Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 31
Bataille, Georges: Trong lịch sử
triết học, đôi khi người ta phân biệt nhà
triết học với nhà thần học, triết gia nhà
nghê với triết gia dân tộc, và có thể những nhà
triết học trong dòng chính với những nhà biên
khảo, hay ngoại vi. Bataille có thể xếp trong hàng
ngũ thứ hai này vì ông không thực sự theo ngành
triết tại đại học, song học triết
với triết gia lưu vong Lev Shetov, dự những
hội luận của Alexandre Kojève (dẫn ông vào việc
nghiên cứu Hegel), và Alexandre Koyré, mặt khác ở trong
truyền thống nhà văn Pháp. Khi khảo về Nietzsche,
Bataille coi Nietzsche như một nhà văn hơn là nhà
triết học. Bản thân ông tự coi không là một
triết gia, song là một ông thánh, hay một người
khùng.
Bataille sinh
năm 1897, theo học ở Ecole des Chartes (1917-1922) và Ecole
des Hautes Etudes Hispaniques và làm quản thủ thư viện
từ năm 1924. Ông sáng lập tạp chí Critique vào
năm 1946, tạp chí Acéphale (1936-7) và tam đầu
chế thành lập Collège de Sociologie (với Leiris và
Caillois) vào 1937 (tuy chỉ tồn tại hai năm 1937-1939),
với nhiều diễn giả nổi tiếng như
Kojève, Klossowski, Rougemont, Hans Mayer, Paulhan, Wahl, Landsberg v.v.. với
mục tiêu, như Bataille đề ra là “không phải chính
trị, nhưng chưa hẳn là văn chương.
Chủ trương triệt để chống phát-xít,
căm thù thống trị tư sản, cũng không thể
tin cậy cộng sản.”
Trong bài
thuyết trình mở đầu, Georges Bataille nói về xã
hội học thiêng liêng và những quan hệ giữa “xã
hội”, “cơ thể” và “hữu thể”, khai triển
những nhận xét tổng quát thuộc siêu hình, hữu
thể luận về bản nhiên của xã hội. Ông
giải thích rõ hơn về xã hội học thiêng liêng
không đơn giản là một phần của xã hội
học như thể xã hội học tôn giáo, nhưng là
nghiên cứu không những về những định
chế tôn giáo mà toàn bộ vận động cộng
đồng của xã hội. Xã hội học này có
đối tượng là quyền lực và quân
đội, cũng như xét mọi sinh hoạt con
người, như khoa học, nghệ thuật và kỹ
thuật, vì những sinh hoạt này có một giá trị công
chung, nghĩa là những tạo vật thống nhất. Xã
hội như vậy là một hữu tổ hợp; ông
phân biệt cộng đồng tuyển chọn với
cộng đồng truyền thống.
Trong Théorie
de la religion (xuất bản năm 1973, sau khi ông qua
đời vào 1962) tiếp nối những suy nghĩ
về xã hội thiêng liêng của bài thuyết trình nói trên, như
luận về hy sinh, lễ hội và thế giới thiêng
liêng. Ông xác định vị trí của một thái
độ tôn giáo rút ra tự ý thức trong sáng, và có thể
ngoại trừ, nếu không phải hình thái mê cuồng
của tôn giáo thì ít ra cũng là hình thái huyền bí của
nó, triệt để khu biệt khỏi những toan tính
dung hợp làm cho tinh thần xao xuyến nhằm cứu
chữa thế yếu của những quan điểm tôn
giáo đương đại.
L'expérience
intérieure/ kinh nghiệm nội ẩn tập 1 trong bộ La
Somme athéologique (Sách tổng luận phi thần học)
(kinh nghiệm Bataille dùng ở đây với từ intérieure
không phải interne; expérience interne dể chỉ
hoạt động của ý thức, đối lập
với expérience externe là hoạt động của tri
giác; nhan đề toàn bộ là sách tổng luận phi
thần học là một lối chơi chữ, để
phân biệt với tổng luận thần học của
Thomas d'Aquin). Tác phẩm này viết vào năm 1943, chịu
ảnh hưởng của Nietzsche sâu đậm vì sau
năm 1915, Bataille quay lại đạo (vì ân hận đã để
thân phụ mù lòa và bị bệnh giang mai rơi vào tay
người Đức), nhưng chính tư tưởng
Nietzsche “cứu ông ra khỏi khủng hoảng” vào năm
hai mươi ba tuổi, và ông là người bài bác
những kết án gán Nietzsche với chế độ
Quốc xã. Tập I Sách tổng luận phi thần
học gồm Kinh nghiệm nội ẩn, Kẻ
phạm tội, Viết về Nietzsche (Bộ V & VI trong
Toàn tập 1971-88, 12 quyển). Bataille viết: “người
đồng hành của tôi trên trái đất này là Nietzsche...Cuộc
đời của tôi với Nietzsche như thể một
bạn đồng hành là một cộng đồng” và giúp
ông quay lại chống tôn giáo. Bataille khẳng định
quyển sách ông viết như truyển kể một
thất vọng, thế giới này cho con người
cũng đồng thời là một ẩn ngữ
giải đáp. Kinh nghiệm mà ông muốn “thông giao”
khởi từ tinh thần vận chuyển trong một
thế giới lạ gồm có nỗi lo âu và ngây ngất
(l'angoisse et l'extase). Thất vọng, phạm tội, lo âu,
ngây ngất là những phạm trù của một triết
học hiện sinh, song Bataille không đi con
đường này. Cả cuộc đời ông nhằm
đi giải đáp ẩn ngữ, trong tiếng
cười và lý trí, khủng cụ và ánh sáng: phân tích cái
cười mở ra cho ông một trường trùng hợp
giữa những dữ kiện của một nhận
thức cảm xúc chung và nghiêm xác với những dữ
kiện của nhận thức suy lý. Những nội dung
lộn vào nhau của những hình thái tiêu mòn khác nhau, nhu
cười, anh hùng tính, ngây ngất, hy sinh , thơ, dâm cùng
nhiều thứ khác tự chúng xác định một quy
luật thông giao, quy định những trò chơi của
cô lập và thất lạc những hữu. Bataille nhận
ra khả năng thống nhất vào một điểm
chính xác hai loại nhận thức tới nay vẫn
hoặc là xa lạ với nhau, hoặc trộn lộn
vụng bạo cho hữu thể luận này sự kiên
định không ngờ: toàn bộ vận động
của tư tưởng thất lạc, nhưng thấy
lại trong một điểm mà đám đông nhất
tề đều cười. Ẩn ngữ
được giải đáp ấy nằm trong phần
thứ hai cần thiết phải viết ra của tác
phẩm: Khổ hình/Le Supplice ở đó con người
đạt tới cực điểm của khả
hữu, những phần viết trước hay hài
kịch, vàø phần phụ bút đề ra thần học
huyền nhiệm mới.
Triết
học theo Bataille không bao giờ là khẩn nguyện,
nhưng không có khẩn nguyện, không có đáp ứng
khả niệm, không đáp ứng nào đi trước
vấn nạn, mà hỏi có ý nghĩa gì khi không có lo âu và hành
hạ.
Kinh
nghiệm nội ẩn, Kẻ phạm tội, Về
Nietzsche
gây nhức nhối cho những nhà hiện sinh như Sartre,
khi ông mệnh danh viết nghị luận như Bataille là
một loại nghị luận- tử
đạo/essai-martyre (Sartre chú thêm: hẳn tác giả
phải cho phép vì luôn nói đến vấn đề
khổ hình trong sách). Sartre phê phán Kinh nghiệm nội
ẩn như kiểu một Julien Benda duy lý cổ
hủ, khi cho là Bataille bỏ rơi cả cách nói lãnh
đạm của những tài hoa văn chương 1780
lẫn tinh thần khách quan cổ điển. Trong phản
bác Sartre, Bataille minh giải một kinh nghiệm phân sáp,
liên hệ tới một kế tục sinh
động ..và tới một trở lại với kế
tục này không để lại cho chúng ta bất kỳ ký
ức sáng sủa nào, mà chỉ trong những khai triển
khách quan, chúng ta mới đạt tới cốt lõi của
con người hiện hữu của chúng ta. Hiện
tượng luận của tinh thần phát
triển thủ đắc sự trùng hợp những
mặt chủ quan và khách quan, đồng thời cả
kết hợp chủ thể và khách thể, như yêu
cầu cơ bản của hiện tượng luận
Hegel, mà hiện tượng luận hiện đại thay
vì đáp ứng, chỉ là một lâu đài cát, một
ảo vọng giả hiệu.
Đọc
lại Hegel, dưới cái nhìn Bataille trong Critique des
fondements de la dialectique de Hegel/ phê phán cơ sở biện
chứng pháp của Hegel (in trên La Critique sociale
số 5, năm 1932; xem: Visions of Excess 1927-1939, bản
dịch Anh ngữ của Allan Stoekl) từ ảnh
hưởng bài viết của triết gia Đức
Nicolai Hartmann (xem: Hartmann, Nicolai) Hegel et le problème de la
dialectique du réel (dịch và in trên Revue de métaphysique et de
morale 1931), và Bataille nhận xét là có thể tìm thấy
những yếu tố của một phê bình chân tích
cực. Khi đi phân biệt những luận cứ
được chứng thực qua kinh nghiệm, xây
dựng trên thực tại với những luận cứ
chỉ có giá trị qua lời, chẳng hạn luận
đề hữu thể và hư vô, Hartmann nhận xét “trong
quá trình của một nghiên cứu như vậy, Luận
lý học của Hegel gây lên nỗi ngờ vực là, trong
đa phần, chỉ thuộc một phép biện chứng
thiếu cơ sở trong thực tại”. Những
luận đề biện chứng mà Hartmann chứng
thực, không phải ở những tác phẩm Luận
lý học hay Triết học tự nhiên của
Hegel mà từ Triết học về quyền, Triết
học lịch sử, Hiện tượng
luận tinh thần. Hartmann đưa ra ví dụ
đầu tiên minh chứng quan niệm của ông không
phải lấy từ hạt lúa hay hình thành địa
chất, nhưng trái lại từ chính đấu tranh giai
cấp. Ông dẫn tham chiếu nơi kinh nghiệm Mác-xít
khi viết: ảnh hưởng của biện chứng
'chủ/tớ’ dường như ít được
biết đến (bằng biện chứng khổ) song
hữu dụng hiện tại của nó thật lớn...lý
luận đấu tranh giai cấp Mác-xít ở đó mà ra.
Song Bataille cũng nhấn mạnh đến chỗ khác
biệt giữa hai quan niệm, một đằng Hartmann
nhận thức về mặt phương pháp cái gì do kinh
nghiệm sống đã cho, tức thuộc lĩnh vực
hậu nghiệm, một đằng như Engels chủ
yếu có tham vọng cho những quan niệm biện
chứng tính cách của những quy luật chung của
thiên nhiên, tức thuộc lĩnh vực tiên thiên.
Ngay từ
1932 khi Bataille viết tiểu luận này, đã cho thấy
ông đã đi trước nhiều người khác trong
phê phán sự thất bại hoàn toàn của người
đồng chí với Marx là Engels trong mưu toan chứng
minh có biện chứng trong lãnh vực tự nhiên; mặt
khác Hartmann đã nêu biện chứng chủ/nô trước
Alexandre Kojève (từng học Jaspers, người cùng thế
hệ Hartmann) trong triết học Hegel. Bataille đánh giá
việc xuất bản những kết quả tỉ
mỉ trong phân tích của Hartmann sẽ cung ứng những
yếu tố cho một công trình xác định đầy
chính xác. Phân tích này áp dụng thành công vào vô vàn phát triển
biện chứng tạo nên tác phẩm Hegel. Khởi từ
phương pháp của Hartmann, có thể khả thi phân tích
những luận đề đặt ra do những phát
triển mới đây trong khoa học.
Trong
tiểu luận La Notion de dépense/khái niệm tiêu dùng
năm 1933, Bataille sử dụng những cụm từ làm
chủ, nô lệ, sản phẩm, giải phóng là những
thuật ngữ của phép biện chứng chủ/nô, tuy
nhiên ngược lại với Hegel, người nô lệ
không làm chủ khi sản xuất ra sự vật. Kẻ
làm chủ gắn liền với tiêu thụ, xem như
cơ bản hơn là sản xuất ra những nhu yếu
phẩm cần thiết cho đời sống. Từ
thập niên 30 này, Bataille trong khi phân tích vai trò ông chủ và
nô lệ, đã nhìn ra trong vận động của xã
hội tiêu thụ, mà Baudrillard sau này đem phân tích trong xã hội
hậu công nghiệp vào thập niên 70.
Quan hệ
chủ/nô theo Bataille dẫn đến vấn đề
hủy hoại: Người chủ lập được
quyền lực dựa vào lương sản phẩm y có
thể hủy hoại (người nghèo chẳng có gì
để hủy hoại, nói như kiểu Mác-xít,
người vô sản chẳng có gì để mất ngoài
gông cùm đang mang), đôi khi còn là sở hữu (như nô
lệ của chủ) để bị hủy hoại. Ý
thức nhìn ra sự mù quáng ngu xuẩn của người
chủ, vì y không nhìn ra tầm quan trọng của những
gì y phá hoại. Khác biệt giữa vận động
biện chứng Hegel với Bataille ở chỗ quá trình
thăng hóa (Aufhebung) là người nô lệ gắn với
lao động và giải phóng, còn ở Bataille là chính
những hủy hoại. Người nô lệ trở thành
chủ để giải phóng sự hủy hoại. Quan
niệm đấu tranh giai cấp của Bataille ở
chỗ người nô lệ ý thức toàn diện là có
thể phá hủy, thích thú với những hủy hoại
để trở thành chủ, nghĩa là ý thức
được tất yếu xã hội và thể lý về
hủy triệt. Bataille cho rằng trong tương lai,
mọi tiêu dùng về mặt văn hóa, xã hội (chến
tranh, cách mạng), tình dục là sự nghiệp của
người nô lệ.
Triết
học Hegel còn xa lạ với học giới tại Pháp
do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy trí
dường như phục hoạt từ những hội
luận của Alexandre Koyré và Alexandre Kojève trong những
năm 1933-1939. Bataille là một trong số cử tọa
(trở thành những nhân vật nổi danh sau này, như
Raymond Queneau, Jacques Lacan, Raymond Aron, Eùric Weil, Roger Caillois,
Maurice Merleau-Ponty v.v...) của hội luận Kojève lý
giải Hiện tượng luận tinh thần
của Hegel, và thư của Bataille gửi Kojève hai ngày sau
cuộc diễn thuyết của ông này tại Collège [Lettre
à X., chargé d'un cours sur Hegel ngày 6 tháng 12 1937, in lại trong Le
Collège de Sociologie 1937-1939 do Denis Hollier trình bày x.b. 1979/1995]
tranh biện về hai mặt của hủy thể tính,
hành động (l'action, le “faire”) nói như Hegel là hủy thể
tính, vấn đề đặt ra là nếu hủy
thể tính của người “không có gì để làm”
biến mất hoặc tồn tại ở tình trạng “hủy
thể vô nghiệp/négativité sans emploi”. Bataille ngờ là “đời
sống của tôi, chỉ riêng đời sống thôi
cũng đủ phủ bác hệ thống đóng kín
của Hegel”. Như vậy có phải cá nhân ông chẳng có
gì đáng kể chăng? (chẳng hạn so cuộc
đời mình, có thể là tầm thường, so với
cuộc đời của những người danh
tiếng, đáng kể nhất, thì ở tột
đỉnh hiện sinh, có thể chẳng có gì hết ngoài
không đáng kể sao?) Cho đến cả nghệ
thuật (tác phẩm nghệ thuật), tôn giáo (tội
lỗi) cũng chẳng có đáp án cho câu hỏi này: như
khoảng không trên đỉnh hiện sinh, Bataille gọi là
hủy thể tính không có nội dung/négativité vide de contenu.
Hủy thể tính không nội dung này phải chăng
đối nghịch với nhận biết tri thức
tuyệt đối, tận cùng/cáo chung của lịch
sử? Cuối thư, Bataille giả định nếu
hiện tượng luận muốn có ý nghĩa, như
vậy Hegel phải được nhìn nhận như tác
giả, ở một mức độ nào đó ông vẫn
còn ở trong cảnh giới cầm thú/Tierreich.
Vẫn
trong dòng tư tưởng ấy, Bataille và bạn
đồng hành ở Collège de Sociologie là Roger Caillois đã
đưa ra hội luận về xã hội cầm thú và
từ đầu năm 1938, Bataille có những hội
luận về Attraction et répulsion/Hút và đẩy
như hướng động, tính dục, nụ
cười và nước mắt (tháng giêng 1938), cấu
trúc xã hội (tháng hai 1938), như Bataille nói: xét xem
liệu một khoa học về xã hội có khả
hữu phải trở lại vấn nạn cơ bản
với những thuật ngữ của Hegel mà Kojève đã
dùng để đặt vấn đề về những
cơ sở của khoa học xã hội. Xã hội học
như Bataille khẳng định ở đây không phải
là xã hội học tổng quát, xã hội học tôn giáo,
nhưng minh định là xã hội học thiêng
liêng/sociologie sacrée. Lãnh vực thiêng liêng, đối
tượng để nghiên cứu ở đây là thử
miêu tả những xã hội cầm thú như thể “tiền
thiêng liêng” và phân tích trong một hiện hữu hầu
như phàm tục, “hậu thiêng liêng”; thiêng liêng là chủ
đề chung của Bataille, Leiris, Caillois trong giai
đoạn này [triết gia Ý Giorgio Agamben vào
cuối-thế-kỷ trở lại chủ đề này;
xem: Agamben - sacré/sacer là một đối vật mâu
thuẫn, mang ý nghĩa thánh thiện và đáng bị
nguyền rủa]. Trong phần luận về cấu trúc xã
hội, Bataille xác định vấn đề “vô thức”
ở ngoài tầm miêu tả hiện tượng luận
[hiểu theo cả hai nghĩa thuộc Hegel và Husserl] và
chỉ có những phương pháp thuộc lãnh vực khoa
học, như xã hội học giới nguyên thủy và phân
tâm học mới đạt được.
