Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Một số bài viết về Phạm Quỳnh 2


ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC

N
hà báo lão thành Đặng Minh Phương tỏ ra có con mắt tinh đời khi trích dẫn đoạn văn sau đây: “Làm báo Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng được phụ cấp 600 đồng một tháng, món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ là để rồi lấy danh nghĩa chính phủ Nam triều đòi Pháp phải trở lại hiệp ước 1884. Vậy một người yêu nước như Phạm Quỳnh, sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua chỉ là làm một việc miễn cưỡng, trái với ý muốn, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn, chứ thực tình là một người dân mất nước, ai không đau đớn, ai không khóc thầm”. Đó là một đoạn văn có trọng lượng trích trong tác phẩm Đời viết văn của tôi của nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, phần ông viết rõ lý do vì sao ông viết nên thiên kiệt tác Kép Tư Bền: Đó là vì ông thương…Phạm Quỳnh! (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, năm 1971). Có điều đáng tiếc là nhà báo lại gán đoạn đó cho Phạm Tôn, khiến cho Phạm Tôn mang tiếng “đạo văn” khi ông viết: “ông Phạm Tôntrên báo Xưa và Nay tháng 9-2006 viết” trước khi đưa ra đoạn văn trên. Sau đoạn văn trên ông còn thòng thêm một câu hóm hỉnh: “(xin được lưu ý ông Phạm Tôn là ông Phạm Quỳnh từng nói nước ta còn mà!)”. Quả tình Phạm Tôn tôi thuộc thế hệ sinh sau đẻ muộn, không có hiểu biết, cũng không đủ tầm cỡ để viết những dòng nặng ký như thế… Nhưng nhân được người trên quan tâm như vậy, chúng tôi cũng xin bày tỏ vài điều chân thật, không phải ai cũng biết cả.
Phạm Quỳnh là con nhà nho, cháu nhà nho, chắt nhà nho, mà đều là nhà nho nghèo, loại hàn sĩ cả. Từ cụ Dưỡng Am Phạm Hội (trích Gia phả họ Hoàng Đạo- Phụ: bên ngoại, do rể: Hoàng Đạo Thành bái ghi, môn đệ tử: Tô Ngọc Huê thủ thức, tôn sinh: Ngô Văn Dạng phụng viết, Hoàng Đạo Thúy kính dịch từ chữ Hán) đến ông nội rồi cha đẻ đều dạy học mà không thu học phí, chỉ sống với những gì học trò đem biếu, khi thì thúng gạo, rổ khoai, lúc con gà, con cá, mớ rau. Chín tháng mất mẹ, bà nội và bà cụ tú cho hưởng thừa tự phải bế đi bú chực nhà hàng xóm. Rồi chín tuổi mất cha, gia đình khốn khó, hai cụ phải bòn những quả ổi, quả bồ hòn trong vườn nhỏ sau nhà đem bày bán trước cửa cùng mớ hàng xén lặt vặt để có cái cơm cháo qua ngày nuôi cháu khôn lớn. Sau đó lại lo cháu “Không có cái chữ thì làm sao sống được với đời”, bèn cho theo học trường tiểu học Pháp Việt mới mở ở phố Hàng Bông gần nhà (Hoàng Đạo Thúy:Phố phường Hà Nội xưa, Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2000). Chỉ vì ở đấy học không mất tiền. Rồi tiếp đến lại học Trường Thông ngôn (Collège Des Interprètes) ở bờ sông Hồng, cũng lại vì học ở đấy không mất tiền!
Nghèo khổ như thế lại ham học và có hiếu với hai bà cụ, Phạm Quỳnh chỉ mong cố gắng học để đổi đời, đền đáp ơn hai bà nuôi dạy. Mặt khác “Ông, cha Phạm Quỳnh có liên hệ mật thiết với các tổ chức Cần Vương, Phục Việt chống Pháp đương thời (…) Vì thế, không lạ gì chuyện cậu thanh niên Phạm Quỳnh đã nhiệt tình tham gia ủng hộ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia bãi khóa ngay tại Trường Thông ngôn, phản đối đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, bắt giam các sĩ phu yêu nước đến nỗi đã từng bị Pháp bắt giữ, năm mới 15 tuổi” (Mạc Kinh: Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh, trong tập Giải oan lập một đàn tràng, Cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, phát hành lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, 2001). Sau đó được thả ra vì thấy là người không thuộc tổ chức hội kín nào cả (Sự tình cờ của lịch sử đã khiến con thứ mười của Phạm Quỳnh là Phạm Thị Hoàn sau này lại lấy nhạc sĩ Lương Ngọc Châu cháu nội cụ Lương Văn Can vị chủ soái của Đông Kinh Nghĩa Thục).
Năm 1908, đỗ thủ khoa trường Trung học thuộc địa (Collège Du Protectorat) tức trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An, Phạm Quỳnh được tuyển vào làm nhân viên Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtrême – Orient). Tại đây do yêu cầu công việc, Phạm Quỳnh phải tự học Hán văn đến mức đọc và viết được văn chữ Hán. Trường Viễn Đông Bác Cổ là cả một kho tư liệu sách vở, “kho báu tri thức’ cho chàng trai hiếu học, yêu nước, thiết tha với lịch sử cha ông. Phạm Quỳnh đã tìm trong mớ giấy bản phủ bụi và tìm ra những áng văn thơ yêu nước. Ông đọc, chọn lọc trong sách Lệ ngữ Văn tập rồi dịch ra Pháp văn, đưa đăng trong tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ như tài liệu tham khảo lịch sử hai bài của Nguyễn Viết Lụy tế các tướng sĩ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Từ đấy hai bài này mới được người đời biết đến (Hoàng Đạo Thúy: Nhà họ Phạm Lương Đường và chủ bút Phạm Quỳnh, bài viết theo yêu cầu của Viện Văn học ngày 5-12-1992).
Từ 1913, hai mươi tuổi, Phạm Quỳnh đã thử sức trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh với những bài khảo cứu, bình luận văn học nghệ thuật. Đến 1917, mới 24 tuổi nhưng đã có thâm niên 9 năm công tác nghiên cứu viết lách, ông chớp thời cơ nhận làm chủ bút phần quốc ngữ tạp chí Nam Phong, giành lấy cho mình và những người cùng chí hướng, yêu nước, đặc biệt yêu tha thiết tiếng ta, có chỗ để thi thố tài năng, góp sức xây dựng nền quốc học, mở mang dân trí, tăng tiềm lực cho đất nước sau này. Trên tạp chí Nam Phong, ngoài những việc không thể không làm trong một tờ báo mà thực tế là do người Pháp chi tiền và điều hành, ông đã khôn khéo đăng những bài văn yêu nước của người xưa và cả người đương thời, những bài về lịch sử chống ngoại xâm,v.v… làm nên cả một bộ bách khoa thư về lịch sử và đời sống Việt Nam phong phú. Cũng từ đó tập hợp được lực lượng yêu quốc văn, yêu quý lịch sử nước nhà, tạo điều kiện cho biết bao thanh niên nâng cao hiểu biết về nhiều mặt đời sống, vun bồi thêm lòng yêu nước sẵn có trong họ.
Năm 1925 Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) rồi đưa về Hà Nội giam ở nhà tù Hỏa Lò, đem ra xét xử ở Hội đồng Đề hình là tòa án thực dân tàn bạo nhất thời ấy. Tất nhiên, kẻ đứng ra xét xử đều là người Pháp. Hơn nữa, dư luận người Pháp ở Đông Dương cũng như ở chính nước Pháp sẽ có tác động rất lớn, có thể nói là quyết định đối với vụ xử án này. Vì thế ông đã không phát biểu chính kiến trên Nam Phong, mà trên một tờ báo của Pháp có ảnh hướng rất lớn hồi bấy giờ. Hơn nữa viết trên báo tiếng Pháp thì tự do hơn, có thể trình bày hết ý mình, vì thời ấy báo tiếng Pháp không bị kiểm duyệt. Ông cho đăng trên tờ Indochine Républicaine bài lên tiếng công khai bênh vực Phan Bội Châu, yêu cầu khoan hồng cho nhà chí sĩ chỉ có “một tội” là “tội yêu nước như bất kỳ người Pháp nào yêu nước Pháp” (Chính Đạo:Hồ Chí Minh con người có huyền thoại, tập 2, 1925-1945, Văn hóa, Houston, Mỹ, trang 49, chú thích 8). Sáu tháng sau ngày bị bắt, 8 giờ 30 phút ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình xử vụ Phan Bội Châu. “Hội đồng Đề hình Pháp cho là: trong 8 tội đó có 6 tội đáng phạt đi đầy, 1 tội đáng khổ sai chung thân và một tội đáng tử hình (theo Bùi Đình: Vụ án Phan Bội Châu, NXB Tiếng Việt, Hà Nội, 1950). Tuy vậy, có lẽ vì sợ hậu quả của vụ án mà tới lúc này họ chưa thể lường được nếu xử tử hình Phan, nên vào phút chót sau một ngày xét xử, hội đồng này đã tuyên án Phan khổ sai chung thân (Nguyễn Quang Tô: Sào Nam Phan Bội Châu con người và thi văn, tủ sách Văn học, bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh Niên, Sài Gòn 1974).
Năm 1932, Phạm Quỳnh nhận vào Huế tham gia quan trường với ý nghĩ ngây thơ là có điều kiện để những điều mà trước nay mình chỉ có thể luận bàn trên trang giấy và bằng lời nói thì nay có cơ thực hiện được. Mười ba năm ông làm quan thì có tới hơn chín năm làm Thượng thư Bộ Học. Ông kiên quyết chủ trương người Việt phải học tiếng Việt đã, chống lại chủ trương thịnh hành thời ấy là cho học ngay tiếng Pháp từ vỡ lòng “vì là thần dân của Đại Pháp thì học tiếng Pháp sớm ngày nào hay ngày nấy, dù sao rồi cũng ra làm việc cho Tây”. Ông cố gắng rất nhiều, nhưng mới chỉ thành công ở mức bắt buộc phải học tiếng Việt đạt bằng Sơ học yếu lược mới được thi tốt nghiệp tiểu học.
Năm 1933 mới làm quan được một năm ông đã viết thư cho Lu-i Mác-ti (Louis Marty) là giám đốc chính trị tùng sự tại phủ toàn quyền Đông Dương, cũng là “bạn cũ” đồng sáng lập tạp chí Nam Phong, để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Lu-i Mác-ti can thiệp giảm án. Trong thư đề ngày 18-1-1933, Phạm Quỳnh nêu rõ ông (ở Huế) viết thư này để giới thiệu em vợ là ông Lê Xuân đến gặp Lu-i Mác-ti ở Hà Nội, trình bày một việc bà mẹ vợ Phạm Quỳnh yêu cầu ông nhờ Lu-i Mác-ti giúp đỡ. Đó là vụ một chiến sĩ cộng sản 18 tuổi tên là Nguyễn Công Nghi bị bắt ở Kiến An vì một vụ “âm mưu Cộng Sản”, đã bị tòa án Kiến An kết án tù chung thân và hiện nay đang bị giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, sắp bị đầy đi Côn Đảo, thậm chí đầy đi ngoài xứ Đông Dương. Anh này là em ông Nguyễn Công Kính, chủ hãng thuốc lào Giang Ký danh tiếng ở Hà Nội , một người giàu có, đáng kính và có vai vế trong xã hội, lại là người có ân nghĩa lớn với gia đình vợ Phạm Quỳnh. Ông trình bày sơ qua vụ này và đề nghị Lu-i Mác-ti can thiệp, còn gợi ý nếu không thể tha được (Vì ông tin là anh ta vô tội) thì cho đi tù ở gần Hà Nội hoặc ít nhất cũng là vùng Bắc Bộ, đừng bắt đi Côn Đảo hay những nơi quá xa xôi. Vì gia đình ấy, ông anh cả không có con chỉ trông vào anh ta kiếm con trai nối dõi, mà anh lại chưa có vợ; không được thăm nuôi thì gia đình rất lo lắng, v.v… Ông cố hết sức dùng tình cảm riêng thân mật lâu năm với Lu-i Mác-ti để xin xử nhẹ tay với người cộng sản trẻ này. Tư liệu này chúng tôi được đọc là do sau khi Lu-i Mác-ti chết, bà vợ thấy có bút tích của Phạm Quỳnh, đã gửi lại cho bà Phạm Thị Ngoạn, con gái ông cũng là tiến sĩ Xoóc-bon (Sorbonne), Pa-ri, tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction Au Nam Phong)
Ông Phạm Tuân con trai út Phạm Quỳnh sinh năm 1936, đến nay (2008) còn nhớ rất rõ và kể cho người viết bài này kỷ niệm khó quên thời thơ ấu, đặc biệt là những ấn tượng lạ lùng về những lần được thân phụ dẫn đi thăm “ông già điên” ở túp lều tranh bên bến Ngự. Năm ấy ông mới lên bốn.
Các buổi chiều, cơm nước xong, thường bác tài Mai hỏi: “Chú Miềng (chú mình, nói trại giọng miền Trung) có theo Cụ đi chơi không…Hôm nay Cụ lại đến “ông già điên đây”. Ông nhớ hồi đó không biết người ấy là ai nhưng gặp thì thấy hiền hậu, dễ thương, hay hỏi chuyện trẻ con dễ hiểu mà cũng dễ trả lời, nên ông thường bám xe đi theo cha luôn. Cha và ông già ăn mặc xuềnh xoàng, râu tóc dài, xơ xác thường vào trong nhà nhỏ to trò chuyện một lát rồi ra về. Vẻ thân mật lắm, nhất là lúc mới đến và khi sắp ra về. Cuối năm ấy ông già mất, ông Tuân mới nghe cha nói đó là Cụ Phan Bội Châu.
Ngày 24-12-1925, một tháng một ngày sau hôm xử án tại Hà Nội kết án khổ sai chung thân thì toàn quyền Va-ren (Varenne) vốn là Đảng viên Đảng Xã Hội Pháp ký quyết định “ân xá Phan Bội Châu. Tuy “được ân xá”, nhưng, thật ra ông bị giam lỏng ở bến Ngự (Huế), bị mật thám theo dõi, kiềm chế mọi hoạt động. Ông dựng một túp lều ở bến Ngự và sống ở đấy suốt 15 năm cuối đời. Nơi đây biến thành nơi tập trung của thanh thiếu niên và học sinh Huế, tới để yết kiến, chiêm ngưỡng vị anh hùng dân tộc. Nơi đây cũng thường lui tới một số công chức còn nặng tình dân tộc, sùng bái các vị anh hùng, vĩ nhân đã hiến trọn cuộc đời cho đất nước (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).
Biết cảnh sống khó khăn của Phan Bội Châu, nhiều người đã gửi ngân phiếu nặc danh giúp ông tiền bạc, nhiều đến nỗi Phan Bội Châu bị phiền hà. Ông đã phải buộc lòng từ tạ bằng một bức thư với lời lẽ chân tình tha thiết. Trùm mật thám Trung kỳ Xô-nhi (Sogny) đã bủa một mạng lưới mật thám dày đặc bao vây túp lều bến Ngự. Mà hồi ấy, theo như chính lời Phan Bội Châu nói (do Lạc Nhân, nguyên thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân ghi lại đăng trên báo Tiếng Dân năm 1933) thì: “Tôi không hề kêu ca, nhưng trong nhà nhiều miệng ăn, nào là các đồng chí đi đầy về đã quá già, không biết làm gì để sống, cũng phải tới đây chung sống với tôi, nào con cháu các đồng chí, kẻ chết chém, người chết trong lao, tôi phải nuôi dưỡng vì không biết bỏ cho ai bây giờ”. Trong số đó có Phạm Công Nguyệt con trai độc nhất của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, chưa từng được biết mặt cha. Anh được Phan Bội Châu nuôi cho ăn học tại trường Khải Định Huế đến đỗ tú tài triết học. (theo Nguyễn Quang Tô, sách đã dẫn).
Ngày 29-10-1940, Phan Bội Châu mất, thọ 74 tuổi. Mai táng trong chiều ngày kế tiếp, theo đúng di chúc của Cụ. Ngoài những người thường ngày gần gũi bên cụ, không mấy ai dám lai vãng, sợ ty Liêm phóng theo dõi rầy rà. Theo Nguyễn Quang Tô: “hàng trăm, ngàn câu đối, văn tế được gửi trực tiếp đến nhà hoặc đăng báo, hay truyền tụng miệng cho nhau nghe… tạo thành một bầu không khí bi hùng tràn ngập khắp Trung Nam Bắc. Một số người còn gửi tiền về tòa soạn báo Tiếng Dân nhờ lo xây dựng phần mộ.Lại có những người thuộc hạng “tai to mặt lớn” đã phải lén lút chui lòn cửa sau nhà Phan để được tới trước bàn thờ Phan dâng điếu lễ và tấm lòng kính mộ.”
Không biết trong số những người “gửi ngân phiếu nặc danh”, “gửi tiền nhờ báo Tiếng Dân”, “lén lút chui lòn cửa sau” có Phạm Quỳnh không? Tôi nghĩ, công bằng mà nói, khó có thể trả lời dứt khoát là không.
Bởi, chỉ cần xua đi lớp bụi thành kiến kì thị dầy đặc đã chôn vùi cuộc đời ông suốt hơn nửa thế kỉ qua, ta thấy ngay ÔNG QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC.
Những dòng tôi viết trên đây chỉ là nhân đọc bài của nhà báo lão thành Đặng Minh Phương mà nghĩ tới thôi, hoàn toàn không có ý trả lời, thảo luận hay tranh luận gì cả. Tôi viết chỉ là vì tâm đắc với L.T.S in trước bài ông là: “đánh giá công minh người và việc của quá khứ là việc khó. Nó cần rất nhiều điều kiện mà trước hết cần chỗ đứng nhìn, cần hiểu bối cảnh lịch sử và tư liệu lịch sử…Ngày nay chúng ta cần có thái độ cởi mở khoan dung, gạn lọc công bằng…nhưng cũng không được làm đảo lộn lịch sử, lờ mờ thật giả, đưa đến sai lệch nguy cơ cho lịch sử và cho cả hiện tại”
Ngày 8-8-2008
Phạm Tôn

ÔNG PHẠM QUỲNH QUẢ LÀ NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI NƯỚC (Bài số 2)

Phạm Tôn
S
au bài số 1 được bạn đọc đón nhận, chúng tôi thấy nên thuật lại thêm một số sự việc liên quan đến Phạm Quỳnh còn không ít người chưa biết rõ.
Năm 1922, Phạm Quỳnh sang Pháp với tư cách là tổng thư ký hội Khai Trí Tiến Đức do ông sáng lập, tham dự cuộc Đấu xảo Thuộc địa tổ chức tại Marseille. Ông từ giã cái búi tó củ hành, nhưng vẫn mang theo mấy bộ quốc phục và một “bản Kiều tùy thân” cùng một cuốn sổ tay nhỏ xíu.
Xong nhiệm vụ ở đấu xảo ông tranh thủ đi ngay Paris. Trong Pháp du hành trình nhật ký đăng liên tiếp trên báo Nam Phong, ngày thứ ba, 16/5/1922 ông ghi “Ngồi trên xe lửa mình đã đọc kỹ cái sổ kê những nhà khách sạn ở Paris in trong các sách Paris chỉ nam, anh em đã bàn nhau định vào trọ một nhà ở đường Vaugirard, vì trong sách nói rằng nhà ấy trông ra vườn Luxembourg cảnh trí đẹp lắm. Nhưng khi đến nơi bảo xe ô tô đi đến đường ấy số ấy thì chẳng thấy nhà khách sạn đâu cả, không biết là sách in lầm hay nhà đã dọn đi nơi khác rồi. Thế là mình rắp định một điều hỏng cả một điều, mà sự không trông hòng thời lại tới. Số là ông Ng.H.C là con một vị hưu quan ở Bắc kỳ ta, được tin anh em đến có ra ga đón, khi đi tìm trọ ở đường Vaugirard không xong, ông bèn dắt về chỗ trọ ông, nơi gọi là “Thế giới khách sạn” (Hôtel du Monde) ở đường Berthollet số 15. Thế là sang đất lạ lại được ở cùng người đồng quận cũng là một sự không ngờ”. (Phạm Quỳnh: Pháp du hành trình nhật ký. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, năm 2004)
Phạm Quỳnh không thể ngờ rằng, từ hôm ấy ông đã bị tên mật vụ Désiré theo dõi và báo cáo đều đặn lên cấp trên. Báo cáo ngày 16/6/1922, Désiré viết “Người An Nam Phạm Quỳnh đến từ Đông Dương đã bị sở cảnh sát Marseille chỉ điểm, từ ngày 16/5/1922 đã ở tại Hôtel du Monde, 15 phố Berthollet. Ông thuê một căn phòng trả tiền mỗi tháng 200 francs. Ông ta đăng ký vào sổ của khách sạn với nhân thân sau: Phạm Quỳnh, 29 tuổi, nhà báo. Sinh tại Hà Nội, đến từ Hà Nội.
“Ông đến Paris với hai đồng bào, cũng nói là đến từ Đông Dương, ở cùng địa chỉ là:
-          Nguyễn Văn Vi, 30 tuổi, sinh ở Hà Nội, thợ in.
-          Trần Lan Vi, 32 tuổi, sinh tại Hà Nội
“Từ khi tới Paris, ba người An Nam này có đồng bào tới thăm thường xuyên.
“Xin đặc biệt lưu ý là một người có nhận dạng ứng với nhận dạng của Phan Văn Trường.
“Họ thường ra ngoài và đôi khi đêm về nhà rất muộn.
“Tuần trước họ nói với chủ khách sạn là đi dự một cuộc họp, không giải thích gì thêm”.
“Ký tên Désiré” (Tư liệu lưu trữ tại Văn khố Bộ Ngoại giao Pháp, phần Pháp quốc hải ngoại, tại Aix en Provence, Pháp)
Trong cuốn sổ tay nhỏ bằng bốn ngón tay của Phạm Quỳnh năm ấy có ghi “Juillet, 13, Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins)” Và “Juillet, 16, Dimanche: Ở nhà. Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” Còn trên tạp chí Nam Phong khi đăng Pháp du hành trình nhật ký, ông viết công khai: “Thứ năm, 13 tháng 7 năm 1922 : (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta, thật là vui vẻ, thoả thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỉ niệm dân quốc…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội ở Paris thế nào.” Và “Chủ nhật, 16 tháng 7 năm 1922: Hôm nay, không đi đâu, ngồi hầm trong buồng viết mấy cái thư về nhà.
“Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đã đứng ngoài cửa cả. Người đồng bang ở nơi khách địa, không thể không gặp nhau, gặp nhau không thể không nói chuyện nước nhà, lòng người ai chẳng thế, tưởng cũng chẳng là sự phi phạm gì.” (Phạm Quỳnh: sách đã dẫn)
Chắc chắn tên mật vụ Désiré có theo dõi hai cuộc gặp gỡ này, không biết hắn đã báo cáo thế nào… Nhưng còn một lần gặp gỡ nữa, có đến 11 người, do các ông Lê Thanh Cảnh và Trần Đức tổ chức vào một buổi cơm chiều thì chắc chắn mật vụ Désiré không biết vì không vào nổi khách sạn Montparnasse Paris. Trong số khách dự có Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Cao Văn Sến. Sau này Lê Thanh Cảnh đã thuật lại cuộc họp mặt của “5 nhân vật phi thường ngồi chung lại một bàn” trong hồi ký “Rời mái tranh trường Quốc Học”,  bản thảo gửi đăng Đặc san số 5 của Hội Ái hữu cựu học sinh Quốc Học. Cả năm vị đều trình bày chủ trương cứu nước của mình. Đây thật sự là cuộc họp mặt bàn việc nước, thẳng thắn, sôi nổi, có khi gay gắt, nhưng ai cũng một lòng thiết tha yêu nước dù cho quan điểm có khác nhau, thậm chí chống đối nhau.
Có lẽ ít nhất qua ba lần gặp mặt mà chúng ta còn biết đó và mười mấy năm đọc Tạp chí Nam Phong mà tháng 8/1945, sau khi nghe ông Tôn Quang Phiệt từ Huế ra báo : “Phạm Quỳnh đã bị xử mất rồi” thì cụ Hồ ngồi lặng người một lúc lâu rồi nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được lợi ích gì?…Tôi đã từng gặp cụ Phạm ở Pháp…Đó không phải là người xấu. (Tư liệu do nhà văn Sơn Tùng cung cấp). Và khi nhà thơ Huy Cận tham gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại có nghe dân chúng xì xào nhiều về chuyện cụ Phạm bị xử tử hình, về tới Hà Nội, được gặp Bác, ông có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm lấy tay ông và nói: “Đã lỡ mất rồi”. Trong bài Phạm Quỳnh – Chủ bút báo Nam Phong, giáo sư  Văn Tạo cũng xác nhận là nhà thơ Huy Cận đã thuật lại với ông câu “Đã lỡ mất rồi” của Hồ Chủ tịch (Tạp chí Xưa và Nay số 267, tháng 9/2006)
liệu số 313 (Phạm Quỳnh) báo cáo của mật vụ Jolin ngày 21/12/1922 từ Marseille viết:   “Tôi vinh dự gửi tới ngài bản dịch một bài báo ký tên Phạm Quỳnh đăng trong Nam Phong, tờ báo Bắc kỳ mà ông ta là chủ bút”.
Trong bản dịch, Jolin nhấn mạnh những đoạn Phạm Quỳnh viết là tại khu Đấu xảo Thuộc địa ở Marseille khu vực Đông Dương “có một lâu đài lớn xây dựng theo kiểu Angkor, thực sự là vĩ đại. Để phục chế tòa lâu đài này đã phải tốn rất nhiều công và của. Nội thất thì toàn bằng gỗ, bên ngoài thì quét vôi. Thật tiếc vô cùng vì sau 6 tháng đấu xảo sẽ phải hủy bỏ. Hàng triệu đồng đã tiêu phí vào việc này và sẽ tan thành mây khói và tung theo gió bốn phương, lợi ích của việc tuyên truyền thuộc địa này có bõ công không?” Một đoạn khác, Jolin lại nhấn mạnh bằng cách gạch dưới “Tất cả những người thợ và nhân viên ở tại đấu xảo đều than phiền về thức ăn và nơi ở. Quả vậy, những lán trại dành cho người An Nam không có gì là hấp dẫn. Về cái ăn thì còn phải mong đợi nhiều. Người ta cho rằng tất cả những việc này chỉ là tạm thời vì những nhân viên chịu trách nhiệm tổ chức đấu xảo đã ngập đầu trong biết bao lo toan khác cho nên họ không có thời giờ vật chất để chăm sóc cho người An Nam. Mong rằng những cái đó chỉ là tạm thời, bởi lẽ thật là thảm thương. (…) Nhiều phái viên trước khi đi sang Pháp nghĩ rằng đời sống ở bên đó rất đắt đỏ, họ sẽ sống ở đấu xảo để tiết kiệm tiền, nhưng sau khi thấy được cảnh này, họ đã không thể ở lại đấy đến một giờ.
“Sự thực là với tiền người ta có thể làm tất cả, chỉ cần biết là họ có biết cách tiêu tiền có ích không.” Cuối bản báo cáo, Jolin viết “những lời gièm pha của Phạm Quỳnh chỉ trích oan uổng và gây ngờ vực đối với sự quản lý chung, đặc biệt là đối với ban Đông Dương ở Đấu xảo Marseille (…) Tôi tin chắc chắn rằng, thưa ông Toàn quyền, là Phạm Quỳnh như tôi đã nêu lên trong những bức thư số 170, 200, 203, 204 phải được coi là đáng ngờ nếu không muốn nói là kẻ bị tình nghi”. Mật vụ Jolin còn phụ thêm một báo cáo đặc biệt về “Cuộc trò chuyện của Phan Châu Trinh với Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh”, nhưng trong đó chỉ dẫn lời tranh luận với nhau của Nguyễn Văn Vĩnh và Phan Chu Trinh, không thấy dẫn lời nào của Phạm Quỳnh (Tư liệu của Văn khố đã dẫn)
Đó là những nhân viên cấp thấp nhất của nhà cầm quyền Pháp đã “quan tâm” đến Phạm Quỳnh như thế. Còn các cấp cao thì sao?
Chúng tôi có trong tay tài liệu 14-PA-1/8 của Khâm sứ Trung kỳ J.Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux viết từ Huế ngày 15/10/1944, trong đó y ca ngợi Phạm Quỳnh tài năng xuất sắc hơn tất cả các quan lại trong triều cho nên đang bị kèn cựa, kỳ thị và đề nghị: “Giữ vững ông ta trong vai trò của mình là Thượng thư Bộ Lại” và “Tóm lại là đứng vững trên mớ hỗn độn”, kèm theo là hai chữ “Phải!!”, “Phải!!” ghi bằng mực đỏ, do chính tay Toàn quyền Decoux phê, tán thưởng việc đề xuất ấy. Tiếp sau đó là báo cáo ngày 8/1/1945 cũng của Khâm sứ Trung kỳ Haelewyn gửi Toàn quyền Đông Dương J.Decoux và Đại tướng Mordant, trong đó viết : “Một lần nữa, viên Thượng Thư Lại Bộ (Phạm Quỳnh) lại cực lực công kích việc trưng dụng thóc gạo cho Nhật Bản… Ông (Phạm Quỳnh) đòi hỏi chúng ta, trong thời hạn ngắn nhất, thực thi lời hứa thể hiện sự khai phóng lũy tiến trong một tiến trình rõ rệt, và chúng ta phải cam kết trả lại cho Triều Đình những biểu tượng của quyền uy tối thượng quốc gia bao trùm Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh đe dọa khuyến khích các phong trào phản loạn, nếu trong những tháng tới chúng ta không cam kết thương thảo với Hoàng Đế Bảo Đại một quy chế chính trị mới, thay chế độ Bảo Hộ bằng một thể chế “Thịnh Vượng Chung”, trong đó những chức vụ chính được giao cho người bản xứ. Nói một cách khác, Phạm Quỳnh đòi chúng ta ban bố chế độ tự trị cho Trung Kỳ, Bắc Kỳ, bãi bỏ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và tạo dựng một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài về điểm với bề ngoài lịch sự và chừng mực, ông này là một người quyết liệt tranh đấu cho Việt Nam độc lập, và chúng ta không nên hy vọng làm dịu tinh thần ái quốc của ông ta, một tinh thần chân thành và không hề lay chuyển, bằng cách bổ nhiệm ông vào một chức vị danh dự được hưởng nhiều bổng lộc. Cho đến nay, ông là một đối thủ hòa hoãn nhưng quyết liệt của nền thống trị Pháp…Chúng tôi xin chờ chỉ thị của Ngài”. (Trích bản dịch của Đoàn Văn Cầu trong Dẫn Nhập tập Phạm Quỳnh: Hành Trình Nhật Ký, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres, Pháp, 1997).
Trong bài cùng nhan đề trên Hồn Việt số 15 có viết là năm 1933 mới làm quan được một năm, Phạm Quỳnh đã viết thư cho Louis Marty là Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền Đông Dương, cũng là ”bạn cũ” đồng sáng lập Tạp chí Nam Phong để bênh vực một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, nhờ Louis Marty can thiệp giảm án. Thì cuối năm đó, ngày 30/12/1933 ông lại viết cho Marty một lá thư “chúc mừng năm mới”, trong đó có những dòng tâm tình: “Về phần riêng tôi, như thế là số mệnh đã an bài. Tôi là người của chuyển tiếp, vì vậy, sẽ không bao giờ được người đời hiểu mình. Chuyển tiếp giữa Á Đông và Tây Âu, giữa quá khứ và tương lai, giữa một trạng thái chánh trị sản phẩm của xâm lăng và đương nhiên là phải hư hỏng ngay từ nền tảng, và một nền trật tự mới không thể nhất đán mà thành tựu, khả dĩ biết tôn trọng phẩm cách của con người. Sống giữa đầy rẫy những mâu thuẫn như thế, cố gắng dung hòa các mâu thuẫn đó, với hoài bão thực hiện một chương trình tiến hóa hợp tình hợp lý khả dĩ đưa đến tình trạng hòa hợp toàn diện; dĩ nhiên là tôi phải đương đầu với những ngộ nhận đủ loại.
“Tôi tự an ủi và tin tưởng mãnh liệt ở vai trò cần thiết của mình. Vai trò đó hiện nay chỉ mang lại cho tôi những “đắng cay”, nhưng một ngày kia sẽ có thể tiến tới “vinh quang”
“Dĩ nhiên là tôi rất có thể sống ẩn mình trong một “tháp ngà”, tự mãn với cuộc đời êm dịu thanh bình theo quan niệm của nhà hiền triết hay học giả mà đó cũng là lý tưởng của lòng tôi. Nhưng tôi thiển nghĩ có bổn phận sống ra ngoài khuôn khổ đó. Tôi đã lầm? Hay tôi đã có lý?
“Và một cuộc phiêu lưu đã đến với tôi.
Là một nhà ái quốc An Nam, tôi yêu nước với tất cả tâm hồn: người ta lên án tôi phản bội Tổ quốc, vì tôi đồng lõa với xâm lăng và phục vụ xâm lăng!
“Mặt khác, là bạn chân thành của nước Pháp: người ta lại trách tôi khéo léo che đậy một ý thức quốc gia khe khắt và bài Pháp sau một tấm bình phong thân Pháp!
“Và trường hợp của tôi làm ai nấy ngạc nhiên. Người ta cố tìm hiểu giải thích, bằng đủ mọi cách, mà vẫn không thể hiểu.
“Có lẽ một ngày kia người ta sẽ hiểu, khi một thỏa hiệp được chào đời có thể hòa giải tinh thần quốc gia An Nam và chánh sách thuộc địa Pháp.
“Tôi tin sự hòa giải có thể thực hiện được. Nhưng trong khi sự hòa giải đó chưa được thực hiện, cuộc phiêu lưu của tôi không tránh khỏi trở nên bi đát”.
“Có lẽ chăng, đó chẳng phải là cuộc phiêu lưu của riêng tôi. Nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cá nhân, để trở nên của cả một thế hệ, một thời đại” (Phạm Thị Ngoạn: Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong, nguyên tác viết bằng tiếng Pháp, bản dịch của Phạm Trọng Nhân, Nhà xuất bản Ý Việt, Yerres, Pháp, 1993)
Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước.


VỀ NGÀY “ỦY BAN KHỞI NGHĨA THUẬN HÓA MỜI PHẠM QUỲNH RA LÀM VIỆC”

ĐỂ RỒI “ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI”

Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Lời dẫn của Phạm Tôn: Chúng tôi đã đăng bài Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất Tất Nhiên” của Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và được đông đảo bạn đọc ở trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh, khen ngợi, truyền cho nhau đọc…
Kỳ này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi cho một bài mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật đi lật lại vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện sự tin tưởng vào lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.
Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.
*
*      *
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Phạm Quỳnh “ở nhà”, không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù chính phủ của ông Kim gồm phần lớn các bộ trưởng là những người yêu nước, ghét Pháp, cũng không ưa Nhật.
(…)
Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn “nghỉ việc”, để chăm lo vào đường văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu tình, ông chẳng những không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và may cở đỏ sao vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người yêu Tổ Quốc – theo cách của ông – đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam – đấu tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v… Và cũng biết mình chưa nắm được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin) vào suy nghĩ của mình, không lường được những gì sẽ xảy ra, chủ quan không chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ.[1]
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha[2] hạ cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá cờ rộng chừng 100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước núi Ngự Bình, trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.
Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.-
Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan Hàm sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế-NVK chú) nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ[3] và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa ông Phan Tử Lăng[4] trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”


“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra, ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.

Phần cuối tập tư liệu 10 trang do chính tay Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn Tỉnh  ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do Thiếu tướng viết.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh-N.V.K) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”.[5]
“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó giao cho anh Nguyễn Trung Lập[6] đưa họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài[7].
Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An. Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ, vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm Quỳnh ở đâu? (nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”
Trong khi đó, cũng ngày 23 “sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Chiều, người qua sông Hồng ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha ở làng Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)[8]”. Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo8. “Chiều, người đi ô tô vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng Ngang”8. Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả những đảng phái, những người có danh vọng”8
Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền, dành thời gian soạn Tuyên ngôn độc lập. Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người[9] thay chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm[10]
Trong đêm 23 tháng 8, chính phủ cách mạng lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn chính phủ ta[11]
Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, chưa  rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh không? Và Người có kịp căn dặn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế tìm hiểu hoặc đến thăm Phạm Quỳnh?
Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Ngày 30, Trần Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không được. Vì, có thể là những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là “có dấu hiệu Pháp liên lạc với Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc là có báo tin về Hà Nội, nên ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại), Hoàng Hữu Nam đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt”[12] thì Bác đã nói ngay “Bất Tất Nhiên”.[13]
Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.
Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945[14], theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành lập vào ngày 1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An[15]. Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp, leo lên tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn tồn nói: Mời các ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ, rồi dùng ca nô lên bờ sau. Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo, giương buồm, hướng biển khơi mà chạy.[16] Có thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?
Báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”[17].
Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu. Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hay ông Hoàng Anh – phụ trách chính trị đại diện Đảng bố trí trong chính quyền – ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa.
Theo tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào cửa Thuận An ngày 6 tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có thể tiếp tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm nhảy dù “Phạm Quỳnh ở đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm Quỳnh làm “phiên dịch” hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi” (và “không bao giờ trở về nữa”), ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời, sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước – có chăng là chưa thuận theo thời đại – ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những người Cộng sản Việt Minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát nhân!” (Quân giết người).
Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết một học giả (chú ý: Bác không nói người mà nói học giả) như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ Cụ) ở Pháp. Đó không phải là người xấu”[18]
Trở lại với thông báo của Việt Minh Trung Bộ, ta có thể đặt các câu hỏi sau đây:
a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7) tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?
b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”. Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa phương nào? Có được chính phủ cho phép?
c) Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao nhiêu? Ai là quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v… và v.v…)
d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh còn dựa vào thế lực Pháp (…) bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy, khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được bao nhiêu “tài sản”, vàng bạc, v.v…? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của thiếu tướng Phan Hàm: “Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng có tài sản gì…( ngoài khẩu súng săn)? Và nếu thu được “tài sản” liệu có thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?
đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:
1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa là sau khi nước ta tuyên bố độc lập, có chính phủ rồi, hệ thống chính quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy ban Khởi nghĩa?
2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa – sự thật đã có hay chưa? Ai là chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9, sắc lệnh số 33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa án Quân sự sẽ xử tất cả những ai có hành động phương hại đến nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Những quyết nghị của Tòa án Quân sự sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án –NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng tôi nhấn mạnh – NVK), cần có thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm – NVK chú) nếu họ muốn và phải được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình – NVK chú) thành vô giá trị”.
Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao đến ngày 9 tháng 12 cùng năm, Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án – một việc đã làm cách đó hơn ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?
Phải chăng đây là một “tờ trình” cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết quân luật” đã qua, việc “kết án tử hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng cần nói thêm là khó có thể tránh…Tuy nhiên, nước nhà đã độc lập, đã có chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội họp…không bị xâm phạm thư từ, tài sản, càng không được xâm phạm tính mệnh). Nhưng những người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, chịu trách nhiệm trước dân lại vô tình (hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào uy tín của cách mạng, tự tiện quyết định mà không cần xin phép, không báo cáo…Họ chủ trương (có hay không?) làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ, mà cần xem xét sự việc này như là một “di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ 1930 – 1931 còn sót lại, với “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những “nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”.[19]
Tạp chí Tri Tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bài Cuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh- NVK chú).
Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói: “Trong chính phủ lâm thời có cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng có, nông dân cũng có, công nhân cũng có (chú ý: Bác không nói Việt Minh – Cộng sản – Dân chủ – Quốc Dân đảng – NVK chú)… Lúc này bất cứ người nào miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể phụng sự quốc gia, Tổ quốc”[20]
Chắc chắn là vẫn còn những nhân chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được nhiều vụ việc – trong đó có “vụ Phạm Quỳnh.”
Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi mà vẫn “lỡ”[21]. “Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô lệ, mỗi người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự cống hiến cho Tổ quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc, “lỡ” để mất đi “một học giả”… khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần những “học giả” như thế…
Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.
Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ mai sau cũng “mờ mờ” theo[22]
N.V.K

[1] Xin nói rằng bộ phim Ngọn nến hoàng cung, dù là phim “tiểu thuyết lịch sử” (do đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng tác” ra  quá nhiều chi tiết-sự kiện phi lịch sử – sai lệnh về cách ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2] Đặng Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại vương”, vua đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, thiếu tướng Cục Tình báo, đã mất.
[3] Võ Quang Hồ, thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TpHCM. Điện thoại số: 3996 7419
[4] Phan Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được chính phủ Trần Trọng Kim giao “Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của chính phủ”, trực tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] liệu viết tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6] Trung đoàn phó 84 – Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà 50- đường 40 – phường Thảo Điền – Quận 2 – Tp.HCM. Điện thoại số:  3512 5778
[7] Theo bài thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, Tp.HCM. Điện thoại số: 3844 7396
[8] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285….
[9] Theo hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn chính phủ lâm thời từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một tiểu đội Giải phóng quân đi theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy dù xuống Huế, tên Pháp vừa nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh. Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều tên tay sai của Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10] liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không được báo cáo). Bác viết thư chứ không đánh điện, có thể là một cử chỉ coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn, Lịch sử Việt Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340)
[12] Nhà văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách Trường Thanh niên Tiền tuyến- Huế, trang 242. Đoàn Huyên, thiếu tướng đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: 7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TpHCM. Điện thoại số: 3844 6322
[16] Trong hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17] Lưu tại thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi, “Việt Gian đại bợm” thế nào? Thông tin về con người này còn quá ít
[18] liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ khử mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là ông Tôn Quang Phiệt cũng không đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương pháp) tiến hành vụ xử. Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19] Trong Cách Mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ “xử bắn”, “bắt giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ, nhiều quan Tổng đốc, Án sát… do “đoàn thể” quán triệt đường lối của Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20] Cuối năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả lời các nhà báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới. Đảng ấy có tên gọi là Đảng Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài Đã gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành tích”, chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy mà cũng đã được công chúng ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá, xác định vai trò của Phạm Quỳnh – người có công lớn với văn hóa nước nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch sử còn công bằng không? Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa hề có môn lịch sử?

Mấy điều “giám định và bổ sung tư liệu

Phạm Tôn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này, Phạm Tôn tôi viết và gửi đến Tổng biên tập tạp chí Hồn Việt ngày 30/11/2008, tức là sau khi tạp chí đã tuyên bố kết thúc cuộc thảo luận, cho nên không được đăng. Sau đó, chúng tôi còn gửi cho Tạp chí Nghiên cứu Văn học thuộc Viện Văn học Việt Nam. Đây là nơi Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn từng công tác nhiều năm và cũng từng là viện trưởng một thời gian không ngắn. Chúng tôi nhận được điện thoại của một cán bộ lãnh đạo tạp chí báo là đã nhận được và đã đọc bài của chúng tôi. Khi chúng tôi cho biết ý định gửi bài chỉ là để có thông tin hai chiều, không dám nghĩ là bài sẽ dễ dàng được đăng, thì vị cán bộ đó tỏ ý hài lòng vì chúng tôi đã thông cảm với “khó khăn tế nhị” của tạp chí trong trường hợp này.
Hôm nay, để nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật như tinh thần các nghị quyết của các Đại hội Đảng, nhất là từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ X, chúng tôi tin chắc chắn là đại hội XI của Đảng sẽ càng đi sâu hơn vào các vấn đề còn “treo” hàng mấy chục năm nay cũng theo tinh thần đó, cho nên đăng bài này, kèm theo là bài của chính giáo sư Nguyễn Văn Hoàn để bạn đọc có điều kiện hiểu rõ vấn đề đã rất cũ (“treo” hơn 60 năm rồi…) này hơn. Ngoài ra còn thêm bài Kỷ lục gia số 2: Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, người tìm ra tội phản quốc lớn nhất, hiện hành của Phạm Quỳnh, của tác giả Dân Thường, đã đăng trên Blog PhamTon tuần 5 tháng 8 năm 2009.
—o0o—
Cuộc “Trao đổi – Ý kiến về trường hợp Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh” mở đầu trên Hồn Việt số 14, đến số 17 thì kết thúc, vẻn vẹn có bốn số báo. Trong Lời kết cho một cuộc thảo luận, Hồn Việt viết “với bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn – Nguyên phó viện trưởng Viện Văn học, chúng tôi tạm kết thúc (…). Cuộc trao đổi đã diễn ra một cách dân chủ, thiện chí với những ý kiến sâu sắc. Vấn đề, theo chúng tôi như thế là đã rõ” (Hồn Việt 17 – Tháng 11/2008). Nhưng, có thật là đã rõ không?
Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn viết trong bài trên “Tháng 7 năm 2008 tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh nhà Chí Sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo (…). Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi đọc bản tham luận của tôi đã hỏi:
“- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được trót lọt, rồi ông sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cụ đồng liêu Bùi Bằng Đoàn thì đến nay, chúng ta nói về ông có khác không?
“Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế! (Chúng tôi nhấn mạnh-PT).”
Có một người đã cố “tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế!”, đồng thời cũng đưa ra một chữ nếu mà giáo sư đã cho là thiếu căn cứ. Đó là Trần Thanh Đạm. Trong bài Mấy ý kiến về nhà chính trị và nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892-1945) đăng trong Hồn Việt 15 (Tháng 9/2008), ông viết “có lẽ điều đáng ghi nhận nhất của ông là tuy làm quan cao chức trọng như vậy cho chế độ thực dân phong kiến, song không nghe nói ông có phạm tội gì làm hại những người yêu nước và cách mạng như những tên tay sai thô bỉ và độc ác khác. (…) ông vẫn còn giữ được ít nhiều phong độ trí thức, nhiều người chê trách ông song cũng nhiều người kính nể ông. (…) Cuối đời ông diễn ra trong bi kịch và kết thúc trong thảm kịch. (…) Lịch sử ở đây công minh song cũng hơi tàn nhẫn.
“Điều đáng tiếc là cái chết của Phạm Quỳnh. Quả là ông đã gặp một tai nạn. Ông là nạn nhân đáng tiếc của tính tự phát lịch sử, kể cả lịch sử cách mạng. (…) ngoài ý muốn của các nhà cách mạng chân chính. Tiêu biểu là thái độ và tình cảm của Bác Hồ đối với ông được người đương thời làm chứng và thuật lại. Có nhiều chứng cứ và chứng nhân, song tôi chú ý lời kể của nhà thơ Huy Cận khi từ Huế trở về gặp Bác, báo cáo với Bác về chuyện Phạm Quỳnh gặp nạn ở Huế: “Bác thở dài nắm tay tôi và nói “Đã lỡ mất rồi!””. Quả đúng là tấm lòng của Bác và cũng là chính sách của Bác. Đồng thời và đồng liêu với Phạm Quỳnh còn có bao nhiêu nhân vật, nhân sĩ của chính quyền Nam triều khác như: Thái Văn Toản, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Vi Văn Định, Ngô Đình Diệm và bao nhiêu người khác nữa nhất là vị hoàng đế đương thời là Bảo Đại, chưa nói đến các vị như Bùi Kỷ, Phạm Khắc Hoàng, Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Hoàng Xuân Hãn trong chính phủ Trần Trọng Kim. Có ai bị cách mạng kết án hay xúc phạm gì đâu, nói chi đến xử tử hình. Rõ ràng là Phạm Quỳnh gặp tai nạn, tai họa rất đáng tiếc.
“Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Phạm Quỳnh nếu (chữ này giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã khuyên không nên dùng-PT) không gặp tai nạn không may ấy mà còn sống đến sau cách mạng thì với tài năng, tấm lòng và phẩm chất trí thức cá nhân của ông, với chính sách đoàn kết rộng rãi của Bác Hồ, nếu không tham gia cách mạng và kháng chiến, không tiếp tục đóng góp cho văn hóa học thuật, thì ông ít nhất cũng được sống an toàn, yên ổn như một người Việt Nam bình thường, như bao người khác. Riêng tôi tôi tin tưởng ông có thể như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Thái Văn Toản, Vi Văn Định. Chứng cớ là gia đình ông các con ông đều đã là những chiến sĩ yêu nước, những hiền tài giúp nước như Phạm Khuê, Phạm Tuyên, các con khác tuy ở nước ngoài song tôi không hề nghe có lời nói hay hành vi chống lại tổ quốc hay cách mạng vẫn một lòng trung với nước, hiếu với dân, dù rất đau đớn vì sự tử nạn của người cha thân yêu, song không hề bị kẻ địch và bọn xấu mua chuộc, lợi dụng, vẫn hy vọng có ngày chiêu tuyết cho cha. (…) Hơn 60 năm nay, ông là một câu hỏi lớn, một mối hồ nghi trong dư luận và nhận thức của bao nhiêu người ở bên này hay bên kia chiến tuyến. (…) cách mạng khó giải thích thanh minh, phản cách mạng muốn khai thác lợi dụng. Nỗi đau của gia đình ngày càng lớn vì sự oan khuất của ông. (…) Không nhập nhoạng biến xấu thành tốt, biến tội thành công, đảo điên chính tà, lẫn lộn phải trái, song đối với những nhân vật lịch sử có những số phận bi kịch như Phan Thanh Giản thế kỷ XIX, Phạm Quỳnh thế kỷ XX, thiết tưởng cần có sự đánh giá lại một lần nữa để thể hiện tấm lòng của lớp người đi sau đối với lớp người đi trước. (…) chúng ta mong mỏi sang thế kỷ XXI tinh thần Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh không chỉ bao trùm lên tất cả những người còn sống mà cũng hòa giải được cả những người đã khuất, nhất là những người cùng chịu những đau khổ, hy sinh, tổn thất do tai họa chung của dân tộc mà thủ phạm là các thế lực tham lam độc ác từ bên ngoài gây ra cho chúng ta từ thế kỷ XIX và vẫn chưa buông tha cho chúng ta cho đến thế kỷ XXI”
Đúng là lịch sử đã diễn ra như nó đã diễn ra. Nhưng đó có phải là tất yếu, hợp lý, hợp pháp, hợp lòng dân không thì người đời-người đương thời và người muôn đời sau- đều có thể phán xét, có thể kết luận khác hẳn những gì đã được viết, thậm chí đã được ghi vào lịch sử
Vì sao giáo sư Nguyễn Văn Hoàn cứ cố giữ cái lập luận người dân đã chán nghe hơn 60 năm qua như thế? Có thể vì giáo sư kiên trì quan điểm “A.Q không phải là người lương thiện, chứng cớ là y đã bị bắn. Vì rằng: nếu là người lương thiện thì sao lại bị bắn kia chứ” (Chúng tôi nhấn mạnh-PT) như văn hào Lỗ Tấn đã viết trong phần kết thiên kiệt tác A.Q Chính truyện (Lỗ Tấn: Gào Thét, NXB Văn Hóa Viện Văn Học, Hà Nội, 1961, bản dịch của Trương Chính). Và “dưới ánh sáng” của quan điểm ấy, trong bài viết dài nhất cuộc thảo luận này, Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh, giáo sư cố gắng tìm ra thêm các tội mới gán cho Phạm Quỳnh. Căn cứ vào bài báo ta thấy các tội mới ấy như sau:
  1. “Tội” thứ nhất: “Tóm lại theo Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba thì từ sau đảo chính Nhật ngày 19/3/1945, Phạm Quỳnh đã dứt khoát rời bỏ chính trường, an nhiên ngâm bài Quy khứ lai từ, trở lại vui thú bút nghiên! (…) Ngay bản thân Phạm Quỳnh cũng tuyên bố như thế. (…) có một nhà báo lặn lội từ Hà Nội vào Huế (…) để đến biệt thự Hoa Đường ở An Cựu phỏng vấn Phạm Quỳnh. Hỏi: Chúng tôi muốn biết rồi đây cụ có hoạt động về chính trị nữa không, hay trở về với văn học giới? Đáp: Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời bỏ dở ” (…) Phạm Tôn để chứng minh Phạm Quỳnh là “người nặng lòng với nước” đã dùng lại tư liệu và lập luận (Phạm Tôn không dùng lập luận-PT) của Nguyễn Phúc Bửu Tập (…) để chứng minh “tấm lòng son” của Phạm Quỳnh (…) dẫn ra bản báo cáo mật của Haelewyn, khâm sứ Trung kỳ gửi cho toàn quyền Decoux tố cáo Phạm Quỳnh đã trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để cung ứng cho Nhật và vẫn kiên trì đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc kỳ cho Nam triều nhưng cả hai đều bỏ qua ý kiến này trong bản mật báo “Phạm Quỳnh sẽ có thể trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á”. Sự thật là cả Nguyễn Phúc Bửu Tập và Phạm Tôn đều trích nguyên văn bản mật báo, không bỏ qua ý kiến này.
Giáo sư còn dẫn việc trong cuốn Phạm Quỳnh Tuyển tập và Di cảo xuất bản ở Paris năm 1992, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Phạm Quỳnh “bài thứ 6, nhan đề Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945) cố ý bị bỏ quên” và ý kiến của Nguyễn Văn Trung, Phạm Khắc Hòe để đi đến kết luận là “tóm lại, việc quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc và câu kết với nhau là nguyên do đầu tiên đưa đến việc Phạm Quỳnh bị bắt giữ. Sau đó việc quân Pháp tìm cách trở lại Huế thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương của chính phủ De Gaulle lại khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc bắt giữ đó”.
Sự thật có khác với điều khẳng định trên của giáo sư. Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945) đăng toàn văn thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa, phần nói về tội của Phạm Quỳnh có ghi “Mặc dù chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9/3/1945 nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta”. Ngay từ năm 1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương cũng không nhận định là “quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc câu kết với nhau” như giáo sư khẳng định 63 năm sau khi sự việc xảy ra
Còn việc trong Phạm Quỳnh, Tuyển tập và Di cảo không có bài số 6 thì bà Phạm Thị Hoàn, người giữ bản quyền tập sách đó, năm 1993 về thăm nhà có nói với tôi chỉ vì “bài đó hoàn toàn không có tính văn chương, chỉ như là một đoạn nhật ký ghi lại tỉ mỉ sự việc mà thôi”. Chúng tôi có trong tay bản photocopy toàn bộ tập di cảo đó, viết trong một quyển vở bìa trước có in hình vua Bảo Đại, bìa sau in hình một con rồng ôm chặt lấy quả địa cầu. Bài số 6 nguyên tên là Đêm ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, sau Phạm Quỳnh xóa đi và viết lại lên trên là Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945) viết từ trang 18 đến trang 26. Trong bài Phạm Quỳnh kể lại sự việc xảy ra với mình từ khoảng 9 giờ tối hôm mùng 9 ông đang cùng con trai là Phạm Bích nói chuyện tại tư thất Bộ Lại đến 10 giờ đêm ngày mùng 10 “các cụ Cơ mật lại họp ở Bộ Lại để tiếp quan đặc sứ (Yokohama-PT) và thảo tờ  Tuyên bố Độc lập”. Bài viết kết thúc bằng câu “đều là những việc quan trọng, thuộc về lịch sử, tôi được may mắn dự vào, đóng một vai chính, sau này sẽ có dịp thuật tường”. Trong bài cũng ghi rõ khi Nhật đảo chính thì nhà vua và hoàng hậu còn ở Quảng Trị đến khuya đêm hôm ấy mới về, cho nên người tiếp phó lãnh sự Ishida và một võ quan nữa là Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại, người giữ chức vụ cao nhất sau nhà vua. Các bài khác trong tập Hoa Dường Tùy Bút – Kiến văn cảm tưởng I có tên như sau, tất cả đều mang tính văn chương, khác hẳn bài số 6: 1, Thế thái nhân tình; 2, Muốn sống… 3; Chỉ buộc chân voi; 4, Văn học, chính trị; 5, Vô duyên; 7, Con người hiểm độc; 8, Anh chàng khoác lác; 9, Lão Hoa Đường, Thiếu Hoa Đường; 10, Tư tưởng Keyserling; và 11, Cô Kiều với tôi (bài này viết dở dang ở cuối trang 48). Như vậy chứng tỏ không có lý do gì để cho rằng bài đó cố ý bị bỏ quên vì là bằng chứng về việc “Phạm Quỳnh là nhân vật chính mà Nhật tìm đến để liên lạc, đề nghị thương thảo để thuyết phục nhà vua cộng tác với Nhật” như Nguyễn Văn Trung khẳng định và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dẫn lại đã nhấn mạnh thêm. Chính trong Lời kết cho một cuộc thảo luận Hồn Việt cũng chỉ nói “đã có những hành động chính trị đáng ngờ, bọn Pháp Nhật cũng tìm cách lôi kéo ông (Hồn Việt 17, tháng 11/2008) chứ không khẳng định như giáo sư. Sự hiểu lầm có lẽ tại mấy chữ của người viết lời mở đầu phần Di cảo là in lại trọn vẹn. Nhận ra thiếu sót này, ông Phạm Tuân con trai út của Phạm Quỳnh và vợ là Hoàng Hỷ Nguyên, khi cho xuất bản tập Giải oan lập một đàng tràng (cơ sở xuất bản Tâm Nguyện, 2001 tại Hoa Kỳ) đã cho in lại nguyên văn bài này từ trang 433 đến trang 439. Việc “phát hiện ra” thiếu bài này không phải là “công” của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn mà là do một số trí thức Việt Kiều vẫn nhiều năm băn khoăn cố tìm hiểu nguyên nhân cái chết của Phạm Quỳnh mà họ cho là không đáng chết và tìm cách lý giải việc đó, đã phát hiện ra là sau đảo chính những người Nhật đầu tiên tiếp xúc với Nam triều đã đến gặp Phạm Quỳnh. Sự thật như chúng ta đã biết chỉ vì Bảo Đại đi săn khuya hôm đó mới về, nên sáng hôm sau mới gặp người Nhật. Còn Phạm Quỳnh vì thấy đêm hôm đó và ngày hôm sau có quá nhiều sự kiện liên quan đến những vấn đề lịch sử, cho nên ông thấy cần ghi lại rõ ràng, tỉ mỉ, đủ nhân chứng, để sau này có dịp sẽ tìm hiểu rõ ý nghĩa của những sự việc đó. Cho nên bài không có tính văn chương, chỉ ghi lại đúng sự việc, từ giờ giấc, đến những nhân vật mà không có một lời nào bình luận hoặc nói lên cảm nghĩ của mình.
Ngoài ra việc quân đội Pháp nhảy dù xuống Hiền Sỹ sáng 29/8/1945 và mười ngày sau, một đơn vị lính Pháp lại đổ bộ vào cửa biển Thuận An “để liên lạc với quan lại bản xứ lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương” cũng không liên quan gì đến Phạm Quỳnh. Vì ngay khi đến bắt ông hôm 23/8/1945, sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế Phan Hàm đã khám xét cẩn thận khắp nhà không hề thấy có điện đài, vũ khí, ngoại trừ một khẩu súng săn của con trai ông là Phạm Khuê lúc ấy đang đi dự mít tinh ở sân vận động Huế. Điều này đã được thiếu tướng Phan Hàm – nguyên là sinh viên Thanh niên Tiền tuyến năm xưa tường thuật rõ trong tư liệu 10 trang viết ngày 8/11/1993 và ban tuyên huấn Thừa Thiên Huế nhận ngày 14/11/1993 mà chúng tôi hiện có trong tay. Như vậy là đúng như Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba và cả Nguyễn Vạn An viết là sau đảo chính Nhật 9/3/1945, Phạm Quỳnh đã từ quan về ở ẩn dật trong biệt thự Hoa Đường bên sông nhỏ An Cựu, chuẩn bị trở lại với sự nghiệp văn học mà suốt đời ông yêu quý, trước hết là đọc và lựa chọn rồi dịch nghĩa 51 bài thơ Đỗ Phủ, gửi cho người bạn thân thiết ở phương Nam là thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, rồi bắt đầu khởi thảo Hoa Đường Tùy Bút – Kiến Văn Cảm Tưởng I, mới viết đến trang 48, dở dang bài số 11, Cô Kiều với tôi thì được Ủy ban Cách mạng “mời đi họp” để rồi không bao giờ về nữa.
  1. Thật bất ngờ “tội mới” thứ hai của Phạm Quỳnh là “tôi (tức giáo sư Nguyễn Văn Hoàn ngày ấy-PT) hay trò chuyện trao đổi ý kiến với ông (tức Nguyễn Tiến Lãng, con rể Phạm Quỳnh-PT), từ vụ ông bị bắt ở Huế đến tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh là một người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là – không thể hiểu nổi Phạm Quỳnh” (trích bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
  2. “Tội” thứ 3 mà cũng là tội lớn nhất là “ba tên Việt gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa” (Nhật báo Quyết Chiến, cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng – Huế, số 88 (ra ngày thứ tư 5/12/1945)) và “Phạm Quỳnh một tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột vơ vét tài sản của quốc dân”(Chúng tôi nhấn mạnh-PT) (Tuần báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ số 11 (ra ngày 9 tháng 12 năm 1945)). Chắc giáo sư rất muốn nêu những tội này lên nhưng sau nghĩ kĩ lại thì thấy không ổn nên thôi. Hoặc có phần chắc chắn hơn là Hồn Việt thấy chướng quá, đưa ra vô duyên nên cắt bỏ đi. Tiếc là Hồn Việt số 17 ra muộn hơn mọi khi 2 ngày (thường lệ ra ngày 30; tháng 10 lại có 31 ngày mà ngày mùng một mới ra được) chắc là biên tập vội nên đã để sót ở phần chú thích vẫn còn số “(15) Nhật Hoa Khanh, Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông, tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 269, 10/2006”. Thành ra có chú thích số (15) nhưng trong bài chỉ có số (12), (13), (14), sau đó thì nhảy luôn đến (16), hoàn toàn không có chú thích số (15). Hơn nữa, từ 2006 khi đăng bài của Nhật Hoa Khanh công bố tư liệu đăng trên hai tờ Quyết ThắngQuyết Chiến trên thì Xưa và Nay đã phải viết trong lời tòa soạn in bằng chữ to đậm ở trước bài báo là “vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945, bốn tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?” (Tạp chí Xưa và Nay số 269, tháng 10/2006).
Thành ra bài của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn dài hơn bốn trang rưỡi, tên bài là Chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh mà trong suốt bài không có một chữ nào viết về cái chết của Phạm Quỳnh. Có chăng chỉ là ở phần mở đầu có mấy dòng “Sau khi gia đình Ngô Đình Diệm tìm được ngôi mộ chôn chung Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh ở khu rừng Hắc Thú, gần Hiền Sĩ thuộc tỉnh Quảng Trị (1956)” (bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn). Lần trước, trong bài Bài báo “mới mà cũ” tôi có ý trách nhà văn Thái Vũ trong suốt ba trang bài báo có đầu đề Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) mà chỉ viết về cái chết ấy có bảy dòng. Nay thì giáo sư nguyên Viện trưởng Viện Văn học lại còn “cao tay” hơn, không thèm viết lấy một chữ! Giáo sư còn điều gì e ngại chăng…?. Tất cả lập luận của ông về âm mưu liên lạc, câu kết chờ Nhật, Pháp, cứ cho là đứng vững đi nữa thì cũng chỉ đủ đến mức bị coi là “những hành động chính trị đáng ngờ” như Hồn Việt mới viết đây thôi, tức là bị nghi vấn, có thể bị bắt tạm giam, nhưng không đủ để đem đi giết, mà lại giết một cách dã man, chém nứt sọ bằng cuốc xẻng rồi mới bắn ba phát súng vào lúc đêm khuya, bên rừng vắng?!
Thật tình đọc bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn nặng tính chất “xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm”, chúng tôi không có ý muốn đáp lại, nhưng đọc đến phần cuối thì lại thấy nên nói vài điều vì giáo sư viết “khi nói về người đã chết thì phải hết sức thận trọng, phải hết sức khách quan và trung thực, không được vì một động cơ cá nhân nào mà cố ý nói sai sự thật, dù theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa cần nhớ rằng: trong lĩnh vực lịch sử và khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí cũng rất khó nắm bắt được chân lý chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó, tôi thành thật mong nhận được sự giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc” (bài đã dẫn của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn).
Tôi cũng xin thành tâm cố gắng “giám định và bổ sung tư liệu” cho bài của giáo sư như trên. Mong giáo sư vui lòng nhận cho tấm lòng thành của tôi.
Phạm Tôn
30.11.2008


Phần đầu bản thảo viết tay của Phạm Quỳnh bài số 6 – Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945). Ở trang 18 tập Hoa Đường Tùy Bút – Kiến Văn Cảm Tưởng I

TRẢ LẠI SỰ SÁNG TRONG CHO PHẠM QUỲNH

Hà Khánh Linh, Nhà văn
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Hà Khánh Linh, tên khai sinh là Nguyễn Khoa Như Ý, hội viên Hội nhà văn Việt Nam, sinh tại Huế, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại Thừa Thiên Huế. Hiện ở tại số 24/7 đường Chế Lan Viên, thành phố Huế.
Những tác phẩm đã xuất bản gồm có Thúy, tiểu thuyết, nhà xuất bản Văn Nghệ Giải Phóng, 1973; Nụ cười Ápxara, tập truyện, NXB Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh, 1983; Là bóng hay là hình, tập truyện, NXB Tác Phẩm Mới, 1986; Chiến tranh và sau chiến tranh, tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, 1989; Rừng và cái chết con thiên nga, tiểu thuyết, Hội văn nghệ Thừa Thiên-Huế, 1992; Góa phụ Paris, tập truyện, NXB Văn Học, 1993; Trăng cứu rỗi, thơ, NXB Hội Nhà Văn, 1995; Những bọt bóng màu, thơ, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Con gái người cung nữ, tiểu thuyết, NXB Phụ Nữ, 1999; Vũng Chân Mây, tập truyện, NXB Đà Nẵng, 1999; Ngày ấy, Trường Sơn…, Hồi ký, NXB Hội Nhà Văn, 2000; Vì người mà tôi làm vậy, tập truyện, NXB Hội Nhà Văn, 2001; Người cắm hoa nhà thờ, tiểu thuyết, NXB Văn Học, 2002; Người kinh đô cũ, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà Văn, 2004; …Và đàn bà, tập truyện, NXB Văn Nghệ, 2007; Phùng Quán viết Trăng Hoàng Cung, tự truyện, NXB Thuận Hóa, 2007; Ôi trần gian, tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, 2008…
Từ lâu nhà văn Hà Khánh Linh đã quý mến học giả Phạm Quỳnh và coi  “Vấn đề Phạm Quỳnh là vấn đề của lương tâm thời đại”. Với tâm thức đó, bà đã viết bài báo này vào cuối năm 2006.
—-o0o—
Sinh ra và lớn lên tại Huế, sau chiến tranh được sống và được làm việc ở Huế, tôi có điều kiện tiếp xúc nhiều với các giới đồng bào, càng thêm hiểu tâm tình bà con với những ai đã từng yêu quý và sống hết mình với Huế, vì nước vì dân. Năm 1945, sau khi cùng phái đoàn chính phủ vào Huế tước ấn kiếm và dự lễ thoái vị của Bảo Đại, ra Hà Nội báo cáo với Hồ Chủ tịch, nhà thơ Huy Cận đã không quên nói lên tâm tình của dân Huế. Sau này, ở tuổi ngoài tám mươi, ông đã hai lần kể lại rành rọt cho nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai Phạm Quỳnh câu chuyện xưa mà ông không bao giờ quên: “Năm 1945, cuối tháng 8, tôi là Bộ trưởng Bộ Canh Nông của chính phủ Cách mạng lâm thời, được tham gia phái đoàn chính phủ vào nhận sự thoái vị của Bảo Đại, có nghe dân chúng xì xào nhiều về chuyện Cụ Phạm bị xử tử hình. Khi về tới Hà Nội, được gặp Bác tôi có kể lại chuyện đó, thì Bác thở dài, nắm tay tôi và nói: “ĐÃ LỠ MẤT RỒI!”
Đầu năm 2005, tôi đã được đọc bài Phạm Quỳnh chủ bút báo Nam Phong của giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, đăng trên tạp chí Khoa học và Ứng dụng số 2-2005, và bài Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỉ 20 của Vương Trí Nhàn trên tạp chí Nghiên cứu Văn học tháng 7-2005 thì cuối năm đó lại được đọc loạt bài của Xuân Ba Những uẩn khúc trong cuộc đời ông chủ báo Nam Phong trên Tiền Phong Chủ Nhật các số 44 (30/10/2005), 45 (6/11/2005) và 46 (13/11/2005). Rồi đến năm 2006, tôi được đọc các bài của Phạm Tôn đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, tháng 8: Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước và tháng 9/2006 trên bán nguyệt san Xưa và Nay: Người nặng lòng với nước, và Người nặng lòng với nhà trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (56) 2006, bài của Nguyễn Trung Phạm Quỳnh người nặng lòng với tiếng ta trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc tháng 9/2006. Tôi còn được đọc bài Thử nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh của Trần Văn Chánh trên Nghiên cứu và Phát triển số 2 (55) 2006 và Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng Chi văn tập của cùng tác giả in đầu bộ sách đồ sộ 1134 trang Thượng Chi văn tập do NXB Văn Học tái bản năm 2005. Tôi cũng đã đọc bài Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh của Đỗ Lai Thúy trên tạp chí Tia Sáng số 12 tháng 6-2006. Và mới đây là bài trên báo Thể thao và Văn hóa số 5 tháng 1/2005, Trở lại với khu vực đầu nguồn của văn học Việt Nam hiện đại: In lại Nhật Ký Đi Pháp của Phạm Quỳnh cũng của Vương Trí Nhàn. Còn mới nhất là bài của Xuân Ba trên tạp chí Sao Việt tháng 10/2006: Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục…Tôi cũng đọc các sách của Phạm Quỳnh mới tái bản ở nước ta như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký, Luận giải văn học và triết học Thượng Chi văn tập của các nhà xuất bản Văn Học và Hội Nhà Văn. Càng đọc tôi càng thấm thía lời nhà thơ Huy Cận nói với nhạc sĩ Phạm Tuyên: “Càng đọc kỹ những dòng chữ Cụ viết mới càng thấy rõ hơn tấm lòng nhiệt thành yêu nước của Cụ.” Và tôi càng thương tiếc vô hạn học giả Phạm Quỳnh, đau xót trước cái chết oan ức của ông. Vì thế tôi đặc biệt chú ý đến một bài báo mới đăng trên tạp chí Xưa và Nay.
Trong số 269, tháng 10/2006 tạp chí có đăng bài của Nhật Hoa Khanh: Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông. Do yêu mến Phạm Quỳnh tác giả đã nhiều năm cố công tìm hiểu về cái chết bí ẩn của ông, đã gặp nhiều người, tìm tòi nhiều tư liệu và cuối cùng đã tìm được hai tờ báo khổ nhỏ phát hành hẹp tại Huế năm 1945. Đó là nhật báo Quyết Chiến khổ A3, mỗi số 2 trang, là “Cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân Cách mạng Huế”. Số 88, ra ngày thứ tư, 5/12/1945 có đăng bản tin: “Ba tên Việt Gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa.” Tin này rút ra từ “Thông báo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án Quân sự tỉnh Thuận Hóa” (tức là Huế), sau đó đăng trên tuần báo Quyết Thắng, khổ A3, mỗi số bốn trang, là “cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ.” Số 11, ra ngày 9/12/1945 đã đăng toàn văn thông báo trên. Cuối bản thông báo, chỉ ghi “Ủy ban Khởi nghĩ tỉnh Nguyễn Tri Phương”, mà không có ai đứng tên thay mặt ký cả.
Trong lời tòa soạn in chữ đậm,  cỡ lớn, chính tạp chí Xưa và Nay cũng thấy cần nhấn mạnh “ở đây vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12/1945, bốn (Thật ra là ba – PT chú) tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?” (chúng tôi nhấn mạnh – HKL).
Lệ thường, khi cần xử tử một kẻ gây tội ác lớn, người ta thường thông báo càng rộng rãi, càng kịp thời, càng được nhiều người chú ý và vì thế tác dụng răn đe các kẻ xấu khác càng lớn. Hơn nữa, việc xử tử cũng thường tổ chức càng công khai, càng đông người tận mắt được thấy kẻ thủ ác phải bị trừng phạt, càng có tác dụng ngăn ngừa tội ác. Nhưng, trường hợp “xử tử ba tên Việt gian tối nguy hiểm” này lại diễn ra khác hẳn. Trong số 267 tháng 9/2006, tạp chí Xưa và Nay đăng bài Người nặng lòng với nước của Phạm Tôn có đoạn: “Người canh gác xưởng (ép dầu tràm, nơi giam giữ Phạm Quỳnh cuối cùng-HKL chú) kể: Một đêm đầu tháng 8 ta, trăng lưỡi liềm, khoảng 11 giờ, có người xưng là cấp trên đến bảo đưa ba người bị giam ra cho ăn cơm (…) Sau đó, họ bị trói và đưa xuống đò (…) gần 1 giờ sáng thì táp vào bờ, đến gần hai bụi tre thì giết ba người”
“Xử tử” vào 1 giờ đêm, ở một nơi hoang vắng, giữa đêm trăng mờ. Thật lạ lùng cho cách “xử tử” này. Quả là có một không hai trên đời!…
Chắc hẳn là ba tháng sau khi thủ tiêu Phạm Quỳnh, người xưng là cấp trên có quyền sinh quyền sát trong tay ấy mới nghĩ ra được cách ra thông báo để hợp pháp hóa vụ giết hại mờ ám, lén lút và tàn bạo mình đã tự ý gây ra trong đêm trăng non nọ?…Để rồi suốt hơn 60 năm trời Cách mạng Việt Nam phải chịu tiếng đã giết oan một con người nặng lòng với nước với dân như Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh, con người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, đã sống 13 năm cuối đời tại Huế, đã viết những dòng tâm huyết cuối cùng tại Huế (tập Hoa Đường tùy bút: Kiến văn, cảm tưởng và 51 bài thơ Đỗ Phủ còn dịch dở dang). Và cũng đã gửi lại nắm xương tàn trong khuôn viên chùa Vạn Phước xứ Huế. Dân Huế yêu quý ông, đã tự nhiên bảo nhau gọi bến đò An Cựu trước biệt thự Hoa Đường xưa của ông là Bến Cụ Phạm. Và tôi tin là hình ảnh ông, tư tưởng của ông còn sống mãi trong lòng người dân xứ Huế, vốn nặng tình và trọng nghĩa.
Tôi tin là giống như mặt trời lên thì xua tan bóng tối, đất nước ta ngày càng tiến lên xã hội công bằng dân chủ văn minh thì những đám mây đen, bụi bẩn bấy lâu che mờ gương sáng của ông cũng sẽ tiêu tan cùng với các thế lực đen tối, cực tả một thời đã làm ô danh cách mạng Việt Nam.
Huế, những ngày mưa cuối năm 2006
H.K.L
Ghi thêm:
Thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác là cộng tác viên nhiệt thành của tạp chí Nam Phong rồi trở thành bạn tri âm tri kỷ từ lâu của học giả Phạm Quỳnh. Cho nên, sau khi từ quan về ở ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường xinh đẹp bên con sông nhỏ An Cựu để chuẩn bị quay trở lại với nghiệp văn của mình, Phạm Quỳnh đã bắt đầu “khởi động” bằng việc dịch thơ Đỗ Phủ, nhà thơ Trung Quốc đồng cảnh với ông. Dịch được 51 bài, ông tin cậy gửi cả nguyên văn chữ Hán do tay ông chép và các bản dịch thô của mình cho Đông Hồ, người mà ông tin cậy ở cả cái tâm và cái tài.
Mùa hạ năm 1945 ấy, Đông Hồ đang sống cùng nữ sĩ Mộng Tuyết, học trò và bạn đời của ông tại Hà Tiên. Huế và Hà Tiên không phải là xa xôi cách trở gì lắm, vậy mà những sự biến tày trời, đổ tai họa xuống đời Phạm Quỳnh, hai ông bà không hay biết gì hết. Bức thư cuối cùng trong đời của nữ sĩ Mộng Tuyết viết ở tuổi 94 từ Hà Tiên gửi cho chúng tôi đã nói rõ điều kỳ lạ đó: Rõ ràng vụ bí mật, lén lút thủ tiêu Phạm Quỳnh đêm 6/9 rạng ngày 7/9/1945 ở nơi rừng hoang Hắc Thú nọ của một số người ở Thừa Thiên Huế không ai muốn phổ biến rộng rãi. Đó là một sự thật kỳ lạ.
Nữ sĩ Mộng Tuyết viết ngày 29/12/2006 một bức thư dài tới bốn trang giấy A4. Mở đàu là những dòng sau: “Được đọc bài viết của cháu về Cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh làm cho bác ngẩn ngơ. Vì bác xa xôi, vẫn không biết rõ hoặc nghe về cái chết của cụ Phạm Quỳnh, cứ ngỡ là không có điều gì bất thường khi Cụ vào Huế trở về sau.” Và tiếp đó là nhiều lần nhắc lại câu “Bác thật xúc động khi đọc bài của cháu viết về cái chết của cụ Thượng Chi!!!” Rồi “Đọc bài cháu viết về cái chết của Cụ Phạm Quỳnh mà bác vô cùng xúc động. Và lạ lùng là tin động trời như vậy mà ở trong này, bác và bác Đông Hồ không biết gì cả.” Tiếp đó là “bài báo cháu viết làm cho bác biết thêm nhiều điều mà bác vẫn không có được biết tin tức mảy may nào! (…) bác chưa từng nghĩ đến việc đời lại xảy ra như vậy!!! Bác viết cho cháu mà lòng bác rất “bức xúc” không biết việc đời nó lại xảy ra như vậy đối với gia đình…” Rồi cụ còn nhắc, ở tuổi 94 là “Các tác phẩm của Cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh đã in lại có bán ở đâu cháu cho biết để bác nhờ cháu mua giúp bác.” Và còn tế nhị viết “Cháu biết không, ở cái tuổi 94 của bác này, thì bác viết một bức thư này cháu cũng không đọc được nữa rồi.”
Bài báo mà chúng tôi gửi cho nữ sĩ Mộng Tuyết là bài Phạm Quỳnh, người nặng lòng với nước đang trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc tháng 8 năm 2006.
Nữ sĩ sinh ngày 9/1/1914 tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang và mất tại bệnh viện đa khoa Kiên Giang ngày 1/7/2007.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2/2/2010
Tôn Thất Thành

RỒI LỊCH SỬ CŨNG SẼ CÔNG BẰNG

Nhà văn Nguyên Ngọc
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Nguyên Ngọc là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, những bút danh khác là Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh ngày 5-11-1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 18 tuổi, xin gia nhập quân đội, tốt nghiệp Trường Lục Quân Khu V. Hầu hết thời gian 1951-1954, hoạt động ở vùng Tây Nguyên, chiến trường chính của Liên Khu V bấy giờ. Chính điều đó đã dẫn đến thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên (1956), được tặng giải nhất về tiểu thuyết trong Giải Thưởng Văn Học 1954-1955 của Hội nhà Văn Việt Nam. Sau đó, cho in Mạch nước ngầm (1960) và tập truyện ngắn Rẻo cao (1961). Năm 1962, trở lại Tây Nguyên và Quảng Nam, ông tiếp tục sáng tác với bút danh Nguyễn Trung Thành. Năm 1969, có tập truyện và ký Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc nổi tiếng với truyện ngắn Rừng xà nu và tùy bút Đường chúng ta đi. Năm 1971 và 1974, phần 1 và 2 tiểu thuyết Đất Quảng ra mắt bạn đọc…
Sáng tác của Nguyên Ngọc không nhiều về số lượng, nhưng gây được ấn tượng mạnh với người đọc. Ông nhận thức rõ ràng về những hạn chế mang tính lịch sử của một thời đã qua để hướng tới sự đổi mới, đó chính là kết quả của sự nhạy cảm trong tư tưởng của nhà văn. Ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Dịp nhà xuất bản Tri ThứcTrung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây tổ chức buổi ra mắt bản dịch Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, nhà văn Nguyên Ngọc nói: “Đầu thế kỷ XX, chúng ta đã có những người khổng lồ như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi. Không phải mọi kiến giải của họ đều đúng đắn, nhưng những vấn đề họ đặt ra đến nay vẫn còn tính thời sự”
Dưới đây xin mời các bạn đọc bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc đăng trang 13 báo Tuổi Trẻ ngày 7-12-2007. Tiếp đó là bài Lịch sử sẽ công bằng với Phạm Quỳnh cha tôi của nhạc sĩ Phạm Tuyên trả lời phỏng vấn của báo Tiền Phong.
—-o0o—-
Không như các tác phẩm khác của Phạm Quỳnh đã được in lại trong những năm qua đều viết bằng tiếng Việt(*), tập tiểu luận lần này vừa được dịch và xuất bản vốn được viết bằng tiếng Pháp.
Có lẽ trước hết cho tôi nói điều này: cách đây mấy mươi năm một người tự coi mình là rất bác học và cũng đầy quyền lực đã chế giễu: tiếng Pháp của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ để lòe người An Nam, chữ Hán của Phạm Quỳnh chỉ vừa đủ để bịp người Tây!
Là một trong những người dịch tác phẩm của ông, tôi thấy có lẽ Phạm Quỳnh là một trong những người Việt viết tiếng Pháp hay nhất, một thứ tiếng Pháp trong sáng, sang trọng, trang nhã và đầy âm vang, chỉ có thể có được trên cơ sở một vốn tri thức uyên thâm về văn hóa và văn minh không chỉ của Pháp mà còn của cả phương Tây cổ kim. Và vốn Hán học cùng tri thức về phương Đông của ông cũng rộng sâu không kém. Những người dịch đã rất cố gắng để mong chuyển được một phần vẻ đẹp văn chương Pháp, chỉ riêng điều này thôi đã rất quí rồi, trong tác phẩm này.
Vì sao ông viết bằng tiếng Pháp? Vì đối tượng mà ông muốn nhắm đến: người Pháp ở chính quốc và ở VN. Ông muốn nói với họ ở tầm cao nhất, quan trọng nhất và do vậy cũng nghiêm trọng nhất của vấn đề, ở tầm cuộc va chạm chấn động giữa phương Đông và phương Tây trong thời cận đại và hiện đại, trong đó có số phận của dân tộc ta mà suốt đời ông tha thiết trăn trở. Rất sáng suốt, ông nói: “Các dân tộc đụng chạm với nhau trước hết qua những con người cứng rắn nhất, háo danh nhất, hay những người xác quyết nhất trong việc áp đặt các học thuyết của mình và chỉ cho chứ không nhận… không hề lấy sự bình đẳng trong các trao đổi làm đối tượng và vai trò của họ chẳng bao giờ là tôn trọng sự thư thái, tự do, các niềm tin hay những điều hay của những người khác…”.  Lại cũng rất thực tế, ông bảo rằng: “Quá khứ đã nằm im trong lịch sử. Nó như thế nào thì nó vẫn cứ như thế, không phụ thuộc vào bất cứ ai trong chúng ta để có thể khác đi. Hiện tại với những đòi hỏi của hiện tại, tương lai với những hi vọng của tương lai là đủ để chúng ta quan tâm…”. Hãy để cho những đại diện chân chính và ưu tú của các nền văn hóa nói với nhau, có thể có một con đường đi và một tương lai được thiết kế như vậy giữa các dân tộc. Ông mong muốn các dân tộc đến với nhau trong hiểu biết và tôn trọng các giá trị của nhau, ông muốn nói với người Pháp về dân tộc mình, những chiều sâu thăm thẳm đã tạo nên sức sống ngàn đời của dân tộc này, nền văn hóa mềm dẻo mà bất diệt của nó, số phận nó có thể và cần được có. Chính vì vậy mà cuốn sách viết cho những người mà lịch sử đã đặt vào một vị trí thống trị chẳng hay ho gì trên đất nước này, thậm chí có thể đi ra ngoài ý định của tác giả nữa, đã trở thành một công trình nghiên cứu súc tích, sâu sắc, tinh tế, toàn diện, khách quan, vừa lâu dài vừa nóng hổi tính đương thời về đất nước và dân tộc ta mà ông da diết muốn tìm một con đường đi ra trong những điều kiện lịch sử cực kỳ khó khăn và éo le.
Những mong muốn ảo tưởng, và những trăn trở tìm tòi mà một người đã thất bại trong lịch sử đã cố tạo nên để làm nền tảng cho những mong ước đó, lại có thể rất có ích cho hôm nay. Đọc cuốn sách này, do vậy, sẽ có thể rất ngạc nhiên về tính cập nhật bất ngờ của nó trên không ít phương diện, cả tổng quát lẫn cụ thể.
Lịch sử, trên con đường đi tới của nó, vốn rất dửng dưng và tàn nhẫn. Phạm Quỳnh, như chúng ta biết, đã có  số phận cá nhân bi đát. Nhưng rồi về lâu dài lịch sử cũng lại công bằng. Nó trả lại cho các nạn nhân của nó những giá trị không thể mất của họ. Bạn hãy cầm cuốn sách này trên tay và trân trọng đọc kỹ từng dòng của người xưa. Bạn đang làm một hành động chiêu tuyết đẹp đẽ mà cuộc sống giao cho chúng ta hôm nay đấy.
N.N
 

LIỆU CỦA THIẾU TƯỚNG PHAN HÀM

KỂ LẠI VIỆC ĐI BẮT PHẠM QUỲNH


Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Thái Vũ được Tạp chí Hồn Việt số 16 tháng 10/2008 giới thiệu là: “Ông đã có mặt ở Huế vào những ngày Cách mạng Tháng tám và đã ghi lại một số ý kiến như là một chứng nhân (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) của dòng lịch sử vốn rất phức tạp lúc đó…”. Trong bài của ông Về cái chết của ông Phạm Quỳnh (Hồn Việt số 16 tháng 10/2008) có nội dung giống hệt bài Về cái chết của ông chủ bút Tạp chí Nam Phong đăng trước đó 3 năm trên Tiền Phong Chủ Nhật số 51 tháng 12/2005, đã nêu ra một sự việc chưa từng ai biết bao giờ là khi sinh viên Trường Thanh niên tiền tuyến Phan Hàm đến bắt Phạm Quỳnh trưa 23/8/1945 thì: “Anh Phan Hàm ở dưới…”khám nhà” cả trên lầu, thấy ở tủ sách nhỏ của con gái Phạm Quỳnh (không biết của cô nào) vàng lá xếp đống (Chúng tôi nhấn mạnh – PT) trong đó. Niêm phong nhà lầu. Tất cả người nhà cụ Thượng họ Phạm kể cả cụ đều xuống nhà dưới. Đột nhiên, Phạm Quỳnh xin lên lầu lấy một “quả trầu”-vì cụ Thượng thường ăn trầu. Thật không ngờ dưới bàn để toàn vàng (Chúng tôi nhấn mạnh – PT)…”
Chúng tôi may mắn có trong tay bản sao chụp tư liệu 10 trang viết tay của Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Thừa Thiên Huế nhận chiều 14/11/1993, xin trích đăng phần Thiếu tướng kể về việc đi bắt Phạm Quỳnh để bạn đọc có điều kiện biết được sự thật đã xảy ra như thế nào. Thiếu tướng Phan Hàm viết như sau:
“Tôi chỉ xin kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh. Còn các nơi khác không rõ chi tiết, chỉ biết chung chung:
“Tôi nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết được đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa, ông Phan Tử Lăng trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh-PT) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà.
Nhớ đâu viết đấy. Miễn là nói lên sự thật (Chúng tôi nhấn mạnh-PT)”
Lời bình của Phạm Tôn: Như vậy số vàng rất lớn ở trong tủ và dưới bàn chỉ có một người biết là nhà văn Thái Vũ. Thiếu tướng Phan Hàm không hề nói đến sự việc này.

*  *

TƯ  LIỆU CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG

VỀ MỐI THÂN TÌNH GIỮA

NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH VỚI THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH

Trang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký của tác giả) tập bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
—-o0o—-

PHẦN 4: NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÍCH THÂN TỔ CHỨC “BỮA CƠM BẮC, THẾT KHÁCH BẮC”


Mỗi năm, cứ đến tháng 5 là không người dân Việt nào không nhớ đến ngày sinh của Người. Và mỗi người lại nhắc nhớ những câu chuyện về Người, thấm thía đối với bản thân mình. Nhất là vào năm nay, 2010 – Năm kỷ niệm ngày sinh lần thứ 120 của Người.
Cũng với tâm tình ấy, nhân dịp này, blog PhamTon chúng tôi vốn kính yêu Người, lại quý mến Thượng Chi Phạm Quỳnh, xin đăng tại đây tư liệu kể về một sự việc trong thời Người còn bôn ba tìm đường cứu nước, tìm bạn đồng tâm, đồng chí, thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và trong sáng, một lòng vì nước vì dân, chỉ có một ham muốn tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Đây là phần 4 trong  liệu của nhà văn Sơn Tùng về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh với Thượng Chi Phạm Quỳnh mà nhà văn đã ký thác cho nhạc sĩ Phạm Tuyên là một người con của Thượng Chi Phạm Quỳnh, cũng là một người con của Đảng; ông là Đảng viên Cộng sản từ 1950, năm nay vừa tròn 60 tuổi Đảng.
—-o0o—-
Ghi theo lời cụ Đào Nhật Vinh
CỤ ĐÀO NHẬT VINH – 13 phố Nguyễn An Ninh, quận 1 Sài Gòn – nay là quận 1 Tp. Hồ Chí Minh.

Cụ Đào Nhật Vinh quê Trực Ninh, Nam Định. Năm 1913, Đào Nhật Vinh cùng làm việc trên tàu Viễn Dương với Văn Ba – Nguyễn Tất Thành từ Le Havre, hải cảng ở Bắc Pháp quốc. Hành trình từ Tây qua Âu-Á-Phi-Mỹ, tận Argentine tới Terre de Feu. Đào Nhật Vinh có vốn chữ nho, chưa biết chữ quốc ngữ; “Anh Văn Ba dạy chữ quốc ngữ cho Đào Nhật Vinh và mấy anh em thủy thủ…
Năm 1919, ông Đào Nhật Vinh không làm việc trên tàu viễn dương nữa, đến thành phố Bordeaux lập gia đình, mở hàng ăn và vẫn thân giao với Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Paris cho đến năm 1923 khi Nguyễn Ái Quốc bí mật qua nước Nga – Xô Viết.
Mùa hè 1946, Hồ Chủ tịch Thượng khách thăm nước Pháp, ở lại Paris gần 4 tháng để “cứu vãn hòa bình”
– Cụ Đào Nhật Vinh ngày ấy là “Việt kiều yêu nước” với tình cố cựu cụ được gần gũi Bác trong thời gian này. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, cụ bị trục xuất về Sài Gòn.
Năm 1975, 30 tháng tư Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tôi vào Cố đô Huế, Phan Thiết, Sài Gòn, Sa Đéc, Cao Lãnh…để sưu tầm tư liệu Bác Hồ ngay từ tháng 5-1975. Nhờ nhà văn Lê Hương (một cơ sở Cách mạng ở Sài Gòn) đưa tôi tới 53C Cao Thắng, quận 3 gặp giáo sư Hồ Tường Vân, con gái nhà chí sĩ Hồ Tá Bang sáng lập viên Công ty Liên Thành và trường Dục Thanh, Phan Thiết do Duy Tân hội chủ xướng. Nhờ đây, tôi gặp được cụ Đào Nhật Vinh ở 13 phố Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành. Cụ đang ở tuổi 80 mà rất minh mẫn, có bộ nhớ nhiều tầng, có hệ thống và mạch lạc… sau những ngày làm việc với cụ, cụ tặng lại tôi những kỷ vật về Bác Hồ với cụ ngày còn làm việc ở nước ngoài. Đầu năm 1976 cụ về Hà Nội thăm cố hương, vào lăng viếng Bác Hồ
(Ghi chú của nhà văn Sơn Tùng)

Lời dẫn của Phạm Tôn: Năm 1922, Phạm Quỳnh đi Pháp dự hội Đấu xảo thuộc địa tổ chức tại Marseille, có mang theo một cuốn nhật ký tùy thân nhỏ bằng bốn ngón tay. Trong đó có ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins).” Còn trên tạp chí Nam Phong, khi đăng Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, ông viết công khai: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói…Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7-PT chú)…Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào”
—-o0o—-
Cụ Đào Nhật Vinh bồi hồi kể: – Năm 1919 tôi rời đại dương, lên cạn sinh sống ở Bordeaux, nhưng tháng nào tôi cũng về Paris gặp anh Nguyễn Ái Quốc và thăm hai cụ “nghè ta” (Phan Châu Trinh) cụ “nghè Tây” (Phan Văn Trường) và anh em thủy thủ đã lên cạn làm ăn. Từ sau ngày Nguyễn Ái Quốc đưa ra “Tám yêu sách của người An Nam” đến Hội nghị Hòa Bình Versailles, anh em thợ thuyền, lính thợ và các giới khác đến 6 Villa des Gobelins với niềm ngưỡng vọng “Ngũ Hổ” – Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền.
Giữa năm 1921 đến giữa năm 1923 “điểm hẹn” Nguyễn Ái Quốc ở số 3 Marché des Patriaches. Mỗi kỳ báo Le Paria in ra, tôi đến gặp anh Nguyễn nhận báo, đưa về Bordeaux phát hành. Bà con người Việt mình nhận Le Paria đưa tiền rất hời để ủng hộ báo. Sôi động nhất, tháng 3/1922 vua Khải Định đến Paris và phái bộ dự “Hội Chợ Thuộc Địa” ở Marseille. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài chế giễu vua Khải Định đăng trên các báo Le Paria, Le Journal du Peuple, L’Humanité (Báo Nhân Đạo của Đảng Cộng Sản Pháp – PT chú) ,…Những bài gây xôn xao nhất: Les lamentations de Trưng Trắc (Lời than vãn của bà Trưng Trắc – PT chú), đăng trên tờ báo L’Humanité số 24/6/1922; Les civilisateurs (Những nhà khai hóa-PT chú)số 22/6/1922 và bài Hygiène mental (Vệ sinh tinh thần-PT chú); La haine des races (Hận thù chủng tộc – PT chú)…Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác vở Con Rông Tre, chưa in trên báo, mới công diễn một lần ở Club du Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô-PT chú) mà tiếng vang rộng lớn trong Việt kiều. Đặc biệt, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh nhục mạ vua Khải định bằng “Thư Thất Điều” chữ nho. Cụ Phan Văn Trường chuyển sang chữ Pháp, ông Nguyễn chuyển sang quốc ngữ.
Thời gian này, nhà đương cục Pháp theo dõi, kiểm soát gắt gao người Việt và bắt làm “thẻ cá nhân”. Cụ Phan Châu Trinh ông Nguyễn Ái Quốc “được”A. Sarraut mời đến Bộ Thuộc địa “nhắc nhở”…Họ theo dõi chặt chẽ cụ Phan Châu Trinh, ông Nguyễn Ái Quốc không chỉ ở Paris mà cả ở hải cảng Marseille. “Hội Chợ Thuộc Địa” mở cửa từ đầu tháng 4/1922. Công việc chuẩn bị cho hội chợ từ tháng giêng. Cụ Phan Châu Trinh đến Marseille, ở tại nhà ông thợ ảnh Tạ Văn Cần, vợ đầm. Ông Nguyễn Ái Quốc có hôm cùng ở với cụ Phan tại nhà ông Cần, có hôm ở nơi khác và về Paris lo liệu công việc báo Le Paria.
Một nhóm anh em thợ thuyền, thủy thủ chúng tôi được nhận vào phục dịch Hội Chợ như anh Phan Hiếu Kính, anh Nguyễn Minh Quang, anh Vũ Văn Long…cho nên chúng tôi được đến gần các vị trong phái bộ tháp tùng nhà vua như: quan tuần phủ Cao Bằng Vi Văn Định, ông Phạm Quỳnh – Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Văn Vĩnh, một bỉnh bút lừng danh Đồng Văn Nhật Báo, Đông Dương Tạp Chí, Notre Journal, Notre Revue…Ông đã từng dự cuộc Đấu xảo Marseille 1906, ông Quỳnh quen biết cụ Phan Châu Trinh từ trường Đông Kinh Nghĩa Thục 1907, cụ cử Can là hiệu trưởng. Cho nên ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh mấy lần đến nhà ông Tạ Văn Cần đàm đạo với cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Tôi được làm chân điếu đóm của các cụ. Có một cuộc đàm đạo, ông Bạch Thái Toàn cùng dự với bốn cụ. Bạch Thái Toàn là con trai cụ Bạch Thái Bưởi. Lúc khởi đầu trên sông nước của tôi là “bồi tàu” Trưng Trắc của Công ty Bạch Thái Bưởi. Chính vì vậy mà tôi được thân quen với ông Bạch Thái Toàn. Ông Toàn là thư ký “Hội Thân Ái” mà Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lập hội. Nhờ ông Bạch Thái Toàn mà tôi biết được chút ít lai lịch của các cụ.
Đầu tháng 7/1922, tôi không còn nhớ chính xác là ngày nào, tôi trong hội chợ cùng với anh bạn đi ra phố thấy đằng phía trước ông Nguyễn Ái Quốc cùng ông Phạm Quỳnh đang sóng bước chốc chốc ghé đầu vào nhau có lẽ đang nói thầm…(Chúng tôi nhấn mạnh – PT) Tôi và anh bạn quay trở lại…chiều hôm ấy tôi về nhà ông Tạ Văn Cần, gặp cụ Phan và ông Nguyễn đang ở đây. Ông Nguyễn dặn nhỏ với tôi: thứ năm tuần tới, ngày 13/7, Vinh đến “cụ nghè Đông Ngạc” nhé. Đến sơm sớm, đó…Tức là tôi đến số 6 Villa des Gobelins, cụ nghè Đông Ngạc là tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường. Cách nói lóng này chỉ một số trong nhóm chúng tôi biết. Tôi đến sớm để làm “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc”. Tôi vừa làm bếp vừa tự hỏi – Không biết vị khách quý nào đến mà cụ nghè Tây (Phan Văn Trường) và Nguyễn Ái Quốc thết đãi, cụ Phan Châu Trinh bị cảm mạo nên không về Paris được. Hơn 8 giờ thấy ông Phạm Quỳnh tới. Ông Nguyễn Ái Quốc đợi ở cửa (Chúng tôi nhấn mạnh –PT) và đưa dẫn ông Phạm Quỳnh vào phòng. Tôi đem khay trà lên phòng mời khách. Chỉ có ba vị trong phòng thôi. Và ba vị đàm đạo tới 11 giờ, tôi cũng vừa sửa soạn xong bữa, mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần. Tôi được dự đồng bàn, đồng bữa với ba vị và hầu chuyện. Trong bữa ăn các vị không nói chuyện thời cuộc mà nói nhiều về phong hóa của nước nhà, tục lệ từng miền – và giữa bữa ăn tôi được ông Phạm Quỳnh khen: bữa cơm Việt món nào cũng ngon, đượm vị hương quan. Nhất là món lòng lợn, đặc biệt là món dồi.
Cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc gật gù tương đắc. Tôi chợt nhớ đến câu ca dao nói về món lòng lợn, buột miệng luôn:
Nhìn mặt mà đặt hình dong
Con lợn có béo, miếng lòng mới ngon
Đủ tim, gan, cổ hũ, ruột non…
Mà dồi lại dở chẳng ngon cỗ lòng
Cụ Phan vốn ít cười, đã phì cười. Ông Phạm nâng ly rượu lên nhìn tôi tươi cười và ông Nguyễn cùng nâng ly rượu, rồi cụ Phan cũng nâng ly chúc mừng. Ông Phạm Quỳnh nghiêm trang nói:
-          Anh Đào Nhật Vinh đã hàng chục năm xông pha khắp chân trời, đáy biển nào Á, Âu, Phi, Mỹ mà hồn quê, quốc túy không phai mờ! Chúc mừng anh.
Ông Nguyễn Ái Quốc tập Kiều:
Đồng bàn, đồng bát, đồng bang
Hồn quê theo áng mây ngàn cố hương.
Anh Đào Nhật Vinh một đầu bếp ngoại hạng mà lại mở quán ăn bình dân!…”
Sau bữa cơm đầm ấm, tôi bái biệt cụ Phan Văn Trường, ông Nguyễn Ái Quốc, ông Phạm Quỳnh rồi trở lại hải cảng Marseille.
Hà Nội – Chiếu Văn
8-12-2008
12/11 Mậu Tý
(Chữ ký và con dấu của nhà văn Sơn Tùng)
Lời bình của Phạm Tôn: Sáng 20/3/2009, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cùng Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911-1941. Trong 43 tham luận của các nhà nghiên cứu, cán bộ bảo tàng gửi đến, có tham luận của Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, nhan đề Những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động trên đất Pháp 1917-1923. Chúng tôi thiết nghĩ, những tư liệu của nhà văn Sơn Tùng như Nguyễn Ái Quốc đích thân tổ chức “bữa cơm Bắc, thết khách Bắc” (thuật chuyện năm 1922 tại Marseille và Paris) và Lúc này còn cụ Phạm Quỳnh thì… (thuật chuyện năm 1946 tại Fontainebleau), cả hai đều diễn ra trên đất Pháp, sẽ là những tư liệu bổ sung quý giá và hiếm có.
*
*   *
Lời bình của Phạm Tôn về các tư liệu của nhà văn Sơn Tùng – Về mối quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh
Đến đây, các bạn đã đọc xong tư liệu của nhà văn Sơn Tùng Về mối quan hệ thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh. Đây là tư liệu nhà văn đã đăng ký công bố trong hội thảo (bất thành) về Phạm Quỳnh do Viện Văn học Việt Nam dự định tổ chức vào cuối năm 1992 tại Hà Nội, nhân kỷ niệm 100 năm sinh Phạm Quỳnh.
Nhưng, đến gần ngày khai mạc, áp phích về hội thảo đã xong, chỉ chờ sử dụng vào đúng dịp gần tết năm ấy thì có “lệnh qua điện thoại” báo “tạm hoãn đến sau tết”. Đến nay, hai mươi cái tết đã qua, “hội thảo tạm hoãn” đó vẫn chưa khai mạc…
Chỉ có một cuộc tọa đàm về Phạm Quỳnh tại quê hương Hải Dương của ông do tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, hội nhà báo và đài phát thanh truyền hình tỉnh tổ chức năm 2010 và phát trong tỉnh.
Không biết sự thể sẽ thế nào nếu ngay từ năm 1992 ấy, cách nay ngót hai thập kỷ, các tư liệu quí này đã đến được với đông đảo người Việt Nam chúng ta ở cả trong và ngoài nước. Mọi người Việt Nam đều biết được những lời nói chí minh, chí nhân, chí thiện, chí thành về Phạm Quỳnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng Giải phóng Dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới. Người thốt lên “Bất tất nhiên” (Không nhất định phải làm như vậy.) khi mới hay tin Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế, rồi phẫn nộ nói: “Giết một học giả như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp! Đó không phải là người xấu!” sau khi nghe Tôn Quang Phiệt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thành phố Huế báo là “Cụ Phạm Quỳnh bị khử mất rồi!” và đầy tiếc nuối nói với các cán bộ đoàn đàm phán của chính phủ ta với chính phủ Pháp tại hội nghị Fontainebleau năm 1946: “Lúc này còn Cụ Phạm Quỳnh thì…” Và Phạm Văn Đồng đáp lời: “Bất tất nhiên, Bác đã nói rồi mà!…”





 

1 nhận xét:

  1. Độc bài viết này mới thấy Ông Phạm Quỳnh quả là người nặng lòng với nước

    Trả lờiXóa