Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi 
Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :


Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó 
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)
Č
ą
ď
thanh giang,
Nov 30, 2011 8:43 PM

Comments

thanh giang - Nov 29, 2011 10:15 AM
Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số tử vi ?

- Cụ Quản Văn Chính, cử nhân Việt Hán -



I.Mối tương quan giữa sao Chính thủ mệnh và cung An Mệnh cùng Bản Mệnh.


1/Sao chính diệu và cung an Mệnh. Thế nào là Miếu địa và hãm địa ?


Tỷ như sao chính thủ Mệnh là sao Tử vi mà đóng tại cung Ngọ thì được gọi là ông vua ở chính ngôi hay TỬ VI MIẾU ĐỊA bởi lẽ Tử vi thuộc hành Thổ đóng tại cung Ngọ thuộc hành hỏa, Hỏa sanh Thổ.

Nhưng thật ra việc ngũ hành sinh khắc ở đây có thể chỉ là việc thứ yếu. Theo nền triết lý của Á đông ta – mà thuyết chính danh, chính vị rất quan trọng, thì cung Ngọ được coi là cung chính yếu, là chỗ cao quý nhất dành cho vị chúa tể ở dưới đất là ông Vua mà ở trên Trời mà là ( Trời hay Vũ trụ Tử vi ) là sao Tử Vi, sao đầu trong hệ thống tinh tú của lá số.

Vì vậy mà theo nguyên tắc “ Song Phương “ Ngọ đối với Tý sao Tử vi đóng ngay cung Tý ( thuộc hành Thủy mà Thủy khắc Thổ cũng được coi là Miếu địa.

Nhưng cũng vì lẽ sinh khắc nên khi dạy đoán số tử vi sách đã phải viết:
- “ Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ “
- “ Mệnh tọa cường cung, tu sái chế đa chi lý “
Câu thứ nhất có nghĩa là, “ Sao đóng ở cung đã được ghi là Miếu Vượng thì phải nhớ, nhưng nếu muốn đóan cho đúng, cần xem kỹ lại để biết sao ấy sinh khắc thế nào với cung an Mệnh.

Đến đây tôi xin được mở một ngoặc lớn để trình bày với quý vị độc giả một nhận xét cá nhân như sau:
- Trang báo SM trước đây một bạn đồng nghiệp của tôi ông Đoàn Đình Quất có chủ trương dùng toàn chữ Việt để giảng giải về khoa Tử vi cho đỡ mất thì giờ của bạn đọc cũng như đỡ tốn giấy, tốn mực và phí công ấn loát. Đành là như thế, nhưng tôi thiết nghĩ việc xài chữ Hán Việt tức là chữ Hán theo mâu tự La Tinh trong việc nghiên cứu về khoa Tử vi rất có lợi.
Thứ nhất, những sách cổ viết về khoa này đều là những sách chữ Hán mà sự trích dịch ra chữ Việt đều bị ít nhiều sai lạc. Một chứng cớ thông thường nhất là trong sách chữ Hán có câu phú:

_ “ Tử Vũ tài năng cự tú Đồng Lương Xung thả hợp “

Hầu hết các sách viết bằng chữ Việt đều giảng là: Người có sao Tử vi và Vũ Khúc hợp với sao Đồng Lương là có tài năng . Thật ra, Tử vi đó là tên ông Tử Vũ chứ không phải Tử vi và Vũ Khúc.

Lại nữa, việc dùng chữ Hán Việt sẽ giúp những ai muốn nghiên cứu thật sâu rộng về khoa Tử vi, có thể làm quen với chữ Hán để một ngày kia đọc thêm những sách do chính Trần Đoàn viết mà Trần Đoàn, vị Tổ Sư của khoa tướng số là một người Trung Quốc sanh vào đời Tống sơ. Thêm vào đó, khi sang Đài Loan vào năm 1964 để nghiên cứu về khoa trắc nghiệm tâm lý, tôi đã có dịp làm quen với mấy nhà tri thức chuyên khảo cứu khoa Tử vi. Họ cho biết rằng:

- Hiện nay ở Đài Loan người ta không còn lập cung mệnh cho những người sanh tháng nhuận một cách máy móc là ngày đầu trong tháng nhuận tính như 15 ngày đầu của tháng chính và 15 ngày sau tính vào tháng tiếp. Nay, người ta căn cứ vào tiết của tháng chính tháng nhuận để quyết định.
Cũng như việc giáp giờ người ta không lấy cả hai lá số để xem giờ nào hợp hơn mà người ta đếm khoáy trên đầu.

Vì mới biết lối mới này có 7, 8 năm nên tôi chưa dám nói lối nào đúng hơn tôi chỉ xin nói để làm tỷ dụ rằng biết đọc chữ Hán lợi lắm cho việc nghiên cứu tử vi, cũng như muốn giỏi về khoa chỉ tay mà không đọc được sách của Cheiro viết bằng tiếng Anh hay sách của Capitaine d’Arpentigny viết bằng tiếng Pháp thì không sao giỏi được.
Vì những lẽ đó mà tôi ưa dùng chữ Hán Việt.

Trở lại mối tương quan, không những Tử vi đóng tại cung Ngọ là miếu địa, mà tại cung Tý hay Dần Thân cũng là Miếu, dù hai hành không tương sinh.

Vì thế Miếu hay Hãm không chỉ căn cứ vào luật Ngũ hành mà quyết định, mà còn căn cứ cả vào học thuyết Chính danh Chính vị nữa ! Thật là phiền phức, cũng như tất cả những điều phiền phức khác mà tôi đã nêu ở trên. Vì thế là con người khá thực tế trong công việc nghiên cứu tôi đã hơn một lần định chỉ học kỹ về khoa xem chỉ tay rồi hiện nay, tôi tránh né những khó khăn của Tử vi bằng khoa xem chỉ tay.

Vì tránh né nên tôi cũng không quá nệ sách, tôi chỉ dùng có 2 trường hợp: sao chính diệu đắc địa hay hãm địa mà thôi.

Đến đây để câu chuyện đỡ khô khan, tuy tôi đã đưa ra rất nhiều nhận xét có thể gọi là mới mẻ và hấp dẫn tôi xin dẫn ít nhiều tỷ dụ cụ thể để chứng minh rằng sao chính diệu đóng tại miếu địa tốt ra sao và hãm địa xấu thế nào ?

Chắc quý vị độc giả còn nhớ lần trước tôi có ghi lá số của tuổi Tân dậu tháng 9 ngày 23 giờ thìn, người thanh niên này nhờ có sao Tử Vi cư Ngọ mà mới chưa đầy 30 tuổi đã công thành danh toại với chức vụ Tri huyện vào năm 1944, tức là mới có 22 tuổi đã xong cử nhân luật trong thời Pháp thuộc tại Hà Nội trong khá nhiều bọn đồng tuế lẹ lắm là đỗ xong tú tài II hay một hai phần cử nhân là nhiều.

Nhưng vì Mệnh của ông ta thuộc hành Mộc, đóng tại cung Ngọ, hành hỏa nên…. ( xin quý vị độc giả viết tiếp cho )

Trái lại ông sau này tuổi Bính Thìn sanh vào tháng 5 ngày 20 giờ Tý thì thật là tốt.
- Mệnh hành Thổ Ngọ cung hành Hỏa sanh Thổ, nên chưa đến 40 tuổi đã làm đến Thượng Thư đúng như câu phú:

- “ Tử vi cư Ngọ, vô sát tấa vị chí công khanh “


Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung ?



Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn I. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia “ cường nhược “ này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là “ về phụ nữ , cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.

Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tý được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:

- Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy: “ Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý “. Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tý hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa ( thay đổi thêm bớt ) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề.

- Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tý và Ngọ ?

Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa , sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tý thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tý là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.

- Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tý, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh ) và xấu ra sao ?

Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÝ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là “ Nhược cung “ mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tị Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh ?
- Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.

Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay ( hay Bình hòa ) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.

Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.

Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh ( hãm địa ) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.
- Đinhh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng “ Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu “

Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là “ Cường “ vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tị Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh !

Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung “ nhược “ nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi “ trú ngụ “ của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.

Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái “ chế hóa “ để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.

3/ TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:


Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tị Hợi,

“ Liêm , Tham, Tị , Hợi hình ngục nan đào “ hai chính tinh này đóng ở Tị Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội “
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.
a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kỵ cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kỵ là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.

b/ Tham Liêm đóng tại cung Tị mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kỵ lại tốt vì tuy Hóa Kỵ ( thủy ) khắc Liêm ( Hỏa ) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.

(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất )
Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.
Tôi chỉ gặp trường hợp:

- Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn ( dương nam ) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kỵ.

- Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ ( nữ )

Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.
thanh giang - Nov 30, 2011 8:42 PM
TẤT CẢ CáC NGUYêN TẮC – ĐỊNH Lý ĐỂ GIẢI ĐOáN Lá SỐ TỬ VI

TRẦN VIỆT SƠN

Chúng tôi viết loạt bài này để đáp ứng sự đòi hỏi của các bạn trẻ ham học Tử Vi, dĩ nhiên là ham tìm biết cách giải đoán chứ không phải là ham lấy được lá số, vì lá số thì ai cũng lập được với 1 cuốn sách Tử Vi trên tay

Chúng tôi đã không thể cống hiến loạt bài này sớm là vì chÍnh chúng tôi còn phải thắc mắc do chỗ các vị kinh nghiệm Tử Vi đã không thống nhất khi đưa ra những giải đáp của chúng tôi, để chúng tôi bổ túc cho những hiểu biết cũ. Muốn tìm hiểu mà gặp những luận giải khác nhau thì thật đáng phải thắc mắc
Nhưng chúng tôi đã được lời giải thÍch của 1 vị học giả uyên thâm về triết Đông, cụ hoàng hạc, khiến chúng tôi vững tâm theo đuổi:
Khoa tử vi không phải 1 khoa học chÍnh xác nên ta không thể đòi hỏi những định lý và kinh nghiệm giống nhau. Nếu sắp đặt tất cả thành những định lý cố định, môn Tử Vi sẽ bất đúng. Chỉ có 1 số định lý thôi, đó là chưa kể rằng con người còn có khả năng hành động để cải thiện số mệnh mình, và lá số Tử Vi trở thành 1 cẩm nang chỉ đường chứ không phải là 1 bản ghi trước số mạng. Số mạng chỉ có khi ta buông thả hết trong cuộc sống. Còn nếu muốn có tất cả những định lý thì phải rất nhiều định lý : hàng ngàn, hàng chục ngàn định lý, mỗi trường hợp, mỗi cách là 1 định lý. Như thế ta sẽ không áp dụng được. vậy chỉ nên có rất Ít định lý
Vì khoa Tử vi không phải là khoa học chÍnh xác, cho nên ta đừng ta thắc mắc về những kinh nghiệm hay những luận giải mâu thuẫn nhau. Mới học tử vi, ta nên có thái độ thanh thản, chấp nhận hết, thu nhận hết, rồi ta kiểm điểm xem cái nào đúng, cái nào sai, từ đấy mà ta thâu hợp các kinh nghiệm. Ngay cả những cách trong các bài phú cổ, ta cũng không nhất thiết cho là đúng, mà chỉ ghi để kiểm nghiệm và tìm tòi them. VÍ dụ : trông rõ cách tốt mà đương số lại bị xấu, ta tìm xem tại sao mà xấu, có cách nào phá và ta thu nhận lấy kinh nghiệm. Trong thời gần đây, chúng tôi có được 1 số kinh nghiệm đã được kiểm chứng , sẽ xin trình bày lại thành định lý khi có thể (xiin nói rõ là khi có thể thì trình bày thành định lý, chứ không phải điều nào cũng thành định lý)

MỘT LỐI HỌC Và NGHIêN CỨU

Các cụ Hoàng Hạc, Thiên Lương đã chỉ dẫn 1 lối học giải đoán Tử vi hợp lý như sau:
Sau khi thu nhận những pháp giải đoán căn bản, ta nên thâu lượm nhiều lá số để áp dụng. Nên xem thật nhiều những lá số của người quen, những người mà ta có thể theo dõi cuộc đời. Rồi ta áp dụng các phép đoán. Chúng ta biết được họ gặp biến cố gì trong đời (thi đậu, lấy vợ, đẻ con, đi làm, thất nghiệp, phát tài, mất của…), ta lấy lá số ra xét. Do chỗ đó mà ta thâu kinh nghiệm. Nên kiếm các lá số thuộc mọi loại người sang, hèn, người có công danh, giàu có….để tìm hiểu thêm. Ngoài rat a cũng học hỏi những lời giải đoán trên lá số có sẵn (tiện đây, xin ghi rằng KHHB đã có hàng trăm lá số với lời giải đoán. Ngoài ra, trong phần xem số cho bạn đọc, mỗi khi trả lời lá số nào, đều có ghi ngày giờ sanh đầy đủ, là để những bạn thÍch tử vi có những cơ hội để nghiên cứu them

NHỮNG DỤNG CỤ ĐẦU TIêN

Để áp dụng luôn luôn, vào lúc đầu, những quy tắc về âm Dương Ngũ Hành, quý bạn nên lập những bảng ghi những điều cần dung, gọi là các “dụng cụ”. Như vậy là để xem đến luôn luôn, khỏi mất công giở sách, mất nhiều thời gian. Về sau, khi đã xem nhiều, quý bạn sẽ quen với các cung, hành và âm dương. Phương hướng của cung, hành và âm Dương của các sao chÍnh….
Mời quý bạn ghi những điểm ở các hình sau đây vào 1 cuốn sổ tay hoặc vào tấm giấy cứng, cùng với hành và âm Dương của các sao với các cung miếu , hãm như sau:

CUNG âM DƯƠNG Và TêN CáC CUNG


CáCH THỨC ĐỂ DỄ NHỚ :

- Nhớ khởi từ cung TÍ, rồi cứ thế khởi theo chiều thuận (chiều kim đồng hồ), theo thứ tự mà các bạn phải học thuộc long : TÍ – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tị - Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi. Các bạn cũng nhớ them trên bàn tay, cung TÍ là ngấn dưới của ngón tay áp út (người ta bảo đi đêm sợ má, lấy ngón cái bấm cung TÍ trên bàn tay, tinh thần sẽ vững lên, đó là do nhận điện không bị xuất ra ngoài lúc ta sợ)
- Ngoài ra các tên địa chỉ vừa kể đi cặp đôi, chữ đầu là Dương và chữ sau là âm, TÍ là Dương, Sửu là âm….

HàNH Và PHƯƠNG CáC CUNG

Xin coi hình sau để ghi nhớ :
CáCH NHỚ :
- Nhớ THìN TUẤT SỬU MùI là 4 cung THỔ
- Ngoài ra các cung đi cặp đôi từng hành 2 cung :
HỢI, TÍ : THỦY –
DẦN, MãO : MỘC –
TỊ, NGỌ : HỎA –
THâN, DẬU : KIM
- Để nhớ phương, nên ghi rằng Đông Phương lấy Bắc ở dưới, nam ở trên, 4 cung chÍnh phương :
TÍ : BẮC
MãO : ĐôNG
NGỌ : NAM
DẬU : TâY
- Từng mùa 3 tháng.
DẦN – MãO – THìN : tức tháng Giêng, 2, 3 : mùa XUâN
TỊ - NGỌ - MùI : tháng 4, 5, 6 : mùa HẠ
THâN – DẬU – TUẤT : tháng 7, 8, 9 : mùa THU
HỢI – TÍ – SỬU : tháng 10, 11, 12 : mùa ĐôNG
Do đó, 4 cung Thổ còn tùy theo mùa mà nghiêng sang hành khác, như cung THìN là THỔ MỘC; cung MùI là THỔ MỘC; cung TUẤT là THỔ KIM; cung SỬU là THỔ THỦY



NHỚ THêM :
- TÍ : CHÍNH THỦY
- NGỌ : CHÍNH HOA
- MãO : CHÍNH MỘC
- DẬU : CHÍNH KIM

NGUYêN TẮC VỀ NGŨ HàNH

NGŨ HàNH TƯƠNG SINH :


- KIM sinh THỦY : Kim chảy ra thành Thủy
- THỦY sinh MỘC : Thủy tưới nuôi cây mộc
- MỘC sinh HỎA : Mộc đốt thành ra hỏa
- HỎA sinh THỔ : hỏa đốt cháy các vật, nhập vào Thổ
- THỔ sinh KIM : Trong Thổ có sinh ra Kimh (quặng kim khÍ)
NGŨ HàNH TƯƠNG KHẮC :


- KIM khắc MỘC : dao cắt gổ
- MỘC khắc THỔ : cây che mặt đất, cây rút chất bổ ở đất
- THỔ khắc THỦY : đất hút nước, gò đất chận nước
- THỦY khắc HỎA : nước dập tắt lửa
- HỎA khắc KIM : lửa nấu cháy kim khÍ

CáC CHÍNH TINH. PHƯƠNG, HàNH, âM DƯƠNG
TỬ VI :
- Nam Bắc đẩu tinh.
- Dương Thổ
- Miếu tại Tị, Ngọ, Dần, Thân. Vượng tại Thìn, Tuất. Đắc tại Sửi, Mùi. Bình tại hợi, TÍ, Mão, Dậu. Không có hãm
LIêM TRINH :
- Bắc đẩu tinh
- âm hỏa
- Miếu tại Thì Tuất, vượng tại Tị Ngọ Dần Thân. Đắc tại Sửu Mùi. Hãm tại Tị Hợi Mão Dậu
THIêN ĐỒNG:
- Nam đẩu tinh
- Dương Thủy
- Miếu tại Dần Thân. Vượng tại TÍ. Đắc tại Mão Tị Hợi. hãm tại Ngọ Dậu Thìn Tuất Sửu Mùi
VŨ KHúC :
- Bắc đẩu tinh
- âm kim
- Miếu tại Thìn Tuất Sửu Mùi. Vượng tại Dần Thân Tị Ngọ. Đắc tại Mão Dậu. Hãm tại Tị Hợi
THáI DƯƠNG
- Nam đẩu tinh
- Dương hỏa
- Miếu tại Tị Ngọ. Vượng tại Dần Mão Thìn. Đắc tại Sửu Mùi. Hãm tại Thân Dậu Tuất hợi TÍ
THIêN CƠ
- Nam đẩu tinh
- âm mộc
- Miếu tại Thìn Tuất Mão Dậu. Vượng tại Tị Thân. Đắc tại TÍ Ngọ Sửu Mùi. Hãm tại Dần hợi
THIêN PHỦ
- Nam đẩu tinh
- âm Thủy
- Miếu tại Dần Thân TÍ Ngọ. Vượng tại Thìn Tuất. Đắc tại Tị Hợi Mùi. Không có hãm
THáI âM
- Bắc đẩu tinh
- âm Thủy
- Miếu tại Dậu Tuất hợi. vượng tại Thân TÍ. Đắc tại Sửu Mùi. Hãm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ
THAM LANG
- Bắc đẩu tinh
- âm Thủy
- Miếu tại Sửu Mùi. Vượng tại Thìn Tuất. Đắc tại Dần Thân. Hãm tại Tị Hợi TÍ Ngọ Mão Dậu
CỰ MôN
- Bắc đẩu tinh
- âm thủy
- Miếu tại Mão Dậu. vượng tại TÍ Ngọ Dần. Đắc tại Thân Hợi. Hãm tại Thìn Tuất Sửu Mùi Tị
THIêN TƯỚNG
- Nam đẩu tinh
- Dương Thủy
- Miếu tại Dần Thân. Vượng tại Thìn Tuất Ngọ. Đắc tại Sửu Mùi Tị Hợi. Hãm tại Mão Dậu
THIêN LƯƠNG
- Nam đẩu tinh
- âm Mộc
- Miếu tại Ngọ Thìn Tuất. Vượng tại TÍ Mão Dần Thân. Đắc tại Sửu Mùi. Hãm tại Dậu Tị Hợi
PHá QUâN
- Bắc đẩu tinh
- âm thủy
- Miếu tại TÍ Ngọ. Vượng tại Sửu Mùi. Đắc tại Thìn Tuất. Hãm tại Mão Dậu Dần Thân Tị Hợi
THẤT SáT
- Nam đẩu tinh
- Dương Kim
- Miếu tại Dần Thân TÍ Ngọ. Vượng tại Tị Hợi. Đắc tại Sửu Mùi. Hãm tại Mão Dậu Thìn Tuất

CáC TRUNG TINH
VĂN XƯƠNG – KIM ĐỚI THỔ
VĂN KHúC – THỦY ĐỚI HỎA
THIêN KHôI – HỎA ĐỚI KIM
THIêN VIỆT – HỎA ĐỚI MỘC
TẢ PHỤ - THỔ ĐỚI KIM
HỮU BẬT – THỦY ĐỚI THỔ
LỘC TỒN – THỔ ĐỚI THỦY
HóA LỘC – MỘC ĐỚI THỔ
HóA QUYỀN – MỘC ĐỚI THỦY
HóA KHOA – MỘC ĐỚI THỦY
THIêN Mã – HỎA
LONG TRì – THỦY
PHƯỢNG CáC – MỘC ĐỚI THỔ
TAM THAI – THỦY
BáT TỌA – MỘC
âN QUANG – MỘC
THIêN QUý – THỔ
THIêN TàI – THỔ
ĐàO HOA – MỘC
HỒNG LOAN – THỦY
THIêN HỈ - THỦY
THAI PHỤ - KIM ĐỚI THỔ
PHONG CáO – THỔ ĐỚI THỦY
QUỐC ẤN – THỔ
ĐƯỜNG PHù – MỘC
THIêN THỌ - THỔ
BáC SĨ – THỔ
LƯU NIêN VĂN TINH – HỎA
HOA CáI - KIM
THIêN TRù – THỔ
THIêN QUAN QUý NHâN – HỎA
THIêN PHúC QUý NHâN – THỔ
THIêN GIẢI – HỎA
ĐỊA GIẢI – THỔ
GIẢI THẦN – MỘC
THIẾU DƯƠNG – HỎA
THIẾU âM – THỦY
THIêN ĐỨC – HỎA
NGUYỆT ĐỨC – HỎA
THIêN Y – THỦY
QUAN PHỦ - HỎA
LONG ĐỨC – THỦY
PHúC ĐỨC – THỔ
LỰC SĨ – HỎA
THANH LONG – THỦY
TƯỚNG QUâN – MỘC
TẤU THƯ - KIM
PHI LIêM – HỎA
HỈ THẦN – HỎA
TRƯỜNG SINH – THỦY
MỘC DỤC – THỦY
QUAN ĐỚI - KIM
LâM QUAN - KIM
ĐẾ VƯỢNG - KIM
SUY – THỦY
BỆNH – HỎA
TỬ - THỦY
MỘ - THỔ
TUYỆT – THỔ
THAI – THỔ
DƯỠNG – MỘC

CáC HUNG TINH
LỤC SáT TINH
1. KìNH DƯƠNG - KIM
2. Đà LA - KIM
3. HỎA TINH – HỎA
4. LINH TINH - LINH
5. ĐỊA KHôNG – HỎA
6. ĐỊA KIẾP – HỎA
LỤC BẠI TINH
7. ĐẠI HAO – HỎA
8. TIỂU HAO – HỎA
9. TANG MôN – MỘC
10. BẠCH HỔ - KIM
11. THIêN KHỐC – THỦY
12. THIêN HƯ – THỦY
CáC HUNG TINH KHáC
13. THIêN KHôNG – HỎA
14. HóA KỊ - THỦY
15. THIêN HìNH – HỎA
16. THIêN DIêU – THỦY
17. Cô THẦN – THỔ
18. QUẢ Tú – THỔ
19. ĐẨU QUâN – HỎA
20. THIêN THƯƠNG – THỔ
21. THIêN SỨ- THỦY
22. KIẾP SáT – HỎA
23. LƯU Hà – THỦY
24. PHá TOáI – HỎA ĐỚI KIM
25. THáI TUẾ - HỎA
26. TỬ PHù – HỎA
27. TRỰC PHù – HỎA
28. TUẾ PHá – HỎA
29. ĐIẾU KHáCH – HỎA
30. BỆNH PHù – THỔ ĐỚI MỘC
31. PHỤC BINH – HỎA
32. QUAN PHù – HỎA

MỘT TIẾNG CHUÔNG KHÁC VỀ VÒNG TRÀNG SINH

Nhận xét về: 1) Tứ mộ 2) Sao Mộ 3) Mộ khố 4) Ngũ hÀnh sinh khắc vÀ Ngũ hÀnh đồng loại.

Lê Ốc Mạch

Chúng tÔi viết bÀi nÀy để giải thích về tứ Mộ, sao Mộ vÀ Mộ khố với mục đích để quý vị độc giả KHHB đang muốn hỏi thêm về Tử vi đẩu số rút thêm kinh nghiệm vÀ chúng tÔi ước mong rằng quý Cụ cao niên uyên thâm về khoa Tử vi đẩu số chỉ điểm cho những chỗ sai lầm thì thật lÀ vạn hạnh.

A-Tứ mộ

Tử vi đẩu số có 12 cung, mỗi cung mang tên một trong Thập nhị địa chi lÀ Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thuộc Thổ cho nên cÁc cụ tiền nhân gọi lÀ Tứ Mộ

B-Sao Mộ

Khi con người được sinh ra mỗi người có số mệnh của mình gọi lÀ Thiên Mệnh cũng thế. NgÀi Hi Di Trần ĐoÀn lập ra vÒng TrÀng sinh theo thuyết nhÀ Phật, gồm có 12 sao lÀ:

-TrÀng sinh tiêu biểu cho sự được Trời sinh ra.
-Mộc dục tiêu biểu cho sự tắm gội, giữ vệ sinh
-Quan đới tiêu biểu cho sự thích lÀm quan cho oai vệ
-Lâm quan tiêu biểu cho sự thích khoe khoang lÀm giÁng
-Đế vượng tiêu biểu cho sự lập cÔng tích đức để được giÀu sang mỗi ngÀy mỗi tăng.
-Suy tiêu biểu cho sự giÀ nua suy yếu.
-Bệnh tiêu biểu cho sự bệnh hoạn lúc giÀ.
-Tử tiêu biểu cho sự chết lÀ linh hồn lìa xÁc
-Mộ tiêu biểu cho sự chÔn cất, thÀnh mồ mả.
-Tuyệt tiêu biểu cho sự cắt đứt với cuộc đời trần tục
-Thai tiêu biểu cho sự đầu thai lên lÀm kiếp khÁc theo thuyết nhÀ Phật vÀ cÒn có ý nghĩa nữa lÀ thÀnh cÁi bÀo thai trong bụng mẹ.
-Dưỡng tiêu biểu cho sự được nuÔi dưỡng trong bụng mẹ. Chúng tÔi tự đặt ra câu hỏi: Trong 12 sao trên đây tại sao Sinh, Vượng, Mộ lại lÀ tốt, nhất lÀ Mộ lÀ mồ mả thì tốt ở chỗ nÀo?

Xin thưa: Sinh lÀ được sinh ra lÀm người do Thiên Mệnh lÀ tốt lắm, vì theo thuyết luân hồi nhÀ Phật thì có người vì tội lỗi phải đầu thai lÀm súc vật kia mÀ, do đó được lÀm người lÀ sung sướng lắm.

Vượng lÀ lÀm ăn thịnh vượng giÀu sang cho nên nói lÀ quí lắm.
CÒn Mộ thì có chết mới có chÔn, chết bờ chết bụi, chết tại phÁp trường cÁt lÀ chết Ô nhục, cÒn như chết mÀ được chÔn cất, có mồ mả đÀng hoÀng thì đó lÀ sự vinh hạnh đấy.

Do sự giải thích trên đây mÀ TrÀng sinh, Đế vượng vÀ Mộ lÀ ba sao tốt nhất trong vÒng TrÀng sinh.

Chúng tÔi đọc sÁch Tử vi chữ Việt, cho nên khÔng thấy sÁch nÀo nói rằng sao Mộ phải an vÀo Tứ Mộ. Quý vị độc giả của giai phẩm KHHB thấy “sao Mộ” phải an vÀo tứ Mộ nói trong cuốn sÁch nÀo, xin cho biết, chúng tÔi cảm tạ trước.

Chúng tÔi lại nhận thấy trong mấy lÁ số Tử vi đăng trong KHHB, mấy đương số lÀ âm Nam Dương Nữ được sao Mộ an ở Tứ Mộ, thÀnh ra lÀm cho hai sao TrÀng sinh vÀ Tuyệt, thay vì an ở Dần Thân Tị Hợi lại được an ở Tứ chính (Tý Ngọ Mão Dậu). Vốn có mÁu giang hồ, anh hùng rơm, chúng tÔi thích tính chuyện lỗ lãi, vÀ ở đây chúng tÔi thấy sự đổi chÁc nÀy lÀ đổi hai lấy một cho nên chúng tÔi cho lÀ bị lỗ vốn nên khÔng chịu đâu, quý cụ ạ. Vả lại, nếu TrÀng sinh vÀ Tuyệt khÔng an ở Dần Thân Tị Hợi mÀ được an ở Tí Ngọ Mão Dậu thì định nghĩa của bốn cung Dần Thân Tị Hợi lÀ Tứ sinh hay Tứ tuyệt hẳn sai rồi!.

Chúng tÔi vẫn có ý nghĩ lÀ vÒng TrÀng sinh tiêu biểu cho Mệnh, cũng như vÒng Lộc tồn tiêu biểu cho Thân vÀ vÒng ThÁi tuế tiêu biểu cho Hạn. Trong ba vÒng nÀy thì vÒng TrÀng sinh lÀ quan trọng hơn cả, vì muốn an Lộc tồn chỉ cần biết Can của năm sinh, muốn an ThÁi tuế chỉ cần biết năm sinh lÀ năm thuộc Địa chi nÀo, cÒn như muốn an TrÀng sinh thì khó hơn, phải biết thÁng sinh, giờ sinh để an Mệnh, rồi theo vị trí của Mệnh ở cung nÀo, với Can của năm sinh mÀ tính ra Cục để an TrÀng sinh.

Cũng như vÒng TrÀng sinh lÀ quan trọng thì vÒng Tử vi vÀ vÒng Thiên Phủ cũng quan trọng hơn cÁc vÒng sao khÁc cÒn lại. Muốn an Tử vi, sau khi biết Cục, phải biết ngÀy sinh của đương số nghĩa lÀ cần cả bốn điều: năm, thÁng, ngÀy, giờ sinh. Trong khi đó thì vÒng Tả Phụ, Hữu Bật chỉ cần biết thÁng sinh; vÒng Văn khúc, Văn xương chỉ cần biết giờ sinh; vÒng Long trì, Phượng cÁc chỉ cần biết năm sinh (Địa chi); vÒng ân quang, Thiên Quí thì cần biết ngÀy sinh, vÀ Thiên KhÔi, Thiên Việt, thì cần biết năm sinh (Thiên Can)…

Khi đoÁn một lÁ số Tử vi, chúng ta nên nhớ:
1)VÒng Tử vi Thiên Phủ chỉ cần một sao gọi lÀ chính tinh (có khi có hai chính tinh đồng cung) lÀ chúng ta có thể giải đoÁn lÀ tốt hay xấu.

2)CÁc vÒng sao bÀng tinh như Tả Phụ, Hữu bật, Văn khúc, Văn Xương, Long Trì, Phượng CÁc…thì cần phải đủ bộ mới quyết đoÁn lÀ tốt, nếu chỉ có một thì ảnh hưởng ít lắm.

3)CÁc sao nhỏ khÁc thì cần phải có ba sao họp lại mới có hiệu lực mạnh mẽ hoặc tốt hoặc xấu.

Về việc giải thích trên đây chúng tÔi xin lấy tỷ dụ một bao gạo 100 kí. Một người khỏe thì có thể một mình vÁc bao gạo, đối với người yếu hơn thì cần phải hai người vÀ đối với người yếu hơn nữa thì cần phải có ba người mới khuân được bao gạo.

C-Mộ khố

Khoảng trống ở giữa 12 cung gọi lÀ Thiên bÀn để ghi: Năm, ThÁng, ngÀy giờ sinh. Kế đến lÀ Bản mệnh (ngũ hÀnh) vÀ Cục, năm thÁng ngÀy giờ vÀ Cục đều có chỗ để dùng rồi, thế cÒn Bản mệnh? Chẳng lẽ khÔng dùng đến sao? Xin thưa lÀ có chỗ dùng chứ, chúng ta phải dùng bản mệnh để tìm Mộ khố (cÁi kho tÀng thạt sự đấy quí vị ạ). Trong sÁch có câu:
“Nạp âm mộ khố khÁn hÀ cung”.
Xin tạm dịch: xem cung nÀo để nạp âm Mộ khố? Thế cÒn nạp âm Mộ khố nghĩa lÀ gì?

Chúng tÔi cũng tÁo bạo mÀ giải thích ý nghĩa câu “Nạp âm mộ khố khÁn hÀ cung” như sau đây:
Chúng ta phải dùng vÒng TrÀng sinh, theo Bản mệnh (ngũ hÀnh) rồi theo chiều thuận như vÒng Thiên Phủ, ThÁi âm khi thấy sao Mộ ở đâu đó lÀ Mộ Khố.

Người nÀo tốt phúc Mệnh viên an vÀo Mộ khố thì gọi lÀ Thiên khố, cÁi kho tÀng của Trời cho, nếu cung TÀi Bạch an đúng Mộ khố thì gọi lÀ TÀi Khố, cÁi kho tÀng tiền bạc nếu cung Quan lộc an vÀo Mộ khố thì gọi lÀ Quan khố, cÁi kho tiền bạc tiếp tÀi, tiếp lộc cho đương số vÀ nếu cung Thiên Di an ở Mộ khố thì gọi lÀ Kiếp Khố, cÁi kho tÀng của kiếp người đi ra ngoÀi.

Mộ khố gặp lộc tồn, Hóa Lộc thì tốt thêm, nếu có Kiếp KhÔng vÀ SÁt tinh hội họp thì kém phần rực rõ. Dưới đây lÀ:
Bảng TrÀng sinh để tìm Mộ khố
Theo bản Mệnh (ngũ hÀnh)

D-Ngũ hÀnh sinh khắc vÀ Ngũ hÀnh đồng loại

Trong khi giải đoÁn một lÁ số Tử vi, khÔng những chỉ xem cÁc sao tốt xấu, cÒn cần phải thuộc Ngũ hÀnh tương sinh, tương khắc để xem sao với cung sinh khắc ra sao, vÀ Bản Mệnh với Sao vÀ Cung sinh khắc ra sao. Chúng ta nên thận trọng khi đoÁn về hạn, vì Mệnh viên vÀ Thân giải đoÁn có sai cũng ít hại bằng giải đoÁn tiểu hạn vÀ đại hạn sai lầm.

Về Ngũ hÀnh sinh khắc, chúng tÔi có vÀi thắc mắc xin nêu ra đây để quí Cụ vÀ quí vị giải thích dùm cho:

Tương sinh:
Kim sinh Thủy
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim

Tương khắc:
Kim khắc Mộc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim

Đó lÀ việc cố nhiên rồi nhưng mÀ:
Thủy với Thủy thì sao?
Mộc với Mộc thì sao?
Hỏa với Hỏa thì sao
Thổ với Thổ thì sao?
VÀ Kim với Kim thì sao?

Năm câu hỏi trên đây chúng tÔi dÁm chắc lÀ khÔng có sÁch nÀo giậy về âm Dương nói đến.

Khi chúng tÔi nêu thắc mắc lên lÀ chúng tÔi đã suy nghĩ về vấn đề nÀy lung lắm từ lâu rồi. Theo thiển ý thì:
Kim với Kim lÀ tốt
Hỏa với Hỏa lÀ tốt
Mộc với Mộc lÀ xấu
Thủy với Thủy lÀ xấu
CÒn Thổ với Thổ lÀ bình thường.

ThÀnh thật trình bầy mấy lời, kính mong Quí Cụ vÀ Quí vị độc giả KHHB thÔng cảm mÀ nhuận chính cho

KHHB số 74G1
thanh giang - Nov 30, 2011 8:44 PM
Kinh nghiệm tử vi

NHỮNG YẾU TỐ LINH ĐỘNG TRONG VIỆC GIẢI ĐOÁN TỬ VI
Về lý thuyết và thực hành cÁc sao Lộc tồn, Hóa lộc, Tang, hổ, Hóa Kỵ
Vận hạn
Sinh khắc giữa hành Mệnh và cung an Mệnh.

Phong Nguyên

Nhiều vị cao thủ về Tử vi đã từng tâm sự với tôi rằng khi mới biết sơ qua về cÁch giải đoÁn Tử vi thường thường ta thấy khoa Tử vi cũng giản dị và rõ ràng nhưng khi đã đạt được mức thâm thúy thì đôi lúc lại thấy việc giải đoÁn quả khó khăn, dễ bị sai lầm và có thể còn thấy mù mịt, không còn biết đi tới kết luận nào nữa. Mới thoạt nghe tâm sự như vậy ai cũng tưởng cÁc vị đó quÁ nhún mình hoặc giÁn tiếp giấu nghề, nhưng sau khi nghe cÁc vị đó giải thích và trình bầy nhiều khía cạnh thì chúng ta không thể không dè dặt khi đoÁn số Tử vi. Đó là lý do đã thúc đẩy tôi viết bài hôm nay để thảo luận cùng quý bạn về đôi lời tâm sự của cÁc nhà Tử vi kể trên.

Thực vậy, sau khi đã qua được giai đoạn ABC về tử vi, tôi mới nhận thấy rằng có cÁc sao tốt hoặc cÁc yếu tố Tử vi tốt cũng chưa thể cho là tốt, ngược lại cũng vậy, đành rằng tỷ lệ tốt của cÁc sao tốt vẫn luôn luôn cao hơn tỷ lệ tốt của cÁc sao xấu. Điều khó khăn là chúng ta phải căn cứ vào những yếu tố nào để biết sao xấu trở thành tốt và sao tốt trở thành xấu. Để tìm hiểu khía cạnh đó, tôi tạm chia bài này làm hai phần, một phần về lý thuyết và một phần về thực tế.

1)Lý THUYẾT

Có một vài nhà Tử vi đã thâu thập được khÁ đầy đủ những tài liệu nêu rõ tất cả cÁc sao tốt trở thành xấu và cÁc sao xấu trở thành tốt khi kết hợp với những sao khÁc hoặc khi bị thay đổi về vị trí, về Can, Chi của năm sanh hoặc năm xem hạn. Riêng về phần này mớ tài liệu đó đủ thành một cuốn sÁch, nhưng rất tiếc cÁc vị đó không thể cho phổ biến và cũng không thể cho tôi coi kỹ càng, mà chỉ có bàn luận với tôi về một số sao, cho nên tôi cũng chỉ liệt kê sau đây một phần nhỏ mà thôi mặc dầu trong tâm hồn luôn luôn mong mỏi phổ biến được tối đa những sở học về Tử vi.

Lộc tồn

Quý bạn đều biết sao này là “chân nhân chi tú”, một sao gần như không có gì đÁng chê cả, ở cung nào ban phúc cho cung đó, nhất là ở cung Phúc đức là “phúc lộc hà sa” thì cuộc đời của ta tha hồ hưởng phúc của ông cha để lại dù cho cÁc cung khÁc yếu kém nhiều, sau nữa là ở Mệnh hoặc Thân là cÁch suốt đời được no cơm ấm Áo, mặc dầu nhiều vị và nhiều sÁch chê cung Tử tức có Lộc tồn vì cho đó là cÁch hiếm hoi hoặc hình khắc con cÁi nhưng tôi đã nghiệm nhiều lÁ số có cÁch đó mà vẫn đông con (đủ cả trai gÁi) chỉ có điểm là cha mẹ cứ phải lo cho cÁc con ngay cả khi chúng đã trưởng thành, có lẽ xấu là chỗ cha mẹ hơi vất vả về con cÁi mà thôi. Đấy là nói về khía cạnh tốt của sao tốt. Còn về khía cạnh xấu thì phải nói ngay rằng ở bất cứ vị trí nào, hoặc cung nào (nhất là cung Tử tức nếu Lộc tồn đồng cung với Cự môn thì tối kỵ, vì không những Lộc tồn không còn đặc tính bình thường mà còn tạo ra nguy nan nữa, ngay cả khi nhập hạn cũng vậy, có nhiều người chỉ vì hai sao này thôi mà bị kiện cÁo, đau ốm và có khi còn bị tù tội nữa (nếu thêm cÁch xấu khÁc). Còn về cung Tử tức nếu chẳng may bị hai sao trên thì thực đÁng ngại, khó lòng có con hoặc nếu có cũng chẳng nuôi được. Chẳng thế mà có câu phú “Cự phùng Tồn tú cÁc xứ toàn hung, ưu nhập Tử cung, tống lão vô nhi” (quí bạn nên lưu ý là nhiều sÁch chép “cÁt xứ tàng hung”. Nhưng nhiều vị Tử vi cho biết là “cÁc xứ toàn hung” nghĩa là ở cÁc cung hay vị trí đều hung cả mới hợp lý).

Ngoài ra, Lộc tồn còn kỵ cả Thiên Cơ và Không Kiếp. Nếu gặp Không Kiếp mà xấu thì chúng ta chẳng lấy làm lạ vì Không Kiếp là hung tinh đương nhiên phải phÁ hại Lộc tồn, còn đối Thiên Cơ là sao tốt mà cũng kỵ thì có phải là kỳ lạ hay không? Nhưng nếu được biết rõ Thiên Cơ là cÁi mÁy, tức là có sự chuyển động, thì làm sao tiền tài có thể tụ lại được vì cứ luôn luôn bị cÁi mÁy hất tung ra. Nếu Thiên Cơ nhập hạn có Lộc tồn thì càng hao tÁn tiền bạc nữa vì Thiên Cơ chuyển trong hạn lại càng chạy mạnh mẽ và thường xuyên hơn, như thế tiền không có lối vô, tức là không thể tụ của được. Còn về Không Kiếp, chắc có bạn thắc mắc tại sao Lộc tồn lại không ngại Thiên không. Chắc quý bạn đều biết Không Kiếp tượng trưng cho hung đồ, chứ Thiên không chỉ tượng trưng cho hao tÁn chứ không bao hàm ý phÁ hoại. Do đó nếu Lộc gặp Thiên không có khi vẫn hay vì như thế chứng tỏ mình được ăn tiêu rộng rãi và được hưởng thụ nhiều chứ không bo bo giữ của, nhưng nếu gặp Kiếp Không thì không khÁc gì ông triệu phú, tỷ phú bị cướp bóc, tống tiền hoặc bị phÁ sản đau đớn. Trong trường hợp này nếu không có Lộc tồn lại tốt hơn vì đỡ bị mang họa vào thân mà còn hòa mình được với Không Kiếp để phÁt lên theo chiều hướng khÁc (như buồn lậu, xưng bÁ đố vương một vùng…)

Hóa Lộc

Có thể nói từ khi tôi học Tử vi đến giờ, tôi chỉ được nghe nói là Lộc tồn còn có điểm xấu chứ chưa thấy ai nói đến Hóa Lộc bị khía cạnh gì xấu, dù cho ở hãm địa cũng chỉ kém mà thôi. Nhưng nay có vị cho biết là Hóa Lộc không nên đồng cung với Hóa Khoa mà chỉ nên đồng cung với Hóa Quyền. Vì nếu gặp Hóa Khoa sẽ tÁn tài, trong khi gặp Hóa Quyền vừa mở miệng ra là người khÁc đưa tiền cho mình vì tín nhiệm hoặc chịu ơn…Nếu Hóa Khoa ở cung khÁc chiếu về thì vẫn hay như thường, chỉ ngại đồng cung mà thôi. Tại sao vậy? Vì Hóa Khoa chủ về hoạt động (cũng tựa như Thiên Cơ một phần), chỉ hay cho thi cử, học hành chứ không lợi cho tài lộc. Cho nên phú có câu “Khoa Lộc Tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng” tuy không nói về tài lộc nhưng giÁn tiếp nói về Hóa Lộc gặp Hóa Khoa, vì khi Khoa phÁ Lộc thì rất cần sao Tuần chụp giữ Khoa lại để cho ăn được Lộc mà thành sự nghiệp hiển hÁch. Nhiều sÁch chép là “Quyền Lộc” tưởng không được đúng cho lắm, và nhất là không viết “Tuần” bằng chữ hoa thành ra ai cũng tưởng là hạn gặp Quyền Lộc chứ đâu có nghĩ là gặp sao Tuần.

Ngoài ra, khi Hóa Lộc gặp Lộc tồn (đừng nên đồng cung, mặc dù nhiều vị vẫn cho là hay) thì không nên gặp Tả phù, Hữu bật mà chỉ nên gặp Nhật Nguyệt đắc địa, vì khi đã có Song Lộc tức là cÁch đại phú thì chỉ làm ăn lớn, tức là xứng với cÁch Nhật Nguyệt chứ lại gặp luôn cả Tả Hữu là cÁch cÁi gì cũng làm thì có phải là không hợp cÁch hay không, và như thế tức là giảm cÁch giàu sang đi nhiều.

Tang, Hổ

Trên đây là một vài sao tốt đã trở thành xấu, nhiều hoặc ít tùy theo trường hợp. Nay tôi xin đề cập tới một vài sao xấu trở thành tốt. Tỷ dụ như hai sao Tang, Hổ, ai chẳng biết là bại tinh, nhưng chúng vẫn có những điểm khÁ hay như sau:

Khi Tang môn gặp ThÁi Dương (ở Mệnh Thân cũng như nhập hạn) thì lại tốt vì mặt trời chiếu qua cửa (Môn), tức là có công dụng đúng lúc và đúng chỗ, và do đó công danh, sự nghiệp tiến triển. Còn gặp ThÁi âm thì không hợp cÁch, vì Tang không hợp với đêm tối.

Tang Hổ tuy chủ về sự phiền muộn, trở ngại nhưng cũng có nghĩa là làm cho người khÁc đau khổ, lo buồn khi hai sao đó đóng tại cung Quan lộc hoặc cung Mệnh. Và khi mình đã có khả năng làm cho kẻ khÁc lo buồn tức là mình phải có chức phận cao có uy quyền sinh sÁt (như về ngành Tư phÁp, Cảnh sÁt, An ninh)…thì mới có thể gây “thất điên bÁt đảo” cho thiên hạ được. Lẽ tất nhiên cũng cần phải có thêm một số sao khÁc bổ túc mới đạt được quyền uy đó, nhất là cÁc sao Khoa, Quyền, Lộc và …Khốc Hư. Hai sao Khốc Hư cũng vậy, tuy chủ về đau buồn, rơi nước mắt nhưng khi đóng đúng chỗ thì chính là người khÁc chịu như vậy chứ không phải chính mình. Tuy vậy hai sao Tang Hổ và cả Khốc Hư không nên tọa thủ tại Mệnh, Thân vì như thế chính mình cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của cÁc sao đó, tức là cũng hay bị đau buồn, khổ não trong lòng mặc dầu cũng gây ra được những điều đó cho người khÁc. Quý bạn hãy thử kiểm lại cÁc lÁ số của những vị làm lớn, thường thường có Tang Hổ tại Mệnh hoặc Quan lộc.

Khi bạch hổ tọa thủ tại mệnh nếu có Thiên hình đồng cung hoặc xung chiếu thì đó là cÁch oai phong lẫm liệt, như ông tướng (Bạch Hổ) có kiếm bÁu (Thiên Hình) nhất là khi Bạch Hổ cư cung Dậu hoặc Thân, nhưng với điều kiện không có cÁc sao “hiền” kèm theo, tỷ dụ như Quan phúc, bộ Tứ Đức, Thai, Tọa…vì cÁc sao này làm giảm hẳn “nhuệ khí” của ông tướng, như thế khó thành công, khó có uy quyền thực thụ.

Long là cÁch rất hay ( cụ Ba la hay khen cÁch này lắm, và hình như Cụ Quản Văn Chính cũng đã nhắc lại trên KHHB rồi), nhất là được người âm Nam và tuổi Đinh, Kỷ. Tôi nghiệm thấy nhiều khi không được cÁch gì khÁc mà chỉ có mỗi cÁch trên, thế mà đương số vẫn có địa vị và sự nghiệp cao trong xã hội.

Sinh khắc giữa bản Mệnh và cung an Mệnh

Đa số cÁc sÁch Tử vi và cÁc nhà Tử vi đều cho rằng cung Mệnh phải sinh bản mạng mới tốt, nhưng có vị cho rằng có trường hợp sinh là xấu mà khắc mới hay. Đó là trường hợp người âm Nam hoặc Dương Nữ, cần phải có cung Mệnh khắc bản mạng mới tốt, chỉ vì lẽ thuận nghịch mà ra. Chắc cÁc bạn cũng để ý thấy rằng khi người nào thuộc âm nam hoặc Dương Nữ thì đương nhiên phải an đại hạn đi nghịch, và vòng Tràng Sinh, Lộc tồn cũng an nghịch. Do đó khi cho rằng cung Mệnh khắc với bản mạng trong trường hợp này, mới tốt tưởng cũng không có gì là kỳ lạ, mâu thuẫn mà thực ra như thế mới là thích hợp vì cùng theo lẽ “nghịch” cả.

Vận hạn

Về phương diện giải đoÁn đại tiểu hạn cũng vậy, tôi đã từng nhắc nhở quý bạn là cần nhận định tương xứng là biết ngay được tốt xấu, chứ đừng bao giờ căn cứ vào đặc tính tốt xấu của cÁc sao mà giải đoÁn. Nhân dịp này, tôi lại xin nêu ra một vài thí dụ nữa cho đầy đủ: Tỷ dụ như hạn gặp cÁch Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa Quyền Lộc Khôi việt sÁng sủa ai mà không khen, thế mà vẫn có những người gặp cÁch này lại khốn đốn chứ không nói là bình thường chỉ vì mạng người đó có Không Kiếp hãm địa hoặc SÁt PhÁ Liêm Tham hãm địa hội hợp. Chắc có bạn không đồng ý vì nghĩ rằng gặp cÁch tốt nếu không hợp thì tốt ít chứ có khi nào trở lại nên xấu. Nhưng nếu quý bạn thử so sÁnh nhóm sao tại Mệnh như những nhóm bất hảo, côn đồ và những sao nhập hạn như những nhân vật cao cấp, đứng đắn, uy quyền thì cÁc bạn sẽ thấy ngay là nhóm trên đương nhiên bị nhóm sau Áp đảo, không dung nạp nổi (như bắt bỏ tù hoặc dùng hình phạt nào đó). Cũng trong trường hợp này nếu nhóm sao tốt Tử Phủ Vũ Tướng bớt được Khoa Quyền Lộc và bị thêm Tuần, Triệt Án ngữ thì lại lợi ích cho cÁch ở Mệnh vì khi đó cÁc nhân vật ấy bị giảm uy quyền (tức là thiếu Khoa Quyền Lộc) lại còn bị gò bó (Tuần, Triệt) làm sao đè ép được nhóm bất hảo kia, đành để chúng mặc sức tung hoành. Nếu bình thường ta thấy cÁch Tử Phủ Vũ Tướng bị Tuần, Triệt (nhất là Tử vi tối kỵ Tuần, Triệt) thì khó lòng ta dÁm cho là hay, nhưng riêng trường hợp trên điểm xấu này đã dùng được, nếu không nói là tốt.

2)THỰC TẾ

Phần này hoàn toàn không dính dấp gì đến cÁc nguyên tắc lý thuyết về Tử vi vì chỉ căn cứ vào sự nhận xét sự kiện trước mắt, rồi phối hợp với cÁc yếu tố Tử vi đã tìm ra, xem có sự tương hợp hay không để đi đến kết luận tốt hay xấu. Để cho dễ hiểu xin quý bạn đọc vài thí dụ sau đây:

-Nếu tình cờ quý bạn xem Tử vi cho một bệnh nhân đau yếu liệt giường chỉ chờ ngày chết (nhất là người bịnh đã già) thì quý bạn cần để ý xem đại tiểu hạn của người đó thật tốt hay không, nếu còn xấu hoặc hơi xấu thì phải đoÁn là con bệnh chưa thể chết được cứ phải đau khổ chịu đựng nữa. Nếu may được đại tiểu hạn thật tốt, như có Quan Phúc Khôi Việt Song Hỷ Tả Hữu Đào Hồng Khoa Quyền Lộc thì có thể quyết đoÁn là mãn số vì lúc đó Trời, Phật (Quan Phúc Khôi Việt) mới giúp (Tả hữu) bệnh nhân dứt được mối khổ đau triền miên để ngậm cười (Song Hỷ) nơi chín suối. Phải chi bịnh nhân chỉ mới đau yếu đôi ngày hoặc đôi ba tuần thì việc giải đoÁn lại phải theo như thường lệ, nghĩa là thấy đại tiểu hạn xấu mới chết được.

-Tôi có được coi khÁ nhiều lÁ số của trẻ sơ sinh và có nghiệm được trường hợp mâu thuẫn sau đây: con của người lưu manh, du đãng, tứ chiếng cao bồi nếu có lÁ số Tử vi thật tốt (nghĩa là từ cung Mệnh, Thân, Phúc đức cho tới Ngũ hành sinh khắc đều tốt đẹp và cũng không phạm giờ xấu nào) thường thường không nuôi được mới lạ chứ! Phải chăng phúc đức của những người đó không dung nạp được nổi một quý tử như vậy cho nên phải ra đi vĩnh viễn để đầu thai qua nhà khÁc mới thích hợp. Vì vậy, mỗi khi xem số Tử vi cho trẻ sơ sinh quý bạn rất cần phải biết rõ gia thế, cha mẹ của đứa bé thì mới có thể quyết đoÁn được vấn đề nuôi dưỡng được hay không. Tôi xin nhấn mạnh là mình nên chú ý tới cÁi đức của gia đình đứa trẻ chứ không cần chú trọng tới sự giàu sang, vì thiếu gì cÁc vị lãnh tụ hoặc nhân vật lỗi lạc đã xuất thân từ một gia đình bần hàn, nghèo khó hoặc từ một người nông dân lam lũ. Chỉ có điểm khó là làm sao chúng ta biết được chính xÁc âm đức của gia đình đứa trẻ được tới mức nào. Đó là do nhận xét tinh vi của người xem số hoặc nếu biết coi tướng mặt thì càng biết rõ hơn. Bởi vậy khi xem số cho trẻ sơ sinh chúng ta không nên quyết đoÁn hấp tấp khi thấy có nhiều yếu tố cực kỳ tốt, vì chính những điểm “cực kỳ” đó là con dao hai lưỡi đối với đứa trẻ, nếu gặp một gia đình có âm đức thật tốt thì đương nhiên nó sẽ nên người và có công danh, sự nghiệp huy hoàng, còn trường hợp sinh ra trong một gia đình thất đức, độc Ác thì cần…hỏi lại.

-Có nhiều trường hợp giải đoÁn vận hạn, gặp đủ cÁc yếu tố Tử vi tốt thực mà vẫn không đÁp ứng đúng sở nguyện của người liên hệ, như thế vẫn chưa có thể gọi là hạn tốt. Tỷ dụ như một người tỷ phú tiền rừng bạc biển nhưng lại hiếm con, nhất là con trai, khi nhờ ta coi số mà thấy đại tiểu hạn có toàn sao tài lộc, sự nghiệp thăng tiến (như có Phủ, Vũ hội Song Lộc, Long Phượng Hổ CÁi…) nhưng lại có sao ngăn cản sự sinh sản (như Cô Quả, Đẩu quân, Thiên hình, Thiên Hư, Tang Hổ…) thì ta đừng nên vội mừng cho đương số, nếu ta đã được biết rõ sự thực như trên về đương số. Cũng trường hợp này, nếu hội vừa đủ cÁc sao khả dĩ bÁo hiệu sự sinh con (trai) thì dù có buôn thua bÁn lỗ chắc đương số vẫn sung sướng, thỏa mãn như thường. Tuy khía cạnh này chỉ là tâm lý và hoàn cảnh cÁc nhân nhưng tôi thấy vẫn có thể Áp dụng chung. Tôi xin nêu thêm một thí dụ khÁc cho dễ hiểu hơn: Nếu một người có Mệnh hội đủ cÁc sao thanh nhàn, thụ hưởng như Thai Tọa, Quan Phúc, Đào Hồng, Song Hỷ, bộ Tứ đức mà lại gặp một đại tiểu hạn có đủ cÁc sao hoạt động hăng say, thành công vượt bực, uy quyền hiển hÁch thì đương nhiên nếu ta không cân nhắc ta sẽ quyết đoÁn là đương số được hưởng một giai đoạn huy hoàng, sung sướng thực sự, nhưng đối với đương số rất có thể lại là chuyện “không ham” vì bị gò ép vào môi trường trÁi ngược với sở nguyện của mình, mặc dầu trước nhãn quang của thiên hạ đó là điều đÁng ước mơ.

Qua những điều trình bầy trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy việc giải đoÁn Tử vi quÁ linh động, uyển chuyển, nhất là về phương diện lý thuyết vì phương diện này đòi hỏi một căn bản thực sự mà ít khi ta có vì cÁc tài liệu giÁ trị không được ai phổ biến. Còn về phương diện thực tế có lẽ chỉ quan trọng khi ta đặt nặng vấn đề tâm lý hoặc khi ta muốn tìm hiểu lÁ số của chính mình cho thực khÁch quan, hoặc khi ta đang hành nghề Tử vi muốn chinh phục được hoàn toàn thân chủ của ta mà thôi. Tuy nhiên, quý bạn cũng đừng bao giờ nên quÁ đa nghi cÁc cÁch tốt để đến nỗi lÁ số nào cũng chê là xấu, hoặc gặp lÁ số thật xấu lại khen là hay, như thế cũng không phải là linh động.

KHHB số 74G2
thanh giang - Nov 30, 2011 8:54 PM
Tôi học Tử vi
NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC LẬP THÀNH MỘT LÁ SỐ TỬ VI

Từ cÁc cÁch an sao, tìm ra cÁch an lÁ số thật mau vÀ nhẩm trong trí óc, nhớ dễ dÀng
Phong Nguyễn

Trước khi trình bầy tiếp bÀi về việc lập thÀnh lÁ số tôi cần nói với quý bạn rằng tôi đã cố trÁnh dùng cÁc bÀi thơ để an sao trừ trường hợp đặc biệt, vì đa số cÁc bạn trẻ đều có óc thực tế đâu có thể mỗi lúc học thuộc lòng được cÁc bÀi thơ. Không những thế, nhiều khi an sao theo bÀi thơ rất chậm vÀ có lúc còn dễ lầm lẫn vì “râu ông nọ cắm cằm bÀ kia”. Do đó, những cÁch an sao tôi nêu ra đều rất thực, giản dị đến mức tối đa. Mục tiếp theo (xin ghi số 7 cho có hệ thống liên tục.

7-CÁc sao an theo Chi (của năm sanh)

-Hoa CÁi: An sao nÀy rất mau lẹ, quý bạn chỉ cần nhớ nhóm 3 chữ (Thân Tí Thìn; Tị Dậu Sửu; Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất) vÀ lấy chữ chót lÀ cung an sao Hoa CÁi. Tỷ dụ tuổi Nhâm Tý thì Hoa CÁi an ở cung Thìn (chữ chót của nhóm 3 chữ Thân Tý Thìn). NgÀoi ra để tiện việc kiểm lại, quý bạn nên nhớ Hoa CÁi bao giìơ cũng cÁch cung an Thiên Mã một cung theo chiều thuận. VÀ như thế, khi an được Hoa CÁi lÀ ta biết ngay phải an Thiên Mã ở cung nÀo (tức lÀ sau cung an Hoa CÁi 1 cung). Sau hết quý bạn nên nhớ Hoa CÁi chỉ ở tứ mộ, tức lÀ Thìn Tuất Sửu Mùi.

-Thiên Mã: Quý bạn có thể căn cứ theo Hoa CÁi để an Thiên Mã, như tôi nêu trên, hoặc lại căn cứ vÀo nhóm 3 chữ (Thân Tý Thìn,…) rồi an Thiên Mã tại cung xung chiếu với cung theo chữ đầu của nhóm 3 chữ. Tỷ dụ tuổi Bính Thìn thì an Thiên Mã ở cung Dần (lÀ cung xung chiếu với cung Thân, vÀ Thân lÀ chữ đầu của nhóm 3 chữ). VÀ quý bạn cần nhớ lÀ Thiên Mã chỉ an tại Dần Thân Tị Hợi mÀ thôi.

-Kiếp sÁt: Căn cứ theo hÀng Chi kế chữ chót của nhóm 3 chữ (như trên). Tỷ dụ tuổi Nhâm Dần thì an Kiếp SÁt tại cung Hợi vì Hợi lÀ chữ kế chữ chót của nhóm 3 chữ Dần Ngọ Tuất. VÀ Kiếp sÁt chỉ ở 4 góc lÁ số, tức lÀ Dần Thân Tỵ Hợi.

-ĐÀo hoa: Lấy chữ kế chữ đầu của nhóm 3 chữ. Tỷ dụ tuổi Tân Mùi thì an ĐÀo hoa tại Tý vì tý lÀ chữ kế chữ đầu (Hợi) của nhóm Hợi Mão Mùi. Sau hết, quý bạn nên nhớ lÀ ĐÀo hoa chỉ ở cung Tý Ngọ Mão Dậu.

-Cô thần, quả tú: Quý bạn cứ chia 12 cung ra lÀm 4 đoạn nối liền với nhau, kể từ cung Dần, tức lÀ Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu. Xong chỉ việc nhớ lÀ Cô thần ở cung kế với đầu đoạn vÀ Quả tú ở cung kế với cuối đoạn. Tỷ dụ tuổi Kỷ Mão thì Cô thần ở Tỵ (vì Tỵ lÀ cung kế với cung Thìn) vÀ Quả Tú ở Sửu (kế với Dần), tức lÀ Cô Quả chặn 2 đầu của đoạn liên hệ. Nói bằng chữ, quý bạn có thể cho lÀ hơi rắc rối nhưng khi vẽ ra quý bạn thấy quÁ dễ dÀng. Tôi không muốn vẽ ra để khỏi choÁn nhiều chỗ trên tờ bÁo. Sau hết quý bạn cần nhớ lÀ Cô thần chỉ an tại một trong 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi vÀ Quả tú chỉ ở một trong 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi. VÀ do đó, không bao giờ Cô Quả có thể đồng cung với nhau vÀ cũng không bao giờ xung chiếu nhau (chỉ có hợp chiếu).

-PhÁ toÁi: an như thường lệ, nghĩa lÀ tuổi Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì ở Tỵ; Thìn Tuất Sửu Mùi ở Sửu vÀ Dần Thân Tỵ Hợi ở Dậu. Sao nÀy chỉ ở 3 cung Tỵ Dậu Sửu.

-Nguyệt đức: như thường lệ (cung Tỵ thuận đến năm sinh), nhưng có vị lại an Nguyệt đức đồng cung với ThÁi tuế.

-Thiên đức: như thường lệ (cung Dậu thuận đến năm sinh).

-Long trì, Phượng CÁc: như thường lệ (Long từ cung Thìn thuận Phượng từ cung Tuất nghịch năm sinh). Cũng như Tả Hữu, hai sao Long Phượng chỉ đồng cung ở Sửu hoặc Mùi hoặc giÁp hai cung nÀy, còn ở cÁc cung khÁc thì luôn luôn chiếu nhau, vậy khi thấy không chiếu nhau thì biết lÀ an sai. Khi an Phượng cÁc xong nhớ an Giải thần đồng cung luôn, vÀ gạch dưới 2 sao Long Phượng cho rõ.

-Thiên Khốc-Thiên Hư: như thường lệ (Khốc từ cung Ngọ nghịch – Hư từ cung Ngọ thuận năm sinh. Hai sao nÀy chỉ đồng cung tại Tý hoặc giÁp hai cung Tý, Ngọ còn ở cÁc cung khÁc thì luôn luôn chiếu nhau.

-Hồng Loan: từ cung Mão nghịch đến năm sinh. An luôn Thiên hỷ tại cung xung chiếu.
-Chùm sao ThÁi Tuế: tuổi nÀo an ThÁi tuế ở cung đó, rồi mỗi cung theo chiều thuận an Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu âm, Quan phủ, Tử phù, Tuế phÁ, Long đức, Bạch hổ, Phúc đức, Điếu khÁch, Trực phù. Sau đó an luôn Thiên không đằng trước cung an ThÁi Tuế. Khi an xong chùm nÀy, quý bạn nên coi sơ lại xem Tang Hổ có xung chiếu nhau hay không vÀ Điếu khÁch có hợp chiếu với Tang môn hay không để biết chắc mình đã an trúng vÀ không sót một sao nÀo trong chùm. NgoÀi ra cũng như chùm TrÀng sinh, chùm ThÁi Tuế rất quan trọng cho nên quý bạn cũng cần an riêng ra một góc nÀo đó để dễ nhìn thấy, tức lÀ dễ giải đoÁn vÀ kết hợp.

8-CÁc sao theo giờ sinh
Sau khi an cÁc sao theo Chi, quý bạn an ngay cÁc sao theo giờ khi biết chắc giờ sinh chính xÁc vì có một số sao khÁc phải tuỳ thuộc sao theo giờ sinh như Quang Quý vÀ Hóa quyền, Hóa Kỵ phải theo Xương Khúc…(tuổi Tân).

-Văn Xương vÀ Văn khúc: từ cung Tuất đếm nghịch đến giờ sinh an Xương vÀ từ cung Thìn đếm thuận an Khúc. Cũng cần gạch dưới 2 sao nÀy. VÀ cũng như Tả-Hữu, Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi hoặc giÁp hai cung đó, còn ở cÁc cung khÁc đều chiếu nhau.

-Địa không vÀ Địa kiếp: Từ cung Hợi nghịch an Địa không vÀ thuận an Địa Kiếp. Hai sao nÀy chỉ đồng cung ở Hợi (giờ Tý) vÀ Tỵ (giờ Ngọ) hoặc giÁp hai cung đó.

-Thai phụ vÀ Phong cÁo: Thai phụ cÁch Văn khúc 1 cung về phía trước vÀ Phong CÁo cÁch Văn khúc 1 cung về phía sau, vÀ do đó CÁo Phụ luôn luôn hợp chiếu nhau.

Còn cÁc sao Hoả Linh, Đẩu quân tuy cũng theo giờ nhưng còn tuỳ thuộc thêm một yếu tố khÁc nên tôi đặt vÀo nhóm sao an sau chót cho có thứ tự.

9-CÁc sao hÀng Can (của năm sinh)
-Thiên Khôi vÀ Thiên Việt: Riêng hai sao nÀy, tôi đÀnh phải dùng bÀi thơ thường lệ vì không có cÁch nÀo giản dị, thực tế cho dễ nhớ. BÀi thơ đó như sau:
GiÁp Mậu thị ngưu dương (Sửu Mùi)
Ất Kỷ thử hầu hương (Tý Thân)
Bính Đinh trư kê vị (Hợi Dậu)
Canh Tân phùng mã hổ (Ngọ Dần)
Nhâm quý thổ xÀ tÀng (Mão Tỵ)

Quý bạn chỉ cần nhớ năm câu chính đó cho đỡ rườm vÀ nhớ Khôi an trước việt theo câu thơ. Có nhÀ tử vi nói rằng câu đầu lÀ “GiÁp Mậu Canh ngưu dương” (tức lÀ cả tuổi Canh cũng an Khôi Việt ở Sửu Mùi) vÀ câu thứ tư lÀ “Lục Tân phùng mã hổ” (tức lÀ chỉ có 6 tuổi Tân mới an Khôi Việt tại Ngọ Dần), nhưng đa số cÁc nhÀ tử vi hiện nay đều quen an theo cÁch thông thường như trên, chưa có ai chứng minh được cÁch nÀo đúng hơn cả.

-Tứ Hóa (theo thứ tự Lộc Quyền Khoa Kỵ):
CÁch an Tứ hóa nếu cần phải nhớ nằm lòng cũng lÀ một trong những điều khó khăn nhất trong việc lập thÀnh lÁ số tử vi nhưng đồng thời lại rất quan trọng cho nên quý bạn đÀnh phải kiên tâm học thuộc bÀi thơ thường lệ thì mới mong hiểu mau lẹ cÁc câu phú cũng như cÁc cÁch giải đoÁn. Quý bạn có thể chỉ nhớ đơn sơ bÀi thơ như sau cũng thấy vần vÀ dễ thuộc (nghĩa lÀ bỏ hết những chữ thừa):
GiÁp Liêm PhÁ Vũ Dương
Ất Cơ Lương Vi Nguyệt
Bính Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Nguyệt Bật Cơ
Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Nhật Vũ Nguyệt Đồng
Tân Cự Dương Khúc Xương
Nhâm Lương Vi Phủ Vũ
Quý PhÁ Cự âm Tham

tức lÀ tuổi GiÁp thì an HoÁ Lộc đồng cung với Liêm Trinh, Hóa Quyền đồng cung với PhÁ quân, Hóa khoa đồng cung với Vũ khúc, vÀ Hóa kỵ đồng cung với ThÁi Dương,…Sau hết cần viết Tứ hóa bằng chữ thật lớn hoặc gạch dưới.

-Chùm Lộc tồn: Nhận xét về cÁch an thông thường ta thấy sau khi bỏ 4 cung Thìn Tuất, Sửu, Mùi (Lộc Tồn không bao giờ ở Tứ Mộ) thì mỗi hÀng Can ứng cho một cung, riêng hai cung Tỵ Ngọ thì ứng cho 2 can mỗi cung (Bính Mậu cho cung Tỵ vÀ Đinh Kỷ cho cung Ngọ). Do đó muốn an Lộc Tồn theo tuổi nÀo lÀ biết ngay (GiÁp Ất thì ở Dần, Mão Canh Tân thì ở Thân, Dậu vÀ Nhâm Quý thì ở Hợi, Tý). Sau đó an BÁc sĩ đồng cung với Lộc tồn, rồi Dương Nam, âm Nữ thuận âm Nam, Dương Nữ nghịch lần lượt an cÁc sao Lực sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan Phủ mỗi sao một cung. Rồi an Kình Dương đằng trước vÀ ĐÀ la đằng sao Lộc Tồn, bất luận thuận hay nghịch, mặc dầu có nhiều ý kiến về vấn đề an Kình ĐÀ. Sau hết, từ cung Lộc tồn thuận tới cung thứ 9 an Quốc ân vÀ nghịch đến cung thứ 8 an Đường Phù. Muốn biết chắc về cÁch an nên kiểm lại xem Tướng quân có xung chiếu với Phục binh hay không để khỏi sót một sao nÀo trong chùm. NgoÀi ra cũng cần viết Lộc tồn bằng mực đỏ cho nổi bật vì sao nÀy rất quan trọng, nếu bấm trên tay thì không thÀnh vấn đề nữa.

-Lưu niên văn tinh: Bỏ tứ mộ (tức lÀ 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), bắt đầu từ cung Tỵ tương ứng với tuổi GiÁp, rồi tiếp tục như thế qua cÁc tuổi khÁc, chỉ trừ cung Thân thì ứng với 2 tuổi Bính, Mậu vÀ cung Dậu ứng với 2 tuổi Đinh Kỷ.

-Thiên trù: sao nÀy rất ít người biết giải đoÁn vÀ cũng không thấy sÁch Tử vi nÀo bÀn tới nhiều, cho nên bạn có thể bỏ qua cũng được. Hơn nữa, cÁch an cũng chưa thống nhất cho nên lại cÀng phiền toÁi khi giải đoÁn. Tuy nhiên, tôi cũng xin ghi nơi đây cho đủ, vÀ cÁch an thông thường lÀ: riêng cung Tỵ tương ứng cho 2 tuổi GiÁp, Bính vÀ cung Ngọ cho 2 tuổi Ất, Đinh còn cÁc cung khÁc mỗi cung ứng cho 1 tuổi (theo thứ tự hÀng Can còn lại: Mậu Kỷ Canh…) trừ cÁc cung Tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì bỏ không tính đến.

-Lưu HÀ: Vì không có cÁch nhớ thực tế vÀ giản dị, nên quý bạn đÀnh phải học thuộc bÀi thơ quen thuộc mÀ nhiều sÁch có ghi:
GiÁp Kê Ất khuyển, mạnh Lưu hÀ
Bính Mùi, Đinh Hầu, Mậu kiến XÀ
Kỷ, Ngọ, Canh Thìn, Tân Mão vị
Nhâm Trư, Quý Hổ thị oan gia.

Tức lÀ tuổi GiÁp an Lưu HÀ ở Dậu, tuổi Ất ở Tuất… (không bao giờ Lưu hÀ an tại Tý Sửu).

-Thiên quan vÀ Thiên phúc: Hai sao nÀy cũng rất khó nhớ khi an vÀ tôi cũng đÀnh phải dùng bÀi thơ quen thuộc:
Thiên quan Thiên phúc GiÁp đÀm Mùi Kê (Dậu)
Ất, Thìn, Thân, Bính về Tỵ, Tý
Đinh Dần cung, Hợi vị tương lâm
Mậu lâm Mão, Kỷ, Dậu, Dần
Canh thời Hợi, Ngọ, còn Tân Dậu XÀ
Nhâm Tuất, Ngọ, Quý Ngọ XÀ
Thiên Nguyệt đức thuận, Kê XÀ hồi hương.
tức lÀ tuổi GiÁp thì an Thiên quan ở Mùi vÀ Thiên phúc ở Dậu…Còn câu sau chót dùng cho Thiên nguyệt đức mÀ cÁch an rất dễ nhớ, chẳng cần tới câu thơ trên.

-Tuần Triệt: Có thể nói ai mới học tử vi cũng không thể nÀo nhớ nổi cÁch an Tuần, vì nguyên một việc tìm tuổi mình thuộc con nhÀ GiÁp nÀo cũng nhức đầu, sau đó lại phải nhớ vị trí của Tuần tương ứng với con nhÀ GiÁp liên hệ. Nếu lập sẵn bảng tra Tuần thì an rất dễ nhưng muốn nhớ nằm lòng thì lại rất khó. Do đó tôi đề nghị với quý bạn cÁch an sau nÀy cho mau lẹ vÀ dễ nhớ: cứ từ cung tuổi của mình khởi bằng hÀng Can - tuổi mình đếm thuận cho đến hết hÀng can mỗi cung một chữ, ngưng ở đâu thì an Tuần ở hai cung kế sau đó, Tỷ dụ tuổi Canh Dần thì khởi chữ Canh từ cung Dần, đếm thuận cho đến chữ Quý thì thấy ngưng ở cung Tỵ, vậy Tuần an ở cung Ngọ Mùi. Trường hợp gặp tuổi có chữ Quý thì an Tuần rất mau vì Tuần ở kế ngay cung tuổi của đương số. Với cÁch nÀy quý bạn thấy việc an Tuần quÁ giản dị vÀ mau lẹ, chỉ vÀi giây đồng hồ lÀ an được liền.

Còn về cÁch an Triệt cũng rất dễ, quý bạn cứ tính từ cung Dậu nghịch đến hết cung Tý, cứ 2 cung tương ứng vÀi hai Can (GiÁp Kỷ, Ất Canh, Bính Tân, Đinh Nhâm, Mậu Quý), tức lÀ tuổi GiÁp vÀ Kỷ an Triệt ở Thân Dậu, tuổi Ất Canh an Triệt ở Ngọ Mùi,…Quý bạn nên nhớ lÀ Triệt không bao giờ an ở Tuất Hợi.

10-CÁc sao cố định

Đó lÀ cÁc sao Thiên la, Địa võng, Thiên Thương, Thiên Sứ mÀ ai học tử vi cũng đều nhớ cÁch an rồi, tôi khỏi cần nhắc lại cho dÀi dòng. Có điểm cần nói lÀ tuy cÁc sao nÀy cố định nhưng cũng nên an vÀo để mình khỏi quên khi đoÁn. Nhiều người cứ bỏ đi nên có khi giải đoÁn dễ sơ sót. Tỷ dụ hạn đi với Văn Xương ngộ Thiên Thương, nếu ta không thấy sao Thiên Thương ta có thể quên hẳn sự kiện liên hệ đến cÁch nÀy.

11-CÁc sao an theo hai yếu tố
Đó lÀ cÁc sao ân quang, Thiên Quý, Tam thai, BÁt toạ, Đẩu quân, Thiên TÀi, Thiên Thọ, Hoả tinh, Linh Tinh. Vì phải theo hai yếu tố nên quý bạn cần an cÁc sao nÀy chót hết cho có thứ tự:

-Quang Quý: từ Văn Xương đến ngÀy sinh lùi lại 1 cung an ân Quang.
Từ Văn khúc đếm nghịch đến ngÀy sinh lùi lại 1 cung an Thiên Quý. (nên gạch dưới hai sao Quang Quý).
Nếu ngÀy sanh từ 13 trở lên quý bạn đừng bao giờ đếm từ mùng 1, vừa lâu lại vừa dễ lộn, cứ ngÀy 13 (chưa trừ 1) thì ở cung khởi (có Văn Xương hoặc Văn Khúc) vÀ ngÀy 25 (chưa trừ 1) cũng ở hai cung đó, như thế chỉ phải đếm ít. Sau đó chỉ lùi lại một cung lÀ an sao Quang Quý.

-Thai Toạ: Từ Tả phụ đếm thuận đến ngÀy sinh an Tam Thai vÀ từ Hữu Bật nghịch an BÁt toạ. Nếu số ngÀy từ 13 trở đi cũng Áp dụng tương tự như Quang Quý cho đỡ phải đếm nhiều cung. Quý bạn cũng nên gạch dưới Thai Toạ.

-Đẩu quân: Từ cung an ThÁi Tuế đếm nghịch đến thÁng sinh rồi từ đó đếm thuận tới giờ sinh thì an Đẩu Quân.

-Thiên TÀi-Thiên Thọ: Thiên TÀi thì từ Mệnh thuận đến năm sinh, còn Thiên Thọ từ ‘Thân” cũng thuận đến năm sinh.

-Hoả Linh: Như thường lệ, nghĩa lÀ tuổi:
Thân Tý Thìn khởi Hoả ở Dần Linh ở Tuất
Dần Ngọ Tuất khởi Hoả ở Sửu Linh ở Mão
Tỵ Dậu Sửu khởi Hoả ở Mão Linh ở Tuất
Hợi Mão Mùi khởi Hoả ở Dậu Linh ở Tuất

Khi biết cung khởi rồi thì Dương Nam, âm Nữ thuận đến giờ sinh an Hoả tinh vÀ âm Nam, Dương Nữ thì đếm nghịch. Còn Linh tinh thì ngược lại, nghĩa lÀ âm Nam, Dương Nữ đếm thuận đến giờ sinh; Dương Nam, âm nữ đếm nghịch. Quý bạn cần lưu ý lÀ Hoả tinh gần như luôn luôn khởi từ Dần, Sửu, Mão, Dậu tức lÀ mình chỉ cố nhớ 4 cung khởi của Hoả Tinh lÀ coi như thuộc hết.

Về cÁch an sao Hoả Tinh cũng có một vÀi nhÀ tử vi quả quyết rằng không phải tính theo giờ nữa mÀ chỉ việc theo bảng trên lÀ an luôn. Tỷ dụ tuổi Dần thì Hoả tinh an tại Sửu vÀ Linh tinh an tại Mão luôn, không còn vấn đề thuận nghịch vÀ giờ sinh nữa.

Tôi đang thử dùng cÁch an nÀy nhưng chưa thấy ứng nghiệm rõ rệt.

12-Đại tiểu hạn
Sau hết lÀ an Đại tiểu hạn. Muốn nhớ cÁch an Tiểu hạn quý bạn chỉ cần nhớ nhóm 3 chữ (Dần Ngọ Tuất; Thân Tý Thìn; Tỵ Dậu Sửu; Hợi Mão Mùi) rồi lấy cung xung chiếu với chữ chót của nhóm liên hệ lÀ cung khởi Tiểu hạn. Xong an thuận hoặc nghịch (tuỳ theo Nam hay Nữ) mỗi cung một chữ tiếp theo, Tỷ dụ tuổi Ngọ thì khởi từ cung Thìn, vì Thìn lÀ cung xung chiếu với chữ chót (Tuất) của nhóm 3 chữ Dần Ngọ Tuất.

Đại hạn thì quÁ dễ cứ theo Cục mÀ viết số 2, 3, 4, 5 hoặc 6 từ cung Mệnh (Dương Nam, âm Nữ thì thuận mÀ âm Nam, Dương Nữ thì nghịch). Có sÁch vÀ có vị cho rằng Đại hạn khởi từ cung kế với cung Mệnh mới ứng nghiệm (nghĩa lÀ từ cung BÀo hoặc cung Phụ mẫu tuỳ theo thuận hay nghịch), nhưng vấn đề nÀy chưa vị nÀo dứt khoÁt được nên tôi chỉ nêu ra để quý bạn tuỳ nghi Áp dụng vÀ chiêm nghiệm.

Việc lập thÀnh đến đây coi như đã xong tuy còn một vÀi điểm như Mệnh Chủ, Thân Chủ vÀ còn vÀi sao như Thiên Lộc, QuÁn SÁch, Câu giải, Thiên XÁ, Thiên Khố,…nhưng tôi không bÀn tới vì tôi chưa thấy sÁch nÀo hoặc vị nÀo nêu ra được cÁch giải đoÁn đầy đủ vÀ hợp lý.

Sau hết, tôi cần nêu ra một điểm nữa lÀ trường hợp phải lập một lÁ số với giờ sinh giữa hai giờ tử vi, quý bạn nên an trước cÁc sao theo thÁng vÀ chỉ cùng một số sao hÀng Can (nếu có thể) rồi xem sơ qua giờ nÀo ứng hợp nhất thì mới tìm Cục vÀ an cÁc sao khÁc để trÁnh việc lập 2 lÁ số một lúc. Nếu Mệnh lọt vÀo 2 cung thuộc một Cục (tỷ dụ: Tý Sửu Dần Mão…thì quý bạn có thể an luôn cÁc chính tinh vÀ vòng TrÀng Sinh cùng Tứ hoÁ nếu được chỉ để lại cÁc sao an theo giờ, rồi khi tìm được giờ nÀo chính xÁc nhất sẽ an Mệnh, Thân vÀ cÁc cung khÁc cùng cÁc sao còn lại.

Tôi hy vọng bÀi nÀy tuy không có gì mới lạ nhưng sẽ giúp quý bạn thuộc lòng được cÁch lập thÀnh lÁ số tử vi cũng như sẽ an sao được mau lẹ mÀ không cần phải mất công phụ học thuộc nhiều bÀi thơ, có như vậy thì sau nÀy quý bạn mới thông suốt được dễ dÀng việc giải đoÁn.

KHHB số 74E1
thanh giang - Dec 1, 2011 3:10 AM
[TẠP CHÍ KHHB PHÁT HÀNH NGÀY 11.01.1975 và 30.01.1975]


VÒNG THÁI TUẾ CHI PHỐI MỆNH, THÂN
QUA CÁC CUNG NHỊ HỢP, TAM HỢP Và XUNG CHIẾU

(Vi Nhật)

(Ghi chú của người post bài: Thông tin được bôi màu xanh lam không có trong báo, nhưng có trong phần copy được trên mạng, có thể do người viết đã tìm hiểu và bổ sung nên xin giữ nguyên để mọi người tham khảo)

Phải công nhận từ lúc các diễn đàn KHHB "Xuất hiện" cho tới nay, số người coi Tử-vi "Amateur" đã lên rất cao và hiện tại cao trào nghiên cứu Tử-vi lan tràn khắp nơi. Chúng ta đã thấy có vài Hội Tử-Vi thành hình giữa các giới trẻ và đặc biệt hơn cả là những "tay" đam mê nhất lại là những "tay" khoa bảng. Họ đã cố tìm tòi, học hỏi nghiên cứu, để rút tỉa kinh nghiệm, mong tìm lại những gì đã mất mát, nói đúng hơn là đã thất truyền. Trong chiều hướng đó, có người lại cổ xúy phong trào Việt hóa và hệ thống hóa toàn diện khoa Tử-vi theo khoa học hiện đại.

Trước tiên, ta cần ghi nhận là Tử-vi được hình thành trong cơ cấu của Dịch Lý; qua hai động lực căn bản : âm Dương và Ngũ Hành. Do đó cần tìm về nguồn qua tương quan Lý Học, để từ đó có thể dò dẫm ra bước đường sáng tạo của cổ nhân

– Sau khi nguồn căn bản đã có, việc kế tiếp cần nêu lên cho chúng ta là phải giản dị hóa khi áp dụng một các trực tiếp từ Dịch Học sang khoa Tử-vi. Muốn vậy ta không thể quá lệ thuộc vào những câu Phú, để rồi nhiều khi mâu thuẫn nhau, vào những lối giải đoán qúa phức tạp. Nói một cách khác, chúng ta phải dựa vào các ngành học hiện đại vì chúng có tính cách khoa học hơn, để diễn đạt ngôn từ, sự việc hơn.

Hai giải pháp này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một kiến trúc từ nền tảng theo từng điểm một. Đây không phải là một việc một sớm một chiều có thể vạch ra một lúc, mà phải là trong trường kỳ và liên tục. Nó cũng không phải là của một cá nhân, mà phải là sự hợp tác của nhiều khối óc, nhiều bàn tay. Một tiếng chuông đã đánh lên, cần nhiều tiếng chuông khác phụ lực để vun bồi cho khoa Tử-vi mỗi ngày một chính xác hơn trong tinh thần huyền bí của nó. Đạt được như vậy, chúng ta vẫn duy trì tính cách Triết-Lý Đông-Phương mà vẫn không kém phần gãy gọn khi phô diễn ngôn từ.

Đề cập tới vấn đề này, tức là kẻ viết bài này đã gián tiếp hướng về giải thích khoa Tử Vi theo một quan niệm trung dung nêu trên, gọi là một tiếng chuông tiếp nối công trình của các bậc đàn anh đã làm.

Trong phạm vi đề tài này, tôi xin khai triển tiếp nối kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về vòng Thái-Tuế, dưới một nhãn quan dị biệt.
Một cách khách quan, chúng ta thử nhìn trên những dữ kiện thực tế, và những trường hợp thành bại điển hình quanh ta. Càng cụ thể hơn nữa chúng ta thu hẹp nhãn quan vào chính bản thân mình, gia đình mình. Chúng ta sẽ thấy những yếu tố cấu tạo sự thành bại, luôn luôn bao gồm trong mỗi tương quan tính tình, đưa đến một lối xử thế tế nhị khôn khéo hoặc lỗ mãng, bốc đồng. Và từ đó, dĩ nhiên là trong cuộc sống hằng ngày, sự chung đụng giữa những mối tương quan từng cá nhân trong xã hội, chưa kể liên hệ gia đình, từ bạn bè, người trên kẻ dưới, cho tới hoàn cảnh trở lực, hàng xóm … sẽ tạo ra biết bao hậu quả ít nhiều quan trọng đến đời sống của ta. Hẳn chúng ta cũng thấy nhiều người chỉ với ba tấc lưỡi Tô-Tần mà được cất nhắc lên tột bực, có người khác luôn luôn được bè bạn giúp đỡ. Ngược lại, có người lại bị đè ép không cho vươn lên, có người lại vô phúc hơn thường bị đàn em lường gạt hoặc qua mặt mình … Và trong phạm vi thu hẹp hơn là trong mái ấm gia đình, có người được sự đùm bọc, thương yêu, lại được anh em nể trọng, và ngược lại cũng có người phải hy sinh gánh vác việc trong gia đình.

Tất cả mối tương quan xã hội gia tộc đều xếp đặt một cách hợp lý qua các cung số quanh cung Mệnh. Từ nhỏ môi trường sinh hoạt còn đâu ngoài gia đình với cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ (Bào) cho tới khi vào đời là chịu những mối tương quan phức tạp hơn được biểu tượng qua các cung số : Phối (Thê Thiếp hoặc Phu Quân), Nô Bộc, Thiên Di, Tử Tức … Những mối tương quan này được cô đọng trong một trạng thái từ Tĩnh cho đến Động; "Tĩnh" khi mang tính chất cá biệt của nội tâm người. Nhưng khi cá tính ấy bộc lộ qua hành động nó lại tạo ra một thế "Động" làm "Then chuyền" chuyển động những trạng thái của người xung quanh, ảnh hưởng đối với người ấy.

Chúng ta đã phác họa qua về sự quan trọng của tính tình học, thu gọn trong khoa Tâm Lý Học, trong mức sống cao thấp của một con người. Thực vậy, để diễn tả trong một phạm vi nêu trên cho linh động hơn, tiền nhân đã gán cho mỗi cá tính "một ông sao" tùy theo ý nghĩa của từ ngữ sao đó hoặc lối Ngũ Hành âm Dương, lối chiết tự. Mỗi "ông sao" thực ra là một dụng cụ phối trí của tương quan lý học, để diễn tả vị thế con người là một "Tiểu Thiên Địa" có đủ cơ cấu âm-Dương Ngũ Hành trong một vũ trụ bao la vô tận.

Vận mệnh Trời được được phối trí qua người Cha và người Mẹ để tạo nên cái TA, trong môi trường Gia tộc và Xã hội. Thành tố Gia tộc bao gồm thêm 3 yếu tố : Cha-Mẹ-TA, được biểu tượng qua Thiên Can, Địa Chi, và nạp âm Can, Chi ra bản Mệnh (TA). Thành tố xã hội rồi bao quát chi phối Mệnh qua trạng thái của cuộc đời, qua vai trò của Cục (tức cuộc, tức cuộc đời). Nắm được hai thành tố với 4 yếu tố trên qua sắc thái: Can tuổi, Chi tuổi, bản Mệnh và Cục là ta có thể giải đoán toàn bộ cuộc đời, có thể xuống tới các Đại-Hạn.

Trở lại vấn đề, ta thấy cha cho hình hài, mẹ nuôi dưỡng cưu mang lâu dài. Người cha, theo quan niệm xưa, đi tìm sinh kế lo no ấm cho gia đình (vì thế được biểu tượng qua vòng Thiên Can, tức vòng Lộc-Tồn). Trong khi ấy, người mẹ lãnh một vai trò "khiêm tốn" hơn đối với xã hội, nhưng trong gia đình người mẹ nổi bật lên, đôi lúc còn lấn át cả người cha. Đó trách nhiệm tinh thần, giáo huấn con cái, đào tạo cho thành người hữu dụng trong gia đình, trong xã hội. Tiền nhân ta cũng đã sớm ý thức các điều này và đã để lại nhiều câu tục ngữ nói lên thực trạng này:
Nào là : "Con không cha như nhà không nóc";
Hoặc : "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà".
Như vậy vai trò người cha, tượng trưng qua Thiên-Can mà căn bản là vòng Lộc-Tồn với ý nghĩa Phúc, Họa đi đôi với vật chất tiền tài. Đối nghịch là vai trò người mẹ qua Địa-Chi mà trọng tâm là vòng Thái-Tuế, mang cá tính của người con với các điểm liên hệ về tính tình, về tinh thần.

Tương quan tâm lý học được chứng giải qua vòng Thái-Tuế. Nhưng trong mối liên hệ này có những ràng buộc nào từ gia đình cho tới xã hội ? Một cách đại cương, chúng ta có thể vạch ra vài nét chính :

– Cung Bào và cung Phụ Mẫu: Là mối dây liên hệ huyết thống chặt chẽ đầu tiên của mọi người, mà ai cũng phải có từ nhỏ cho tới khi khôn lớn. Qua vị trí cố định lần lượt của 12 cung số thì Mệnh luôn được xếp ở giữa hai cung Bào và Phụ Mẫu, nói cách khác hai cung này giáp biên của Mệnh.

– Cung Nhị Hợp: Là lân phương là kế cận, hàng xóm của bản cung nói chung và của Mệnh nói riêng. ý nghĩa cung Nhị Hợp cũng không kém phần trọng yếu. Nó nói lên mặt trái của vấn đề. Nó là bên trong, là sự tiềm ẩn là cứu cánh của sự việc, là cái khuynh hướng (tendance) tiến đến sự việc liên hệ cung số Nhị-Hợp.

– Cung Tam Hợp: Là trạng thái vào đời, có gặp được may mắn không, tùy thế của chiều đi âm Dương hoặc tùy chiều sinh của hai cung Tam-Hợp so với bản cung. Để giản lược, ở đây trong Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan, ta biết trạng thái thực tại của ta khi vào đời và được ưu đãi về phương diện nào: Tài hay Quan ?.

– Cung Chính Chiếu: Không nên quan niệm cung Chính Chiếu (Thiên Di) là đối phương của mình một cách đơn thuần như vậy; mà nên nới rộng phạm vi để quan niệm đó là hoàn cảnh gây nên cho mỗi số phần, nếu có thì mức độ trở ngại ấy có thể vượt qua hay không ?

Chúng ta sẽ lần lượt xét các mối tương quan xã hội, gia tộc qua sự phân tích ảnh hưởng của tâm lý vào cuộc đời với các dụng cụ sử dụng là các cung số :
Tương quan vòng Thái-Tuế qua cung Mệnh, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
Tương quan vòng Thái-Tuế qua cung Thân, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
Tam hợp Mệnh Tài Quan phối hợp qua vòng Thái-Tuế.
I/ TƯƠNG QUAN MỆNH, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU

Để bàn về phạm vi này, cần đề cập tới mối liên hệ biểu kiến và nội tại cũng như xét qua lại vòng Thái Tuế ứng dụng vào sự tìm hiểu mặt trái ở đời so với cung Nhị-Hợp, cung Chính chiếu. Ngoài ra để dễ áp dụng hơn, tôi xin đan cử vài thí dụ điển hình.

A- TíNH TìNH BIỂU KIẾN Và NỘI TẠI

Không phải ai cũng "ruột liền da", "da liền ruột", mà trái lại phần lớn chúng ta lại gặp nhiều hạng người như ruột gà. Nói rõ ra là, tính tình mà chúng ta nhận thấy ở họ qua sự biểu lộ hằng ngày, không hẳn là đích thực tình trạng bên trong của họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản với lời nói. Hai trạng thái hướng ngoại biểu hay Biểu kiến (Apparence) và Nội Tại (Interieur), sẽ được phơi trần ra trước ánh sáng của Vòng Thái Tuế và cung Nhị Hợp, Chính chiếu. Nhờ vậy, cũng cùng một lời nói ta có thể phân biệt hai hạng người : "Khẩu Phật Tâm Xà" hoặc "Khẩu Xà Tâm Phật".

1- Biểu kiến (Apparence)
Qua Vòng Thái Tuế ở cung Mệnh, cá tính một người hiện ra một cách ngoại biểu đối với người coi số cũng như trên thực tế mọi người cũng nhận ra cá tính thường nhật của người ấy. Ngoài ra, Vòng Thái Tuế còn có tác dụng mang lại thêm các dữ kiện mới khi nó phối hợp với cung chính chiếu. Thực vậy thế Tam-Hợp của bản cung khi so sánh với thế Tam-Hợp của đối cung, cho ta nhận rõ ra tinh thần một người có lạc quan hay bi quan trước cuộc sống, trước hoàn cảnh ở đời.

Trong bản số của Vua Quang Trung Đại Đế, Vòng Thái Tuế đã chứng giải tinh thần tự tôn của ngài tự coi mình có trách nhiệm "Thế Thiên Hành Đạo" đem lại an bình cho đất nước, đánh đuổi ngoại xâm (Thái Tuế đóng ở Mệnh). Ngoài ra thái độ dũng mãnh, xem thường đối phương cũng như bách chiến bách thắng của ngài cũng phần nào được biểu lộ qua thế Thủy của Tam Hợp Mệnh thắng thế Hỏa của Tam Hợp Thiên Di (Mệnh lập tại cung Thân thuộc Tam Hợp Thân Tý Thìn tức thế Thủy; Thiên Di ở Dần tức thế Hỏa do Tam Hợp Dần Ngọ Tuất).

2- Tính tình tiềm ẩn (Virtuel)
Sự ngoại biểu do vòng Thái Tuế, là nguồn căn cho mọi việc. Ở đây cung Nhị-Hợp cung Mệnh sẽ đóng vai trò tinh thần, dù là tiềm ẩn hay nội tại của tình trạng của vòng Thái Tuế ở Mệnh nó là nội tâm của một người, là nỗi lòng thầm kín là khuynh hướng về một mục tiêu nào. Không những chỉ ghi nhận điều trên, cung Nhị Hợp còn cho biết mức độ cũng như sự thiệt thòi, hy sinh hay sự được giúp đỡ, bị người khác hại. Và cũng do định luật Tam Hợp với thế Ngũ Hành giữa hai cung Mệnh và cung Nhị-Hợp mà dàn ra thế trận. Sinh xuất hay sinh nhập cung Mệnh, luôn luôn theo theo nguyên tắc "Mệnh vi chủ", cung Mệnh luôn luôn là chủ, các cung khác nói chung và cung Nhị-Hợp nói riêng phải là khách. Do đó, Mệnh được sinh nhập mới được điều phúc lợi.

Thí dụ: Mệnh ở cung Tý có Quan Phù, thủ Mệnh, cung Nhị-Hợp là phụ-Mẫu ở cung Sửu. Ta thấy về phương diện nội tại hàng xóm, thân cận, đương số được cha mẹ bao bọc, cưng chiều, giúp đỡ. Do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan, lời nói lễ phép dè dặt (đặc tính của Quan Phù) mà được hưởng phúc này.

Trong phần A này, tôi chỉ nói phớt qua khi đề cập thế Tam Hợp Mệnh và Di cũng như thế Tam Hợp Mệnh và Nhị Hợp, bởi vì cụ Thiên Lương đã giảng rõ về điểm này. Những điểm trọng yếu chính là sự ngoại biểu (biểu kiến) và nội tại (tiềm ẩn), chưa được ai đề cập tới, đó mới là mẫu chốt của phần A mà đã trình bày ở trên. Tiếp dưới đây vì khái niệm vòng Thái-Tuế chưa được khai triển rộng ra theo khoa Tâm Lý Học, nên tôi xin mạn phép được nêu ra, mặc dầu cụ Thiên Lương đã tiên phong nêu ra trong vấn đề này

B- VÒNG THÁI TUẾ Và TíNH TìNH MỖI Cá NHâN

Cần ghi rằng sao của vòng Thái-Tuế chỉ luận giải về phương diện tư tưởng ngay chính hay không, đối với cung Mệnh mà thôi. Còn ở các cung số khác, kể cả cung Thân. Đây là một điểm cần nhấn mạnh để khỏi lầm lẫn khi phân tích chiều sâu của một người. Theo thiển ý vòng Thái-Tuế cần phân tích ra hai trạng thái từ Tĩnh tới Động, Tĩnh trong Động, Động trong Tĩnh. Phương diện Tĩnh trạng tượng trưng cho tư tưởng, tính tình hoặc tinh thần qua vòng Thái-Tuế ở Mệnh. Động trạng là bình diện cần an bài đúng vị thế Thân là hành động. Do đó, theo kẻ viết bài này, vòng Thái-Tuế ở Mệnh nói lên riêng về tư tưởng (Tĩnh trạng chứa thế Tĩnh nguyên thủy) và trong nguyên lý dịch học thì Tĩnh mà Động, vì thế tư tưởng là Tĩnh thuần được diễn tả qua thế Động là lời nói, thái độ, hành động. Xin được sắp xếp 12 sao của vòng Thái-Tuế theo tiêu chuẩn vừa nêu:

1- Thái Tuế
Người có tư tưởng tự tôn, theo lý tưởng ngay chính, nghiêm nghị, tự cho mình cả Thiên Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không ai xứng với mình về phương diện tư cách, hoài bão.
ý nghĩa trên phát xuất từ, từ ngữ "ngôi Thái-Tuế", tượng trưng cho ngôi vua, là bậc cao cả, là Thiên Tử, là con Trời, thay Trời cai trị muôn dân. Vua ở xa dân, ngay cả quần Thần cũng vậy, vua cũng có lối sống riêng biệt do lễ nghi quan cách. Vì vậy người có Thái Tuế ở Mệnh, thường cảm thấy cô độc, ít kẻ tri kỷ tri bỉ.

2- Bạch Hổ
Tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là phải chính nghĩa của mình. Người có Bạch Hổ tọa thủ tại Mệnh, thường dễ làm mất lòng người khác, vì "lời thật mất lòng". Nhưng nếu miếu địa "Hổ khiếu Tây Phương" (Bạch Hổ ở Dậu) thì dù lời nói thẳng nhưng rất có uy tín, làm kẻ khác nể sợ.

3- Quan Phù
Tính chất Quan Phù ở Mệnh, mang lại cho người có nó, một sự khôn khéo, biết tiến thoái đúng thời, đúng lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của mình. Đó mới là điểm khó khăn, ít người dung hòa được. Người có Quan Phù thủ Mệnh, rất giỏi lý luận, "biết người biết ta"; nên rất tế nhị, thích chinh phục người khác bằng tư tưởng chính phái của mình.

4- Thiếu Dương
Thiếu Dương là "Tùy tinh", mang tính chất của sự biến dịch của Tứ Tượng, Bát Quái. Cho nên vị thế của nó rất đặc biệt, tuy sáng suốt nhưng là một thứ sáng suốt dễ sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực của bậc siêu phàm mới sử dụng được nó.

Trước tiên nếu nó đồng cung hay chính chiếu với Hồng Loan, như các cụ Hoàng Hạc, Thiên Lương đã lập đi, lập lại nhiều lần trên Báo KHHB, tôi chỉ xin thu gọn lại, nó có đặc tính vị tha, quên mình, bỏ cái Ta đi để gánh vác việc đời (Xem lại lá số Đức Phật Thích Ca trong quyển Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương đã bình giải).

Ngược lại, nếu nó đi với Đào Hoa thì trở nên vị kỷ, thường chỉ nghĩ đến mình, vì mình tất cả. Còn vị trí Thiếu Dương, Thiên Không ở Tứ Mộ thì phần lớn hay ít dở nhiều, tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ (sẽ đề cập trong một phần khác).

Tóm lại người mang cá tính của Thiếu Dương dù vị kỷ hay vị tha do ảnh hưởng của Đào, Hồng cũng là là người rất sáng suốt hơn người, thích được hơn người, vượt lên trên mọi người. Đặc tính này cũng không dành riêng cho ai, dù vị tha như Đức Phật, cũng là một ý chí muốn khác hẳn mọi người thế tục. Chẳng thế mà Ngài đã từng thốt ra câu : "Thiên Thượng Địa Hạ, vô ngã độc tôn" đấy ư !!!

5- Phúc Đức
Cũng nằm trong Thế Tam Hợp của Thiếu Dương, nên âm hưởng của sao này đem lại cho người mang nó một sự sáng suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ chứ Đức làm đầu.
Người có sao Phúc-Đức là người thích vươn lên với đời, trong sự sòng phẳng tương quan đổi chác, song phương hưởng lợi, không bán cây sống, trồng cây chết.

6- Tử-Phù
Không như hai sao Thiếu-Dương, Phúc-Đức, vì thế sao Tử-Phù tuy cũng sáng suốt nhưng là thứ sáng suốt để lừa lọc người với tính tình ma mãnh, dám làm điều sai quấy nếu có dịp vì từ lời nói tư tưởng tới hành động đối với hạng người này cách nhau không xa.

7- Trực Phù
Do tính chất của Địa Chi, thế vòng Trực Phù này bị sinh xuất hoặc khắc xuất. Do đó nhóm Trực Phù, Long Đức, Thiếu âm là nhóm chịu nhiều thua thiệt ở đời (sẽ xin trình bày rõ hơn trong bài sử dụng 4 chữ: Can, Chi, Mệnh, cục), vì thế trong tương quan của thế Tam Hợp thì phải chịu nhiều thiệt thòi, nhưng riêng về vị thế Trực Phù thì cá biệt mà nói, người mang tư cách này thường trong công việc không được đãi ngộ tương xứng với khả năng của mình.

8- Long Đức
Tùy cùng chi phái với Trực Phù nhưng cũng như Phúc Đức, vị thế Long Đức còn chịu sự chi phối của nhóm Tứ Đức. Vì vậy, dù thua thiệt, người Long Đức thường hiền hậu, an phận không thích mạo hiểm bon chen, đôi lúc cũng thụ động quá mức mà đưa đến bi quan.

9- Thiếu âm
Là vị thế chót của vòng Trực Phù, nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của Dịch lý và tương phản với thế Thiếu Dương. Bởi vậy, người Thiếu âm thường bị thiệt thòi, do quan niệm chủ quan, lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, hoặc hào phóng quá, dễ tin lời người khác nên trở nên khờ dại (đối nghịch với Thiếu Dương là sáng suốt).

10- Tang Môn
Có người cho rằng thế Tang Môn phải ghép đôi với thế Bạch Hổ và ngược lại, vì đó là cặp trong Lục Bại. Thực ra nếu luận theo lẽ biến dịch Ngũ Hành giữa 12 cung số với ý nghĩa của các cung Nhị Hợp, Tam Hợp, Chính Chiếu, hoặc Giáp cung thì sẽ không lạ gì có sự phân cách riêng biệt từng cặp sao, dù là một bộ. Chẳng hạn như bộ Tang-Hổ, bộ Song Hao, bộ Tướng-Binh, bộ Lưỡng Thế …. Cụ Thiên Lương đã giải thích rõ về vấn đề cung Thiên Di, không hẳn thuộc về mình mà tùy vị thế của nó. Đồng mà Dị là cụ Hoàng Hạc cũng quan niệm cung Thiên Di không là của mình, nhưng là hoàn cảnh, là sự xung xát, sự cọ nhau mà thành theo tương quan lý học. Là hậu sinh, nhưng kẻ này xin sẽ có bài nối tiếp về vấn đề này để có tầm áp dụng rõ hơn về âm Dương Ngũ Hành của Lý Học vào Tử Vi.

Trở lại vị thế Tam Hợp của vòng Tang Môn, Điếu Khách, Tuế Phá là vị thế đối nghịch hoàn toàn của Tam Hợp tuổi. Chính đây là một điểm xung sát mà tạo thành. Thời thế tạo Anh Hùng hoặc Anh Hùng gây dựng nên thời cuộc, là do sự biến ảo ở mấu chốt này.
Cá biệt về sao Tang Môn cho thấy người có sao này, thường gánh nhiều mối ưu tư, phiền toái, nhiều mối bận tâm (Xem lại số Khổng Tử mà KHHB đã đăng). Nếu diễn giảng ra theo lối suy luận, thì dù bất cứ việc lớn, việc nhỏ vì sự lo lắng của mình, người này không thích đùa giỡn cũng như không thích ai bỡn cợt với mình. Và trong tâm trạng "suy bụng ta ra bụng người đó" hay nói cho đúng hơn là trong tâm trạng "điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình không nên làm đối với người khác" người này trở nên tế nhị, dè dặt.

11- Điếu Khách
Khoác lên mình một gánh nặng chống đối mọi việc ở đời, người có Điếu Khách, thường thích đả kích người khác, thích tranh luận, bàn cãi, thích thuyết phục người khác. Vì thế mà nhiều sách đã không ngần ngại khi đem gán cho những người có sao Điếu Khách (Mã Khốc Khách) là sẽ làm nghề ngoại giao, môi giới, luật sư … cũng không ngại ngùng gì mà gán cho những Thẩm Phán, Luật Sư là những người có sao Quan Phù thủ Mệnh, Thân. Đành rằng sự gán ép này có những căn bản riêng của nó nhưng về nghề nghiệp là cả một sự phức tạp, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố, không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao Thái Tuế mà thôi.

12- Tuế Phá
Cũng tương tự đặc tính của Điếu Khách, nhưng ở đây người Tuế Phá là một nét dị biệt, một trạng thái của một sự đối lập, một sự chống đối, thích đi ngược người khác. Có thể làm những việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở hành động (Thân).

C- VÀI VÍ DỤ ÁP DỤNG THỰC TẾ

1- Người có Bạch Hổ ở Mệnh, tại Dậu, Nhị Hợp là cung ách ở Thìn, Thiên Di ở cung Mão. Chỉ cần biết được vài yếu tố nhỏ như trên, chúng ta có thể phác họa ra bề mặt và bề sâu của tâm hồn một người. Như đã trình bày ở trên (qua hai yếu tố biểu kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn là bề ngoài và bên trong tiềm ẩn) ta có thể lược giải khái quát về tánh tình của đương số như sau :

a- Bên trong: Người lúc nào trong lòng thường lo lắng nhiều về những bất trắc ở đời. Nhiều khi quá bận tâm về hậu quả của một việc mình làm dù việc này không có gì đáng để tâm. Mệnh sinh xuất cho ách về vấn đề Nhị Hợp này xin coi lại Kinh nghiệm cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương trong cuốn Tử Vi nghiệm lý. Người viết chỉ xin đề cập vài ý kiến mới chưa ai đề cập tới mà thôi.

b- Bên ngoài: Bề ngoài tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là chính nghĩa, lẽ phải của mình, coi thường đối phương.

Tổng kết lại, dù bên trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt qua thì người này dám làm bất cứ việc gì, bất chấp hậu quả với niềm tin vào lẽ phải của mình, coi thường đối phương.

2- Mệnh có Tang Môn ở cung Tuất, Nhị Hợp là Nô Bộc ở cung Mão, Thiên Di ở cung Thìn thì sơ lược khát quát như sau :

a- Bên trong: Đương số thích được bạn bè hiểu mình, thích được người khác chiều chuộng mình, vị nể mình.

b- Bên ngoài: Mang tâm trạng tế nhị, người nặng mối lo, có nhiều mối bận tâm, không thích những trò đùa rắn mắc. Do đó đương số dễ mang nét ưu sầu trên gương mặt. Người bi quan trước cuộc sống, thường thấy mình dễ đầu hàng hoàn cảnh (thế Di lấn lướt thế Mệnh).

Những dòng ghi trên, đó chỉ là tạm thời vạch ra nét tương quan Mệnh, Nhị Hợp, Xung chiếu. Nhưng cần đề cập đến vai trò của THÂN trong sự sắp xếp vòng Thái Tuế. Đó là Phần II của bài này, mà tôi trình bày dưới đây.

II/ TƯƠNG QUAN THÂN, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU

Mối tương quan này cũng giống như Phần I, nhưng nếu xét kỹ thì có một điểm khác biệt duy nhất (mà ta đã xét khái lược ở trên) đó là : Vòng Thái-Tuế ở MỆNH chỉ tư tưởng tinh thần thì ngược lại ở THÂN nó chỉ về hành động vật chất.
Nội dung của Phần II, đã vạch sẵn. Như vậy ta có thể xét theo từng mục : hành vi biểu kiến và tiềm ẩn, mặt trái ở đời, những trường hợp điển hình.

A- HàNH ĐỘNG BIỂU KIẾN Và TIỀM ẨN

1- Hành vi tiềm ẩn
Ở đây phương cách lý luận cũng như Phần I, nhưng đổi vị thế lại một đằng là cung MỆNH và cung Nhị Hợp của nó thì đăng này là cung an THÂN và cung Nhị Hợp của nó. Một đằng khác là hành động tiềm ẩn tức là cứu cánh khác với phạm vi nội tâm. Cứu cánh sau cùng của hành vi là do cung Nhị Hợp sinh nhập hay sinh xuất với cung an THÂN và cung an THÂN phải được sinh nhập mới tốt. Cần ghi nhận vai trò cung số của Nhị Hợp ở Thân so với cung số của cung an Thân cần được phối hợp chặt chẽ với nhau (xem lại về cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương).

Thí dụ: Thân cư Quan Lộc ở Sửu có Điền Trạch, cung Nhị Hợp ở Tý. Thì hành động cứu cánh của đương số, chính thực là lo về nhà đất, hay nói bao quát hơn là lo việc nhà, việc gia đình.

2- Hành vi ngoại biểu
Cần phối hợp cung số mà THÂN cư với vị thế vòng Thái Tuế thì mới hiểu rõ hành động bên ngoài chịu ảnh hưởng điều gì và với đặc điểm gì. Trước tiên ta phải xét THÂN cư cung nào trong các cung số, MỆNH (THÂN, MỆNH đồng cung), Phúc, Quan, Di, Tài, Phối để từ đó ta có thể biết được hành động bên ngoài ảnh hưởng bởi vấn đề gì trong 6 cung nêu trên. Về điểm này không xa lạ gì các sách tử vi đều có nêu ra, tôi xin thông qua điểm này sau khi đã ra nguyên tắc ở trên.

Sau khi đã định vị trí cung an THÂN, ta mới so sánh với cung số Nhị Hợp xem sinh nhập hay sinh xuất cho cung an THÂN. Cần phân biệt rằng hành vi biểu kiến hay ngoại biểu là phương tiện, còn hành vi tiềm ẩn là cứu cánh. Có thể nói cho dễ hiểu là "cứu cánh biện minh cho phương tiện".

Thí dụ: THÂN cư Quan Lộc ở cung Sửu có Thái Tuế, Nhị Hợp ở cung Tý là cung Điền-Trạch, Chính chiếu ở Mùi. Ta có thể phối hợp cả dữ kiện bên ngoài và bên trong để xét hành vi một người.

a- Bên ngoài: THÂN có Thái Tuế, Chính chiếu thuộc thế Mộc thua thế Tam Hợp của THÂN (thế Kim, vì Thân cư Quan Lộc ở Sửu trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu). Do đó, hành động bề ngoài của đương số có vẻ tự đại, tự hào. Nếu có thêm những sao quá khích như Hỏa, Linh, Kình, Đà …. thì dễ biến ra kiêu căng, kênh kiệu bề ngoài. Khi bắt tay vào làm việc, đương số dễ dàng thắng hoàn cảnh, vượt qua trở ngại để đạt mục tiêu tiến tới cứu cánh.

b- Bên trong: Thế Tam Hợp của THÂN là Kim bị sinh nhập cho Thế Thủy ở Điền Trạch (cung Tý). Do đó đương số là người biết lo cho gia đình, chuyện nhà cửa.

Tổng kết lại ta có thể phối hợp như sau:

Người này hành động thường tỏ ra tự tôn, không có bạn tri kỷ, tri bỉ, thường hành động riêng một mình trong mọi vấn đề liên quan tới Quan Lộc, và thường gặp thắng lợi trong Khoa cử, hoạn lộ. Đó là phạm vi biểu kiến có vẻ háo danh (cố tìm phương tiện) nhưng tất cả chỉ nhằm tới hành động sau cùng (cứu cánh) là đem thịnh vượng cho việc nhà việc đất, việc gia đình mình.

B- VÒNG THÁI TUẾ Và HÀNH ĐỘNG MỖI CÁ NHâN

12 sao vòng Thái Tuế được ghi nhận ở cung an THÂN như là một thế Động. Động mà Tĩnh, ứng với nguyên lý âm Dương của Biến Dịch. Trong phần B số 1, tôi đã liệt kê vòng Thái Tuế trong trạng thái Tĩnh. Do đó trong phần này xin được miễn lập lại vì cũng gần như vậy. Do đó các bạn chỉ đổi từ ngữ lại là xong ngay trong phạm vi Động.

Thí dụ:

– MỆNH có Bạch Hổ thì "Tính tình" có vẻ sắt đá, nóng nảy … dễ làm mất lòng người khác …

Thì nay đổi lại là :

– THÂN có Bạch Hổ thì "Hành Động" có vẻ cứng rắn, dũng mãnh … đôi lúc hành động thiệt hại, làm sợ sệt cho người khác vì hành vi ngang tàng của mình…

C- VàI ÁP DỤNG THỰC TẾ

1- Thân có Tuế Phá ở Ngọ cư Quan Lộc, Nô Bộc ở Mùi, Phối cung ở Tý. Mệnh ở Dần có Tang Môn, Nhị Hợp là Tử Tức ở Hợi, Di ở Thân.

Ở trường hợp này ta phối hợp hai phần I và II lại để tổng luận:

Đương số là người hay lo lắng bất cứ việc gì nhưng trong thâm tâm rất thương yêu con cái. Ngoài ra đương số ở trong môi trường chống đối mới tạo lập được cuộc đời, với bản tính tế nhị, chăm sóc con cái mình cẩn thận, lúc nào cũng nghĩ tới đàn con dại (thì có thể là khôn lớn nhưng đối với đương số thì vẫn còn bé bỏng, cần được lo lắng nhiều). Nhưng bề ngoài đương số lại đối đầu với hoàn cảnh trong một thế yếu. Do đó đã hay lo, đương số mắc thêm một khuyết điểm là nhút nhát đầu hàng hoàn cảnh (cần ghi rõ rằng các thế Nhị Hợp, Chính chiếu, vòng Thái Tuế có thể bị suy giảm ý nghĩa do Tuần Triệt hoặc hung tinh … Nhưng dù thế nào ý nghĩa chính vẫn tựu trung bao gồm trong những điểm bao quát trên).

Đổi lại đối với đương số, là một dịp may "gỡ gạc", khi Thân đương số lại ở Quan Lộc với Tuế Phá lại được Nô Bộc sinh nhập. Tuy rằng thế cung Phối có lấn lướt nhưng cũng giảm nhẹ phần nào. Thật vậy Mệnh, Thân cùng một phía, lý thuyết đi đôi với thực hành, còn gì tốt cho bằng ! Đương số khi bắt tay vào việc, do tính tình tế nhị của mình và hành động đả phá, tuy rằng không đạt đến tột đỉnh, hơi muộn màng nhưng cũng đã thành công trên đường đời. Sự thành công này bắt nguồn từ yếu tố bạn bè, người dưới giúp đỡ (Nô Bộc sinh nhập ờ cung Quan). Đây là một điều chứng giải quan niệm vòng Thái Tuế quan trọng nhất với cá tính, nhờ cá tính mà đi đến thành công.

2- Mệnh, Thân đồng cung tại Ngọ với Bạch Hổ, Nhị Hợp là Phụ Mẫu ở Mùi, Di ở Tý. (Lá số Hàn Tín_Hàn Tín: sinh ngày 5 tháng 11 năm Giáp Tuất, giờ Ngọ)

Đương số là người lời nói đi đôi với việc làm, có nhiều hoài bão to lớn, tính tình lỳ lợm, hành vi cũng không kém phần dũng cảm. Hành động "lòn trôn" trước một tên côn đồ ngoài chợ; đó là một hành động dũng cảm mà chỉ người trí dũng ôm ấp nhiều giấc mộng, đạp đất xé trời mới dám làm. Để từ đó tìm cơ hội cho thời cơ mà dựng nên nghiệp lớn, thái độ và hành động đầy chính nghĩa (dù là ôm ấp có đôi chút vị kỷ do sao Hóa Lộc thủ Mệnh hội cùng Đẩu Quân) đã được bậc đáng là mẹ hiền như bà Phiếu Mẫu hiểu thấu và tận tình bao bọc trong lúc cơ hàn (Được Phụ Mẫu Nhị hợp sinh Nhập cung Mệnh!). Tiếc thay trời đã dành cho Hàn Tín một tài ba hiếm có, mà lại xếp so với thế Thiên Di thua sút (thế Di thuộc Thủy khắc thế Mệnh thuộc Hỏa). Cho nên sinh ra đời là đã gặp hoàn cảnh lắm thử thách rồi, may là THÂN, MỆNH đồng cung mới đủ sức chống chọi để vươn lên với đời. Nhưng rồi chung cuộc vùng vẫy chí anh hùng cho lắm để rồi thất bại với hoàn cảnh (chết về tay bà Lã Hậu).

Vai trò vòng Thái Tuế đã được chiêm nghiệm qua MỆNH, THÂN nhưng cần ghi nhận lại cho kỹ trường hợp MỆNH, THÂN cùng nằm trong vòng Thái Tuế. Hay nói một cách khác MỆNH, THÂN đều nằm trong một thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan.

III/ TAM HỢP MỆNH, TÀI, QUAN PHỐI HỢP QUA VÒNG THÁI TUẾ

Thế Tam Hợp luôn luôn đóng vị trí chủ yếu trong khoa Tử Vi, thực vậy, từ Tam Hợp kết hợp ra Ngũ cục: thủy, Mộc, Kim, Thổ, Hỏa cục, cho đến các vị trí Tiểu hạn san theo từng Tam Hợp tuổi. Và rõ rệt hơn cả, là thế Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan là câu nói đầu tiên của người biết coi Tử Vi. Đó là một bình diện thực hành của yếu tố địa chi trong bốn yếu tố Can, Chi, Tuổi, Mệnh, Cục của hai thành tố Gia tộc và Xã hội, tôi sẽ xin viết rõ hơn trong một loạt bài khác về luật Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân của Dịch lý.
Trong lĩnh vực Tâm lý học với vòng Thái Tuế, vai trò Tam hợp cũng rất quan trọng, nó đã cho ta các vị thế để biết bề mặt bề trái của vấn đề. Ở đây Mệnh, Thân đồng vòng Thái Tuế tức đương nhiên ở thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan. Sự kiện này đặt cho ta một vài dữ kiện phải giải quyết như trường hợp:
Thân-Mệnh đồng cung
Thân ở Tài hoặc Quan

A- THÂN MỆNH ĐỒNG CUNG
Tư tưởng cùng hành động đều nhập một, lời nói đi đôi với việc làm. Người Thân Mệnh đồng cung dù với vị thế nào của vòng Thái Tuế cũng vậy, luôn luôn tự tung tự tác, cố phấn đấu với hoàn cảnh. Vì vậy, vòng Thái Tuế trong trường hợp này có ý nghĩa:
Trời, qua cha cho hình hài để hồn nhập vào, mẹ cưu mang những nét đặc thù của mỗi cá nhân, đặt để ta trong môi trường nào; kể cả từ lúc mới sinh ra cho tới ngày xuôi đôi tay lìa đời.
Hành động tức cái TA lúc nào cũng đối kháng môi trường (hoàn cảnh) sẵn có củ Ta. Người quyết tâm chống lại hoàn cảnh dù bại hay thành.
Nếu thế Tam Hợp Mệnh Thân thắng thế Di thì mới hội nhập được sao tốt ở cung Di.

B- THÂN AN Ở TÀI HOẶC QUAN LỘC
Ở đây cũng cùng thế Tam Hợp về mệnh cũng như về vòng Thái Tuế. Có vị thế đặc biệt cần ghi lại: Nếu thế Tam Hợp Mệnh thua thế cung Di, thì thế Tam Hợp Mệnh hay Thân ở vị thế lấn lên hay chống đối thì mới đủ khả năng hành động vươn mình lên với đời.
Về các điểm này xem các thí dụ thượng dẫn đã nêu, và nên áp dụng một cách linh động trong tương quan biểu kiến và tiềm ẩn thì mới nắm được yếu quyết của vòng Thái Tuế.

Thực ra, quan niệm về vòng Thái Tuế qua các mối liên hệ giữa các cung số nói trên được dẫn giải bằng đường lối dung hòa hai quan niệm dùng Dịch Lý trở về nguồn khoa Tử-Vi và khoa học hóa cho dễ diễn đạt thích ứng vào đời sống hiện tại. Triết học hay bất cứ ngành khoa học nào cũng nhằm nêu lên sự hệ thống hóa toàn bộ cũng như cũng có tương quan nhân quả của nó và trong thời đại để được mang sắc thái văn minh, ai ai cũng thích đem danh từ Khoa Học vào để bài bác điều gì họ không thích. Khoa Tử vi cũng chịu chung số phận đó. Không phải vì Tử vi là một môn huyền hặc không có căn bản luân lý vững chắc. Chỉ vì nền văn minh Đông Phương quá cao, chuộng về Đạo, thiên về sự giác ngộ cá nhân, cũng như không có khuynh hướng đại chúng hóa như các ngành Khoa học hiện đại Tử vi có những định luật âm Dương Ngũ hành của Kinh Dịch, nhưng vì chưa được chứng giả đúng mức. Những định luật này không ai có thể bài bác được, vì mới đây Kinh Dịch đã đoạt giải Nobel. Đó là điểm son của sự phục hồi tính cách Khoa Học của nền Triết học Đông Phương. Như vậy, tại sao Tử Vi, một phân bộ trong Kinh Dịch, lại không được ưu đãi đó. Tại vì chúng ta hay tại vì những đàn anh chúng ta quá lơ là hoặc để giữ kín làm của gia bảo. Để rồi, hôm nay, người viết không ngại tài hèn kém cố gắng tìm về nguồn bằng những bước đi ngược lại dấu chân người xưa với âm Dương Ngũ hành, với sự phối hợp của nền Khoa Học mới. Mong rằng sẽ có nhiều bàn tay, khối óc đồng quan điểm (hoặc dù có quan niệm như thế nào) góp vào những suy tư của mình cho vườn hoa Tử Vi thêm rực rỡ.

Viết xong tại Sài Gòn ngày 06-12-1974
VI-NHẬT
(H.Đ.T)
thanh giang - Dec 1, 2011 3:20 AM
Khảo luận tử vi:

Phép đoán tiểu hạn trên lá số xét gốc Đại hạn và các sao lưu niên

Phong Nguyên

Ai mới học tử vi cũng có một thắc mắc chung là tiểu hạn cứ 12 năm lại trùng với nhau nghĩa là trở lại cung cũ, như thế làm sao có thể tìm ra được những dị biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau, đành rằng ai cũng biết là phải căn cứ vào gốc đại hạn và các sao lưu động cùng một vài yếu tố thay đổi từng năm, nhưng phải phối hợp cách nào để tìm ra được những yếu tố khác nhau mới là khó khăn, rắc rối. Vì vậy, trong bài hôm nay, tôi thử đưa ra một số nhận xét để giúp quý bạn có một khái niệm về việc luận đoán tiểu hạn mà theo tôi là phần khó khăn nhất, và trước đây tôi đã đề cập tới một cách khái quát rồi.

Gốc đại hạn

Yếu tố làm cho các tiểu hạn trung nhau thành ra khác biệt nhiều là do gốc đại hạn thay đổi, vì khi đoán tiểu hạn điều tiên quyết là phải xét đến đại hạn lúc đó được coi như là một cung Mệnh thứ hai di động có ảnh hưởng mạnh mẽ và rõ rệt cho tiểu hạn, nhưng ta vẫn không thể quên lãng cung Mệnh khi giải đoán. Để cho được linh động và bớt khô khan tôi tránh việc nêu ra các nguyên tắc và chỉ nêu ra dưới đây nhiều thí dụ điển hình:

-Nếu đại hạn có Liêm Tham hãm địa (tại Tỵ, Hợi) mà tiểu hạn có Địa không, Địa kiếp, Thiên không thì sự nghiệm hoạnh phát, nhất là khi được Địa không, Địa kiếp đắc địa (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) chỉ vì Liêm Tham hãm địa rất cần gặp Không (chính trong cuốn Tử vi đẩu số Tân biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng có nêu ra điểm này khi bàn đến bộ Sát Phá Liêm Tham hãm tại cung Quan lộc mà quý bạn vô tình không biết áp dụng cho cả đại tiểu hạn). Cũng trong trường hợp tiểu hạn trên, nếu gặp Đại hạn có Thiên Phủ hoặc Tử vi thì thực đáng buồn chỉ chờ ngày khuynh gia bại sản hoặc mất chức…nhất là khi có thêm Tuần, Triệt án ngữ (là yếu tố làm lợi thêm cho Liêm Tham hãm), vì Tử Phủ sợ nhất gặp Không Vong và Tuần, Triệt. Ngoài ra, ta vẫn phải xét đến Mệnh nữa, vì khi đại tiểu hạn tương hợp với nhau rồi nếu được thêm Mệnh hỗ trợ thêm mới đáng gọi là hanh thông thuận lợi, còn ngược lại vẫn giảm đi nhiều. Tỷ dụ như Mệnh có Vũ Sát tại Mão mà gặp được đại hạn Liêm Tham hãm và tiểu hạn Không Kiếp, Thiên không như trên thì còn gì hay bằng vì tất cả nhóm sao đó tương trợ lẫn nhau chặt chẽ. Còn trường hợp Mệnh có Thiên Phủ (tức là Mệnh ở Dậu) với đại tiểu hạn như trên thì chưa thể hanh thông được hoặc nếu có phát lên mạnh thì đương số cũng đau khổ, bực dọc trong tâm hồn vì nằm trong môi trường trái ngược với tư thế của mình, không khác gì một ông quan tòa mà phải đứng đầu một đảng cướp hoặc một nhóm buôn lậu quốc tế, như thế càng thành công càng thấy lương tâm cắn rứt, mặc dầu bề ngoài thật là thịnh vượng và có uy tín.

Khi Đại hạn có Nhật Nguyệt miếu vượng tại Mão và Hợi mà gặp tiểu hạn có Thiên Không, Thiên Hư và cung nhập hạn lại vô chính diệu thời tiền tài và công danh rất ngon lành, vì Nhật Nguyệt rất ưa cung vô chính diệu để rọi chiếu vào cho sáng sủa nhất là có thêm Thiên Không quét sạch mây mù và có Thiên Hư làm cho bầu trời thăm thẳm thực là đẹp biết bao! Ngay cả khi có Tuần, Triệt án ngữ cũng vẫn hanh thông vì Nhật Nguyệt khi chiếu gián tiếp (tức là ở đại hạn ảnh hưởng cho tiểu hạn) không hề sợ Tuần, Triệt mà có khi còn nhờ hai sao nầy làm tăng sự tốt đẹp cho cung vô chính diệu nhập tiểu hạn nữa. Ngoài ra, dù có thêm Không, Kiếp (bất luận miếu vượng hay hãm) nhập hạn cũng phát đạt như thường vì Không Kiếp không hại gì cho Nhật, Nguyệt. Nhưng với tiểu hạn như trên, nếu đại hạn gặp Thiên Phủ hội Song Lộc thì kết quả ngược hẳn lại, không lụn bại thì cũng không làm sao phát đạt nổi. Gặp trường hợp như thế nhiều người mới học tử vi hẳn phải thắc mắc không hiểu tại sao tiểu hạn trước mình phát mạnh mẽ mà tiểu hạn sau cũng vào cung đó lại xuống đến đất đen, nhất là cứ yên trí đại hạn có Thiên Phủ hội Song Lộc thì tiền để đâu cho hết…Bây giờ ta lại phải xét đến Mệnh xem có gì mâu thuẫn hoặc thuận lợi cho đại tiểu hạn hay không: nếu trường hợp đầu (tức là đại hạn Nhật Nguyệt và tiểu hạn Thiên không, Thiên Hưu và cung nhập hạn vô chính diệu) mà được cung Mệnh cũng vô chính diệu hoặc có Phá quân cư Thân) thì năm đó rất thuận lợi, vì Phá quân rơi vào hạn có những sao trên không có gì trái ngược, cũng ví như một người liều lĩnh, thủ đoạn dữ dằn gặp được môi trường làm ăn bất chính (như buôn lậu) thì dễ thành công rực rỡ. Nếu Mệnh có Cơ, Lương hoặc Tử, Phủ thì tuy hợp với Đại hạn Nhật, Nguyệt nhưng lại kỵ tiểu hạn Không Vong, Không Kiếp, Tuần, Triệt cho nên năm đó cũng khó thành công.

-Nếu đại hạn có Xương, Khúc, Khôi Việt, Quan Phúc, Hóa Khoa, mà tiểu hạn lại gặp Hỏa Linh, Không Kiếp, Tuần, Triệt, Hóa Kỵ, Kình, Đà là ta đã thấy ngay sự mâu thuẫn, trái ngược giữa hai nhóm sao đó vì một bên toàn là sao chủ về văn học, tư cách thông minh, một bên chủ về dữ dằn, phá hoại, ngăn trở, lao động về chân tay, như thế làm sao có thể hanh thông được. Riêng trường hợp này, rất cần phối hợp với Mệnh. Nếu Mệnh có Liêm Tham hãm địa hoặc có Vũ Sát hay Cơ Lương (nhưng 2 cặp sao sau không thuận lợi bằng Liêm Tham vì chúng rất sợ Tuần Triệt) thì năm đó không đáng ngại, cũng ví như người thợ máy tới lúc được bổ túc thêm phần kỹ thuật của mình (tỷ dụ như học thêm một khóa chuyên môn nào đó).
Còn trường hợp Mệnh có Thiên Tướng, Thiên Lương…thì tuy rất hợp với đại hạn đó nhưng tiểu hạn hoàn toàn bất lợi, nếu có đi thi tất rớt, có mưu cầu chức phận gì cũng bị cản trở. Do đó, nếu Mệnh và tiểu hạn tương hợp với nhau rồi phải có Đại hạn làm trung gian kết hợp mới tốt đẹp, cũng ví như người mai mối giữa hai họ nhà trai và nhà gái nếu thân thiết với cả hai bên thì người đó sẽ cố tác thành cho cặp trai gái, còn trường hợp không ưa một bên nào là thế nào cũng gây mâu thuẫn. Xem như vậy quý bạn thấy đoán tiểu hạn quả thực rất uyển chuyển vì phải kết hợp quá nhiều yếu tố.

Qua những thí dụ nêu trên, quý bạn hẳn đã có một khái niệm về sự khác biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau (cùng một cung). Đây mới chỉ căn cứ vào gốc đại hạn chứ chưa xét tới những yếu tố thay đổi khác, mà tôi xin nêu ra dưới đây:

Các sao Lưu niên (hoặc Phi tinh)

Nếu muốn giải đoán tinh vi về tiểu hạn hơn, ta cần căn cứ vào các sao lưu niên mà một số nhà tử vi quen gọi là phi tinh là các sao không thể an sẵn trên lá số nhưng cứ mỗi năm ta cần ghi thêm bằng bút chì trên lá số nếu muốn đoán kỹ lưỡng thêm, để biết những điểm dị biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau. Các phi tinh thông thường là Lộc tồn, Kình Đà, Thái tuế, Thiên Mã, Khốc Hư, Tang Hổ, Khôi Việt mà cách an có ghi trong nhiều sách tử vi nên tôi không nêu ra đây nữa. Nhiều nhà tử vi khi an Lưu Thái Tuế hoặc Lưu Lộc Tồn thường an luôn cả các sao khác thuộc chùm đó, nhưng theo tôi nghĩ thì chỉ cần xét đến các phi tinh nêu trên, cũng đủ vì những sao còn lại không giúp được nhiều cho việc giải đoán mà còn có khi làm ta phân vân không biết đi tới kết luận nào. Ngoài ra, trong các phi tinh kể trên, Lưu Thái Tuế cần được chú trong nhiều nhất vì nó luôn luôn tọa thủ tại cung của năm nhập hạn (tức là địa bàn, còn lưu tiểu hạn là thiên bàn).

Tôi lại cũng xin nêu ra nhiều thí dụ điển hình dưới đây chứ không thể nêu ra nguyên tắc giải đoán được:

-Khi đại hạn có Cự môn hãm địa hội Phục binh, Tuế phá, tiểu hạn lại có Cô Quả, Tang Hổ, Kình Đà, Hỏa Linh, Thái tuế mà Lưu Thái tuế lại gặp Thiên Hình, Hóa Kỵ, Kình hoặc Đà lưu niên (nhất là Kình hãm địa) thời ta có thể quyết đoán là đương số bị tù tội hoặc bị đánh đập khá nặng, nếu không cũng phải đau yếu nguy nạn. Nếu lưu Thái tuế không gặp Kình hoặc Đà, tức là Lưu Lộc tồn chạy sang cung khác, thì bao nhiêu sự nguy nan cũng chỉ còn một phút. Do đó quý bạn thấy mỗi 12 năm là Lộc tồn lưu niên lại thay đổi vị trí, kéo theo Kình Đà luôn chứ không thể nào cho rằng địa bàn nhập hạn luôn luôn giống nhau mỗi 12 năm.

-Nếu đại hạn có Hóa Khoa, Quang Quý (Sửu Mùi), tiểu hạn có Xương Khúc, Khôi Việt mà Lưu Thái Tuế lại gặp phi tinh Khôi Việt Hồng Hỉ thì thuận lợi nhất về công danh, đi thi chắc chắn phải đậu, nhất là khi thấy Mệnh có Thiên Lương, Thiên Tướng đắc địa hội Tả Hữu, Quyền Lộc nữa. Nhiều khi tiểu hạn hơi xấu mà Lưu Thái Tuế hội nhiều sao tốt đẹp vẫn được hanh thông, tuy vẫn có trở ngại lúc đầu, tỷ dụ như thi đậu kỳ nhì, hoặc buôn bán thua lỗ đầu năm nhưng giữa năm trở đi lại phát tài.

-Về phương diện Lưu Thiên Mã, nhiều nhà Tử vi cho rằng những người nào Mệnh, hoặc Thiên Di hay “Thân” cư tại Dần Thân Tỵ Hợi hay phải di chuyển, xuất dương, xuất xứ vì Thiên Mã cố định luôn luôn ở 4 cung đó và cả Thiên Mã lưu niên cũng vậy. Còn đối với những người khác, nhất là những người có cách làm việc cố định không bao giờ quý bạn nên đoán là họ sẽ thay đổi công việc mỗi khi gặp Lưu Thiên Mã vì cứ vài năm thế nào chẳng gặp trực tiếp hoặc gián tiếp Lưu Thiên Mã hoặc Thiên Mã cố định. Đối với những người này phải có thật nhiều yếu tố thay đổi mới có thể đoán được, tỷ dụ như đại hạn có Thiên Đồng, Thiên không rồi tiểu hạn có Mã cố định gặp Lưu Thiên Mã, mà lại phải chiếu về cung thuộc về mình, tức là Mệnh, Quan lộc, Tài bạch, Thiên Di, “Thân” chứ nếu chiếu về Phụ Mẫu, Tử tức thì cũng vẫn chưa thể quả quyết được. Ngoài ra, còn cần 2 đại hạn liền nhau thật khác nhau, để cho có sự thay đổi mạnh mẽ mỗi khi chuyển đại hạn.

Sau hết, ngoài các phi tinh kể trên, ta còn cần chú trọng đến Lưu Tuần, Triệt mà ít sách đề cập tới mặc dầu rất quan trọng (Cách an 2 sao lưu động này cũng như cách thông thường, tỷ dụ như năm nay Giáp Dần thì Tuần ở Tý Sửu và Triệt ở Thân Dậu). Thực thế, nhiều khi Lưu Tuần, Triệt còn ảnh hưởng mạnh mẽ hơn Tuần Triệt cố định, nếu luận đoán về tiểu hạn. Tỷ dụ như cung nhập hạn có Tử Phủ cư Thân hội nhiều sao tốt đẹp và hợp với đại hạn cũng như Mệnh nhưng vẫn không thấy hanh thông, đó cũng chỉ vì Lưu Tuần hoặc Lưu Triệt đã án ngữ làm mất gần hết cách tốt đẹp đó đi. Nhưng gặp trường hợp hạn quá xấu nếu may mắn được Lưu Tuần, Triệt án ngữ thời vẫn có thể chắc qua khỏi được. Như vậy quý bạn thấy mỗi tiểu hạn trùng nhau đã có khá nhiều yếu tố khác nhau.

Thời gian

Sau hết, ta cần phải lưu ý đến yếu tố thời gian tuy không có tính cách lý thuyết về tử vi, nhưng nhiều khi ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc giải đoán. Tỷ dụ như:

-Hai sao Tả Hữu thường thường chỉ ứng nghiệm trong thời đương số còn trẻ vì có trẻ mới hăng say hoạt động cho phù hợp với đặc tính của Tả Hữu, chứ khi đã lớn tuổi dù có muốn tích cực chăng nữa Tả Hữu cũng “già nua” rồi khó lòng giúp cho đương số được phong độ như trước. Về sao Đào Hồng cũng tương tự như vậy, nếu nằm trong những đại hạn ta còn thanh niên mới đúng môi trường chứ từ 60 tuổi trở đi 2 sao đó không những không giúp ích gì lại còn làm cho ta yếu đuối thêm và có khi đưa đến tận số. Còn sao Triệt thì từ năm 30 tuổi trở đi cũng bớt hẳn ảnh hưởng đi, nếu cung nhập hạn từ 30 năm trở về trước đang tốt trở thành xấu vì Triệt án ngữ thì từ 30 năm trở về sau phải đoán là tốt nếu gặp sao đó nữa.

-Về các hung tinh (như Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp) nói chung thường hay hoạt động sớm nếu ở Đại hạn thì hay ứng vào mấy năm đầu và ở tiểu hạn ứng vào đầu năm, nhất là khi gặp chính tinh có ảnh hưởng sớm (tức là bắc đẩu tinh). Hoặc có khi trong đại hạn còn trẻ bị hung tinh này quấy phá nhưng đến đại hạn cách đó mấy chục năm sau cũng gặp hung tinh đó sự phá hoại lại quá nhẹ.

Qua các thí dụ trên, quý bạn hẳn nhận thấy việc đặt ra nguyên tắc hoặc hệ thống để giải đoán tiểu hạn rất khó thực hiện vì có quá nhiều yếu tố kết hợp không giống nhau và để kết luận tôi chỉ xin nhắc quý bạn là sự tốt xấu của tiểu hạn không phải hoàn toàn do đặc tính tốt xấu của các sao nhập hạn mà do sự tương hợp giữa tiểu hạn, đại hạn và Mệnh Thân.

KHHB số 74E2

2 nhận xét:

  1. Lê Ốc Mạch đã viết:
    " Chúng tÔi đọc sÁch Tử vi chữ Việt, cho nên khÔng thấy sÁch nÀo nói rằng sao Mộ phải an vÀo Tứ Mộ. Quý vị độc giả của giai phẩm KHHB thấy “sao Mộ” phải an vÀo tứ Mộ nói trong cuốn sÁch nÀo, xin cho biết, chúng tÔi cảm tạ trước."
    * Mình xin trả lời:
    Vấn đề bạn đặt ra thuộc về cấu trúc cơ bản của tử vi cục, do vậy Dầu là theo phương pháp nào thì trên căn bản vẫn là: vị trí của các sao trong vòng Tràng Sinh được phân bố theo cấu trúc của tam hợp cục. Chỗ khởi Tràng Sinh tùy thuộc vào Cục. Mà Tử Vi Cục thì ăn vào tam hợp cục, các tam hợp cục(Sinh Vượng Mộ của 5 hành) thì bản thân các sao Mộ tự phải nằm đúng vị trí tại các cung mộ( bất luận VTS an xuôi hay nghich).

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết này rất hay, các bạn nên tham khảo

    Trả lờiXóa