La part
maudite/chia phần nguyền rủa (chỉ có phần
đầu xuất bản năm 1949 vào lúc sinh thời,
Bataille mất năm 1962; phần hai và ba xuất bản vào
năm 1967) như tập đại thành những tư
tưởng đã trình bày trong giai đoạn Collège de
Sociologie, mà Bataille mệnh danh là biện luận về kinh
tế học tổng quát. Trong kinh tế chính trị
học này, ông xác định đối tượng chính là
vấn đề 'tiêu thụ' của cải hơn là
vấn đề sản xuất. Tại sao là chia phần
nguyền rủa? Bataille giải thích, trong những
điều kiện hiện tại, mọi sự như
đồng lõa che khuất vận động cơ bản
nhằm tái lập những chức năng của cải,
song một mặt chiến tranh cơ chế tạo ra
những phá hoại khiến vận động này trở
thành tha hóa, thù nghịch với ý chí con người, mặt
khác việc nâng cao tiêu chuẩn sống của con
người không biểu hiện như yêu cầu của
xa xỉ, nhưng chính là chống lại xa xỉ nhân danh
công lý. Nhưng nó đã che dấu cái tương phản,
cái chân lý sâu xa ấy chính là tự do. Một sự
nguyền rủa đè nặng lên đời sống con
người, song cất được lời nguyền
này phụ thuộc vào con người và chỉ nơi con
người. Trong dự kiến này, Bataille nhận ra
chỉ có tự thức con người hoàn tất mới
khả dĩ giúp cho con người tiếp cận chân lý.
Những
quy luật kinh tế (như sự dư thừa quá
độ của năng lực sinh hóa và phát triển,
sức ép tạo bành trướng, xa xỉ của tự
nhiên, tiêu biểu như chủng loại này ăn thịt
chủng loại khác, chết và tái sản xuất qua tình
dục, bành trướng qua lao động và khoa học
kỹ thuật), phân tích những dữ kiện lịch
sử từ xã hội tiêu thụ, đến những xã
hội thiên về binh bị và tín ngưỡng, xã hội
công nghiệp, lịch sử về tính dâm trong quan hệ tương
phản với phản tư vũ trụ qua tinh thần,
vấn đề loạn luân, vấn đề chủ
quyền, xét đến vấn đề quyền lực
trong xã hội phong kiến, xã hội cộng sản, tính
nhân bản bất bình đẳng nơi con người
đã mở rộng tầm nghiên cứu vào những
lĩnh vực phân tâm học, nhân học, mở ra những
triển vọng khai phá rõ ràng ảnh hưởng
đến thế hệ trí thức kế tiếp như
Foucault, Derrida, Baudrillard, Agamben v.v...cho nên có học giả
xếp ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng
hậu hiện đại.
Georges
Bataille thực ra có thể xếp vào truyền thống
những triết gia Pháp lang thang như Descartes, Jean-Jacques
Rousseau, philosophus vagans. Tư tưởng độc đáo
của ông là xem “đối tượng của cái
cười là tư tưởng”, “cười là
đặt tư duy vào chỗ chết”, cho nên trong phần
viết về Hegel của Kinh nghiệm nội ẩn,
Bataille viết: tri thức tuyệt đối, vòng vo là
phi-tri thức tối hậu (le savoir absolu, circulaire, est non-savoir
définitif). Cái phản lý, những nan đề trong một
tư tưởng đi giây giữa Hegel và Nietzsche, cái
viễn kiến của nhà văn nơi chương chót
của La part maudite “muốn bền bỉ lăn
tảng đá của Sisyphe, mở ra một triển
vọng khác nếu có thể “song không quên nhìn điều
chính: quyền lực chẳng là gì hết”.
Tác phẩm
của Georges Bataille đã được in thành toàn tập
12 quyển, từ q.1-q. 4 gồm những tiểu thuyết
(kể cả dưới tên giả như Pierre Angélique khi cho
xuất bản Madame Edwarda) thơ (những bài thơ
dâm như Je mets mon vit), q.5-10 gồm những tác
phẩm lý luận, q.11-12 gồm những bài viết
1944-1961.
Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 32
Barthes, Roland: Barthes sinh năm 1915
ở Cherbourg (Pháp) là một nhà phê bình văn học, lý
luận gia văn hóa và nổi tiếng là người khai
phá ký hiệu học. Có thể xem ông là nhà tiền phong
của khoa phê bình văn học mới, chống lại
lối phê bình truyền thống. Về mặt này, ông
chịu ảnh hưởng của trường phái
ngữ học cấu trúc khởi từ Ferdinand de Saussure và
Louis Hjelmslev song áp dụng rộng rãi vào lãnh vực xã
hội. Tác phẫm Huyền thuyết luận/Mythologies
xuất bản năm 1957 mà Barthes ghi nhận hai xác
định: phê phán hệ tư tưởng về ngôn
ngữ của văn hóa gọi là quần chúng và tháo gỡ
ký hiện học ngôn ngữ này từ ảnh hưởng
việc đọc Saussure giúp ông xác tín là “khảo những
biểu tượng tập thể như những hệ
thống ký hiệu” ngõ hầu ra khỏi tuyên cáo kính tín mà
xét tỉ mỉ đến “việc thần bí hóa làm
biến đổi văn hóa tiểu tư sản thành
bản chất phổ quát”. Những bản văn ngắn
viết trong vòng hai năm từ 1954 đến 1956 theo
thời sự phản ảnh những huyền thuyết
trong đời sống hàng ngày (từ một bài báo, một
tấm ảnh trên tờ tuần báo, một phim
điện ảnh, một cảnh tượng, lẫn
lộn giữa Tư nhiên và lịch sử. Khái niệm
huyền thuyết khởi từ những hiển nhiên sai
lạc này, và Barthes nhận ra huyền thuyết là ngôn
ngữ.
Barthes
khởi sự viết những bài đầu tiên in trên
tạp chí sinh viện Existences như “Essai sur la culture” 1942,
Réflexions sur le style de L'Etranger'[tiểu thuyết của
Albet Camus] 1944; bài viết quan trọng 'Le degré zéro de
l'écriture' in trên tạp chí Combat của Camus vào năm 1947 theo
Barthes là một phần của tác phẩm Le degré zéro de
l'écriture 1953 (tập hợp những bài viết khác
cũg đã in trên Combat (như 'Triomphe et rupture de l'écriture
bourgeoise' 1947, 'L'artisanat de style', 'L'écriture et le silence'
'L'écriture et la parole' 1950). Trong tác phẩm này, Barthes nhận
xét 'cũng như toàn bộ nghệ thuật hiện
đại, văn tự văn chương vừa mang tha
hóa của Lịch sử và giấc mộng của Lịch
sử…Văn chương trở thành nơi
không tưởng của ngôn ngữ'.
Sau
những tác phẩm Michelet par lui-même 1954 với phong
cách viết sử dụng lại viết về chính mình Roland
Barthes par Roland Barthes 1975, Mythologies 1957, Sur Racine 1963,
tiểu luận khoảng trăm trang 'Eléments de sémiologie'
trên tạp chí Communications 1964 (in chung với Le degré zéro de
l'écriture năm 1965 và in lại trong L'aventure sémiologique
năm 1985, sau khi ông qua đời vào tháng 3 năm 1980 vì tai
nạn xe hơi) nhằm thông diễn những điều
cần phải làm rõ nghĩa trong Le degré zéo de l'écriture
như ở đầu Dẫn nhập “có thể vẽ ra
một lịch sử của ngôn ngữ văn
chương không phải là lịch sử của ngôn
ngữ, cũng không phải lịch sử của văn
cách, nhưng chỉ là lịch sử của những
dấu chỉ/ký hiệu của Văn chương, và người
ta có thể tính trước được là lịch
sử hình thức này thể hiện mối liên lạc
với Lịch sử thâm áo, không kém phần rõ ràng theo
lối của nó”; trong Cuộc phiêu lưu ký hiệu
học ông bầy tỏ ý định thực hiện
cuộc phiêu lưu khoa học này nhằm để tố
cáo những huyền thuyết tiểu tư sản, sử
dụng khoa học ký hiệu này nhằm tự phát
triển về mặt khoa học, đó là khoa ký hiệu
học phân tích tinh tế những quá trình ý nghĩa nhờ
đó giới tư sản chuyển văn hóa lịch
sử của giai cấp sang tự nhiên phổ quát, ký
hiệu học này với đề cương và những
nhiệm vụ của nó như phương pháp luận
cơ bản để phê phán hệ tư tưởng. Cuộc
phiêu lưu ký hiệu học đối với Barthes có
một lý căn bản là ký hiệu học cũng như
mọi khoa học nhân văn nhằm xét lại chính
diễn ngôn của nó, hỏi ở đâu đến,
cũng như xem ký hiệu học phải phê phán không
chỉ thiện ý thức tiểu tư sản, đó chính
là hệ thống tượng trưng và ngữ nghĩa
trong toàn bộ văn minh của chúng ta.
Cho nên ông
đánh giá cao tác phẩm ngữ học của Benveniste
đã xây dựng về mặt khoa học sự
đồng nhất của chủ thể (hiểu theo
nghĩa triết học) và ngôn ngữ, vị trí cốt lõi
của nghiện cứu hiện tại về cả hai
lãnh vực triết học và văn chương.
Mười lăm năm sau Mythologies ông nhận xét
khoa học về ngữ thái quả thực định
vị trong lao động của thời đại,
mục tiêu chính là phân liệt/dislocation, mang lại cho
huyền thuyết học hiện đại một
điều chỉnh, không những đảo ngược
thông điệp huyền thuyết đặt nó đúng
vị trí mà còn phải biến đổi chính đối
tượng, tạo ra một đối tượng
mới, khởi điểm của một khoa học
mới. Trong bài giảng mở đầu cho môn Ký hiệu
học văn chương ỏ Collège de France của ông
(xem: Leçon 1977), Barthes xác định ký hiệu học
của ông sinh ra từ một bất dung cho hỗn tạp
giữa ngụy tín và thiện tín của đạo lý chung.
Ngôn ngữ vận động bởi quyền lực;
mặt khác nó bị chuyển vị mang màu sắc khác mà
vẫn giữ cùng đối tượng, đó là chính
trị. Quan hệ giữa ký hiệu học với bản
văn theo Barthes là bản văn xuất hiện như chỉ
dấu của giải quyền lực và quan hệ
giữa văn chương với ký hiệu học là
biến hoá để hiệu chính lẫn nhau. Ký hiệu
học có cả hai mặt tiêu cực và tích cực, không
chỉ dựa trên quán tính của ký hiệu, hay hủy
triệt ký hiệu, mà hướng về ký
hiệu/sémiotropie; nhà ký hiệu học như một
nghệ nhân biết thưởnbg ngoạn ký hiệu, ký
hiệu học không là thông diễn học, vẽ hơn là
đào bới, mang đến một cái gì đó/via di porre
hơn là lấy đi/via di levare.
Ngay
từ tác phẩm Sur Racine 1963 (gây tranh biện giữa
hai phe phê bình cổ điển và phê bình mới) ở
chương ba đặt vấn đề Lịch sử
hay Văn chương, Barthes nhận xét tranh luận
của thời đại ông về những quan hệ
giữa lịch sử và tác phẩm nghệ thuật
chỉ là một vấn đề cũ kể từ khi có
triết học về thời gian, đã được
giải quyết qua những triết học lập thành,
như Hegel, Taine, Marx. Trong tác phẩm Le degré zéro de
l'écriture ông duyệt xem những hình thức văn
tự tha hóa, từ diễn ngôn chính trị đến
lối sử dụng “bên lề văn chương” và
nhận xét mỗi lần nhà văn vạch ra một
phức hợp của chữ nghĩa, chính hiện hữu
của Văn chương lại đặt thành vấn
đề; trong bội phức của những văn
tự hiện đại trình ra con đường cùng lịch
sử của nó, của văn tự và của chính xã
hội. Barthes viết: trong cùng nỗ lực thoát ra của
ngôn ngữ văn chương, đây là một giải pháp
khác: sáng tạo ra một văn tự trắng. Ngôn ngữ
trung tính/Neutre: về mặt ngữ pháp, không đực/cái,
không hoạt động/thụ động, trung lập
v.v...trong giảng khóa 1978 ở Collège de France, với khái
niệm xét qua mọi lãnh vực ngữ pháp, luận lý,
triết học, hội họa, công pháp quốc tế v.v...,
luận về Kairos của biện giả và hoài nghi
luận, đến Ngộ/Satori của thiền
Nhật, đến Vô vi của Đạo giáo.
Những
tác phẩm chính của Roland Barthes: Le degré zéro de l'écriture
1953, Michelet par lui même 1954, Mythologies 1957, Sur Racine 1964, Essais
critiques 1964, Systèmes de la mode 1967, S/Z 1970, L'Empire des signes 1970, Sade,
Fourier, Loyola 1971, Le Plaisir du texte 1973, R. Barthes par R. Barthes 1975,
Fragments d'un discours amoureux 1977, Leçon 1978, Sollers, écrivain 1979, La
chambre claire 1980, Le grain de la voix 1981, L'obvie et l'obtus 1982, Le
bruissement de la langue 1984, L'aventure sémiologique 1985, Incidents 1987.
Blanchot,
Maurice
: Blanchot sinh năm 1907, có một đời sống nổi
tiếng là ẩn mật, sống ở Devrouze, vùng Saône et
Loire, theo học triết ở Strasbourg, bạn với
Emmanuel Levinas và G. Batalle. Từ 1930 Blanchot hoạt
động trong lãnh vực báo chí, cộng tác với báo cánh
hữu và cánh tả như Journal des débats, Aux Ecoutes. Sau
Thế chiến Hai, ông viêt thường xuyên cho tạp chí
Nouvelle Revue Française trong những năm 1953-1968 và những
bài viết này thu tập lại ở những sách xuất
bản. Tuy cộng tác với báo chí, song ông lui về
sống như ẩn dật ở làng Eze, miền Nam
nước Pháp. Ông mất năm 2003 tại Le Mesnil-Saint
Denys, Yevelines, thọ 96 tuổi.
Tiểu
luận đầu tiên của ông về François Mauriac et
ceux qui étaient perdus trên La Revue Française năm 1931, về
văn chương từ 1938 trở đi, như Lautréamont
trên La Revue Française năm 1940, L'Enigme du roman, Roman et poésie,
Roman et morale,La critique d'Albert Thibaudet, La Solitude de Péguy, L'Art du
roman chez Balzac, Leon-Paul Fargue et la création poétique, Le Secret de
Melville, La Pensée d'Alain, Goethe et Eckermann, Bergson et le
symbolisme v.v.. trên Journal des débats từ năm 1941 trở
đi. Tuy nhiên những tiểu luận quan trọng trên
tạp chí này viết về Mallarmé như La Poésie de Mallarmé
est-elle obscure ?, Le Silence de Mallarmé năm 1942, Mallarmé et
l'arc du roman năm 1943; về Kafka như La Lecture
de Kafka trên L'Arche 1945, Kafka et la littérature trên
Cahiers de la Pléiade năm 1949, Kafka et l'exigence de l'oeuvre
trên Critique năm 1952.
Quyển
truyện đầu tiên Thomas l'Obcur xuất bản
năm 1941, sách lý luận Comment la littérature est-elle
possible? xuất bản năm 1942. Quyển sách sau cùng
xuất bản khi ông còn sống là Une voix venue d'ailleurs
năm 2002.
Blanchot
cũng như Bataille là những nhà văn ở ngoài dòng
chính triết học, về mặt văn chương
như những người tiền phong của tiểu
thuyết mới, Tel Quel. Nếu Sartre với lối phê bình
kiểu Julien Benda cổ điển gọi Bataille là nhà
thần bí mới, khi đọc Aminadab (truyện
của Blanchot xuất bản năm 1942) đã xếp
truyện này vào loại huyễn hoặc (fantastique). Khi
dẫn một đoạn trong Comment la littérature est-elle
possible? của Blanchot nói về « đối với
một loại nhà văn, siêu hình học, tôn giáo và những
tình cảm giữ vị trí của kỹ thuật và ngôn
ngữ », Sartre cho là lời trách này có thể áp dụng cho
chính Blanchot, thật sự Sartre đã không hiểu xu
hướng hiện đại về lý luận văn
tự trung tính của Blanchot, ảnh hưởng tới
Jacques Derrida, Roger Laporte sau này.
Khi
viết về Bataille, dường như để
phản bác kiểu phê bình như Sartre, Blanchot nhấn
mạnh đến việc đọc phải xóa bỏ
những hình dung từ. Ông viết : Nói về một nhà
văn ngày nay như nói về một người đi vào
chỗ xuất thần, làm công trình phi tôn giáo, ca ngợi
phóng đãng, thay thế chủ nghĩa Ki tô bằng chủ
nghĩa Nietzsche và chủ nghĩa Nietzsche bằng chủ
nghĩa Ấn giáo, sau khi đã lượn qua chủ
nghĩa siêu thực... chính là làm cho tư tưởng
được chú ý và tạo ra một nhân vật giả
tưởng mà không mảy may quan tâm đến những
tế vi của chân lý.
Trong bài
tiểu luận La littérature et le droit à la mort/Văn
chương và quyền đến cái chết viết
năm 1947 (in lại trong De Kafka à Kafka năm 1981)
Blanchot viết : Văn chương bắt đầu vào lúc
văn chương trở thành một vấn nạn...Nhà
văn chỉ hiện thực qua tác phẩm, trước
khi có tác phẩm, không những y không biết y là ai, mà y
chẳng là gì cả. Hegel, theo Blanchot là người đã
cho nghệ thuật ý niệm cao nhất, từng nói là cá
nhân không thể biết mình là gì, khi không thực hành
đến chỗ hiện thực kỳ thành ;
dường như không thể xác định mục
đích công việc trước khi thực hành ; và như
vậy y phải ý thức trước tự thân hành
động toàn diện là hành động của y, nghĩa
là như mục đích. Blanchot viết : tác phẩm
được viết ra, cùng với tác phẩm nhà văn
ra đời.
Những
tác phẩm đã xuất bản của Blanchot từ Faux
Pas 1943 đến La Part du feu 1949, L'Espace littéraire
1955, Le Livre à venir 1959, Le Pas au-delà 1973 gồm
những bài viết để trả lời cho vấn
đề khả hữu hay phi khả hữu của
văn chương, những mâu thuẫn tất yếu ,
chủ yếu của văn chương là quyển sách («
quyển sách không có tác giả, bởi vì nó được
viết ra khởi từ biến đi rõ ràng của tác
giả ; quyển sách cần nhà văn, như thể y
vừa vắng mặt và sở cứ của vắng
mặt ») . Tác phẩm L'Entretien infini/Cuộc đàm
thoại vô tận xuất bản năm 1969 cũng
như L'Ecriture de désastre xuất bản năm 1980
tập hợp tư tưởng triết học văn
chương qua những tiểu luận đã in trên các
tạp chí.
Những
chủ điểm chính của Blanchot là Ngôn từ đa
điệu/parole plurielle (nghĩ đến lời thần
Apollon qua miệng nhà thơ Bacchylide nói với Admète :
ngươi chỉ là một phàm nhân phải chết,
cũng như tinh thần nhà ngươi phải nuôi
dưỡng cùng lúc hai tư tưởng, Blanchot luận nói
nhiều lời trong một trật đồng thời
của ngôn ngữ), đến kinh nghiệm-giới
hạn qua những tác phẩm của nhiều tác giả
đương đại, chẳng hạn viết về
Héraclite U minh qua Héraclite ou l'homme entre les choses et les mots
của Clémence Ramnoux, về tư tưởng bi thảm qua
Le dieu caché của Lucien Goldmann về Pascal, những
phản tư về chủ nghĩa hư vô qua những
sách viết về Nietzsche như Heidegger, Lukács, Jean Granier
v.v..., ngôn từ từng đoạn/parole fragmentaire,
đến khẳng quyết và đam mê trong tư
tưởng tiêu cực qua Bataille, luận về quyển
sách.
Sự
vắng mặt của quyển sách như trong phần ba
của L'Entretien infini với hai khái niệm : trung tính
và phân đoạn. Trung tính trong tư tưởng Blanchot
biểu hiện năng lục tư duy về tha thể,
bên ngoài tính thống nhất và toàn thể, bên ngoài hữu
thể, chủ yếu là phân tán, sức mạnh của gián
đoạn, khu biệt và phức thể, loại trừ
mọi khẳng định và phủ định. Blanchot
viết : trung tính là cái gì mang khu biệt/différence đến
tận chỗ trung lập/indifférence, hay đúng hơn không
để trung lập đến chỗ bình đẳng
nhất định của nó. Blanchot tìm thấy tư
tưởng trung tính trong thơ René Char, như khi hỏi :
Làm sao sống không lạ trước bản ngã? Ngôn từ
phân đoạn chỉ ra kết hợp trung tính với phân
đoạn. Phân đoạn như thể động
từ hàm ngụ vắng mặt : vỡ, ngắt như
ngôn tù khi dừng lại từng chặp không ngừng
sự chuyển biến, nhưng trái lại gây ra chuyển
biến trong sự vỡ thuộc về nó.
Blanchot
cũng viết : Những tư tưởng thực là
những tư tưởng từ khước, từ
khước tư tưởng tự nhiên, của trật
tự pháp lý hay kinh tế, đặt định như
thể bản tính thừ hai của sự tự phát
chỉ là một vận động của tập quán,
không đi tìm, không dự phòng, và muốn trở nên một
vận động của tự do. Tư tưởng
thực hỏi, và hỏi chính là tư duy trong khi ngừng
lại.
Là một
nhà văn, ông đã viết những 'tiểu thuyết' (và
chính ông sau đó gọi nhất quán là truyện/chuyện)
đồng điệu với tiểu thuyết của
Beckett, tiểu thuyết mới, nhóm Tel Quel. Là một nhà phê
bình văn học và triết học, trong suốt khoảng
năm mươi năm, ông phân tích và chỉ ra
hướng phê bình mới về Kafka, Sade, Hölderlin, Lautréamont,
Mallarmé, Rilke, Char, Louis-René des Forêts, Samuel Wood, Paul Celan,
Bataille, Beckett, Camus, Hegel, Nietzsche, Heidegger, Levinas , Foucault
v.v...Những phản tư của ông đồng hành trong
công việc viết như một sinh hoạt cập
nhật và tiếp cận với những sách vở
của người đương thời. Quan niệm
đến cái vô tận của văn chương có
thể tiêu biểu cho nhận thức văn chương
như một vô sở cứ/non-lieu, cái khác của
triết học theo Blanchot.
Trong
thập niên đầu của thế kỷ 21 này, nhiều
triết gia trẻ khai phá tư tưởng triết
học của Blanchot, như công trình của Olivier Harlingue :
Sans condition. Blanchot, la littérature, la philosophie 2009,
Eric Hoppenot : Blanchot et la philosophie 2010, đối
chiếu triết học Levinas với Blanchot như Arthur
Cools : Langage et subjectivité. Vers une approche du différend entre
Maurice Blanchot et Emmanuelle Levinas 2007, Eric Hoppenot et Alain Milon :
E. Levinas M. Blanchot, penser la différence 2007. Như Harlingue
nhận xét : Nơi Blanchot, nghĩ và viết ở ngoài
mọi quan hệ hay tạo ra để tư tưởng
và văn tự không duy nhất là vận động hình
thể của việc thành hình vài quan hệ hoặc
với một khách thể hay với một chủ
thể, đó là tham vọng hay ám ảnh xác định
tự tâm « đối thoại » của Blanchot với
triết học.
Ngoài tình
bạn thiết với Levinas và Bataille, ông và Michel Foucault
đã viết rất thâm tình về nhau ; xem : Michel Foucault, La
pensée du dehors 1986 và M. Blanchot : Michel Foucault tel que je
l'imagine 1986 ; J. Derrida đã lấy (tự) truyện
của Blanchot : L'instant de ma mort 1994 để viết Demeure
:Maurice Blanchot, Fiction et témoignage 1998.
Ngoài
những sách đã dẫn trên, những truyện khác
của Blanchot : L'Arrêt de mort 1948, Le Très-Haut 1948, Au moment
voulu 1951, Le Ressassement éternel 1952, Celui qui ne m'accompagnait pas 1953,
Le Dernier Homme 1957, L'Attente l'Oubli 1962, La Folie du jour 1973, L'instant
de ma mort 1994 ; khảo luận : Lautréamont et le roman 1947,
Lautréamont et Sade 1949, L'Amitié 1971, La Bête de Lascaux 1982, La Communauté
inavouable 1983, Après coup 1983, Le Dernier à parler 1984, Michel Foucault tel
que je l'imagine 1986, Henri Michaux ou le refus de l'enfermement 1999, Ecrits
politiques (1953-1993) 2008, La condition critiques : Articles (1945-1998)
2010.
Từ điển
triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 33
Benjamin,
Walter:
Benjamin sinh năm 1892 ở Berlin, theo học triết và
văn chương ở Freiburg im Breisgau từ 1912, Berlin
từ 1913, Munich từ 1916, Berne 1917-18. Luận án Der
Begriff der Kunstkritik in der deutschen Romantik/Khái niệm phê bình
luận trong chủ nghĩa lãng mạn Đức
đệ trình năm 1919, tuy nhiên luận án thứ hai Ursprung
des deutschen Trauerspiels/Nguồn gốc bi dị kịch
Đức (Benjamin phân biệt Tragödie với Trauerspiel
như thể một thể loại kịch mới
tự trị và chính đáng đối với sự
thống trị của bi kịch cổ điển: Tragödie/bi
kịch cổ Hy lạp chỉ tương ứng
với một thời khoảng lịch sử đặc
biệt, không là một thể loại mỹ học xuyên
sử, nghĩa là cuộc đấu tranh của con người
cho tự do thoát khỏi nô lệ vào những lực lượng
tiền sử, còn Trauerspiel/bi dị kịch phát
xuất từ thời đại barock, có nội dung là
lịch sử, là lực lượng sơ bản của
tự nhiên trong dòng sự biến lịch sử; cái đánh
động nó không phải là xung đột bi thảm nhưng
là diễn trò của sầu khổ, của tang chế.
Thế giới của Trauerspiel là thế giới đặc
thù, mang tầm vóc lớn và bình đẳng khi sinh ra
chống lại bi kịch; xem: Trauerspiel und Tragödie và Die
Bedeutung der Sprache in Trauerspiel und Tragödie trong Gesammelte
Schriften. Bd II-1) nhằm để được
tuyển dạy đại học vào năm 1925 bị
từ chối và Benjamin quyết định từ bỏ
dự tính này, để sống trong hoạt động
văn hóa. Ông từng được Institude for Social Research
bảo trợ, thường liên lạc với Collège de
Sociologie của G. Bataille, chính trong mối liên hệ với
nước Pháp đã giúp ông có cảm hứng thực
hiện hai công trình: một là viết về Charles
Baudelaire. Ein lyriker im Zeitalter des Hochkapitalismus/CB, một nhà
thơ trữ tình trong chủ nghĩa tư bản tột
thịnh, hai là nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc
qua những hành lang ở Paris trong dự án chưa hoàn
tất Das Passagen-Werk.
Hai
công trình kể trên phối hợp với nhau vì thực
sự ba bài viết của quyển sách về Baudelaire
nằm trong dự án của quyển sách sau (mặc dầu
Benjamin đã chú ý đến phong cách kỳ dị trong gieo
vần Ác hoa của nhà thơ ngay từ những
năm 1914-15) như Paris thời Đế chế
đệ nhị nơi Baudelaire hay những đoạn
văn Zentralpark qua góc nhìn triết học lịch
sử của Benjamin.
Có
thể đối chiếu tiểu luận Paris thời
Đế chế đệ nhị nơi Baudelaire
với Paris, thủ đô của thế kỷ 19 trong
Das Passagen hay Những đề cương
về triết học lịch sử in trên tập san Neue
Rundschau năm 1940. Có hai phần trình bày dưới nhan
đề Paris, thủ đô nước Pháp năm 1935 và
1939. Benjamin lấy đề từ của tiểu luận
năm 1935 từ thơ của Nguyễn Trọng Hiệp,
trong phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp thương
thuyết vào thế kỷ 19: Nước trong xanh, cây
cỏ hồng, ráng chiều nhìn êm dịu ngọt ngào;
người ta đi tản bộ; những mệnh phụ
phu nhân đi trước, theo sau là đám nữ nhi
(mấy câu này lấy từ bài thơ 25, bản tiếng
Pháp tuyển tập thơ của Nguyễn Trọng
Hiệp Paris, capitale de la France: Recueil de vers [Hanoi, 1897]
[trong Passage de Walter Benjamin của Pierre Missac (mất
năm 1986, là người đã nhờ George Bataille
giới thiệu gặp gỡ Benjamin khi ông này tới Pháp
năm 1933) xuất bản năm 1987 chuyên khảo về Das
Passagen-Werk ở chương 3 Homo Scriptor đã
kể giai thoại là quyển thơ này do Gisèle Freund
đưa cho Benjamin xem, làm ông sửng sốt lấy làm
đề từ cho chương đầu sách dẫn
trên].
Điểm
chính yếu nhìn toàn bộ những bài viết của
Benjamin, người ta thường coi ông là một nhà phê
bình văn chương và mỹ học, hơn là một nhà
triết học. Tuy nhiên, khó có thể đánh giá rõ rệt,
vì ngoài lượng tác phẩm đã xuất bản, hoặc
in trên những tập san, khi mưu vượt qua biên
giới Pháp-Tây ban nha để trốn khỏi đe
dọa của Đức Quốc xã không thành, ông tự
tử tại đây năm 1940, còn một túi hành trang
bản thảo thất tung không tìm lại được. Cho
đến nay, tác phẩm của Benjamin đã
được in thành toàn bộ Gesammelte Schriften
gồm nhiều tập [dịch sang tiếng Pháp: Oeuvres
3 tập năm 2000 của Maurice de Gandillac, Rainer Rochlitz và
Pierre Rusch; Oeuvres I, Mythe et violence, II Poésie et révolution
năm 1971 của Maurice de Gandillac; Correspondance năm
1979 của Guy Petitdemange; Origine du drame baroque allemand
năm 2000 của Sibylle Muller; Le Concept de critique d'art dans le
romantisme allemand năm 1986 của Philippe Lacoue-Labarthe; Paris,
capitale du XIXè siècle. Le Livre des Passages năm 1989 của Jean
Lacoste; v.v...; dịch sang tiếng Anh : Selected Writings
năm 1996-99 do Mchael Jennings, H. Eiland và Gary Smith x.b.;The
Arcades Project năm 1999 của Howard Eiland và Kevin McLaughlin ;
The Complete Correspondence 1928-1940 năm 1999 của
Nicholas Walker v.v..]. Benjamin có nhiều bằng hữu tốt
như Adorno, Scholem, Tiedemann, Arendt v.v..trân quý những tác phẩm
của ông nên mặc dầu lúc sinh thời, Benjamin chỉ
có hai tác phẩm xuất bản, giờ đây thì
lượng văn in ra thật đồ sộ. Tuy nhiên
với nhiều tác giả lý giải công trình của ông,
vẫn có những tranh luận về điều, ông là nhà
văn hay triết gia, người Mác-xít hư hay thực,
dân Do thái triệt để hay vô sở trú, nhà biên khảo
thuần túy hay nhà thông thái cẩn trọng, tiên tri hay mơ
mộng...Chỉ kể vài ví dụ,như Bách khoa từ
điển triết học (ấn bản 1967, 1972 Paul
Edwards chủ biên) hay Philosophistes Wörterbuch (ấn bản
1961 Heinrich Schmidt chủ biên, Georgi Schischkoff x.b.) không
liệt kê tên Benjamin. Hannah Arendt trong phần dẫn
nhập Illuminations (do Harry Zohn dịch sang Anh ngữ,
và Arendt xuất bản) nhận xét Benjamin phân biệt
giữa nhà chú giải và nhà phê bình, và làm nhiệm vụ
của nhà phê bình văn chương vì như chính Benjamin
viết đoạn văn sau bằng tiếng Pháp xác
định : Le but que je m'avais proposé...c'est d'être considéré comme
le premier critique de la littérature allemande. La difficulté c'est que,
depuis plus de cinquante ans, la critique littéraire en Allemagne n'est plus
considérée comme un genre sérieux. Se faire une situation dans la critique,
cela...veut dire : la recréer comme genre [Mục đích tôi đã
đề nghị...đó là được xem như nhà phê
bình đầu tiên của văn học Đức. Cái khó
khăn là từ hơn năm mươi năm qua, phê bình
văn chương ở Đức không được xem
là một thể loại quan trọng nữa. Tạo một
vị thế trong phê bình, có nghĩa là.. tái tạo nó như
một thể loại]. Arendt nhận xét Benjamin là
người có tư duy sáng tạo, song không là nhà thơ hay
triết gia.
Ngày
nay, qua số lượng những tác phẩm viết
về Benjamin có một đánh giá tổng quát tản
mạn như : Benjamin là một triết gia, qua mọi giai
đoạn và mọi lãnh vực hoạt động,
viết về nhiều chủ đề văn
chương và nghệ thuật hiếm về những
đề tài triết học thuần túy, song lại
từ xung động của kinh nghiệm triết gia
về thế giới và thực tại (Scholem); với
Adorno, bản chất tư tưởng Benjamin là tư
tưởng triết học, mặc dầu có khoảng
cách với mọi quan niệm truyền thống triết
học song những bài viết biểu hiện một ý
thức triết lý.
Trong
luận án về chủ nghĩa lãng mạn Đức ngay
từ dẫn nhập, Benjamin khẳng định nghiên
cứu lịch sử khái niệm phê bình khác với
lịch sử của chính phê bình, mà là một nhiệm
vụ triết học (ông dùng từ philosophieproblemgeschichtlich).
Ở luận án về nguồn gốc bi kịch (có lẽ
là tác phẩm duy nhất hoàn tất), Benjaminn đề ra
cơ sở triết học trong việc nghiên cứu :
đặc tính của bài viết triết lý là phải
tiếp tục đối đầu với vấn
đề biểu tượng. Quả thực trong hình thái
hoàn chỉnh, triết học sẽ mang phẩm tính của
học thuyết, song không dựa trên quyền năng
của việc nghĩ đến khoác cho một hình thái
như thế mà học thuyết triết lý dựa trên
luật lệ lich sử .
Ý
nghĩa lịch sử đã thể hiện ngay trong
những bài viết vào thới kỳ đầu, có thể
kể từ 1914, như ông nhận xét : chúng nhân không có ý
thức kiên định về hiện thể lịch
sử.. song 'ý nghĩa lịch sử' của thời
đại, ý nghĩa về những sự kiện,
giới hạn và cẩn trọng đặc biệt nghèo
nàn trong 'những ý niệm lịch sử' thực (Noch ist
die Menschheit nicht zum ständigen Bewußtsein ihres historischen Daseins erwacht...So
stark ist der 'historische Sinn' der Zeit, dieser Sinn für Fakten, Gebundenheit
und Vorsicht, daß sie vielleicht ganz besonders arm ist an eigentlich
'historischen Ideen'). Trong những đề cương về
triết học lịch sử, Benjamin đã ví chủ
nghĩa duy vật lịch sử như một con rối,
do một gã gù nhỏ bé điều khiển bằng
những sợi dây, luôn luôn thắng trong những cuộc
cờ. Tuy nhiên, ông ca ngợi chủ nghĩa duy vật
lịch sử có ý thức về quyền năng cứu
thế, về đấu tranh giai cấp là cuộc
chiến vì những sự việc vật chất vì
nếu không có nó thì những sự việc tinh thần không
thể tồn tại. Tuy nhiên, như Margaret Cohen nhận
xét, Benjamin không hài lòng với lý luận Mác-xít
đương thời cũng như với phê phán chính
thống về ý thức hệ. Dường như Benjamin
muốn kết hợp chủ nghĩa Mác với mọi
phương thức diễn ngôn phi Mác-xít. Cho nên,
người ta đặt vấn đề Benjamin phải
chăng có thể là người Mác-xít hư hay thực
không rõ.
Benjamin
trong tiểu luận về một đề cương
triết học vị lai (in lần đầu trong tập
san mừng ngày sinh thứ 60 của Adorno Zeugnisse. Theodor W.
Adorno zum 60. Geburtstag 1963, theo Scholem viết vào năm 1917)
phê bình : những sai lầm nhất định của
học thuyết Kant về nhận thức cũng phải
thích hợp với tính rời rạc của kinh nghiệm
như lưu hành trong thời gian, thế nào để hai nhiệm
vụ rèn luyện một đằng khái niệm nhận
thức mới, mặt khác biểu tượng thế
giới mới trên lãnh địa triết học hòa
nhập thành một nhiệm vụ duy nhất. Sau khi
nhận xét nhận thức luận theo Kant vay mượn
những nguyên lý kinh nghiệm từ các khoa học, song không
thể đồng nhất kinh nghiệm như vậy vào
lãnh vực đối tượng của khoa học. Theo
Benjamin, nhiệm vụ của nhận thức luận
tương lai là phải tìm cho nhận thức một
phạm vi trung tính toàn diện đối với những
khái niệm của chủ thể và khách thể, nghĩa là
phát hiện phạm vi tự trị và nguyên ủy của
nhận thức, ở đó khái niệm này không xác
định với bất kỳ phương thức nào
mối quan hệ giữa hai thực thể siêu hình. Trong
đề cương Benjamin luận ra khái niệm
mớicủa nhận thức và kinh nghiệm, xây dựng
trên những điều kiện mới của nhận
thức, tự nó tạo thành sở cứ luận lý và
khả năng luận lý của si6u hình học. Tự
đó mọi khu biệt biến đi giữa lãnh vực
của tự nhiên và lãnh vực của tự do. Trong
đề cương này, Benjamin nhận ra biến
đổi lớn, khái niệm nhận thức định
hướng một chiều về những toán học và
cơ học chỉ khả hữu nếu đặt
nhận thức trong quan hệ với ngôn ngữ.
Tiểu
luận có ảnh hưởng nhất trong những tác
phẩm của Benjamin viết về tác phẩm nghệ
thuật vào thời đại tái sinh kỹ thuật Das
Kunstwerk im Zeitalter seiner technischen Reproduzierbarkeit (bản
viết 1935 và dị bản 1939), nòng cốt lý luận là
quan hệ giữa nghệ thuật và những hình thái tri
giác. Điểm
đặc sắc là luận về khái niệm 'hào
quang'.[Xem : hành trạng của tri tưởng, in trong Tẩu
khúc 2004 của ĐPQ]. Đó là sự liên tục
tuyệt đối của ánh sáng lóng lánh nhất trên bóng
tối âm u nhất (Es besteht in dem absoluten Kontinuum von hellstem
Licht zu denkelstem Schatten). Tiểu luận này viết nhằm
phân tích chính trị khu biệt giữa chủ nghĩa phát
xít và cộng sản chung quanh vấn đề tái sản
xuất tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt
ở vào thời đại nhiếp ảnh và điện
ảnh phát triển, nghệ thuật tới chỗ
tiếp cận đại chúng, song Benjamin đã phân tích
thấu đáo sự biến đổi cơ bản trong
phẩm chất mỹ học của tác phẩm nghệ
thuật. Nghệ phẩm tái sản xuất dẫn
đến việc tái sản xuất chỉ định
tác phẩm nghệ thuật. Nhiếp ảnh chính là khả
năng thực hiện sự đồng nhất
trong cái duy nhất, vì tấm phim ảnh có thể
tạo ra vô số 'nguyên bản', như 'ảo
tượng' (simulacre) của Jean Baudrillard sau này. Khi
nhấn mạnh đến ý nghĩa của kỹ thuật/technik,
Benjamin muốn đối chiếu sự vô sả hoá gia
tăng của con người hiện đại và sự
phát triển không ngừng đám đông là hai cảnh
tượng của cùng một diễn biến lịch
sử. Ông kết luận mọi nỗ lực để
mỹ quan hóa chính trị tập trung vào một
điểm. Điểm đó là chiến tranh (bản
viết vào thời điểm trước Thế
chiến Hai).
Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 34
Bloch,
Ernst:
Bloch sinh năm 1885 tại Ludwigshafen, cùng với Georg Lukács và
Karl Korsch là những triết gia Mác-xít viết sách bằng
Đức ngữ quan trọng, với ý định tái
cấu trúc chủ nghĩa Mác. Hình thành trí thức của ông
khởi từ ý chống lại chủ nghĩa thực
chứng và tiến hoá, Bloch theo học Lipps ở München
(Munich) và Külpe ở Würzburg, ông viết luận án về
triết học Rickert năm 1909 Kritische Erörterungen über
Rickert und das Problem der modernen Erkenntnistheorie (Bình luận
về Rickert và vấn đề lý luận nhận thức
hiện đại) ông tiếp tục theo học ở
Berlin với người thầy là Simmel. Trong thế
chiến 1914-1918, ông theo chủ nghĩa Mác, tuy nhiên vẫn
giữ những ý niệm về siêu hình học và nhận
thức luận, thể hiện trong tác phẩm Geist der
Utopie (tinh thần không tưởng) năm 1918, với
quan niệm 'không tưởng' không hiểu theo nghĩa
xấu, mà thể hiện một lý tưởng như
trong tác phẩm kế tiếp về Thomas Münzer als Theologe
der Revolution/ TM như thể nhà thần học của cách
mạng năm 1921. Trong Tinh thần không tưởng
Bloch dựa vào truyền thống văn chương
mặc thị lục, phối hợp với những ý
niệm của chủ nghĩa xã hội và vô chính phủ,
của Marx, Sorel và Münzer. Trong Durch die Wüste/qua sa mạc
năm 1923, Bloch phê phán chủ nghĩa thực lợi,
chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa thực dụng, Spuren/những
dấu vết năm 1930 và Erbschaft dieser Zeit/những
di sản của thời đại năm 1935 phân tích và
phê phán chủ nghĩa Quốc xã cùng nguồn gốc văn
hóa của nó. Trong năm 1933, ông phải rời bỏ
nước Đức qua Thụy sĩ, Áo, Pháp, Tiệp và
cuối cùng di cư qua Mỹ năm 1938, ở đây ông
bắt đầu viết tác phẩm chính Das Prinzip
Hoffnung/nguyên lý hy vọng hoàn tất và xuất bản
trong những năm 1954, 1955 và 1959. Bộ sách này gồm ba
tập được coi là “bản chất phi
thường về những tư tưởng của ông”.
Bloch trở về Âu châu năm 1949, sống 12 năm ở
Đông Đức, chấp nhận chủ nghĩa xã
hội kiểu Stalin, được chỉ định làm
giáo sư tại đại học Leipzig. Tuy vậy ông
không vào đảng cộng sản nhưng tỏ ra trung
thành về mặt chính trị, song tư tưởng
của ông thường bị những triết gia chính
thống của đảng cộng sản đả kích,
giống như hoàn cảnh của Lukács. Ngay sau Đại
hội đảng CS Liên xô lần thứ 20 vào năm 1956,một
nhóm những học trò và cộng sự của ông bị tù
vì tham gia việc cải cách đảng, tư tưởng
của Bloch bị kết án là 'xét lại', 'duy tâm' và ‘thần
bí’. Ông càng tỏ ra thất vọng với chủ nghĩa
xã hội, nhất là sau khi bức tường Bá linh
được dựng lên vào năm 1961, ông theo chân hàng
triệu người chạy qua Tây Đức, năm này
ông đã 76 tuổi, vẫn được mời làm giáo
sư dạy ở đại học Tübingen cho đến
khi mất năm 1977. Vào dịp này, Bloch viết ra Naturrecht
und menschliche Würde/Luật tự nhiên và nhân phẩm,
Philosophische Grundfragen. Zur Ontologie des
Noch-Nicht-Sein/những vấn đề cơ bản
triết học. Về hữu thể
luận của hãi-một-hữu [chưa là hữu]
năm 1961, bộ Tübinger Einleitung in die Philosophie/dẫn
nhập vào triết học 2 tập xuất bản
năm 1963/64, . Những năm sau đó là Atheismus im
Christentum/chủ nghĩa vô thần trong Cơ đốc
giáo 1968, Philosophische Aufsätze zur objektiven Phantasie/tiểu
luận triết học về tri tưởng khách quan 1969,
Vorlesungen zur Philosophie der Renaissance/những bài giảng
về triết học thời Phục hưng 1972, Gespräche
mit Ernst Bloch/đàm luận với EB 1975,
Những
nguyên lý hy vọng gồm năm phần với
năm câu hỏi mở đầu : chúng ta là ai ? chúng ta
từ đâu đến ? chúng ta đi đâu ? chúng ta mong
đợi gì ? cái gì chờ đón chúng ta ? thể hiện
ở phần thứ nhất, gọi là tường trình,
những mộng tưởng hão huyền, đến cơ
sở, tức ý thức dự tưởng, những hình
ảnh mong muốn trong gương phản ảnh như
truyện cổ tích, du lịch, điện ảnh,
kịch nghệ, tức là chuyển tiếp qua xây dựng,
những nét chính của một thế giới tốt
đẹp hơn, đến đồng nhất những
hình ảnh mong muốn ở chung cuộc: Công chính hay
bản chất là cái gì chưa là, ở cốt lõi của
mọi sự dẫn về chính nó, chờ đợi khởi
sinh của nó trong xu hướng-tiềm tàng của quá trình
; chỉ riêng nó giờ đây là hy vọng khách quan-thực
được lập thành'.
Khái
niệm hy vọng tiếp cận trên cái Khả hữu
(hiểu theo nghĩa của Aristote, cái Hãn-Một
(Noch-Nicht/Not Yet) như trong hữu thể luận trình bày
trong tác phẩm năm 1961, chắc chắn vẫn là
vật chất (vì Bloch là người Mác-xít), nghệ
thuật và triết học có chức năng hoạt
động của cái tiền hiện khách quan-thực
như thể quá trình-thế giới, thế giới
thực của chính hy vọng. Bloch nhận xét như Marx
miêu tả mối quan tâm chung cuộc của ông là 'phát
triển sự thịnh vượng của bản tính con
người', mà sự thịnh vượng này cũng
như sự phong phú của tự nhiên là một tổng
thể ở trong xu hướng-tiềm tàng mà chính thế
giới tự phát hiện. Chính vì vậy mà con người
ở khắp nơi vẫn còn sống trong tiền sử,
quả thực mọi sự vẫn trì trệ
trước sáng tạo của thế giới, của chân
thế giới. Cho nên Bloch nhấn mạnh : khởi nguyên
chân thực không phải ở khởi đầu mà ở
chung cuộc, và nó chỉ khởi sự khi xã hội và
hiện hữu trở nên triệt để, nghĩa là
nắm được căn nguyên của mình.. Nhưng theo
ông, căn nguyên của lịch sử là con người lao
động, sáng tạo tái hình thành những dữ liệu.
Một khi con người tự tạo cho mình trong một
nền dân chủ thực, không bị bóc lột và tha hoá,
bấy giờ mới đích thực tìm ra quê hương,
mảnh đất của mình.
Hữu
thể luận 'hãi-một' của Bloch thật sự
cũng không ngoài viễn cảnh hiện thực của
Nicolai Hartmann, hay Georg Lukács song xu hướng không
tưởng của ông để kết hợp chủ
thể và khách thể lại rơi vào chỗ thần bí.
Luận lý của ông đầy những trùng phức
ngữ, như : Chúng ta không sống để sống,
nhưng bởi vì chúng ta sống, nhưng trong cái Bởi vì
này, hay đúng hơn trong cái vì trống rỗng đó mà chúng
ta sống, không có gì bảo đảm, mà là hỏi Tại
sao (Wir leben nicht, um zu leben, sondern weil wir leben, doch gerade in
diesem Weil oder besser : diesem leeren Dass, worin wir sind, ist nichts
beruhigt, steckt das nun erst fragende, bohrende Wozu in Zur Ontologie des
Noch-Nicht-Sein).
Tác
phẩm của ông đã tập đại thành Toàn
tập/Gesamtausgabe có 16 tập ; từ tập 1 : Spuren,
2,3, 4, 5 (Das Prinzip Hoffnung), 6, 7 (Das Materialismusproblem, seine
Geschichte und Substanz), 8 (Subjeckt-Objekt. Erläuterungen zu Hegel), 9
(Literarische Aufsätze), 10, 11 (Politische Messungen, Pestzeit, Vormärs), đến
16 : Geist der Utopie.
Blumenberg,
Hans :
Blumenberg sinh năm 1920 ở vào thế hệ của Apel,
Habermas, vì có nửa dòng máu Do thái nên bị gián đoạn
việc học cho đến sau 1945, theo học ở
Hamburg và tốt nghiệp ở đại học Kiel
với luận án về nguồn gốc hữu thể
luận thởi Trung Cổ và luận án giáo nghiệp
năm 1950 nghiên cứu sự khủng hoảng của
hiện tượng luận Husserl dưới sự
bảo trợ của Ludwig Landgrebe.
Tuy
nhiên, hướng nghiên cứu của Blumenberg sau đó không
theo xu hướng của những trường phái hàn lâm
đương thời ở Đức, mà đi vào con
đường khai phá sử luận về triết
học, khoa học và thần học. Tác phẩm
đầu tiên xuất bản năm 1966 là Die Legitimität
der Neuzeit/Tính chính thống của thời đại
mới, tiếp nối những công trình của Dilthey,
Max Weber, Cassirer từ thời đại Phục hưng,
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và
đặc biệt về thời hiện đại là tác
phẩm của Karl Löwith Weltgeschichte und Heilgeschehen : die
theologischen Voraussetzungen der Geschichtsphilophie (Lịch sử
thế giới và sự biến cứu vớt :
những điều kiện thần học của
triết học lịch sử)1953 [Sämtliche Schriften/Tuyển
tập Bd 2 ;bản tiếng Anh : Meaning in History
xuất bản năm 1949] . Trong tác phẩm này, Lưwith xác
định đối chiếu hai mô hình lịch sử,
đặc thị những sự biến về mặt
thế giới và về mặt thiêng liêng. Triết học
lịch sử theo ông có ý nghĩa lý giải có hệ thống
lịch sử hoàn vũ phù hợp với nguyên lý mà
những sự biến và những tiếp diễn lịch
sử được thống nhất và hướng
về một ý nghĩa tột cùng. Trong phần I Tính
chính thống của thời đại mới, Blumenberg
duyệt qua khái niệm 'tục hoá' (Säkularisierung) như
'một phạm trù để lý giải những hoàn
cảnh và liên hệ lịch sử' qua một số lý
luận như của Hannah Arendt, Hermann Lübbe, Hermann Zabel, M.
Stallmann v.v..và đặc biệt là chương 3 tranh
biện về luận thuyết của K. Löwith trong sách
dẫn trên, lấy quan niệm của chủ nghĩa duy
tâm Đức xét vị trí và thành toàn lịch sử như
một luận đề khách quan về khởi sinh khái
niệm mới của lịch sử. Điểm chính
yếu trong tranh luận của Blumenberg từ việc phê
phán những lý luận như Löwith coi đặc tính
của thời đại mới là phi chính thống,
tiến bộ là sản phẩm tục hóa những
kiểu mẫu thế mạt luận nuôi dưỡng
từ những tôn giáo như Do thái giáo và Cơ đốc
giáo. Ông biện minh và phân tích tính chính thống của
thời đại mới qua những khái niệm và
ứng xử như một đáp án của con
người trước khủng hoảng trong mối quan
hệ Cơ đốc giáo với thế giới vào
cuối thời Trung cổ. Một phần sách giành
để phân tích hai mặt đối lập trong
điều mà Blumenberg gọi là 'ngưỡng cửa
thời đại' (ông khẳng định 'thời
đại mới' không bao giờ là một sự kiện
lịch sử an toàn) để xét về lý luận của
Nikolaus Cusanus (Nicholas of Cusa) và Giordano Bruno, hai quan niệm siêu
hình học trước cải cách Copernic, một
đằng tiền-Copernic chưa hiện đại,
một đằng hậu-Copernic với nguyên lý chủ
đạo của siêu hình học nhân học và vũ
trụ luận.
Trong
lý luận của Löwith, ý niệm tiến bộ
được xem như kết quả của việc
tục hóa thế mạt luận Cơ đốc giáo, trong
khi ở chương 4, Blumenberg đặt lại vấn
đề 'tục hóa bởi thế mạt luận thay vì
tục hóa của thế mạt luận'. Ông quan niệm
tiến bộ có hai mặt : tiến bộ khoa học
vượt khỏi tình trạng cố định của
khoa học cổ đại do phương pháp luận
chỉ đạo, tiến bộ về mặt học
thuật văn hóa vượt khỏi ý niệm văn
học nghệ thuật cổ xem như những kiểu
mẫu hoàn thiện với ý niệm nghệ thuật
thể hiện tinh thần sáng tạo của thời
đại và cũng hoàn thành giá trị ngang bằng với
những sáng tạo của cổ nhân.Tiến bộ phát
triển ở những lãnh vực khác như khoa học
kỹ thuật cùng với những phát triển nói trên xác
định triết học của lịch sử.
Tác
phẩm tiếp nối dòng tư tưởng trên là Die
Genesis der kopernikanischen Welt/Khởi sinh của thế
giới Copernic xuất bản năm 1975 nhằm tìm
hiểu mối quan hệ giữa cách mạng Copernic
với nguồn gốc của thời đại mới.
Trong sáu phần từ ý nghĩa hàm hồ của những
tầng trời đến mở ra khả hữu cho
sự biến Copernic với De revolutionibus đến
viễn tượng trong thế giới Copernic, từ hình
thể của bóng trái đất trong nguyệt thực mà
nhận ra trái đất hình cầu đến phản
tư viễn tượng Copernic được lập
lại trong những chuyển động từ đó có
thể nhìn Trái đất khi đi trên đó.
Trong
những tác phẩm về sau, Blumenberg quan tâm đến
thần thoại và ẩn dụ như trong Arbeit am
Mythus/Công trình về huyền thuyết, Thời gian
người và thời gian vũ trụ/Lebenszeit und Welt, Thời
gian đời và thời gian vũ trụ v.v... Ông
đưa ra nguyên mẫu về ẩn dụ
luận/metaphorologie nhằm giải thích ý niệm về
những ẩn dụ tuyệt đối qua những ví
dụ lấy ra từ lịch sử ý niệm và triết
học.
ĐẶNG PHÙNG
QUÂN
Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 35
Bhattacharyya,
Krishna Chandra: Trong
triết học Ấn độ cận hiện
đại, ngoài Aurobindo, Radhakrisnan, Bhattacharyya là một khuôn
mặt lớn khác.Ông sinh năm 1875, tốt nghiệp
tại đại học Calcutta, được xem là
đại biểu của triết học tân Vedanta. Ông
dạy triết học đạo đức và tâm linh
ở đại học Calcutta, những tác phẩm
viết bằng Anh ngữ xuất bản dưới nhan
đề Studies in Philosophy I, 1986 và II, 1958, Studies in Vedanta
và The Subject as Freedom, những bài giảng về Kant,
Sankhya và Yoga, thường ngắn và đơn giản.
Tư tưởng của ông không trình bày theo một hệ
thống, mà sinh động qua phối hợp phạm trù
luận lý với siêu hình học, suy niệm về Kỳ
na giáo với ý niệm về Tuyệt đối như
thể vô định phù hợp với nguồn học
thuyết Upanisad, có thể nhận xét theo Kalidas Bhattacharyya
là “giao lưu giữa chính thống và tự do”.
Lý
giải độc đáo về Vedanta vô nhị là cơ
sở cho triết học Bhattacharyya. Tác phẩm đầu
tiên của ông là luận án nghiên cứu về học
thuyết Vedanta Studies in Vedantism 1904 . Tự ngã
đặc thị như neti neti có nghĩa là Thực
tại tột cùng là cái không thể mô tả bằng
bất kỳ phương tiện thiết định nào
vì tư tưởng khái niệm thì hữu hạn nên chỉ
có thể nói “không cái này, không cái này”. Ngã là chân lý cốt cán
trong hệ thống Vedanta, có thể như hữu thể,
như ý thức, như viên mãn, song nếu hiểu như
tính thống nhất trong khu biệt thì có thể xem “thống
nhất là chân lý và khu biệt là ảo tưởng”.
Xác
định cái vô định là một vấn đề
luận lý. Trong tiểu luận luận về vị trí
của vô định trong luận lý học, Bhattacharyya xác
định cái vô hữu hay hữu bất định
của Hegel không phải là cái vô định của Vedanta,
còn quan niệm của Kant hay Spencer tuy đề ra tính siêu
nghiệm của vô định, như lại coi vô
định như thực tại bất khả tri. Theo
Bhattacharyya, luận lý học khai phá những phạm trù cho
những khái niệm siêu hình học khác nhau rộng rãi
về thực tại, cho khái niệm thế giới
khả tri ở phương sách cuối cùng là phi thực
cũng như khái niệm về thế giới đó
như thực tiến hóa trong mọi quan năng khác nhau.
Luận lý học này có thể xem như có giá trị ba
chiều với vô định là phạm trù thứ ba
cạnh khẳng định và phủ định. Tuy nhiên
luận lý học không thể một mình thiết lập
cái Tuyệt đối như Vô định, mà do mặc
khải, song luận lý học tạo cho nó thành khả tri
khi bao hàm phạm trù vô định.
Bhattacharyya
phân biệt những loại tư tưởng về
mặt ngữ học, có loại tiết hợp ngữ
học là chủ yếu và loại không có tiết hợp
ngữ học chủ yếu. Loại tư tưởng
sau là tư tưởng thường nghiệm ý thức lý
luận của nội dung đối chiếu với
một sự vật được tri giác hay tri
tưởng, trong khi triết học là loại tư
tưởng có tiết hợp ngữ học chủ
yếu, mà “tư tưởng thuần túy không là tư
tưởng của một nội dung có thể phân
biệt với nó”. Chính vì vậy mà những nhà thực
chứng luận coi triết học như một giả
tưởng, như môt loại bệnh ngôn từ và chỉ
coi có một loại tư tưởng thường
nghiệm.
Để
phản bác điều đó, Bhattacharyya xét đến
phản tư về tư tưởng và quan hệ với
ngôn ngữ về mặt ngẫu nhiên hay tất yếu
để khai phá bản nhiên của triết học.
Một phản tư về những “đặc thù chủ
ngã” (ego-centric particulars), có
nghĩa là những sử dụng miêu tả, chỉ
thị hay mệnh lệnh của ngôn ngữ và chức
năng tri thức của sử dụng ngôn ngữ
nghịch lý là những chiều hướng tư duy vê ngôn
ngữ. Phản tư về “đặc thù chủ ngã”
dẫn đến nhận thức ra được tính duy
nhất của chủ thể, là từ ngữ “Tôi”.
Nếu từ này đuợc thừa nhận là “ý nghĩa
được chuyển đi do một từ phải
khả tri đối với người nghe như thể
chính y chuyển đi do sử dụng nó”, như vậy
từ “Tôi” đương nhiên đi ngược lại
với điều kiện của tính ý nghĩa. Một
mặt điều này đúng cho mọi từ ngữ liên
quan đến “những đặc thù chủ ngã”; mặt
khác từ “Tôi” cũng có những đặc diện khác,
chẳng hạn như chuyển hành vi thông giao của
người nói thông thường không bao giờ là một
phần của ý nghĩa của từ ngữ. Như
vậy, “Tôi” không nhất định là đơn nhất
hay khái quát. Từ này được dùng thì có một tham
chiếu đơn nhất, song khi được hiểu
thì nó là tổng quát, như vậy không giống như
một từ mang ý nghĩa một nội dung khách quan, có
cùng tham chiếu, đơn nhất hay khái quát cho
người nói và người nghe.
Luận
về chủ thể bắt đầu từ những bài
giảng The Subject as Freedom ở Viện Triết
học Ấn vào năm 1929, khai phá quan niệm Tat tvam
asi/Ngươi là đó trong Chāndogya Upanisad (theo Advaita
Vedānta, cá thể không khu biệt với Tuyệt
đối/Tat/đó và ảnh hưởng của Kant qua
phản tư siêu nghiệm trên luận đề “tính lý
tưởng siêu nghiệm của thời gian hay thế
giới tính thần hàm ngụ phân biệt giữa ngã và tinh
thần”; “chỉ có ngã tự do được biết là
thực và đối tượng được biết
như thể hiện tượng”. Bhattacharyya lý giải
quan niệm về tri thức tiên nghiệm của Kant trong Phê
bình lý trí thuần túy liên hệ với lãnh hội
đạo đức về tự do trong Phê bình lý trí
thực tiễn. Nhận thức về ngã hay chủ
thể là tự do là cơ sở cho triết học siêu
nghiệm của Kant.
Tâm
lý học siêu nghiệm như Bhattacharyya luận bàn trong
tiểu luận “Tri thức và Chân lý” tại Hội
nghị triết học Ấn năm 1927 nhằm nhận
ra chân và giả, vì tri thức và chân lý hàm ngụ lẫn
nhau: chỉ có chân lý được biết và chỉ cái tri
thức là thật. Trong thiên khảo luận “Cái giả và
chủ thể” năm 1932 khẳng định luận
thuyết ý thức cái giả và ý thức chủ thể hàm
ngụ lẫn nhau: cái gì là giả được phản
ảnh và cái gì chúng ta phản ảnh là giả.
Một
phác thảo về tâm lý học siêu nghiệm theo Bhattacharyya
quan niệm như một thay thế chính đáng cho siêu hình
học linh hồn, khai phá những giai đoạn tự do
thoát khỏi tính khách thể, khả dĩ có
được “phương pháp thể hiện chủ
thể như thể tự do tuyệt đối, rút
lại cái tự do thực chứng về khách thể
đi vào trực quan thuần túy của bản ngã”.J.L. Mehta
đối chiếu Bhattacharyya với Heidegger gặp gỡ
nhau ở chỗ quan niệm không có gì đáng đặt
thành vấn đề và đáng đặt thành vấn
đề trong triết học hơn là chính bản tính
của triết học. [xem: The problem of philosophical
reconception in the thought of K.C. Bhattacharyya in trong Philosophy East
and West 1974, in lại trong tuyển luận India and the West, the problem of understanding của J.L. Mehta, 1985].
Brunschvicg,
Léon:
Brunschvicg sinh năm 1869 tại Paris, học ở lycée
Condorcet và vào trường Cao đẳng sư phạm
năm 1888. Luận
án của ông là La modalité du jugement trình năm1897 và
dạy ở Sorbonne từ năm 1909. Ông thường
được xem như đại biểu của chủ
nghĩa duy tâm, tuy nhiên có những học giả nhận xét
tư tưởng của ông tiêu biểu triết học
tinh thần, một truyền thống của triết
học Pháp (với những triết gia Hamelin, Lavelle, Le
Senne v.v..), hay triết học quan hệ.
Tuy
nhiên những tác phẩm của ông như Les étapes de la
philosophie mathématique (những giai đoạn triết
học toán học) 1912, L'expérience humaine et la causalité physique
(Kinh nghiệm của con người và nhân quả vật
lý) 1922, Le progrès de la conscience dans la philosophie occidentale
(Tiến triển của ý thức trong triết học tây
phương) 1927 thể hiện tinh thần duy lý khoa
học chính thống. Giảng dạy của ông trong
suốt thời gian ở Sorbonne gây một ấn
tượng sâu sắc cho thế hệ triết học vào
thời kỳ này, cũng như phản ứng chống
chủ nghĩa thuần lý trong tư duy Brunschvicg. Trong Hồi
ký/Mémoires Raymond Aron nhận xét: “ở vào thế hệ
của ông, tìm một người thầy để
hướng dẫn, chỉ có thể chọn giữa Léon Brunschvig,
Alain và Bergson; ở Sorbonne, Léon Brunschvicg là một một nhà
thông thái bậc nhất, ông “triết lý” hơn những
người khác và những công trình của ông đáng
để chúng tôi khâm phục. Chúng tôi không thể phán
đoán khả năng toán học của ông, nhưng ông cho
chúng tôi cảm nghĩ là ông kết hợp được
văn hóa triết học và khoa học. Ông soi rọi ánh
sáng trên những thời khoảng trong lịch sử
triết học phương tây với những song hành
từ toán học và vật lý học. Ông không cắt
đứt với truyền thống, không rơi vào chỗ
tầm thường của chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy linh hàn lâm. Ông không tự đặt mình vào hàng
những triết gia vĩ đại, song ông để
cuộc đời mình tiếp cận với họ”.
Một
nhà triết học Pháp khác, Gaston Berger (1896-1960) khẳng
định là Brunschvicg “luôn luôn muốn bắt buộc
người đối thoại với mình chọn
lựa thay vì hòa giải ”. Châm ngôn của ông là
phải có bổn phận trở nên trí tuệ, về
mặt đạo đức, ông đòi hỏi công lý.
Brunschvicg quan niệm “chủ thể là con người
biết phán xét, và phán xét là một hành vi. Chủ thể là
hành động”. Tư duy là phán xét; triết học tinh
thần là triết học của phán đoán, không phải
của khái niệm. Ngay trong luận án dẫn trên năm
1897, ông đã quan niệm tri thức cho chúng ta một
thế giới duy nhất này, bên ngoài không có gì hết;
nếu có bất kỳ điều gì ở ngoài tri
thức, định nghĩa của nó chỉ có thể là
không đắc thủ và không xác định, cộng
lại chẳng là gì hết với chúng ta. Ông đã phân
biệt hai hình thái mô thức của phán đoán: hình thái
nội hướng tính/forme d'intériorité (trong nội tại
hỗ tương của ý niệm và đặc biệt
biểu thị phán đoán toán học, trong đó chủ
từ và thuộc từ không thể tách rời nhau, là
thống nhất của tinh thần xác định những
quy luật của nó, là cơ sở cho mô thức tất
yếu) và hình thái ngoại hướng tính (được
xác định bởi một yếu tố phản lý mà tinh
thần đối đầu, không độc lập
với tinh thần hay phóng chiếu ngoại tại của
tinh thần này, mà đơn giản chỉ là giới
hạn bởi chính nó; hình thái này riêng cho những phán
đoán về thực tại). Như vậy có hai thành
phần cấu tạo tinh thần là hình thái nội
hướng tính bao gồm thuần lý và tất yếu
của phán đoán toán học và hình thái ngoại
hướng tính bao gồm tính phản lý của những gì
không thể hiểu thấu và thực tại trong phán
đoán hiện hữu.
Trong
tác phẩm đầu tay Les étapes de la philosophie mathématique
tinh thần toán học được phân tích với
những khái niệm sinh động, như con số có phát
triển nhờ vào tiến bộ của những khai
triển ; ở tác phẩm luận về kinh nghiệm
của con người và lý luận nhân quả trong vật
lý học L'expérience humaine et la causalité physique phân tích
biến chuyển tiến thoái giữa lý trí và kinh nghiệm
trong xây dựng khoa học vật lý, được
củng cố bằng khoa học hiện đại
khởi từ Einstein.
Tác
phẩm quan trọng nhất của ông là Tiến
triển của ý thức trong triết học phương
tây mở rộng phân tích trong mọi lãnh vực và
mối quan hệ giữa xác thực của tri thức và đời
sống tinh thần với lịch sử ý niệm: vị
thế của những khoa toán học và vật lý học
chứng thực tư tưởng của Spinoza nhận thức
biến chuyển từ cogito cá thể trong đó ý
thức từ trạng thái bất tương
ứng/inadequatio đến cogito phổ quát thống
nhất với những cogitatio thuần túy.
Khi
Đức Quốc xã xâm chiếm nước Pháp, Brunschvicg
phải lánh nạn về miền Nam và mất năm 1944,
trước khi đất nước được
giải phóng. Tác phẩm Descartes et Pascal lecteurs de
Montaigne được viết ra trong giai đoạn
ẩn náu này (như thư ông viết gửi Jean Wahl vào
cuối năm 1941: tôi tiếp tục viết để
hiểu làm sao tôi sống còn...) khai phá mối liên hệ
thống nhất tư tưởng của Descartes và Pascal
với chủ nghĩa hoài nghi phổ cập của
Montaigne, mối liên minh bất ngờ giữa khoa học và
sự bất xác.
Léon
Brunschvicg cùng với Elie Halévy và Xavier Léon là những nhà sáng
lập tạp chí triết học Revue de métaphysique et de
morale từ năm 1893.
Ngoài
sách dẫn trên, những tác phẩm khác của ông như: Spinoza
et ses contemporains 1923, L'idéalisme contemporain 1905, Nature et liberté
1921, La connaissance de soi 1931, Les âges de l'intelligence 1934, La raison
et la religion 1939; di cảo và những tư liệu
xuất bản sau khi ông mất : Héritage de mots, héritage
d'idées 1945 (thiên khảo triết học viết dành
tặng cháu gái), De la vraie et de la fausse conversion 1950, Ecrits
philosophiques I: L'humanisme de l'Occident, Descartes, Spinoza, Kant 1951;
Ecrits philosophiques II : L'orientation du rationalisme 1954 ; Ecrits
philosophiques III : Science-Religion 1958.
Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 36
Bolzano,
Bernard: Bolzano
sinh năm 1781 ở Pra-ha (Prague), là con của Bernard Pompeius
Bolzano sinh trưởng ở Bắc Ý, di cư qua Pra-ha
kết hôn với Maria Cecilia Maurer, con gái của một
thương gia ở đây, nói tiếng Đức. Ông theo
học ở đại học Pra-ha về toán học,
vật lý học và triết học. Từ năm 1800, ông
cũng theo ngành thần học và trở thành tu sĩ Thiên
chúa giáo vào năm 1804, dạy môn triết học tôn giáo
năm 1805, nổi tiếng cả về thần học
lẫn triết học nên được bổ nhiệm
làm trưởng khoa triết vào năm 1818. Là một
người có lý tưởng chống quân phiệt, ông
đòi hỏi cải tổ hệ thống giáo dục, xã
hội và kinh tế, xướng xuất thuyết hòa bình
để giải quyết những quyền lợi
giữa các nước hơn là xung đột chiến
tranh, do đó ông đã từ nhiệm để bảo
vệ niềm tin của mình . Ông phải về ẩn náu
ở miền quê, dồn nỗ lực vào việc viết
về những vấn đề triết học, toán học,
xã hội, tôn giáo, tuy không được đăng trên
những tập san chính thống mà chỉ in trên những
tập san địa phương. Ông trở lại
sống ở Pra-ha từ 1842 và mất tại đây
năm 1848.
Tác
phẩm nổi tiếng nhất của Bolzano là bộ Khoa
học luận/Wissenschaftslehre bốn tập hoàn thành
năm 1837 về triết học khoa học, luận lý, tri
thức. Thuyết luận lý của ông phá đổ cơ
sở cũ và có ảnh hưởng tới những nhà
luận lý học sau này như C.S. Peirce, Georg Cantor, Richard
Dedekind, qua di cảo Những nghịch lý của Vô
tận/Paradoxien des Unendlichen. Trong bộ luận về
khoa học nói trên, Bolzano có tham vọng đề ra
những cơ sở luận lý cho mọi khoa học, xây
dựng trên những khái niệm trừu tượng
như quan hệ từng phần (phân biệt toàn thể và
từng phần, chẳng hạn những chữ là
từng phần của câu, những ý niệm chủ quan là
từng phần của phán đoán, những ý niệm khách
quan là từng phần của những mệnh đề
trong chúng), đối tượng trừu tượng, những
thuộc từ, những thể hình của câu, những ý
niệm và mệnh đề trong chúng, những tổng và
tập hợp v.v...
Trong
Triết học là gì? Bolzano nhận xét: phần
đông những triết gia cùng thời với ông vẫn
còn dựa vào Kant hay lùi lại sau để đến
gần, bởi vì họ cho rằng tất cả những
tiến bộ của suy luận mới đây rốt
cuộc không dẫn tới đâu.
Cho
nên ngay từ 1810, Bolzano đã nhằm phê phán những nhà
triết học theo Kant, trước khi học phái tân Kant
thống trị diễn đàn trí thức ở đại
học miền Nam (trường phái Marburg, trường phái
Tây-Nam Đức) vào cuối thế kỷ 19. Bolzano tiêu
biểu triết học Aùo vào thời kỳ này cùng với
Brentano, Meinong trong lịch sử xác định lại
'tư tưởng' sau Hegel. Nicolai Hartmann trong lời mở
đầu tác phẩm Zur Grunglegung der Ontology nói
đến phục sinh siêu hình học (Wiedererwachen der
Metaphysik) như thể phản ứng chống lại tình
trạng trống rỗng nội dung của những
học thuyết tân Kant, chủ nghĩa thực chứng,
chủ nghĩa duy tâm lý khởi đầu thế kỷ 20
(das seinerseits als Reaktion gegen die inhaltliche Leere des niedergehenden
Neukantianismus, Positivismus und Psychologismus im Beginn unseres Jahrhunderts
einsetzte).
Bài
phụ lục luận về học thuyết Kant cấu
tạo những khái niệm từ những trực quan
trong tác phẩm Những đóng góp vào việc trình bày mang
tính cơ sở của khoa toán học (Beyträge zu einer
begründeteren Darstellung der Mathematik) 1810 của Bolzano
đưa ra phân tích những mệnh đề nhằm
đối lập với thuyết trực quan toán học
, phủ bác khái niệm trực quan tiên thiên. Ông đưa
ra một triết học những chân lý tự tại
đối lập với thuyết trực quan trong toán
học cũng như trong triết học, những nguyên lý
về một lý luận về tính khách quan khoa học
được trình bày trong tác phẩm chính Khoa học
luận (Wissenschaftslehre) 1837.
Trong
tác phẩm này, Bolzano đề ra thưc tại của ngôn
ngữ, tư tưởng và luận lý, một lý luận
về mối quan hệ giữa những »khái niệm tự
tại/Vorstellungen an sich ». Nhận thức của ông
về những mệnh đề tự tại (Sätzen an
sich) rất gần với lý giải hiện đại
về ngôn ngữ luận lý học, hay chân lý tự tại
(Wahrheiten an sich) với lý luận chân lý trong luận lý
học hiện đại cũng như về những
khái niệm tự tại như ngày nay người ta
hiểu về »phạm
trù cú pháp » và « phạm trù ngữ nghĩa ». [Xem: G. Schenk:
Über Bolzanos Theorie der Beziehungen zwischen”Vorstellungen an sich”
trong Bernard Bolzano 1781-1848. Studien und Quellen 1981].
Những chân lý tự tại độc lập với tinh
thần con người và có trước ngôn ngữ (không
phải những chân lý diễn tả bằng những
từ), và là một phần của những mệnh
đề tự tại (không phải những mệnh
đề diễn tả trong ngôn ngữ). Những mệnh
đề tự tại ở trong những khái niệm
tự tại (không phải những từ ngữ cấu
thành mệnh đề diễn tả). Có thể diễn
tả thực nghiệm qua ví dụ: “cỏ thì xanb” là một
mệnh đề, cỏ là ý niệm, biểu hiện
một cái gì đó song không xác quyết, mệnh đề
có thể phát biểu “hình tròn vuông”. Cấu thành từ những phần
siêu khả giác, dầu sai vì tự mâu thuẫn. Một
mệnh đề tự tại như vậy không có
vị trí trong không-thời gian, nghĩa là không hiện
hữu, có thể đúng hay sai, do hữu tư duy nhận
ra.
Bolzano quan niệm
mỗi ngành khoa học có một biểu thị khoa học
duy nhất, không những có một hệ thống công lý
hữu hạn, nhưng cũng là một kết quả
luận lý/Abfolge duy nhất của mỗi định lý
của khoa học này bởi những công lý. Điểm
khác biệt trong luận lý học của Bolzano là ông quan
niệm mọi mệnh đề cấu tạo bởi ba
yếu tố: chủ từ, thuộc từ và liên từ,
song thay vì dùng từ là như truyền thống, ông dùng
từ có vì theo ông liên từ này có thể nối kết
một từ cụ thể với một từ trừu
tượng, ví dụ “anh Ba có (chứng) hói (đầu)”
hơn là “anh Ba thì hói”, là vì thuộc từ “hói” thật ra
kết cấu từ những yếu tố “một sự
vật”, “có”, “chứng hói đầu”; như vậy, trong
mệnh đề thông thường dẫn trên, Bolzano
đã dùng lối phân tích để giải thích nó - cơ
bản của triết học phân tích. Bolzano cũng phân biệt
năm ý nghĩa của từ chân lý là ý nghĩa khách
quan trừu tượng (chân lý chỉ thị thuộc
từ trên cơ sở của nó mà một mệnh
đề biểu thị một điều gì đó trong
thực tế, như thí dụ trên); ý nghĩa khách quan
cụ thể (chân lý chỉ thị một mệnh đề
có thuộc từ chân lý chứa trong ý nghĩa khách quan
trừu tượng) [phản nghĩa của chân lý/Truth
trong hai ý nghĩa trên là giả trá/Falsehood]; ý
nghĩa chủ quan (chân lý chỉ thị một phán đoán
đúng) [phản nghĩa của nó là sai lầm/mistake]; ý
nghĩa tập thể (chân lý chỉ thị một bộ
phận gồm nhiều mệnh đề, phán đoán chân
lý, chẳng hạn chân lý kinh điển); ý nghĩa
chân/ảo (chân lý chỉ thị một đối vật
do mệnh danh mà thành, ví dụ chân thánh để phân
biệt với ảo tượng). Trong quan niệm chân lý
của ông, Bolzano chú trọng đến ý nghĩa khách quan
cụ thể, nghĩa là những chân lý khách quan cụ
thể hay chân lý tự tại.
Đượng
thời của ông, Bolzano không được nổi
tiếng, song những nhà triết học chuyên luận
như Kazimierz Twardowski, Edmund Husserl chịu ảnh
hưởng của ông và lý luận của Bolzano tác
động trong hiện tượng luận và triết
học phân tích. Husserl đã phân biệt ba nguồn suối
luận lý học kế thừa là: luận lý hình thức
và toán luận hình thức của Leibniz (phân chia những
chân lý sự kiện và chân lý thuộc lý trí), chủ
nghĩa Platon như luận lý học của Lotze (phân chia
chân lý toán học và nguyên lý luận lý) và luận lý học
Bolzano (phân chgia những mệnh đề tự tại và những
chân lý tự tại).
Brentano,
Franz:
Franz Brentano sinbh năm 1838ở Marienberg-am-Rhein thuộc dòng
dõi gia đình Đức gốc Ý có những người
nổi tiếng như Clemens Brentano, Bettina von Arnim (là
những văn gia quan trọng trong chủ nghĩa lãng
mạn Đức), người em Lujo Brentano là nhà luận
thuyết kinh tế học. Franz theo học toán, văn
chương, triết học và thần học ở
München, Würzburg và Berlin.
Luận
án đệ trình năm 1862 của Brentano viết về ý
nghĩa đa dạng của hữu thể theo Aristote Von
der mannigfachen Bedeutung des Seienden nach Aristoteles và tiếp
tục việc nghiên cứu mặc dầu cũng như Bolzano, ông đã thụ phong linh mục năm 1864. Ông trình luận án
giáo nghiệp Tâm lý học của Aristote/Die Psychologie des
Aristoteles vào năm 1867 và dạy tại đại
học Würzburg.
Lý
luận về phạm trù: Khai phá bốn ý nghĩa
của hữu thể là hữu tùy thể, hữu trong ý
nghĩa là chân lý, hữu của những phạm trù và
hữu phân chia theo tiềm thể và động thể,
trong đó chuơng năm xét hữu thể theo những
dạng phạm trù là dài nhất , bao gồm 15 luận
cương. Mỗi luận cương là một lý
giải phạm trù, từ quan niệm phạm trù không
những là một cơ cấu tổ chức cho khái
niệm (koinon), mà chính những phạm trù là những khái
niệm thực, có một sự hài hòa giữa những
phạm trù của Aristote và những khu biệt ngữ pháp
của danh từ và tính từ, động từ và
trạng từ. Ở phần kết, Brentano dẫn hai
đoạn trong Siêu hình học của Aristote
để chỉ ra quan hệ giữa hữu và phạm trù
vì “theo bốn ý nghĩa mà hữu tiên khở phân chia, trong
những dạng thức phạm trù là quan trọng nhất”:
“Ở bất kỳ chỗ nào
mà khoa học chủ yếu xét đến cái gì là
đầu tiên, và những sự vật khác phụ
thuộc vào nó, cũng như nhờ nó mà chúng có danh tính.
Vậy nếu như đó là bản thể, nó sẽ
thuộc vềø những bản thể mà nhà triết
học phải nắm được những nguyên lý và
nguyên nhân của chúng” Siêu hình học IV, 2, 1003b16.
Brentano dẫn giải : Nếu nay coi siêu hình học là khoa
học về hữu thể thì rõ ràngđối
tượng chính là bản thể, và trong mọi
trường hợp loại suy như vậy, khoa học
chủ yếu xét đến cái đầu tiên mà mọi
sự khác phụ thuộc và nhận được tên.”
“Và như vậy chúng ta cũng
cần phải xem xét chủ yếu và tiên quyết
đặc biệt xem nó là gì trong ý nghĩa này” Sdt VII, 1,
1028b6.
Giai
thoại triết học về quan hệ giữa Heidegger
và Brentano là giám mục Groeber, người đỡ
đầu tinh thần của Heidegger chính là người
đã tặng luận án Về ý nghĩa đa dạng
của Hữu theo Aristote cho Heidegger đã là “hướng
đạo dẫn dắt cho những toan tính thô thiển
ban đầu trên đường vào triết học” như
Heidegger bày tỏ trong hành trạng Con đường tôi
đến với Hiện tượng luận. [Xem: Hành
trạng tư tưởng in Hành trạng tư
tưởng giữa hai thế kỷ, 2002 của
ĐPQ].
Trong
Les catégories de l'être/những phạm trù của hữu,
2003 Jean-François Courtine đã phân tích và đối chiếu
lý luận của Brentano trong luận án nói trên với lý
giải của Heidegger (qua « thư gửi Richardson » và
những sách khác như Aristoteles “Metaphysik Θ 1-3 [GA 33], có
thể nói, Heidegger cũng như Brentano là những nhà
triết học chuyên giảng về Aristote, xem: GA 18, 61,
62]:
Khởi
từ luận án của Brentano, Heidegger đã nhận
biết ở đề từ mà Brentano dẫn làm chủ
đề Aristote: τό όν λέγεται πολλαχώς
(Siêu hình học Z, 1) khi giải thích: “Trong câu này chứa
vấn nạn quyết định con đường
tư tưởng của tôi: Cái gì là xác định
đơn giản và thuần nhất của hữu
ngự trị mọi ý nghĩa đa bội? Hữu
muốn nói điều gì? Trong mức độ nào của
'tại sao và làm sao' hữu của hiện thể có
thể khai triển theo bốn phương thức mà
Aristote luôn luôn nhìn nhận là khi để chúng không xác
định trong căn nguyên chung? Ý nghĩa nào của
hữu nói trong bốn thụ lãnh này? Làm sao chúng có thể
đi vào một hòa hợp khả tri như vậy? Do
đâu mà hữu như thể hữu và không những
chỉ như hiện thể nhận được xác
định của nó?”
Trong
giảng khoa về Aristote năm 1931, Heidegger nhấn
mạnh: “trong câu ngắn này là tất cả vị thế
triết lý cơ bản mới mà Aristote khai triển
đối với toàn bộ thời kỳ trước
đó, kể cả Platon, và không phải đề xây
dựng một hệ thống, nhưng để hoàn thành
một nhiệm vụ.”
Từ
điển triết học giản yếu
Từ
điển triết học kỳ 37
Brentano,
Franz:
(tiếp theo) Trong nghiên cứu đi tìm những ý
nghĩa đa phức của hữu thể, Brentano xác
định: những phạm trù khác nhau tương ứng
với những phương thức khác nhau của
thuộc từ. Ngay từ chương đầu của
luận án 1862, ông dẫn 4 loại chính của hữu/όν
là: hữu không có hiện hữu nào ngoài tri năng (stereseis,
apophaseis); hữu của vận động, phát sinh và tàn
tạ (quá trình đi về bản thể, hủy diệt;
hodos eis ousian, phthora) vì những cái này ở ngoài tinh
thần, do đó không có hiện hữu toàn diện, hoàn
tất; hữu có một hiện hữu hoàn tất
nhưng phụ thuộc (những cảm tính của
bản thể, phẩm chất, sự vất sản sinh;
pathe ousias, poietika, genetika); cuối cùng là hữu của
những bản thể (ousia). Nỗ lực chính của
Brentano là nhằm giảm trừ tính đồng âm này
của hữu, đi tìm sự thống nhất của
phức thể, ý nghĩa thực sự , đầu tiên là
hữu thứ tư nói trên: bản thể. Ở
chương năm, trong luận cương 13 ông vẽ
lại hai biểu đồ 1 để trình bày hữu/on
gồm bản thể/ousia tạo thành phạm trù thứ
nhất và tùy thể/symbebekos phân chia thành những tùy
thể tuyệt đối/pathos và quan hệ/pros ti (phù
hợp với cách mà những tùy thể áp dụng vào
chủ thể, tuyệt đối hay tương ứng
với sự vật khác; quan hệ mà dây liên lạc
với bản thể thì yếu nhất và ở mức
độ tối thiểu tạo thành phạm trù cuối
cùng); những tùy thể tuyệt đối gồm
những tùy thể đính kết/enyparchonta lại gồm
lượng/poson và phẩm/poion, khai triển/kineseis gồm
hoạt động/poiein và cảm thụ/paschein, và bao
hàm/ta en tini gồm nơi chốn/pou và thời gian/pote và
biểu đồ 2 về hữu tương ứng
với những phạm trù/to kata tas ptoseis on là cây phổ
hệ về bản thể và những tùy thể.
Ông
đã viết bốn thiên sách về Aristote: luận án nói
trên, Tâm lý học Aristote, đặc biệt lý luận
về tinh thần sáng tạo/Die Psychologie des Aristoteles,
insbesondere seine Lehre vom Nous Poietikos 1867 (luận án giáo
nghiệp), Học thuyết Aristote về căn nguyên
của tinh thần con ngưới/ Aristoteles Lehre vom Ursprung
des menschlichen Geistes 1911, Aristote và thế giới quan của
ông/Aristoteles und seine Weltanschauung 1911 (ảnh hưởng
quan trọng đến luận án De Aristotelis notione
Unius 1864 và Materie und Form bei Aristoteles của Georg von
Hertling, môn đệ của ông).
Học
thuyết tâm lý học: Tác phẩm Tâm lý học
từ quan điểm thường nghiệm/Psychologie vom
empirischen Standpukt xuất bản lần đầu
năm 1874 như Brentano xác định ở lời nói
đầu là “quan điểm tâm lý học của tôi là
thường nghiệm, chỉ riêng kinh nghiệm là thầy
tôi”. Lần xuất bản đầu này gồm hai
quyển: quyển 1 trình bày tâm lý học như một khoa
học gồm bốn chương xác định khái niệm
và mục đích của tâm lý học, phương pháp tâm lý
học với những quy chiếu trên cơ sở kinh
nghiệm, những quy luật nền tảng , diễn
dịch và kiểm chứng; quyển hai nghiên cứu
những hiện tượng tinh thần tổng quát (phân
biệt giữa những hiện tượng tinh thần
và thể chất), ý thức nội tại, thể
thống nhất của ý thức, kiểm điểm
những lý thuyết phân loại hiện tượng tinh
thần (như Platon, Aristote, Wolff, Hume, Reid, Brown, Mendelssohn,
Kant, Hamilton, Lotze, trường phái Herbart) v.v.., quyển ba
của bộ Tâm lý học do Oskar Kraus biên tập mang nhan
đề Ý thức cảm xúc và tri hoạt/Vom
sinnlichen und noetischen Bewußtsein xuất bản năm 1929
thực sự chỉ là tiếp nối nghiên cứu “phân
loại những hiện tượng tinh thần” ở
phụ lục bộ Tâm lý học.
Ảnh
hưởng của Aristote qua luận án giáo nghiệp
vẫn là nguồn gốc cơ sở của tâm lý học
theo quan điểm thường nghiệm của Brentano,
như phân biệt những hiện tượng tinh
thần, hay hành vi tinh thần với những hiện
tượng vật lý. Cả hai hiện tượng cùng
xẩy ra trong tinh thần, song hiện tượng vật
lý thể hiện là màu sắc, hình ảnh tôi thấy, nóng,
lạnh tôi cảm thấy, âm thanh tôi nghe và những
thực thể tương tự trong tri tưởng, trong
khi nghe, thấy, cảm nhận, mọi phán đoán, nhớ
lại, kỳ vọng, tư kiến, nghi hoặc là
những hiện tượng hay hành vi tinh thần. Brentano
phân biệt ba loại hiện tượng tinh thần: (1) Vorstellungen
tức những ý niệm, tư tưởng, biểu
tượng, (2) phán đoán và (3) những hiện
tượng cảm xúc (yêu, ghét).
Hai
đặc tính chính trong tâm lý học Brentano là “tâm lý học
miêu tả/beschreibende Psychologie” và “phi hiện hữu ý
hướng/intentionale Inexistenz”. Khái niệm tâm lý học
miêu tả để phân biệt với tâm lý học
khởi sinh thực sự chính Brentano chỉ khai phá kể
từ bài giảng Về nguồn gốc của nhận
thức đạo lý/Vom Ursprung sìtlicher Erkenntnis 1889,
ở lời tựa ông viết: những điều tôi
trình bày ở đây là một phần của “tâm lý học
miêu tả”. Trong đoạn 14: “để hiểu nguồn
gốc thực của nhận thức đạo
đức, chúng ta phải xem xét những kết quả
nghiên cứu mới đây trong lĩnh vực tâm lý học
miêu tả”. Trong đoạn 19: “bộ diện chung của
mọi việc tâm lý, thường được quy
chiếu, rủi thay, bằng một từ sai lạc “ý
thức”, dựa vào quan hệ chúng ta với một
đối tượng. Quan hệ này được
gọi là ý hướng; “nó là quan hệ với sự
vật có thể không thật nhưng hiện diện
như một đối tượng”. Nhà tâm lý học miêu
tả nghiên cứu những cấu thành của ý thức
con người, những thành tố và xác định
những phương thức phối hợp của chúng.
Khác với tâm lý học khởi sinh hay giải thích, tâm lý
học miêu tả không quan tâm đến tình trạng nhân
quả của hiện tượng tâm lý hay những quan
hệ với quá trình vật lý, hóa học.
Khái
niệm phi hiện hữu ý hướng được
trình bày ở chương 1 quyển hai Tâm lý học
từ quan điểm thường nghiệm :
Mọi hiện tượng tinh thần đặc thị
điều mà những nhà Kinh viện thời Trung cổ
gọi là phi hiện hữu ý hướng (hay tinh thần)
của một khách thể, và cái mà chúng ta gọi dầu
không hoàn toàn bất hàm hồ là tham chiếu tới một
nội dung, hướng về một đối tượng
( điều mà ở đây không được hiểu là
ý nghĩa một sự vật), hay nội tại về
mặt khách quan. Mọi hiện tượng tinh thần bao
gồm một sự vật như khách thể trong nó,
dầu không phải hành động như vậy cùng
một đường lối. Thèm muốm là thèm muốn
một cái gì được hướng dẫn trong tư
tưởng về đối tượng của thèm
muốn, bất kỳ đối tượng xẩy ra
như thế nào. Luận cương ý hướng chỉ
ra hướng niệm hiểu biết bản tính chủ
yếu của tư tưởng.
Khái
niệm hướng tính không phải do Brentano phát kiến,
cũng không phải là người đầu tiên nhận
ra hướng tính của tinh thần, song kế thừa
từ Aristote và các nhà Kinh viện như Duns Scotus, Wilhelm von
Ockham. Tuy nhiên Brentano đã xem ý hướng như cơ
sở cho một triết học mang tính khoa học
thường nghiệm của tinh thần. Ông đã
để lại công trình nền tảng cho hiện
tượng luận hiện đại và nhiều nhà
triết học, từ Carl Stumpf, Meinong, Husserl, Heidegger,
Sartre, Merleau-Ponty v.v…
Joseph
M. Bochenski dẫn giải liên hệ ý hướng với
giảm trừ hiện tượng luận như sau: Qua
kinh nghiệm sống động diễn ra toàn thể
cơ bản của kinh nghiệm là kinh nghiệm về
một đối tượng. Những kinh nghiệm này
mang ý nghĩa “kinh nghiệm ý hướng”, và một khi
chúng là ý thức (yêu, đánh giá v.v..) về một sự
vật gì, có nghĩa là “liên hệ có ý hướng” về
sự vật. Khi áp dụng giảm trừ hiện
tượng luận [ý tượng] vào những kinh
nghiệm ý hướng như vậy, người ta đi
đến chỗ nhận ra một mặt khung ý thức
như một điểm tham chiếu thuần túy của ý
hướng (ý thức thuần túy), mà đối
tượng ý hướng được cho, mặt khác
người ta thấy một đối tượng, mà
giảm trừ không để lại hiện hữu nào
khác, được phú cho về mặt ý hướng
như chủ thể. Kinh nghiệm tự hiện như
hành vi thuần túy, không gì khác hơn là quan hệ ý
hướng của ý thức thuần túy về đối
tượng ý hướng” [Unter den Erlebnissen heben sich solche
heraus, die die Wesensgemeinschaft haben, Erlebnisse von einem Objekt zu sein.
Die Erlebnisse heißen 'intentionale Erlebnisse', und insofern sie Bewußtsein
(Liebe, Werten usw.) von etwas sind, heißen sie auf dieses etwas 'intentional
bezogen'. Indem man jetzt die phänomenologische [eidetische] Reduktion auf
solche intentionale Erlebnisse anwendet, kommt man einesteils zur Fassung des
Bewußtseins als eines reinen Bezugspunktes der Intentionalität ('reines
Bewußtsein'), dem der intentionale Gegenstand gegeben ist, anderenteils gelangt
man zu einem Objekt, dem nach der Reduktion keine andere Existenz verbleibt,
als diesem Subjekt intentional gegeben zu sein. Im Erlebniss
selbst schaut man den reinen Akt, der einfachhin die intentionale Bezogenheit
des reinen Bewußtseins auf den intentionalen Gegenstand zu sein scheint. in Europäische
Philosophie der Gegenwart 1947].
Khái
niệm phi hiện hữu ý hướng khá gây tranh luận
giữa những nhà triết học 'lục địa' và
triết học 'phân tích' về đường lối lý
giải. Những học giả trong cuộc tranh luận
có thể kể từ Herbert Spiegelberg, Roderick M. Chisholm,
Ausonio Marras, Dale Jacquette, Joseph Margolis, Barry Smith, Dermot Moran, Tim
Crane, Gabriel Segal, xu hướng dựa trên Aristote, Kinh
viện, triết học phân tích, hiện tương
luận, vật ngữ thuyết/Physikalismus, vật thể
luận/Reism. Những học giả như Hartry Field hay
W.V. Quine liên kết luận về phi hiện hữu ý
hướng của tinh thần với quan niệm vật
ngữ thuyết của thế kỷ XX. Segal giải thích
quan tâm đặc biệt của Brentano tới vấn
đề làm sao chúng ta có thể biểu hiện sự
vật không hiện hữu ngoài tinh thần, đó là ý
niệm về việc nếu nghĩ đến một
sự vật không hiện hữu, như vậy là tư
tưởng có đối tượng ý hướng hiện
hữu. Đối tượng này không là một vật
cụ thể của thực tại bên ngoài mà là một
thực thể chỉ hiện diện trong tinh thần. Tim
Crane dựa trên chương I trong Tâm lý học từ quan
điểm thường nghiệm của Brentano
để giải thích Brentano không xét đến khu biệt
giữa 'đối tượng vật lý' hiện hữu
và 'đối tượng ý hướng' không hiện hữu.
Quan điểm của Brentano rõ ràng là khoa học nghiên
cứu sự vật như những hiện tượng,
tự chúng không thực mà là những ký hiệu của
thực tại độc lập không biết về
mặt cơ bản. Ông vẫn tin tưởng có một
cái gì bên ngoài hiện tượng, khi ông đối
chiếu 'chân lý tương đối' của những
hiện tượng vật lý với những hiện
tượng của tri giác nội tại là thực tự
nội khi ông viết : tâm lý học nghiên cứu quy luật
của những hiện tượng cao hơn những
hiện tượng vật lý không những vì thật và
thực tự chúng mà còn cao đẹp không thể sánh
được.
Học
thuyết đạo đức: Bài
giảng Về nguồn gốc của nhận thức
đạo lý dẫn trên tại Hội Luật thành Wien
vào tháng giêng năm 1889 chính là để luận về
chế tài tự nhiên của luật pháp và đạo
đức/von der natürlichen Sanktion für recht und sittlich ['tự
nhiên ở đây hiểu theo nghĩa những quy luật có
thể được nhận biết là đúng và liên
hệ vì chúng theo bản nhiên của chúng']. Chủ đích
của Brentano là để xác định những nguyên lý
nhận thức đạo lý của con người
dựa trên nền tảng của phân tích mới, khác
với trước. Những nguyên lý này phát triển
những quan niệm trong Tâm lý học từ quan
điểm thường nghiệm, dựa trên những
tiền quy đề chẳng hạn như yêu và ghét là
những thành tố loại (3) trong những hiện
tượng tinh thần có thể được coi là đúng
hay không đúng, cũng như những phán đoán có thể
được coi là đúng hay không đúng. Nói một
điều gì A thì tốt như thể nói không thể yêu A
một cách không đúng, nghĩa là xác quyết loại
bỏ những người yêu A không đúng, Tương
tự như vậy, nói A là xấu là xác quyết loại
bỏ những người ghét A không đúng. Cách duy
nhất để nắm vững khái niệm cảm xúc
đúng theo Brentano là đối phản những
trường hợp cảm xúc thực được
'đánh giá là đúng' với nhũng trường hợp
cảm xúc không đúng.
Một
tác phẩm đạo đức khác của Brentano Grundlegung
und Aufbau der Ethik/Cơ sở và cấu trúc đạo
đức là tập hợp những bài giảng lần
đầu từ năm 1876 do F. Mayer-Hillebrand biên tập
xuất bản năm 1952 cho thấy lý luận đạo
đức trong hai tác phẩm nói trên giống nhau. Khi
đặt vấn nạn về những nguyên lý cơ
bản có trực tiếp là những phán đoán hiển
nhiên (như một loại quan hệ ý hướng trong
đó những trực giác tự nội cho ta nhận
thức trực tiếp), trong Cơ sở và cấu trúc
đạo đức Brentano chỉ ra việc con
người có thể nghĩ một phán đoán hiển
nhiên song thực tế không phải vậy : trong những
trường hợp như vậy, chúng ta phải sửa
đổi phán đoán của chúng ta, song nếu
trước đó có người nói với chúng ta là xác tín
tin tưởng của chúng ta là một sai lầm, hay
thiếu an toàn trực tiếp, chúng ta cũng phản bác
mạnh mẽ (Dann müssen wir freilich unser Urteil berichtigen, aber
wenn uns jemand vorher gesagt hätte, daß unsere so zuversichtliche Überzeugung
ein Irrtum sei, ja nur, daß sie unmittelbar Sicherheit entbehre, hätten wir
heftig widersprochen). Mặt khác có thể nghĩ một phán
đoán không hiển nhiên trong khi thực sự như
vậy , là vì những tri giác nội tại hiển nhiên
trong trường hợp bản nhiên nó có tính cách riêng
tư.
Quan
điểm về hiển nhiên và chân lý của Brentano
được trình bày trong di cảo Wahrheit und Evidenz/Chân
lý và hiển nhiên do Alfred Kastil biên tập xuất
bản năm 1930. Brentano đặc thị chân lý tham
chiếu với hiển nhiên vì « chân lý đi đôi
với phán đoán của con người phán đoán
đúng, vì thế nó gắn liền với phán đoán
của con người xác quyết điều gì con
người phán đoán với hiển nhiên xác quyết ».
Phán đoán hiển nhiên trực tiếp gồm hai loại
: phán đoán thuộc tri giác nội tại và phán đoán
của lý trí hay tri thức/Einsichten, chẳng hạn như
phán đoán hai vật thì nhiều hơn một vật, cái
gì đỏ thì khác với cái gì xanh v.v...Mọi phán đoán
hiển nhiên thì thật, song không phải mọi phán đoán
thật thì hiển nhiên. Những phán đoán thuộc tri
giác ngoại tại thì thật song không hiển nhiên. Brentano
cũng xét lại tam đoạn luận dựa trên lý
luận phán đoán của ông, cho nên theo ông, không phải
phán đoán khẳng định thì phổ cập và không
phải phán đoán phủ định thì đặc thù.
Vị
trí của Brentano trong lịch sử triết học khá quan
trọng vì ông được xem là người khai phá cho
triết học nước Áo, với nhiều môn
đệ nổi tiếng như Alexius Meinong, Anton Marty, Carl
Stumpf, Christian von Ehrenfels, những triết gia Ba lan như
Kasimir Twardowski, Tadeusz Kotarbinski. Ông còn được
biết là người thày của Husserl, cha đẻ ra
hiện tượng luận hiện đại và Heidegger. Ảnh
hưởng rõ ràng nơi luận án của Heidegger về
tâm lý học và xu hướng tâm lý học đầu tiên
nơi Husserl (cho đến khi bừng tỉnh vì ảnh
hưởng của Frege). Quan niệm về ý thức thời
gian nơi khái niệm trì động/Retention của Husserl
chịu ảnh hưởng khái niệm 'liên tưởng
nguyên ủy' của Brentano.
Sau
Thế chiến, tuy ảnh hưởng triết học
Brentano đã mờ nhạt trước phong trào hiện
tượng luận ở lục địa châu Âu, song quan
niệm về phương pháp luận triết học và ý
hướng tính vẫn quan trọng đối với
triết học phân tích và ngôn ngữ Anh-Mỹ, nhất là
qua những di cảo được xuất bản sau khi
Brentano đã mất.
Những
tác phẩm chính, ngoài những sách đã dẫn nơi trên : Über
die Gründe der Entmutigung auf philosophischen Gebiete 1874, Was für
Philosophie manchmal Epoche macht 1876, Die vier Phasen der Philosophie 1926,
Über den Creatianismus des Aristoteles 1882, Das Genie 1892, Das Schlechte als
Gegenstand dichterischer Darstellung 1892, Grundzüge der Ästhetik 1959, Über
die Zukunft der Philosophie 1893, Untersuchungen zur Sinnepsychologie 1907, Von
der Klassifikation der psychischen Phänomene 1911, Kategorienlehre 1933.
Từ điển triết học kỳ 38
Bergson, Henri:
Henri Bergson sinh năm 1859 tại Paris, thân phụ vốn là nhạc sĩ, gốc ở
Ba lan lưu vong qua Pháp, thân mẫu là người Anh và chỉ nói chuyện với
ông bằng tiếng Anh, cho nên dường như những tài liệu khoa học, kể cả từ
những tác giả Đức, ông đọc từ bản Anh ngữ. Cha mẹ ông nuôi dưỡng, giáo
dục ông trong những quy tắc Do thái thái cổ truyền. Tuy nhiên, có lẽ vì
lý do gia đình, ông đã sớm được gửi học ở ký túc xá từ năm chin tuổi.
Bergson cũng sớm tỏ ra ưu tú cả về triết học và toán học, ông đoạt giải
nhất trong những cuộc tranh tuyển hai môn học này. Khi học ở trường Cao
đẳng sư phạm, bạn cùng lớp với ông là Durkheim, Baudrillart và Jaurès.
Ông thích lối giảng dạy nghiêm túc của J. Lachelier, người thày mà ông
đề tặng trên luận án chính Essai sur les données immédiates de la conscience 1889, đọc Essais của
Cournot và nhất là Spencer (ảnh hưởng quan điểm sinh học và cụ thể của
thiên tài người Anh này), cũng như Ravaisson. Bergson hoàn tất sự nghiệp
dạy đại học ở Collège de France từ năm 1900, nhận giải Nobel văn chương
vào năm 1928. Ngay từ 1937 trong chúc thư, ông bày tỏ ý định xuất bản
tất cả những gì muốn gửi đến công chúng và tác phẩm toàn thành vào năm
ông mất (1941).
Luận về những dữ kiện trực tiếp của ý thức
như lời mở đầu chỉ ra tất yếu của ngôn ngữ, tư duy trong không gian
những khu biệt và gián đoạn của những đối tượng vật chất, cho nên
Bergson chọn cái chung của siêu hình học và tâm lý học là vấn đề tự do.
Đó là toan tính đem siêu hình học vào lĩnh vực kinh nghiệm, thuộc khoa
học và ý thức, dùng trực giác và phân tích những đặc tính nguyên ủy của
kỳ gian/durée nội tại để minh giải tự do.
Vật chất và ký ức/Matière et mémoire 1896
nhằm khẳng định thực tại của tinh thần và vật chất cũng như xác định
quan hệ giữa tinh thần và vật chất khi nghiên cứu những vấn đề qua tri
giác và ký ức. Trong tác phẩm này, Bergson đã khai triển khái niệm kỳ
gian/durée mô tả trong luận án nói trên thành một hệ thống những đối lập
giữa cái trống không của quá khứ và tương lai với cái đầy của hiện tại.
Kỳ gian có thể xét trên ba chiều kích, không gian, thân thể và vật
chất: nhận thức vật chất và những quan hệ với ký ức, quan hệ giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai trong chuyển động tiến hóa, khu biệt giữa ảo
và thực cũng như ảo và thực tiễn của trực giác. Bergson xác định: vật
chất là toàn bộ những ảnh tượng và tri giác là những ảnh tượng này quan
hệ với hoạt động khả hữu của một ảnh tượng nhất định: thân thể của tôi.
Ông coi ký ức là bản chất của kỳ gian, sinh động, có những nhịp điệu
khác nhau đo lường mức độ của căng giãn ý thức, do đó định vị chúng
trong chuỗi những hữu. Ông khẳng định tính nhị nguyên, song coi chủ
nghĩa duy thực và duy tâm là những thuyết thái quá như nhau (idéalisme
et réalisme sont deux thèses également excessives).
Tiến hóa sáng tạo/L'évolution créatrice 1907
nhằm khảo sát lịch sử tiến hóa của đời sống, xét đến đối lập giữa duy
cơ luận và cứu cánh luận, hoạt động của trí hiểu/intelligence (dẫn đến
một trong những kết luận của công trình này là “trí hiểu của con người
nhằm khẳng quyết tiếp hợp toàn diện thân thể vào trong môi trường, biểu
hiện những quan hệ của sự vật ngoại tại với nhau, ngõ hầu tư duy vật
chất”. Bergson xây dựng cơ sở cho một tiến hóa luận tương ứng với thực
tại, chỉ có cái thực mà bản thể của nó là biến đổi, một đà sống nguyên
ủy. Đời sống nội tại của con người là sáng tạo không ngừng và không dự
kiến trước được. Cơ thể sinh động là thực tại tồn tục. Trong kết luận
(cũng là phần tranh biện thường xuyên với tiến hóa luận của Spencer)
Bergson nói đến chức năng riêng có của triết học, không những chỉ để trở
về của tinh thần với chính nó, trùng phùng của ý thức con người với
nguyên lý sống ở đó phát sinh ra nó, một tiếp cận với nỗ lực sáng tạo.
Hai nguồn của đạo đức và tôn giáo/Les deux sources de la morale et de la religion 1932
đánh dấu một khoảng thời gian khá xa với những tác phẩm dẫn trên, cũng
như sự chờ đợi của triết học truyền thống Pháp là xây dựng một thuyết
đạo đức. Hai nguồn của đạo đức là nghĩa vụ và nguyện vọng. Nghĩa vụ ở
đây là nghĩa vụ xã hội, bắt nguồn từ thể tính sinh học, con người thoát
ra khỏi tính động vật sống trong những “xã hội đóng kín” như một bước
lùi làm chậm đà tiến của con người, biểu hiện áp lực xã hội trên hoạt
động đạo đức của phần lớn nhân loại.Ông quan niệm bên cạnh đạo đức tiêu
cực này còn có một đạo đức cởi mở, đó là có những người anh hùng đầy
nghị lực có thể hóa thân cái mới qua thái độ ứng xử làm điển hình sống
và tạo một công lý, thanh tịnh, bác ái, lĩnh hội tự tại mới. Bergson
cũng trình bày tính nhị nguyên này trong lĩnh vực tôn giáo.
Quan
niệm xã hội đóng kín và xã hội cởi mở của Bergson chịu ảnh hưởng của
Durkheim và Freud. Quan niệm về Thượng đế của ông đã bắt nguồn từ khái
niệm đà sống như một “siêu ý thức” khác hẳn với quan niệm thần học tây
phương cổ truyền. Tuy nhiên hiểu biết của ông về những tôn giáo đông
phương khá nghèo nàn, phần chịu ảnh hưởng Lévy-Bruhl và quan niệm thần
bí.
Ngày
nay, Bergson vẫn là thể hiện một nền nhân bản riêng của triết học Pháp;
ảnh hưởng của ông trong quan hệ với chủ nghĩa hiện sinh Pháp phân biệt
với hiện tượng luận Đức, mặc dầu cũng có người cho rằng Bergson có một
con đường tương tự như nhà triết học cùng thời, Husserl khi hướng triết
học về con đường cụ thể của ý thức. Jean Hyppolite trong tham luận tại
hội nghị quốc tế triết học tháng tư 1949 Từ chủ nghĩa Bergson đến chủ nghĩa hiện sinh đã xem như mở ra một con đường triết học Pháp có ý nghĩa quan trọng (như quan niệm ngã sâu sắc/ngã hời hợt với quan niệm tính chính thực/phi chính thực); quan niệm về tri giác và thân thể của Bergson ảnh hưởng đến tư tưởng Merleau-Ponty sau này (trong Ca ngợi triết học,
Merleau-Ponty nhận xét Bergson nói về cơ giới luận, luận về thời giờ
rảnh rỗi của công nhân, thân phận của phụ nữ với một giọng ít có tính
cách bảo thủ), nhà triết học trẻ người Pháp Frédéric Worms (sinh năm
1964) viết Bergson ou les deux sens de la vie/Bergson hay hai ý nghĩa của đời sống 2004
khai phá nguồn gốc và tầm vóc cực kỳ sâu xa của tư tưởng Bergson, và vị
thế triết học trong lịch sử giữa thời đại của ông với hiện tại. Đọc
Bergson để thấy dấu hiệu của một triết học lớn, “trong những thời khoảng
lớn lao nhất của cuộc đời, thân thể hữu cơ của con người và lịch sử hòa
trộn lẫn nhau không rời; những sự biến ấy luôn luôn là những quan hệ,
không phải sống hay chết, nhưng là những giáng sinh và tang tóc, những
gặp gỡ và sụp đổ đánh dấu mốc cuộc đời chúng ta, nối kết và chia lìa
chúng”.
Ngoài những sách dẫn trên, những tác phẩm khác của Bergson: Le Rire 1900, L'Energie spirituelle 1919, Durée et simultanéité 1922, La Pensée et le mouvant 1934.
Bách khoa
: từ 'Bách khoa' bắt nguồn từ tiếng hy lạp έγχύχλιοςπαιδεία để chỉ khởi
thủy là chu kỳ học tập khoa học và nghệ thuật mà thanh niên có điều
kiện tự do phải theo đuổi đặng trở thành công dân.
Ngay
từ thế kỷ IV trước C.N. đã có những khoa học hình thành chuyên biệt.
Những biện giả hy lạp là những người đầu tiên đề ra lý tưởng có văn hóa
bách khoa, nhưng thật sự hiếm có những đầu óc khả dĩ bao trùm mọi kiến
thức nhân loại, như Aristote, người đã tổng hợp mọi tư tưởng đi trước
trong mọi lĩnh vực như triết học, các khoa học vật lý,chính trị, tu từ,
thi ca.
Bộ bách khoa cổ nhất là của học giả Varron/Marcus Terentino Varro (116-27 tr.C.N.) gồm chín quyển Disciplinarum/Những bộ môn học chứa những nguyên lý giảng dạy những văn nghệ cho thời Trung cổ sau này, và bốn mươi mốt quyển Antiquitatum rerum humanarum et divinarum/ Cổ sự của người và thần
thâu gồm những nghiên cứu liên quan đến sử, địa, luật, tôn giáo song
không có phê bình. Đó là khuyết điểm chung của những công trính cùng
loại của người La mã. Tuy nhiên phải kể những tác phẩm quan trọng như Naturalis historia/Sử tự nhiên của Gaius Plinius Secundus (Pline lão - 23-79 C.N.), Naturales quaestiones/Vấn nạn tự nhiên
nghiên cứu những vấn đề căn bản của khoa học của Lucius Annaeus Seneca
(4 tr.C.N.-65 C.N.), Satyricon của Marcien Capella (thế kỷ V) khảo sát
những văn nghệ.
Francis Bacon với The
Advancement of Learning 1605, Cogitata et Visa 1607, De Sapienta
Veterum 1609, Novum Organum 1620, De Augmentis Scientiarum 1623 đề ra hai khả năng quan sát và phản tư, giữa triết học kinh nghiệm và thuần lý để quan niệm bách khoa.
Nhóm Bách khoa (encyclopédistes) Pháp ở thế kỷ 18 với Denis Diderot và Jean Le rond d'Alembert coi Bacon như người tiên khu : Encyclopédie ou Dictionnaire raisonné des sciences, des arts et des métiers, par une société de gens de lettres 1751-1772
do Diderot chủ xướng và là biên tập chính, gồm 17 quyển chính, 11 đồ
bản/planches, 5 quyển phụ lục và 2 quyển đồ biểu/tables tham chiếu, khởi
thủy là dịch và phỏng theo Cyclopaedia 1728 của Ephraim
Chambers, hình thành đầu tiên từ John Mills người Anh, Godefroy Sellius
người Đức, rồi đến Gua de Malves của Viện Hàn lâm khoa học Pháp.
Triết
học của nhóm Bách khoa gồm mọi mặt : hữu thể luận, tri thức luận, đạo
đức học, lý luận xã hội và chính trị, lý luận ngữ học, mỹ học. Quan điểm
chính có thể tóm gọn trong câu của Diderot : Con người là hạn từ duy
nhất để khởi đầu và mọi sự phải trở lại (l'homme est le terme unique,
d'où il faut partir, et auquel il faut tout ramener). Ba quan năng của
tinh thần là ký ức, lý trí, tri tưởng. Cây tri thức không có căn rỗi
trong trật tự siêu việt của Thượng đế mà trong tinh thần của con người
và trật tự quan năng của con người. Những nhà Bách khoa Pháp cũng chịu
ảnh hưởng của Bayle (trong Dictionnaire historique et critique)
khi quan niệm từ điển là một tuyên ngôn của tự do tinh thần và là một vũ
khí chiến đấu tư tưởng, như trong mục từ 'Encyclopédie' phát biểu
« phải thay đổi lối suy nghĩ thông thường/ changer la façon commune de
penser ». Họ cũng chịu ảnh hưởng của Chambers dựa trên những nghiên cứu
mới nhất của những nhà bác học như Boyle, Halley, Hooke, Newton,
Leibniz, Clairaut, Maupertuis, Lagrange trong lĩnh vực vật lý học và
toán học, hay Boerhaave, Lémery, Sydenham, Réamur, Bordeu và trường phái
Montpellier trong lĩnh vực y học.
Blondel, Maurice
: Blondel sinh năm 1861 ở Dijon, vào trường Cao đẳng sư phạm năm 1881,
là một nhà triết học Thiên chúa giáo nổi tiếng nhất ở thế kỷ XX, có ảnh
hưởng tới nhiều nhà triết học Thiên chúa giáo muốn tìm một lưa chọn thay
cho học thuyết Tô-mít. Oâng dạy ở đại học Aix-en-provence từ năm 1896
cho đến khi mất (1949). Tác phẩm chính của ông là L'Action 1893 với tiểu đề : Essai d'une critique de la vie et d'une science de la pratique/Luận về một phê bình đời sống và một khoa học thực tiễn
đề tặng người thầy ở trường Sư phạm là Léon Ollé-Laprune, coi bản chất
của ý thức mới trong khuôn khổ Thiên chúa giáo là phấn đấu, chịu khổ, có
trách nhiệm với toàn diện sáng tạo ; chức năng của triết học hành động
là tạo ra con đường tràn đầy niềm tin. Blondel được coi là một triết gia
hiện thực duy linh.
Những tác phẩm khác của ông là : La
Pensée 1934 ; L'Eâtre et les êtres 1935 ; L'Action (cùng nhan đề với
sách xb năm 1893) gồm 2 quyển : Le Problème des causes secondes et le
pur agir (Vấn đề những nguyên nhân thứ cấp và hành sử thuần túy) và
L'Action humaine et les conditions de son aboutissement (Hoạt động của
con người và những điều kiện thông đạt) 1937 ; La philosophie et
l'esprit chrétien 1944-46 ; Exigences philosophiques du Christianisme
(Những yêu cầu triết lý của Thiên chúa giáo) 1950.
Boutroux, Emile
: Eùmile Boutroux sinh năm 1845 ở Montrouge (Hauts-de-Seine), gần Paris
theo học trường Cao đẳng Sư phạm từ năm 1865, là học trò của Jules
Lachelier hướng dẫn ông vào con đường nghiên cứu Kant [giảng khoa của
Boutroux ở Sorbonne niên khóa 1896-97 La philosophie de Kant và niên khóa 1887-88 La philosophie allemande au XVIIe siècle (triết học Đức thế kỷ 17)
chuyên biệt về Leibniz và những nhà triết học trước Leibniz]. Ông đã
từng sang Đức học tại đại học Heidelberg 1869-70 với Hermann von
Helmholtz Xu hướng của ông về triết học khoa học, thể hiện ở luận án De la Contingence des lois de la nature (Về tính bất tất của những quy luật tự nhiên) 1874
và phát triển trong giảng khoa ở Sorbonne De l'Idée de loi naturelle
dans la science et dans la philosophie contemporaine 1895, quan niệm có
sự gián đoạn cơ bản phân chia những tầng lớp khác nhau của hữu thể về
vật chất, bản năng và tư duy. Theo ông, trật tự của tự nhiên là biến đổi
khi phân tích khái niệm tất yếu và khu biệt giữa khái niệm này với tất
định thuyết, tư duy có tính đa nguyên.
Boutroux đối lập với chủ nghĩa duy vật trong khoa học. Trong tác phẩm Science et religion dans la philosophie contemporaine 1908, ông
quan niệm 'cái gọi là tôn giáo' hướng dẫn lý trí, và tính nhân quả mục
đích luận thay cho nhân quả duy cơ. Người con trai của ông là Pierre
Boutroux sinh năm 1880 là một nhà toán học và triết học toán học với
những tác phẩm Les principes de l'analyse mathématique 1914-1919 ; L'idéal scientifique des mathématiques 1920.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét