnh nhỏ để bán chác, đánh đổi. Đến nay, vườn địa đàng đã bị đè nghiến dưới chân móng của nền văn minh đó rồi. Ngự trị luyến ái quan của chúng ta là một tình yêu bị chằng buộc biết bao luật lệ qui ước của thứ văn minh đó. Những hành trang rởm ấy làm mờ đục sơ tâm, khiến loài người yếu đuối, khiến thế giới khô cằn. Dù không ít lúc nói giọng to tát, nhưng trong thơ, Linh luôn bày tỏ nỗi thất vọng chân thành về một thực tại như thế. Linh nói nhiều về những nguyên nhân và hậu quả : “Trái đất ốm yếu vì văn minh / Thế giới thiếu chất thơ nên loài người bi kịch”. Vì “cả loài người ngộ nhận tham vọng vật chất”, vì “Dục vọng bời bời khiến người ta khốn khổ”, cho nên đến giờ Thế giới còn rất ít người dám coi tình yêu là tối thượng”… Cái gì có thể giải cứu một thế giới như vậy ? Dĩ nhiên, chỉ có một quyền năng duy nhất : tình yêu. Một tình yêu lớn và đẹp có thể giải cứu cả thế gian này. Linh tin thế.
 Tình yêu nào có được quyền năng ấy ? Tình yêu của Eva/Adam.
Đó là một tình yêu sơ nguyên thuộc về sơ tâm. Một tình yêu vẹn nguyên và thuần khiết thuộc về cái tâm như bông sen buổi sáng của con người. Nghĩa là tình yêu trong bản nguyên của nó. Bản nguyên không phải bản năng. Nó là tình yêu thuộc về cái phần người tinh khôi, nguyên khiết của mỗi cá thể. Nó hiện ra bằng những rung động tươi ròng, những khao khát trong lành mà con người có thể dâng tặng cho con người. Linh dồn toàn bộ tâm huyết để tôn vinh một tình yêu như thế. Càng kì vọng vào “Những cơn khát vỗ về dẫn đường chúng ta, định giá chúng ta giữa hiện thực nhá nhem, giá trị bị đánh tráo”, lại càng dị ứng gay gắt với những thứ tình yêu ngộ nhận, giả trang, rởm: “Lưỡi của loài người phải được gột sạch ngôn từ ngụy trang, tẩy rửa những cái hôn rởm, đọc điếu văn cho những cuộc tình ngộ nhận chết yểu”. Tình yêu thuần khiết thì bao giờ cũng là một ái tiệc giữa vườn địa đàng. Mà tận hưởng và tận hiến đến từng phút giây sống trong nhau chính là thực đơn kì diệu của đại tiệc yêu này: “Vườn địa đàng một Eva Linh / Cánh đồng violette mênh mông / làm nên bao ái tiệc / Hoa tím miền trinh miên quyến rũ / Tất cả đại tiệc yêu /… Cho đôi ta sống nhiều lần trong mỗi lần / Cho hoan ca dội vang vũ trụ / cho màu yêu loang nhiều thế kỉ /…môi rực tan thân nhiệt vã sáng / Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”.
Tình yêu đích thực làm sao thiếu được tình tự ái ân. Bản thân ái ân là một vẻ đẹp sơ nguyên. Ý thức văn minh rởm ngự trị trong chúng ta đã biến nó thành cấm kị, che đậy nó bằng cái lá nho giả trang. Ngay từ buổi ban sơ của sự sống người, cảnh ái ân sơ nguyên đã được tổ tiên tạo tác trên thạp đồng Đào Thịnh[4] rồi. Ấy vậy mà đời sau, hễ nói về ái ân thì lập tức bị xét nét, báng bổ. Thói đời, những kẻ hô hào cấm kị nhất, báng bổ hăng nhất lại thường là kẻ khó cưỡng được sự tò mò về nó nhất. Thể hiện ái ân bằng nghệ thuật mãi mãi là một nhu cầu nhân bản. Chuyện cần xét nét chỉ là phẩm chất nghệ thuật và đẳng cấp văn hóa trong cách thể hiện ái ân và cách đọc về ái ân thôi. Xóa bỏ dần những cấm kị vô lối, dỡ bỏ dần cái lá nho vờ vịt kia chính là nỗ lực của văn minh thật. Hẳn nhiên, cũng là nỗ lực của thơ yêu mỗi thời. Vậy mà khi những tiếng thơ như thế vừa cất lên, tập quán liền rãy nảy, hùa vào chống trả. Còn nhớ thế kỉ XVIII, những trang yêu trong Kiều, những phồn thực bóng gió của Xuân Hương từng bị qui kết là tà dâm. Nửa đầu thế kỉ XX, khi Xuân Diệu mới viết “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực… Hãy khắng khít những làn môn gắn chặt” thì đã bị la lối là vẩn đục. Hay, mới vài chục năm trước, Dư Thị Hoàn viết về cái lơ đãng không thể tha thứ : “Sau những phút giây / êm đềm trên ghế đá / Anh không cài lại khuy áo ngực cho em”, thì đầu óc cấm kị đã vội vu lên là phàm tục… Đến thời Vi Thùy Linh, tận thế kỉ XXI rồi, chuyện đã khá hơn đâu. Linh chả được thói đời miễn trừ một búa rìu nào. Cố nhiên, nhiễu loạn rồi cũng qua. Và, may thay, sau mỗi lần như thế, ý thức của con người về tình tự dường như lại nấn rộng một vòng, mỹ cảm về ái ân lại nâng lên một tầm. Giờ đây, ít ai còn nghi ngờ điều này: biểu tả tình tự ân ái bằng những thi ảnh ngỡ trần tục mà đầy thi vị là sở trường của Linh.
          - Những đường cong khỏa vào sóng chữ
                      Em say nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé
                      Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người.
- Những con chữ nảy hạt dưới da
Những con chữ hòa máu em vào anh
Khao khát mở đường cong hợp cẩn
                    - Ngày anh đến mùa tình lên
                    Yên lặng mở những ngón tay chìa khóa
          - Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo
                    Eo chờ đợi vuốt ve thắt bão
          - Vào lúc hạt hạt mồ hôi cha thấm vào ngực mẹ
                     Mặt đất già chật chội nở dần những luống hoa đồng trinh
          - Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh
                     Cài then em bằng anh
Có nhà điêu khắc đã dành cả đời mình để tôn vinh nụ hôn của con người bằng hoa cương và cẩm thạch. Phải chăng ViLi cũng muốn làm một thi sĩ hoan ca ái ân tình tự của con người bằng thi ảnh và ngôn từ ?
 Khát khao một tình yêu sơ nguyên, hay sống với tình yêu trong bản nguyên của nó, những mong cứu chữa địa đàng, ViLi thực là người lãng mạn giữa thời buổi này. Tôi chắc những đầu óc hiện thực khó chia sẻ quan niệm và cách nhìn của Linh. Nhưng, từ vạn kiếp, tình yêu luôn là phần lãng mạn nhất của cõi người, làm sao có thể thiếu những cách tiếp cận lãng mạn được !
          4. … thèm đế chế Yêu                                                
Linh còn đẩy niềm lãng mạn đi xa hơn khi xem tình yêu là sự hoàn thiện bản thể. Mỗi con người vốn là một bản thể đầy mâu thuẫn, một bản thể thiếu khuyết: “Tôi là tôi / Một bản thể đầy mâu thuẫn”. Cái tôi ấy chỉ trở nên hoàn thiện bởi tình yêu và trong tình yêu: “Vào lúc những kim đồng hồ nhập một / Chúng ta trở thành một bản thể / và khi ấy / Em nhận ra / Anh là bản đồ thế giới”. Tình tự không chỉ là thú yêu đương trong hoan lạc hiện sinh, không chỉ thỏa mãn những cơn khát tình, những nguồn dục lạc của thể xác. Bởi với Linh, “thể xác chỉ là minh họa của tinh thần”. Tình tự là lúc vượt thoát nỗi cô đơn bản thể, vượt thoát mặc cảm thiếu khuyết: “Những ngôi sao tung vạn tinh thể ướt sáng, bọc Anh và em thành một bản thể”. Tình tự là lúc sự sống trong vũ trụ này đang làm cuộc hóa sinh kì diệu của nó trong những bản thể người: “sự vận động âm - dương là bản chất thế giới”. Tình tự là lúc cảm nhận được sự bình yên mặt đất, bình yên của phận người: “Khi hôn mắt Anh, mắt trong mắt Anh / Em nhìn thấy sự vận động của thế giới từ những hạt mầm còn nằm trong ngấn nước / Khi nằm nơi Anh / Em như ở trên hòn đảo bình yên của cuộc đời mình / Khi áp vào tai Anh / Em nghe thấy muôn tiếng sóng vỗ về miên man như áp con ốc biển / Khi em hòa trong toàn vẹn Anh / Em đã vén được bức màn bí ẩn về sự sống / Và em biết / Với tình yêu của em /Anh có thể ngẩng cao, trở thành chính mình”. Hoàn thiện mỗi bản thể bằng/trong một tình yêu lớn, phải chăng là cách duy nhất để hoàn thiện thế giới này?
Có người đã hình dung rằng thơ Việt từ đầu thế kỉ XX đến những năm đầu tiên của thế kỉ XXI là một hành trình dài dặc từ cái Tôi trở về với cái Tôi. Y như một vòng luẩn quẩn. Sự thực có giản đơn và đáng lo ngại như vậy không ? Nhìn kĩ sẽ thấy đó là tiến trình đầy thăng trầm với bao khúc quanh từ cái tôi cá thể đến cái tôi bản thể. Đó là hai tầm mức, hai chiều kích của cái tôi cá nhân. Nếu cái tôi cá thể chủ yếu hiện lên qua tương quan với tập thể và sống trong mối bận tâm với những giá trị hẹp của cộng đồng nhỏ, thì cái tôi bản thể hiện ra trong đối lập với toàn thể và bận tâm với những giá trị phổ quát. Trên thi đàn, đây đó, không ít người rơi vào những bận lòng thỏn mỏn của cái tôi tiểu kỷ, chả đại diện được gì. Nhưng, ở những gương mặt nổi lên, ta vẫn thấy những nét thần thái của cái tôi bản thể. Sống với niềm băn khoăn ấy, Vi Thùy Linh là một trong những tiếng nói sốc của cái tôi bản thể đó.
                                                           *
Một nghệ sĩ thực thụ thì phải tạo ra được một thế giới nghệ thuật của riêng mình. Chưa làm được điều này, thì chưa thể có khuôn mặt nghệ thuật thực sự thuyết phục. Là một hiện tượng trẻ, nhưng Vi Thùy Linh đã sớm chín. Linh đã xây cất được một thế giới riêng trong thơ mình. Thế giới Linh là thế giới đang yêu. Một tình yêu luôn ở thì hiện tại. Thế giới ấy có thời gian là những mùa tình không dứt, không gian là cõi tình không biên giới, cả không/thời gian đều nhuốm một sắc tím không cùng của hoa Thùy Linh[5] ? Vạn vật trong đó, từ cụm hoa đến bầu trời, từ rêu cỏ đến biển đảo, từ cơn gió đến ngọn sóng, từ thân cầu đến đỉnh tháp, từ khung cửa đến bức rèm, từ ly rượu đến ngọn nến, từ góc vườn đến góc giường, đến cả những thành phố lớn như Hà Nội, Roma, Paris… đều “đang yêu bằng trái tim lãng mạn”, đang tình tự bằng muôn vàn tế bào dậy men tình ái, lồng lộng nude và rộn rực dục tình: “đại lộ dài như một cơn hôn”, “những núi vú ưỡn lên nóng bỏng, những núi vú non tơ sáng rực, những chóp vú khát yêu triệu năm, tự do hoan lạc giữa mùa tình không bao giờ hết”, “vỗ vào bờ muôn đợt sóng khỏa trắng tinh khôi”, “cây cầu kết bằng trăm thiếu nữ đùi nối nhịp mĩ kiều lồng lộng nude sức sống”, “mây liếm cong trăng”, “nắng mạch nha trắng trong hệt như lúc em vừa tắm”, “gió ào đến bế thốc mùa thu đi”… Linh đã thổi những cơn yêu của mình vào mỗi sự vật ấy để vật nào cũng mang một mảnh hồn yêu. Nghĩa là Linh đã phổ vào tạo vật của mình một bầu khí quyển riêng: khí quyển yêu.
Thực ra, dựng thế giới nghệ thuật thành cõi yêu cũng chưa hẳn là điểm riêng của một thi sĩ nòi tình. Dấu ấn Linh phải chăng là quyền năng Eva trong cõi yêu ấy ? Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của một nhà thơ tình, tôi thấy một mô hình phổ biến. Ấy là một cõi giới với ba hệ thống hình tượng vừa song hành vừa đan xen chuyển hóa lẫn nhau là : Cái tôi – Người tình – Thế giới. Trong thơ Linh, mỗi hình tượng ấy có một diện mạo riêng. Tôi là nàng Eva Linh. Cái tôi ấy mang trong mình một tình yêu nồng nàn đến cuồng điên, đam mê đến tan nát. Điều thật lạ ở nàng Eva này là nỗi khát yêu càng vô giới hạn thì cơn khát làm mẹ càng vô bờ bến. Nàng thèm có con từ vị thành niên và rất ham phiêu diêu trong một viễn tưởng nhiều con. Với nàng, yêu là sống, cõi sống là cõi yêu, càng nhiều con càng nối dài sự sống trên cõi yêu này. Người tình là Anh, một Anh luôn được viết hoa. Chàng được tình yêu sơ nguyên của Eva biến thành một Adam lí tưởng và linh thánh (vì thế, trong thơ ViLi không thể có một tiếng thơ nào than trách về chàng hay tranh chấp giới quyền với chàng). Và Thế giới, cái cõi tình quanh họ ấy, đương nhiên, phải là vườn địa đàng thì hiện tại, một địa đàng đang cần được nâng cấp. Trong đó cuộc tương tranh giữa hoa địa đàng và rác văn minh đang ở hồi quyết liệt. Những cặn bã và rác rưởi của đô thị hóa, công nghiệp hóa, thị trường hóa… đang hòng robot hóa con người và hoang vu hóa vườn xưa. Nhưng, từ Eva và Adam bản nguyên khí lực của tình yêu lớn và đẹp không ngừng trào tuôn vào thế giới để cải hóa địa đàng thành đế chế yêu. Vì thế, không chỉ riêng khi yêu ở Roma, mà ở mọi chốn, quyền năng của tình yêu ấy luôn giúp Eva Linh đồng hóa thế giới này : Hôn nhau giữa thủ đô La Mã/ Pisa nghiêng thêm / Anh ôm em bay giữa bầu trời Ý / Quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp / Váy bay tóc bay mắt bay sóng sánh/ Chúng mình là ngôi sao bay, là tượng tình yêu đang thở, in vào La Mã xanh/ Pisa thứ hai / Dẫu Pisa cũ sụp xuống / Dáng nghiêng hôn nhau quên thời gian vẫn in lên nền trời Roma / Một đế chế Yêu vĩnh cửu… Biến thế giới thành đế chế Yêu vĩnh cửu, chẳng phải là cái đích lãng mạn nhất của văn minh sao? Và, thèm khát một đế chế Yêu như thế, chẳng phải là nghiệp yêu bạo liệt của ViLi sao ?
Song, cần rành mạch thêm chút về màu sắc lụy tình của nàng Eva này. Trong thực tế niềm đắm say tình ái của một tình nhân vẫn có hai dạng: yêu người yêu và yêu tình yêu. Lụy tình của ViLi nghiêng về dạng thứ hai. Vì thế, hình tượng người tình trong thơ Linh ít có nét trực quan của một chân dung thực mà thường chung chung như một quyền năng ảo. Vì thế, nàng yêu sự tình tự ái ân hơn là yêu một con người. Và cũng vì thế, ngay cả khi chủ thể nói rất to em yêu Anh cuồng điên / đến tan cả em và đinh ninh rằng mình đang “chết” cho chàng, thì vẫn là nỗi mong cầu thỏa tình hơn là dâng tình. Cho nên, giông giống như niềm háo sắc ở đàn ông, nỗi háo chua ở phụ nữ, háo tình/khát tình mới là nhân lõi của mối lụy tình ở nàng Eva ViLi này chăng ?
5. Dệt tầm gai thành thơ
Tôi gọi ViLi là thi sĩ mắn chữ. Mắn là phúc lộc mà cũng là tội tình. Nên người đọc Linh luôn có hai cảm giác phản trái: cuốn hút và ức chế. Cuốn hút bởi một trữ lượng thi ca dồi dào, câu chữ sinh sôi, tình ý nườm nượp, thi ảnh ngồn ngộn. Còn ức chế bởi chính mặt trái của nó: tràn lan và ồn ào. Do thế, tôi chắc thơ Linh sẽ vậy thôi, một thứ dầu thô khó tinh lọc, một thứ quặng thô khó tinh luyện. Đến khi đọc những câu này: Ta dâng hiến cho thơ những năm tháng thanh xuân đẹp nhất / Dệt tầm gai thơ dệt sợi máu thành chữ, tôi có phần nghi ngại mình. Mình đã thiếu kiên nhẫn chăng? đã thiếu công bằng trước những dòng thơ dệt từ “sợi máu” đó chăng ?
Đọc ViLi cứ phải thả trôi theo sự “tràn trề”: Em vùi em vào anh, nảy mầm chưa từng có / Ảo thuật giác quan ốp la món trứng mặt trời / … Anh dắt em đi mãi trong màu xanh của phố, trên triền xanh của sóng, giữa không tận của trời / Chúng mình đã đi qua bao thế kỉ bất an, sao loài người yếu đuối đến thế?! / Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền văn minh huy hoàng mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế?! / Điều quan trọng nhất, bí mật hệ trọng nhất là biết yêu trong sự sống tận cùng / Đi bộ qua vòm trời, anh nằm bên em giữa thời đại mệt nhoài rạn bóng những thế kỉ… Tràn trề khiến thơ Linh có dáng dấp thơ văn xuôi. Tràn trề khiến mỗi bài thơ Linh như lồng ngực bé của thơ ngắn lại muốn chứa hơi thở phóng túng của trường ca. Đó âu cũng là một chiêu pháp định dạng một lối thơ. Thực ra, trước khi là một chiêu, nó là một điệu sống. Ai gần đều thấy Linh có một điệu sống ấn tượng: như dòng nước khoáng nóng không ngừng xối xả. Dòng sống mạnh xô đẩy cảm xúc tự trong hồn đã tuôn tràn ra thành sự xô đuổi câu chữ trên mặt giấy. Nó là một tạng chất. Chủ thể chỉ có thể sửa đổi mà không thể thay đổi. Thứ thơ như thế thường cậy vào chữ nhẫn ở người đọc. Nhẫn thì có cơ vượt qua lớp thô gai để nâng niu những sợi “máu chữ”. Còn không thể nhẫn thì đành “kính nhi viễn chi” do phát mệt với đám thô gai thừa thãi của ngôn từ.
Thơ Linh lúc này cứ xui tôi nhớ đến phim Long thành cầm giả ca. Nếu phim của Đào Bá Sơn được xem là thơ trên màn bạc, thì có thể xem thơ Linh là phim trong ngôn từ. Ai quan tâm đến thơ đều thấy một thực tế: thơ hiện nay đang phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt của các nghệ thuật khác. Nhiều đối thủ đáng gờm đang cướp đi bạn đọc của thơ. Để sống và cạnh tranh, thơ phải tự thay đổi bản thân. Hiện có hai xu hướng rõ rệt: một là, vay mượn ưu thế của các nghệ thuật khác để làm giàu; hai là, tự đào sâu vào mình để làm mới từ những ưu thế đặc thù. Nghe nhìn có lẽ là đối tượng được thơ tìm tới để vay mượn nhiều nhất. Sắp đặt, trình diễn đã sớm được thơ vời cũng theo tinh thần ấy. Trên sân khấu, là người chịu chơi thơ, Linh khá máu mê trình diễn thơ. Nhưng trong văn bản, phim mới là nghệ thuật Linh am tường và khai thác nhiều để làm ra thơ mình. Có phải đến Phim đôi – Tình tự chậm, Linh mới học phim để làm thơ không ? Không. Từ những tập đầu đã thấy xu hướng này rồi. Linh coi trọng những khuôn hình, coi trọng tốc độ chuyển cảnh, dàn cảnh, tin dùng động từ hơn tính từ để hình của mình không tĩnh kiểu tranh mà động kiểu phim. Linh thường show những cảnh toàn, cảnh cận, cảnh đặc tả khiến câu thơ, đoạn thơ như một chuỗi khuôn hình trên màn bạc. Có thể nói tư duy hình của Linh rất phim: “Đột ngột vào kịch tính / Nữ kỵ sỹ cưỡi bạch mã phi nước đại xa lộ / Đến villa trắng phủ dây leo xanh / Núi rặng rặng gần xa / mây đắp xanh kín biển / Nghênh chiến thách thức”… Ngay chiêu lặp, bề ngoài tưởng chỉ là phép điệp quen thuộc như “vòm vòm”, “phố phố”, “cánh cánh”, “nhà nhà”, “ngàn ngàn”, “cây cây”… nhưng, thực ra, chúng trở đi trở lại trong thơ Linh theo dụng ý phim, như cách lia máy, chạy máy để bao quát hoặc bám sát chuyển động của hình chủ: “Khi Anh chở em lướt Vespa phố phố”, “Tôi luyện tôi bề bề bão”, “Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”… Hay cái cách chồng hình của phim đã nhập vào lối chồng chữ này: “Mình ôm lấy Anh ôm mình”, “Vào lúc Anh lên em lên Anh” … đều cho thấy cách dụng hình, dụng chữ của Linh hấp thu từ điện ảnh thế nào. Trước ViLi, không phải chưa có việc văn tìm đến phim. Nhưng tìm đến phim kiểu ViLi thì có lẽ chưa. Thành công nhiều hay ít, còn tùy đánh giá của lối đọc. Và kể cả cái nhìn ưu ái nhất cũng không thể làm lơ trước những dấu hiệu “phim đè thơ” đây đó trong các thi phẩm của Linh. Song, bảo rằng cây bút này không có cách tân gì về hình thức là chưa thật công bằng.
Ném mình vào cuộc thơ này, ViLi mang theo một tâm niệm : Đỉnh cao sự sống là hợp linh nghệ thuật và tình yêu. Tất nhiên, để có thể lên đỉnh ấy, không thể thiếu một hợp linh khác : nội lực và cật lực.
Nội lực một Eva bạo chữ và cật lực kiểu dệt tầm gai liệu có giúp được ViLi ?
--
Thăng Long, xuân Tân Mão
              C.V.S




[1] Vi Thùy Linh  có thơ in từ giữa những năm 90, sau lần lượt ra đời các tập: Khát (NXB Hội Nhà Văn,1999), Linh (NXB Thanh Niên, 2000),  Đồng tử (NXB Văn nghệ, 2005), ViLi in love (NXB Văn Nghệ, 2008), Phim đôi – Tình tự chậm (NXB Thanh Niên, 2010). Thơ trích trong bài đều từ 5 tập thơ này.
[2] Người dệt tầm gai là hình tượng được nhiều người biết đến trong bài thơ cùng tên của Vi Thùy Linh.
[3] Có thể xem Hồ Xuân Hương là tiếng nói nữ quyền sớm và hết sức mạnh mẽ chống lại xã hội nam quyền, đòi quyền sống, quyền yêu cho người nữ. Tiếng nói ấy thể hiện tập trung trong niềm khao khát được chung tình, niềm phẫn uất với chế độ đa thê.
[4] Là di vật tiêu biểu của Văn hóa Đông Sơn, ngay trên nắp thạp, tổ tiên đã trang trí hình bốn cặp trai gái đang giao hoan.
[5] Trong thơ mình, Vi Thùy Linh sáng tạo ra một loài hoa của tình yêu màu tím ngát có tên là hoa Thùy Linh


Tình yêu - thơ yêu, đối cực và nghịch lý
(Chu Văn Sơn)          
Viết những lời sau cùng cho tuyển thơ đây, dường như tôi đang làm một việc vô duyên thì phải. Người ta vẫn nói thơ yêu tự nó đã là những đóa hoa. Làm sao kết được muôn hình muôn dáng hoa yêu kia vào một cái lẵng con con được gọi là lời bạt này ? Làm sao có thể chưng cất muôn sắc muôn hương kia thành một bình nước hoa bé xíu được xem là lời cuối này ? Thôi thì, mình xem đây như dịp được vỡ lẽ thêm đôi điều về một cõi thơ vốn đầy những đối cực tinh vi vậy.
*
Tôi đã từng đinh ninh tình yêu là đặc sản người. Chỉ có loài người mới biết yêu thôi. Té ra, đó chỉ là cái thói vơ vào đầy ngộ nhận của con người. Đành rằng, đến con người tình yêu mới thật đầy đặn và hoàn thiện, nhưng mọi sinh thể trong cõi này đều đã yêu theo mức riêng và cách riêng của chúng rồi. Nếu hiểu yêu là sự luyến ái, thì tình yêu là yếu tố thuộc về khởi nguyên của sự sống. Khi hai sinh thể, bằng những cách nào đó, tìm tới nhau để tạo sinh một sinh thể mới thì đó đã là luyến ái, đã là yêu. Ai dám bảo trong cái cách hai cọng rêu dưới đáy đại dương tìm nhau để giao truyền mầm sống trong bóng đêm chỉ đơn thuần là hành vi truyền sinh không phải là một dạng yêu ? Ai dám bảo trong cái cách bông hoa đực chốn này gửi vào gió một hạt bụi phấn đến đậu vào giọt mật của bông hoa cái chốn kia, mà nhất là cái khoảnh khắc giao hòa giữa phấn và mật ấy, không có một lời yêu, không phải là một lối yêu? Ai dám bảo trong tiếng hót của đôi chim trống mái cuối vườn kia không có những tiếng thơ say đắm của những hồn yêu ?... Tin vào những giáo điều cũ rích, tôi đã từng quả quyết: đó chẳng qua chỉ là những hoạt động tính giao thuộc phạm trù bản năng đơn thuần, còn tình yêu chỉ có ở người thôi. Nhưng, tôi đã kịp nghi ngại niềm tin xưa cũ ấy. Con người mới chỉ biết có tiếng người, con người thiếu ngoại ngữ cần thiết để hiểu muôn loài. Nếu có một ngày loài người nghe được ngôn ngữ của muôn loài, thì hẳn cái thói vơ vào cố hữu và trịch thượng sẽ giảm đi nhiều lắm. Tình yêu phải là câu chuyện của sự sống. Tình yêu duy trì và cưu mang sự sống này. Và, thơ yêu chân chính bao giờ cũng là bài ca sự sống.
*
Có lẩn mẩn không, khi tách bạch hai tình cảm gốc rễ của con người (và không chỉ của con người) vốn song sinh và chuyển hóa lẫn nhau mà không hề đồng nhất là : yêu và thương ? Nếu thương là xúc động của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ, thì yêu là xúc động của tâm hồn trước cái đẹp (mà rộng hơn, là giá trị). Về bản chất, thương là nỗi xót xa, còn yêu là niềm say mê. Có lẽ thế mà từ trước công nguyên đã có định nghĩa khá hoàn hảo về tình yêu đôi lứa: “Có ba niềm say mê. Niềm say mê về tâm hồn dẫn tới sự quí mến. Niềm say mê về tài trí dẫn tới sự kính trọng. Niềm say mê về thân xác dẫn tới sự ham muốn. Cả ba cái đó hợp lại thành tình yêu”. Như thế, yêu là sự cuốn hút bởi vẻ đẹp của đối tượng. Khi không còn thấy vẻ đẹp lung linh, tức là say mê đã suy giảm, tình đã nhạt rồi. Yêu gắn với khát khao chiếm hữu, thậm chí, chiếm hữu trọn vẹn. Nên, yêu khó chấp nhận chia sẻ. Khi yêu người ta thường ghen là bởi thế. Ghen là phản ứng của cơ chế bảo toàn khi tình bị sẻ bớt. Yêu càng nồng, ghen càng dữ. Trái lại, thương là trăn trở trước nỗi bất hạnh, nên thương gắn với ý hướng xả thân, khiến ta quên mình vì đối tượng. Thương càng sâu, hy sinh càng lớn. Vì thế chăng mà một cuộc tình sẽ khó bền lâu, nếu yêu và thương không chuyển hóa được sang nhau ? Vì thế chăng mà yêu và thương cứ phải gắn bó với nhau trong tình người và tình đôi lứa ? Và thơ yêu đích thực của muôn đời bao giờ cũng phải là niềm say mê lớn chan hòa cùng tình thương lớn trước vẻ đẹp và nỗi khổ muôn hình sắc của những lứa đôi.
*
Tôi vừa nói đến tình đôi lứa. Phải, tôi cho rằng cụm từ “tình yêu nam nữ” không còn đủ rộng để bao chứa hết những mối luyến ái của con người. Cùng với tình yêu nam nữ, còn có tình yêu đồng giới (lesbian và gay). Đó là những mối luyến ái bình quyền thuộc về sự đa dạng của đời sống. Mọi khát vọng và trải nghiệm luyến ái đó đều cất lên những tiếng nói bình đẳng trong thơ yêu. Tuy nhiên, luyến ái nào thì một đôi lứa cũng có vai mạnh vai yếu. Chỉ khi hình thành hai vai ấy thì luyến ái mới thực sự nảy nở và bền lâu. Điều này rõ nhất ở luyến ái nam nữ. Tôi nhớ Xuân Diệu đã kể về một chuyện tình cờ gặp ở công viên. Lần ấy, ở ghế đá sát lối đi, ông thấy có một đôi uyên ương với tương quan rất éo le: nàng thì “hoành tráng” như một quả dưa hấu, còn chàng lại “khiêm tốn” như con nhái bén. Một đôi như thế sẽ nói với nhau thế nào nhỉ ? Tò mò khiến ông không thể cưỡng được. Nhưng, lúc ngang qua, ông vua thơ tình đã vô cùng kinh ngạc vì thấy nàng dưa hấu thì cứ ngả dần về phía chàng nhái bén mà rên rỉ: “Trời ơi ! Em yếu đuối quá !”, còn nhái bén ta thì vươn hết tầm tay để choàng lấy vai trái dưa hấu mà hùng hồn: “Em cứ yên trí, anh sẽ che chở cho em !”. Thì ra thế, vai nào phải vào vai ấy thì mới thành tình yêu, dù tương quan thực có … ngang ngược đi nữa. Đó là quy luật muôn đời của tình yêu chăng ?
*
            Bởi thế mà nảy sinh một qui luật thú vị trong thơ yêu. Trong đời thực, người yêu của các nam thi sĩ có thể rất “hoành tráng”, nhưng một khi đã vào thơ yêu, nàng bao giờ cũng bé nhỏ, mảnh mai, gầy guộc, thậm chí, có khi còn bé bỏng nữa. Dù đời thực vai em có mập ú, thì thơ yêu cũng không thể “gọi nắng trên vai em… mập” được (thế thì tan tành thơ mất chứ còn à ?). Trái lại, dứt khoát phải là “gọi nắng trên vai em gầy”, phải “vai em gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi”…  Cũng như vậy, với các nữ thi sĩ, chàng trong đời thực có thể chỉ “nhái bén” thôi, nhưng một khi đã bước vào cõi thơ của nàng, thì chàng bao giờ cũng phải thật hào hùng, thật oách… Không thế, không thể thành tình yêu, thành thơ yêu. Điều này không chỉ đơn thuần là những ước lệ thẩm mỹ lâu đời chi phối cảm quan thơ yêu mọi thời. Mà sâu xa hơn đó là dấu ấn giới (sex/gender) trong thụ cảm và sáng tạo. Khi cất lời yêu, mỗi giới tính đều muốn được là chính nó. Dường như, nam tính muốn chuốt cho hình ảnh nàng trở nên bé nhỏ mềm yếu để nó có cơ hội được mạnh mẽ, chở che. Còn nữ tính lại cần phóng đại hình ảnh chàng lớn lao lên để nó được yếu ớt, nương nhờ. Tình yêu vốn là tiếng nói thẳm sâu nhất của giới tính trong mỗi cá thể mà.
                                                          *
            Không chấp nhận những danh xưng lệch vai, xem ra, cũng là một qui luật khác của tình yêu. Ban đầu, các đôi lứa có thể đến từ nhiều dạng quan hệ khác nhau, lắm khi còn nảy nở từ những quan hệ thật ngang trái, ví như: chú – cháu, chị – em, thầy – trò, cô – trò, thậm chí, bác – cháu nữa. Trước đó, họ vẫn xưng hô theo các vai ấy, chẳng sao. Nhưng, một khi đã vào cuộc, kẻ mở lời mà cứ giữ nguyên vai cũ để tỏ tình, kiểu như “chú yêu cháu!”, “cô yêu em!”, “tớ yêu ấy!” chẳng hạn… thì thôi rồi, chẳng những không thể ra tình yêu, mà kẻ tỏ tình có khi còn được phong là… dở hơi nữa cũng nên. Để ra tình yêu, các vai kia dứt khoát phải “chuyển vế đổi dấu”, dứt khoát chúng phải tìm về với chuẩn mực muôn đời trong tiếng mẹ đẻ của mình là “Anh yêu em!”. Không thế, còn khuya tình mới chịu thành. Đơn giản vì, để tình trong lòng có thể lên môi, nó phải truất bỏ những lối xưng hô “lằng nhằng”, “rách việc”, mất… sướng. Nên, bảo đó là tình yêu đang chuẩn hóa ngôn ngữ hay ngôn ngữ đang chuẩn hóa tình yêu, thì đằng nào cũng thế à.
                                                           *
            Khi yêu đôi lứa nào cũng muốn ngọt ngào. Và cho rằng chỉ có ngọt ngào mới là hạnh phúc. Người ta chỉ nhận ngọt ngào mà chối từ đắng cay, một mực xem đắng cay thuần là bất hạnh. Hình như không phải thế. Trải đời đến mức nào sẽ thấy cay đắng là phía không thể thiếu của một tình yêu trọn vẹn. Sao có được một đóa hồng trọn vẹn khi chối từ gai sắc của hoa ? Nếu thiếu đi vị đắng, chocolate đâu còn là nó nữa. Một tình yêu chưa trải qua đắng cay, đau đớn là một tình yêu còn thiếu sức đề kháng. Hoa hồng và chocolate được chọn làm biểu tượng cho ngày lễ tình nhân đâu phải việc tình cờ ! Mà trong thực tế, thơ yêu nói về cay đắng lại thường nhiều hơn ngọt ngào. Thậm chí, nói về cay đắng còn như một cách cảm nhận đầy thấm thía về hương vị ngọt ngào kì lạ của yêu đương nữa.
*
Nói đến tình yêu là nói đến tuổi trẻ. Nhưng không phải trẻ khiến yêu, trái lại, chính yêu khiến trẻ. Tình yêu là ngọn lửa lòng. Lửa còn cháy, người còn trẻ. Lửa lòng tắt là già ập đến. Yêu là phần trẻ của sinh lực người, sinh mệnh người. Nhưng trong thực tế cái ranh giới rất không đâu là tuổi tác lại đã thành một barie gây bao hệ lụy cho lứa đôi trong cõi nhân gian này. Tôi nhớ mối tình thời cổ ở một nước nọ. Nàng mười sáu tuổi bị cuốn hút bởi chàng đã xấp xỉ bảy mươi. Họ yêu nhau đắm đuối trong tuyệt vọng, bởi thói thường của cuộc đời cứ kì thị nặng nề sự chênh lệch ấy. Về sau, để không bị chia lìa, họ đã tìm đến cái chết. Mối tình với người đời là ngang trái ấy đã để lại một bài thơ bất hủ: “Quân sinh thiếp vị sinh / Thiếp sinh quân dĩ lão / Quân hận thiếp sinh trì / Thiếp hận quân sinh tảo”. Bản dịch bằng lục bát thật thấm thía: “Chàng sinh thiếp chửa ra đời / Thiếp sinh chàng đã già rồi con đâu / Chàng hận bởi thiếp sinh sau / Vì chàng sinh trước thiếp sầu ngàn thu. Sống trong tình yêu, cả hai người ấy đều chết trẻ.
*
Khi chưa yêu, người đọc Xuân Diệu gặp câu “Làm sao sống được mà không yêu”, thường chỉ nhận ra một phía : yêu là điều kiện thiết yếu của sự sống; khá hơn, thì hiểu: yêu là chất lượng của việc sống. Đến khi yêu, họ mới vỡ lẽ thêm cái phía ẩn của ý thơ : yêu là bản chất của việc sống. Nếu sự sống sâu xa ở mỗi cá thể là sống trong cảm xúc, sống bằng cảm xúc, thì yêu chính là cảm xúc điển hình nhất và mãnh liệt nhất của cá thể. Bởi vậy, làm sao có thể xem một cá nhân là đang sống nếu như cá nhân ấy không phải đang yêu ! Sống là yêu, yêu là sống, có lẽ không chỉ những kẻ đang yêu mới thấy sự đồng nhất thuộc về cái bản chất sâu xa của sự sống trong tương quan tưởng chừng nghịch lí này. Và cũng bởi thế, khi tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi cái hạnh phúc chân thực nhất của con người trong cõi nhân sinh này là gì ? hầu hết các nhà nhân văn lớn trên thế giới đều gặp nhau trong một quan niệm, đó là: được yêu và tin rằng mình đang được yêu !
*
Khi yêu người ta là thi nhân. Thi nhân ấy sống thơ hơn là làm thơ. Khi ấy, thơ đối với họ là cái lúng liếng của ánh mắt, cái ngập ngừng của bước chân, cái rụt rè của đôi tay, cái ấp úng của lời nói, cái e ấp của làn áo, cái ấm sực của làn da… thơ ấy là mật của nụ hôn, là rượu của vòng ôm, là ma túy của ân ái… thơ tràn ra lời tán, tràn ra nhật kí, tràn ra thư tín, tràn ra email và chat… thơ làm nhiễu sóng điện thoại, làm trĩu lệch quỹ đạo của vệ tinh… chứ không phải thơ chỉ là những văn bản thơ nương nhờ vào cái du dương của nhạc điệu, cái bóng bảy của hình tượng, cái thâm thúy của ý tứ, cái tinh xảo của cấu trúc như ở những thi sĩ chuyên nghiệp.
Được sống thơ là hạnh phúc, phải làm thơ là bất hạnh. Ở đời, người hạnh phúc trong tình yêu thường ít làm thơ, nếu cố làm, thơ  thường nhạt. Người có thơ tình hay lại thường là người bất hạnh trong tình trường. Có phải đó là lẽ công bằng của tạo hóa khi độc quyền phân phối cái được cái mất cho nhân sinh? Hay bất hạnh là cái giá đắt mà nữ thần thi ca vốn sòng phẳng không bao giờ khoan nhượng khi ban cho thi sĩ những tiếng thơ hay ? Bởi điều này mà trong đời mới có phân vai kẻ khôn người dại. Thi sĩ thường nhận mình là kẻ dại. Trong khi, kẻ khôn thì lao vào những cuộc yêu, kẻ dại lại lẩn mẩn ngồi viết thơ yêu. Kẻ khôn muốn gặt hái tức thì, kẻ dại cứ ảo vọng vào những lờ lãi mai hậu. Tôi nhớ một nhà thơ tình nổi tiếng của nước Pháp về già khi trò chuyện với người bạn thân của mình, đã rất “ăn năn” : chẳng cái dại nào như cái dại nào, trong khi anh lao vào hết cuộc tình này đến cuộc tình khác, tôi lại ngồi viết hết bài tình nọ đến bài tình kia (!) Nhưng, làm sao nói quyết được ai dại ai khôn. Những vết thương sâu thường cất lên những tiếng lòng sâu. Để có những tiếng thơ yêu làm quà tặng cho cuộc đời, các thi sĩ thơ tình thường ươm thơ từ những vết xước của con tim, thường vun trồng thơ từ những bất hạnh, chưng cất thơ từ những nỗi đau trong tình trường. Đọc thơ, đôi khi phía sau những con chữ lung linh rất có thể là những giọt lệ lặng lẽ, mà không phải ai đọc cũng nhận ra.
*
Không chỉ sản sinh ra những thi nhân chuyên thơ tình, bất hạnh trong tình yêu còn sản sinh ra một đối tượng nữa: những triết nhân của tình yêu. Giai thoại Hy Lạp có chuyện kể về cuộc tư vấn của một nhà hiền triết đối với học trò. Khi tình yêu đến, người học trò vốn đang theo đuổi những triết thuyết cao siêu của thầy liền bị nhiễu loạn. Anh ta đã mạnh dạn hỏi thầy nên yêu hay không nên. Nhà hiền triết đã lập tức cho một lời khuyên: con cứ yêu đi, đằng nào thì con cũng được. Nếu may mắn, con sẽ là người hạnh phúc, còn bất hạnh con sẽ trở thành… một nhà triết học! Thì ra thế, hạnh phúc cho người ta làm tình nhân, còn bất hạnh có thể biến tình nhân thành triết nhân. Thay vì làm tình nhân để tận hưởng những nụ hôn, thì triết nhân ngồi triết lí về những nụ hôn. Thì ra, thi nhân thơ yêu và triết nhân tình yêu là những “nạn hữu” bị “bạc đãi” trong tình trường (!) Hèn chi mà, người ta thấy những triết gia có triết thuyết sâu sắc về tình yêu thường bất hạnh, và những nhà thơ tình hay triết lí về tình yêu cũng thường… kém may mắn trong sự yêu. Nếu một thi sĩ thơ yêu lại đồng thời là triết nhân của tình yêu thì xem chừng anh đã có cơ trở thành… một tác gia lớn rồi vậy.
*
Ở ta, một thời gian dài, do những nguyên nhân chỉ trời mới hiểu nổi, tình yêu đôi lứa và thơ yêu ít được khuyến khích. Tình đôi lứa khó đi một mình, mà cứ phải nấp bóng tình công dân thì mới có thể đi được. Con người cá nhân nếu không bị con người công dân lấn át thì cũng cứ phải cặp kè thì mới có thể yên tâm. Vì thế, đôi khi phải nói rất to tát: “Anh yêu em như yêu đất nước”, có khi còn chi li cụ tỉ đến siêu hình : “Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ”, thường khi phải ôm những vòng ôm vô cùng lỉnh kỉnh : “Anh ôm em và ôm cả cây súng trường trên vai em”, và phổ biến một thời những cái hôn đầy kiêm nhiệm : “Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí”… Bởi thế, thơ yêu kiểu ấy thường dư khí mà nghèo vị.
May thay, ngay cả những lúc như thế, tình yêu thuần khiết vẫn cứ dạt dào trong những lồng ngực trẻ. Và thơ yêu thuần tính vẫn cứ cất lời, lan xa, dù tiếng vang của nó chủ yếu theo dòng ngầm. Nó vẫn viết về tình yêu như cội nguồn của sự sống, viết về yêu và thương như những nhịp đập bền bỉ của con tim, về ngọt ngào và cay đắng như hương vị không thể thiếu nhau của một cuộc tình trọn vẹn, vẫn viết bằng sự mẫn cảm thi nhân và sự thông tuệ của triết nhân, con người công dân ở đó không bao giờ là cái bóng đè con người cá nhân… Bởi thơ yêu đích thực luôn là bài ca sự sống, một sự sống luôn vượt qua mọi ngáng trở để trụ vững và vươn lên. Đúng hơn, bởi thơ yêu chính là sự sống tự cất thành lời ca. Mỗi tiếng yêu là một nhịp đập, mỗi thi ảnh là một mảnh hồn. Chắt ra từ sự sống và đắp bồi cho sự sống, mỗi lời thơ yêu bao giờ cũng là một giọt đời kiên nhẫn. Để đến giờ, nó đã thành một gia sản sáng giá của thơ Việt, xứng đáng làm quà tặng tình yêu cho mọi đôi lứa, và có thể sánh bước cùng thơ yêu của khắp muôn nơi.
 --

2 nhận xét:

  1. Con người sinh ra phải được yêu; nhưng tình yêu đó nếu được vun đắp từ những áng thơ thì sẽ rất lãng mạn.

    Trả lờiXóa