Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

THIÊN TÌNH SỬ CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG


THIÊN TÌNH SỬ CỦA THI SĨHOÀNG CHƯƠNG
 
Tình yêu là một nguồn thi hứng vô tận của loài người, bất luận ở phương trời nào và ở thời điểm nào. Chẳng thế ông cha chúng ta, từ thưở xa xưa, khi chưa có chữ viết đã biết bày tỏ tình yêu qua những câu ca dao truyền khẩu, tuy đơn sơ nhưng đã vô cùng thơ mộng và thắm thiết như:
Một yêu là sự đã liềuMưa mai cũng chịu, nắng chiều cũng cam.hay:
Tóc mai sợi vắn sợi dài,Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.
Trong văn chương bác học của chúng ta cũng không thiếu những bài thơ tình diễm tuyệt, như những bài thơ tình của Nguyễn Trãi, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Dực Tông, nhưng dù sao phải đợi đến giữa thế kỷ XX, khi phong trào thơ văn lãng mạn ở nước ta bộc phát và lên cao, trong khoảng thời gian 1925-1943, thơ mới chiếm ưu thế trên thi đàn, thơ tình yêu mới thực sự trăm hoa đua nở.
Trong khu rừng của thơ tình yêu buổi ấy, tuy có nhiều kỳ hoa dị thảo nhưng hầu hết được xây dựng trên những mối tình nếu không là hư cấu, mộng ảo, thì cũng chỉ là
những mối tình âm thầm kín đáo hay thoảng qua, hay ngắn ngủi, chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nào đó với dăm bẩy bài thơ đã là nhiều.
Trong khi đó, thơ tình yêu củaHoàng Chương ở một trường hợp khác hẳn. Có thể nói đây là một thiên tình sử bất tuyệt, rất đỗi thơ mộng nhưng cũng rất đỗi bi thiết với cả ngàn câu thơ.
Hoàng Chương đã vì hai chữ chung tình mà bi lụy gần hết cả cuộc đời, làm ta nhớ đến Phạm Thái, một tráng sĩ cuối thế kỷ 18, đang mưu đồ phục Lê, diệt Tây Sơn, mà vì mấy năm lận đận trong bể tình (yêu Trương Quỳnh Như bị trắc trở, sau Quỳnh Như tuyệt mệnh) đã làm tiêu ma cả chí khí. “Ôi chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy đôi con mắt mỹ nhân” là thế đó.
Thơ củaHoàng Chương cũng có những nét đặc biệt. Ông theo Tây học, chịu ảnh hưởng thơ văn lãng mạn Pháp là lẽ tự nhiên; nhưng ông còn là còn người có bản ngã nghệ sĩ Á Đông: Ông giỏi Hán văn, và chịu ảnh hưởng giáo dục nghiêm khắc của thân phụ, một nhà nho bảo thủ, đồng thời ông còn chịu ảnh hưởng của thân mẫu, một tiểu thư vốn dòng khuê các, hay chữ và giỏi đàn tranh. Từ đó,Hoàng Chương mang tâm hồn của một nghệ sĩ đa tình, mẫn cảm, giàu trí tưởng tượng, tính tình thì hiền lành, tình nghĩa thủy chung. Tất cả, vâng tất cả đó đã bồi cho hồn thơ củaHoàng Chương thêm mặn nồng thắm thiết.
Ngoài ra, thi sĩHoàng Chương còn có cái tài hoa, cái khả năng thiên phú trong cách dùng chữ, đặt câu, tạo hình, diễn ý và gieo vần điệu, khiến thơ ông đã diễn tả được hết những rung động vi tế nhất trong đời sống nội tâm của con người.
Với con người ấy, với mối tình ấy, với tài năng ấy,Hoàng Chương đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ tình trác tuyệt , âu cũng là điều dễ hiểu.
 
1 - TỐ CỦA HOÀNG ƠI , TỐ CỦA ANH !Hồi đó, vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (1), đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện (2) mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện , nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường (3). Họ dập dìu, tấp nập ra vào nơi các chợ phiên, các phòng triển lãm tranh ảnh mỹ thuật (do nhóm sinh viên Cao Đẳng Mỹ Thuật thực hiện).
Báo chí đang hồi bộc phát vì được chính quyền nâng đỡ (4), đúng năm 1935 lệnh kiểm duyệt còn được bãi bỏ, nhưng không phải để người ta bàn chuyện chính trị mà để làm văn nghệ thuần túy.
Ảnh hưởng tư tưởng tự do và văn học lãng mạn Tây phương đã nhuần thấm trong đời sống tình cảm, tư tưởng và bút pháp của những người viết văn, nên trong thi ca cũng như trong tiểu thuyết, từ nội dung đến hình thức đã rất mới mẻ, phóng túng. Đây cũng là lúc nhóm Tự Lực Văn Đoàn đang chủ trương đẩy mạnh phong trào vui sống với ái tình lãng mạn lý tưởng xinh tươi, thơ mộng. Thơ mới đã chiếm ưu thế trên văn đàn và đang đi vào thời thượng của nó.
Hà Nội thời này quả là một Hà Nội đô hội, tân tiến, thanh lịch, trẻ trung và văn nghệ.
Lúc nàyHoàng Chương vừa 19 tuổi, đang theo học ban Tú Tài Pháp tại Trường Trung Học Albert-Sarraut Hà Nội. Vào một chiều chủ nhật rảnh rỗi, Dương Tuệ, bạn học của Hoàng (trong thi caHoàng Chương thường tự xưng như thế) lại chơi và rủ chàng đi thăm Nguyễn Minh Ngải, bạn chung của hai người, đang làm trợ giáo tại nhà bà Tư, dì của Tuệ, ở Phố Cầu Gỗ.
Lần đầu tiên được quen biết gia đình ông bà Tư, Hoàng đã cảm thấy ngay cái không khí cởi mở, thân mật nơi đây mà đã từ lâu chàng thiếu thốn.
Bốn cô cậu học trò của thầy Ngải thật dễ thương, cô bé lớn nhất là Trần Tố Uyển được 14 tuổi, cùng cậu em, kém chị một tuổi, cả hai đang được thầy Ngải luyện thi Bằng Tiểu Học. Ông Tư làm Tham biện nhà giây thép, bà Tư có cửa hàng buôn bán riêng; thấy Hoàng vừa là bạn học của cháu mình lại vừa là bạn của thầy giáo bày trẻ nên cũng có ý vị nể và tiếp đón ân cần.
Hoàng đang sống lẻ loi nơi nhà trọ, thuê của người gác vườn Bách Thảo (gần Trường Albert-Sarraut) trong khi gia đình chàng vẫn sống ở Nam Định, quê nhà; thân phụ chàng, ôngThiện Thuật, từng nhậm chức Tri Huyện, còn mẹ chàng có cửa hàng buôn bán thóc gạo.
Từ mấy năm nay Hoàng đã có cái tâm trạng bất mãn cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Ngoài xã hội ư? Dân tộc còn bị nô lệ chưa nhìn thấy lối thoát; trong khi đó, xung quanh chàng người ta đang bon chen ganh đua giành giật những mảnh bằng to, mong chiếm địa vị cao để hưởng vinh hoa phú quí mà người Pháp đã cố tình nhử mồi, mua chuộc. Với bản ngã ưa sầu mộng, nhiều cảm xúc và thiếu óc thực tế như Hoàng, chốn ấy nhất định không phải là nơi chàng đeo đuổi, mà còn cảm thấy quá xa lạ là đằng khác. Còn gia đình ư? Cha chàng là một nhà nho bảo thủ, nghiêm khắc, bấy lâu nay hai cha con đã có mối bất hòa về chuyện hôn nhân của chàng. Ông Tri huyện chỉ muốn sau khi Hoàng học xong sẽ đi hỏi cô con gái một vị quan Bố chánh, bạn thiết của ông cho chàng. Hoàng đã theo Tây học, những tư tưởng tự do cá nhân, giải phóng tình cảm đã nẩy mầm, bén rễ trong tim óc của chàng, làm sao chàng có thể nghe lời? Mỗi lần cha con nhắc đến chuyện này, sấm sét lại nổi lên.
Thế là trước sự trống rỗng của một cuộc đời không lý tưởng, trước sự chán chường của hoàn cảnh cá nhân và gia đình, Hoàng trở thành một con người mang tâm trạng bất mãn, cô đơn như một kẻ bị lưu đầy, lạc lõng giữa cuộc đời:
 Riêng tôi sống cuộc đời vô vị Khắc nỗi buồn u uẩn từ lâu.........
Ôm khối hận gia đình trĩu nặngTôi căm hờn thù ghét hôn nhân.

 Nhìn đời bằng con mắt bi phẫn như thế, thử hỏi còn sinh thú đâu nữa mà trông tìm, chờ đợi.
Tôi ngao ngán thờ ơ, khinh bỉHết.  Không hy vọng, chẳng mong cầu.

 Nhìn đời bằng con mắt bi phẫn như thế, thử hỏi còn sinh thú đâu nữa mà trông tìm, chờ đợi. Giờ đây, mỗi khiHoàng Chương thấy chán đời thì không khí vui vẻ, thân ái của gia đình ông bà Tư lại hiện ra và Hoàng lại muốn đến thăm thầy giáo Ngải... hai lần, ba lần, bốn lần! Rồi trở thành thông lệ. Cô bé Tố hồi này đã đỗ Bằng Tiểu Học, nàng đã rời Trường Ecole des Jeunes Filles Brieux (sau đổi thành Trường Tiểu Học Hàng Cót) để vào Trung Học Sainte Marie. Với sở trường về Anh văn, Hoàng nghiễm nhiên trở thành cố vấn đắc lực cho hai chị em Tố Uyển về môn sinh ngữ này trong những năm đầu bực trung học, vì thầy Ngải chỉ kèm cho chị em nàng về toán và Pháp văn.
Chủ nhật nào tới chơi, gặp kỳ nhà có hội tổ tôm thì Hoàng lại đến đứng sau lưng bà Tư “gà nước”; chàng thường có những nước bài cao, tỏ ra thông minh, đôi khi bà Tư lại nhường chân cho Hoàng chơi bài thay mình. Chẳng bao lâu Hoàng trở nên người bạn thân của tất cả gia đình. Chàng được giữ lại ăn cơm và khi làm được bài thơ nào đắc ý, chàng vội đem đến khoe rồi đọc cho cả nhà nghe. Có nhiều hôm Hoàng ở lại khá muộn để giảng bài cho chị em Tố.  Tình cảm quyến luyến giữa Hoàng và Tố nẩy nở một cách tự nhiên quá, hồn nhiên quá nên gia đình Tố chẳng một ai để ý:
                Nhà đông người vui nhộn                Chẳng ai còn nhớ ra                Nơi này anh có mặt                Vì đâu từ bao giờ.
Mà chính Hoàng cũng không hay. Cho đến một ngày kia, vì bận học, đã lâu Hoàng không lại thăm gia đình ông bà Tư, chàng bỗng cảm thấy nhớ nhung cô bé, con người có cái vẻ em xinh kiều diễm thiên nhiên.  Sự ý thức được tình cảm xa nhau mà nhớ nhung này khiếnHoàng Chương như sực tỉnh, tự bấy lâu nay chàng thường có cái trạng thái tâm hồn lâng lâng, yêu đời, sống nửa mơ nửa thực, và đôi khi còn như lưu luyến một cái gì mà chàng chưa kịp nhận biết, thì nay chàng mới sáng ra, rồi hồi hộp tự hỏi:
                Chập chờn bến thực hay nguồn mơ                Hay chính bâng khuâng là ái tình?
Đồng thời, chàng khám phá ra lý do vì đâu chàng đã năng lui tới nhà Tố:
                Kèm cho cả nhà học                Đã có thầy giáo riêng.                Anh qua lại khuya sớm                Chỉ vì anh yêu em!
Hoàng đã tìm được hương vị của cuộc đời, lòng chàng cảm thấy ngây ngất và dâng lên một niềm mơ ước thiết tha là sẽ được cùng ai chung sống trong hạnh phúc lứa đôi:
                Cho đến lúc vì em tôi được                Thấy mùa xuân thoảng vị men say                Tôi khao khát rồi tôi mơ ước                Chén rượu tương lai hạnh phúc đầy.
Nhưng khi ước muốn chung đôi vừa lóe lên trong tâm trí thì Hoàng ý thức ngay rằng đó quả là điều không nên thực hiện. Tại sao thế?  Vì người yêu của chàng còn trong trắng ngây thơ quá:
Ôi Kiều Thu hồn em trong sạchVui sống yêu đời tuổi trẻ thơHam mê chúng bạn mê đèn sáchKhông chút mây buồn gợn giấc mơ.(Kiều Thu là tên chàng đặt cho người yêu)
Trong khi chàng vẫn chỉ là kẻ lạc lõng giữa cuộc đời với bao nỗi buồn đau tủi hận, làm sao chàng có thể đem lại được hạnh phúc cho người chàng yêu. Thế là ước muốn yêu đương chung đôi vừa nhen nhúm đã vội dấu kín, chôn chặt tận đáy lòng:
Vì anh vẫn ước chẳng bao giờEm hiểu tình ta nhắc chuyện xưa.Anh sợ đời anh đầy lệ tủiKhông làm vui được em ngây thơ.
Ngày lại ngày, chàng vẫn êm đềm đi bên cạnh cuộc sống thơ ngây của nàng, song là cái êm đềm trên mặt nước có sóng ngầm:
Anh vẫn như chiếc bóngQua lại bước êm ru nhưng:
Thịt da nào gợn sóngVang dội tên Kiều Thu !và:
Kín tiếng nhưng lòng riêng xôn xaoAi thấy phong ba nơi bể hồn.
Chúng ta cũng hiểu, theo tâm lý học, khi con người càng cố gắng che dấu tình cảm lộ ra bên ngoài bao nhiêu, thì sự dồn nén lại khiến đời sống tình cảm bên trong càng thêm mãnh liệt bấy nhiêu. Chính vì sự khao khát chung đôi không dám thổ lộ cùng ai nên nó đã lẩn vào trong tiềm thức của Hoàng, rồi một đêm nào đó, nó hiện lên trong giấc mơ để giải tỏa cho nỗi lòng khắc khoải bấy lâu. Chỉ trong mơ,Hoàng Chương mới sống thực như lòng mình, và chàng đã say sưa giãi bầy hết chân tình cùng ai:
                Xuân đắm trong mơ một buổi chiều                Bên em anh thấy sóng lòng xiêu                Mê man giãi hết tình u ẩn                Trong lúc điên rồ anh quá yêu.
Em cười chế riễu: “Anh thường bảo                Ưa kiếp giang hồ sống lẻ loi .                Sao anh nghĩ đến tình duyên sớm              Gạn hỏi chiều nay chuyện lứa đôi”.
Cũng vì sự khao khát được yêu nên trong thơ Hoàng còn thấy nàng Tố cười cợt nhưng cũng đã cảm động rơi lệ. Đối với Hoàng thế là đủ, chàng đã mãn nguyện, điều gì chàng muốn biết, đã biết. Giọi nước mắt ấy đã tố cáo nàng đã yêu chàng (dù chỉ trong mơ thôi đấy nhé!)
                Hỡi ơi một phút giây huyền ảo                Đủ giẹp lòng anh sóng gió yên                Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ                Cho dẫu ngày mai em lãng quên.
Cuộc sống tạm yên phận như thế êm trôi như mơ:
                Tháng năm dìu diu trôi mơ màng
Nàng Tố vẫn sống yên ấm trong vòng tay thương yêu của gia đình, vàHoàng Chương vẫn nhận được tình cảm quyến luyến đặc biệt của nàng dành riêng cho chàng:
                Coi chàng hơn bạn thiết                Coi chàng hơn anh trai.
Cho đến một ngày kia Hoàng chợt nhận thấy cuộc sống của người yêu đã bắt đầu có sự đổi khác:
Em chẳng còn ham chơi, như trướcNhịp máu rung trời nước đâu đâuCó khi ngồi lặng giờ lâuVẩn vơ nét bút, đường khâu ngại ngùng.Xiết bao vẻ thẹn thùng e lệTrong làn thu cô bé năm xưa.
Mầm mống báo hiệu của tuổi dậy thì nơi người thiếu nữ thế là đã rõ.Hoàng Chương dù hiểu rằng con người ta cũng như vạn vật làm sao thoát được luật vô thường, biến dịch của trời đất; thời gian trôi mau, sẽ cuốn phăng đi tuổi xanh thơ mộng của người yêu và nàng sẽ đổi thay:
Khi bức rèm tuổi xanh mơ mộngĐã cuốn dần theo thời gian mau chóngLòng em thay đổi.
Nghĩ tới đó,Hoàng Chương hoảng sợ... Có cái tâm trạng hoảng sợ này cũng vì chàng biết chắc một ngày rất gần thôi, người yêu của chàng sẽ trở thành một thiếu nữ tuyệt sắc, một ước mơ của cuộc đời và nàng sẽ bị cuộc đời lôi cuốn theo:
 Khi cô bé hôm nayChưa một ai ca tụng mê sayĐã trở thành trang thiếu nữCó phép thu hồn trong sóng thu tình tứKhi vẻ phong lưu tuyệt sắc của giai nhân:Đã điểm nên tranh, đã dệt nên vầnĐã rung lên muôn lời ca điệu hát.
Tương lai chưa xảy ra, mà cũng mới chỉ là dự phóng của Hoàng thôi, chàng đã tự đầy ải mình trong nỗi khổ đau của kẻ bị lãng quên:
Khi ấy, khi đời em đầy mộng tưởng
                Như thủy trào dâng biển lớn mênh mông                Đắm đuối trong tương lai,               những giờ vui sẽ hưởng                Không biết em còn nhớ đến tôi không?
Hoàng không hề có mặc cảm thấp kém, thua sút thiên hạ, không thể với tới được Tố mà đành cam phận con giun đất, hướng vọng về ngôi sao ở tận mãi trên trời cao. Không, chàng học giỏi, thông minh, chính gia đình Tố đã xác nhận điều này. Chàng đang theo học ban Tú tài Pháp ở trường Trung Học Albert Sarraut, chàng đủ sức đỗ, và quả năm sau (1937) chàng đã lấy được bằng Tú Tài Pháp ban toán; chàng cũng dư sức để giật lấy mảnh bằng Cử nhân Luật như ai nếu chàng muốn, để trở thành mẫu người ước mơ của xã hội thời ấy. Nhưng nếu thếHoàng Chương đã chẳng còn là thi sĩHoàng Chương của chúng ta nữa .
 Hoàng tự biết mình không thể nào trở thành một ông Tri huyện đạo mạo, quyền thế, xét nét dân đen; chàng cũng không thể nào là một Luật sư tài danh đanh thép, hùng biện xoay không thành có, cãi có thành không; chàng không thể là gì gì nữa trong cái xã hội đầy phiền toái này, có nghĩa là chàng sẽ không thể đem lại hạnh phúc cho người chàng yêu. Vì ý thức rõ rệt như thế nênHoàng Chương đã quyết định rời Tố đi xa. Chàng chấp nhận mọi thiệt thòi để người yêu sau này sẽ được hưởng hạnh phúc trong cuộc đời của nàng.
Nhưng vừa rời Tố ra đi Hoàng đã rơi ngay vào cái tâm trạng bơ vơ, trôi giạt thưở nào. Nói khác đi, chàng lại tự đầy ải mình trong kiếp đau thương của một kẻ đi đầy giữa cuộc đời:
                Tôi lại bơ vơ đường quạnh vắng                Chiếc lá khô tàn mặc gió đem.                Ôi một kẻ đi đầy tuyệt vọng                Suốt đời số mệnh chẳng buông tha.
Chàng chỉ còn biết tự an ủi bằng chút kỷ niệm vang bóng của những ngày đã qua:
                Tôi theo đuổi chút gì vang bóng                Yêu, vui, hồi hộp những ngày qua.
Rồi chính ý thức đau thương phải xa rời người yêu đã làm hoàng rộn lên lòng thương xót đối với thế nhân, trong đó có người chàng yêu. Thế nhân ngoài kia đang ngụp lặn trong thứ hạnh phúc xây dựng trên tài sắc danh lợi những thứ phù du ấy một mai không còn nữa, con người dễ trở nên tệ bạc, bội phản. Đã có bao nhiêu và sẽ còn bao nhiêu nạn nhân của tình đời đen bạc này? Từ sự thương xót đó Hoàng đã tìm ra được niềm vui trong ý nghĩa hy sinh:
                Để gượng sống so dây thi nhạc                Cao dâng lời thảm khúc bi ca                Cho rung động loài người tệ bạc                Cũng vì em, tình của đôi ta.
Nói rõ hơn, nhà thơHoàng Chương đã tìm được thú đau thương trong sự thiệt thòi thương đau của mình, nói như giáo sư Lê Tuyên trong Chinh Phụ Ngâm Và Tâm Thức Lãng Mạn Của Kẻ Lưu Đầy (6): “Có đau thương mới làm sáng được thiên đường của tình yêu”. Quả vậy, vì chính sự thiệt thòi đau thương ấy đã làm tỏ rõ được tình yêu cao thượng của Hoàng, nó sẽ giúp cảm hóa lòng người, làm khơi dậy được tình yêu chung thủy nơi họ. Những điều này đã đem lại cho Hoàng niềm hạnh phúc, tự mãn.
Nhưng đã là tình yêu đích thực thuộc về thế giới thiêng liêng, huyền nhiệm của tâm hồn, và thế giới phức tạp chủ quan của tình cảm con người thì dễ đâu đem những lý luận thuộc về lý trí khách quan mà thuyết phục, mà giải quyết được. Thế nên, tuy dứt khoát bỏ ra đi, xa hẳn người yêu để nàng được yên sống trong thế giới của nàng,Hoàng Chương vẫn không nguôi được lòng thương nhớ, tưởng vọng ; mỗi giờ phút phải xa nàng là mỗi giờ phút khắc khoải, đớn đau:
Tự nhủ sống là quên, anh vẫn muốnĐem tháng ngày khâu kín vết chia ly.Nhưng mỗi phút thời gian đưa thép nhọnMáu thầm rơi mỗi phút đáy tim si.
Để chống chọi với nỗi nhớ nhung, đau thương của mình,Hoàng Chương đã tìm quên bằng mọi cách.
Chàng đắm mình trong những cuộc ăn chơi trác táng, hết gái, lại đến thuốc phiện, chàng tự chôn vùi nhân phẩm để mong nàng sẽ khinh rẻ, hắt hủi; tự ái có bị tổn thương va chạm, chàng mới có thể quên được nàng:
                Anh lại muốn đắm mình trong trác táng                Giữa mê ly đầy xác thịt kiêu sa.                Nhưng mỗi lúc đêm tàn trời hửng sáng                Anh khóc mùa trinh bạch sớm tiêu ma.                Và anh cũng muốn thiêu hồn trong lửa đỏ                Lượm tàn tro vang bóng gửi xa đem             Nhưng mỗi lúc buông tay liều mặc gió             Anh nhớ ngày thơ mộng sống bên em.
Có ngờ đâu chính những kỷ niệm thơ mộng trong những ngày Hoàng được sống gần gụi bên người chàng yêu đã làm sống dậy tình yêu trinh bạch thuở ban đầu của chàng, và những hình ảnh ngây thơ trong sáng của nàng Tố đã vô tình trở thành chiếc phao cứu nạn, giúp chàng thoát khỏi sự sa lầy trong cuộc sống trụy lạc.
Những thú ăn chơi trác táng đã không thể giúp choHoàng Chương nguôi ngoai được nỗi đau khổ phải xa Tố, chàng bèn tìm quên trong kiếp sống giang hồ.
Nhưng đi đâu? Hết Na Sầm rồi Thanh Hóa, Lạng Sơn, nơi nào chàng cũng chỉ nhìn thấy ngoài trời một màu ảm đạm, còn trong lòng thì “nung nấu lòng dưa héo mòn”, chỉ vì:
               Làm sao quên được tình ai                Chàng Lưu còn nẻo Thiên Thai còn tìm
Thế là nhà thơ của chúng ta đành xếp giáp tính chuyện quay về:
                  Mai anh bỏ kiếp giang hồ lại                Đáy biển vừa rung động mũi kim                Phải gắng thêu xong đường chỉ dở                Uyên ương liền cánh mãi đôi chim.
Ý tưởng trở về phen này quyết tìm mọi cách để tiếp tục xây dựng tình yêu cùng Tố, lo thực hiện mộng ước chung đôi với Tố vừa xuất hiện trong tâm tríHoàng Chương, thì mầu nhiệm thay tình yêu hạnh phúc nơi chàng liền được hồi sinh. Không chỉ hồn chàng phơi phới mà tất cả vạn vật được phóng nhìn qua con mắt yêu đời của chàng cũng như đổi khác. Chúng không còn là những hiện tượng thiên nhiên vô hồn đơn giản thực hữu nữa, mà đã trở nên sinh động vô cùng, chúng cũng đang ngan ngát một mầu yêu:
                Có một mùa thu đẹp chẳng ngờ                Mây chiều giải lụa, sớm giăng tơ,                Nắng thanh bình cũng vàng như bướm                Hoa cũng vàng như nguyệt trẻ thơ.
Và giờ đây chuỗi ngày hạnh phúc của tình yêu lứa đôi mới thực sự bắt đầu. Đó là năm 1938, lúc này gia đình Tố đã rời phố Cầu Gỗ, dọn nhà về phố Kỳ Đồng (tức Capitaine Bruisseau). Hạnh phúc tràn đầy quá,Hoàng Chương đã phải thú nhận:
                Bao nhiêu là chuyện thần tiên quá                Nhẩy múa thi trong giấc mộng đầu.
Tình yêu củaHoàng Chương và Tố Uyển khởi đi từ lòng cảm mến hồn nhiên của tuổi trẻ, do hoàn cảnh thân cận tạo nên đã đành; đây còn là tình yêu thơ mộng, đồng điệu của đôi thanh niên nam nữ tính tình đằm thắm đa cảm, vừa lớn lên, lại theo Tây học, chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do, giải phóng tình cảm cá nhân của văn chương Pháp. Nay tình yêu có điều kiện nẩy nở, hẳn là một cơ hội tốt để tâm hồn họ rung động và tạo ra biết bao mỹ cảm. Và trong bao nhiêu vốn sống tươi rói của cuộc tình đầu này,Hoàng Chương đã biết ghi nhận lấy những khoảnh khắc nên thơ nhất để thể hiện thành thi ca. Đây ta hãy nghe nhà thơ kể lại:
Nào những bữa cơm thân mật trong gia đình:
                Những chiều đông rét mướt                Cả nhà ngồi vây quanh                Bàn ăn khói nghi ngút                Bên em vẫn có anh. Nào những buổi đón học:
                Em biết anh chờ em ngã ba                Trường Thi, Ngõ Huyện vắng người qua                Đi chung một quãng, chiều tan học                Chẳng nói yêu mà yêu thiết tha.Nào những lúc trao thư:
                Em biết anh chờ em ngã tư                Hàng Khay, Hàng Trống để trao thư.                Lời yêu chẳng viết nhưng trong ý                Ta đã cùng chia một động từ.Hay những khi hờn dỗi:
                Bài toán khó em hỏi                Trêu cợt anh lắc đầu.                Em hỏi thầy giáo chứ                Anh biết làm toán đâu.                Em giận không cười nữa                Thôi thế anh về đi                Trời! Anh về sao được!
Thế rồi lại một phenHoàng Chương phải ỉ ôi xin lỗi, nhưng cuối cùng thì “giận nhau càng yêu thêm”.
Tình yêu của Hoàng và Tố còn được nuôi dưỡng trong hương vị của văn chương. Thời bấy giờ trên các sách báo, những tiểu thuyết tình lãng mạn thơ mộng như Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, Đôi Bạn của Nhất Linh... hay những bài thơ tình ảo mộng hay thiết tha, phóng túng của Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Xuân Diệu... đang là những món ăn tinh thần thời thượng của giới trẻ. Trong thế giới tình cảm riêng của Hoàng và Tố, chàng cũng đang say sưa sáng tác không biết bao nhiêu vần thơ tình thắm thiết để tặng nàng:
                Kiều Thu ơi thơ viết                Trăm nghìn vần cho em              Cũng chỉ là tiếng đập             Từ sâu thẳm trái tim.
Tiếng lòng thành thật bao giờ cũng dễ làm cảm động đối tượng, hơn nữa,Hoàng Chương còn hiểu rất rõ hiệu lực những dòng thơ tình của chàng đối với người yêu như thế nào:
                Giòng chữ nghe ẩn hiện               Ngọt ngào trên đôi môi                Nồng say như gió biển                Lùa trong nhịp máu trôi.
Hậu quả tất nhiên đã đến với nàng Tố là:
                Đủ các môn em học                Mỗi bài cả trăm lần.                Nhưng vang dội tim óc                Toàn lời thơ ái ân!
Cuộc tình ấy còn được tô bồi bởi trí tưởng tượng phong phú của thi sĩ, thế nên nhiều khi từ cuộc sống hiện thực tác giả đã đi vào mộng lúc nào không hay. Thực với mộng quyện lẫn vào nhau, phụ họa, tô điểm cho nhau. Mộng nhờ có thực mà trở nên sinh động, có hồn. Thực cũng cần có mộng để thêm thi vị, nên thơ.
Dù thực hay mộng, ta thấyHoàng Chương đã thực sự được sống những giây phút hạnh phúc nhất trong tình yêu lứa đôi của loài người.
Này đây những lúc cùng sánh bước dạo phố:
                Ai biết chiều nay sánh bước                Hàng Ngang, Hàng Trống, Hàng Khay                Cả một trời anh mơ ước                Mở trong tà áo em bay.Này đây chuyến đi chơi Hải Dương :
                Mau xuống đò thôi kẻo mợ trông                Gió lên, đò nhỏ xiêu chân sóng               Vừa gỡ tay ra, vội nắm tay                Đứng sát vai nhau liền cả bóng                Tình ta ai gỡ nổi từ đây. Này đây là chuyến du xuân :
                Theo gió xuân lên đường Ngọc Hà                Nẻo về tươi nắng trại hàng hoa.                Đến vườn Bách Thảo, anh reo khẽ:                -Thượng uyển này riêng của chúng ta !
Đêm hôm ấy ra về,Hoàng Chương còn cảm thấy hồn mình ngây ngất mãi:
                Đưa em về phố tạm chia tay                Trở lại vườn khuya anh vẫn say.                Trên đỉnh tình yêu hồn chót vót             Tha hồ cọp hú lộng hơi may.
Tuy vậy giữa hai người, tình yêu vẫn chưa một lần được lên tiếng chính thức, được thú tội, vì nàng còn kiêu kỳ lắm, và chàng thi sĩ của chúng ta cũng đâu có chịu thua:
                Hai bên cùng kiêu kỳ như nhau                E dè như nhau nên nghi ngờ              Không ai cho ai lời yêu đầu                Anh làm vô tình, em ngây thơ.
Nhưng họ đóng vai trò ấy vụng về lắm, rõ là:
                Đôi tim đóng then mà hớ hênh                Đôi hồn kín bưng mà trống trênh.
Thật thế, nàng Tố chẳng cần phải viện đến giác quan thứ sáu bén nhậy của người con gái nàng cũng dư biết tiếng lòng của ai, vì cái nhìn “đăm đắm” cùng những hành động săn đón và những bài thơ mơ yêu của chàng .
Nhưng cònHoàng Chương, chàng có đoán biết được tình ý của người yêu không? Có chứ, bằng nhiều cách lắm, trước hết là chính những cử chỉ hữu tình của nàng đã tự tố cáo tình yêu của nàng dành cho chàng :
                Em đã nao lòng anh mê man                Đuôi mắt, đầu môi tình chứa chan.
Tình yêu cũng như hương thơm của hoa, dù có dấu dưới hang cùng, hốc thẳm nào, hương thơm của nó vẫn tỏa thoát ra bên ngoài, những kẻ cố tình tìm hoa vẫn có thể dõi theo “dấu hương” mà tìm tới.
Sau nữa là nhờ sự mẫn cảm đặc biệt của nhà thơ,Hoàng Chương đã khám phá ra tiếng lòng thầm kín của người yêu, qua một vài điệu bộ, hành động và phản ứng của nàng , như:
Qua ánh mắt:
                Đường về nhà quanh co thơm ngát                Em nhìn anh chưa nhạt còn mê.Qua ánh mắt của người yêu, Hoàng đã hiểu là nàng muốn nói với chàng:
                Đời em chẳng có anh sao được                Lời nói say như một chén thề.Qua giọng nói thân thương, nũng nịu của ai kia, Hoàng cũng đã đoán được thâm tình trao gửi của nàng:
                Em nói- Để em cài lại tóc                Mà như trọn vẹn một đời trao.
Lại như qua cử chỉ cúi đầu và phản ứng đỏ má:
                Thấy anh đăm đắm nhìn              Cúi đầu em đỏ má.
Từ đó Hoàng đã nhìn ra tâm ý của người yêu:
                Như hiểu niềm van xin                Như hẹn cho tất cả.Còn nữa,Hoàng Chương còn khám phá ra tình cảm của nàng dành cho chàng bằng lối lý luận rất trữ tình.
Đó là những cử chỉ” làm duyên” :
                Bao nhiêu cử chỉ làm duyên ấy                Đã mách tình em đủ lắm rồi.                - Em đừng chối vô ích                 “ Làm duyên” là” yêu” rồi !
Đó là tiếng reo “thích nhỉ”:
                Anh bảo em cố học                Rồi mai chung một nghề.                Chapa rừng núi đẹp                Là chỗ ta đi chơi.                Em reo thích nhỉ như vừa được                Sống trước say sưa một quãng đời.                - Cũng đừng chối vô ích                “Thích nhỉ” là” yêu” rồi !Đó là sự” hờn dỗi” :
                Một lá thư nhỏ nhắn                Của cô nào không biết                Anh cất trong túi áo                Ngồi bên em đánh rơi                Em vô tình bắt được                Hờn dỗi mấy hôm trời.                Nhưng đâu có phải anh lơ đễnh                Anh muốn thử lòng em đấy thôi.                - Càng chối càng vô ích                “Hờn dỗi” là “yêu” rồi !
Cùng với những khám phá trên, nhà thơ của chúng ta còn đưa ra một lý luận rất lô gích, rất hợp, tình hợp lý để được yên tâm sống trong hạnh phúc tuyệt vời của tình yêu lứa đôi:
                Bao nhiêu năm gần gũi                Bao nhiêu ngày bên nhau.              Anh có phải là sắt                Em có là gỗ đâu.                Nụ cười đuôi mắt say sưa ấy                Đã hẹn yêu anh đến bạc đầu.
Thế nênHoàng Chương đã chấp nhận tình yêu mà không cần nàng phải hứa hẹn, thề thốt gì, và còn cho đấy là sắc thái riêng của một tình yêu êm đẹp tuyệt vời:
                Không cần phải hẹn hứa                Không cần nói yêu nhau.                Không yêu mà vẫn là yêu đấy                Êm đẹp làm sao giấc mộng đầu ! 
 2- TỐ CỦA HOÀNG ƠI HỠI NHỚ THƯƠNG!Thời gian êm trôi cho đến chuỗi ngày Tố Uyển sửa soạn đi thi Trung học. Mỗi chủ nhật thầy giáo Ngải soạn đề thi thử về toán và pháp văn thìHoàng Chương cũng tất bật lo soạn đề thi thử về Anh văn cho hai chị em Tố. Nhiều tối ghé chơi, nhưng rồi chàng lại nấn ná ở lại tới khuya để giảng thêm bài cho chị em nàng:
                Mùa thi rối gương lược                Anh sửa soạn cho em                Ngay từ nửa tháng trước                Ngồi khuya đêm lại đêm.                ...                Anh ngồi bên học giúp                Cho em mau thuộc bài.Không biết lối học thi như thế có làm cho nàng Tố “mau thuộc bài” thật không, nhưng chúng ta biết chắc chắn là nhà thơ của chúng ta rất hạnh phúc :
                Thời gian rót hạnh phúc                Bao nhiêu đêm ngồi kề                Bấy nhiêu vòng khăng khít                Buộc đôi hồn si mê.Rồi ngày thi tới, những buổi nàng đi thi, dù đã có bác xe đưa đón,Hoàng Chương vẫn không bao giờ vắng mặt:
                Đưa nhau ríu rít đón nhau về                Ngày lại ngày cho tình càng mê.NgàyHoàng Chương đi xem bảng cho Tố Uyển cũng để lại một kỷ niệm đẹp khó quên trong lòng chàng. Thấy tên nàng đỗ,Hoàng Chương vui mừng khôn xiết vội phóng xe về nhà người yêu, chàng vừa thấy bà Tư đứng nơi cửa ra vào, dù chưa kịp gác xe vào vỉa hè, chàng đã vội rối rít báo tin vui — Tố đỡ rồi! -Tố đỗ rồi! Chàng reo to quá đến cả xóm đều nghe thấy.
Đó là giữa năm 1939, lúc này Tố Uyển đã được 18 tuổi, đang ở cái tuổi thanh xuân mơn mởn đào tơ của người con gái. Nàng đẹp nổi tiếng, trong tác phẩm “Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi” xuất bản tại Mỹ Quốc, 1990, Tạ Tỵ cũng phải công nhận điều này.

Đây cũng là lúc đang có phong trào kén chồng theo quan điểm “phi cao đẳng bất thành phu phụ” của các cô gái gia thế Hà thành. Mấy cô bạn học của Tố hầu hết đã nhận trầu cau của các ông Bác sĩ, Luật sư đâu đấy cả rồi. Tố Uyển cũng có nhiều chàng trai danh giá “rắp ranh bắn sẻ”, và bà Tư rất hãnh diện về con gái. Nhưng vì đã có thiện cảm vớiHoàng Chương, bà Tư còn biết nhà thơ yêu con gái mình tha thiết, bà thương nhà thơ hơn nữa ở điểm khi tiếp xúc với họ hàng nội ngoại của ông bà,Hoàng Chương đều thưa gửi - - -chú –bác... theo như chị em Tố, như chàng đã là người nhà của gia đình bà. Ngoài ra bà cũng đoán biết phần nào tình ý của con gái nên bà không nề gì nhà thơ vẫn còn lẹt đẹt ở năm thứ nhất trường Luật (Hoàng Chương chỉ ghi danh rồi đi học phất phơ vài buổi, chàng không thấy hợp nên có học gì đâu mà thi với đỗ!). Bà vẫn có ý tác thành cho đôi trẻ nên vợ nên chồng, vì bà đã dự tính, sau này gả con cho nhà thơ rồi bà sẽ cho “hai đứa” đi Pháp du học.
RiêngHoàng Chương, chàng cũng hiểu đã đến lúc phải về thưa chuyện với cha mẹ đem trầu cau đến xin Tố cho mình.  Ngờ đâu dông bão đã xảy ra, ông bà Tri huyện đã giậnHoàng Chương không chịu đi hỏi con gái quan Bố chánh theo ý muốn của ông bà, nên đã thẳng tay gạt bỏ chuyện xin đi cầu hôn của con. Ông bà chê Tố là học trò trẻ con, lại theo Tây học nhăng nhít, không thể về làm dâu một gia đình nề nếp quan cách như gia đình ông bà; còn bà Tư, mẹ của Tố, là dân buôn bán (bà Tư hồi đó đang có cửa hàng xuất nhập cảng giấy) lại quá trẻ (mới có ba mươi tám tuổi), không xứng thông gia!
Bao nhiêu mộng ước đang đến hồi đẹp nhất, cao điểm nhất nay bỗng bị cha mẹ phản đối quyết liệt đã khiếnHoàng Chương choáng váng, đớn đau; chàng còn vô cùng khổ sở và ngượng ngùng khi nghĩ đến gia đình Tố Uyển, vì chàng biết giải thích ra sao? Biết nói gì bây giờ? Thế là chàng trốn luôn, không dám bén mảng đến nhà Tố nữa.
Duyên tình thì trắc trở lại không được gặp mặt người yêu,Hoàng Chương làm sao tránh khỏi buồn khổ. Chàng chỉ còn một cách là cố gắng tìm quên, và chàng đã tìm quên trong những thú say sưa. Chúng ta hãy nghe nhà thơ nói về cái say nhẩy đầm và say rượu xem chàng có thành công hay không?
Ánh đèn tha thướtLưng mềm não nuột dáng tơHàng chân lả lướtĐê mê hồn gửi cánh tay hờ.               
                Âm ba gờn gợn nhỏ                Ánh sáng phai phai dần                Bốn tường gương điên đảo                 bóng giai nhân                Lui đôi vai, tiến đôi chân                Riết đôi tay, ngả đôi thân                Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió                Không biết nữa mầu xanh hay sắc đỏ                Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta.                              Say đi em, say đi em                Say cho lơi lả ánh đèn                Cho cung bậc ngả nghiêng               điên rồ xác thịt                Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!                Ta quá say rồi sắc ngả, mầu trôi                Gian phòng không đứng vững                Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.
Những đoạn thơ trong bài “Mời Say” trên được in trong thi tập “Thơ Say”, tác phẩm đầu tay củaHoàng Chương, xuất bản vào năm 1940 tại Hà Nội, đã cho chúng ta thấy nghệ thuật độc đáo của bài thơ này chính là ở chỗ tác giả như không cố ý làm nghệ thuật, nhà thơ cứ để cho những cảm giác và cảm xúc của mình trào ra thành thơ, lướt trên đầu ngọn bút. Cái tài hoa, cái duyên dáng trong thơHoàng Chương lộ ra rất rõ trong những từ ngữ gợi tả hình ảnh, ánh sáng, mầu sắc, âm thanh, cảm giác và cảm xúc; sau nữa là nhạc điệu của bài thơ uyển chuyển, thanh thoát vô cùng, tất cả đã giúp vào việc dẫn khởi đưa tâm hồn người thưởng ngoạn đi vào thế giới chuếnh choáng men say, chập chờn trongđiệu “tango” phóng túng (tango de fantaisie) và bồng bềnh trong tiếng nhạc, mờ ảo trong ánh sáng...
Trở lại vớiHoàng Chương, ta thấy cho đến lúc dù chàng đã say mèm, “say không còn biết chi đời”, đến gần như vô tri, vô giác thế mà trong tiềm thức của nhà thơ, mối sầu vẫn sừng sững như thành, không làm sao sụp đổ :
Trong men cháy giác quan vừa bén lửaSay không còn biết chi đời.Nhưng em ơi đất trời nghiêng ngửaMà trước mắt thành sầu chưa sụp đổĐất trời nghiêng ngửaThành sầu không sụp đổ em ơi!
Không biết đã từng có ai mượn cách say men, say khói mà quên được sầu không, riêngHoàng Chương chàng thấy mình càng say bao nhiêu thì mối sầu lại như càng thấm thía, càng lắng sâu bấy nhiêu:
                Có ai say để quên sầu                Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn.
Lại nói đến gia đình bà Tư, sau ngày Tố Uyển thi đỗ bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, gia đình ông bà Tư hơi lấy làm lạ vì không thấyHoàng Chương lại chơi như trước, thời gian này kéo dài có đến cả nửa năm. Rồi một hôm cô Viên, em họHoàng Chương, đồng thời cũng là bạn của Tố lại chơi, cho biết tự sự. Gia đình bà Tư bị va chạm tự ái nên rất bực mình, và được biếtHoàng Chương đã bỏ học đi làm phó kiểm soát viên sở Hỏa Xa Đông Dương. Ít lâu sau lại thấy Hoàng thỉnh thoảng ghé thăm, biết Hoàng vẫn níu hy vọng, không muốn cắt đứt. Gia đình Tố tuy giận ông bà Tri Huyện, nhưng nhìn thấy Hoàng thì lại thương nên có ý nấn ná đợi chờ. Trong thời gian nàyHoàng Chương và Tố Uyển tuyệt nhiên không gặp nhau riêng lần nào.
Bà Tư đã có lần gọiHoàng Chương ra nói chuyện, bà cho biết bà sẵn sàng gả Tố cho chàng, nhưng điều kiện tiên quyết là ông bà Tri huyện phải đến xin hỏi cưới đàng hoàng.
Lẽ tất nhiên là phải như vậy, vì ảnh hưởng Nho giáo còn nặng nề trong xã hội Việt Nam ta thưở ấy. Thế là vì danh giá gia đình, vì danh giá của Tố, ông bà Tư không thể chấp nhận gả con choHoàng Chương mà không có sự đồng ý của cha mẹ chàng.
Thấm thoát đã gần hai năm trôi qua, không thấy ông bà Tri huyện thăm viếng hay đánh tiếng gì, và những tháng sau cùngHoàng Chương cũng bặt tăm luôn, ông bà Tư hiểu là chuyện chờ đợi không đi đến đâu, và cũng vì tự ái, ông bà bèn hết lời khuyên giải Tố để nàng hiểu rằng, nàng đã 20 tuổi rồi, đã đứng tuổi rồi, (thời đó con gái 20 tuổi đã cho là già, sắp ế chồng!), nay bao nhiêu người danh giá hỏi không nhận lời đi, đến khi quá lứa lỡ thì lấy ai được nữa! VàHoàng Chương chắc cũng chẳng yêu tha thiết gì Tố, nếu không, chàng phải cố gắng học hành để tỏ ra xứng đáng với nàng chứ? Nhất là đã từ lâuHoàng Chương chỉ thỉnh thoảng ghé thăm phất phơ chứ không tỏ ra tha thiết thân tình như xưa nữa.
                Tố là gái mới lớn, thấyHoàng Chương cũng xứng đáng lại yêu mình tha thiết, làm bao nhiêu thơ ca tụng mình, bảo sao nàng không cảm động? Và Tố đã yêu lạiHoàng Chương, điều đó không thể phủ nhận, nhưng nàng tất nhiên không yêu si mê như chàng đã yêu nàng. Nay thấy chàng hờ hững, cha mẹ chàng lại chê nàng không chịu đi hỏi, tự ái của một cô gái vừa đẹp, vừa học giỏi lại con nhà giàu bị quá tổn thương, làm sao nàng không buồn tủi? Nàng lại thương mẹ, biết mẹ lo lắng cho mình, nên cuối cùng nàng đã nghe lời, chấp nhận tìm hiểu ông Cương là người vừa đỗ Cử Nhân Luật mà bà nội nàng đã có ý chọn cho. Sau ba bốn lần gặp gỡ, Tố chưa yêu ông Cương nhưng cũng thấy chẳng có gì để phản đối, mẹ ông Cương lại thúc giục, thế là gia đình nàng cho tiến hành lễ Trạm ngõ (khoảng tháng 3,1941).
Đúng một tháng sau, bà huyện, mẹHoàng Chương cùng với cụ mẹ chồng cô em gái ông huyện đến thăm ông bà Tư, ướm lời hỏi Tố choHoàng Chương, nếu bằng lòng thì nhà trai sẽ đưa lễ vật.
Hỡi ơi, đến lúc ông bà huyện kịp nhìn thấu nỗi lòng của con, biết thương con thì đã muộn rồi, đã lỡ làng hết rồi.
KhiHoàng Chương biết tin Tố Uyển đã nhận trầu cau của người khác thì quá thất vọng, lâu đài tình ái sụp đổ tan tành. Trước kia chỉ là sự cản trở của cha mẹ thì chàng còn có thể thuyết phục, nay nàng đã nhận lời người ta thì vô phương rồi. Quá bất mãn trước thực tại phũ phàng:
Tình đã mấtSự nghiệp khôngCuộc đời chẳng chí hướngHoàng Chương cảm thấy chới với, lạc hướng, chàng muốn chạy trốn, muốn xa lánh hẳn mặt đất đầy đau thương này:
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóngXô về Đông hay giạt đến non ĐoàiXa mặt đất giữa vô cùng cao rộngLòng cô đơn cay đắng họa dần vơi.
Hoàng Chương mang tâm trạng lạc loài, chơ vơ, u uất của một kẻ đầu thai lầm thế kỷ, bị lưu đầy giữa cuộc đời kiêu bạc; nơi đây không phải là chốn cho những người có tâm hồn mơ mộng, giản dị như chàng dung thân, và chàng mong được thoát đi, đến một phương trời xa vời, thanh thản nào đó :
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷMột đôi người u uất nỗi chơ vơ.Đời kiêu bạc không dung hồn giản dịThuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Tưởng đâuHoàng Chương đã gặp Baudelaire qua bài Élévations:
Envole-toi bien loin de ces miasmes morbidesVa te purifier dans l’air supérieurEt bois, comme une pure et divine liqueurLe feu clair qui remplit les espaces limpides.
Nhưng không hẳn thế, Baudelaire mang tâm trạng của kẻ bị lưu đầy trong một thế giới đầy phiền muộn và chồng chất những khổ đau, và nhà thơ này mong mỏi được sống trong một thế giới tràn ngập ánh sáng và thanh tịnh:
 Derrière les ennuis et les vastes chagrins Qui chargent de leurs poids l'existence brumeuse. Heureux celui qui peut d'une aile vigoureuse S'élancer vers les champs lumineux et sereins
(Còn tiếp)
PHẠM THỊ NHUNG (Paris)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét