Trần Đức Thảo
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HY LẠP
Nxb. Khoa học xã hội, 1995
--- o0o ---
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HY LẠP [1]
I - NHẬP ĐỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HY LẠP
Mục đích
Nêu nguyên nhân vì sao tôn giáo chuyển sang triết học ở Hy Lạp. Ý nghĩa nguyên thủy - chân thực - của triết học.
1 - Bước tiến bộ từ tôn giáo sang triết học.
2 - Những yếu tố khoa học trong văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà
3 - Nguồn gốc và cơ sở của triết học và khoa học Hy Lạp.
1 - Từ tôn giáo sang triết học
Người
ta bảo rằng kỳ công của văn minh Hy Lạp là xây dựng được khoa học và
triết học, mầm mống cho văn minh hiện tại. Đặc điểm của văn minh đó là
lần đầu tiên thoát khỏi mê tín; quan điểm vũ trụ mà không
phải dựa vào thần thoại và giải thích trên một lập trường đúng: giải
thích sự việc bằng sự việc. Lần đầu tiên xây dựng một nhân sinh quan đặt
ý nghĩa đời sống ngoài thần thoại. Tóm lại, là lần thứ nhất tư tưởng nhân loại đạt được lập trường duy vật, hiểu sự vật theo ý nghĩa khách quan của nó. Xét sự việc theo quá trình của nó là đạt đến một trình độ duy lý (lý: qui luật khách quan của sự phát triển sự vật).
[Sự thực chỉ một số triết gia thoát khỏi mê tín phần nào mà thôi, và cũng thoát ly về phương pháp chứ chưa triệt để].
2 - Những yếu tố khoa học của Ai Cập và Lưỡng Hà
Văn minh Âu Tây hưởng thụ văn minh Hy Lạp xem như có những đặc tính kỳ lạ tách khỏi truyền thống tư tưởng nhân loại. Nhưng xét trong lịch sử văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà, tuy có ràng buộc trong tôn giáo, nhưng đã xây dựng được một số yếu tố khoa học đã làm cơ sở cho kỳ công của văn minh Hy Lạp. Sở dĩ nó không đạt được tới trình độ duy vật và duy lý, vì chỉ là một số kiến thức có tính chất thực dụng và chuyên nghiệp: người Ai Cập biết đo diện tích hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật, phương pháp tương
đối đúng về diện tích hình tròn), những cách thức tính số (cộng, trừ,
nhân gián tiếp bằng cách gấp đôi và cộng), những yếu tố căn bản về thiên
văn, lý hóa, kỷ hà thực dụng nhưng chưa có tính chất phổ cập, chưa đi
đến lý luận nên tư tưởng
chưa thoát khỏi tôn giáo. Về thiên văn chỉ ghi được một số định tính về
hành tinh và thống kê thành bảng với tính chất ghi hiện tượng thành số lượng. Những hiện tượng
thường xảy ra như nhật nguyệt thực thì theo cấp số, đã lập được một
bảng về hình thù vầng trăng qua từng ngày theo hình thức cấp số. Tóm
lại, đã có tính chất lý luận, lý trí và đã có thể tiến triển được phần
nào: nó xuất hiện với tính chất lý trí cụ thể, chưa trừu tượng hóa thành lý luận, hoặc công thức cũng chỉ nằm trong phạm vi trường hợp cụ thể ấy thôi, tóm lại còn mang tính chất thực dụng nên đi đôi với thần bí
trong toán học cũng như thiên văn, vì còn liên hệ với mê tín nên khoa
học là đặc quyền của tăng lữ và quí tộc, cách tính đã theo lý nhưng chưa phải là có ý thức.
Trong các phép tính thường có dẫn chứng (chứa 8 cho đến 10 thành một
kết quả, dẫn chứng là đem kết quả nhân với 10 thành 8 cái bánh)[2]nhưng vẫn là dẫn chứng trong trường hợp cụ thể đó thôi.
Kỳ công của khoa học Hy Lạp là phá tan được tính chất thần bí và thực dụng, không bám vào những trường hợp cụ thể lẻ tẻ mà đã đi đến một trình độ trừu tượng hóa có những dẫn chứng phổ cập, về thiên văn đã có thể giải thích được các hiện tượng,
không cần bám vào những vị trí thời gian cụ thể của các tinh tú như
trước. Tính chất thần bí mê tín mất đi, không cần phương thuật, thần
thánh để giải thích mà đạt được trình độ duy lý.
«Khoa
học Hy Lạp đạt được sự phổ cập và duy lý là đạt được một bước mới, là
một bước nhảy tuyệt đối, gạt được chủ nghĩa thực dụng và mê tín, đem lại
tự do cho lý trí loài người», đó là lý luận của các nhà tư tưởng
Tây phương mà văn minh bắt nguồn từ văn minh Hy Lạp, để tách rời văn
minh Tây phương và Đông phương, tuyệt đối hóa văn minh Hy Lạp, xem văn
minh Đông phương là có giá trị nhưng không đem lại tự do lý trí con
người. Đó là sự biện chính[3]cho lập trường chính trị của họ. Sự tách rời tuyệt đối đó là kết quả của phương pháp tư tưởng siêu hình, duy tâm.
Nghiên
cứu quan hệ giữa văn minh Đông phương và Tây phương hay nguồn gốc văn
minh Hy Lạp, chúng ta đã đề cập hai vấn đề: Đông phương và Tây phương,
quá trình tư tưởng nhân loại; chúng ta sẽ giải quyết được vấn đề về hai mặt: lập trường chính trị và phương pháp tư tưởng.
Chúng ta còn phải giải quyết được vấn đề «tự do» trong toàn bộ ý nghĩa
của nó, vì đất Hy Lạp là nước đầu tiên thực hiện được tự do tư tưởng hoàn toàn (chỉ trong nhân dân thôi). Kỳ công của Hy Lạp chẳng những trong phương diện tư tưởng
mà cả trong điều kiện sinh hoạt. «Kỳ công đó hình như đã truyền sang
văn minh Tây phương qua đạo Gia Tô, văn minh Hy Lạp, Gia Tô và văn minh
Tây phương cận đại là một khối». Đó là quan niệm của các nhà tư tưởng Tây phương. Đó là tầm quan trọng của vấn đề.
Các nhà sử học
Âu tây cũng công nhận giá trị của văn minh Lưỡng – Ai, và phần đóng góp
của nó đối với văn minh Hy Lạp, một vấn đề đã đến một hình thức lý trí,
nhưng không hiểu được quan hệ giữa hai trình độ khác hẳn nhau về «chất»
đó, vì họ chỉ đứng trong thượng tầng nên không thấy rõ sự đóng góp của
văn minh Đông phương. Chúng ta phải đi sâu vào hạ tầng cơ sở mới thấy
được phần đóng góp đó.
(Trong các sách sử học
Tây phương, yếu tố lý tính khoa học đi đôi với tự do dân chủ. Họ cho
rằng có tự do dân chủ nhờ óc lý tính khoa học.) Người Hy Lạp rất có ý
thức về mình, họ công nhận những ảnh hưởng của văn minh Đông phương,
nhưng tự xem nền khoa học, triết học của mình là tuyệt đối, dân tộc Hy
Lạp là văn minh, dân tộc khác là dã man, tiếng Hy Lạp là tiếng người,
các thứ tiếng khác chỉ là tiếng kêu, các dân khác chỉ đáng làm nô lệ cho
dân Hy Lạp.
3 - Nguồn gốc và cơ sở của triết học Hy Lạp
Ai cũng công nhận văn minh Hy Lạp xây dựng trên cơ sở văn minh Đông phương. Nhưng ta phải đi sâu:
1. Tiền Hy Lạp hay trước Homère (2000-1100 tr. CN)
2. Thị tộc sang nô lệ sơ kỳ (thế kỷ XII-VIII tr. CN)
3. Nô lệ sơ kỳ - nô lệ phát đạt (thế kỷ VII-VI tr. CN), phát minh khoa học và triết học.
Trước khi người Hy Lạp sang, đất Hy Lạp bấy giờ đã có một nền văn minh đã phát triển của dân Crétois
mà xã hội xây dựng trên cơ sở thương mại và cướp bể. Văn minh xây dựng
trên cơ sở học tập văn minh Ai Cập. Kiến trúc và nghệ thuật phát triển.
[Từ
2000 tr. CN, Crète đã văn minh, nhờ buôn bán và cướp bóc mà hưởng thụ
được văn minh Ai Cập. Crète còn cướp cả dân tộc dã man lân cận. Từ 1700
tr. CN, dân Mycènes buôn bán và cướp bóc Crète văn minh, 1400 tr. CN tàn
phá Crète, 1200 tr. CN. Doriens[4]dã man hơn Achéens[5]muốn chiếm Mycènes, Achéens[6]và Crète, và có một kỹ thuật đồ đồng khá cao]
Chế
độ chính trị là không rõ, nhưng chắc đang ở thời kỳ thị tộc bộ lạc, có
đi đến nô lệ cũng rất sơ kỳ (ta chưa đọc được chữ của họ). Thế kỷ thứ
XVII tr. CN, có những người Hy Lạp đầu tiên Achéens xây dựng trên cơ sở
văn minh Crétois, học tập mà xây dựng nền văn minh Mycènes. Đầu thế kỷ
thứ XIV tr. CN, vua Mycènes đánh phá Crète, tàn phá thủ đô văn minh
Mycènes, thống trị biển Egée. Cuối thời kỳ này (thế kỷ XII tr. CN), các
vua bộ lạc Achéens đi đánh thành Troie (trên Dardanelles) trong một cuộc
chiến tranh ghi lại trong lịch sử văn hóa thì tới cuộc chiến tranh 10 năm ghi lại trong hai anh hùng ca Iliade và Odyssée.
Đầu thế kỷ XII tr. CN, một số dân Hy Lạp Doriens tràn sang, làm xã hội
trở lại chế độ bộ lạc và một số dân thị thành phải di cư sang Á đông
(Tây Tiểu Á), thế kỷ XII tr. CN, xây dựng nên Hy Lạp Á đông, xây dựng
một số thành thị và lập nên một nhà nước nô lệ (thế kỷ VIII tr. CN).
Công thương nghiệp phát triển, và qua thế kỷ VII tr. CN, thế kỷ VI tr.
CN đã xây đựng nên một số nước dân chủ. Thế kỷ thứ VIII tr. CN đã có
Homère xây dựng cơ sở văn học Hy Lạp. Thế kỷ thứ VI tr. CN bắt đầu có
khoa học và triết học Hy Lạp. Ta thấy văn minh Hy Lạp bắt đầu từ thế kỷ
VIII tr. CN, và thành hình thế kỷ VI tr. CN không phải là một bước đầu
tuyệt đối mà là một quá trình lâu dài: văn minh Ai Cập – văn minh
Crétois - văn minh Mycènes - văn minh Hy Lạp, nó đã hưởng thụ được một
số kiến thức căn bản trong các nền văn minh trước (dù trình độ xã hội ở
một trình độ thấp kém hơn - còn dấu vết thị tộc nặng nề). Những bộ phận ở
Tây Tiểu Á hưởng thụ được nhiều nhất (Crétois, Mycènes - ảnh hưởng trực
tiếp của Ai Cập và Phéniciens) nên nó tiến thẳng từ quân chủ bộ lạc qua
chiếm hữu nô lệ không theo qui luật lịch sử của Đông phương: quân chủ bộ lạc - quân chủ độc đoán - chiếm hữu nô lệ, mà chỉ qua một giai đoạn quý tộc tư sản
và chuyển thẳng sang dân chủ với đấu tranh của nông dân, thương nhân
nghèo, đại và trung thương, quí tộc (cho nên không có những yếu tố của
quân chủ độc đoán như Pyramide de Kheops, thần mặt trời Aron chẳng hạn).
[Chưa
có gì chứng tỏ Mycènes và Crète đã bắt đầu sang nô lệ sơ kỳ. Theo tác
phẩm của Homère thì còn ở quân chủ thị tộc, bộ lạc. Có thể quan hệ sản
xuất còn lạc hậu, nhưng sức sản xuất đã đi trước nhiều (Người Mường còn ở
thời kỳ bộ lạc tan rã đã có thể đi ôtô). Dorius5thắng Mycènes dù trình độ thấp hơn, nhưng có thể vì đã học tập được kỹ thuật vũ khí của Archéens6 và vào lúc xã hội này có nhiều mâu thuẫn và đang đi vào tan rã. Doriens và Achéens đều thuộc Arycus[7], một dân tộc rất quan trọng trong thế giới sử - đạo Bàlama[8]đẳng
cấp. Dân Mycènes sang Tiểu Á lại trở lại bộ lạc tan rã, vì chế độ chiếm
hữu nô lệ sơ kỳ chưa có cơ sở, và thành thị ở Tiểu Á chưa có].
Vì thế nên sự phát triển của nó rất nhanh chóng và đặc biệt gặp vào lúc phát triển của kỹ thuật đồ sắt (thế kỷ VII – IV[9]tr. CN).
Hệ thống tư tưởng
do đó cũng khác. Đông phương đi từ đa thần thị tộc đến thần quyền tuyệt
đối của các đế quốc. Hy Lạp thì khác hẳn, chính quyền đi đến quí tộc
bán tư sản, không tập trung nên thần quyền chỉ hệ thống hóa chứ không tập trung. Quan hệ giữa thần và người không độc đoán mà có tính cách xã giao mua chuộc. Thần thánh trong tác phẩm Homère rất giống người ta, chỉ có sức khoẻ hơn, nhiều phép và bất tử mà
thôi, còn sinh hoạt giống hệt sinh hoạt xã hội loài người. Quan hệ cũng
có thần bí nhưng không thiêng liêng tuyệt đối, cưỡng bách như Đông
phương. Nó cũng là nguồn gốc của tư tưởng tự do [chế độ có tự do]. Nó do sự thành hình đặc biệt của bộ máy Nhà nước không độc đoán, mà có tính chất dân chủ phần nào (giữa quí tộc).
Chế
độ nô lệ sơ kỳ (thế kỷ VIII tr. CN) không lâu dài mà chuyển nhanh sang
chế độ nô lệ phát đạt (thế kỷ VII tr. CN), trong đó quan hệ bóc lột nô
lệ nhằm vào sản xuất hàng hóa là chính (mặt công thương nghiệp, khác với
sơ kỳ phát triển mặt đại điền trang có lợi cho quí tộc). Sở dĩ như thế
vì nó phát triển theo một cơ sở Ai Cập sẵn có và đường lối thực dân các
đất đai ở Địa Trung Hải và Hắc Hải - công thương nghiệp phát triển mạnh,
đô thị ở Tây Tiểu Á và bán đảo Hy Lạp thịnh vượng, có một cuộc đấu
tranh giữa thương gia với quí tộc, một chế độ dân chủ và lần đầu tiên
người thứ dân (đại thắng) được nắm chính quyền.
Khi
chưa đủ khả năng thành lập một chế độ dân chủ, xã hội đưa lên một đạo
quân để đàn áp quí tộc - thường chia ruộng đất, phát triển văn nghệ -
phản ánh thành anh hùng [nhưng không tốt đẹp]. Với Homère, anh hùng tốt
đẹp vì rất «người». Mang nhiều nhân cách không tách rời quần chúng. Đặc
sắc của nghệ thuật Hy Lạp (điêu khắc và kiến trúc) là nhằm cái đẹp.
Khác với Đông phương chỉ nhằm cái vĩ đại, to lớn, đàn áp người ta, khác
với nghệ thuật Gia Tô to lớn, cao cả mà thân mật (ogive)[10], gây ấn tượng
lên cao cả nhưng vẫn ở trong mình. Nó đã từ đàn áp sang thân mật; Cựu
Thư nói về Thánh Cha đề cao Thần Luật, pháp luật, còn Tân Ước về Gia Tô
đề cao bác ái. Từ thần quyền tuyệt đối chuyển sang Gia Tô qua văn minh
tốt đẹp của Hy Lạp. Đối với Hy Lạp, Đẹp là Đức và Đức là Đẹp. Quan niệm Tốt đẹp
nguồn gốc là quí tộc, nhưng sau chuyển sang đại chúng đời dân chủ. Một
ưu điểm của văn minh Hy Lạp là sự tự nhiên về thời kỳ thiếu nhi (ấu trĩ)
của tư tưởng nhân loại mà bây giờ chúng ta không trải qua nữa.
[Khoa
học gắn liền với thực dụng sẽ không đi tới trình độ duy lý, vì chỉ
quanh quẩn trong lao động cụ thể hay việc tổ chức lao động cụ thể. Chỉ
khi nào nhắm một tiêu chuẩn trừu tượng
ngoài sự sản xuất cụ thể (tiền = giá trị sản phẩm), trí óc mới phát
triển, đòi hỏi một trình độ cao (Aristote kể chuyện Thalès[11]tiên
đoán mùa ôliu, làm giàu). Thalès nhằm xây dựng kinh tế tiền tệ là một
đường lối kinh tế nhằm làm giàu ngoài vòng thực dụng, ngoài sự sản xuất.
Lúc xã hội tiến tới nền kinh tế tiền tệ thượng tầng kiến trúc, đầu óc
mới suy nghĩ những vấn đề về lý luận, trừu tượng hóa: kinh tế thấp - chưa duy lý -, khoa học thấp, phải dùng thần bí.
- Doriens xâm chiếm Mycènes mà không hưởng thụ được văn minh, vì họ tàn phá hết sạch .
- Di tích văn minh Crète, Mycènes không còn mấy, chỉ còn mấy bức tường rất lớn và những pho tượng về lịch sử (ăn mặc)]
Đặc điểm
Sự biến chuyển từ thị tộc qua nô lệ (thế kỷ XII – VIII tr. CN) thì không thông qua chế độ quân chủ độc đoán mà qua một chế độ quí tộc tư sản chủ nô.
- Quá trình xây dựng Nhà nước thành thị Hy Lạp (từ thế kỷ VIII - VI tr. CN). Chiếm hữu nô lệ đi đôi với sự phát triển của kỹ thuật đồ sắt, kinh tế tiền tệ và xây dựng trên phong trào thị dân, nhờ đó mà thành thị Hy Lạp là quốc gia độc nhất trong lịch sử cổ đại xây dựng được chế độ dân chủ chủ nô.
- Do đó những thành phần thứ dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp phú thương và thủ công đã được tổ chức thành phe dân chủ, và phong trào dân chủ được phản ánh bằng những tư tưởng khoa học duy lý, tự do bình đẳng.
- Nhưng vì dân chủ và văn minh đó căn bản vẫn là dân chủ nô lệ trên cơ sở bóc lột thuộc địa, nên những tư tưởng khoa học duy lý không triệt để, không hoàn toàn thoát khỏi thành kiến mê tín, và dần dần trở lại tư tưởng mê tín với những hình thái triết học duy tâm và tôn giáo phổ cập.
Kết luận
Văn minh, đặc biệt là tư tưởng Hy Lạp là một thành tích lớn trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhưng không phải là một tạo tác tuyệt đối. Trong phần chân chính của nó, nó đã đặt mầm mống của tư tưởng
duy vật biện chứng, nhưng về phần ấy nó chỉ là một trình độ tổng kết
kinh nghiệm cao hơn tổng kết của Đông phương nhưng liên tục với Đông
phương. Còn về những hiện tượng hoàn toàn gián đoạn với tư tưởng Đông phương, thì nó là tư tưởng
duy lý duy tâm, là phần phản ánh những giới hạn hẹp hòi của văn minh
Hy Lạp do chế độ bóc lột người. Chính phần gián đoạn ấy là phần mà những
nhà sử học
đế quốc đã nêu ra, để giới thiệu văn minh Hy Lạp là một thần tích tuyệt
đối, do nó gây một ưu thế tuyệt đối cho văn minh Tây phương, thực ra
chính đó là phần hẹp hòi mà cuối cùng nó sẽ phát triển thành tôn giáo,
cũng như chế độ nô lệ phát đạt ở Hy Lạp sau hai, ba thế kỷ dân chủ cuối
cùng đi tới quân chủ độc đoán.
[l.
Ở Ai Cập và Lưỡng Hà, quân chủ độc đoán bắt đầu từ thế kỷ XX tr. CN, mà
tới thế kỷ VIII tr. CN Hy Lạp vào chiếm hữu nô lệ không qua quá trình
một chúa bộ lạc thôn tính các bộ lạc, mà ngược lại, các tộc trưởng đánh
đổ chúa bô lạc, thành lập quí tộc tư sản; bọn quí tộc tộc trưởng này khác Đông phương và không sống trên cơ sở đại điền trang mà lại là một anh bán tư sản
(bỏ vốn vào công thương nghiệp), nên lúc cần tổ chức bộ máy Nhà nước,
chính bọn này nắm vì họ có quyền lợi công nghiệp (khác với Đông phương
không do quý tộc nắm). Sở dĩ bọn này là tư sản
quý tộc vì hoàn cảnh buôn bán, cướp bể và thừa hưởng văn minh Đông
phương. Chính thể chưa hẳn là dân chủ, nhưng hình thức bán cộng hòa và
phần nào có tự do (khác Pharaon tuyệt đối trong chính trị và tư tưởng) phản ánh cả vào văn học, Iliade và Odyssée
diễn tả được những vai trò cá nhân đặc sắc, đề cao được cá tính anh
hùng. (Hegel cho rằng văn chương Hy Lạp đã đạt được những «cá tính đẹp
đẽ» (khác Đông phương chỉ vua có cá tính, và cá tính xây dựng trên áp
bức, xương máu, chỉ Pharaon có hồn bất diệt, tất cả mọi người, kể cả quý
tộc, đối với nhà vua đều là nô lệ). Bọn quí tộc có được đức tính đẹp đẽ đó đã tiếp tục truyền thống tự do của cá nhân bộ lạc, và tiếp thu những văn minh mới.
2. Trong chế độ quí tộc bán tư sản ở thế kỷ VIII tr. CN có nhiều mâu thuẫn: tư sản - nông dân (tư sản chiếm ruộng đất), tư sản - thủ công, thứ dân (tư sản tập trung), tư sản quý tộc - tư sản
mới. Những mâu thuẫn đó - nạn đói - giải quyết bằng phong trào thực dân
chiếm các xứ và đô thị ở Hắc Hải và Địa Trung Hải, bắt đầu là Milet (có
90 căn cứ ở Hắc Hải), công trường phát triển, ngoại thương rất phát
triển, xuất cảng hàng hóa (rượu dâu, nông nghiệp cũng phần nào chuyển
sang kinh tế hàng hóa). Tới thế kỷ thứ VII tr. CN, mâu thuẫn giai cấp
lại tăng cường (công nghệ phẩm xuất cảng có lợi nên giá cao), nông dân
phải mua với giá cao những nông phẩm bị hạ giá vì bọn lái buôn nhập cảng
lúa mì và gia súc. Thợ thủ công, tiểu thương cũng bị lấn át vì kinh
doanh chủ nô phát triển nhờ số nô lệ cướp ở đất thực dân. Hai phe mâu
thuẫn sâu sắc. Phe dân chủ do đại thương không quí tộc lãnh đạo chống
quý tộc bán tư sản, dân chủ thắng lợi (vì chế độ chiếm hữu nô lệ đang phát triển) trong một số thành thị do Athènes lãnh đạo. Trong quá trình đấu tranh chống quý tộc, tư tưởng khoa học, duy vật, duy lý phát sinh.
Nhưng chế độ là nô lệ nên dần dần quí tộc lại lên. Hy Lạp có hai khuynh
hướng: duy vật duy lý và duy tâm, phái duy tâm này có đặc điểm hưởng
thụ cái duy lý của truyền thống duy vật và duy tâm hóa những công trình
khoa học trước, cho rằng nhờ duy tâm mà khoa học thoát khỏi thực dụng. Thứ duy tâm này mang tính chất duy lý, không mộc mạc như tôn giáo.
II – TRIẾT HỌC IONIE (Biện chứng mộc mạc)
Hy
Lạp gồm ba bộ phận: 2 bán đảo Péloponese và Thessalie, bộ phận phía Tây
Tiểu Á. Phần Tây Tiểu Á là Ionie có các thành thị rất phát triển, nhất
là thành phố Milet và Ephèse.
Ionie là nơi đầu tiên phát triển triết học và khoa học duy lý trên thế giới (thế kỷ thứ VI tr. CN) tương đối thoát khỏi mê tín.
Mục đích:
-
Chứng minh rằng triết học là khoa học duy lý bắt nguồn từ công trình là
sản xuất và đặc biệt là sự phát triển công thương nghiệp.
- Dẫn chứng rằng triết học là khoa học phát triển trong một quá trình lịch sử chung
của nhân loại, cụ thể là văn hóa Lưỡng Hà - Ai Cập, và phát triển ở đất
Hy Lạp do những điều kiện đặc biệt của cuộc đấu tranh giai cấp trong
những quý tộc thành thị. Những điều kiện đó đã đẩy mạnh phe dân chủ lên
nắm quyền thống trị xã hội.
-
Dẫn chứng rằng nguồn gốc cơ sở và chân lý thì triết học và khoa học
liên quan khăng khít với nhau, căn bản vì triết học có tính chất khoa
học và ngược lại.
Yêu cầu:
Nhằm xây dựng quan điểm chân chính: quan điểm lao động sáng tạo khoa học, quan điểm lớn (quá trình phát triển là do lịch sử và cuộc đấu tranh của nhân dân), quan điểm khoa học triết học (thấy sự liên quan chặt chẽ của triết học và khoa học) .
1 - Điều kiện lịch sử ở thành thị Ionie (thế kỷ VI tr. CN)
Vào thế kỷ VII - VI tr. CN, những thành thị của Ionie phát triển nhiều về công thương nghiệp nhờ thực dân (phát triển này xuất hiện từ thế kỷ IX - VIII tr. CN để giải quyết những mâu thuẫn giai cấp của phái quý tộc bán tư sản
thống trị các thành thị ấy), đặc biệt những căn cứ thực dân ở Địa Trung
Hải và Hắc Hải tại các nước lạc hậu: phát triển thực dân làm phát triển
kinh tế tiền tệ, mâu thuẫn giai cấp càng gay go; nông dân bị hai tầng
áp bức bóc lột (quí tộc và lái buôn); tiểu thương thành thị bị chủ nô
cạnh tranh làm phá sản, đồng thời tư bản chủ nô phát triển mạnh (phong trào chung toàn Hy Lạp) với sự đấu tranh của giai cấp thứ dân do tư bản lãnh đạo; những giá trị tư tưởng, phong tục cựu truyền bị lay chuyển. Tiền tệ thế cho lễ nghi cựu truyền, văn học để lại vài bài thơ nhắc tới sự đảo lộn về tập quán bấy giờ (Théognis[12]than phiền về quí tộc không giữ được truyền thống mà đi kết hôn với tư sản: «người
quí tộc không từ lấy gái thường dân nếu cô này mang về nhiều của, mà
cũng chả cho cô nương nào từ chối không lấy người thường dân nếu anh này
nhiều tiền. Tiền là cái mà người ta quí, tiền làm lẫn lộn nòi giống», Hésiode[13]: «Đức tính và danh dự đều theo tiền». Alcée[14]: «Tiền làm ra người»)
Đứng về mặt tư tưởng, phong trào này đã phát sinh tư tưởng tư sản (chủ nô) đầu tiên bấy giờ có tính chất cách mạng và xây dựng nên triết học, khoa học duy lý, tương
đối đánh đổ được các lễ nghi tôn giáo cựu truyền. Đó là phái vật lý
Milet: đi tìm thực chất sự vật, do đó xây dựng được khái niệm đầu tiên
có tính chất khoa học vật chất. Chủ nghĩa duy vật bắt nguồn từ đấy.
[Tăng lữ không có vai trò trong đấu tranh, vì nó là thứ quan tước cũng như vua: bầu lên trong thời gian đấu tranh giai cấp (trong thời kỳ dân chủ).
Théognis sáng tạo thể thơ chính trị.
Hésiode sáng tạo thể thơ nông vận.
Alcée sáng tạo thể thơ trữ tình.
[Nông
nghiệp đã phần nào kỹ nghệ hóa, nhất là ngành sản xuất ôliu, quan hệ
giữa thành thị nông thôn chưa phân biệt rõ ràng. Thành thị không có
nghĩa hiện tại mà chỉ là một tỉnh bao gồm cả thị xã và nông thôn.]
2 - Phái vật lý học Milet: Gồm có: Thalès, Anaximène và Anaximandre.
Thalès:
Sống khoảng cuối thế kỷ VII tr. CN và đầu thế kỷ VI tr. CN. Đã tiếp thu những thành tựu khoa học và tư tưởng
Lưỡng Hà, tổng kết phát triển một mức cao hơn không cần truyền thống
tôn giáo, và đem phổ biến cho Hy Lạp. Thalès có đi thăm Ai Cập, học tập
Lưỡng Hà và tiên kiến được một cuộc nhật thực (585 tr. CN), tiên kiến
được một vụ được mùa ôliu, viết một tập thiên văn cho người đi bể,
Thalès là người đầu tiên được gọi là hiền nhân. Chủ nghĩa của ông có 3
phần:
- Lý thuyết về nguyên chất vật thể.
- Cách thức biến chuyển của nguyên chất đó,
- Xây dựng những định lý kỷ hà đầu tiên.
Tất cả vật thể đều do Nước mà ra (nguyên chất của mọi vật thể): thuyết này có nguồn gốc ở Ai Cập (cho rằng lúc đầu có một thứ nước nguyên thủy gọi là noun. Bấy giờ chưa có Trời, Đất, Thần thánh chưa sinh ra, chưa có cái chết mà chỉ có nước nguyên thủy. «Thần Ra xuất phát từ nước noun»
- trong kinh thánh lúc đầu tinh thần của Thượng đế nổi trên nước).
Thalès phát triển thuyết ấy theo một hướng khoa học: quan niệm nước là
vật chất nguyên thủy cấu tạo ra vạn vật theo một quá trình tự nhiên
(đọng lại thành đất, bốc lên thành khí thành cây, vũ trụ nổi trên mặt
nước; động đất, gió, lửa của mặt trời và các tinh tú cũng do hơi nước
bốc lên). Thalès nói: «thế giới có linh hồn và đầy thần linh»
Thalès
còn có công sáng tạo kỷ hà học (đi từ phép đo diện tích của kỷ hà lên
các định lý): hai góc đáy của tam giác cân bằng nhau), các góc đối đỉnh
bằng nhau. Những cố gắng của Thalès về kỷ hà lúc thì phổ cập hơn
(định lý), lúc thì trực quan hơn (về hình). Chưa có gì chứng tỏ các định
lý đó đã được chứng minh một cách khoa học và chính xác như sau này.
[- Tư tưởng của phong kiến ở một trình độ cao hơn nô lệ nhưng ít sáng tạo hơn, có thể vì:
- Cơ sở tư tưởng nô lệ đã đủ thỏa mãn phong kiến rồi - chỉ cải lương không sáng tạo.
- Trong nô lệ, có giai đoạn tư sản lãnh đạo thứ dân nắm chính quyền (dân chủ) - khả năng sáng tạo phong phú hơn.
-
Khác nhau giữa kỹ thuật đồ sắt và đồ đồng: sắt dễ rèn hơn (Cu (đồng)
cần thiếc); sắt cứng hơn, có lợi cho sản xuất; sắt nhiều khoáng sản hơn.
- Do đó, với sắt sản xuất trở nên tiến bộ vượt bậc vì nó phổ biến hơn.
- Nô lệ: sắt và đồng tồn tại song song. Phong kiến: sắt chiếm ưu thế.]
Anaximandre:
Sống giữa thế kỷ VI tr. CN, viết: Bàn về tự nhiên (sau thành một tập quán), cho rằng bản chất vạn vật là «vô định». Vô định đó cấu tạo ra các trời và các thế giới
theo một số quá trình tự nhiên có tính chất máy móc (định tinh và hành
tinh là một bánh xe bằng lửa bị khí bao bọc, nhưng bao khí ấy có những
lỗ thủng để ta thấy chúng, lúc lỗ bịt lại sẽ có nhật hay nguyệt thực,
mặt trăng tròn khuyết cũng do lỗ này to hay nhỏ. Dù còn ngây thơ nhưng
đã dùng kỹ thuật sản xuất để giải thích (bánh xe) .
Anaximandre
còn phát minh thuyết tiến hóa sinh vật cho rằng vật nguyên thủy sống
trong một bao cứng dưới nước, sau lên bộ vỡ ra biến thành động vật và
người.
Anaximène:
Hạ bán thế kỷ VI tr. CN. Vạn vật do khí mà ra, đọng lại thành đất và nước, bốc lên thành hơi.
Tóm
lại, cả ba triết gia trên đều quan niệm vật chất từ một nguyên chất (nó
đã có trong Đông phương nhưng là một nguyên chất thần thánh). Nguyên
chất ở đây là một vật chất tự nhiên và cấu tạo sự vật theo một quá trình
tự nhiên. Ta thấy tưởng tượng
ấy cấu tạo theo một tính chất khoa học, và quá trình tự nhiên mà họ
dùng để giải thích là những kinh nghiệm của lao động sản xuất, không còn
bị bao bọc trong mê tín như Đông phương mà đã nổi bật tính chất tự
nhiên. Khái niệm nguyên chất cũng mang tính chất đó. Yếu tố này do kinh
nghiệm sản xuất công nghiệp (cấu tạo mọi sự vật từ một nguyên chất, và
hoàn toàn do lao động không phụ thuộc thiên nhiên như sản xuất nông
nghiệp). Đến đây, sở dĩ tổng kết đến mức duy vật như thế, vì do từ sản
xuất lãnh đạo đã dùng kinh nghiệm sản xuất công nghiệp đánh đổ cơ sở tư tưởng
sản xuất nông nghiệp của quí tộc điền trang, xây dựng nên nhân sinh
quan, vũ vụ quan có tính chất khoa học - đi sâu vào chi tiết. Trong chi
tiết nó có nhiều sai lầm, nhưng trong căn bản đã đạt được tính chất duy
vật, tự nhiên, cả một hệ thống chứ không phải những định luật lẻ tẻ.
[Văn
minh Hy Lạp là đỉnh cao nhất của văn minh chủ nô - kết quả cuộc đấu
tranh giữa chủ nô công thương và chủ nô quí tộc. Bọn chủ công thương đại
diện cho quyền lợi và dân tự do và phần nào cho nô lệ (ở Sparte, nô lệ
vô cùng cực khổ: để làm quen với quân sự, cho thanh niên đi săn nô lệ,
và truyền đời này qua đời khác; ở Athènes tương đối đỡ hơn, nhưng chỉ trong giai đoạn đang lên thôi). Ở Tây phương, các giai đoạn lịch sử rất dứt khoát, còn ở Đông phương (Trung Hoa, Ấn Độ) trong phong kiến vẫn còn di tích nô lệ (Việt Nam tới nhà Nguyễn hãy còn)].
Nhưng vì tư bản chỉ là tầng lớp tổ chức lao động chứ không trực tiếp sản xuất, nên quá trình này còn mang nhiều tính chất máy móc chứ
không bao gồm hết ý nghĩa chủ quan của lao động (sản xuất là máy móc,
nhưng con người sản xuất, tổ chức xã hội), vì không từ lao động mà chỉ
tổ chức để bóc lột lao động nên tư sản
chỉ thấy mặt máy móc của sản xuất thôi, không thấy mặt nhân sinh. Nên
dù đạt được một vài tính chất biện chứng, nhưng nói chung các nhà duy
vật cổ này bị hạn chế, mang tính chất máy móc và để nhiều chỗ hở cho duy
tâm.
Nhưng
nó có tính chất tích cực ở chỗ duy vật, và nó dẫn chứng nhân sinh quan
và vũ trụ quan duy vật là chân chính của triết học, vì nó bắt nguồn từ
lao động. Nếu chúng ta tách rời khoa học với lao động, sẽ không hiểu ý
nghĩa chân chính của nó, và kìm hãm không phát triển nó lên được - cho
nên khoa học xây dựng trên lập trường tư sản
vẫn bị hạn chế cho tới gần đây, lúc có một nền khoa học xây dựng trên
cơ sở giai cấp vô sản mới đạt được tính chất biện chứng và phát triển
nhanh chóng được.
[- Tư sản tổ chức lao động chứ không trực tiếp lao động.
- Tư sản
tổ chức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, do khoa học tự nhiên gần
với đời sống lao động hơn hơn nên có phản ảnh phần nào tổ chức sản xuất,
chính trị v. v...
Vấn đề liên hệ: sau khi phân tích tư tưởng tư sản trong lịch sử tư tưởng, cần liên hệ phân tích tư tưởng tư sản dân tộc Việt Nam.
-
Engels cho rằng tính chất máy móc trong duy vật của thế kỷ XVII - XVIII
ở Anh, Pháp vì trình độ khoa học tự nhiên còn thấp kém và khoa học xã
hội chưa có, nhưng tới trình độ khoa học hiện đại đã chan chứa duy vật
biện chứng, nhưng một số nhà khoa học chỉ duy vật biện chứng trong công
tác khoa học, nhưng lý thuyết của họ vẫn duy tâm hoặc duy vật máy móc –
tính chất đó do lập trường tư tưởng. Duy vật máy móc của tư sản
ít gạt bỏ con người bị bóc lột, nó vô nhân đạo nên máy móc, nhưng tiến
bộ ở chỗ chống quí tộc nên duy lý - phần chân chính liên hệ vấn đề toán,
lý, hóa.
-
Khả năng tạo tác của con người đã bị xuyên tạc và làm cơ sở cho nhiều
hình thái tôn giáo, trong đó phần chân chính của nó bị che mờ, chỉ học
phái Milet lọc đi phần chân chính đó, nhờ nó là sản phẩm của một thời
đại có đấu tranh giai cấp cao độ và thường xuyên]
3 - Héraclite (Ephèse)
Danh hiệu là «Héraclite tối nghĩa» - nổi danh vì đưa ra nhiều ý kiến tối nghĩa. Cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ V tr. CN, Ephèse là một thành thị kinh tế phát triển, đặc biệt nhất là hình thức ngân hàng (tư bản tài phiệt quí tộc hóa). Trong thời thịnh trị, bọn này có một vai trò quốc tế,
có nhiều quan hệ với nước Lydie, giúp Lydie thống nhất, phát triển công
thương nghiệp và quan hệ thương mại quốc tế (Á đông qua Địa Trung Hải)
nên mất dân tộc tính, chịu ảnh hưởng bảo hộ phần nào của vua Lydie. Đến
thế kỷ VI tr. CN, các thành thị Ephèse bị Ba Tư chiếm. Quý tộc Ephèse bán nước. Héraclite xuất thân quý tộc (dòng vua tôn giáo - một tài liệu nói ông nhường ngôi cho em), nên có tác phong khinh miệt quần chúng nhưng có tư tưởng chống đế quốc. Có một đoạn sử liệu Hy Lạp nói rằng một hôm Ephèse bị Ba Tư bao
vây. Dân Ephèse vẫn ăn uống xa xỉ, do đó thiếu thức ăn. Bọn cường hào
họp lại giải quyết, không ai dám nói chuyện hạ mức ăn, Héraclite hòa bột
đại mạch (orge) uống với nước rồi bỏ đi, mọi người hiểu ý hạ mức ăn.
Quân Ba Tư nghe tin ấy biết không hy vọng nên rút lui.
[Héraclite thuộc số người bất mãn với quý tộc và phản đế: lúc trước Lydie sau là Ba Tư[15],
vì quyền lợi quý tộc liên hệ với đế quốc nhờ buôn bán quốc tế. Thấy sự
tiêu diệt của quý tộc v.v..., có ý niệm về biến đổi, nhưng Hétaclite nói
chung không đi vào chi tiết được, thấy được mâu thuẫn nhưng không thấy
hướng phát triển (hiện nay giai cấp địa chủ cũng kêu: «Trời đất đổi
thay, vạn vật chống đối»
Ở Tây phương gần đây, sự «thưởng thức cái lộn xộn» là một tâm trạng phổ biến, đó là một hình thức lãng mạn phổ biến.
Địa
chủ thấy biến đổi - nông dân sung sướng: «như thế công bằng» - quy luật
ở ngoài sự vật, vì không thấy sự xứng đáng vì lao động nông dân?
Một
thắc mắc: tại sao một người phản động về chính trị lại có thể sáng tạo
ra «mệnh đề » duy vật biện chứng đầu tiên? Có lẽ như yếu tố phản đế (bấy
giờ những người theo Ba Tư có phần nào thoát ly giai cấp). Héraclite có giá trị ở chỗ làm nổi bật biện chứng tính trong duy vật biện chứng.
[Milet:
phần duy vật có mấy điểm: vạn vật luôn luôn biến chuyển; vạn vật luôn
luôn mâu thuẫn nhưng được xây dựng trong thống nhất; đề cao lý tính]
Héraclite cho Thế giới là lửa biến chuyển do quy luật tự nhiên.
Ý thức biến chuyển sâu sắc [«Không bao giờ hai lần đi xuôi một con
sông»: vì trong đó có mâu thuẫn - «Chúng ta xuôi và không xuôi trên con
sông đó»: chúng ta có và không có» - Sự liên kết là thống nhất và không
thống nhất, điều hòa và mâu thuẫn, từ mọi sự xuất hiện độc nhất, và từ
độc nhất xuất hiện mọi sự, và cần phải thấy rằng chiến tranh là hòa hiệp
và công lý là tranh giành, và mọi sự được xây dựng và tiêu diệt do sự
tranh giành – «Chiến tranh là cha của mọi sự và vua của mọi sự»: chiến
tranh đã làm cho những tên này là thần, tên này là người, tên này là nô
lạ, tên này là tự do – «Đại chúng không hiểu rằng cái đấu tranh với mình
là hòa hiệp với mình, điều hòa là do ở chỗ căng thẳng đối lập giống như
dây đàn hay dây cung» - «Cái mà ai là có ích lợi do ở những điểm đối
lập gây ra sự điều hòa đẹp đẽ»: chính sự ốm đau làm cho ta thưởng thức
sự mạnh khỏe, cái xấu cho ta thưởng thức cái tốt, cái mệt nhọc làm ta
thưởng thức cái nghỉ ngơi – «Cái điều hòa bí mật hay hơn cái điều hòa
công khai»].
[Héraclite
duy vật: Vạn vật do lửa - không do thần hay người. Lửa biến chuyển cũng
như vạn vật biến chuyển theo quy luật bản thân nội tại của nó.
Héraclite
biện chứng: Vạn vật đều chứa đựng mâu thuẫn nội tại và đều sinh ra do
mâu thuẫn thống nhất trong một quá trình biến chuyển.
Thiếu
sót: không thấy được bản chất 2 yếu tố mâu thuẫn - mâu thuẫn thống nhất
không có hướng. Biến chuyển không hướng phát triển]
Những biện chứng của Héraclite bị giới hạn, có những thiếu sót căn bản. Nó biến chuyển thuần túy nhưng không có hướng phát triển, mâu thuẫn và thống nhất mâu thuẫn cũng không có hướng,
không rõ mâu thuẫn giữa cái gì và cái gì (đối với biện chứng: ưu và
khuyết, thống nhất ưu thắng) và thống nhất thế nào. Với chủ nghĩa như
thế sẽ không nắm được và không hướng được lịch sử và chỉ có biến chuyển chung chung thì mãi vẫn là luẩn quẩn và mất tính chất mâu thuẫn của nó. Đó là những thiếu sót căn bản
cần phân biệt rõ với duy vật biện chứng chân chính (đó là phản ánh tình
trạng xã hội bấy giờ nhưng mọi quý tộc đều theo đế quốc - Héraclite
phần nào thoát khỏi giai cấp), nên khi quan niệm về biến chuyển
Héraclite duy vật, nhưng quan niệm về quy luật biện chứng thì duy tâm. Đức tính
là ở một điểm là hiểu biết lý tính. Lý tính này thống trị mọi vật và đi
sâu vào mọi vật. Lý tính tồn tại vĩnh viễn thì người ta không hiểu,
hình như người ta không có kinh nghiệm rằng mọi sự việc là theo lý tính
ấy, tuy rằng người ta đã có kinh nghiệm của những sự việc giống như tôi
trình bày, phân tích sự vật theo bản chất và giải thích theo tính cách
của nó. Nhưng những người thường lúc làm việc và biết mình làm gì cũng
giống như họ quên cái họ đang làm trong giấc mơ. Bản chất người không có
Đức tính, nhưng bản chất Thượng đế thì có. «Đối với Thượng đế mọi vật đều tốt đẹp, đúng như người ta quan niệm cái này đẹp cái kia xấu...».
[Lý tính (logos) lý tính thống trị vạn vật. Người không nhận thức được lý lính dù vẫn làm theo lý tính].
III - GIAI ĐOẠN CAO NHẤT CỦA TƯ TƯỞNG HY LẠP (thế kỷ V tr. CN)
Trong giai đoạn này phát sinh ở Hy Lạp những tư tưởng quan trọng nhất, ảnh hưởng tới tư tưởng Tây phương cho tới Marx - Engels, đó là tư tưởng duy tâm phát triển ở Đại Ý, nhất là ở Elée, và tư tưởng duy vật máy móc, chủ yếu là Démocrite trong khu vực Athènes (ảnh hưởng Athènes), và tư tưởng luân lý nhân văn của phái Sophisme (tranh biện).
Đây
là 3 phái quan trọng mà 2 phái trên là chính đã phân chia các triết gia
làm 2 phái cho tới Marx - Engels mới đạp đổ mâu thuẫn đó.
Mục đích yêu cầu:
Nêu rõ nguồn gốc, phần chân chính, phần nguy biện và quyền lợi giai cấp mà chủ nghĩa đó tiêu biểu, góp phần vào vấn đề đấu tranh tư tưởng hiện tại, vì nó hãy còn duy trì .
1 - Nguồn gốc chủ nghĩa duy tâm siêu hình ở Đại Ý
Sau khi ở Tiểu Á, do Ba Tư chiếm
cứ và bảo hộ, những thành thị tự do (giữa thế kỷ VI tr. CN) văn minh đi
vào đường suy đồi, mất cơ sở độc lập, và một phần nhân dân trong đó có
những nhà tư tưởng
như Pythagore, Xénophane di cư sang các căn cứ thực dân ở Đại Ý. Họ
mang theo vốn văn hóa của Ionie. Đại Ý là đất mới, trước kia ở chế độ
thị tộc mà nhân dân Hy Lạp mới chiếm trên cơ sở chiếm đoạt đất đai của
thổ dân và biến họ thành nô lệ, mở được những thành thị thịnh vượng về
công thương nghiệp. Giai cấp quý tộc có một vai trò đặc biệt quan trọng
(hơn ở Ionie, vì chủ yếu chúng sống về đất đai mà ở đấy có ít đất phì
nhiêu, đồng thời nó phát triển công thương). Đồng thời cũng có một phe
dân chủ (đấu tranh gay go địa chủ - quý tộc). Những nhà tư tưởng từ Ionie sang Đại Ý, nói chung đứng về quí tộc, đồng thời hấp thụ được vốn duy lý mà các nhà tư tưởng duy vật ở Ionie đã xây dựng (căn bản tư tưởng quí tộc là tư tưởng tôn giáo, nhưng ở đây là bán tư sản, phần nào xây dựng, hấp thụ tư tưởng duy lý), phát sinh một thứ triết học mới có tính chất duy lý nhưng căn bản là huyền bí (khác
tôn giáo cũ), nguồn gốc của duy tâm siêu hình. Người tiêu biểu nhất
trong công cuộc lật ngược duy vật biện chứng thành duy tâm siêu hình là
Xénophane. Ông phản đối tôn giáo nhiều (phản đối sự vẽ, quan niệm thần
như người), nhưng chỉ đi đến một tôn giáo mới, phục tùng ông thần vô hình toàn quyền do ở tinh thần, vì thế nên chỉ huy và hiểu biết được sự vật (thần hay hoàn toàn là tinh thần, không có một tí nào là duy vật, và là một thần duy nhất. Tất cả tư tưởng duy vật duy lý, trước kia có tác dụng đánh đố tôn giáo, trở nên một sự cải lương tôn giáo, tiếp thu vào thần thánh những tư tưởng tiến bộ do loài người xây dựng được. Nó tập trung cho một chuyển biến quan trọng về giai cấp (quí tộc ở nhà chống duy lý, nhưng sang đất mới nó tiếp thu tư tưởng đó theo một cách riêng). Các triết gia sau ở Đại Ý tiếp thu truyền thống kết hợp duy lý và thần bí, nó tổ chức thành Hội kín thờ thần,nhưng chủ yếu là đấu tranh giành chính quyền.
[Elée:
- Nguồn gốc thế giới: là một tồn tại duy nhất không chia cắt, bất động.
- Chỉ căn cứ vào lý tính mới nhận thức được sự vật, dư luận và lý trí.
- Vạn vật chỉ có vẻ mâu thuẫn nhưng sự thực bất sinh, bất động và bất diệt.
Biện chứng tiêu cực:
- Thấy vấn đề mâu thuẫn của vận động và xét vận động theo luân lý.
- Không nhận thần sáng tạo mà coi hình bầu dục hay hình cầu là tồn tại tuyệt mỹ nhất]
Điển
hình là Pythagore tổ chức và nắm được chính quyền Crotone ở Nam Ý.
Trong «liên minh Pythagore» có 2 phần: một phần hoàn toàn tôn giáo - nội
quy riêng bảo đảm linh hồn thuần túy và bất diệt (được hưởng một số bí
quyết, để xuống âm phủ đọc lên để giữ linh hồn - Osiris), đồng thời nội dung mê tín đó được củng cố bằng tư tưởng khoa học nhất là toán học.
Pythagore là người đầu tiên xây dựng nên toán học thuần túy, tách khỏi thực tế cụ thể, đề cao thành một bí quyết vũ trụ
(mọi vật biến chuyển trong vũ trụ do qui luật của toán pháp, đặc biệt
là «qui luật số lượng»): tiếng đàn cao thấp (tính chất trực quan phụ
thuộc độ dài và độ căng của dây đàn (khoa học số lượng). Số lượng chi
phối trực quan và chính nó là thực chất vũ trụ (mỗi số là một điểm -
nhiều số thì thành hình các khối - vũ trụ), chẳng những thế mỗi số là
thực chất của đức tính.
[Pythagore:
Liên minh Pythagore (Hội kín thành chính quyền):
- Nội quy tôn giáo - bào đảm linh hồn.
- Toán học (thuần túy) thần thánh hóa.
-
Liên hệ: bói toán. tử vi cũng là một thứ toán học thần thánh hóa, nhưng
cũng phải ở một mức khoa học nào: trước kia bói toán bằng mây, gió,
chim bay, xương nứt khi đốt, v. v...
-
Căn bản của toán pháp là quy luật bất mâu thuẫn. Trong quá trình tiến
chuyền, nó có tính chất biện chứng (số, đại số). Nhưng trong một quá
trình đồng nhất, tính chất biện chứng chỉ có phần nào và hơi hình thức
thôi.
Pythagoricien:
- Vật chất là số và điểm.
- Nó có quy luật: sự điều hòa của quy luật các số lượng có quy luật.
- Vũ trụ là những hành tinh quay quanh một khối lửa - âm điệu.
- Tinh thần là mảng éther nhưng bất diệt và có thể di chuyển.
- Mâu thuẫn chỉ có bên ngoài sự vật - biện chứng có tính tiêu cực.
- Công trình khoa học.
- Yếu tố tôn giáo]
Tính chất thần thánh hóa số lượng rất phổ biến, hiện nay còn nhiều (kể cả bên ta). Nó do thần thánh hóa tư tưởng duy lý, do kinh nghiệm sản xuất (toán pháp do sản xuất) phản ánh sự quí tộc hóa những thành tích khoa học
của phong trào cách mạng. (Nội dung duy tâm siêu hình là một cơ sở duy
lý về phần luân lý và khoa học, nếu không chỉ là mê tín. Nội dung duy lý
ấy là kết quả của một cuộc cách mạng bị sáp nhập, hấp thụ vào mê tín,
thần thánh.) Xénophane và Pythagore mới đặt ra khía cạnh. Sau đó, nó
được đưa lên tới hình thức nguyên lý với Parménide và Zénon, cho rằng thực chất của thực tại là bất động, bất sinh, bất diệt.
Lần đầu tiên với Parménide phân biệt hai con đường: dư luận và chân lý.
Con đường dư luận là cảm thức. Với con đường này, vũ trụ xuất hiện như
một sự biến chuyển có hạn (ám chỉ phái Ionien, Héraclite), và con đường
chân lý là một sự bất động, vì bất động mới có chân lý và thống nhất mỗi
một mặt mà thôi. Vấn đề là Parmenide có nắm được một số đặc tính của
chân lý, và cắt đứt với cơ sở thực của nó là cảm thức, ông đã tuyệt đối
hóa quá trình trừu tượng
hóa, lý tính hóa (thực ra thực tại luôn luôn biến chuyển nên sự xây
dựng chân lý phải liên tục). Ông đã đảo lộn chân lý và lấy mục đích để
định nghĩa thực tại. Sự đảo lộn đó thực tế là trật tự xã hội, những kết
quả của xã hội bị tập trung vào tay một bọn thống trị không thể tiến bộ
được nữa - nó phủ nhận kinh nghiệm thực tế, quan niệm vĩnh viễn như thế
(liên hệ: lúc ta không tiến bộ được nữa thì sẽ tuyệt đối hóa cái đã có
và bảo vệ nó). Để chứng minh sự bất di bất dịch đó, Zenon đưa ra một số
mệnh đề rất danh tiếng, cho mãi tới Marx – Engels mới đánh đổ được
(trước kia có những người phản đối nhưng chưa thể đánh đổ được về phương
diện lý luận: Diogène ở phái Cynique cũng không thể đả phá được trong
lập trường tư tưởng).
[Pannénide, Zénon: dư luận và chân lý (cảm thức)]
2 - Duy vật máy móc
Đó
là nguồn gốc xây dựng duy vật siêu hình ở Athènes vào thế kỷ V tr. CN.
Đồng thời (thế kỷ V tr. CN), phe dân chủ ở Athènes có xây dựng một phong
trào duy vật. Sự thực, trước đó nó đã là mầm mống ở Nam Ý với
Empédocle, đã trở lại truyền thống duy vật ở Ionie nhưng ở một trình độ
cao hơn: máy móc (trước kia biện chứng nhưng là biện chứng lơ mơ[16]- hướng phát triển là máy móc - khái niệm rõ hơn, bộc lộ thực chất trình độ trước).
Tư tưởng
máy móc này cũng xuất hiện với hình thức cổ điển (nguồn gốc của chủ
nghĩa nguyên tử): vạn vật do sự thu lại hay tách ra của những phân tử
nhỏ do sự yêu và sự ghét.
Tư tưởng
duy vật này xuất hiện ở Athènes với Anaxagore (sinh và trưởng thành ở
Clazomènes (Ionie), sau di cư sang Athènes. Với ông, duy vật tiến lên
hình thức gần với nguyên tử với thuyết «phần tử đồng loại» (homoeoméries[17]): cái thống nhất các phần tử đó lại là một thứ tinh thần tự nhiên
(không có tính chất duy tâm). Tới Leucippe và nhất là Démocrite, nguyên
tử xuất hiện với hình thức cổ điển - điển hình của duy vật máy móc. Mọi
vật do những nguyên tử cấu tạo, thống nhất nhờ trọng lực, nguyên tử rơi
và cuốn vào nhau làm thành thế giới. Đó là tư tưởng tư sản dân chủ, tư tưởng
máy móc do trong thực tế mà ra (công nghiệp, tổ chức công nghiệp và
phát triển), nhưng sở dĩ nó bị hạn chế như thế vì phương thức sản xuất tư sản
nói chung: bóc lộ bằng mua bán, tổ chức tiền tệ (mọi vật đều bị đồng
loạt hóa trong đơn vị tiền, và mọi vật có thể phân chia nhiều lần nhưng
đến một trình độ giới hạn nào). Chính đó là phần hạn chế và xuyên tạc
những kinh nghiệm sản xuất trong thực tế (trong sản xuất có một lúc nào
sản vật đồng loại, nhưng sau một cái có chất khác). Vì giới hạn đó nên tư tưởng duy vật không thể đánh đổ được tư tưởng duy tâm.
Mâu
thuẫn giữa duy tâm và duy vật kéo dài mãi, đại diện cho mâu thuẫn giữa
hai giai cấp trong thực tế, và chỉ kết thúc khi có mâu thuẫn khác gay
gắt hơn, đẩy mâu thuẫn trên vào hàng thứ nhì và lu mờ.
[Empédocle, Anaxagore, Leucippe, Démocrite.
Anaxagore :
- Vật chất là do kết hợp nhiều mảnh nhỏ, vật thể vận động
- Mảnh nhỏ không đồng nhất, và có vận động sinh ra tinh thần tự nhiên - một thứ logos vật chất nhưng lại ở ngoài duy vật.
- Mặt trời và bầu trời là đá nóng rực.
Empédocle :
- Vạn vật do lửa, không khí, nước và đất
- Kết hợp và tan rã do yêu và ghét.
- Vận động chỉ trong không gian và tuần hoàn.
- Mầm mống «thích nghi sinh tồn» và «đào thải tư nhiên» trong lối giải thích cơ cấu của vật thể.
Démocrite:
- Vạn vật, hệ nguyên tử kết hợp do trọng lượng
- Vật chất liên kết với vận động
- Tinh thần cũng do nguyên tử tinh vi
- Tri thức là phản ánh của thực tế khách quan nhưng chưa triệt để: ý kiến 2 loại
- Nguyên tử là hình thái cuối cùng
- Triệt để chống tôn giáo
- Démocrite phủ nhận giá trị của cảm giác - thuyết nguyên tử.
[Quan niệm đồng loạt và hạn chế giới hạn của vũ trụ quan tư sản
- Tác dụng kinh nghiệm tiền tệ
- Vạn vật đều là một khối lượng đơn vị
- Đi đến một giới hạn «nguyên» nào đó sẽ không có sự phân chia nữa.
Nó bắt nguồn từ kinh nghiệm sản xuất: tất cả mọi vật đều do những bộ phận nhỏ lắp lại với nhau, nhưng tư sản hạn chế kinh nghiệm này ở chỗ làm mất Chất của vạn vật]
Ghi chú thêm về
VĂN MINH VÀ TRIẾT HỌC HY LẠP
- Sở dĩ tư tưởng Triết học duy tâm duy lý của Hy Lạp là một bước gián đoạn với tư tưởng Đông phương, vì mặc dù bóc lột nhưng ở Đông phương nó chưa thành tư tưởng
Triết học mà duy vật và duy tâm lẫn lộn trong tôn giáo. Căn bản tôn
giáo có cả duy vật (quan hệ mua chuộc, tiền tệ - trắng trợn khát máu -
động cơ - tác phong), nó duy tâm ở chỗ mơ hồ huyền bí hóa quan hệ duy
vật đó. Tới Hy Lạp, yếu tố duy vật (không biện chứng) đó bị quét sạch
nhờ trình độ xã hội cao hơn (Đông phương: dân tự do cũng là một thứ nô
lệ của nhà vua; Hy Lạp: thứ dân tương
đối dân chủ) nên bớt quan hệ mua chuộc, khát máu mà tiến lên hình thái
triết học. Vĩ đại nhất là Platon và bắt đầu là Parménide, Xénophane...
Các ông đặt khái niệm và tính chất khái niệm làm thực tế tuyệt đối (sự
vật có thể thay đổi nhưng khái niệm vẫn còn). Một vài nhà triết học đã có ý phổ biến cho cả nô lệ nữa (dân chủ trong thứ dân đã cạn) .
- Sự phát triển của tư tưởng
tự do Hy Lạp nhờ tính chất tiến bộ đó của xã hội. Sau này các xã hội có
một trình độ duy lý cao, nhưng chưa thực hiện được tự do vì tính chất
dân chủ ở một số nước thấp hơn. Nhưng ta chú ý nó có triển vọng phát
triển ra, sâu và rộng rãi hơn (Trung Cổ tới thế kỷ IX đã tiếp thu được
trình độ khoa học Hy Lạp, và thế kỷ thứ XII - XIII đã tiếp thu được toàn
bộ lý thuyết Hy Lạp), vì ở Hy Lạp dân chủ chỉ ở trong chủ nô, nô lệ
không được hưởng, thành phần tư sản
chủ yếu là bóc lột, trái lại sau này mức dân chủ thấp nhưng nó có khả
năng phổ biến rộng rãi (toàn thể bình dân), và nông nô khi trốn ra tỉnh
đã biến thành dân tự do và thị dân nói chung, cả tư sản đều có lao động. Và như ở thế kỷ XVII, trong xã hội có sự đấu tranh cho tự do, đó cũng là biểu hiện của tự do.
-
Sự xuất hiện của duy tâm cũng là một sự sáng tạo ít hay nhiều. Một giai
cấp suy tàn không có sáng tạo mà chỉ trở lại cái đã có. Parménide lần
đầu tiên đặt quy luật của luân lý hình thức «có là có, không là không» -
đồng nhất, và bất mâu thuẫn) nó cũng biểu hiện một sinh lực nào. Đó là
nhờ quí tộc tiếp thu được tư tưởng tư sản
và chủ yếu là khoa học (căn bản của khoa học là luận lý). Sở dĩ như thế
vì ở đây quí tộc còn có vai trò tiến bộ: khai thác đất mới (khác quí
tộc Sparte hoàn toàn phản động) và phần nào phát triển công thương (quí
tộc bán tư sản). Trong cuộc chiến đấu tư sản - quí tộc, quí tộc là phản động nhưng nó qua Nam Ý, một xã hội còn lạc hậu (thị tộc), thì vai trò của nó là tiến bộ tương đối - truyền bá văn minh. Công trình của nó là đã khái niệm, tư tưởng
hóa mê tín. Nó không đưa ra những giải thích thêm thánh thần bằng thần
thoại, mà đã đi đến những khái niệm (Pythagore: toán học - Parménide:
luận lý hình thức).
(So
sánh sự kiện này với Việt Nam không được, vì bấy giờ ở bước tiến từ thị
tộc qua nô lệ là tất nhiên, và dưới thị tộc không xâm lược vì chưa có
dân tộc. Thực ra tính dân tộc hình thành suốt nô lệ, phong kiến, tới tư bản
chủ nghĩa mới trưởng thành. Vấn đề xâm lược chỉ đặt ra khi đã có mầm
mống, cơ sở và tiền đồ phát triển thành dân tộc: địa lý, kinh tế, xã
hội, văn hóa, v. v...; xâm lược mới chỉ là dẫn đề khi xét nó trong khối
dân tộc Việt Nam, nếu tách riêng không thành vấn đề).
Nô lệ không có triển vọng tiến lên thống trị vì không có triết học, không có hệ tư tưởng. Tư tưởng hệ là một triển vọng về tương lai. Nông dân phải xét trong tư tưởng, và lúc tư sản
phát triển nó cũng có ảnh hưởng vươn lên, nhưng không có thể thành hệ
thống được. Vì nó luôn phải dựa vào giai cấp khác (một minh quân mầm
mống hay giai cấp tư sản), nên tư tưởng của nó bao giờ cũng nằm trong giới hạn của phương thức hệ phong kiến hay tư sản, dù nó có những đặc tính của nó.
3 - Những triết gia tranh biện
Gồm những cá nhân không tập hợp có xu hướng tương
tự. Nó phát triển đồng thời với Anaxagore (hạ bán thế kỷ V tr. CN).
Người ta gọi là Sophisme (Hiền nhân), những người này có thể gọi là làm nghề triết học,
đi dạy con em nhà giàu và nói ở các diễn đàn, dạy ăn, ở, sống, nói cho
hay, v. v.. (một kiểu kẻ sĩ ở chế độ dân chủ thành thị).
Tư tưởng và phương pháp họ rất phức tạp nhưng có hướng chung:
Có sự cạnh tranh: tranh luận để tranh giành khám phá – xu hướng này dẫn tới Ngụy biện.
Các nhà sophisme chủ trương nhân văn ra khỏi giới hạn hẹp hòi của thành thị. Tư tưởng đạo đức của họ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức cũ: «phục vụ quốc gia thành thị» mà bao trùm rộng lớn. Họ đề cao xã hội nói chung. Tính chất này do kinh tế đã phát triển tới hình thức quốc tế.
- Chia làm 2 phái già và trẻ, căn cứ vào thời gian. Phái già phần nào còn giới hạn trong đạo đức cũ, phái trẻ tương đối tiến bộ hơn, đả phá đạo đức cũ về 2 phương diện: phạm vi hẹp hòi; tư tưởng áp bức bóc lột.
- Lấy triết học làm nghề dạy đời.
- Nhân văn:
Đề cao loài người, đặc biệt là tổ chức xã hội và năng lực sản xuất.
Đề
cao đối với thiên nhiên và truyền thống tôn giáo. Lấy người làm giá trị
tuyệt đối (Protagoras: «thước đo lường mọi sự việc là người» - phản đối
mọi thứ thần thánh lý trí siêu nhiên). Platon cho là: «ai muốn nói gì
thì nói, không có gì là chân lý»; Protagoras: «Chúng ta cãi nhau, ghét
nhau trong xã hội, nhưng nếu bây giờ trở lại đời sống nguyên thủy ta sẽ
thấy ác nhất bây giờ con người dã man» (đề cao xã hội văn minh của loài
người). Xu hướng đề cao kỹ thuật sản xuất (Hippias biết đủ mọi nghề -
làm lấy áo, cày), kinh nghiệm nhân văn (Prodicos: «Mọi kiến thức đều do
kinh nghiệm», người có nhiều kinh nghiệm là người giỏi nhất).
Cuối
thế kỷ V tr. CN, sự đề cao giá trị nhân văn, xem con người là quý đi
đến một hướng tiến bộ: phản đối chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng chưa tới
khái niệm, lý luận.
Vì
tác phong tranh luận kiếm tiền, dần dần nó tiến tới xu hướng ngụy biện
phi nội dung, chỉ chú trọng vào phương pháp cãi cho hay, lý luận hùng
hồn - do tính chất nhân dân dân chủ - trau dồi lý luận, nhưng căn bản là
nhân dân, chủ nô nên đi đến tranh giành thính giả. Nguy biện.
Với khuynh hướng duy vật máy móc và nhân văn này ở Hy Lạp và chế độ dân chủ, đã đi đến một đỉnh cao nhất: vũ trụ quan tương
đối duy lý và nhân sinh quan nhân văn... đặt giá trị tuyệt đối của đời
sống trong xã hội văn minh. Nhưng cơ sở nhân văn này hẹp hòi vì:
- Dân chủ chỉ là chủ nô,
- Dân chủ hạn chế trong thành thị (Athènes quản trị rộng lớn nhưng chỉ dân chủ trong chủ nô Athènes thôi).
Vì
thế nó chỉ phát triển có giới hạn đến lúc gặp mâu thuẫn giữa chủ nô -
nô lệ, Athènes thành thị tùy thuộc và phát triển trong nét chung Athènes
và Sparte (chiến tranh Péloponèse biểu lộ mâu thuẫn của chế độ dân chủ
chủ nô thành thị, đánh dấu giới hạn của nó). Đến 404 tr. CN, Athènes
thua và từ bấy giờ phe quý tộc lại lên, chủ nghĩa duy tâm siêu hình lại
phát triển chống chủ nghĩa duy vật máy móc và xu hướng nhân văn chủ
nghĩa. Phái lên nắm chính quyền nhờ đội quân xâm lược là phái quý tộc
của Platon (vĩ đại nhất của duy tâm). Bấy giờ Platon còn trẻ chưa lãnh
đạo nhưng ở trong đội quân tinh nhuệ nhất của Athènes phản quốc [quí tộc
Athènes phản quốc mở thành cho quân Sparte, lên nắm chính quyền nhờ
quân đội xâm lược.]
(còn nữa)
Trần Đức Thảo
(Lịch sử Tư tưởng trước Marx, tr. 153-168)
Nguồn: Trần Đức Thảo. 1995. Lịch sử tư tưởng trước Marx. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội. Bản điện tử: http://amvc.free.fr
[1] Tài liệu [A]
[2] ???, những câu và từ mà người giới thiệu không đoán hiểu được. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[3] In nhầm là biện chứng. Đã đổi lại trong bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[4] In là Dorius, có lẽ từ Dorieus (Hy Lạp), để chỉ dân Doriens (Pháp). Đã đổi lại trong toàn bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[5] In là Archecus, có lẽ để chỉ dân Achéens (Pháp). Đã đổi lại trong toàn bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[6] In là Archéens. Đã đổi lại là Achéens trong toàn bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[7] Aryens? (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[8] In là Bàlama, có thể là Bà La Môn. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[9] In nhầm là «Thế kỷ VII - thế kỷ IX tr. CN». Đã sửa lại trong bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[10] Từ quy chiếu về vòm thánh đường, hình cung nhọn.
[11] In nhầm là Thalis (Hy Lạp: Thalês) để chỉ Thalès de Milet , khoảng 625-547 tr. CN). Đã đổi lại trong bài. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[12] Theognis de Mégare, khoảng hậu bán thế kỷ thứ VI tr. CN. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[13] Hésiode, khoảng thế kỷ thứ VIII tr. CN. (chú thích của Phạm Trọng Luật).
[14] Alcée de Mytilène, khoảng 630-580 tr. CN. (chú thích của Phạm Trọng Luật).
[15] In là Patri, có lẽ do đọc nhầm từ Perse. (chú thích của Phạm Trọng Luật)
[16] Tức là ngây thơ. (chú thích của người biên tập)
[17] In nhầm là «homéonaeries», đã đổi trong bài. «Homoeoméries» đến từ từ Hy Lạp là «homoiomereiai». (chú thích của Phạm Trọng Luật)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét