Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Say cùng Vũ Hoàng Chương


Say cùngHoàng Chương

Linh Sơn,

Hoàng Chương đến với cuộc đời này như một trích tiên bị đày ải. Trong phong trào Thơ mới, tài năng củaHoàng Chương không hề thua kém những cái tên được tung hê đến đỉnh điểm như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…nhưng ông lại bị nhìn nhận một cách kì thị, thiếu sòng phẳng. Tiếc một nỗi người ta đánh giá một thi sĩ, một hồn thơ lại không đứng trên tinh thần học thuật và nhân văn tiến bộ mà dựa vào quan điểm xã hội giáo điều, xơ cứng, phi văn học. Điều đó có khác gì những anh hàng cá hàng rau vừa đếm tiền vừa bình luận Đường thi. Người ta chê bai cái say hào sảng trong thơ ông để tung hê loại thơ ca ngợi phân bón với thuốc trừ sâu (thâm ý giễu nhại trong truyện ngắn Chú Hoạt tôi của Nguyễn Huy Thiệp). Người ta vả vào mặt một thi sĩ đang phiêu diêu trên bầu trời nhân văn tuyệt cùng tự do để lôi cổ ông vào tù quét rác. Không cần biện thuyết, chả phải thanh minh,Hoàng Chương lặng lẽ ra đi trong uất ức bỏ lại sau lưng một di sản tinh thần đáng ngưỡng mộ. Những bến bờ siêu thực không giới hạn chính là hình ảnh phóng chiếu của một tâm hồn truy cầu tự do tuyệt cùng, tuyệt đích làm say đắm lòng người. Tự nó sẽ xây dựng cho ông một thánh đường thi ca diễm lệ mà hàng triệu con người thế hệ sau tự nguyện làm tín đồ. Những kẻ thóa mạ ông nếu còn lòng tự trọng sẽ sám hối âm thầm trong nhiều trang di cảo…
Đọc thơHoàng Chương người ta cảm giác mình bị mất thăng bằng. Thơ ông nói nhiều đến cái say: say rượu, say tình, say nhạc, say thơ. Và người ta khép tội ông: kẻ trụy lạc, hoang tưởng, bế tắc, thoát ly, hèn nhát, vô trách nhiệm.
Tại sao người ta lại phê phán, hắt hủiHoàng Chương?
Bởi vì ông dính vào vụ án chính trị Nhân văn – Giai phẩm? Đó chỉ là một phương diện. Cái đáng sợ nhất làm rào cản văn chương đến với người đọc chính là sự thiển cận, mờ mịt trong cách thức tiếp cận, quan niệm về nó. Định kiến chính trị là chuyện thường hằng, và muôn đời khó ai tránh khỏi. Ngay cả những nhà văn đoạt giải Nobel cũng luôn bị định kiến chính trị phê phán, băm vằm tơi tả. Điều này đã trở thành quy luật trong tiến trình đấu tranh, phát triển của lịch sử loài người. Cái đáng ghét nhất, nguy hiểm nhất khiến văn chương bị bóp méo, bị hiểu sai và tầm thường hóa là cái tư duy ấu trĩ giữ vai trò thống trị trong đời sống văn học. Nó phi chính trị, phi văn học, nhưng nó đe dọa ghê gớm đến văn chương, nghệ thuật. Và đó là tư duy hiện thực. Một kiểu hiện thực cục mịch, vô học.
Người ta cho rằng những vần thơ say củaHoàng Chương là sự cổ súy, kích thích cho lối sống thoát ly, sa vào trụy lạc mà quên mất trách nhiệm với cuộc đời. Phải đánh sập cái thành trì tư tưởng này thì may ra những bộ óc giáo điều mới nhận thức lại vềHoàng Chương.
Hoài Thanh xứng đáng được gọi là người có cặp mắt xanh tinh đời thấu suốt, cảm hiểu được nhiều thi sĩ Thơ Mới, trong đó có. Trong thi nhân Việt Nam ông đã có lời nhận xét khách quan: “Ý giảHoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: Cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa…Kể, cái say sưa củaHoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà chưa hẳn là trụy lạc…”.
Tôi vẫn cảm thấy nực cười với cách nghĩ ngây thơ của nhiều người khi hình dung về quá trình sáng tạo nghệ thuật nói chung của các nghệ sĩ. Trong tâm thức của họ, các nghệ sĩ nói chung, các nhà thơ, khi sáng tác họ phải trong một tư thế nghiêm của một anh bộ đội trong giờ chào cờ. Rồi từ đó, bằng đầu óc lý trí tỉnh táo, các nghệ sĩ, các nhà thơ gồng mình nặn ra trong óc từng chữ xinh xắn để viết ra những mĩ từ trong sáng thanh lịch. Rằng khi viết ra trong đầu họ luôn ấp ủ một hoài bão vĩ đại, cao cả, kinh thiên động địa, và trong sáng tuyệt đối kiểu như văn sĩ Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao từng tự mình đay nghiến. Rằng văn chương là cái gì thánh thiện ghê gớm lắm. Nhưng chung quy lại là anh ta chẳng làm được gì. Hộ không sáng tác được gì ra trò không phải vì gánh nặng cơm áo, gạo tiền cũng như nhiều người vu cáo cho thời đại đã bóp nghẹt anh ta. Anh ta mơ đến giải Nobel mà anh ta không hề biết giải Nobel là gì và được trao như thế nào. Làm gì có giải Nobel văn chương nào trong cả thế kỉ nay trao ngay cho một tác phẩm xuất bản trong năm. Nobel văn chương là trao cho toàn văn nghiệp, và tác phẩm đó phải đi vào đời sống văn học vài chục năm trước khi nó được trao giải. Vào những năm đầu, khi giải Nobel chưa được mở rộng ra khắp thế giới, đúng là có những tác phẩm được trao gần với thời điểm nó ra đời. Ví dụ như quyển tiểu thuyết Cuộc du lịch kì diệu của Nils Holgersson của nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlöf xuất bản năm 1906 và được trao giải Nobel năm 1909. Nhưng càng về sau, tiêu chí trao giải Nobel rất khắc nghiệt, người được trao là xét trên toàn bộ quá trình cống cho của đời sống văn học. Hầu hết các nhà văn đạt giải Nobel đều có tuổi đời trên 50 và ngoài mảng sáng tác đồ sộ họ còn có mảng phê bình, tiểu luận xuất sắc. Anh Hộ nhà ta cứ ngây thơ nghĩ rằng sẽ viết ra một tác phẩm đạt giải Nobel liền, làm lu mơ hết mọi bờ cõi và giới hạn mà lại chưa hề đọc tác phẩm Nobel nào và tuổi đời còn khá trẻ chưa nếm qua hết những vinh nhục, cay đắng của kiếp người. Anh ta đâu biết rằng những tác phẩm bất hủ mà Đoxtoiepxki để lại ngày nay có lúc được thai nghén trong tình cảnh túng thiếu trốn nợ,  và ông là một tay nghiện bài hạng nhất. Không thể nào lấy tiểu sử nghiện ngập củaHoàng Chương đánh đồng, quy chiếu kì thị thơ của ông.
Quay lại vấn đề, cái cốt tủy làm nên sự thất bại và bi kịch của Hộ là anh ta quá lí trí, đầu óc quá nặng nề những tuyên ngôn áp đặt thì làm sao tư duy vươn đến nổi chân trời cao rộng đúng nghĩa của văn chương, nghệ thuật.
Và đó là lý do mà đầu thế kỉ 20, cái nguyên lý tuyệt đối hóa lý trí của Descartes đã từng chế ngự chủ nghĩa cổ điển  (và lởn vởn trong chủ nghĩa hiện thực) đã không còn có đất dung thân. Các nhà thi sĩ đi tìm một lối thoát mới cho thơ ca: Trực cảm, vô thức. Chủ nghĩa siêu thực ra đời ở phương Tây là một bước tiến lớn của tư duy nhân loại trong việc tìm ra một hướng đi mới cho quá trình sáng tác của người nghệ sĩ cũng như tư duy sáng tạo. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ khắp thế giới hơn cả chủ nghĩa lãng mạn trước đó, đến nổi nó trở thành một trào lưu hùng mạnh trong hội họa. Danh họa Picasso cũng đã chạm đến.
Phủ nhận sự kiểm soát nặng nề, sáo rỗng, xơ cứng của lý trí, logic và ràng buộc của những khuôn khổ, chuẩn mực đạo đức, mĩ học lỗi thời…, chủ nghĩa siêu thực lặn sâu vào vô thức con người, lấy trực cảm làm lăng kính biến ảo mọi hình hài. Nó hướng đến phối hợp những yếu tố có vẻ không có gì can hệ nhau. Nó thiết lập một trạng thái “sáng tác tự động” như một bản năng của người nghệ sĩ khi bị thôi miên. Diện mạo của vô thức tưởng chừng như nhảm nhí, nhưng nó đã được hùng biện thuyết phục bằng tinh thần Phân tâm học của Freud. Chủ nghĩa siêu thực chạm đến cái siêu hiện thực, một hiện thực tuyệt đối, chân thực nhất mà con người ta thường ngày đã dùnǵ lý trí giấu kín bởi e ngại trước những chuẩn mực đạo đức, mĩ học, và logic. Thứ hiện thực được phát ngôn bằng lý trí tận cùng của nó vẫn còn mang tính xã hội rất xã giao, có phần giả tạo.
Ở Việt Nam, tuy không sinh ra cái gọi là chủ nghĩa siêu thực nhưng chất siêu thực thì đã thẩm thấu trong sáng tác của nhiều thi sĩ trong đó phải kể đến Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ…vàHoàng Chương.
Cái say củaHoàng Chương là cái say trong bến bờ siêu thực, nơi mọi ràng buộc của lý trí và hiện thực trơ lì, đen tối không bén mảng đến. Cái say ấy là một cái say làm sống dậy bản năng sáng tạo và thiên tính nghệ thuật thi ca vĩnh hằng. Say để thăng hoa hồn thơ.
Say đi em! Say đi em!
Say cho lả lơi ánh đèn
Cái say ấy có tiếng nhạc mê ly:
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng

(Say đi em)
Nhịp trúc buông khoan
Sóng tơ dồn dập…

(Dâng tình)
Hay là sự nhập hồn của điệu nhạc cộng hưởng vào  nỗi đau xa cách người yêu:
Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây

Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi em!
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng

Xế Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vương sầu tỏa năm cung ngút ngàn
(Mười hai tháng sáu)
Là cái say ái tình, xác thịt đê mê:
Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên

Rồi em sẽ dìu anh trên cánh gió
Đưa hồn say về tận cuối trời quên
(Quên)
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn ngửi cánh tay hờ
(Say đi em)
Là cái say trong điệu khiêu:
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi đầu

(Say đi em)
Và dĩ nhiên là không thể thiếu rượu:
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai

(Đời vắng em rồi)
 Hãy thèm say còn đó rượu chờ ta
Hãy thèm say hồn khát vẫn thèm men

Rượu, rượu nữa và quên quên hết
(Say đi em)
Tất cả những trạng thái say sưa điên đảo đó là sự nổi loạn của một tâm hồn uất ức, chán ngán với thời cuộc. Tại sao người ta không chịu hiểu đó là một hành vi ứng xử rất văn hóa trong tâm thế con người này? Nhìn vào những dòng thơ mê đắm dục lạc kia, trực giác mách bảo cho con người muôn thế hệ phải ngầm hiểu rằng cái đó chỉ là cái cớ. Hiện thực cuộc sống thế nào mà con người ta phải tìm quên trong say sưa cuồng nhiệt, phải tìm đến trạng thái mất thăng bằng, phải xô cho xiên lệch lung lay trời đất: Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân? Xô cho sụp đổ hết thảy để từ trên đống hoang tàn thời cuộc ấy một chân trời diễm tuyệt sẽ mọc lên trong ước vọng cháy bỏng, ngọt ngào. Ngay trong cái say ấy vừa chứa đựng hiện thực chân thực nhất vừa chứa đựng khát vọng dữ dội, cuồng nộ. Điều đó há chẳng phải rất rất hiện thực hơn hàng chục quyển tiểu thuyết của những nhà văn nhân đạo giả vờ chuyên sao chép y chang hiện thực hay sao? NhưngHoàng Chương nào có thoát li khỏi hiện thực, dù đã đẩy trạng thái tâm hồn lên đến đỉnh điểm của sự cuồng loạn, say sưa bao niềm dục lạc, mà nỗi đau nhân thế vẫn choáng đầy tâm hồn: nỗi đau tình yêu tan vỡ, nỗi đau thời cuộc đảo điên.
Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi

Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ em ơi!
Đó mới là ẩn ngữ cuối cùng đằng sau cuộc truy hoang không bờ bến. Say để đánh lung lay trong lòng khối thành trì khổ não kiếp nhân sinh. Say để chao nghiêng trời đất, sụp đổ địa cầu để tái cấu trúc thiết lập một thiên đường mộng tưởng. Tận cùng cuộc vui điên đảo ấy là tâm tư bế tắc, sự ức chế không lối thoát.
Nhưng trên tất cả, Say là sự chuẩn bị tuyệt hảo cho hồn thơ được thăng hoa. Chỉ khi tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc tạp nham của hiện thực trọc lốc, khi ta thức tỉnh toàn tri trực giác siêu hình, và tiếng nhạc, và men cay, và ái tình dục lạc ùa về…đó mới là lúc tâm hồn sống trọn vẹn trong thế giới thăng hoa thuộc về nghệ thuật.Hoàng Chương đã nhìn ra điều đó, ông cố đẩy người đọc lạc vào một cảnh giới của tình yêu tuyệt đích, vô tư có tính bản năng, không toan tính thiệt hơn, không ngại ngần lo sợ để thức dậy toàn năng mọi giác quan. Chỉ trong thế giới ấy, thì con người mới vô hiệu hóa được sự vô nghĩa lý của cuộc sống đời thực đang đè nặng lên số kiếp mình. Thế giới ấy sẽ tồn tại vĩnh hằng trong vô thức, đẹp như một nàng trinh nữ vô nhiễm nguyên tội. Chỉ trong trạng thái say sưa điên đảo đó, mọi oán giận, thù hằn, mọi e dè khiếp hãi sẽ cháy tiêu tan cùng lý trí, tâm hồn con người lại trở về với trạng thái siêu thăng, trong giá trắng ngần mà sống trọn một mùa vui. Thế giới say ấy đẹp đến nao lòng! Say là một thể nghiệm có tính tâm linh chứ không còn là sự ức chế thần kinh thô thiển! Chỉ khi say con người ta mới sống hết mình, mới chung tình tuyệt đối: Ta đợi em từ ba mươi năm. Và mãi sẽ đợi chờ như thế. Những dòng thơ sau đã đạt đến cảnh giới siêu nghiệm của một triết gia truy cầu tuyệt cùng cái đẹp, dâng trọn tấm lòng trinh nguyên thuần khiết cho thơ:
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này

Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cách tay níu trời…
(Nguyện cầu)
Nếu như các thi sĩ trong nhóm Xuân Thu nhã tập thiết lập chất siêu thực chủ yếu bằng nhạc tính và sự phối hợp ngôn từ theo kiểu lạ hóa thìHoàng Chương lại chọn thế giới nghệ thuật của cái Say là phương tiện, không gian, cảm hứng biểu đạt. Bài thơ Say đi em đã tạo ra một không gian siêu thực nơi mà mọi giác quan lý tính và logic bài trí đều bị đánh lung lay. Nơi mà con người chìm trong trạng thái vô thức, hành động theo bản năng, mất tự chủ, mọi sự tồn tại khách quan đều quên hết những nguyên tắc vật lý:
 Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương

Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.
Say sẽ mãi là một trạng thái có tính biểu tượng làm nên chất siêu thực trong thơHoàng Chương.  André Breton từng cho rằng chính việc phá vỡ ranh giới giữa bệnh và không bệnh, đạt đến trạng thái như người điên là lúc bản năng nghệ thuật trỗi dậy mãnh liệt nhất. Dĩ nhiên điên là một cách nói. Há chẳng phải chính trong những lúc đau đớn tột cùng của bệnh tật, tâm thần bất định, lý trí chìm mờ Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên những bài thơ bất tử, người người truyền tụng đó sao? Thi sĩ Bùi Giáng cũng từng được gọi là thi sĩ điên, dường như ông xuất khẩu thành thơ, lời tự trong gan ruột trào ra những lúc tâm thần chao đảo. Những điều ấy lý trí con người làm sao cắt nghĩa nổi.Hoàng Chương đã thể nghiệm điều đó trong thơ của mình bằng khái niệm say, cấp cho nó một nội hàm văn hóa đạt đến bến bờ siêu thực mãi mê đắm lòng người! Xin kết thúc bằng cái âm hưởng hoành tráng của một bậc chiến sĩ kiêu hùng, say trên yên ngựa, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng thời Đường:
Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chính chiến kỉ nhân hồi
(Lương châu từ – Vương Hàn)
L.S.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét