Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

BÀI HỌC LỊCH SỬ (Phạm Quỳnh)


—o0o—
Lịch sử không chỉ có tác dụng giáo dục; nó còn khích lệ. Nó làm nguôi ngoai, đem lại sự bình tâm; nó xoa dịu những nôn nóng cũng như những âu lo và cung cấp chỗ dựa cho niềm tin và hy vọng. Giữa những ưunặng nề trước các khó khăn hiện tại, nó đưa lại sự tĩnh tâm thư thái khi thanh thản chiêm nguỡng quá khứ vì dường như ta được tham dự vào sự bất tận của thời gian và vĩnh hằng của muôn vật. Nó là một phương thuốc tuyệt vời chống lại sự nản lòng và bi quan.
Khi ta có được cái may mắn thuộc về một dân tộc có sau lưng mình hai mươi lăm thế kỷ lịch sử, thì trong những lúc thất vọng hay hoài nghi, sẽ là một khích lệ tuyệt diệu nếu biết nhớ lại thiên sử thi anh hùng dài lâu của tổ tiên và rút lấy từ trong các bài học của quá khứ những sức mạnh cần thiết để đối mặt với hiện tại và chuẩn bị choơng lai.
Phương thuốc chữa bệnh tinh thần bằng cách thả chìm mình trở lại trong quá khứ sâu thẳm của giống nòi để nhận được từ đấy những ngọn nguồn năng lượng và ý chí không ngờ, để được cộng cảm thân thiết với “đất đai và những người đã mất” là bổ ích chẳng gì bằng, và không có liệu pháp nào hơn cách thức ấy để loại bỏ khỏi tâm hồn đôi lúc cái cảm giác chán nản khi ta thấy hoang mang và bất lực trước một sự kiện và bỗng hoài nghi tất cả, chính mình và mọi người khác.
Tôi đã nhiều lần trải qua kinh nghiệm đó và tôi vừa có dịp được trải nghiệm lại những ngày này cùng với các bạn Nam Kỳ và Trung Kỳ (…) qua một cuộc du ngoạn đến đền Cổ Tích.
(…) Ngôi đền này nằm trên một ngọn đồi cây cối rậm rạp cách Phú Thọ khoảng mười ki-lô-mét về phía hạ lưu, thờ đời vua Hồng Bàng thứ nhất, những vị vua nửa truyền thuyết nửa lịch sử, dưới tên gọi là Hùng Vương, đã trị vì từ năm 2879 đến năm 258  trước Công nguyên.
Madrolle[*] viết: “Qua khỏi sông Thao, những cánh đồng rộng vùng châu thổ liền biến mất: nền đất gấp khúc mạnh và con đường sắt phải leo lên bằng cách lượn quanh các sườn dốc đầu tiên ở gần đường phân thủy giữa sông Hồng và sông Thao.
“Về phía bên phải, một dãy đồi gợi lên trong tâm trí người nước Nam những khúc uốn lượn của Con Rồng; đỉnh cuối cùng, Nghĩa Cương, cao hơn cả và phủ đầy rừng, có một Hùng Vương, vị vua cuối cùng của triều đại Hồng Bàng… Nghĩa Cương, thường được gọi là Núi Đền, nằm cách ga Tiên Kiên 3km5 về hướng Đông Bắc. Nó thuộc làng Hy Cương mà tên dân gian gọi là làng Cổ Tích; quả là ở đấy người ta còn lưu giữ ký ức sùng kính về vị thủ lĩnh người nước Nam cuối cùng của nước Văn Lang, đã chết tại đây (năm 258 trước Công nguyên) khi bị các đoàn quân của vua Thục truy đuổi…”.
Đất nước Văn Lang bao gồm toàn bộ vùng Phú Thọ và Việt Trì này, ở đấy có thể nói mỗi làng, mỗi thôn ấp đều còn lưu giữ ký ức về triều đại quốc gia đầu tiên và quả đúng là cái nôi của nước Nam. Chính tại đây năm trăm năm trước Công nguyên, các bộ lạc Giao Chỉ đầu tiên đến từ miền Nam Trung Hoa đã định cư, tập họp nhau lại dưới quyền uy của những vị thủ lĩnh được công nhận và tạo nên cái hạt nhân về sau sẽ trở thành tổ quốc Nam Việt. Vậy nên người nước Nam biết ơn các vị tổ tiên xưa của nòi giống, qua bao nhiêu thế kỷ đã không ngừng cung kính thờ phụng. Có vô số các đền miếu các vị vua Hùng, nhất là ở vùng này nơi cửa ngõ của Châu thổ, nơi ghi dấu giai đoạn đầu tiên trong hành trình thắng lợi của các hậu duệ người Việt trong công cuộc chinh phục toàn Đông Dương.
Trong số đó đền Cổ Tích nổi tiếng hơn cả. Quả nhiên ở đây việc thờ phụng không chỉ mang tính chất địa phương, mà là của cả quốc gia. Từ những thời rất xa xưa, đến ngày đã định, – ngày mồng 10 tháng Ba, – tại đây diễn ra những lễ hội lớn lôi kéo một đám đông đáng kể đến từ khắp nước. Triều đình cử một vị quan, – thường là vị quan tỉnh sở tại, – thay mặt nhà Vua cử hành nghi lễ cúng “các vị tổ tiên của giống nòi”(…)
Vậy nên vớicách là những kẻ hành hương hơn là những khách du ngoạn, những kẻ hành hương, nếu không “mê đắm”, thì ít ra cũng là đầy ý thức và hăng hái, dưới một màn mưa bụi báo hiệu những trận mưa phùn sẽ đến, các bạn thuộc ba Kỳ chúng tôi đã trèo ba trăm bậc từ chân núi Hy Cương dẫn lên đến ngôi đền và mộ vua nằm trên đỉnh. Như những đứa con đầy lòng hiếu thảo tất cả chúng tôi đã thắp những nén hương truyền thống và cúi lạy trước bàn thờ đặt những bài vị ghi rõ “Bài vị mười tám đời vua Hùng của nước Việt cổ”. Thật cảm động khi được thấy những con người có văn hóa, được đào tạo trong nền giáo dục hiện đại, vốn xa rời các truyền thống quá khứ, nay lại đang thực hiện cái nghi lễ tôn kính, sùng bái truyền thống này trước một tấm bài vị bằng gỗ đối với họ trong giờ phút này là biểu trưng của linh hồn tổ quốc vĩnh hằng.
Mọi người đều thi nhau bình phẩm vô số những câu đối và những bài thơ trang trí các cây cột và các bức vách của ngôi đền, tất cả đều ngợi ca tính cổ xưa đáng tôn kính của giống nòi và niềm vinh quang bất diệt của các vị vua đầu tiên. Khi chúng tôi quyết định ra về, thì trời đã quang, sương mù buổi sáng đã tan và từ trên ngọn núi thiêng có thể nhìn thấy quang cảnh tuyệt vời của toàn vùng chung quanh cho đến chỗ hợp lưu của ba con sông, Sông Thao, Sông Hồng và Sông Đà, hai bên có hai khối núi lớn Ba Vì và Tam Đảo, hai vị thần canh giữ cho vùng Châu thổ, như cách nói ý nhị của Boissière.
Trên chuyến xe trở về Hà Nội, tôi kể lại với các bạn tôi những giai đoạn bành trướng liên tục của giống nòi chúng ta, trong những thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên vốn tập họp nhau ở cửa ngõ của Châu thổ Bắc Kỳ, đã dần dần tràn xuống châu thổ, càng lúc càng đổ về phương Nam, và cuối cùng đã chinh phục toàn bộ phần phía Đông và phía Nam bán đảo Đông Dương. Công cuộc “Nam tiến” này quả là sự kiện nổi bật trong lịch sử chúng ta; nó là biểu hiện ý chí, sức sống của dân tộc chúng ta mà những khó khăn không sao kể hết, những cuộc chiến đấu liên miên chống lại những người láng giềng hùng mạnh không thể chặn đứng đà bành trước không gì cưỡng lại được.
Tôi không thể không nhắc lại ở đây kết luận của nhà bác học lớn đã mất Léonard Aurousseau[†] trong một công trình nghiên cứu bậc thầy viết về “Nguồn gốc của người nước Nam”, kết luận nêu bật một cách ngắn gọn đầy ấnợng các giai đoạn vinh quang của cuộc hành tiến ấy:
“Không một nguyên cớ nào lẽ ra đã có thể đánh gục một quốc gia đang hình thành (các cuộc xâm lược liên miên, ách đô hộ kéo dài suốt mười một thế kỷ) thắng nổi sức sống của người nước Nam. Là những chủ nhân về mặt dân tộc học của những vùng đồng bằng và thung lũng Bắc Kỳ từ thời khởi đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, xã hội phong kiến của họ đã trở nên thịnh vượng ở đấy; rồi những làn sóng người di cư không ngừng nối tiếp của họ tiếp tục tràn về phương Nam và mang đi đến nơi xa nhất những chấn động cuối cùng của xung động mà những người Yuê (Việt) đã tạo nên từ thế kỷ thứtrước Công nguyên. Họ đi đến vùng trung nước Nam vào cuối thế kỷ sau đó. Ở đấy các bộ tộc về sau đã tạo nên vương quốc Chàm hùng mạnh đã buộc họ phải dừng lại một thời gian dài.
“Lúc này phần chủ yếu trong nhiệm vụ đã được hoàn thành, nước Nam, trở nên khả thể, chẳng bao lâu đã được hình thành. Những người con của họ sẽ còn giữ được tốc độ từng đạt được như một sức mạnh tiềm tàng và, bằng những cú đấm lặp đi lặp lại, sau nhiều năm dài chinh chiến, cuối cùng đến năm 1471 đã đánh bại đối thủ thuộc nền văn minh Ấn Độ của mình, để tiếp tục lấn sâu hơn nữa về phương Nam, lần lượt tiến đến Qui Nhơn vào cuối thế kỷ XV, đến Sông Cầu năm 1611, Phan Rang năm 1653, Phan Thiết năm 1697, Sài Gòn năm 1698, Hà Tiên năm 1741. Cuối cùng, trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người nước Nam đã hoàn thành công cuộc bành trướng của chủng tộc mình bằng cách chiếm toàn bộ vùng Nam Kỳ ngày nay.
“Sau khi đã thiết lập hoàn tất quốc gia của mình như chúng ta thấy ngày nay, người nước Nam dừng lại, với ý thức đã vinh danh những nỗ lực đầu tiên của tổ tiên xưa bên bờ duyên hải Trung Hoa và thỏa mãn vì, sau hai mươi hai thế kỷ chiến đấu, đã lập nên một Tổ quốc xứng đáng với tài năng của chủng tộc mình”.
Một dân tộc đã làm nên một sự nghiệp liên tục suốt hơn hai mươi thế kỷ, chứng tỏ những đức tính tốt đẹp nhất về nghị lực, về sức chịu đựng, về ý chí bền bỉ và kiên định, hẳn còn chưa dừng lại; một số phận vinh quang còn mở ra trước mắt chúng ta (…)
Chúng tôi đã chia tay nhau trong niềm hy vọng đó, phấn khởi vì cuộc du ngoạn thành tâm của chúng tôi lên ngọn núi thiêng đã cho chúng tôi được sống đôi giờ trong niềm cộng cảm với những vị tổ tiên vĩ đại và vì bài học bổ ích rút ra được từ đó.
(1929)

1 nhận xét: