Stéphane Courtois et al.
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Lời nói đầu
Nguyên tác : Le livre noir du communisme s. dir Stéphane Courtois et al.
(Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin )
(Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin )
Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nỗi đau khổ
của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đã chứng
minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu
đã làm giàu trong các cuộc buôn bán người nô lệ da đen. Nước Pháp với
chính sách thuộc địa đã ghi lại biết bao nhiêu ghê tởm trong lịch sử. Xã
hội Hoa Kỳ vẫn còn duy trì nền văn hóa bạo động phát sinh từ hai tội ác
trọng đại: Việc khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống thổ
dân Da Đỏ.
Nhưng
nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đã vượt hẳn các thế
kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đã có quá nhiều thảm họa do con người gây
ra : Hai trận thế chiến, Chế độ Đức quốc xã, các thảm trạng xảy ra ở
Armenia, Biafra, Rwanda và một vài khu vực khác. Đế quốc Ottoman của Thổ
Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức quốc xã tiêu diệt
dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie. Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của cộng sản đã gây ra .
Chủ
nghĩa Cộng Sản , một hiện tượng lớn của thế kỷ 20 , bắt đầu từ năm 1914
và kết thúc vào năm 1991 tại Mạc Tư Khoa. Chủ nghĩa Cộng Sản ra đời
trước chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hội, goị tắc là Quốc Xã. Chủ nghĩa Cộng Sản
sống lâuhơn Quốc Xã và nó lan rộng ra khắp năm Châu.
Chúng ta cần phân bịệt giữa Chủ nghĩa và hành động.
Về
phương diện lý thuyết chính trị, chủ nghĩa Cộng Sản đã có từ nhiều thế
kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đã đề cập đến ''
Chế độ cộng hòa'' trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay
quyền lực. Trong xã Hội đó chỉ có sự khôn ngoan, công lý và lẽ phải ngự
trị mà thôi.
Một
nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đã vạch ra một quốc gia
lý tưởng nhưng đã bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là
những nguồn sinh khí những đóng góp quý giá cho các nền dân chủ về sau.
Còn
chủ nghĩa Cộng Sản được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư
tưởng trên. Đây là chủ nghĩa Cộng Sản hành động. Nó đã diễn ra ở một
thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rõ qua các cuộc khủng bố
, đàn áp, kiểm soát biên giới, kiểm soát các phương tiện truyền thông ,
bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.
Những ký ức
về khủng bố đã làm cho người ta không quên được chủ nghĩa Cộng sản .
Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim Nhựt Thành
của Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh của Việt Nam, Fidel Castro của Cu Ba
v.v.. .. và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là : Maurice Thorez,
Jacques Duclos, Georges Marchais.
Nhưng tội ác của Cộng Sản đã không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên bình diện bình thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với cộng sản về tội ác mà chủ nghĩa này đã gây ra.
Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp vì
các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lãnh tụ mà nước Pháp
đã đón tiếp họ một cách nồng hậu.
Các
tội ác mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này không dựa trên các
tài liệu '' pháp lý'' của chế độ Cộng sản. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn
bản '' bất thành văn ''. Nói một cách khác, các tài liệu này không được
viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lý của nhân loại.
Chúng
ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát
nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân
chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của
tội ác mà Cộng sản đã coi đó như là cứu cánh của tòan thể hệ thống lãnh
đạo.
Chúng tôi sẽ nói lên những gì ? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào ?
Có vô số tội ác :
Trước hết là tội ác về văn hóa của các quốc gia Cộng sản thống trị và văn hóa của nhân loại.
Staline
đã ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo tại Nga. Nhà
độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đã ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu
Âu đó là thành phố Bucaresti. Pol Pot đã cho tháo gỡ từng viên gạch của
thành phố Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên. Trong cuộc cách mạng văn hoá,
Hồng Vệ Binh của Mao đã phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô giá của nhân
dân Trung Hoa.
Chúng
tôi chỉ ghi lại tội ác của một số người được coi là linh hồn của các vụ
tàn sát. Tuỳ theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành
dưới nhiều hình thức khác nhau. Xư bắn, xử treo cổ, nhận chìm trong
nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu
đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quãng
đường dài hàng trăm cây số, lao động khổ sai, kiệt sức,...
Chúng
tôi thống kê danh sách con số người đã bị Cộng Sản giết chết. Đây chỉ
là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính
xác. Sau đây là con số người nạn nhân đã bị Cộng Sản giết chết :
Trung-Quốc
Liên-Xô
Bắc-Hàn
Miên
Phi-châu
A-phú-Hãn
Đông-Âu
Việt-Nam
Trung-Mỹ
|
: 65 triệu;
: 20 triệu;
: 2 triệu;
: 2 triệu;
: 1,7 triệu;
: 1,5 triệu;
: 1 triệu;
: 1 triệu;
:150 ngàn;
|
Các phong trào Cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản đang nắm chính quyền: vài chục ngàn.
Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu.
Nếu
tính theo tỉ lệ thời gian thì Pol Pot đứng hàng đầu gây tội ác. Trong
vòng 3 năm, Pol Pot đã tiêu diệt một phần tư dân số dân tộc Miên. Mao đã
gây tội ác trầm trọng trong cuộc cách mạng văn hóa. Bàn tay của Lenine
và Staline đẩm máu vì cái lô-gích tư tưởng của mình.
Nếu
chỉ suy tư về tội ác thì không thể nào đánh giá được phẩm chất chiều
sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách
quan và trên khía cạnh pháp lý.
Tại
tòa án Numberg vào năm 1945, các lãnh tụ Đức Quốc Xã đã bị kết án về
tội diệt chủng trong thế chiến thứ hai căn cứ theo điều 6 của tòa án
quốc tế. Điều luật này ghi 3 trọng tội: chống lại hòa bình, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại.
Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này thì Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền Cộng sản đã gây ra tội ác đều phải bị kết án.
Theo
điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa sọan và theo đuổi cuộc
chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các
thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại hòa bình. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật ký hai
hiệp ước với Đức Quốc Xã vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 năm
1938 để rảnh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này
đã khởi đầu Đệ nhị thế chiến. Ngoài ra Staline còn vi phạm vào tội giúp
khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25
tháng 6 năm 1950. Staline cũng đã xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày
30 tháng 9 năm 1939.
Mạc
Tư Khoa đã chỉ đạo các đảng Cộng sản đàng em, mở các cuộc chiến tranh
phá hoại các một số quốc gia khác. Tại A Phú Hãn, Mạc Tư Khoa đã vi phạm
vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp đảng Cộng sản nước này để
cướp chính quyền vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Nó mở đầu cho cuộc chiến
kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đã rút ra
từ năm 1989.
Điều
luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều
khoản này đã được ghi rõ trong bản '' giao ước quốc tế '' ra đời năm
1907 tại thành phố La Hague của nước Hòa Lan. Nó bao gồm các điểm: hành
động ám sát, hành hạ, ngược đãi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con
tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền
tệ không có lý do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự,..
Staline
đã cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của quân đội Ba Lan bị bắt làm tù
binh vào cuối năm 1939. Tại thành phố Katyn khi cho khai quật mồ chôn
tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi điều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra còn
các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người
biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam
khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hãm hiếp phụ nữ
Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.
Điều
luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau :
Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đãi vì lý
do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo, ..
Trong
bản cáo trạng tại toà án Numberg, Tổng Biện Lý Francois de Menton nhấn
mạnh tính chất ý thức hệ của các tội ác này như sau :
''
Tôi cho rằng tất cả các tội ác đã gây ra cho một khối đông đảo quần
chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên một chủ nghĩa đã
chối bỏ tất cả giá trị luân lý của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng
là nguồn gốc của chủ nghĩa Quốc Xã. Đó là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc.
Đây không phải là một tại nạn rủi ro , không phải là một sự việc tình
cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ
chức trong khi thi hành..''
Các bản tuyên
cáo của tòa án Numberg nhấn mạnh đến một điểm chính của điều khoản
''chống lại nhân lọai ' : Lạm dụng quyền lực của nhà nườc đề phục vụ cho
một chính sách và thi hành các tội ác.
Căn
cứ vào điều luật này, thì tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine,
Staline và tại các quốc gia nằm trong tay Cộng sản đều phải bị kết án.
Cộng
sản nhân danh nhà nước, nhân danh một ý thức hệ để tiêu diệt hàng chục
triệu người vô tội, chỉ vì họ là quý tộc, là thành phần trung lưu, trí
thức, địa chủ ,..
Khái
niệm về tội ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng
dân Do Thái do Đức quốc xã gây nên, ngày 9 tháng 12 năm 1948 Liên Hiệp
Quốc xác nhận như sau :.giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng
ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dấn dần bị tiêu diệt đối với một nhóm
dân, một sắc dân hay một tôn giáo điều bị ghép vào tội ' chống lại nhân
loại'.
Bộ hình luật mới của Pháp định
nghĩa từ '' diệt chủng'' rộng rãi hơn . Đó là thỏa hiệp đưa đến việc
tiêu diệt một phần lớn hay tòan thể một khối người, một sắc tộc, một
giai cấp trong xã hội hay một tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác
nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu một người bị giết vì
lý do đã được sinh ra trong một giai cấp xã hội, một sắc dân hay theo
một tôn giáo,.. đều bị coi như tội ác chống nhân loại.
Trong
quyển sách '' Cuộc khủng bố đỏ ở Nga''xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, sử
gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại một mẫu chuyện của một người
chi huy đầu tiên của cơ quan tình báo chính trị Xô Viết, có tên là
Latziv. Ngày 1 tháng 11 năm 1919 ông ta ra lịnh cho một tên công an dưới
quyền là tìm bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét
tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là : anh thuộc thành phần nào, gốc
gác từ đâu, trình độ học vấn, nghề nghiệp,..
Chính
Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ chình
trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động
diệt chủng của nhóm người BônsêVích thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi
họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người gìa, phụ nữ
và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc , nhà cửa bị phá hủy.
Trong
những năm 1930 , 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẻ và
tòan diện hơn. Staline xử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như
bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh '
tập thể hóa '. Tuy rằng những ngưới đưa đi lưu đày không bị giết ngay
nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết giá
lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá lợi Á, chẳng còn được bao nhiêu
người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra,
nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.
Trong
vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập
thể hóa đã có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đã diễn ra hai
hình thức diệt chủng : diệt chủng giai cấp và diệt chủng sắc dân.
Quốc
Xã Đức xử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các phòng hơi
ngạt và lò thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi Cộng sản xử dụng 'vũ khí
đói' để tiêu diệt các sắc dân. Cộng sản tìm đủ mọi cách để kiểm sóat
lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là
xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. Tình trạng
này đã dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước Cộng
sản.
Bản tổng kết đầu tiên tòan bộ các tội ác được ghi như sau :
Trong
những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được
xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát vì chống đói
chính sách tập thể hoá của Cộng sản.
Nạn đói năm 1922 đã làm cho 5 triệu người chết.
Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930.
Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng
trăm ngàn ngươì thuộc các sấc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống
trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn
trong những năm 1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979 dân ở các thành phố Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do Cộng sản Trung quốc chủ trương từ năm 1950.
Cho
tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các
tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao Trạch Đông , Kim Nhật
Thành và Pol Pot.
Về
phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra một vấn đề : Sử
gia có quyền xử dụng các từ thuộc lãnh vực pháp lý như '' tội ác chống
lại nhân lọai' hay '' tội diệt chủng '' trong lúc nghiên cứu về tính
chất của chiến tranh hay không ? Mặc khác , các khái niệm này cũng không
nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch
sử.
Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng
ta thấy tội ác diệt chủng không phải là tội ác độc quyền của Đức quốc
xã. Hãy nhìn những gì đã xảy ra gần đây ở các nước Bosnie , ở Rwanda ,
chúng ta sẽ bằng lòng điểm này.
Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ tìm hiểu sự việc mà không phán đóan.
Nhưng
đứng trước thảm họa của nhân loại , sự phá vỡ phẩm giá của con người,
các sử gia có thể bỏ qua một số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử gia
Jean Pierre Azema đã kết án chế độ Đức quốc xã có '' tội ác chống lại
nhân loại''. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết
án tên Touvier, một người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức đuốc xã.
Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tội ác do Cộng sản đã gây ra.
Ngoài
ra còn phải đặc trách nhiệm của các chế độ Cộng sản đang nắm quyền hành
. Họ là những kẽ tòng phạm. Năm 1987, bộ hình luật của Gia Nã Đại tu
chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tội ác chống lại nhân
loại, gồm có : Mưu toan, tòng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện
tội ác chống lại nhân loại, âm mưu và tòng phạm sau khi đã xảy ra sự
việc.
Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm
1920 đến 1950 những người Cộng sản trên thế giới đã hô hào cổ vỏ cho
hai tên gây tội ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào
phong trào Cộng sản quốc tế. Trong nhừng năm 1950,1960,1970 hàng triệu
ngươì sùng bái Mao Trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn
hoá. Và gần đây còn có nhiều ngươì ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả :
chúng tôi đâu có biết.. Mà quả thật không dễ gì biết những gì Cộng sản
làm. Bí mật là phương châm họat động của Cộng sản. Nhưng có nhiều người
ngày nay đã biết sự thật nhưng họ vẫn êm lặng.
Năm
1969 ông Robert Conquest, một trong những sử gia đầu tiên nghiên cứu về
tội ác của Cộng sản, đã viết :'' Một việc rất rõ là có nhiều ngươì chấp
nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở thành phố Mạc tư Khoa trong các năm
1936,1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự
đồng lõa cho các vụ thanh trừng tòan diện tiếp theo sau. Nhiều người ở
bên ngoài đã thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những ngươì này dù chỉ
có lời bình phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là tòng phạm trong các vụ án chính trị.
Joseph Berger, một cán bộ trong tổ chức Quốc Tế Cộng Sản, ngươì
đã từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai , đã kể lại một lá thư của
một nữ tù nhân đảng viên Cộng sản được trả tự do sau khi lưu đày với nội
dung như sau :'' Các người Cộng sản thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền
lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những
người Cộng sản khác trên khắp thế giới. Đây là một vết nhơ mà chúng tôi
đã vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tội ác này
không còn tái diễn. Điều gì đã diễn ra ? Phải chăng chúng tôi mất cả lý
trí ? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội Cộng sản ? Thật ra
chúng tôi, kể ca những nhân viện thân cận của Staline đều đã vi phạm các
tội ác. Chúng tôi đã tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho
việc chiến thắng của Chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả
các việc làm để củng cố quyền uy cho đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như
cho các đảng Cộng sản trên toàn thế giới. Chúng tôi không bao giờ nghĩ
đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lý..''
Những
ngươì Cộng sản Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bơỉ cơ quan
NKVD - Bộ nội vụ- của Liên Xô nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi Liên Xô và
nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đã uống phải liều thuốc tiên nào đó
nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của Liên Xô.
Trong
quyển sách nói về cách mạng của Nga, nhà văn Martin Malia đã vén cho
chúng ta thấy tấm màn nghịch lý của một '' tư tưởng lớn'' và đã dẫn đến
một kết luận : Đó là một tội ác lớn.
Bà Annie Kriegel, một nhà phân tích lớn về chủ nghĩa Cộng sản đã cho thấy hai mặt của chủ nghĩa : Mặt tươi sáng và mặt tối.
Ý
thức hệ Cộng sản dự phóng một xã hội tốt đẹp. Điều này đã mê hoặc nhiều
người . Nhưng xã hội Cộng sản tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng
ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài vì sợ chịu trách
nhiệm và tự do đã chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng những người sống
trong chế độ độc tài Cộng sản thì quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay
đổi. Trong luận đề '' Sự sợ hãi của ý thức tự do '' ông Fromm tuyên bố : tình nguyện làm đầy tớ cho chủ nghĩa Cộng sản.
Những
người tình nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ tòng phạm. Khi chấp nhận
làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là tòng
phạm.
Phân tích hiện tượng Cộng sản khi đang nắm chính quyền là một việc làm khó khăn.
Ông
Jean Ellenstein cho rằng Staline là một hiện tượng vừa mang tính chất
bạo tàn của thời cổ Hy Lạp , vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận
định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của
tính độc tài. Một vài so sánh sau đây sẽ giải thích rõ vấn đề.
Chúng
ta bằng lòng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người Bônsêvích
chiến đãu chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng một khi quyền hành nằm trong
tay những người BônsêVích thì sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga
Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước tòa án xét
xử, đúng luật lệ của một toà án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tội
nhân, có nhân chứng, có dư luận của
quần chúng. Đôí vơí Cộng sản, các sự việc trên không hề xảy ra. Người
tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách
, viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đình. Họ có quyền đi
săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác ,.. Chính Lenine và
Staline cũng đã từng ở tù và bị lưu đày dưới thơì Nga Hoàng. Cả hai đã
có những kinh nghiệm này.
Trong
tác phẩm '' Kỹ niệm ngôi nhà của người chết'', nhà văn Dostoievski đã
làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của
thời Lenine, Staline thì chẳng đáng vào đâu.
Từ
năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nhìều cuộc rối lọan và bị
đàn áp. Đã có 6360 ngươì bị kết án tử hình. Trong số này có 3922 ngươì
bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đầu tiên lên nắm chính quyền, người
Bônsêvích đã xử tử nhiều hơn so vơí con số này.
Vào
những năm 1920 đến năm 1940, Cộng sản lên tiếng phản đối các cuộc khủng
bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem
những gì xảy ra ở Ý. Chế độ Phát xít Ý có ngược đãi các nhà chính trị
đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đã bắt vài trăm đói thủ
chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đảo. Trên
thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những gì mà thế giới đã kết án
nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.
Trong
kỳ thế chiến thứ hai, Đức quốc xã đã ra tay đàn áp các thành phần chống
đối họ như các ngươì Cộng sản, nhóm xã hội ,nhóm vô chính phủ và một số
nghiệp đòan. Đức quốc xã công khai đàn áp và bắt giam những ngươì này .
Từ năm 1933 đến 1939 Đức quốc xã đã kết án và xử bắn 20.000 ngươì. Đó
là chưa kể đến con số người bị bắn chết vì lý do không đủ tiêu chuẩn sắc
tộc thuần tuý tóc vàng, da trắng; những ngươì bịnh tâm thần, tật nguyền
hay gìa yếu,..
Hitler đã ra lịnh giết
chết những ngươì già ,người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến
năm 1940 đã có 70.000 người chết vì hơi ngạt. Khi Giáo hội lên tiến
phản đối, chương trình dùng hơi ngạt mới ngưng họat động. Sau này rút
kinh nghiệm đã dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba , đó là giống
dân Do Thaí.
Thoạt đầu có vài trăm ngươì
Do thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và
sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào Liên sô, quân Đức
đã giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái,
3,3 triệu tù binh Sô Viết và 1,1 triệu dân đã bị bắt vào các trại tử
thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân
Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu
người còn sống sót lại trong các trại tập trung.
Tòa
án Numberg đã kết án những tội phạm và đã công bố những tội ác mà họ đã
gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đã
làm cho lương tâm nhân loại xúc động .
Ở
đây chúng tôi không muốn đưa ra một danh sách so sánh về con số kinh
hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những gì Cộng sản đã làm. Nhưng
sự kiện tội ác của Cộng sản đã quá rõ ràng. Chế độ Cộng sản đã giết chết
hàng trăm triệu ngươì so với 25 triệu nạn nhân của Đức quốc xã. Với bản
đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ
trong thế kỷ này. Năm 1945 , Đức quốc xã bị kết án là chế độ bị vi phạm
quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ Cộng sản lại được
duy trì cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lý quốc tế của nó.
Cho cả đến ngày hôm nay , Cộng sản vẫn còn ngự trị trên một vài quốc gia
với một số tín đồ. Và mặc dù có một vài nước Cộng sản nhìn nhận tội ác
của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các
nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ gì với
tội ác này cả.
Các phương pháp của Lenine
và sau này được Staline hệ thống hóa, đã được tay chân bộ hạ của hai ông
thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những gì đã xảy ra trong thời
Đức quốc xã. Có một số tội ác đã xảy ra trước thời Hitler.
Roudolf
Hoess là người được uỷ nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz . Về sau
trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của Uỷ ban
trung ương về an ninh một số chi tiết về các trại tập trung của Sô
Viết.[ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đã ra lịnh cho lưu đày các chính
trị đói thủ và và năm 1933 Đức quốc xã cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu
còn nhấn mạnh Xô Viết tiêu diệt tòan bộ một số dân bằng cách bắt họ lao
động khổ sai.
Với mức độ và kỹ thuật gây
tội ác cho một số quần chúng đông đảo mà những người Cộng sản đã khai
trương áp dụng, và sau đó Đức quốc xã đã làm theo. Dưới cái nhìn của
chúng tôi, người ta có thể minh chứng một chân lý về sự liên hệ trực
tiếp giữa chế độ Cộng sản và sự ra đời của chế độ Đức quốc xã.
Vào
các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, một danh xưng mới của cơ
quan tình báo chính trị Xô Viết, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân
vùng. Mỗi vùng phải tìm cách bắt đi lưu đày một tỉ lệ '' thành phần thù
địch ''nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng quân đánh bại
quân Hoàng gia [ Bạch quân ], đã xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp
các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique. Việc chuyên chở
các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đã được tái
diễn tại các trại tập trung của Đức quốc xã. Năm 1943-1944 trong lúc
chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay vì cung cấp cho chiến
trường, ông ta đã dùng hàng ngàn nhân viên của cơ quan tình báo chính
trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân
thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong vòng vài ngày.
Đối chiếu những gì đã xảy ra dưới chế độ Đức quốc xã và dưới chế độ Cộng sản , chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. Vassili Grossman là ngươì đầu tiên đã nêu ra tội ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ
ông đã bị lính Đức quốc xã giết chết trong khu biệt giam của vùng
Berditchev. Ông cũng là một trong những người trưng bày tội ác của Đức
quốc xã đã tiêu diệt ngươì Do Thái cư ngụ trân lãnh thổ của Sô Viết.
Trong
tập truyện ngắn '' Ròi tất cả cũng đi qua - Tout passe '', ông đã đưa
một nhân chứng của vụ chết vì đói ở vùng Urakine. Ông viết : '' Các văn
sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những ngươì ăn bám , những ký sinh
trùng. Họ là những kẻ đã đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ em.'' .
Staline cũng còn công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại
quần chúng, tiêu diệt tất cả những ngươì mà họ gọi là tầng lớp xấu xa.
Staline cho còn cho biết muốn giết họ thì hãy coi thành phần phú nông
không phải là người cũng giống như Đức quốc xã coi dân Do Thái cũng
không phải là ngươì.
Đức quốc Xã dự trù cho một xã hội tương lai của một sắc dân thuần chủng.
Cộng sản chuẩn bị cho ngày mai một xã hội của những người vô sản. Hai
cách cải tạo xã hội tuy có khác nhau về cách xử dụng tiêu chuẩn nhưng
giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là một chủ thuyết
tổng quan thì thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu , thì quả
thực một nửa nhân loại không còn xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang
tính chất của chủ nghĩa Quốc xã. Nếu có khác chăng là khác ở chổ, Cộng
sản phân chia ra nhiều giai cấp trong khi Quốc xã phân chia ra giống dân
và lãnh thổ.
Tội
ác của Lenine, Staline và hình ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đã
đặt ra một câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại :
Phải xếp vào tội nào đối với những ngươì đã tiêu diệt các thành phần bị
ghép vào tội thù địch vì lý do chính trị, tư tưởng, không phải ở phạm
vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng xã hội . Phải chăng
cần đặt ra một tội danh mới ? Ngươì Anh đã dùng danh từ Politicide , bao
gồm ý nghĩa cuả Chính trị - politipue - và Giết chết - Cide. Người Tiệp
Khắc gọi là Tội ác Cộng sản.
Người ta
biết gì về những tội ác Cộng sản gây ra ? Người ta muốn biết cái gì,
loại nào ? Và tại làm sao phải chờ mãi đến cuối thế kỷ này nó mới có các
cuộc nghiên cứu nghiêm túc?
Việc nghiên
cứu tội ác của Quốc xã đã có từ lâu và đã đi khá xa so với việc nghiên
cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt
khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông
Âu đã gia tăng các cuộc nghiên cứu này.
Một
số khác biệt đã được phát hiện. Năm 1945 , lực lượng Đồng minh thắng
trận đã chính thức lên án tội ác diệt chũng những người đầu não của Đức
quốc xã. Nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả
trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản , hàng trăm
cuống phim trình chiếu. Như '' Đêm và sương mù - Nuit et Brouillard'';
'' Sự chọn lựa của Sophine- Le choix de Sophine''; ''Danh sách của
Schindler- La liste de Schindler''. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta
đã sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái
dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.
Những
tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn
ác ,và dã man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung
thần Cộng sản. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai
biết đến. Còn các tên Lenine, Staline, Hồ chí minh, Mao trạch Đông, thì
lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có một viên chức nhà nước Pháp ,
Le Loto đã dùng các hình ảnh này vào trong chương trình quảng cáo. Có
ai bao giờ thấy các hình ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh họat
tương tợ hay không ?
Việc nghiên cứu tội
ác của Quốc Xã Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người
sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà
lãnh tụ của quốc gia liên hệ đã làm sáng tỏ giá trị của nền dân chủ.
Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống
soát trong chế độ Cộng sản ? Tại sao có sự êm lặng chính trị một cách
ngượng ngùng như vậy ? Và nhất là sự êm lặng của quý vị trong Hàn Lâm về
thảm họa của Cộng sản từ hơn 80 năm qua đã gây cho hơn 1/ 3 dân số trên
4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố ' Tội ác'' vào trọng
tâm trong công việc nghiên cứu chế độ Cộng sản? Tội ác đối với tập thể
đông đảo quần chúng; tội ác hành động có âm mưu; tội ác chống lại nhân
loại.
Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết ? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ vì sợ hãi ?
Lý
do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển
của những người chủ mưu gây tội ác. Họ muốn xóa bỏ những gì họ đã làm.
Họ không muốn ai nhắt đến.
Năm 1956
Kroutchev đọc một bản văn bí mật nhìn nhận tội ác của Cộng sản, tội ác
của các nhà lãnh đạo Cộng Sản, những người hiện đang nắm quyền hành cũng
đã nhúng tay vào. Theo lời của một hung thủ, họ mong được che đậy các
tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. Vì muốn che
dấu các đồng chí của ông ta nên Kroutchev chỉ nêu lên những người Cộng
sản là nạn nhân trong các cuộc khủng bố này. Dĩ nhiên cũng có người Cộng
sản là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết thì con số
nạn nhân là người Cộng sản thì quá nhỏ. Thay vì kết án, Kroutchev chỉ
nói rằng đó là '' Sự lạm dụng dưới thời Staline'' để mong bào chữa cho
sự liên tục của chế độ .
Kroutchev cũng
trình bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết
bản phúc trình mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline . Tên
Kaganovitch là một đảng viên thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ
cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần một cái nheo mắt của Staline. Ông ta
cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của
đảng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này
Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là vì ông muốn bảo tồn
mạng sống của mình. Ông ta chỉ còn muốn có một điều là làm sao xóa bỏ
tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải
bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo; kiểm soát
tòan diện báo chí; kiểm soát các người ra nước ngoài; tuyên truyền và
phóng đại các thành quả của chế độ; các cơ quan truyền thông thực hiện
các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng
các sự thật về tội ác của Cộng sản.
Vì không bằng lòng với những gì họ đã làm trong quá khứ, những tội phạm tìm mọi cách chống lại những ai muốn tìm hiểu sự thật.
Sau
đệ nhi thế chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tội ác của Cộng sản. Từ
tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, tòa án Ba Lê đã xét vụ án ông Victor
Kravchenko, cựu công chức cao cấp Xô Viết và là tác gỉa quyển '' Tôi
chọn tự do -Je choisi la liberte' ''.
Từ
tháng 11 năm 1950 đến tháng giêng năm 1951 cũng tại tòa án BaLê, ông
Aragon đã kiện ông David Rousset , một nhà trí thức có khuynh hướng
Trotski.
Rousset đã từng bị lưu đày
trong các trại tập trung của Đức trong đệ nhị thế chiến. Năm 1946 ông
đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm '' Vũ trụ tập trung - Univers
concentrationaire''. Ngày 12 tháng 11 năm 1946, ông Rousset kêu gọi
những tù nhân ở Liên Sô hãy thành lập ủy ban điều tra các trại tập trung
khổ sai . Báo chí Cộng sản lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset
kịch liệt và chính quyền Xô Viết cho biết là không hề có trại lao động
khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro
Litteraire số ra ngày 25 tháng 2 năm 1950 cho đăng một bài báo tựa đề :
'' Trại tập trung khổ sai của Sô Viết , Cái gì khốn khổ nhất : Địa ngục
hay trại Belzebuth ? '' trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn
nhân , tường thuật lại những gì bà đã trãi qua trong trại tập trung của
Sô Viết và của Quốc Xã Đức.
Những nhà độc
tài Sô Viết tìm mọi cách chống lại lương tâm của con người . Họ mở ra
một mặt trận rộng lớn với một số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi
trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với
những ngươì như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch,.. Họ đuổi
những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc
ông Sakharov, nhà bác học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại thành phố
Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên...
Trước
sự đe dọa quá lớn cùng vơí sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ
can đảm để phát biểu và cũng không còn khả năng để hội nhập vào cái xã
hội còn đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh
ngang. Trong tác phẩm '' Rồi moị việc cũng qua '', tác giả Vassili
Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đã
được chính người Do Thái trên tòan thế giới chu lo tưởng niệm. Trong
khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ Cộng sản không hề có quyền
đòi hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm một lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị
cấm kỵ.
Một khi Cộng sản không còn
che dấu được một số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây
ra các nạn đói,.., thì chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nhìn
nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ tìm cách biện minh hợp lý. Họ cho
rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng thì có các dâm cây bay ra ngoài. Hay
muốn chiên trứng gà thì phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà
nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách xử dùng ngôn ngữ của Cộng sản. Hình
thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù thì mệnh danh
là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ củ thành những
ngươì của chế độ mới. Ở các trại tù Xô Viết, các tên cai tù dùng bạo
lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân
là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buột phải họ các
tư tưởng do đảng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo
những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về xã
hội và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của Cộng
sản còn có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đã vi phạm tư
tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đã trở thành
thiên kiến. Những người Cộng sản nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẻ, khó
có ai sánh kịp, cộng thêm vào đó vơí cách xử dụng ngôn ngữ điếm xão, đôi khi
còn dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố
của chúng, chúng tạo được một hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm tình viên,
lập lại chủ nghĩa Cộng sản. Các người Cộng sản biết xử dụng một cách có
hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đã từng
tiên bố :'' Tôi tin, dù cho phi lý''.
Nằm
trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đã bán đứng
lương tri của họ. Vào năm 1928, văn hào nổi danh của Nga, ông Gorki đã
chấp nhận đi viếng các vùng thuộc quần đảo Solovski. Nơi đây là thí điểm
tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống
trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, nhà đại văn hào Gorki viết các
bài báo ca tụng chế độ Sô Viết và quần đảo Solovski. Một nhà văn Pháp,
ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đã
viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển '' Xứ
Georgie tuyệt vời''. Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline
cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đã mở một cuộc tàn sát rùng
rợn.
Gần đây, Mario Maccio đã ca tụng Mao
và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng
ca tụng Fidel Castro . Lòng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và
sự hư ảo đã bị bạo lực cách mạng thôi miên. Các chế độ độc tài , dù với
động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần
những người này. Chế độ độc tài Cộng sản cũng vậy.
Đứng
trước các lời tuyên truyền của Cộng sản, các nước Tây phương có thái độ
mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đã tỏ ra quá ngây thơ đối với
chế độ Cộng sản xão quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của Sô
Viết hay vì cái vô liêm sĩ của các chính khách? Tại hội nghị Yalta vào
năm 1945 đã hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đã buôn rơi các
nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cở tại các
quốc gia này. Năm 1944, Tổng thống De Gaulle tại Mac Tư khoa, đã bỏ rơi
Ba Lan cho bạo chúa Staline để đổi lấy sự chấp thuận của lãnh tụ Cộng
sản Pháp Moris Thorez về một bảo đảm an ninh xã hội và chính trị trên
đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.
Việc
làm mù quáng này đã củng cố một cách hợp pháp lòng tin của những người
Cộng sản Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau
bức màn sắt là thiên đàng chủ nghĩa xã hội. Nhiều cuộc tranh luận về
vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt
là một thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân cách mạng rất
sung sướng vì họ được nhà nước yễm trợ. Một nhà nước ủng hộ chính thức
các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. Chủ
nghĩa Cộng sản tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người
và xã hội , một giấc mơ về sự bình đẳng
thực sự, một hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng
chói này, Cộng sản đã phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà chủ
nghĩa xã hội đã gây ra.
Dù muốn hay
không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do Cộng sản gây ra mỗi lúc
một gia tăng. Một phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với
anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh : '' Ký ức tang chế của cá nhân ta đã cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác..''.
Thế
kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đã gánh chịu
quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai còn có thể động lòng trắc ẩn
trước sự đau khổ của người khác.
Có ba lý do che dấu tội ác của Cộng sản :
1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ý thức cách mạng.
Cho tới ngày nay nhiều người vẫn còn sùng bái ý niệm cách mạng của giữa
thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ
lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp xã hội. Hình ảnh Che'
Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm cách mạng ,
sinh hoạt công khai ,lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác của
những người làm cách mạng đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn
văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao,.. Có rất nhiều tác
giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của
Cộng sản.
2.
Lý do thứ hai của hành động che dấu tội ác của Cộng sản là bởi Sô Viết
đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đã chiến thắng.
Đó là cơ hội để cho những người Cộng sản chính thức đeo mặt nạ của
những người ái quốc lương thiện hòng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là
nắm lấy chính quyền.
Từ đầu tháng 6
năm 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lãnh thổ Sô Viết, tất cả các
đảng viên đảng Cộng sản ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng
lên, chiến đãu vỏ trang chống lại Quốc Xã Đức hay Phát xít Ý. Những
người Cộng sản cũng đã chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác.
Hàng ngàn đảng viên Cộng sản bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động
khổ sai hay bị xử bắn. Cộng sản đã thần tựơng hoá những đảng viên bi tù
đày hay bị xử bắn để nâng cao lý tưởng của chúng và còn dùng để chỉ
trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, còn có rất nhiều người
không phải là Cộng sản, cùng sát cánh với Cộng sản trong các cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của
cánh De Gaulle vì cùng chung chống Đức quốc xã với quân của Xô Viết nên
họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của Xô Viết đối chọi với Hoa Kỳ.
Việc các người Cộng sản tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả.
Những người Cộng sản tự coi mình là tiêu biểu của lực lượng chống Phát
Xít. Nhân danh nhản hiệu chống Phát xít này, Cộng sản đã làm câm họng
những ai chỉ trích họ.
Francois Furet
đã nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc xã thua trận,
các nước gọi là điều ác. Những người Cộng sản chiến thắng Đức , đó là
điều thiện. Trong tòa án Numberg, Cộng sản ngồi vào ghế biện
lý. Chính nhờ vậy , họ đã che lấp các hoạt động xấu xa đối với giá trị
dân chủ của các nước Tây phương. Cộng sản đã từng ký hòa
ước với Đức quốc xã vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan
Ba lan tại Katyn vào mùa xuân 1940. Nhân dân các quốc gia bị Đức chiếm
đóng và được các nước Đồng Minh Anh , Hoa Kỳ giải phóng thì tỏ ra vô
cùng biết ơn Hồng quân Nga và cùng chia sẻ với nhân dân Xô Viết về những
sự mất mát vì chiến tranh. Ngành tuyên truyền của Cộng sản khai thát
triệt để các sự kiện này.Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của Cộng sản
cũng tìm cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia
chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới
đâu biết những gì đã xảy ra. Sử gia đã chia các cuộc chiến giải phóng ra
làm hai loại : Một là dân chủ hoá các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh
Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm
soát của Hồng quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các
quốc gia bị Hồng quân chiếm đóng như sau : '' Chiến tranh đã kết thúc
nhưng không giải phóng cho người dân Ba lan. Tại khu vực đau khổ Trung
Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng một bóng tối khác. Các
hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi
đó, tại thủ đô Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng nhân dân
Ba lan đã được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến..''
3. Lý do thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.
Sau
năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đã trở thành một hiện tượng dã
man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người .
Trước thế chiến, Cộng sản cho rằng họ không hề có hành động ngược đãi
dân Do Thái. Và họ biết rất rõ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên
mặt tuyên truyền một khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần
đây, tại các nước Cộng sản lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do
Thái , với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.
Khúc
quanh lớn đã diễn ra vào ngày 24 tháng 2 năm 1956. Đó là ngày chính
thức nhìn nhận tội ác của Cộng sản. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ
nhất của đảng Cộng sản Liên Xô, ông Nikita Kroutchev khai mạc Đại Hội
lần thứ 20 của đảng Cộng sản. Đại hội họp trong phòng kín. Các đại biểu
êm lặng và căng thẳng ngồi nghe Kroutchev vạch tội Staline, ròng rã 30
năm là người hùng của chủ nghĩa Cộng sản thế giới. Bản phúc trình mật từ
ngày đó đã là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của chủ nghĩa
Cộng sản ngày nay. Và đây là lần thứ nhất một người lãng đạo cao cấp
Cộng sản chính thức thừa nhận những người lãnh đạo từ năm 1917 đã gây ra
tội ác.
Có nhiều lý do đã thúc đẩy
Kroutchev phá vỡ một trong những điều cấm kỵ của Cộng sản. Mục đính
chính của Kroutchev là tìm cách quy tội cho một cá nhân để chạy tội cho
chính sách dã man của chủ nghĩa Cộng sản. Trong kế hoạch này , ông tấn
công và khai trừ các đảng viện tay chân của Staline, những ngươì theo
Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rõ vào mùa hè năm
1957, tất cả các đảng viên thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách
chức. Thí dụ điển hình này chỉ là một chi tiết tầm thường . Trên thực
tế còn nhiều điều kinh hòang hơn. Khi ông ta còn ở chức vụ Bí Thư vùng
Ukraine , được coi như là lãnh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động
nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi ký,
ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp cuả ông mà thôi. Đại hội kết
thúc với những quyết nghị và chương trình thi hành các nghị quyết. Nhưng
rồi họ làm được những gì. Ông ta viết :'' Vậy chúng ta phải làm gì cho
những người bị xử bắn vô tội; phải làm gì cho những người bị bắt và bị
thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rõ ràng rằng họ là những người công dân
lương thiện, họ là những đảng viên trung thành với đảng. Họ đã hy sinh
cho chủ nghĩa Cộng sản. Sớm hay muộn gì, những người hiện còn bị giam
trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kễ lại cho thân nhân nghe những
gì đã xảy ra. Vì vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày
hôm nay về đường lối lãnh đạo sai lầm của đảng trong những năm đó. Làm
sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết gì chuyện đó. Chúng ta
phải biết rằng đó là một thời kỳ đàn áp và độc đóan ở trong đảng. Chúng
ta có nhiệm vụ phải trình bày trước đại hội những gì chúng ta biết.
Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú
tôi. ''
Cũng có một số
trường hợp hối hận xảy ra . Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào
các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các đảng viên khác để chiếm giữ
các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê bình,
tự kiểm điểm. Đó chỉ vì sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực
tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này ? Đó là Kroutchev. Nhưng rồi cũng
chính Kroutchev vào năm 1956 đã ra lịnh cho Hồng quân kéo xe tăng vào đè
bẹp dân chúng Hung gia Lợi.
Trong
các phiên họp đại hội thứ 22 của đảng Cộng sản, Kroutchev lại một lần
nữa cho rằng đảng viên Cộng sản là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài
tưởng niệm những người Cộng sản này. Ông đi trở lại con đường độc tài.
Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho Cộng sản.
Vào
năm 1962 khi còn tại quyền Tổng bí thư đảng, ông Kroutchev cho xuất bản
quyển '' Một ngày của Ivan Denissovitch '' của Alexandre Soljenitsine.
Ngày 24 tháng 10 năm 1960 Kroutchev bị truất phế, nhưng không bị thủ
tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết , ngoại trừ thân
nhân.
Nhiều người nhìn nhận rằng bản '' phúc trình mật của Kroutchev'' phá vỡ căn bản chính sách của Cộng sản trong thế kỷ thứ 20.
Theo
ông Francois Furet một đảng viên Cộng sản Pháp ly khai năm 1954 cho
rằng bản phúc trình mật chỉ là một sự thú nhận quanh co. Bản phúc trình
chỉ đề cập đến những ngươì Cộng sản là nạn nhân của Staline. Nhưng theo
ông, dù sao bản phúc trình mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát
kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người
từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lãnh tụ đảng Cộng Sản ở các quốc gia khác
không chiụ thừa nhận tội ác như Kroutchev đã làm. Mãi đến năm 1979,
đảng Cộng sản Trung Quốc mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao.
Họ cho rằng Mao đã có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đã
làm sai. Cộng sản Việt Nam chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo
'' hành động diệt chủng của Pol Pot ''. Còn Castro thì cho rằng không
hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.
Cho
đến lúc này, chỉ có những người chống đối Cộng sản , những thành phần
ly khai lên tiếng kết án tội ác của Cộng sản. Kết quả của các vụ tố cáo
chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của
Đức quốc xã, của Cộng sản mới đủ ý chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở
Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống
trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xã sát nhập vào Đức. Trong
chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất
Nga. Họ bị Hồng quân bắt làm tù binh và bị ngược đãi. Cho đến ngày hôm
nay, 50 năm sau, gia đình của họ không hề biết được tin tức gì cả. Chính
phủ Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.
Tháng
hai năm 1956, bản phúc trình mật do Kroutchev đọc trước Đại hội Đảng
lần thứ 20 đã làm đảo lộn hàng ngũ Cộng sản. Lời tố cáo không phải xuất
phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Mạc Tư Khoa . Ý niệm Cộng sản
bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà còn dao động ở các nước Cộng sản
chư hầu. Bởi vì lời tố cáo không phải phát xuất từ một đảng viên bình thường
do bất mãn , trái lại, nó do chính Chủ tịch nhà nước đương kiêm Đệ nhất
Bí Thư Kroutchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự
hỏi, liệu chủ nghĩa Cộng sản còn đáng được tin tưởng hay không ? Cả hội
trường, không một đảng viên đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ
bản phúc trình mật có một giá trị sức mạnh ghê gớm.
Từ
đầu năm 1917, đã xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lý. Một nhóm tỏ vẻ
hồ hởi đón nhận cái gọi là '' tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông '' .
Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người Bônsêvich. Các cuộc
tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của
Lenine.
Trong
những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều ngưới lên án bộ mặt thật của
những người Bônsêvich. Nhưng phải đợi đến khi người Cộng sản tự thú thì
tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng . Nhiều uỷ ban thành hình co nhiệm vụ
thu nhập những ký ức
của nạn nhân. Như Uỷ Ban Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David
Rousset hay Uy ban về sự thật tội ác của Staline,.. Nhưng tiếng nói của
các Ủy Ban bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của Cộng Sản và được
nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine
cho xuất bản quyển '' Quần đảo Goulag'' và tác phẩm '' Ảo ảnh chết
người'' của Pin Yathay dư luận ở
Tây phương vẫn tiếp tục êm lặng. Xã hội Tăy Phương vẫn từ chối nhì nhận
sự thật đã xảy ra trước mắt họ : Chủ nghĩa Cộng Sản từ căn bản, ở mỗi
cấp độ, tất cả đều đã nhúng tay vào tội ác.
Từ
năm 1920 đến năm 1950 vì Cộng Sản bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các
tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai cuả các
nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục Liên Sô.
Năm
1959 một viên chức cao cấp của cơ quan tình báo Sô Viết KBG rời bỏ hàng
ngũ chạy qua Tây Phương tìm tự do. Ông ta trình bày tất cả các chi tiết
về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm '''Chế độ trại tập
trung của Sô Viết từ 1930-1957'' , tác giả là Paul Barton. Sách do nhà
xuất bản Plon phát hành năm 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người
Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là một
trong những người tham dự của nổi dậy ở thủ đô Prague của Tiệp Khắc vào
năm 1945 chống lại Đức quốc xã. Năm 1948 ông trốn qua Pháp.
Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đờI tác phẩm '' Quần đảo ngụ tù Goulag''.
Dư luận có chú ý, nhưng Soljenitsine cũng đã gặp nhiều khó khăn khi tìm cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, một ký giả
của tờ báo lớn ở Pháp , tờ Humanite' đã ví Soljenitsine, người đạt giải
thưởng Nobel văn chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [
các ông này bị tòa án Pháp kết tội tử hình vì đã nghinh đón quân Đức như
đón những đoàn quân giải phóng ].
Những
gì ông Soljenitsine viết , cũng như những gì ông Chalamov kể về Kolyma
hay ông Pin Yathay nói về Cao miên đều là những nhận thức quyết định đầu
tiên về ý thức.
Gần đây, ông Vladimir
Boukovski, một trong những người ly khai trong phong trao ly khai dưới
thời Brejnev, đã phản kháng trong tác phẩm '' Xử án tại Mạc Tư Khoa -
Jugement a Moscou''. Ông ta kêu gọi thành lập một tòa án quốc
tế như tòa án Numberg để xử tội ác của chế độ Cộng Sản. Tác phẩm của ông
ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu. Nhưng đồng thời chúng
ta cũng thấy các tài liệu kêu gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.
Ngày
hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật , đã thúc đẩy công
việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn khố của Liên bang Xô Viết cũ, của
các nước Đông Âu, của Cao Miên đã đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh
hoàng. Đã đến lúc phải mở một cuộc điều tra theo phương pháp khoa học về
tội ác của Chủ nghĩa Cộng sản mà không sợ bị chi phối vì lý do chính
trị. Câu hỏi được đặt ra là phải quy trách tội ác của Cộng Sản ở cấp độ
nào cho đúng?
Để trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.
Điểm thứ nhất, chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử.
Đối
với sử gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư tưởng hay cá
nhân riêng tư cấm đóan họ nghiên cứu bất kỳ một đề tài nào. Ngày nay
không ai có thể ngăn chận sự tìm hiểu, khai quật và phán quyết những gì
đã xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị dấu kín trong các
văn khố cũng như trong lương tâm của con người.
Vấn
đề nghiên cứu chủ nghĩa Cộng Sản không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc
một quốc gia, một xã hội hay chỉ trong lãnh vực văn hóa. Bởi với chính
sách cực quyền, Cộng sản không những chỉ hoạt động trên phần đất Âu Châu
và còn bao trùm khắp cả thế giới.
Nói
một cách khác, vấn đề tộị ác Cộng Sản không những chỉ xảy ra trên phần
đất Nga mà còn cả trên lãnh thổ Trung quốc của Mao trạch Đông, trên bắc
Triểu tiên ở Việt Nam, trên đất Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại
các quốc gia này, Cộng sản thực hiện mẫu mực những gì đã xảy ra trên đất
Nga, trở thành phòng trào Cộng sản thế giới. Sự kiện lịch sử mà chúng
ta đang trực diện có liên quan đến toàn thể nhân loại trên trái đất.
Lịch sử và ký ức
được quy định trong nhiều hình thức khác nhau. Ở một nơi, nó liên hệ
đến các quốc gia mà nơi đó Cộng sản không có một chút ảnh hưởng nào
trong lãnh vực kinh tế hay xã hội. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ,..
Ở
một nơi khác, chủ nghĩa Cộng sản tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau
năm 1946. Cộng sản có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ý , ở Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy lạp. Tại một số quốc gia Đông Âu, Cộng Sản ngự
trị hàng chục năm, cho tới những năm gần đây mới bị dân chúng hạ bệ.. Và
ngọn lửa Cộng sản vẫn còn chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc
Triều Tiên, Cu Ba , Lao và Việt Nam.
Tuỳ theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề lịch sử cũng như những ký ức
không giống nhau. Trường hợp tại các quốc gia nói trên , thái độ của họ
chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư . Nhưng ở trường hợp
khác, họ còn phải đương đầu với một số vấn đề cần thiết cho sự hoà giải
quốc gia trong những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những phạm
tội đã gây ra tội ác. Nước Đức là một trường hợp đặc biệt. Việc thống
nhất nước Đức quả là một phép mầu nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc
chia làm hai quốc gia riêng biệt . Còn Nam Tư thì tan rã ra từng mảnh
nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên thì vẫn còn còn ray rứt với cái quá khứ tội
ác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng quên đi những gì trong quá khứ có
thể chấp nhận để hàn gắn vết thương luân lý và tâm lý của từng cá nhân
hay của tập thể.
Tại
các nước Cộng sản, thì việc chối bỏ tội ác được thực hiện một cách có
hệ thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc triều Tiên, Việt Nam vẫn còn cai trị
bằng bạo lực.
Về phương diện luân lý, không ai có quyền phủ nhận bổn phận cuả họ đối với lịch sử và ký ức.
Không
một ai có quyền bảo rằng '' Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện và Ác.''
Giáo Hội Thiên Chúa Giáo , qua thông Điệp Mit Brennender Sorge đề ngày
14 tháng 7 năm 1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI , đã chính thức lên án Chủ
nghĩa Quốc Xã. Thông Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 tháng 3
năm 1937 Đức Giáo Hoàng tố cáo Cộng Sản. Thông Điệp thứ hai nhấn mạnh
những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài người. Quyền sinh sống;
Quyền được tòan vẹn thân thể; Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết
hằng ngày; Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con đường Chúa đã
vạch định; Quyền được hội họp; Quyền tư hữu; Quyền xử dụng các tư hữu
này. Cho dù ai có mĩa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho
phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm đoạt tài sản của người
khác, nhưng vấn đề nhắc nhở con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là
điều cần thiết.
Năm 1931, trong một Thông
Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng, Cộng Sản hoạt động công khai và
tìm đủ mọi cách kể cả bạo lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là:
luôn luôn đãu tranh giai cấp và hũy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.
Cộng
sản xử dụng mọi phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. Cộng sản
chẳng tôn trọng cái gì cả. Nơi nào Cộng sản nắm chính quyền thì nơi đó
Cộng sản cho thi hành khủng bố tàn bạo. Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á
Châu đã chứng tỏ điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều ý
nghĩa vì nó phát xuất từ một cơ chế tồn tại qua nhiều thế kỷ..
Nếu
cho rằng Giáo Hội giữ vai trò kiểm duyệt về luân lý, thì những người
viết sử phải viết làm sao về các mẫu chuyện mang tính chất anh hùng của
những người Cộng sản và những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân
của Cộng sản ? Trong tác phẩm '' Hồi ký của
nấm mồ - Memoiries d'outre-tombe , nhà văn Francois Rene' de
Chateaubriand viết : '' Trong sự êm lặng của đê hèn, người ta không còn
nhớ đến những tiếng kêu của dây xích của người nô lệ hay không nghe
tiếng nói của người tố cáo''. Trong khi mọi người khiếp sợ trước bạo
chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù cho dân tộc.''Nhưng ở vào
những ngày cuối cùng trong đời, Chateubriand không còn tin tưởng vào ''
việc báo thù cho dân tộc ''. Và với tư cách là sử gia, với khả năng
khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn mình là phát ngôn viên của
nạn nhân, cũng phải sẵn sàng nói lên sự thật những gì mà họ đã trãi qua.
Người viết sử thực hiện công việc của ý thức. Công việc của sử gia là
thiết lập các sự kiện thực đã xảy ra. Ngoài ra còn có sự liên hệ của sử
gia với chế độ Cộng Sản. Họ đã bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự
lừa dối. Mặc dù các cánh cửa cuả các văn khố đã mở toanh, các tài liệu
trình bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề phòng để khỏi trở
thành quá '' thơ ngây'' trong một số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ý,
cần phải tranh luận.
Nhưng
các sự hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán xét, nếu
muốn tôn trọng giá trị của nền dân chủ , và nhất là việc tôn trọng nhân
phẩm . Trong cái ý niệm này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử.
Ngoài những lý do khách quan đã thúc đẩy các sử gia sưu tầm các tội ác
lịch sử, còn có lý do của cá nhân họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài
liệu này đã từng là những người bị lý thuyết Cộng Sản mê hoặc. Các vị
này cũng từng ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản chính thống Lenine - Staline hay
chủ nghĩa Cộng sản ly khai Trosky - Mao Trạch Đông.
Việc
nghiên cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba và
cả ở Việt Nam cần phải có một cuộc sưu tầm rộng rãi. Đến nay chúng tôi
chỉ có một số ít tài liệu. Ở vài nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có
nơi chỉ hé mở. Và nơi khác thì vẫn còn đóng kín. Với tình trạng này ,
chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công việc nghiên cứu. Chúng tôi
biết rằng chúng tôi có một số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát
xuất từ những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước khởi đầu. Chúng
tôi mong rằng đây là phát súng khai trương cho các cuộc nghiên cứu rộng
lớn sau này.Chúng tôi khởi đầu bằng một cuộc điều tra các sự việc đã
xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và không thể nào chối cãi
được.
Quyển sách của chúng có quá nhiều
chữ và có rất ít hình ảnh. Ngày hôm nay, con người tiếp nhận thường
xuyên các tin tức, hình ảnh qua các hệ thống truyền thanh , truyền hình
và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông có tác dụng rất
lơn trong quần chúng để đánh giá phải trái các sự việc đã xảy ra. Chúng
tôi chỉ có một số ít hình ảnh. Các trại tập trung Goulag chúng tôi không
có hình. Chúng tôi có vài tấm ảnh của các trại cải tạo ở Trung Quốc.
Hình ảnh các nạn đói của'' Bước tiến nhảy vọt'' của Trung Quốc thì không
dễ gì có được. Ai cũng biết, đối với Cộng Sản các hình ảnh như vậy là
tuyệt đối phải giữ bí mật.
Những người
thắng trận ở tòa án Numberg có đủ điều kiện tự do để quay phim chụp
hình, kể cả quay cảnh hàng ngàn người chết ở Bergen - Belsen. Họ cũng
còn tìm thấy các bức ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xã chụp các lính Đức
bắn chết một người đàn bà trên tay đang bồng đứa con. Đối với chế độ
Cộng Sản thì không thể chụp hình như vậy được vì các vụ khủng khiếp này
luôn luôn xảy ra trong vòng bí mật.
Xin quý độc giả rộng lượng chấp nhận một số ít hình ảnh sưu tầm trong quyển sách.
Xin quý độc giả hãy đọc thật kỹ từng trang một và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đã chịu đựng.
Xin
quý vị hãy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đã diễn ra . Nó đã ám ảnh
nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ còn kéo dài mấy
thập niên về sau.
Câu
hỏi chính yếu được đặt ra là : Tại sao những người như Lenine, Staline,
Trotsky hay các đồng chí của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là
kẻ thù ?
Tại sao những
người này có quyền giết người ? Như vậy họ đã vi phạm vào điều luật, mặc
dù không thành văn, nhưng đã chi phối nhân loại : Người không được giết
người.
Đoạn cuối của quyển sách sẽ là phần trả lời cho các câu hỏi này.
Stéphane Courtois et al.
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 1
Tàn sát, khủng bố và đàn áp.
Nghịch biện và sự hiểu lầm về cuộc cách mạng Tháng Mười
Nghịch biện và sự hiểu lầm về cuộc cách mạng Tháng Mười
Sau
khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, cái huyền thọai về cuộc Đại cách mạng
được coi là '' một sự kiện lịch sử không thể tránh được'' không còn giá
trị gì cả. Cái mốc thời điểm 1917 nay chỉ còn là một sự kiện lịch sử
bình thường. Rất
tiếc là xã hội chúng ta chưa có sử gia nào sẵn sàng đứng lên phá vỡ cái
huyền thoại của năm khởi đầu cho tương lai của dân Nga : Sống trong
hạnh phúc hay nhận lấy thảm họa.
Một sử gia đương thời người Nga nhận định rằng các cuộc bút chiến về cuộc cách mạng 1917 sau 80 năm vẫn còn diễn ra.
Theo
quan điểm của nhóm chủ trương tự do, cuộc cách mạng tháng 10 chỉ là
cuộc đảo chánh . Một nhóm người cuồng tín, mặc dù không có cơ chế căn
bản nào trong xã hội Nga vào thời đó, nhưng có tổ chức, đã khéo léo dùng
bạo lực trấn áp một xã hội thụ động. Vì không hiểu được chiều sâu của
xã hội và lịch sử, nhiều người, trong đó có các sử gia , giới trí thức
và những người lãnh đạo nước Nga hậu Cộng sản đã đánh giá cuộc cách mạng
tháng 10 như là một bước đi lạc hướng của một xã hội Nga phong phú ,
cần cù và đang tiến trên con đường dân chủ.
Một
nhóm khác, gồm các thành phần ưu tú, một giai cấp được ưu đãi dưới thời
Xô Viết, cương quyết đoạn tuyệt với cái gọi là '' dấu ngoặc quái đản
chủ nghĩa Xô Viết'', thể hiện dưới chiêu bài giải phóng xã hội. Thành
phần này đã tỏ ra hối hận trong suốt thới kỳ '' đổi mới '' [ 1985-1991] ở
Nga, khi họ biết được sự thật vô cùng đau đớn đã xảy ra dưới thời
Staline.
Nếu cuộc đảo chính năm 1917 do
những người Bônsêvich chủ xướng, được coi như là một tai nạn, thì chính
nhân dân Nga là nạn nhân .
Với nhận
định này, những nhà viết sử Liên Sô đã cố gắng giải thích cuộc cách
mạng tháng 10 năm 1917 là kết quả hiển nhiên của một sự kiện có thể tính
trước, phải xảy ra. Nó nằm trong lịch trình giải phóng của khối đông
dân chúng cùng với ý thức chủ nghĩa Bônsêvich. Do cách thay đổi các từ,
những nhà viết sử đã biến các cuộc bút chiến về biến cố 1917 trở thành
một sự kiện lịch sử hợp pháp của chế độ Sô Viết. Nếu quả thật cuộc Đại
cách mạng tháng 10 có nhiệm vụ hoàn thành lịch sử, biểu tượng cho một
thông điệp giải phóng các dân tộc trên thế giới, thì nó phải chống lại
những sai lầm do Staline gây ra. Ngay nay, chế độ Sô Viết đã sụp đổ,
chứng tỏ tính cách '' bất hợp pháp '' của cuộc cách mạng tháng 10. Biện
chứng Mát Xít trở thành tầm thường.
Nói theo luận điệu Bônsêvich, biện chứng Mat Xít bị ném vào thùng rác
lịch sử. Tuy vậy, cũng giống như cái sự sợ hải, cái ký ức tầm thường vẫn còn đeo dai dẵn bên người, bên trời Tây nhiều hơn ở Liên Bang Sô Viết cũ.
Nếu
chúng ta không chọn hai khuynh hướng tự do và Mát Xít thì sẽ có khuynh
hướng thứ ba. Khuynh hướng này đặt ý thức hệ lịch sử ra ngoài cuộc cách
mạng. Họ cho rằng đó là cuộc nổi dậy của một nhóm nhỏ quần chúng.
Trong số rất nhiều câu hỏi được đặt ra về năm 1917, các sử gia đã bác bỏ những sơ đồ đơn giản của trường phái tự do.
Chính
sách '' quân sự hoá nền kinh tế'' có liên hệ gì đến việc đế quốc Nga
tham đự vào cuộc thế chiến thứ nhất. Phải chăng hiện tượng bạo lực xã
hội là môi trường phát sinh bạo lực chính trị , và từ đó chống lại xã
hội ? Tại sao , nếu cho rằng đó là cuộc cách mạng quần chúng có tính
cách sâu rộng, lại có thể để cho một nhóm nhỏ người độc tài, nhiều tham
vọng lãnh đạo ?
Ngược thời gian, nghiên
cứu các công trình sử liệu tranh chấp về quan điểm, chúng ta có thể coi
cuộc cách mạng tháng 10 là tụ điểm của hai phong trào. Một phong trào có
chuẩn bị kỹ lưỡng để nắm lấy chính quyền do một đảng phái có tổ chức,
có hệ tư tưởng chủ động. Cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra theo nhiều
giai đoạn và dưới nhiều hình thức khác nhau. Khởi đầu là cuộc khởi nghĩa
của nông dân. Đó là một tập hợp đông đảo của các tầng lớp nông dân sống
ở miền quê, có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Nga. Không những họ
chống đối giai cấp địa chủ mà còn phẫn nộ với những người ở sống trong
thành phố, những người sống bên ngoài nông thôn và những người tham gia
vào chính quyền.
Vào mùa hè và mùa thu năm
1917, họ đã hoàn toàn thắng lợi. Chu kỳ nổi loạn khởi đầu từ năm 1902,
bước vào đĩnh cao năm 1905-1907 và hoàn tất vào năm 1917. Cuộc cách mạng
ruộng đất giữa những người nông dân và thành phần địa chủ về vấn đề
chia đất canh tác đang ở trong giai đoạn quyết định. Kế hoạch canh tác
dựa trên nhân khẩu như bấy lâu nay chờ đợi đã diễn ra để cắt đứt ảnh
hưởng của thành thị đối với giới nông dân miền quê. Thời điểm 1917 trở
thành cái mốc của các chu kỳ kế tiếp. Các cuộc nổi dậy vào những năm
1918-1922 rồi vào cao điểm của những năm 1929-1932 , chính sách tập thể
hoá nông nghiệp hoàn toàn thất bại.
Trong năm 1917,
song song với cuộc cách mạng của nông dân, lại diễn ra sự tan rã hàng
ngũ quân đội trên 10 triệu . Đó là tập hợp của các thành phần nông dân
đi quân dịch theo quy chế 3 năm. Họ chẳng biết đi quân dịch để làm gì và
tại sao họ phải thi hành. Các Tướng lãnh phàn nàn về tinh thần ái quốc
của những quân nhân này. Họ không có ý thức chính trị và cũng chẳng hiểu
biết gì về trách nhiệm công dân.
Lực
lượng căn bản thứ ba xuất thân từ một thiểu số của xã hội, chỉ có thể
đại diện cho 3 % dân số, nhưng họ tập trung ở thành phố lớn, có ý thưc
chính trị. Đó là giới công nhân thợ thuyền. Hãng xưởng là nơi phát sinh
những mâu thuẫn xã hội. Cuộc cách mạnh kỹ thuật ở đầu thế kỷ đã phát
sinh ra một phong trào đòi hỏi quyền lợi cho tầng lớp công nhân thợ
thuyền. Khẩu hiệu mang tính chất cách mạng của họ là : '' quyền kiểm
soát thuộc về giới thợ thuyền, chính quyền thuộc về Sô Viết. ''
Phong
trào thứ tư cũng là tập thể cuối cùng tham dự vào công cuộc giải phóng
đó là những dân tộc thuộc địa của Nga Hoàng đứng lên giành lại độc lập.
Mỗi
phong trào, mỗi nhóm mang lấy màu sắc riêng tư. Từ tính năng động, tổ
chức nội bộ, thời gian hoạt động cho đến mục đích,...mỗi tổ chức họat
động riêng rẽ. Nó không biểu tượng những khẩu hiệu tuyên truyền của
Bônsêvich,: Nó cũng chẳng mang tính chất chính trị của đảng phái này.
Vào
năm 1917, các lực lượng này đã góp công rất lớn vào sự phá hủy hệ thống
chính quyền Nga Hoàng. Trong khoảng thời gian rất ngắn, vào cuối năm
1917, những người thiểu số Bônsêvich hoạt động lẻ loi trong đám đông
quần chúng. Mục tiêu tước mắt cũng như chiến lược lâu dài của những
người Bônsêvich hoàn toàn khác với các đoàn thể chung quanh. Nhưng tạm
thời họ đứng chung trong một chiến tuyến để tiến hành cuộc đảo chính và
thực hiện cuộc cách mạng xã hội, trước khi xảy ra sự xung đột trong
nhiều thập niên sau này.
Mùa Thu 1917, các
phong trào xã hội cũng như các dân tộc thuộc địa đứng lên đòi tự trị
trong một diều kiện lịch sử vô cùng thuận tiện. Một mặt do tình hình
chiến tranh xảy ra tòan diện của cuộc thế chiến thứ nhất; Mặt khác do sự
thoái hoá về chính trị, khủng hoảng kinh tế , xã hội phá sản của nước
Nga. Cuộc thế chiến thứ nhất không những chẳng đem lại cho Nga Hoàng sự
thống nhất lãnh thổ mà trái lại còn làm lung lay thành quả cuộc cách
mạng 1905-1906. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế ,non trẻ , chưa
kịp hiện đại hoá vì lý do vốn tư bản cũng như chuyên viên kỹ thuật ngoại
quốc. Chiến tranh đã dựng lại sự cách biệt giữa một nước Nga kỹ nghệ
hoá và một nước Nga nông nghiệp. Về mặt chính trị, cái hố ngăn cách giữa
nông thôn vá thành thị mỗi lúc một sâu.
Nga
Hoàng dự trù cuộc chiến sẽ kết thúc sớm. Nhưng khi các eo biển bị phong
tỏa, nước Nga đã trở thành một quốc gia hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ
ngoại quốc. Từ năm 1915, các vùng đất phía Tây của Nga đã bị liên quân
Đức-Áo-Hung chiếm đóng. Do vậy nguồn cung cấp từ BaLan, một quốc gia
phát triễn kỹ nghệ mạnh nhất trong vùng, bị cắt đứt. Nước Nga không còn
sức để theo đuổi cuộc chiến. Ngay từ năm 1915, hệ thống hỏa xa bị ngưng
trệ. Đồ phụ tùng không có để thay thế vì phải nhập từ nước ngoài. Việc
chuyển hướng công nghệ phục vụ cho chiến tranh đã làm xáo trộn sản phẩm
kỹ nghệ cung cấp cho xã hội. Hậu phương thiếu nhu yếu phẩm, hãng xưởng
thiếu nhân công. Nạn lạm phát gia tăng. Ở nông thôn hiện tượng suy sụp
trầm trọng hơn. Ngưng cấp phát tín dụng nông nghiệp. Chính quyền trưng
thu ruộng đất. Nông dân bị động viên vào quân đội. Nông sản phẩm bị
trưng dụng. Các hàng hoá trao đổi giữa nông thôn và thành phố sa sút.
Tất cả những sự kiện này dẫn đến sự trì trệ quá trình hiện đại hoá các
cơ sở nông nghiệp do Thủ Tướng Pior Stolypin nhen nhúm từ năm 1906. Ông
bị ám sát vào năm 1910. Trong suốt ba năm chiến tranh, nông dân đã coi
chính quyền như kẻ thù. Nhất là quần chúng nông thôn. Hằng ngày trong
quân đội quân nhân bị đối xử tồi tệ. Họ cảm thấy như là kẻ nô lệ hơn là
những người dân thi hành nghĩa vụ. Xung đột giữa sĩ quan và quân nhân
dưới quyền gia tăng. Thêm vào đó, quân Nga thua liên tục trên các chiến
trường đã làm gỉam uy tín chính quyền.
Bản
chất bạo động của thời xa xưa vẫn còn hiện diện ở nông thôn. Nó đã bộc
phát dữ dội vào những năm 1902-1903 và giờ đây nó xuất hiện rõ ràng vào
năm 1917.
Chính quyền thật sự mất
quyền kiểm soát kể từ năm 1915. Tại nhiều nơi, nhiều uỷ ban và hiệp hội
tự đứng quản lý sinh hoạt hằng ngày thay chính quyền. Như săn sóc các thương
binh từ các mặt trận đưa về. Chính quyền phải khuyến khích và yễm trợ
cho một phong trào lớn đang được diễn ra từ cơ sở hạ tầng cho đến cơ cấu
tối cao để chận đứng và tiêu diệt các mầm móng khác đang tìm cách phá
hoại cơ chế xã hội Nga lúc bấy giờ.
Thay
vì phải liên kết ngay với các phần tử tiến bộ trong Xã hội, Nga Hoàng
Nicolas II cứ ôm lấy chế độ Quân Chủ Bình Dân. Nga Hoàng muốn duy trì
mình là người ''cha '' của Nông dân. Nga Hoàng đích thân giữ chức Tổng
Chi Huy Quân Đội. Đó là một hành động tự sát của một chế độ chuyên chế.
Tổng hành dinh đóng ở Mongilev bị cô lập. Việc nước kể từ năm 1915 nằm
trong tay Hoàng Hậu Alexandra, một người đàn bà gốc Đức, không được lòng
dân. Đến năm 1916, chính quyền gần như tan rã. Quốc Hội Douma, do dân
bầu nhưng chỉ là Đại diện cho một thiểu số dân, hằng năm chỉ họp vài
tuần . Chính phủ và Bộ trưởng thay đổi liên tục. Dân chúng không tin
tưởng vào Quốc Hội và Chính Quyền.
Trong
lúc khủng hoảng chính trị, vụ ám sát Raspoutine vào đêm 31 tháng 12 năm
1916 đã làm sôi nổi dư luận quần chúng. Các cuộc biểu tình đã một thời
lắng dịu vì chiến tranh, nay có dịp tái bộc phát, sâu rộng hơn. Các cuộc
nổi dậy lan rộng trong hàng ngũ quân đội. Hệ thống tiếp tế tan rã.
Số phận của chính quyền thực sự đã được quyết định từ tháng 2 năm 1917.
Sau
năm ngày biểu tình liên tục do giới công nhân thợ thuyền chỉ đạo, cùng
với cuộc nổi loạn của vài ngàn quân nhân trong thành phố Petrograd,
Chế Độ Nga Hoàng hoàn toàn sụp đổ. Bộ Tổng Tham Mưu không dám huy động
quân đội để đàn áp các cuộc nổi loạn như vậy trong thành phố. Chính
quyền thiếu chuẩn bị chính trị để dàn xếp các đảng phái đối lập.. Nội bộ
đảng phái chia rẻ trầm trọng. từ những người Tự Do của Đảng Dân Chủ Lập
Hiến cho đến những người dân chủ Xã Hội.
Cuộc
nổi loạn bắt đầu từ ngoài đường phố và kết thúc trong văn phòng của
Điện Tauride, trụ sở Quốc Hội Douma . Những Đảng viên Tự Do run sợ trước
những người ngoài đường phố. Trong khi đó cánh Xã Hội lại coi đây là
cuộc cách mạng của giai cấp Tư Sản. Họ cho rằng cứ theo thời gian, cuộc
cách mạng tư sản sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội toàn diện. Sau nhiều
cuộc thương
thuyết, các phe đối lập thỏa hiệp một công thức chưa từng xảy ra :
Thành lập hai chính quyền. Một bên là Chính Quyền Lâm Thời, có nhiệm vụ
tái lập trật tự để tiến tới một nước Nga Tư Bản , liên kết với Đồng minh
Anh, Pháp. Phía bên kia là chính quyền Sô Viết của thành phố Petrograd, thuộc phe Xã Hội . Họ tự nhận là những người nối tiếp truyền thống SôViết Saint Petesbourg vào năm 1905, Đại diện cho khối quần chúng cách mạng.
Từ
ngày 2 tháng 3 đến ngày 25 tháng 10 năm 1917 đã có 3 chính phủ lâm thời
liên tiếp thay đổi. Tất cả đều tỏ ra bất lực trong việc giải quyết các
vấn đề do chế độ cũ để lại: giải quyết khủng hoảng kinh tế; tham dự cuộc
chiến; giải quyết đời sống cho giới công nhân thợ thuyền; vấn đề ruộng
đất,..
Nhóm Tự Do Dân Chủ Lập Hiến chiếm
đa số trong hai chính phủ đầu tiên. Nhóm Mensêvich và nhóm Xã Hội chiếm
đa số trong chính phủ kỳ ba. Họ thuộc thành phần trí thức tiến bộ của
một xã hội dân sự trong thành phố. Họ tin tưởng một cách mù quáng vào
nhân dân. Họ cũng sợ các lực lượng núp trong bóng tối đang bao vây họ.
Họ không biết những người trong bóng tối là ai và âm mưu những gì ?
Đa
số những người mới lên cầm quyền cảm thấy cuộc cách mạng diễn ra ôn hoà
. Họ để cho cao trào đòi hỏi dân chủ làm sụp đổ chế độ Nga Hoàng và cố
tạo ra một nước Nga Tự Do hơn cả các quốc gia trên thế giới. Đó là ước
mơ của những người quá lý tưởng như ông Hoàng LVOV, từng giữ chức Thủ
Tướng trong hai chính phủ đầu tiên.
Trong
bản tuyên cáo đầu tiên ông Hoàng LVOV nói rằng bản chất cuả dân Nga là
tinh thần dân chủ toàn diện. Tinh thần này sẵn sàng hòa hợp với các nước
khác để cùng tiến lên tiếp nối con đường của cách mạng Pháp, đặt căn
bản trên các nguyên tắc lớn : Tự Do Bình Đẳng và tình nghĩa anh em.
Tin
tưởng vào các niềm tin này, Chính phủ lâm thời ban hành các biện pháp
dân chủ . Chính Phủ nhìn nhận các quyền tự do căn bản như bãi bỏ các đạo
luật kỳ thị sắc tộc, tôn giáo; Cho phổ thông đầu phiếu; Nhìn nhận quyền
tự quyết của các sắc dân trong cộng đồng Nga; cho các quốc gia Ba Lan,
Phần Lan quyền tự trị.. Qua các biện pháp này, chính phủ hy vọng sẽ tạo
sự đoàn kết trong dân chúng , cùng nhau chiến thắng cuộc chiến, tiến tới
hợp tác với các nước dân chủ Đồng Minh Tây Phương. Vì quá lo cho vấn đề
pháp lý, chính phủ lâm thời đã khước từ một số biện pháp căn bản để bảo
đảm cho tương lai trước khi triệu tập Quốc Hội vào mùa Thu năm 1917. Vì
chỉ giữ vai trò lâm thời, Chính Phủ không giải quyết các vấn đề hệ
trọng như vấn đề Hòa Bình, vấn đề ruộng đất. Và vì cuộc chiến còn đang
diễn ra, nên Chính phủ Lâm Thời trong thời gian ngắn ngũi, cũng chẳng
giải quyết được gì cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước Nga. Tình trạng
khan hiếm nhu yếu phẩm vẫn diễn ra hằng ngày. Vấn đề tiếp tế lương
thực, và sinh hoạt trao đổi thực phẩm giữa thành thị và nông thôn bị tắc
nghẽn. Hãng xưởng đóng cửa; Con số thất nghiệp của giới công nhân thợ
thuyền gia tăng. Tất cả những sự kiện trên làm cho tình hình xã hội cáng
lúc càng căng thẳng .
Đứng trước thái độ
'' chờ thời '' của Chính Phủ Lâm Thời, nhiều tổ chức xã hội dân sự tự
động đứng ra giải quyết vấn đề. Trong vòng vài tuấn lễ đã có hàng ngàn
tổ chức Sô Viết, ủy ban công xưởng , ủy ban các khu phố, các đội tự vệ
vỏ trang công nhân , mệnh danh là các Vệ Binh Đỏ, các uỷ ban nông dân,
các uỷ ban quân nhân,.. tự thành hình và tự hành động. Các cuộc hội
thảo, các quyết định, các yêu sách, những đòi hỏi của quần chúng quay
quanh về vấn đề chính trị. Đúng là sinh hoạt giải phóng. Cuộc tranh đấu
mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn. Cuộc cách mạng tháng hai này mở đầu cho các
sự câm thù và các việc chiếm đoạt đất đai đã ấp ũ từ lâu. Hầu hết các
yêu sách mang tính chất chính trị của các tổ chức xã hội đã được chính
phủ Lâm thời chấp thuận.
Giới công
nhân thợ thuyền quay cuộc đãu tranh qua mặt trận kinh tế. Họ đòi hỏi mỗi
ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ. Bãi bỏ chế độ tiền phạt vạ. Thành lập
các ủy ban bảo đảm an sinh xã hội và tăng lương. Đòi hỏi thay đổi mối
quan hệ xã hội giữa chủ nhân và công nhân. Thành lập uỷ ban cứu xét đơn
xin việc làm và cho nghỉ việc. Họ đòi hỏi quyền kiểm soát trong sản
xuất. Nhưng muốn thực hiện quyền kiểm soát của công nhân trong các nhà
máy, họ đòi phải có một chính phủ khác. Đó là '' Chính quyền Sô Viết ''.
Chỉ có cơ chế này mới có thể thi hành các biện pháp cấp tiến, có quyền
trưng thu các công xưởng, xí nghiệp, đưa đến chính sách quốc hữu hóa các
công cụ sản xuất. Yêu sách này chưa ai hề nghe biết vào đầu năm 1917.
Thế mà chỉ sáu tháng sau, việc quốc hữu hóa được nói đến thường xuyên.
Trong
cuộc cách mạng tháng hai và tháng mưới năm 1917, những người lính gốc
nông dân với một quân số 10 triệu, họ đã giữ một vai trò quyết định.
Quân Hoàng Gia tan rã mau chóng vì lính đào ngũ và không muốn chiến
tranh. Ngay từ ngày đầu, Chính Phủ Lâm Thời ra tuyên cáo số 1 về '' Hiến
chương của quân nhân''. Theo tuyên cáo này, quân nhân không còn bị ràng
buộc bởi luật lệ của chính quyền cũ. Quân nhân có quyền chọn lấy vị
quan quan cho nhóm mình hay không cần sĩ quan cũng được. Quân nhân có
quyền tham gia trực tiếp vào các chiến lược quân sự. Một sự kiện chưa hề
xảy ra. Nhưng đó là các luật lệ lót đường cho chế độ Bônsêvich. Theo
nhận định của Đại Tướng Broussilov, thì quân nhân chẳng biết gì về chủ
nghĩa cộng sản, chủ nghĩa vô sản và hiến pháp. Họ muốn có hoà bình, họ
muốn được chia đất đai canh tác, được tự do sinh sống không cần đến pháp
luật, không có sĩ quan mà cũng chẳng có địa chủ. Chủ nghĩa Bônsêvich
của họ, trên thực tế là sự khát khao lớn để được có tự do, không bị ràng
buộc . Đó là chủ nghĩa vô chính phủ.''
Tháng
6 năm 1917, các cuộc phản công của quân Nga hoàn toàn thất bại. Quân
Nga bắt đầu tan rã. Hàng trăm sĩ quan bị lính bắt giam vì tình nghi là
các phần tử phản cách mạng. Có một số sĩ quan bị ám sát. Số lính đào ngũ
gia tăng hằng ngày. Sang đến tháng 8, tháng 9, hằng ngày có trên hàng
chục ngàn lính đào ngũ. Những người lính gốc nông dân này chỉ mong có
dịp là trở về miền quê của họ để khỏi mất phần chia đất đai và gia súc
thuộc sở hữu của các địa chủ. Từ tháng 6 tháng 10 năm 1917 có trên hai
triệu quân nhân quá mệt mỏi vì chiến tranh và vì thiếu ăn lâu ngày trong
các chiến hào. Họ quyết định rời bỏ hàng ngũ, mang theo vũ khí, trở về
quê, gây thêm rối loạn ở những vùng đó.
So
với các cuộc nổi loạn vì đất đai của những năm 1905-1906, thì các cuộc
nổi loạn vào mùa hè 1917 xảy ra rất ít. Vá chính quyền còn làm chủ được
tình hình. Sau khi nghe tin Nga Hoàng thoái vị như họ chờ đợi, các hội
đồng nông thôn mở các phiên họp làm thỉnh nguyện thư,
trình bày nguyện vọng và những lời phê phán của họ. Yêu sách đầu tiên
là đất đai phải thuộc quyền sở hữu của những người đang canh tác. Phải
phân chia đất đai của các địa chủ hiện đang bỏ trống. Họ yêu cầu xét lại
thuế má, giảm tô. Dần dần, nông dân tự thành lập ủy ban điền địa từ đơn
vị xóm, thôn đến làng, xã. Họ cử các người có học như thầy giáo trong
làng, các vị linh mục, các chuyên viên nông nghiệp lãnh đạo các uỷ ban.
Họ đề cử các y tá săn sóc sức khỏe cho nông dân.
Nhưng
từ tháng 5, tháng 6 năm 1917, các ủy ban trở nên cứng rắn hơn. Các ủy
ban nông nghiệp khởi đầu tước đoạt các nông cụ và gia súc của các địa
chủ. Họ tự động chiếm hữu các vùng đất không canh tác và các khu rừng
của tư nhân. Cuộc chiến đãu khởi đầu từ thời tổ tiên xa xưa của họ. Nhờ
cuộc cải cách ruộng đất của cựu Thủ Tướng Stolypine, một số người dân
trước kia đã ra công khai thác ruộng đất và lâu dần trở nên giàu có, sơ
hữu một số đất đai. Trước cuộc cách mạng tháng 10, những người nông dân
giàu có, hay còn gọi là địa chủ này là đối tượng đãu tranh của nhóm
người Bônsêvich. Giới địa chủ bị Bônsêvich kết tội là các thành phần bóc
lột, cho vay nặng lãi, những tên tư sản nông thôn, thành phần hút máu
nhân dân,.. Những người Bônsêvich kêu gọi địa chủ hiến dâng ruộng đất,
tài sản, dụng cụ sản xuất của họ vào qũy cộng đồng để trở về với cộng
đồng nông thôn. Họ cũng hưởng theo nguyên tắc bình đẳng được phân chia
theo khẩu phần ăn.
Vào mùa hè năm 1917,
tình trạng ở nông thôn trở nên căng thẳng hơn khi các người lính đào ngũ
mang theo vũ khí trở về làng xóm. Khi nhận ra chính phủ không giữ lời
hứa phân chia đất đai gia súc , họ nổi loạn tấn công vào các trang trại
lớn trong đó có chứa các nông cụ hiện đại, thuộc quyền sở hữu của giới
quí tộc. Họ đập phá, nhục mạ và đuổi các chủ gia ra khỏi làng xóm.
Tại
các vùng ở Ukraine và các địa phương thuộc khu vực Tambov, Penza,
Voronej, Saratov, Orel, Toula, Riazan, đã có hàng ngàn nông trại, khu
nhà bị đốt phá và hàng trăm chủ gia bị tàn sát.
Đứng
trước tình trạng '' vô chính phủ'', giới chủ nhân, địa chủ cùng với các
lãnh tụ của các đảng phái có khuynh hướng tự do cùng quyết định phải xử
dụng quân đội để dàn xếp . Họ đề nghị Tướng Kornilov đứng ra thành lập
chính phủ. Nhưng đề nghị này không được Chính Phủ Lâm Thời do ông
Alexandre Kerenski chấp thuận. Người ta chờ đợi cuộc đảo chánh nhưng
cuộc đảo chánh do Tướng Kornilov chủ trương xảy ra trong 3 ngày kể từ
ngày 24 đến ngày 27 tháng 8 năm 1917 bị thất bại. Tình hình chính trị
cũng như các vấn đề xã hội trở nên bi đát hơn. Chính phủ lâm thời không
còn kiểm soát được bộ máy thông tin của nhà nước. Trong lúc đó, tại các
cơ quan đầu não xảy ra các vụ tranh chấp quyền hành giữa hai phe dân
chính và quân sự. Phe quân nhân muốn nắm trong tay các quyền Tư Pháp,
Hành Chánh, và Quân đội.
Phải nhận
rằng có tiến bộ trong các hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự. Phải
chăng họ đã bị Bônsêvich hoá ? Điều này không có gì chắc chắn. Mặc dù
cùng dùng các khẩu hiệu '' Công nhân kiểm soát các xí nghiệp '', hay ''
Tất cả quyền lực thuộc về Sô Viết'',.. nhưng mỗi bên hiểu và giải thích
theo lối suy tư của mình. Trong quân đội, hiện tượng Bônsêvich hóa thể
hiện sự khát khao hòa bình của các người lính. Họ tham dự cuộc chiến khá
lâu và số thương vong lên quá cao , so với tất cả cuực chiến trong quá khứ.
Với
tập thể nông dân, cuộc cách mạng của họ có cùng mục đích với lực lượng
cách mạng xã hội, thuận lợi cho việc chia đất chia đai. Nhưng đối với
những người Bônsêvich, mục đích của họ là quốc hữu hóa tất cả đất đai,
thành lập đơn vị tập thể lớn để sản xuất nông sản. Những người ở thôn
quê không hề hiểu biết gì cái tên Bônsêvich. Những người lính đào ngũ
trở về làng đã kể cho họ nghe những gì đã xảy ra. Trong khi đó những
người Bônsêvich với con số đoàn viên không mấy chính xác một đến hai
trăm ngàn trong tháng 10 năm 1917 ,đi tuyên truyền trong quần chúng dưới
khẩu hiệu '' Hòa bình và ruộng đất''. Nhưng dù sao giữa lúc nước Nga ''
vô chính phủ'', quyền lực nhà nước nằm trong tay các Ủy ban, các hội
đoàn xã hội dân sự, các Sô Viết, .. thì chỉ cần có một hạt nhân nhỏ có
tổ chức là có thể chiếm lãnh quyền hành to lớn. Đó là điều những người
Bônsêvich đã làm. Họ đã đạt mục tiêu nắm lấy chính quyền. Họ đã thành
công vào thời điểm đó.
Từ ngày thành lập
đảng vào năm 1903, những người Bônsêvich cho thấy đường lối chính trị
của họ khác hẳn với các đảng phái xã hội dân chủ trong nước Nga cũng như
tại các nước ở Âu Châu. Đảng được tổ chức chặt chẽ, kỹ luật sắt; họ là
những người làm cách mạng chuyên nghiệp. Họ thi hành các biện pháp mạnh,
dứt khóat và mau lẹ để giải quyết các trật tự xã hội hiện hành.
Trận
thế chiến thứ nhất đã xác định tính chất đặc trưng của chủ nghĩa
Bônsêvich theo định nghĩa của Lenine. Đặc trưng của khuynh hướng Lenine
là không bao giờ hợp tác với các luồng tư tưởng Xã hội- Dân chủ. Lý
thuyết của Lenine được trình bày trong tác phẩm '' Chủ nghĩa Đế Quốc,
giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa Tư Bản''. Ông cho rằng cuộc cách mạng
sẽ không diễn ra ở các nước giàu có mà là sẽ xảy ra tại các nước còn
đang phát triển, non yếu như nước Nga. Nhưng cũng theo Lenine, cuộc cách
mạng phải do một tổ chức tiên phong, có kỹ luật chặc chẻ lãnh đạo, tiến
tới một chính phủ Độc Tài của những ngườ vô sản, một nền '' Độc Tài Vô
Sản''. Nó sẽ biến cuộc chiến Đế- quốc- hoá thành một cuộc nội chiến.
Trong
bức thơ đề ngày 17 tháng 10 năm 1914 gởi cho ông Alexandre Chliapnikov,
một trong những người lãnh đạo nhóm Bônsêvich, Lenine viết : '' Chế độ
Nga Hoàng thua trận chỉ là một thiệt hại nhỏ. Nhiệm vụ và công tác của
chúng ta là cố kéo dài có phương pháp với mục đích là biến cuộc chiến
tranh này thành cuộc nội chiến. Cho tới giờ phút này chuyện đó chưa xảy
ra. Chúng ta chờ đợi thời cơ chín mùi và thúc đẫy một cách có hệ thống
cho thời cơ chín mùi. Hiện nay chưa cho phép chúng ta hứa hẹn một điều
gì về cuộc nội chiến và cũng chưa làm gì để cho cuộc nội chiến xảy ra.
Chúng ta chỉ có thể tạo ra cơ hội để cho cuộc nội chiến xảy ra, dù phải
chờ đơị. Chúng ta đi về hướng này.''
Ông
nêu lên những mâu thuẫn của Đế Quốc. Cuộc chiến của đế quốc sẽ làm đảo
lộn các danh từ giáo điều Mat-xit. Nó sẽ nổ ra ở đất Nga chớ không ở nơi
nào khác. Trong suốt thời gia của cuộc thế chiến thứ nhất, Lenine đã
vận động lực lượng Bônsêvich tìm mọi cách phát động cuộc nội chiến ở
Nga.
Tháng 9 năm 1917 Lenine nhận định,
những ai nhìn nhận cuộc chiến tranh giai cấp đều phải chấp nhận một cuộc
nội chiến. Trong xã hội có giai cấp, luôn luôn xảy ra cuộc chiến tranh
chấp về giai cấp.
Trong cuộc nổi dậy
thành công vào tháng 2 năm 1917 không có một nhân vật cao cấp Bônsêvich
nào tham dự cả. Hoặc họ đang lưu đày hay đang ở nước ngoài. Lenine tiên
đoán chính sách dung hoà, thành lập chính phủ Lâm thời sẽ thất bại. Ở
thành phố Petrograd
, nhóm Sô Viết đã thành lập xong Chính Phủ Lâm Thời, gồm các phe Xã hội
cách mạng và Xã hội dân chủ và một số nhóm khác. Trong thời gian từ 20
đến 25 tháng 3 năm 1917, trong lúc lánh nạn ở Zurich, Thủ Đô Thụy sĩ,
Lenine viết bốn lá thơ gởi về. Tạp chí Sự Thật Pravda chỉ đăng có lá thư thứ nhất. Ba lá kia không được lên báo vì Lenine đòi nhóm Xô Viết ở thành phố Petrograd hay đoạn giao với Chính Phủ Lâm Thời để chuẩn bị cho giai đoạn '' Vô sản cách mạng''.
Theo
Lenine, sự xuất hiện các nhóm Sô Viết là dấu hiệu cho thấy đã vượt qua
giai đoạn '' Cách mạng giới trung lưu''. Cho nên không còn phải chần chờ
gì cả. Các tổ chức cách mạng phải nắm lấy chính quyền bằng cách xử dụng
vũ khí, chấm dứt chiến tranh đế quốc, cho dù phải lao vào một cuộc
chiến khác, cuộc nội chiến. Và như vậy tình hình đã diễn ra theo sách
lược cách mạng.
Trong thời gian chiến
tranh Nga-Đức, Lenine được chính quyền Đức cấp cho giấy thông hành di
chuyển trên đất Đức. Ông trở về Nga vào ngày 3 tháng 4 năm 1917. Lúc này
Lenine vẫn còn quá khích. Trong các viết nổi tiếng của ông với tựa đề
'' Luận Đề Tháng Tư'', ông nhắc lại sự phản đối của ông về việc thành
lập một nền Cộng Hòa Đại Nghị dựa vào nguyên tắc dân chủ.
Ông bị các nhóm Sô Viết ở thành phố Petrograd
phản đối kịch liệt. Nhưng ngược lại, những người mới gia nhập ủng hộ
triệt để. Staline cho rằng những người chống đối là những người thực
tiễn. Trong vài tháng sau, các phần tử bình dân, trong đó có các nông
dân bị động viên đã giữ vai trò chính. Và do số đông, những người nông,
không có ý thức chính trị tràn ngập cả các giới trí thức và dân thành
phố, là những người đã có kinh nghiệm đãu tranh và có ý thức tổ chức.
Chính do cái truyền thống bạo động phát xuất từ nền văn hóa nông dân, họ
không hiểu, hay nói đúng hơn, họ không bị chủ thuyết giáo điều Maxit
chi phối. Họ tiêu biểu cho thành phần Bônsêvich bình dân. Họ, vì thế, đã
làm mờ chủ nghĩa Bônsêvich chính thống. Họ không cần phải đặc câu hỏi,
phải chăng giai đoạn trung lưu cần thiết để tiến lên xã hội chủ nghĩa?
Họ thuộc thành phần hoạt động trực tiếp, xử dụng bạo động. Họ là những
người nhiệt thành hoạt động cho chủ nghĩa Bônsêvich. Họ không cần hội
thảo lý thuyết. Họ chỉ cần phải học thuộc lòng một điều căn bản được coi
như là nhật lịnh : cướp lấy chính quyền.
Nhưng
trong số những người thuộc thành phần Bônsêvich bình dân này đã có một
số đông bắt đầu lo lắng. Như các thuỷ thủ đóng ở căn cứ Hải quân
Kronstadt nằm ngoài khơi thành phố Petrograd,
một vài đơn vị thuộc quân khu thủ đô và một số Hồng vệ binh. Họ sợ nổi
dậy sớm, sẽ bị thất bại. Vì thế họ cho rằng Lenine quyết định quá nông
nổi và hạn hẹp. Trái với các tin đồn, suốt năm 1917, lực lượng Bônsêvich
thật sự vô cùng khủng hoãng và chia rẽ. Vào đầu tháng 7 năm 1917, đảng
Bônsêvich gần như tan rã. Các cuộc biểu tình vào ngày 3 và 5 ở thành phố
Petrograd
bị chính phủ cấm và bị coi là bất hợp pháp. Các thành phần đầu não của
đảng bị đặt ra ngoài vòng luật pháp. Họ phải bỏ trốn ra nước ngoài như
trường hợp của Lenine.
Nhưng vì
chính phủ bất lực trước các vấn đề của xã hội, uy tín chính quyền ,
quyền lực truyền thống giảm sút, thêm vào đó cuộc đảo chánh thất bại của
Tướng Kornilov, đã giúp cho đảng Bônsêvich sống lại. Cuối tháng 8 năm
1917, đảng Bônsôvich đã tập hợp lại các đảng viên, cùng với các cảm tình
viên , trở thành một khối đông và mạnh. Họ đã đủ mạnh để chuẩn bị cướp
chính quyền.
Thêm một lần nữa, Lenine giữ
vai trò lý thuyết gia và chiến lược gia , vai trò quyết định để chiếm
lấy chính quyền. Một vài tuần trước ngày đảo chính 17 tháng 10 để thành
lập nhà nước Bônsêvich, Lenine đã hoạch ra một kế hoạch chu đáo cho cuộc
bạo động. Ông ta tiên liệu ngăn ngừa sự bộc phá của các phần tử cực
đoan trong đảng và những hoạt động bất ngờ của khối quần chúng. Ông cũng
tiên liệu tránh cái '' Pháp ly cách mạng'' cuả lãnh tụ Bônsêvich như
Zinoviev hay Kamenev. Hai lãnh tụ này đã ''bị cháy'' trong các vụ biểu
tình hồi đầu tháng 7 vừa qua vì còn tin tưởng vào sự hợp tác với các
đảng xã hội dân chủ và xã hội cách mạng.
Từ nơi trú ẩn ở Phần Lan, Lenine liên tục gởi về Ủy Ban Trung ương Đảng Bônsêvich ở thành phố Petrograd những lời kêu gọi nổi dậy cướp lấy chính quyền. Ông viết:
''
Nếu chúng ta tái lập nền hoà bình và phân chia ruộng đất cho nông dân,
thì chúng ta sẽ thành lập được chính quyền mà không có ai lật đổ được.
Nếu chúng ta chờ đợi cho có nhiều người ủng hộ thì sẽ không bao giờ có.
Không có cuộc cách mạng nào chờ đợi như vậy. Lịch sử sẽ không tha thứ
nếu chúng ta không nắm lấy chính quyền ngay bây giờ..''
Phần
đông người Bônsêvich hoài nghi lời kêu gọi của Lenine. Họ cho rằng cần
gì phải '' đột phát''. Cứ theo tình hình này thì rõ ràng rất thuận lợi
cho họ và còn có vẻ cấp tiến nữa. Chỉ cần nắm lấy khối đông quần chúng
và khuyến khích họ bạo động ; Hoặc kết hợp với các phần tử thuộc các
phong trào xã hội cùng các lực lượng của chính phủ đang tan rã, khuyến
khích họ hành động và chờ đến kỳ Đại Hội Liên bang các SôViết kỳ II ngày
20 tháng 10 năm 1917. Vào kỳ Đại Hội, phe Bônsêvich sẽ chiếm ưu thế vì
có các đã có các đại diện trong các trung tâm đông đảo thợ thuyền công
nhân, cùng với các một số lớn đại diện các Ủy ban của các quân nhân gốc
nông dân. Trong khi đó đại diện của các Sô Viết ở nông thôn có khuynh
hướng xã hội cách mạng. Nhưng theo Lenine, nếu các Sô Viết nông thôn có
khuynh hướng xã hội này được đại hội chấp thuận chó đứng ra thành lập
chính phủ thì cũng sẽ là chính phủ Liên Hiệp. Nhóm Bônsêvich sẽ chia
quyền cùng với các nhóm xã hội khác. Như vậy, theo ông, Bônsêvich chỉ có
thể nắm lấy chính quyền nếu dùng vũ lực nổi loạn trước ngày khai mạc
Đại Hội. Ông ta cũng tiên đoán rằng các phe phái khác sẽ lên án cuộc đảo
chánh, tách ra trở thành phe đối lập, giao quyền hành cho người
Bônsêvich.
Ngày 10 tháng 10 năm 1917, từ biên giới Phần Lan Lenine bí mật trở về thành phố Petrograd.
Ông triệu tập ngay một phiên họp với sự hiện diện của 12 lãnh tụ trong
số 21 Uỷ Viên Trung Ương Đảng Bônsêvich. Sau 10 tiếng đồng hồ hội thảo,
ông đã thuyết phục được đa số các Ủy viên để thi thi hành một quyết định
mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra. Đó là kế hoạch nổi dậy bằng vũ lực
trong một thời gian ngắn sắp tới. 10 phiếu chấp thuận kế hoạch. Hai
phiếu chống của Zinoviev và Kamenev.
Ngày 16 tháng 10, mặc dù nhóm cách mạng Xã Hội trong tổ Sô Viết thành phố Petrograd
chống đối, Trotski cũng quyết định thành lập một tổ chức quân sự. Trên
nguyên tắc, nó thuộc quyền quyết định của Ban chấp hành SôViết Petrograd.
Uỷ ban lấy tên là Ủy Ban Quân Sự Cách Mạng, viết tắc CMRP, được uỷ
nhiệm thực hiện một cuộc nổi dậy quân sự cướp lấy chính quyền, khác hẳn
các trường hợp nổi dậy của nhân dân trước đây.
Theo
như kế hoạch của Lenine, con số người tham dự trực tiếp vào cuộc cách
mạng tháng 10 rất hạn chế. Vài ngàn lính của quân khu Petrograd,
một số Hải quân ở cảng Kronstadt, một số Hồng vệ binh và một số lãnh tụ
Bônsêvich thuộc các uỷ ban công xưởng. Cuộc nổi dậy chỉ chạm súng lẻ
tẻ. Con số thương
vong không đáng kể. Việc chiếm lấy chính quyền không mấy khó khăn. Ủy
ban Quân Quản nắm lấy quyền hành. Như vậy quyền lãnh đạo nhà nước hoàn
toàn nằm trong tay của một tổ chức, do Ủy Ban trung ương Bônsêvich giao
phó. Không một ai có quyền tham dự cho dù có tổ chức Đại Hội.
Chiến
lược tạo một sự việc đã rồi của Lenine đã thành công. Nhóm xã hội ôn
hòa rời bỏ phòng họp Đại Hội để phản đối hành động mưu phản quân sự do
nhóm Bônsêvich chủ mưu, qua mặt các tổ chức Sô Viết. Phòng hội giờ chỉ
còn nhóm Bônsêvich và các đồng minh của họ. Những đại biểu hiện diện
trong hội trường lúc bấy giờ đã tán thành cuộc nổi dậy đồng thời bỏ
phiểu chấp thuận nghị quyết do Lenine đưa ra : '' Tất cả các quyền lực
đều về tay các SôViết''.
Nghị quyết này
chỉ làm cho có hình thức để thừa nhận sự việc'' người Bônsêvich được ủy
quyền''. Đó là một sự tưởng tượng đã lừa bịp nhiều thế hệ của những
người nhẹ dạ, dễ tin. Họ nhân danh nhân dân trong các nước SôViết đứng
ra cai trị đất nước. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi chấp thuận nghị
quyết, thành lập tân chính phủ Bônsêvich, Đại Hội II bế mạc. Tân chính
quyền Bônsêvich do Lenine làm chủ tịch. Các Ủy viên đã chấp thuận các
nghị quyết cho tái lập hòa bình và tiến hành phân chia ruộng đất. Đó là
công tác đầu tiên của tân chế độ.
Không
lâu sau đó, tân chính quyền phải đối đầu ngay những sự xung đột và những
sự hiểu lầm giữa chính quyền và các thành phong trào xã hội. Các phong
trào này cho rằng chính họ đã tạo nên sự tan rã mau chóng chế độ cũ cả
về phương diện xã hội cũng như về kinh tế.
Sự hiểu lầm đầu tiên là công việc chia ruộng đất.
Nhóm
Bônsêvich chủ trương quốc hữu hóa đất đai. Nhưng vì tương quan lực
lượng bất lợi cho họ nên họ phải chấp thuận theo kế hoạch phân chia
ruộng đất của các nhóm xã hội cách mạng . Một nghị quyết về ruộng đất đã
hũy bỏ quyền tư hữu đất đai. Ruộng đất bị tịch thu không bồi thường
và đặt dưới quyền của ủy ban nông nghiệp địa phương. Ủy ban này sẽ tái
phân phối ruộng đất cho nhân dân. Trên thực tế, việc hợp pháp hóa các
việc làm của cộng đồng làng xã đã bắt đầu từ mùa hè năm 1917. Những
người Bônsêvich đã tướt đoạt tàn nhẫn đất đai của điền chủ, của những
người giàu có. Nhưng vì phải dựa vào cuộc cách mạng của nông dân, cuộc
cách mạng đã giúp cho người Bônsêvich cướp lấy chính quyền, cho nên họ
phải chờ đến 10 năm sau mới thực hiện được chương trình riêng của họ. Đó
là chính sách quốc hữu hóa. Các cuộc tập thể hóa ở nông thôn là một
cuộc chạm trán gay go giữa chính quyền và nông dân. Đó là kết quả của sự
hiểu lầm về nghị quyết do cách mạng tháng Mười tạo ra. Một sự hiểu lầm
bi thảm nhất của năm 1917.
Việc hiểu lầm thứ hai là vấn đề giao tế giữa đảng Bônsêvich và các thể chế mới.
Các
thể chế mới này là những tổ chức đã tham gia vào các hoạt động nhầm xóa
bỏ cơ chế quyền lực cũ, và cũng đã giữ vững lập trường. Đó là các Ủy
Ban của các công xưởng, xí nghiệp, các nghiệp đoàn, các đảng xã hội, các
uỷ ban khu phố, các Hồng vệ binh, và nhất là các tổ Sô Viết. Chỉ trong
vòng vài tuần lễ, các thể chế mới này bị tước bỏ quyền lực. Họ phải chịu
sự chỉ đạo của đảng hay giải tán. Khẩu hiệu '' Tất cả quyền lực thuộc
về Sô Viết'' trở thành khẩu hiệu phổ thông trên nước Nga trong tháng 10
năm 1917, nay bị trở cờ, quyền lực nằm trong tay đảng. Đảng quản lý các
Sô Viết.
Dưới khẩu hiệu '' Công nhân kiểm soát xí nghiệp'', các người Bônsêvich, các người vô sản của thành phố Petrograd
và các thành phố kỹ nghệ đã hất cẵng các chủ nhân và nhân công nhà máy
ra ngoài, dành quyền kiểm soát. Họ tự nhận là công nhân. Tình trạng
chống đối và lo âu xảy ra trong giới thợ thuyền. Vật giá gia tăng, dẫn
theo nạn lạm phát.
Tháng 12 năm
1917, chính quyền gặp phải sự chống đối của công nhân. Họ đình công .
Chỉ vòng trong vài tuần lễ, những người Bônsêvich gần như mất hết niềm
tin mà họ đã gây được trong lòng giới lao động trong suốt năm 1917.
Việc hiểu lầm thứ ba là sự đối xử với các sắc tộc, cựu thuộc địa của Nga đưới thời Nga Hoàng.
Cuộc
đảo chính của người Bônsêvich đã làm cho các sắc dân muốn tách ra khỏi
mẫu quốc Nga. Chính quyền mới bảo đảm yêu sách này bằng cách họ chấp
thuận sự bình đẳng, chủ quyền và quyền tự quyết gia nhập hay ly khai của
các sắc dân. Chỉ trong vòng vài tháng các sắc dân Ba Lan, Phần Lan,
Baltique, Ukraine, Armenie tuyên bố độc lập. Đứng trước tình trạng rẩm
rộ ly khai chính trị , chính quyền Bônsêvich phải đưa ra các vấn đề khác
để tìm cách chận đứng sự ly khai . Họ cho rằng vì cần phải bảo vệ vụ
lúa mì ở Ukraine, vùng dầu hỏa ở Caucase, và những quyền lợi của nhà
nước khác, họ quả quyết lãnh thổ này là do nhà nước thừa hưởng của chế
độ Nga Hoàng. Họ còn đòi hỏi nhiều hơn những gì chính phủ lâm thời đã
làm.
Do nhiều hình thức khác nhau của các
cuộc cách mạng xã hội và của các sắc dân nên xảy ra cuộc va chạm mang
tính đa dạng. Chính sách thực thi đường lối chính trị độc tài, không
chấp nhận phân chia quyền lực, đã dẫn ngay đến các cuộc đối kháng , xung
đột mãnh liệt từ phía quần chúng trong xã hội, từ đó đưa đến các cuộc
đàn áp đẫm máu, khủng bố dã man của phía chính quyền .
Stéphane Courtois et al.
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 2
LỰC LƯỢNG VÕ TRANG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỘC TÀI VÔ SẢN
Chính quyền mới là một tập hợp đa dạng.
Bộ
phận chính là trung tâm quyền lực của các Sô Viết, kết tụ thành một Ủy
Ban Hành Chánh Trung Ương. Ủy Ban này bao gồm một chính phủ hợp pháp và
một hội đồng đại biểu nhân dân. Họ cố tìm hậu thuẩn và sự thừa nhận
chính thức của dân chúng trong nước và của thế giới bên ngoài.
Bên cạnh đó, một bộ phận cách mạng khác có cơ chế hoạt động nằm giữa hệ thống quyền lực, đó là Ủy Ban Quân Quản thành phố Petrograd.
Feliks
Dzerjinski nhận định vai trò của Ủy ban Quân quản như sau : '' Đó là
một cơ cấu nhẹ nhàng, uyển chuyển, không có một pháp chế chi tiết, có
thể thi hành công tác khẩn cấp. Không một định chế pháp lý nào có thể
cản trở các hoạt động của Ủy ban nhằm đương đầu và tiêu diệt các kẻ thù
của Lực Lượng võ trang chuyên chính vô sản.''
Trong những ngày đầu của tân chế độ, Lực lượng võ trang của chính quyền độc tài vô sản hoạt động như thế nào ?
Theo
lời của Dzerjinski, và sau này chính cơ quan công an chính trị Tcheka
xác nhận, chương trình hành động của lực lượng võ trang rất đơn giản và
ngắn gọn. Lúc đầu, Ủy Ban, có tên gọi tắc CMRP, gồm có 60 thành viên,
trong đó nhóm Bônsêvich chiếm 48 ghế . Số còn lại gồm một vài thành viên
thuộc nhóm Xã hội cách mạng thiên tả và một số thành viên độc lập. Chủ
tịch là một đảng viên đảng Xã hội và bốn phó chủ tịch thuộc đảng
Bônsêvich , trong đó có Dzerjinski và Antonov- Ovseenko.
Trong thực tế, trong suốt thời gian cầm quyền, chỉ có 20 thành viên của ủy ban thực sự đứng ra ký tên cho khoảng chừng 6000 văn thư hay án lịnh với danh nghĩa là thư ký hay chủ tịch của ủy ban.
Qua
hình thức chỉ thị, nghị quyết, Ủy ban CMRP đã tổ chức một mạng lưới
hoạt động với chừng 1000 nhân viên được gài vào trong các đơn vị quân
đội, các ban chấp hành Xô Viết, các tổ chức phường khóm. Các nhân viên
này chỉ thi hành theo chỉ thị của ủy ban CMRP mà thôi. Họ không lệ thuộc
vào chính phủ cũng như không lệ thuộc vào Bộ chính trị trung ương.
Trong
khi các đảng viên Bônsêvich còn đang bận rộn thành lập chính phủ, ngày
26 tháng 10, một số nhân vật không tên tuổi đã đưa ra một số biện pháp
để củng cố chính quyền độc tài vô sản, như:
Cấm phát hành các truyền đơn phản cách mạng.
Đóng cửa 7 tờ báo có khuynh hướng tư sản quý tộc và khuynh hướng xã hội ôn hòa.
Kiểm soát bưu điện và đài phát thanh.
Thành lập ủy ban kiểm kê tài sản, nhà cửa, xe hơi,..
Lịnh đóng cửa báo chí được phê chuẩn sau đó hai ngày
Nhưng
phải chờ sau một tuần lễ tranh luận sôi nổi, giữa chính quyền và Bộ
chính trị trung ương Bôsêvich, lịnh đóng cửa báo chí mới chính thức cho
thi hành bằng một quyết nghị.
Trong
giai đoạn đầu, vì chưa tin tưởng vào khả năng của mình, đảng Bônsêvich
khuyến khích tiếp tục áp dụng chiến thuật đã giúp hự thành công trong
các biến cố của năm 1917. Đó là lợi dụng tinh thần quá khích và bồng bột
của quần chúng.
Khi
đại diện của tỉnh Pskov đến chất vấn về tình trạng vô chính phủ,
Dzerjinski trả lời: ''Nhiệm vụ của chúng ta là phá bỏ trật tự cũ. Nhưng
chúng ta chưa đủ lực lượng để làm công tác này. Vì thế chúng ta phải lợi
dụng sự cuồng nhiệt của quần chúng. Quần chúng cho rằng chính họ tự
động đứng lên giải phóng. Trong giai đoạn kế tiếp, chúng ta sẽ hướng dẫn
họ hành động. Dưới quyền lãnh đạo của chúng ta, chúng ta trở thành
tiếng nói của quần chúng và cùng với nhân dân chống lại kẻ thù của giai
cấp vô sản. Chúng ta sẽ trở thành những người xây đường cho các dòng
thác cách mạng. Chúng ta sẽ khai thác sự căm thù và kích thích ý chí trả
thù hợp lý của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp áp bức.''
Trong
một phiên họp của ủy ban CMRP hôm 29 tháng, nhiều thành viên của ủy ban
đề nghị phải tiến hành ngay các biện pháp đối phó và đánh phá kẻ thù
của nhân dân. Ngày 13 tháng 11 để đáp ứng lời đề nghị của các thành
viên, ủy ban CMRP ra thông báo:
''
Công chức của các công sở hành chánh, ngân hàng, hỏa xa, bưu điện,..
đang phá hoại các chính sách của nhà nước Bônsêvich. Kể từ ngày hôm nay,
họ là kẻ thù của nhân dân. Tên tuổi của những người này sẽ được đăng
trên các báo và sẽ được niêm yết ở những nơi công cộng.''
Tiếp theo sau mấy ngày niêm yết, là một bản cáo trạng kết án.
Những
người bị nghi ngờ phá hoại, đầu cơ hay chiếm đoạt tài sản bị giam tức
khắc vì bị coi như là kẻ thù của nhân dân. Trong vòng vài ngày, Ủy ban
CMRP đã cho ra đời hai tội trạng đáng sợ: Kẻ thù của nhân dân và kẻ bị
tình nghi.
Ngày
28 tháng 11, Chính quyền ban hành một nghị quyết do Lenine ký để hợp
thức hóa cụm từ '' kẻ thù của nhân dân''. Nghị quyết xác nhận tất cả
thành viên của đảng Dân Chủ Lập Hiến đều là kẻ thù của nhân dân. Những
người này sẽ bị bắt và đưa ra tòa án nhân dân. Theo các điều khoản của
nghị quyết, tất cả các luật lệ của các đảng dân chủ xã hội cũng như của
đảng xả hội cách mạng đều đi ngược lại quyền lợi của giai cấp nông dân
thợ thuyền. Trong khi chờ đợi soạn thảo bộ luật mới, Tòa án phải dựa
theo các luật lệ hiện hành xét xử sao cho phù hợp với trật tự của cách
mạng.
Nội dung của nghị quyết thật mơ hồ. Nó sẽ dẫn đến những hậu quả do sự lạm dụng quyền hành.
Các
Tòa án cũ được thay thế bởi các Tòa án nhân dân và Tòa án cách mạng.
Các Tòa án này có tòan quyền xét xử các tội phạm chống đối nhà nước vô
sản, tội phá hoại, tội làm gián điệp, tội lạm dụng quyền thế và tội phản
cách mạng.
Ông Rourski, ủy viên nhân dân phụ trách Tư pháp t2 năm 1918 đến 1928 xác nhận rằng, Tòa án nhân dân không phải như các Tòa án thường.
Đó là Tòa án của chính quyền chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ của các Tòa
án này là kết án với mục đích tiêu diệt và loại trừ các phần tử chống
lại chính quyền Bônsêvic hơn là mục đích xét xử.
Một
trong các toà án này là tòa án chuyên về báo chí. Nó có nhiệm vụ tuyên
xử các tội vi phạm các điều khoản của nghị quyết chính quyền về báo chí.
Tòa án ra lịnh đình bản các nhật báo, tuần báo, và các tạp chí cố ý phổ
biến sai lệch các tin tức.
Bên cạnh sự hình thành các cơ quan Tư pháp, Ủy ban CMRP cũng ráo riết củng cố cơ cấu của mình.
Tình hình lương thực vô cùng nguy cập. Kho dự trữ lương thực của thành phố Petrogradchỉ
còn có thể cung cấp một ngày ăn không đày đủ cho dân có phiếu tiếp tế
thực phẩm. Để đối phó với tình trạng thiếu lương thực, ngày 4 tháng 11,
chính phủ thành lập Ủy ban lương thực. Nhiệm vụ của uỷ ban là đi tìm
lương thực. Thông cáo đầu tiên của ủy ban lương thực nhắm vào những
người giàu có, thành phần chiếm hữu của cải. Ủy ban lương thực trưng
dụng số lương thực thăng dư của họ.
Ngày
11 tháng 11, ủy ban lương thực gởi một số nhân viên về các tỉnh đi truy
lùng, thu mua ngũ cốc, lương thực để tiếp tế cho dân thành phố Petrograd
và cho binh lính của Hồng quân đang chiến đãu với quân Đức. Các nhân
viên này được lấy từ các toán quân của các binh chủng bộ binh, hải quân,
Hồng vệ binh, công nhân và thợ thuyền.
Một
ủy ban đặc trách truy lùng tàn quân nhân cũng như nhân viên cảnh sát
cúa Nga Hoàng thành lập vào ngày 10 tháng 11. Các toán truy lùng còn có
nhiệm vụ thanh toán các đảng viên của các đảng tư sản và cả các công
chức bị tình nghi.
Trong
tình cảnh rối ren của thành phố vì nạn đói, các toán Hồng vệ binh phối
hợp với toán tự vệ ô hợp mới được thành lập, lục soát nhà cửa của nhân
dân. Các toán này tịch thu tài sản, bắt bớ người một cách vô cớ, đòi
tiền chuộc mạng sống,.. Họ mạo danh ủy ban cách mạng hăng say cướp bóc
tài sản, tịch thu lương thực và hành hung những ai chống lại. Các vụ
thanh toán vì tư thù xảy ra quá nhiều.Các vụ cướp có vũ khí nhắm vào các
tiệm buôn, kho hàng, kho rượu trong lâu đài Mùa Đông của Hoàng Gia Nga.
Hiện tượng hống hách càng ngày càng gia tăng. Dzerjinski phải đích thân
ra lịnh bài trừ các phần tử gây rối loạn và hiện tượng say sưa của các
toán trưng thu.
Ngày
6 tháng 12, Ủy ban chống gây rối và bài trừ say rượu ban hành tình
trạng khẩn trương và lịnh thiết quân luật trên toàn thành phố Petrograd để chấp dứt tình trạng vô trật tự do các phần tử '' bất hảo núp dưới danh nghĩa cách mạng'' gây ra.
Ngoài
các vụ nổi loạn, chính quyền Bônsêvich còn phải lo đối phó các cuộc
đình công lan rộng của công chức xảy ra hồi ngày 25 tháng 10. Do sự đe
dọa này, nhà nước cho thành lập Ủy Ban thân Nga để chống lại các hành
động phản các mạng, chống luôn các vụ đầu tư kinh tế, chính trị và các
vụ phá hoại. Ủy ban có tên là Vetchka, và được thế giới biết đến với cái tên Tcheka : ủy ban công an chính trị.
Trước khi cho ra ban công an chính trị Tcheka, các lãnh tụ Bônsêvich cho giải tán ủy ban CMRP.
Lực
lượng võ trang của chính quyền độc tài vô sản đã bảo vệ những người
Bôsêvich như thế nào trong bối cảnh chính trị hỗn loạn của Nga thời bấy
giờ ?
Trong
phiên hựp ngày 6 tháng 12, các lãnh tụ Bônsêvich ủy nhiệm cho
Dzerjinski được tòan quyền, thành lập ngay một Ủy ban đặc biệt. Ủy ban
của Dzerjinski có quyền xử dụng mọi khả năng của cách mạng để tìm ra một
biện pháp nhằm chận đứng các cuộc đình công của công chức và chống lại
các vụ phá hoại.
Trước
đó vài ngày, Lenine bày tỏ sự phấn khởi về diễn tiến và thành quả của
cuộc cách mạng Pháp 1789. Ông cho rằng cách mạng tháng 10 năm 1917 của
Nga là sự tái diễn của cách mạng Pháp. Lenine nói với viên thư ký
V. Bontch Brouevitch phải tìm cho được một người vô sản tiến bộ và
nhiệt tình. Người đó có thể thay thế vai trò công tố viên Fouquier
Tinville. Chính công tố viên này đã thủ tiêu nhiều người, mà ông gọi là
những phần tử phản động trong thời các mạng Pháp. Lenine nghĩ rằng
Dzerjinski có thể đóng vai trò đó. Trong thời gian điều hành Ủy ban
CMRP, Dzerjinski đã chứng tỏ khả năng của mình trong chức năng này.
Lenine còn cho người thư ký
biết thêm rằng chính Dzerjinski đã từng bị ông Okrankha, trưởng ban an
ninh Hoàng Gia Nga bắt giam. Vì thế Dzerjinski biết rất rõ, anh ta phải
làm gì trong vai trò đó.
Trước
khi Cơ quan công an chính trị Tcheka mở phiên họp đầu tiên vào ngày 7
tháng 12, Lenine gởi thơ cho Dzerjinski, dặn dò : '' Theo đề nghị của
đồng chí trong bản phúc trình ngày hôm nay, chúng ta có thể viết ra một
thông cáo , với nội dung : '' Bọn trưởng giả âm mưu nhúng tay vào tội
ác, bằng cách chiêu dụ các thành phần cặn bã của xã hội để gây rối loạn.
Đồng lõa với bọn này là những cán bộ cao cấp trong các cơ quan , công
sở. Chúng sẽ tham gia vào các cuộc đình công và phá hoại để làm yếu dần
chính sách của chính phủ. Cuối cùng chúng thay đổi cơ chế xã hội. Bọn
trưởng giả sẽ tìm đủ mọi cách để cản trở kế hoạch cung cấp lương thực,
và như vậy, sẽ có hàng triệu người chết đói. Phải thi hành ngay một số
biện pháp đặc biệt để đối phó với các phần tử phá hoại, phản cách
mạng''.
Trong
phiên họp tối ngày 7 tháng 12, Dzerjinski đọc bản dự thảo tuyên cáo
trước ủy ban. Dzerjinski cho rằng: '' cách mạng đang bị đe dọa trầm
trọng ở khắp nơi. Đây là mặt trận nguy hiểm nhất. Vì thế chúng ta phải
vận dụng các đồng chí cứng rắn, cương quyết, không tình cảm, sẵn sàng hy
sinh và sẵn sàng hành động cho dù rất tàn ác, để đạt cho được mục tiêu
của cách mạng. Không có công lý gì cả. Chúng ta không đi tìm công lý.
Chúng ta đang bị bao vây trong một trận chiến ác liệt. Kẻ thù tấn công
chúng ta khắp nơi, nhưng chúng nó không chịu lộ diện. Đây là mặt trận
sống mái, một mất, một còn. Tôi yêu cầu, hãy thành lập một Ủy ban có đày
đủ thẩm quyền để giải quyết ngay những khó khăn, thanh toán ngay bọn
phản cách mạng bằng phương châm cách mạng và lòng trung thành với người
Bônsêvich.
Ủy ban có nhiệm vụ :
1.- Chủ động, thanh trừng và cô lập hóa các âm mưu phá hoại của các phần tử hay đảng phái phản cách mạng trên toàn quốc.
2.- Đưa tất cả các phần tử chống cách mạng ra tòa án nhân dân.
Ủy ban sẽ mở các cuộc điều tra sơ khởi. Nếu tình hình đòi hỏi, Ủy ban sẽ chia ra làm ba công tác :
a./ Tình báo.
b./ Tổ chức.
c./ Hành động.
Ủy
ban sẽ thành lập một bộ phận chuyên môn theo dõi và khám phá các hoạt
động phá hoại, báo chí, và các cuộc đình công của bọn dân chủ cách mạng
hữu phái và bọn dân chủ lập hiến.
Ủy
ban sẽ cho thi hành các biện pháp sau đây: tịch thu tài sản, trục xuất
ra khỏi nơi cư trú, tịch thu thẻ phân phối lương thực, công bố danh sách
kẻ thù nhân dân,...
Ngày 12 tháng 12, nhóm Bônsêvich thương
lượng với nhóm xã hội cách mạng thiên tả. Họ bằng lòng chia 6 ghế cho
đảng cách mạng xã hội để giải tỏa tình trạng cô lập chính trị trong Quốc
hội. Vì là nhóm thiểu số, nên nhóm Bônsêvich áp dụng chiến thuật hòa
hoãn.
Ban
công an chính trị Tcheka bắt đầu bành trướng và khởi sự hành động trong
khi chưa được pháp lý thừa nhận. Dzerjinski cũng như Lenine không muốn
có một sự ràng buộc nào trong khi hành động. Theo hai ông, cuộc sống sẽ
hướng dẫn các hành động của Tcheka. Đó là sự khủng bố dân chúng và các
vụ bạo động trên đường phố. Những người Bônsêvich tạm thời bỏ qua những
nghi ngờ của họ về tính quá khích của quần chúng. Họ cố tình khuyến
khích quần chúng nổi loạn.
Ngày
1 tháng 12, với trách nhiệm của ủy viên đặc trách chiến tranh, Trotski
báo động : '' Trong vòng một tháng, các cuộc bạo động của quần chúng sẽ
gia tăng cường độ khủng khiếp hơn những gì đã xảy ra trong cuộc cách
mạng 1789 của Pháp. Lúc bấy giờ sẽ không còn nhà tù để chứa. Lúc đó phải
dùng đến máy chém , một phát minh quan trọng của cách mạng Pháp. Lợi
điểm của máy chém là làm giảm số lượng người. Và máy chém sẵn sàng đón
chờ kẻ thù của chúng ta.''
Trong
một buổi nói chuyện với hiệp hội nhân công thợ thuyền, Lenine , lại một
lần nữa nhấn mạnh :'' Bạo lực khủng bố là công lý của cách mạng vô sản.
Chính quyền Sô Viết phải hành động như vậy và bắt buộc phải hành động
như vậy trong cuộc cách mạng vô sản. Nhờ đó mà chúng ta mới đập tan được
công lý của bọn tư sản trưởng giả, công cụ của giai cấp bốc lột thống
trị. Quân nhân và công chức phải đứng lên để tự cứu lấy mình. Không chờ
ai giúp cả. Nếu đám đông quần chúng không đứng lên đãu tranh, chúng ta
sẽ mất hết. Nếu chúng ta không khủng bố chống bọn đầu cơ và không bắn
vào đầu chúng trước đám đông quần chúng thì chúng ta sẽ hoàn toàn thất
bại.''
Những lời kêu gọi bạo động này thật sự đã xảy ra trước khi những người Bônsêvich lên nắm chính quyền.
Khởi
từ mùa Thu năm 1917, nông dân nổi loạn cướp phá hàng chục ngàn nông
trại và tàn sát hàng ngàn điền chủ. Bạo động ngự trị trên đất Nga trong
suốt năm đó. Nó bộc phát dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở đô thị, bạo
động là phản ứng của tương quan quyền lợi giữa các giới tư bản. Ở nông
thôn, nó là hệ quả của sự xung đột trường kỳ giữa giới nông dân và địa
chủ.
Ba
mặt bạo động: nông thôn , thành thị và chiến tranh đã tạo cho nước Nga ở
trong một tình trạng bùng nổ mà hậu quả của nó là sự tàn phá đặc biệt
trong giai đoạn sôi sục cách mạng. Nó đánh dấu một phá sản của trật tự
và quyền lực. Nó tạo sự nghi kỵ giữa những người sống ở miền quê với lớp
dân thành thị. Nông dân cho rằng thành thị là nơi xuất phát các quyền
lực và áp bức. Trái lại, một số chính trị gia xuất thân từ giới trí thức
cho rằng nông dân là dân bán khai, còn mang thú tính, cần phải phục
tùng những người sống có tổ chức ở thành phố. Giới trí thức và các chính
trị gia đều nghĩ rằng, các cuộc bạo động của nông dân sẽ làm suy giảm
quyền lực của chính phủ. Đây là cơ hội tốt cho nhóm Bônsêvich lên nắm
chính quyền trong khoảng trống chính trị của thời đó.
Cuối năm 1917 và đầu năm 1918, không có lực lượng đáng kể nào chống lại chính quyền.
Chỉ
trong vòng một tháng, đảng Bônsêvich chiếm một phần lớn đất đai ở miền
Bắc và miền Trung cho đến tận trung lưu khu vực sông Volga. Họ kiểm soát
nhiều thị trấn vùng Caucase, thành phố Bakoa và thành phố Tachkent vùng
Trung Á.
Ukraine
và Phần Lan đã ly khai và không có hành động nào chống lại chính quyền
Bônsêvich. Một toán quân nhân độ chừng 3000 người do hai tướng Alexeiev
và Kornilov lãnh đạo ở phía Nam nước Nga là tổ chức duy nhất chống lại
quân Bônsêvich. Đơn vị này là tiền thân của Bạch Quân sau này. Hai Tướng
lãnh Alexeiev và Kornilov đặ nhiều hy vọng vào giống dân Cosaque sinh
sống trong vùng sông Don và Kouban. Dưới thời Nga Hoàng, những người
Cosaque có nhiều đặc quyền so với nông dân thường.
Khi phục vụ trong quân đội đến 36 tuổi, họ được phép giải ngũ và được
cấp 30 mẫu đất để canh tác. Nguyện vọng của họ là mong giữ được phần đất
mà họ đã được cấp phát. Họ rất sợ các cuộc đãu tố nhắm vào phú nông.
Chính vì muốn bảo vệ đất đai của mình, người Cosaque quyết tâm tham gia
vào các tổ chức chống lại nhóm Bônsêvich vào mùa Xuân 1918.
Cuộc
nội chiến thực sự diễn ra từ mùa Đông năm 1917 và mùa Xuân năm 1918 khi
nhóm quân tình nguyện độ vài ngàn người chống lại các cuộc đàn áp của
trên 6000 quân Sô Viết, đặc dưới quyền chỉ huy của Tướng Sivers ở miền
nam nước Nga. Cuộc đàn áp diễn ra rất thô bạo. Quân Sô Viết đàn áp luôn
cả thường dân.
Vào
tháng 6 năm 1919, Tướng Denikine, chỉ huy trưởng lực lượng quân sự miền
Nam nước Nga cho mở cuộc điều tra về tội ác của nhóm Bônsêvich. Sau vài
tháng làm việc, ủy ban điều tra tội ác đã đúc kết một danh sách các tội
phạm của các vụ đàn áp ở Ukraine, Kouban, vùng sông Don và bán đảo
Crimee. Các bằng chứng tội ác, các nhân chứng còn sống sót đã được S.P.
Melgounov ghi lại đày đủ trong cuốn sách '' Cuộc khủng bố đỏ trên đất
Nga từ năm 1917 đến hết năm 1924''. Sách xuất bản ở Luân Đôn. Nội dung
của quyển sách ghi lại tội ác do bọn Bônsêvich gây ra kể từ tháng giêng
năm 1918 . Sách được xem như tài liệu giáo khoa trong các trường học.
Tại Tangarog, những người Bônsêvich trói tay 50 điạ chủ và sĩ quan Bạch quân và đẩy họ vào trong các lò nấu thép đang sôi sục.
Tại Evpatoria, hàng trăm sĩ quan và các nhà tư sản quý tộc bị trói chân tay, bị tra tấn dã man trước khi bị quăng xuống biển.
Tại
các thành phố chiếm đóng khác như Sebastopol, Yalta, Alouchta,
Simferoplo,.. cũng xảy ra nhiều vụ giết người man rợ tương tự. Nhất là ở
những vùng có dân Cosaque sinh sống.
Ủy ban điều tra tội ác liệt kê chi tiết về các vụ giết người như sau :
Các
xác chết mất tay, thiếu chân, không đầu, xương hàm bể nát, bộ phận sinh
dục phá hư,.. Theo tác giả Melgounov của tài liệu về tội ác, khó có thể
xác nhận tội ác do chính phủ ra lịnh thi hành theo chính sách khủng bố,
hay do các thành phần cuồng tín gây ra trong các cuộc giao tranh mà các
cấp chỉ huy không kiểm soát được. Cho đến tháng 8 năm 1918, không có
một tài liệu nào xác định công an Tcheka địa phương đã ra lịnh các cuộc
tàn sát. Trên thực tế có một số công an cơ sở nhúng tay. Nạn nhân của
các vụ tàn sát không những chỉ là những đảng viên của các tổ chức thù
địch , mà còn cả những người bị tình nghi là kẻ thù của nhân dân và các thường dân vô tội nữa.
Đầu
tháng 3 năm 1918, trong số 240 người bị giết tại Yalta, có 165 sĩ quan ,
70 tù chính trị , luật sư, ký giả, giáo sư. Các toán công an võ trang,
Hồng vệ binh, và các đảng viên Bônsêvich đã giết họ.
Tiêu
diệt các phần tử thù địch là hệ quả tất nhiên của của cuộc cách mạng
chính trị và xã hội , với một bên là kẻ chiến thắng và phía bên kia là
kẻ bại trận. Quan niệm này không phải chỉ được mới biết sau tháng mười
năm 1917. Nhưng những người Bônsêvich đã chính thức hợp thức hóa nó.
Trong một bức thư của
một Đại úy trẻ viết vào tháng 3 năm 1918, đã kể lại những gì đã xảy ra
trong trung đoàn của anh. '' Giữa chúng tôi - sĩ quan và binh sĩ - đã có
một vực thẩm ngăn cách không ai lường trước được. Bình thường
chúng tôi là chủ của đám lính. Nhưng vì đây là cuộc cách mạng xã hội và
chính trị, chúng tôi là người thua cuộc, nên các binh sĩ lên tiếng nói
rằng giờ đây họ là những người chủ của chúng tôi. Họ tưởng rằng họ đã
trả được mối thù sau nhiều thế kỷ làm tôi tớ.
Đối
với đám đông quần chúng, người Bônsêvich giải thích các hành động phục
thù xã hội như chỉ điểm, khủng bố là làm đúng theo lời của Lenine.
Ngày
15 tháng 12 năm 1917, Dzerjinski cho đăng trên tờ Izvestia lời kêu gọi
các Xô Viết phải thành lập các toán công an chính trị Tcheka. Kết quả
của lời kêu gọi này là sự xuất hiện vô số ủy ban, phân đội, cơ quan đặc
biệt,.. nhiều đến nổi, chính quyền không thể kiểm soát. Vài tháng sau,
mượn lời than phiền của quần chúng, chính quyền ra lịnh dẹp các toán
công an Tcheka. Sau đó, chính quyền trung ương tự đứng ra thành lập một
mạng lưới công an khác để tiện việc theo dõi.
Tháng
7 năm 1918, Dzerjinski báo cáo thành quả của ngành công an trong nửa
năm đầu : Trong khoảng thời gian này, chúng tôi bắt tay ngay vào việc.
Chúng tôi còn mò mẫm cho nên không hoàn tất sứ mạng. Đến ngày hôm nay,
bản tổng kết về thành quả của các vụ đàn áp chống lại '' những cái tự
do'' được coi là khá súc tích. Khởi đầu, Tcheka chỉ có chừng 100 nhân
viên. Nửa năm sau con số nhân viên tăng lên 12.000 cán bộ.
Ngày
11 tháng giêng năm 1918, Dzerjinski gởi báo cáo về cho Lenine: ''Ban
đầu tổ chức của chúng ta còn khiêm nhường. Mặc dù đã đạt được một số
thành quả đáng kể nhưng chúng tôi vẩn còn ở trong tình trạng ''chưa thể
được''. Chúng tôi không có nguồn tài trợ nào cả. Chúng tôi làm việc suốt
ngày đêm. Chúng tôi không có bánh mì, bơ phó mát để ăn và không có cả
trà, sữa, đường để uống. Xin đồng chí cho phép chúng tôi xử dụng thực
phẩm trưng thu của các nhà giàu để làm lương thực hằng ngày.''
Dzerjinski chiêu mộ được lối chừng 100 bạn cũ đã từng sát cánh với ông trong thời hoạt động bí mật. Phần lớn họ thuộc sắc dân Ba Lan, Baltes. Họ làm việc trong ủy ban quân sự cách mạng thành phố Petrogad.
Vài người trong số này về sau trở thành lãnh tụ của Bộ Nội Vụ trong năm
1930. Như các ông Latsis, Menjiinski, Messing, Moroz, Peter, Trilisser, Unchlicht và Iagoda.
Công tác của ban công an chính tri Tcheka la phá tan các cuộc đình công của công chức thành phố Petrograd.
Phương
pháp làm việc của các toán công an rất đơn giản. Họ bắt các người chủ
chốt các cuộc đình công với lý do là ai không làm việc thì người đó
không có chỗ đứng trong xã hội.. Dzerjinski ra lịnh bắt các dân biểu
thuộc đảng cách mạng xã hội và đảng Mensêvich trong quốc hội lập hiến.
Ông Steinberg, ủy viên nhân dân đặc trách tư pháp thuộc cánh xã hội
thiên tả cực lực phản đối hành động chuyên quyền này của Dzerjinski.
Steinberg đặt vấn đề thẳng với Lenine về vai trò của ủy ban nhân dân đặc
trách tư pháp. Liệu ủy ban tư pháp của ông có còn cần thiết nữa hay
không. Hay đặt cho nó cái tên ủy ban phá hoại xã hội như đã xảy ra có lẽ
đúng hơn. Lenine trả lời:''- Đúng vậy. Tôi cũng muốn gọi như vậy nhưng
không thể được.''
Lenine
tìm cách giải hòa Dzerjinski và Steinberg. Steinberg muốn ban công an
chính trị Tcheka trực thuộc cơ quan tư pháp, nhưng Dzerjinski viện cớ
rằng tư pháp còn chịu ảnh hưởng quá nhiều của chế độ cũ, chỉ làm lợi cho
chế độ cũ. Dzerjinski chỉ muốn ban công an chính trị Tcheka chiụ trách
nhiệm trực tiếp với chính phủ mà thôi.
Ngày
6 tháng giêng năm 1918 xảy ra một biến cố quan trọng, nhằm gia tăng
quyền lực cho chế độ độc tài Bônsêvich. Khóa họp Quốc Hội đầu tiên chỉ
có 175 dân biểu hiện diện. Con số quá ít so với tổng số 707 dân biểu.
Công an chính trị Tcheka đến giải tán phiên họp. Không có một phản ứng
đáng kể nào chống lại hành động chuyên quyền này. Chỉ có một cuộc biểu
tình nhỏ, nhưng bị quân đội dẹp tan ngay. 20 người tham dự cuộc biểu
tình bị bắn chết. Đó là kết quả đau thương của bài học về dân chủ và bài học dân chủ chỉ kéo dài trong vài tiếng đồng hồ.
Sau khi giải tán Quốc Hội, Chính quyền Bônsêvich của thành phố Petrograd
trở nên bấp bênh. Bởi vì lúc bấy giờ tại thành phố Brest-Litosk, các ủy
viên nhân dân Trotski, Kamenev, Ioffe và Radek đang thương lượng hòa bình với các nước Đức, Áo, Hung và Thổ nhỉ Kỳ.
Ngày
19 tháng 1 năm 1918 chính quyền Bônsêvich vội vàng công bố dời thủ đô
về Mạc Tư Khoa. Không phải người Bônsêvich sợ quân Đức tấn công vì Nga
và Đức đã ký hòa ước ngày 15 tháng 12 năm 1917, nhưng chính là họ lo sợ
lực lượng công nhân thợ thuyền nổi dậy chống đối.
Từ
hai tháng nay, sự bất mãn ở những khu vực lao động lên cao. Tình trạng
lính đào ngũ gia tăng làm giảm số phiếu đặt hàng ở các công xưởng phục
vụ cho quân đội. Các hãng xưởng không có việc làm cho nên phải đóng cửa.
Hàng chục ngàn thợ thất nghiệp. Thực phẩm thiếu thốn. Khẩu phần ăn giảm
sút, chỉ còn 250 g bánh mì cho mỗi đầu người. Không còn cách nào cứu
vãng tình thế, Lenine phải đem xử bắn các người đầu cơ để làm vật tế
thần. Ông ra lịnh cho xí nghiệp phải cử người đi truy lùng và tịch thu
lương thực. Công nhân nào không tuân lịnh sẽ bị tịch thu thẻ tiếp tế
thực phẩm.
Ngày
31 tháng 1 năm 1918, sau khi đi Brest-Litovk trở về, Lenine thành lập
ủy ban đặc biệt chuyên lo chuyện vận và tiếp tế lương thực. Trotski và
Tsiouroupa chịu trách nhiệm ủy ban này. Đó là quyết định để dẫn đến vai
trò độc quyền tiếp tế lương thực của chính quyền cộng sản.
Trung
tuần tháng hai, Lenine chuyển cho ủy ban một dự án, nhưng ủy ban không
thi hành. Theo Lenine, nếu dự án hình thành, nông dân bắt buộc phải nộp
một số lương thực thặng dư cho chính quyền. Nhà nước sẽ trả bằng giấy
chứng nhận thay vì tiền. Sau một thời hạn thu hoạch muà mà nông dân
không giao đủ số lượng lương thực thì sẽ bị xử bắn. Tsiouroupa viết
trong tập hồi ký : ''Sau khi đọc bản dự án, chúng tôi tưởng như sét
đánh. Nếu thi hành dự án của Lenine, chắc chắn sẽ xảy ra một cuộc hành
quyết nông dân tập thể. Cuối cùng chúng tôi bác bỏ dự án.''
Ở
thời điểm này có nhiều sự kiện giúp chúng ta khám phá các sự thật. Đầu
năm 1918, Lenine bị dồn vào ngõ cụt vì chính sách của ông. Ông rất sợ kế
hoạch tiếp tế lương thực cho các trung tâm kỹ nghệ thất bại. Ông có cái
cảm tưởng các trung tâm kỹ nghệ là những ốc đảo nằm giữa đại dương nông
dân. Chính vì lo sợ, ông sẵn sàng ra lịnh tịch thu tất cả lương thực
của nông dân thay vì chỉ thay đổi vài ba điểm trong chính sách.
Sự xung đột vì thế không thể nào không xảy ra.
Một bên là tập thể nông dân cương quyết giữ lấy sảm phẩm do sức lao động của mình làm ra.
Phía
bên kia là tân chính quyền Bônsêvich vì muốn chứng tỏ quyền hành, không
cần quan tâm đến các nguyên tắc vận hành kinh tế. Họ coi các diễn biến
hiện tại là dấu hiệu của một xã hội vô trật tự.
Cuộc thương
lượng ở Brest-Litovk ngày 18 tháng 2 năm 1918 bất thành. Quân Đức tràn
vào lãnh thổ Nga. Chính quyền Bônsêvich công bố tình trạng '' tổ quốc
lâm nguy''. Nhà nước kêu gọi dân chúng chống lại quân Đức, kèm theo các
lời cảnh cáo: xử bắn tất cả những ai làm gián điệp, những kẻ đầu cơ,
những người xách động chống phá chính quyền cách mạng.
Ngày
3 tháng 3 năm 1918, Nga ký hòa ước với Đức. Các biện pháp thi hành
trước đây tạm thời bãi bỏ. Nhưng đến ngày 16 tháng 6 chính quyền cho tái
thi hành lịnh xử bắn. Trên thực tế, công anh chính tri Tcheka đã ra
lịnh xử bắn nhiều người nhưng chẳng ai phản đối.
Khi chính phủ rời Petrograd
dọn về Mạc Tư Khoa, ban công an chính trị Tcheka chiếm các cơ sở của
chính phủ và các công ty bảo hiểm nằm dọc theo đại lộ
Bolchaia-Loubianka, cạnh điện Cẩm Linh làm văn phòng chính cho cơ quan
mình. Cơ sở này , theo thời gian thay đổi thành GUEPON, NKVD, MVD và
cuối cùng là KBG đến ngày Xô Viết cáo chung.
Từ
con số 600 nhân viên vào tháng 3 lên đến 2000 vào tháng 7, công tác tại
Mạc Tư Khoa. Đó là chưa kể đến các nhân viện thuộc lực lượng công an
đặc biệt. Trong khi đó Bộ Nội Vụ chỉ có 400 nhân viên phục vụ.
Trong
đêm 11 rạng 12 tháng 4 năm 1918, Công an tung ra 1000 nhân viên mở cuộc
càn quét thủ đô Mạc Tư Khoa. Họ tấn công vào 20 cao ốc, nơi cư trú của
các thành phần vô chính phủ. Sau nhiều giờ kháng cự, công an bắt giữ 520
người. 25 người bị bắn tại chỗ với tội danh '' các tên ăn cướp''. Từ đó
công an gán cho tội trạng '' ăn cướp'' vào những ai mà họ muốn thủ
tiêu.
Sau
đêm càn quét được coi là thành công, Các toán công an tiếp tục mở các
cuộc ruồng bắt trong chiến dịch mà họ gọi là '' bình định''.
Trong một văn thư gởi
cho Ủy Ban Trung Ương đề ngày 29 tháng 4 năm 1918, Dzerjinski xin tăng
thêm lực lượng để có thể trấn áp các cuộc chống đối càng ngày càng lớn
của nhân dân.
Từ
tháng 10 năm 1917 đến nay, chính quyền Bônsêvich không cãi thiện được
gì cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân như chính quyền đã
hứa hẹn trong cuộc cách mạng hồi tháng 2 năm 1917.
Dưới
con mắt của nông dân, Bônsêvich là những người cộng sản, không hơn
không kém. Những người Bônsêvich tịch thu lương thực do nông dân làm ra.
Nông dân đặt câu hỏi liệu có khác gì giữa những người Bônsêvich của
ngày hôm qua khi họ phân phối đất đai cho nông dân và những người
Bônsêvich của hôm nay ra khi họ ra lịnh tịch thu lương thực, trưng dụng
đến cái áo sơ mi cuối cùng của những nông dân lương thiện ?
Vào
mùa Xuân 1918, tình hình quân sự cũng như chính trị trên toàn nước Nga
chưa phân chia thắng bại. Tại một số Sô Viết, dân chúng còn làm chủ tình
hình. Ở đó, sinh hoạt chính trị là sự liên hiệp giữa hai bên quốc cộng.
Giữa đảng Bônsêvich và đảng dân chủ xã hội. Các tờ báo đối lập vẫn còn
xuất hiện mặc dù bị truy lùng. Tại một số địa phương đã xảy ra các cuộc
tranh quyền giữa hai đảng phái đối cực. Đảng xã hội ôn hòa và đảng
Mensêvich cũng đạt nhiều thành quả tốt đẹp. Trong các cuộc bầu cử tại
các Sô Viết, mặc dù bị áp lực và bất công trong các cuộc vận động, các
đảng xã hội cũng chiếm 19 trong số 30 Sô Viết địa phương.
Đứng
trước tình thế bất lợi này, chính quyền Bônsêvich phản ứng lại bằng
cách cho áp dụng chính sách độc tài trên hai lãnh vực chính trị và kinh
tế.
Hệ
thống giao thông tồi tệ, phương tiện di chuyển thiếu phụ tùng thay thế
đã dẫn đến tình trạng khó khăn trong chính sách phân phối lương thực.
Sản phẩm kỹ nghệ từ thành phố không đến tay nông dân, trong khi đó nông
sản của nông dân không đền thành phố để tiêu thụ. Vấn đề then chốt của
chính quyền là làm sao có đủ lương thực để cung cấp cho các thành phố và
binh sĩ trên các chiến trường. Đó là hai trung tâm quyền lực của chính
quyền. Có hai giải pháp phải chọn: Hoặc trở lại nền kinh tế thị trường
trên cơ sở của một nền kinh tế đổ nát hiện nay. Hoặc áp dụng chính sách
cưỡng bách trưng thu lương thực. Đảng Bônsêvich đã chọn con đường thứ
hai. Bởi họ tin rằng chỉ có cưỡng bách mới có thể phá vỡ được chế độ cũ.
Vào
ngày 29 tháng 4 năm 1918, ngỏ lời trước Ủy ban nhân dân trung ương,
Lenine tuyên bố thẳng: '' Tầng lớp tiểu tư sản hiện đang đứng vào hàng
ngũ của chúng ta để cùng nhau lật đổ bọn tư sản và địa chủ. Nhưng tình
hình ngày nay đã thay để. Bọn tiểu tư sản không chịu sinh hoạt trong tổ
chức có kỹ luật. Nay chúng ta phải thẳng tay với những người có chút ít
tài sản này.''
Vài
ngày sau đó, ủy viên nhân dân đặc trách lương thực cũng nói rằng chỉ có
dùng súng đạn mới thu mua được lương thực. Trotski hô hào một cuộc nội
chiến để trưng thu lương thực của nông dân .
Trong
bài viết của một lãnh tụ Bônsêvich, ông Radek Karl vào năm 1921 cho
chúng ta thấy chính sách của chính quyền Bônsêvich vài tháng trước khi
cuộc cách mạng bùng nổ. Ông Radek Karl viết : '' Những người nông dân
vừa tiếp nhận đất đai là những người lính vừa ở mặt trận chống Đức trở
về. Họ còn vũ khí trong tay. Họ không coi chính quyền ra gì cả. Họ muốn
làm gì thì làm. Cơ cấu hành chánh cũ đã hủy bỏ, trong khi đó chưa hình
thành cơ cấu mới. Chính quyền có đến trưng thu hiện vật, thì cũng chẳng
có gì để thu. Nông dân chỉ chịu nộp thuế cho nhà nước khi nào họ bị
cưỡng bách.''
Nửa năm sau, chính quyền Bônsêvich cho thi hành hai biện pháp quan trọng.
Ngày 13 tháng 5, chính phủ ủy quyền cho ủy ban nhân dân đặc trách tiếp tế lương thực thành lập một đội quân tiếp tế. Giữa tháng 6, đội quân tiếp tế tuyển dụng 12.000 nhân viên, đa số là dân thất nghiệp trong thành phố Petrograd.
Đến năm 1920 con số này lên đến 20.000 người. Nhiệm vụ của đội quân là
tiến hành công tác trưng thu lương thực. Họ được trả lương theo tỉ lệ
lương thực mà họ trưng thu được của nông dân.
Nghị
quyết thứ hai ban hành ngày 11 tháng 6 năm 1918, cho tuyển dụng một số
nông dân nghèo vào toán tiếp tế để họ đi thu các nông phẩm thặng dư của
các điền chủ. Về sau các
bần cố nông này lần lượt thay thế các Sô Viết địa phương, vì chính quyền
không còn tín nhiệm các Sô Viết này nữa. Động cơ chính thúc đẩy những
nông dân nghèo tham gia vào các toán trưng thu là họ được quyền tịch thu
nông phẩm của các địa chủ, điều mà bấy lâu nay họ thèm muốn. Hơn nữa họ
được quyền ăn chia một số lương thực tịch thu này.
Chúng
ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh của những người đại diện của chính
quyền tại các vùng nông thôn. Chế độ mới gồm những người chỉ nghĩ đến
quyền lợi. Sự hiểu biết chính trị và xã hội quá nông cạn. Họ hành động
cốt chỉ để đạt được tham vọng riêng tư qua các hình thức cổ điễn. Như
đánh đập thuộc cấp, rượu chè say sưa, làm lợi cho mình và cho gia đình
mình. Điều đó có thể cho chúng ta thấy mặt thật của cuộc cách mạng. Đó
là lời nhận định của ông Grziosi.
Lúc
đầu, ủy ban tiếp tế thu hoạch được một số kết quả. Nhưng việc dùng nông
dân nghèo vào công tác thu mua nông phẩm chứng tỏ chính quyền Bônsêvich
không am tường về đời sống ở nông thôn. Theo một cách suy tính đơn
giản, người cộng sản cho rằng nông thôn phân chia nhiều giai cấp và xung
đột nhau. Nhưng trên thực tế, xã hội nông thôn liên kết nhau rất chặt
chẽ để chống lại kẻ thù bên ngoài, nhất là chống lại những người ở thành
phố. Một khi bắt buộc phải nộp nông phẩm thặng dư, cả làng họp lại để
giải quyết bình đẳng việc đóng góp. Thay vì chỉ có nông dân giàu nộp số
nông phẩm thặng dư, họ quyết định chia nhau đóng góp tùy theo khả năng
từng gia đình.
Nhưng
vì bị cướp mất quá nhiều nông sản, nông dân bắt đầu phản đối. Nhiều
vùng nông thôn nổi loạn. Trước các hành động hung bạo của các toán trưng
thu, các cuộc chống đối của nông dân thật sự mang tính chất của một
cuộc chiến tranh du kích.
Cuộc chiến khởi đầu từ tháng 6 năm 1918.
Trong tháng 7 và tháng 8 nông dân gây 110 cuộc nổi loạn.
Các
cuộc nổi loạn này lan tràn đến các vùng dưới quyền kiểm soát của ngưới
Bônsêvich. Trong vòng vài tuần lễ, uy tín của chính quyền tiêu tan.
Trong suốt ba năm thi hành chính sách trưng thu tài sản , đã xảy ra hàng
ngàn cuộc chống đối. Chính quyền đã phải dùng quân đội để can thiệp vào
một số cuộc nổi loạn của nông dân.
Do
việc áp dụng chính sách độc tài cứng rắn, một số tờ báo không thuộc
nhóm Bônsêvich bị đóng cửa vĩnh viễn. Các cuộc đình công của thợ thuyền
bị đàn áp thẳng tay. Thành viên của các đảng đối lập bị truy lùng khắp
nơi.
Trong
hai tháng, 5 và 6, có 250 tờ báo của phe đối lập bị đóng cửa. Các Sô
Viết mà đa số thành viên thuộc các đảng Mensêvich và đảng xã hội cách
mạng ở các địa phương Kalouga, Tver, Riazan, Kostrama, Tov, Oerel,
Vologda,.. đều bị giải tán bằng võ lực. Hình thức giải tán tại hầu hết
các Sô Viết diễn ra giống nhau. Sau vài ngày bầu cử, vì là nhóm thiểu số
tại các Xô Viết, đảng Bônsêvich yêu cầu chính quyền đưa quân đội đến
giải cứu. Các toán công an Tcheka tuyên bố lịnh giới nghiêm và cho nhân
viên lùng bắt các đại diện của các đảng đối lập đắc cử trong các Sô
Viết. Dzerjinski đề cử các đảng viên cộng sản trung tín đến các Sô Viết
làm cuộc đảo chánh, chiếm quyền hành.
Trong văn thư ngày
31 tháng 5 năm 1918 đề cử ông Eidok đến Tver , Dzerjinski chỉ thị: ''
Công nhân thợ thuyền đang chịu ảnh hưởng nhóm Mensêvich và nhóm xã hội
cách mạng. Họ đình công, biểu tình và đòi thành lập chính phủ của những
người xã hội. Đồng chí phải cho niêm yết khắp nơi và thông cáo rằng các
toán công an Tcheka sẽ hành quyết ngay tại chỗ các tên trộm cướp, các
thành phần đầu cơ, các bọn phản cách mạng, và những ai có âm mưu chống
lại chính quyền Bônsêvich. Đồng chí ra lịnh bắt giam những người tư sản
quý tộc, trung lưu không thường
xuyên đóng góp lương thực cho nhà nước. Kiểm tra và lập danh sách. Danh
sách này rất cần thiết cho chúng ta nếu họ chống đối. Đồng chí hãy chọn
trong các toán công an những người cương quyết, những người biết rõ
rằng chỉ có bắn vào đầu người khác, mới bắt họ câm mồm tuân lịnh. Kinh
nghiệm dạy cho tôi biết, chỉ cần một số ít người cứng rắn có thể làm
thay đổi cán cân thắng bại.'' .
Việc
giải tán các Sô Viết có các nhóm đối lập chiếm đa số và việc trục xuất
các người mensêvich và đảng xã hội ra khỏi Ủy Ban nhân dên trung ương đã
gây phẫn nộ trong dân chúng. Công nhân thợ thuyền tổ chức đình công tại
các trung tâm kỹ nghệ. Tình trạng tiếp tế lương thực ngày càng tồi tệ.
Tại vùng Kolpino gần thành phố Petrograd,
thị trưởng ra lịnh cho quân đội bắn thẳng vào toán biểu tình chống nạn
đói. Có 10 công nhân tham dự biểu tình bị bắn chết.
Tại
nhà máy Berezoski gần thành phố Ekaterinbourg, Vệ binh đỏ bắn chết 15
người trong toán biểu tình tố cáo nhóm Bônsêvich biển thủ 150 rúp và
chiếm đoạt các công ốc cao đẹp nhất của thành phố. Ngày hôm sau, cả vùng
bị giới nghiêm. Công án bắn chết 15 người không làm báo cáo về trung
ương.
Trong
khoảng thời gian từ 15 tháng 5 đến 30 tháng 6 năm 1918 , xảy ra rất
nhiều cuộc biểu tình đẫm máu ở Sormovo, Iaroslavl, Toula và tại các
thành phố kỹ nghệ Oural, Nijni-Taguil, Belorektsk, Zlatous,
Ekaterinbourg. Các toán công an địa phương gia tăng các cuộc đàn áp.
Trong
ba ngày, từ 8 đến 11 tháng 6, Nha công an chính trị Tcheka họp đại hội
toàn quốc dưới sự chủ tọa của Dzerjinski. Có tất cả 100 đại biểu của
12.000 nhân viên thuộc 43 đơn vị công an địa phương về tham dự. Cuối năm
1918, con số nhân nhiên của Tcheka lên đến 40.000. Và con số cao nhất
của ngành này đã từng lên đến 280.000 nhân viên. Nhiều người cho rằng
ngành công an còn đứng trên cả các Xô Viết và trên cả đảng cộng sản nữa.
Nội
dung của đại hội ngành công an nhằm xác định vai trò tiêu diệt các âm
mưu phản cách mạng của Tcheka trên toàn lãnh thổ Cộng Hoà Sô Viết.
Tcheka còn là cơ quan quyền lực hành chánh của Sô Viết. Đại hội đã lập
ra một sơ đồ tổ chức và kết thúc đại hội bằng một chương trình hành
động, giao cho ban công an Tcheka thi hành trước khi làn sóng phản cách
mạng nổi lên vào mùa hè năm 1918. Tất cả các toán công an địa phương
phải thi hành theo mẫu tổ chức của trung ương Loubianka và phải hoàn
thành trong một thời gian ngắn nhất. Công tác thực hiện từng bước như
sau: Thu nhận tin tức tình báo; Điều nghiên các hoạt động của quân
Mensêvich , quân Bạch Nga , các trường sĩ quan và hạ sĩ quan, các nhóm
cách mạng thiên hữu, các nghiệp đoàn công nhân thợ thuyền, kiều dân
ngoại quốc, thường
dân và cả Hồng quân. Tóm lại, công an có nhiệm vụ điều tra và thành lập
lý lịch từng người. Hồ sơ cá nhân được xếp theo từng loại , có ban phụ
trách và quản lý riêng. Như ban quản lý sĩ quan, ban phụ trách nghiệp
đoàn,.. Các ban phụ trách này khi cần, sẽ tham dự các cuộc hành quân lục
soát cùng với các toán công an.
Hai
ngày sau khi kết thúc đại hội, chính phủ cho tái lập án tử hình. Án này
đã được hũy bỏ sau cuộc cách mạng tháng 2 năm 1917, nhưng được áp dụng
tại chiến trường, ở những vùng có lịnh giới nghiêm vào tháng 7 trong
cùng năm đó. Đại hội kỳ hai , ngày 26 tháng 10 năm 1917 biểu quyết bãi
bỏ án tử hình. Quyết định này đã làm cho Lenine phẫn nộ. Lenine cho rằng
bãi bỏ án tử hình là bày tỏ thái độ yếu đuối không thể chấp nhận được.
Lenine và Dzerjinski luôn luôn đề nghị tái lập tính cách pháp lý của bản
án tử hình. Nhất là xử dụng cơ quan '' siêu pháp lý'' của ngành công an
để thi hành án tử hình. Bản án tử hình hợp pháp đầu tiên do tòa tuyên
án ngày 21 tháng 6 năm 1918 là bản án '' chống lại cách mạng'' của Đề
đốc hải quân Tchastnyi.
Vào ngày 20 tháng 6 năm 1918, lãnh tụ Bônsêvich của thành phố Petrograd
là ông V. Volodarski, bị ám sát. Vụ ám sát xảy ra trong lúc tình hình ở
cố đô rất căng thẳng. Mãy tuần lễ trước, sự liên hệ giữa đảng Bônsêvich
và lực lượng công nhân thợ thuyền hết sức tồi tệ. Có hơn 70 vụ đụng độ
giữa hai thế lực này trong tháng năm và tháng sáu.
Để
đối phó các cuộc đình công, chính quyền ra lịnh đóng cửa các hãng xưởng
lớn, mặc dù các hãng xưởng này đã quốc hữu hóa. Về sau, các xí nghiệp
nhỏ cũng bị đóng cửa luôn, nhằm để bẽ gãy hoàn toàn các âm mưu đình
công.
Sau vụ ám sát V. Volodarsk, một số thợ thuyền trong trong thành phố Petrograd
bị bắt. Ban đại diện công nhân thợ thuyền Mensêvich của thành phố cũng
bị giải tán. Hai ngày sau, công an bắt giam 800 công nhân thợ thuyền.
Lực lượng thợ thuyền tổ chức cuộc biểu tình phản đối đại quy mô vào ngày
2 tháng 7 năm 1918.
Trong thơ của Lenine gởi cho Zinoniev, bí thư thành phố Petrograd, cho chúng ta thấy cái suy tính chính trị bất thường
của Lenine. Lenine đã nhận định sai lầm về các cuộc nổi loạn của công
nhân thợ thuyền sau vụ ám sát thủ lãnh V. Volodarski. Lenine tưởng rằng
mục đíxh các cuộc biểu tình là để bày tỏ sự thương tiếc về cái chết của Volodarski.
Lenine viết :
'' Đồng chí Zinoniev, Tôi vừa nhận được tin cho biết giới thợ thuyền ở Petrograd
biểu tình đòi hỏi phải có hành động đối với vụ ám sát đồng chí
Volodarski, nhưng đồng chí [ không thể là đồng chí của ủy ban nhân dân
thành phố Petrograd ] đã chống lại. Tôi cương quyết phản đối đồng chí. Chúng ta bị tổn thương.
Mặc dù chúng ta cổ võ khủng bố quần chúng theo như nghi quyết của thành
phố, nhưng nếu làm như vậy, đồng chí sẽ làm bế tắt tất cả sáng kiến
đứng đắn của nhân dân. Điều này chúng ta không thể chấp nhận. Chúng ta
đang ở trong thời chiến. Chúng ta cần hô hào nghị lực của quần chúng để
chống lại ''bọn phản cách mạng'', đặc biệt là tại thành phố Petrograd. Nó quyết định thành quả của cuộc cách mạng.
Chào đồng chí.''
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 3
KHỦNG BỐ ĐỎ
Ngày
3 tháng 8, Đại sứ Đức Karl Helfferich từ Mạc Tư Khoa gởi một bản phúc
trình về cho chính phủ Đức với nội dung như sau: '' Các lãnh tụ
Bônsêvich rất lo sợ về số phận mỏng manh của họ trước tình hình hỗn loạn
đang lan tràn ở Mạc Tư Khoa. Có tin đồn '' bọn phản động'' đã xâm nhập
vào Thủ đô''.
Chưa
có lúc nào người Bônsêvich lo sợ như vậy. Từ mùa Hè năm 1918, các cơ sở
quyền lực của họ hoàn toàn sụp đổ. Họ chỉ còn kiểm soát các vùng phụ
cận quanh Thủ đô lịch sử Mạc Tư Khoa.
Thủ Đô bị bao vây bởi ba cánh quân.
Cánh
quân thứ nhất quây quanh vùng sông DON, bao gồm binh sĩ thuộc sắc dân
Cosaque dưới quyền lãnh đạo của Tướng Krasnov và quân Bạch Nga của Tướng
Denikine.
Cánh quân thứ hai là quân của Đức và lực lượng Rada của Ukraine.
Cánh
quân thứ ba nằm dọc theo đường xe lửa xuyên Tây Bá Lợi Á do các đạo
quân của người Tchques. Cánh quân này chiếm đóng nhiều thành phố và được
chính quyền của đảng Xã Hội cách mạng ủng hộ.
Trong
các vùng do ngừơi Bônsêvich kiểm soát đã có 140 cuộc nổi loạn. Các cuộc
chống đối nổ ra lớn nhất vào mùa Hè năm 1918. Nguyên nhân của các cuộc
nổi loạn là chính sách cưỡng bách trưng thu lương thực của chính quyền
cộng sản. Nông dân chống lại các toán trưng thu. Nông dân còn chống lại
các biện pháp của chính phủ nhằm hạn chế kinh doanh tư nhân, chống lại
lịnh động viên bắt thanh niên gia nhập Hồng Quân. Nông dân kéo đến bao
vây, đe dọa và đốt phá các trụ sở của Xô Viết địa phương, tại các làng
xã ở gần họ.
Các toán công an bảo vệ trụ sở nhà nước nổ súng ào đám đông nông dân để giải vây. Các cuộc đụng độ càng ngày càng gia tăng.
Chính quyền Bônsêvich cho rằng Bạch quân chủ mưu, hướng dẫn các cuộc gây rối chống nhà nước.
Ngày
9 tháng 8 năm 1918, trong bức thơ trả lời cho chủ tịch Ủy ban nhân dân
Sô Viết thành phố Nijni-Hogorod về các cuộc chống đối của nông dân,
Lenine viết : '' Các đồng chí hãy thành lập ngay bộ chỉ huy bộ ba gồm có
Đồng chí, Markin và một đồng chí khác. Các đồng chí phải thi hành ngay
lịnh khủng bố quần chúng. Xử bắn hay bắt bỏ tù gái mãi dâm, các cựu sĩ
quan Bạch quân. Hãy mở các cuộc lục soát càng nhiều càng tốt. Phải hành
động quyết liệt. Bắn tại chỗ những ai đi ngoài đường có mang theo vũ
khí. Lưu đày các phần tử thuộc nhóm Mensêvich và các phần tử tình
nghi.''
Ngày hôm sau, 10 tháng 8 năm 1918,
Lenine cũng gởi công lịnh cho viên chủ tịch Ủy ban nhân dân Sô viết ở
Penza. Ông viết:'' Đồng chí, Bọn phú nông gây rối loạn tại 5 khu vực
thuộc phạm vi kiểm soát của đồng chí. Đồng chí phải thẳng tay triệt hạ.
Vì quyền lợi của cách mạng, đồng chí phải cương quyết thi hành. Khắp
nơi, các cuộc chiến cuối cùng tiêu diệt bọn cường hào phú nông đã bắt
đầu. Hãy tịch thu tất cả thóc lúa dự trữ của họ. Tìm bắt các tên mà tôi
đã nêu lên ngày hôm qua. Các đồng chí phải làm thế nào để các làng ở xa
hàng trăm cây số ai ai cũng đều nghe biết, để họ khiếp sợ. Họ sẽ truyền
miệng với nhau rằng người Bônsêvich giết chết các cường hào địa chủ và
sẽ tiếp tục xử bắn những ai bị nghi là những kẻ khát máu. Hãy gởi điện
văn cho tôi biết khi nào đồng chí cho thi hành chỉ thị này. Ký tên
Lenine. Ghi chú : hãy tìm thêm các phụ tá cứng rắn.''
Nếu
đọc kỹ các phúc trình của các toán công an về các cuộc nổi loạn trong
mùa hè 1918 , chỉ có các vụ xảy ra ở Iazoslavl, Rybink, và Mouron là do
Liên Minh Bảo Vệ Tổ Quốc , dưới quyền lãnh đạo của Boris Savinkov và
công nhân thợ thuyền công xưởng sản xuất vũ khí Ijevsk chu xướng. Liên
Minh chịu ảnh hưởng của hai lực lượng Mensêvich và Xã Hội cách mạng địa
phương và dường như có chuẩn bị trước. các cuộc nối dậy của nông dân bộc
phát chống lại các toán trưng thu lương thực, các toán bắt lính. Hồng
quân và các toán công an đàn áp thẳng tay. Chỉ có thành phố Iazoslavl
dưới quyền chỉ huy của Boris Savinkov là còn cầm cự được 15 ngày. Sau
khi thành phố này thất thủ về tay Hồng quân, Dzerjinski gởi một ủy ban
đến điều tra. Sau 5 ngày làm việc, từ 24 đến 28 tháng 7 năm 1918, Ủy ban
ra lịnh hành quyết 428 người.
Trước ngày
thi hành lịnh khủng bố đỏ, ngày 3 tháng 9 năm 1918, các lãnh tụ
Bônsêvich Lenine và Dzerjinski liên tiếp gởi điện văn đến các các toán
công an địa phương chỉ thị họ áp dụng các biện pháp phòng ngừa các cuộc
nổi loạn. Theo Dzerinski, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất là bắt
giữ '' các con tin '' trong giới tư sản qúy tộc đã ghi trong các danh
sách. Bắt các con tin giam vào các trại tập trung.
Ngày
8 tháng 8, Lenine ra lịnh cho Ủy viên nhân dân phụ trách tiếp tế
Tsourioupa thiết lập ở mỗi đơn vị sản xuất ngũ cốc một danh sách gồm có
25 người làm ăn giàu có. Bắt giam họ và cho họ biết, nếu không nạp đủ
chỉ tiêu trưng thu thì tính mạng của họ không được an toàn. Ủy viên
Tsourioupa không chịu thi hành chỉ thị của Lenine. Ông ta viện cớ các
cuộc lùng bắt con tin đang gặp khó khăn. Lenine gởi ngay điện văn thứ
hai giải thích thêm :'' Tạm thời ngưng vụ bắt giam con tin, nhưng phải
quản lý họ tại địa phương. Những người giàu có vì muốn bảo vệ tính mạng
nên phải bắt họ chịu trách nhiệm thu góp lương thực trong địa phương. Họ
phải hoàn thành công tác góp thu lương thực và giao cho các toán trưng
thu.
Ngoài biện pháp bắt giam con tin, các lãnh tụ Bônsêvich còn cho thi hành biện pháp'' trại tập trung''.
Ngày
9 tháng 8 năm 1918, Lenine gởi công điện cho Ủy ban nhân dân tỉnh
Penza, ra lịnh cho bắt giam vào các trại tập trung tất cả cường hào địa
chủ, quân lính Bạch Nga, các Giáo sĩ, các phần tử nghi ngờ chống chính
phủ. Vài ngày trước đó, Lenine và Dzerjinski cũng đã đề nghị giam con
tin vào các trại tập trung. Các trại tập trung mọc lên ở những nơi Hồng
quân đang chiếm đóng.
Trong số những người
bị bắt vì '' tình nghi '' hay để ''phòng ngừa'', gồm có lãnh tụ của các
đảng đối lập còn đang được tự do hoạt động.
Ngày 15 tháng 8, Lenine và Dzerjinski ra lịnh bắt các lãnh tụ nhóm Mensêvch. Đó là các ông Martov, Dan, Petresscov
và Goldman. Các tờ báo của Mensevich bị đóng cửa. Đảng viên của họ bị
loại ra khỏi các chức vụ trong các Ủy ban Sô Viết.
Đối
với người Bônsêvich, không có ranh giới cho đối lập. Trong thời nội
chiến, luật lệ có định nghĩa riêng của nó. Trong thời nội chiến, không
có các sắc luật thành văn. Ông Latsis, một thân cận của Dzerjinski viết
trên báo Izvestia số ra ngày 23 tháng 8 : ''Cuộc nội chiến có những
nguyên tắc riêng. Không những nó buộc phải tiêu diệt các tiềm năng đối
phương mà nó còn chứng tỏ cho thấy, kẻ nào chống lại trật tự của giai
cấp vô sản sẽ bị tiêu diệt ngay. Những người vô sản không cần biết và
cũng không dùng các luật lệ do tầng lớp tư sản thiết lập trước đây. Họ
đã giết hàng ngàn chiến sĩ của chúng ta. Ngược lại chúng ta giết từng
người một, sau khi đưa họ ra tòa án nhân dân. Trong thời kỳ nội chiến,
không cần sự hiện diện, hay nói rõ ra không cần tòa án nào cả. Nếu chúng
ta không giết họ, thì họ sẽ giết chúng ta. Vậy nếu chúng ta không muốn
bị giết, thì chúng ta phải giết họ.''.
Có hai vụ ám sát xảy ra ngày 30 tháng 8 năm 1918. Một vụ nhắm vào ông M.S. Outriski, chỉ huy trưởng công an thành phố Oetrograd
và một vụ nhắm vào Lenine. Hai vụ mưu sát làm dao động đảng Bônsêvich.
Trên thực tế hai vụ mưu sát không có liên hệ gì với nhau. Cuộc ám sát
viên chỉ huy công an thành phố Petrograd
xảy ra theo truyền thống của các cuộc khủng bố cách mạng bình dân do
một nhóm sinh viên trẻ tuổi thực hiện để trả thù cho các bạn đồng khoá
của họ vừa mới bị công an hành quyết vài ngày trước đó.
Vụ
mưu sát Lenine, mà bấy lâu nay vẫn cứ tưởng là do cô Fanny Kaplan, một
nữ lãnh tụ thân cận với nhóm vô chính phủ và nhóm xã hội cách mạng chủ
mưu, thực sự do cơ quan công an dàn cảnh để tạo sự kích thích ra mặt của
quần chúng. Cô Fanny bị công an bắt và bị hành quyết không xét xử.
Nhưng sự việc xảy ra vượt qua kế hoạch của người tổ chức. Sau vụ mưu
sát, chính quyền Bônsêvich quy tội cho nhóm Xã hội hữu phái là những kẻ
âm mưu và là những phần tử tay sai cho đế quốc Anh Pháp. Liền ngay sau
đó, báo chí đăng lời kêu gọi của chính phủ mở mặt trận khủng bố.
Tờ
Sự Thật số ra ngày 31 tháng 8 năm 1918, đăng lời kêu gọi:'' Hởi đồng
bào ! Đã đến lúc chúng ta phải tiêu diệt bọn tư sản trưởng gỉa. Nếu
không, bọn chúng sẽ tiêu diệt chúng ta. Chúng ta cần tẫy sạch các phần
tử ung thối tư sản ra khỏi thành phố. Phải ghi các người này và các
thành phần có thể làm nguy hai đến cách mạng vào một quyển sổ đen. Bài
hát chính thức của giai cấp thợ thuyền là bài hát kêu gọi hận thù và báo
thù.''.
Trong cùng ngày, Lenine cùng với cộng tác viên Peters
kêu gọi giai cấp công nhân với lời lẻ tương tự :'' Hởi giai cấp công
nhân ! các người hãy phát động cuộc khủng bố quy mô và vĩ đại. Bọn tư
sản là những con thủy súc phản cách mạng. Tất cả kẻ thù của giai cấp
công nhân , khi bị bắt có mang theo vũ khí thì phải xử bắn ngay tại chỗ.
Bất kỳ ai có cử chỉ hay lời lẻ nhỏ nào chống lại cách mạng sẽ bị bắt
giam và bị đưa vào trại tập trung.''
Sau lời kêu gọi này, ngày 3 tháng 9, Ủy viên nhân dân phụ trách công tác nội vụ ông N. Petroski
cho đăng một huấn thị trên tờ Izvestia. Ông phàn nàn là mặc dù lịnh
khủng bố các thành phần chống lại giai cấp công nhân đã ban hành từ lâu,
nhưng cho đến nay ở nhiều nơi vẫn chưa thi hành. Ông viết : '' Đã đến
lúc phải chấm dứt tình cảm yếu đuối. Phải bắt giam ngay các phần tử xã
hội cách mạng. Bắt làm con tin tất cả các sĩ quan Bạch quân và tư sản
trưởng giả. Nếu họ chống cự, chúng ta đem đi hành quyết tập thể. Cơ quan
hành chánh địa phương phải có sáng kiến riêng trong công tác này. Cơ
quan công an và quân nhân cách mạng phải phát hiện và bắt giam tất cả
các người tình nghi . Cho hành quyết ngay những ai có liên hệ đến các
hành động phản cách mạng. Nhân viên hành chánh thẩm quyền địa phương
phải phúc trình lên Bộ Nội vụ các việc làm '' nhu nhược'' hay mập mờ''
của các Sô Viết ở địa phương mình. Thái độ lưỡng lự, chao đảo không thể
chấp nhận trong khi thi hành công tác khủng bố quần chúng''.
Đây là văn kiện chính thức xác nhận tinh thần phát động quy mô chiến dịch KHỦNG BỐ ĐỎ.
Theo lời kêu gọi của Dzerjinski và Peters,
cuộc khủng bố đỏ chỉ là kết quả của sự phận nộ của quần chúng chống lại
hai cuộc mưu sát ngày 30 tháng 8 năm 1918, chớ không phải theo lịnh của
chính phủ đưa ra.
Thật ra, khủng
bố đỏ chính là do sự câm thù của các cấp lãnh đạo bônsêvich đối với
những người trước đây đã đàn áp họ. Những người bônsêvich sẵn sàng thủ
tiêu, không phải từng cá nhân mà cả từng giai cấp.
Trong
tập hồi ký của Raphael Abramovitch - một lãnh tụ Mensêvich - ông tường
thuật lại mẫu đối thoại của ông và ông Dzerjinski hồi tháng 8 năm 1917:
'' - Abramovitch, anh còn nhớ bài diễn văn của Lasalle, nói về nguyên thể của hiến pháp không ?''
''- Tôi còn nhớ.''
''-
Ông Lasalle nói rằng, hiến pháp được quy định bởi mối tương quan quyền
lực trong xã hội của một quốc gia trong một thời điểm nào đó. Tôi tự hỏi
, tương quan nào giữa chính trị và xã hội có thể thay đổi? ''
''-
Đó là quá trình phát triển của kinh tế và chính trị với sự phát sinh
một hình thức mới về kinh tế, sự nâng cao các giai cấp xã hội như anh
biết.''
''- Như vậy chúng ta thay đổi mối
tương quan xã hội này. Ví dụ như bắt một vài giai cấp nào đó phục tùng
chính quyền hay thủ tiêu các giai cấp này.'' .
Cách suy tư lô-gích của các lãnh tụ Bônsêvich về một cuộc chiến tranh giai cấp là một sự tàn ác , lạnh lùng và vô liêm sĩ.
Tháng
9 năm 1918, một nhân vật cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo Bônsêvich, ông
Grigori Zinoviev tuyên bố : '' Để đánh bại kẻ thù, chúng ta phải ra tay
khủng bố. Chúng ta phải kéo 90 trong số 100 triệu dân Nga về phía chúng
ta. Số còn lại, chúng ta không cần quan tâm. Họ sẽ bị tiêu diệt.
Ngày 5 tháng 9, chính quyền Xô viết chính thức ban hành lịnh KHỦNG BỐ ĐỎ.
Để
bảo vệ chính quyền Bônsêvich, các toán công an tăng cường hoạt động để
chống lại hẻ thù của giai cấp vô sản. Công an bắt giam, cô lập hay xử
bắn các phần tử có liên quan đến Bạch Quân, liên quan đến các cuộc chống
đối, có mưu toan gây rối loạn, tham gia vào các cuộc biểu tình,..Tên
tuổi của những thành phần bị kết án, xử bắn đều được đăng trên báo kèm
theo những lý do hành quyết.
Về sau,
Dzerjinski xác nhận :''các văn bản ngày 3 và 5 tháng 9 năm 1918 đã hợp
thức hoá các hành động thanh toán các phần tử chống đối chúng tôi. Mặc
dù có nhiều người phản đối, nhưng chúng tôi có quyền thủ tiêu kẻ thù mà
không cần thông báo cho ai cả.'' .
Trong
một thông cáo nội bộ ghi này 3 tháng 9, Dzerjinski ra chỉ thị cho tất
cả Sô Viết địa phương phải nhanh chóng thủ tiêu các phần tử còn lại.
Nhưng các cuộc thanh toán đã diễn ra ngày 31 tháng 8 . Trên tờ Izvestia
số ra ngày 3 tháng 9 cho biết, công an đã giết 500 con tin tại thành phố
Petrograd.
Trong tháng 8 công an xử bắn 800 người. Trên thực tế, con số này vẫn
còn rất thấp so với con số chính thức. Một nhân chứng cho biết, có 1300
người bị giết chết trong thành phố Petrograd. Đó là chưa kể đến con số người thường
dân và sĩ quan trong thành phố Konstadt bị giết nhông không ghi trong
hồ sơ lưu trữ. Công an cho đào các hố lớn rồi bắt 400 dân và sĩ quan
Bạch quân đứng cạnh hố, bắn từng người.
Ông Peters, cánh tay mặt của Dzerjinski, khi trả lời trên báo Outo Moskvy, ông nói rằng:'' công an của thành phố Petrograd
vì quá nhiệt tình và xúc động nên không còn lý trí khi thi hành công
tác khủng bố. Trước khi xảy ra vụ mưu sát Ouritski, không hề có vụ hành
quyết nào cả. Các ông hãy tin lời tôi. Tôi không phải là người khát máu
như người ta đã gán cho tôi.''
Tại
thủ đô Mạc Tư Khoa, sau vụ mưu sát lenine, có vài Bộ trưởng của thời
Nga Hoàng bị hành quyết. Theo tờ Izvestia, vào ngày 3 và 4 tháng 9, tại
thủ đô chỉ có 29 con tin bị hành quyết. Trong số này có hai vị bộ trưởng
thời Nga Hoàng, ông N. Khvostov -Bộ trưởng nội vụ và I.
Chtcheglovitov-Bộ trưởng tư pháp. Nhưng theo lời khai của những người bị
bắt giam, có hàng trăm vụ xử bắn xảy ra trong tháng chín.
Trong
thời gian thi hành chiến dịch Khủng bố đỏ, Dzerjinski cho xuất bản tuần
báo Ejenedelnik VCK- cơ quan phát ngôn của công an Tcheka. Tờ báo công
khai ghi công trạng của các toán công an và khuyến khích nhân viên của
các toán này hãy báo thù cho số đông quần chúng. Sau 6 tuần lưu hành, Ủy
ban trung ương đảng ra lịnh đóng cửa. Nhiều lãnh tụ Bônsêvich lên án
hành động quá lộ liễu của công an về các vụ công bố các hành động quá dã
man trong các cuộc lùng bắt các thành phần đối lập, các trại tập trung
hay các vụ hành quyết,..
Chính nhờ tuần
báo này mà ngày nay người ta mới biết'' ít nhất'' những gì đã xảy ra của
chiến dịch KHỦNG B- ĐỎ trong tháng 9 và 10 năm 1918.
Ngày
31 tháng 8 năm 1918, thi hành lịnh của Nicolas Boulganine, công an
Tcheka của thành phố Nijini-Novgord bắt nhốt 700 người và đem xử bắn 141
con tin. Ông Boulganine sau này làm chủ tịch Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết
từ năm 1954 đến 1957.
Tại thị trấn
Viatka, công an địa phương vùng Ouralsau khi rút khỏi thành phố
Ekateringbourg, ra lịnh giết chết 23 cựu hiến binh, 154 người phản cách
mạng, 8 người vô chính phủ và 10 đảng viên Mensêvich khuynh tả. Toán
công an khu vực Ivan Voznessenk bắt giam 181 người. Cho hành quyết 25
người thuộc thành phần chống cách mạng và xây một trại tập trung chứa
chừng 1000 người. Trong thị trấn nhỏ Sebejsk có 16 điền chủ và một Linh
Mục bị bắn chết. Vị Linh Mục bị bắn vì đã làm lễ cầu nguyện cho Nga
Hoàng II.
Tại Tver, Công an bắt giam 130 và bắn chết 39 người.
Ở vùng Perm có 50 người bị giết,..
Chúng ta cò thể đọc một danh sách dài đày tang tóc và đau thương trong tuần báo Ejenedelnik phát hành suốt trong 6 tuần lễ.
Mùa
Thu 1918, trên các báo đều có ghi lại hàng ngàn các cuộc hành quyết.
Như tờ Izvestia Tsaritsynskoi Goubtcheka, tiếng nói của nhân dân vùng
Tsarytsine, đăng tin vụ thảm sát 103 người trong tuần lễ từ 3 đến ngày
10 tháng 9 năm 1918.
Tờ Izvestia
Penzenskoi Goubtcheka, cơ quan phát ngôn vùng Penza, loan tin không lời
bình luận:'' Vụ ám sát đồng chí Egorov, một công nhân cư ngụ tại thành
phố Petrograd
trong lúc công tác trưng thu lương thực và vụ hành quyết 152 Bạch quân
là do lịnh của công an địa phương. Bất kỳ ai có mưu đồ chống lại lực
lượng võ trang chuyên chính vô sản đều bị trừng phạt gắt gao.''
Các bản phúc trình mật của
công an địa phương gởi về Trung ương vừa mới công khai cho phép tham
khảo, cho thấy các vụ đàn áp dã man đã diễn ra khi nông dân phản đối
lịnh trưng thu lương thực hay chống lại lịnh bắt lính của nhà nước. Dưới
tội danh '' các cuộc nổi loạn của bọn địa chủ phản cách mạng'', nông
dân bị đàn áp liên tục, dã man và đẫm máu trong suốt mùa hè 1918.
Không
thể tìm ra con số chính xác nạn nhân của cuộc khủng bố đỏ đầu tiên. Một
trong những thủ lãnh chính trong ngành công an là ông Latsis, đã tiết
lộ , trong sáu tháng sau cùng của năm 1918, công an đã giết 4500 người.
Ông ta nói một cách vô liêm sĩ:'' Người ta lên án các toán công an và
các công tác quá hăng say của họ. Nhưng thật ra các thành viên của cơ
quan công an Tcheka chưa thi hành đứng đắn và chưa thi hành tối đa các
hình phạt tử hình. Phải dùng bàn tay sắt để giảm bớt nạn nhân.''
Cuối
tháng 10 năm 1918, ông Iouri Martov, một lãnh tụ khác của ngành công
an, ước lượng con số nạn nhân do công an thủ tiêu là 10.000 người. Chúng
tôi nghĩ rằng con số chính xác có thể lên tới 15000.
Cuộc
khủng bố đỏ rõ ràng là phương tiện của nhà nước Bônsêvich dùng để tiêu
diệt tiềm năng phản kháng của các lực lượng chống đối. Trên thực tế nó
là một hình thức nội chiến, dùng các phương tiện giết người không nương
tay như Latsis thường
nói : Nội chiến có luật chơi riêng của nó. Biến cố xảy ra tại công
xưởng sản xuất vũ khí Motolivikha là một vụ điển hình. Công nhân của
công xưởng vũ khí đình công để phản đối chính sách phát thẻ tiếp tế
lương thực dựa trên giai cấp xã hội và phản đối sự lạm quyền của công an
địa phương. Nhà nước ghép công nhân vào tội phá rối và không chịu nói
chuyện với công nhân. Nhà nước ra lịnh đóng cửa công xưởng, sa thãi công
nhân và bắt giam ban tổ chức đình công. Trong suốt mùa hè năm đó, chính
quyền bônsêvich cho thi hành chính sách này.
Đến mùa thu, ngành công an tái tổ chức và phân chia công tác tích cực hơn. Dựa vào các lời khen thưởng
của Trung ương, công an địa phương càng hăng hái tiến xa vào công tác
đàn áp. Họ ra lịnh thủ tiêu 100 công nhân tham dự đình công.
Nếu
đem con số người bị công an bôsêvich giết chết 10000 trong hai tháng so
với nạn nhân do chế độ Nga Hoàng thủ tiêu, thì chúng ta sẽ thấy rõ sự
cách biệt trong chính sách đàn áp của hai chính quyền.
Chúng
tôi xin nhắc lại, từ năm 1825 đến năm 1917, các toà án thời Nga Hoàng
xử tử 6321 người kể cả các tù chính trị bị xét theo quân luật. Cao điểm
là cuộc nổi loạn năm 1905. Có 1310 vụ bị kết án tử hình và bị hành quyết
vào năm 1906. Suốt gần một thế kỷ-92 năm- Nga Hoàng xét xử có bản án,
có điều tra và có luật sư biện hộ, chỉ bằng một phần ba hay một nửa con
số nạn nhân của chính quyền Bônsêvich xảy ra trong hai tuần lễ đầu của
năm 1918. Không phải bản án nào dưới thời Nga Hoàng cũng bị hành quyết.
Một số tội phạm được hưởng giảm án tử hình và chuyển sang chung thân khổ
sai.
Nhưng những hình thức kết án trong
chế độ cộng sản còn đi xa hơn con số nạn nhân. Việc đặt ra các cấp hạng
kết tội mới như : bị tình nghi, kẻ thù của nhân dân, tòa án cách mạng,
toà án nhân dân, thi hành biện pháp phòng ngừa,..là những lịnh hành
quyết không cần xử án. Có cả hàng trăm, hàng ngàn người bị các toán công
an chính trị bắt giữ. Các toán công an này hoạt động trên cả pháp luật
nhà nước.
Diễn tiến các cuộc cách
mạng xảy ra ngoài dự tính của nhóm người Bônsêvich. các cuộc bút chiến
trong tháng 10 giữa các lãnh tụ Bônsêvich về vai trò của ngàng công an
chính trị đã nói rõ lên sự kiện này. Trong lúc Dzerjinski phải dấu tên
đi Thụy sĩ chữa bịnh, vào ngày 25 tháng 10 năm 1918, Ủy ban trung ương
nhóm họp để bàn về cơ chế tổ chức và vai trò của ban công an Tcheka. Các
đảng viên lão thành như Bonkharine, Olminski và Ủy viên bộ nội vụ Petrovski
chỉ trích hành động ''đứng trên chính quyền ''của ngành công an. Họ đưa
ra các biện pháp chế ngự và giảm quyền hành của công an , mà theo họ là
những tên giết người , bạo dâm và là những phần tử bần cùng trong ngành
công an. Trung ương thành lập một Ủy ban kiểm soát. Ông Kamenev, một
nhân vật đòi hủy bỏ ban công an chính trị Tcheka, được bổ nhiệm làm chủ
tịch ủy ban kiểm soát. Nhưng chẳng bao lâu, các ủy viên thuộc ban công
an Tcheka chiếm ưu thế trong ủy ban kiểm soát. Nhóm này củng cố lại uy
thế của công an. Vai trò lãnh đạo của ủy ban kiểm soát trở lại trong tay
của Dzerjinski, Sverdlov, Staline, Troski và cả Lenine nữa.
Ngày
19 tháng 12 năm 1918, thể theo lời yêu cầu của Lenine, Ủy ban trung
ương đảng Bônsêvich đưa ra một nghị quyết cấm tất cả báo chí đăng các
bài chỉ trích các cơ quan của đảng và nhà nước, kể cả ban công an chính
trị Tcheka. Bởi vì các cơ quan này đang thi hành những nhiệm vụ khó
khăn. Như vậy là xong. '' Lực lượng chuyên chính vô sản '' đã được thừa
nhận hoạt động hợp pháp, hành động đúng. Như có lần Lenine nói: '' Một
nhân viên công an chính trị Tcheka giỏi là một người cộng sản tốt''.
Đầu
năm 1919, Dzerjinski đề nghị thành lập một chi bộ đặc trách an ninh
quân đội. Ngày 16 tháng 3 năm 1919 Dzerjinski được bổ nhiệm vào chức vụ
Ủy viên nhân dân đặc trách Bộ nội vụ. Dưới sự hướng dẫn của ban công an
chính trị Tcheka, Dzerjinski phân phối các dân quân vệ binh, các binh
đoàn và các lực lượng hổ trợ quân đội vào các cơ quan hành chánh. Tháng 5
năm 1919, tất cả các đơn vị phục vụ hỏa xa, phụ trách tiếp vận và tiếp
tế lương thực, .. cùng có chung một danh xưng. Đó là Lực Lượng Đặc Biệt
Bảo Vệ An Ninh Nội Chính. Quân số của Lực lượng này trong năm 1921 lên
đến 200.000 người.
Lực lượng có nhiệm vụ
canh gát các trại tập trung, các yếu điểm chiến lược quân sự, các ga xe
lửa, các cuộc hành quần truy lùng và trưng thu tài sản, đàn áp các cuộc
biểu tình, chận đứng các cuộc bạo động chống đối nhà nước,.. Với quân số
200.000, lực lượng đặc biệt bảo vệ an ninh nội chính là một bộ phận
đáng kể trong quân đội Hồng quân. Mặc dù trên giấy tờ Hồng quân có tới 3
hay 4 triệu quân , nhưng hầu như đã tan rã. Số lính đào ngũ quá cao,
khó có thể huy động trên 500.000 người.
Một
trong những công tác đầu tiên của Ủy viên nhân dân đặc trách Bộ nội vụ
là cứu xét lại quy chế tổ chức các trại tập trung thành lập từ năm 1918
nhưng tớI nay chưa có căn bản pháp lý. Nghị quyết ký ngày 15 tháng 4 năm
1919 phân trại tập trung ra làm hai loại : Trại cưỡng bách lao động
dành cho các tội nhân đã bị kết án; trại thứ hai dành cho những người bị
bắt làm con tin. Nhưng sự phân chia chỉ có tên giấy tờ mà thôi. Theo
chỉ thị đề ngày 17 tháng 5 năm 1919, mỗi tỉnh phải thành lập một trại
tập trung chứa ít nhất 300 tù nhân. Theo chỉ thị này, tù nhân được chia
ra làm 16 loại. Gồm có : tư sản trưởng giả, công chức chế độ cũ, hiệu
trưởng các trường trung học, các luật sư của Toà án, Xã trưởng và phụ
tá, Quận trưởng,Tỉnh trưởng, các thành phần ăn bám xã hội, gái mãi dâm,
ma cô, lính đào ngũ, tù binh,..
Con số bị bắt vào trại tập trung và vào các trại cưỡng bách lao động càng ngày càng nhiều.
Trong
năm 1919, con số tù cải tạo là 16.000. Vào tháng 9 năm 1921 con số này
lên đến 70.000, chưa kể đến con số người bị bắt vì nổi dậy chống chính
quyền.
Riêng tỉnh Tambov, vào mùa hè 1921
đã có 50.000 người thuộc gia đình của những người bị bắt làm con tin vì
có dính líu đến những phần tử mà họ gọi la những '' tên ăn cướp''.
50.000
tù nhân này được đưa vào 7 trại tập trung do những toán đang thi hành
công tác trưng dụng và đàn áp các cuộc chống đối quản lý.
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 4
CUỘC CHIẾN BẨN THỈU
Dưới
cái nhìn tổng quát, một số phân tích gia cho rằng cuộc chiến tranh ở
Nga là cuộc nội chiến giữa phe Bônsêvich Đỏ và phe Bảo Hoàng Trắng.
Nhưng trên thực tế, ngoài các cuộc
giao chiến giữa hai phe Hồng Quân và Bạch Quân ra, vấn đề quan trọng là
những gì xảy ra ở hậu tuyến sau khi chiến tuyến di chuyển về phiá
trước. Đặc điểm của những diễn biến ở hậu phương là các cuộc đàn áp bằng vũ lực tại những nơi mà Hồng quân hay Bạch quân chiếm đóng.
Tại các vùng do Hồng Quân kiểm soát, các cuộc đàn áp được tổ chức có phương pháp và rất quy mô. Đối tượng là quần chúng của mọi tầng lớp. Đặc biệt đối với lãnh tụ của các đảng phái chính trị hay các đoàn thể chống đối, các công nhân đình công đòi hỏi yêu sách, các người trốn quân dịch, lính đào ngũ. Đơn giản hơn nữa là các công dân thuộc các giai cấp xã hội bị tình nghi thù địch với cái tội là đã sinh ra và lớn lên trong các thành phố của phe đối nghịch nay được tái chiếm.
Điểm quan trọng của cuộc nội chiến là cuộc đương đầu của hai phe trước hàng triệu nông dân, lính đào ngũ, bất phục tùng. Họ là yếu tố quyết định thành hay bại của cuộc chiến cho cả Hồng Quân lẫn Bạch Quân.
Suốt trong mùa hè 1919, những người nông dân đã nhiều lần nổi lên chống chính quyền Bônsêvich ở các vùng trung lưu sông Volga , sông Don và trên toàn vùng Ukraine. Nhờ các cuộc nổi loạn này, Đô đốc Koltchak và Tướng Denikime đã phá vỡ hằng trăm cây số sâu vào chiến tuyến của Bônsêvich. Nhưng sau đó vài tháng, Koltchak đã tính toán sai lầm khi ông quyết định trao trả ruộng đất lại cho các địa chủ. Nhóm nông dân vùng Tây Bá Lợi Á kịch liệt chống lại quyết định của Koltchak. Vì thế Bạch quân dưới quyền chỉ huy của Đô Đốc Koltchak thất trận.
Các cuộc hành quân của Bạch
lẫn Hồng quân chỉ diễn ra từ cuối năm 1918 đến đầu năm 1919, nghĩa là
chỉ hơn một năm, trên thật tế không phải là cuộc nội chiến. Đó là các cuộc chiến vô cùng bẩn thiểu với mục đích là đè đẹp các thế lực của nông dân nổi dậy ở những vùng họ chiếm đóng. Ở các vùng đất do Bônsêvich kiểm soát, đã diễn ra các cuộc đãu tranh giai cấp, chống lại lớp người giàu có, các phần tử mà họ cho là xa lạ với xã hội , truy lùng lãnh tụ của các phe đối lập, đàn áp những người đình công, tấn công những đơn vị Hồng quân bị nghi ngờ tiếp tay trong các cuộc nổi dậy của nông dân.
Trong các vùng
do Bạch quân chiếm đóng, những người bị tình nghi gốc Do Thái thân
Bônsêvich bi truy nã gắt gao. Không phải chỉ có Bônsêvich mới đàn áp. Các cuộc khủng bố trắng đã diễn ra ở vùng Ukraine để tàn sát những người Do Thái xảy ra vào mùa hè 1919 dưới quyền chỉ huy của Tướng Denikine và các lực lượng vỏ trang Petioura. Họ đã giết lối 150.000 người Do Thái. Những nhà nghiên cứu nhận định rằng không thể đánh giá các cuộc khủng bố đỏ cũng giống như đánh giá các cuộc
khủng bố trắng. Cuộc khủng bố đỏ được tổ chức có hệ thống, có phương
pháp, có suy tính kỹ lưỡng và được thi hành trước khi xày ra cuộc nội
chiến. Nó được lý thuyết hóa để chống lại tất cả mọi tầng lớp trong xã
hội.
Trong khi đó, cuộc khủng bố của Bạch quân chỉ do các đơn vị ngoài tầm kiểm sóat của quân Bạch Nga. Nó không nằm trong kế hoạch hay tính toán của bộ chỉ huy Bạch quân. Các cuộc đàn áp này thường do các toán công an, cảnh sát hay các toán phản gián thực hiện. Tướng Denikine đã nhiều lần lên án các cuộc khủng bố này. Để đối đầu với cơ quan phản gián của Bạch
quân, phía Hồng quân đã cho cơ quan tình báo chính trị Tcheka kết hợp
với '' Lực lượng bảo vệ nội chính cộng hòa'' lập thành một lực lượng có
nhiều đặc quyền và được tổ chức rất chu đáo.
Khó có thể trình bày hết các hình thức khủng bố của cuộc nội chiến. Ở đây chúng tôi chỉ nêu những điểm tiêu biểu về các cuộc đàn áp của nhóm Bônsêvich. Tuỳ theo phương pháp thực hiện và tuỳ ưu tiên giải quyết, các cuộc
đàn áp đều đã xảy ra trước cuộc nội chiến. Cuộc đàn áp thực sự mở rộng
vào cuối mùa hè năm 1919. Chúng tôi chỉ chọn ra đây các sự kiện rõ ràng và xảy ra liên tục theo thời gian để có thể theo dõi từ đầu của chế độ bônsêvich:
Các vị lãnh tụ chính trị không thuộc phe Bônsêvich, từ những người thuộc phe bảo Hoàng đến các thành phần vô chính phủ.
Các công nhân thợ thuyền đãu tranh cho quyền lợi sơ đẳng của họ, như có việc làm, có cơm ăn, có quyền tự do căn bản và tôn trọng nhân phẩm.
Các nông dân, lính đào ngũ có liên hệ đến các cuộc chống phá chính quyền của lực lượng nông dân, hay các đơn vị Hồng quân nổi loạn.
Các người Cosaques bị coi là thành phần chống chính quyền Bônsêvich vì họ thuộc giai cấp riêng biệt của xà hội. Họ bị lưu đày từng khối đông quần chúng. Hiện tượng giải trừ người Cosaque là một điềm báo hiệu cho các cuộc lưu đày của thành phần giàu có cùng với các sắc dân đã diễn ra với mức độ quy mô trong những năm 1930 sau này. Nó nói lên tính liên tục trong chính sách đàn áp của Lenine và Staline.
Các phần tử xa lạ với xã hội, kẻ thù của nhân dân, các thành phần bị tình nghi, các con tin,.. bị thủ tiêu, đã từng xảy ra ở các thành phố trước khi người Bônsêvich rút lui vì Bạch quân tấn công hay khi tái chiếm.
Người ta biết rất nhiều về các cuộc lùng bắt các đối thủ đảng phái chính trị đối lập chống lại chính quyền bônsêvich.
Các lãnh tụ có tên tuổi của các đảng phái chính trị thường để lại các chứng từ . Có số còn bị tù đày, có vị lưu vong ra nước ngoài, hiện đang còn sống. Các lãnh tụ gốc nông dân hay công nhân là những thành phần nồng cốt thường bị xử bắn không cần xét xử. Có khi họ bị thanh toán trong các cuộc
hành quân truy lùng do tổ chức công an chính trị Tcheka phát động. Điển
hình là cuộc đàn áp diễn ra ngày 11 tháng 4 năm 1918 tại Mạc Tư Khoa
nhắm vào thành phần vô chính phủ. Họ đã bắn tại chổ hàng chục người. Các cuộc hành quân truy lùng các thành phần vô chính phủ vẫn tiếp tục mấy năm liền sau đó. Lực lượng gọi là vô chính phủ vừa chống lại chính quyền chuyên chế của Bônsêvich, vừa chống lại những người của chính quyền cũ. Như lãnh tụ Makkno gốc nông dân thuộc lực lượng vô chính phủ. Lúc đầu ông hợp tác với Hồng quân để chống lại Bạch quân. Khi thanh toán xong Bạch quân, ông quay ra chống Hồng quân. Họ bị Hồng quân và các toán Tcheka kết tội là các tên lưu manh phá rối và bị xử bắn. Trong số đó có rất nhiều nông dân bị giết. Theo bản thống kê của những
người nông dân còn sống sót bỏ chạy qua Đức hồi năm 1922 cho biết con
số người bi bắn lên đến 138 người vào năm 1919 đến 1921. Cho đến ngày 1
tháng giêng năm 1922 có tất cả 608 người bi bắt cầm tù.
Từ mùa hè 1918 cho tới tháng 2 năm 1919, nhóm Xã hội thiên tả vẫn còn là đồng minh của chính quyền Bônsêvich nên được đối đãi khoan hồng. Nữ lãnh tụ Spiridonova của phe xã hội cách mạng được phép chủ tọa một phiên đại hội của đảng. Nhưng khi lên án về các vụ đàn áp của các toán công an chính trị Tcheka, bà bị bất cùng với 210 đảng viên của bà vào ngày 19 tháng 2 năm 1919. Tòa án cách mạng Bônsêvich kết tội họ là những người điên nên giam họ trong các trung tâm người bịnh tâm thần. Đây là hình thức đàn áp người đối lập chính trị đầu tiên của chính quyền chuyên chế Sô Viết. Bà Maria Spiridonova vượt ngục và tiếp tục bí mật chỉ huy lực lượng xã hội cách mạng thiên hữu. Theo báo cáo của cơ quan công an chính trị Tcheka, trong năm 1919, họ đã phá vỡ 58 tổ chức xã hội cách mạng và năm 1920 phá vỡ 45 tổ chức khác. Trong vòng hai năm này, có tất cả 1875 người thuộc đảng xã hội cách mạng bị bắt cầm tù. Ngày 19 tháng 3 năm 1919, Djerjinski tuyên bố, ông ta sẽ không phân biệt các Bạch quân thuộc cánh xã hội cách mạng hay thuộc phe Krasnov nữa. Các đảng viên đảng xã hội cách mạng cũng như các thành phần mensêvich sẽ bị bắt giam làm con tin. Họ sẽ bị kết án tùy theo các hoạt động chính trị của các đảng của họ.
Đối với chính quyền bônsêvich, đảng xã hội cách mạng luôn luôn là đối thủ chính trị nguy hiểm của họ. Người ta còn nhớ kết quả của cuộc tuyển cử tự do vào tháng 11 và 12 năm 1917. Trong cuộc bầu cử tự do này, đảng xã hội cách mạng thiên hữu đã chiếm đa số tuyệt đối trong Quốc Hội. Ngay sau khi Quốc Hội lập hiến giải tán, đảng xã hội các mạng
vẫn còn tham dự chính quyền tư cấp địa phương cho đến Ủy ban hành pháp
trung ương Xô Viết. Nhưng đến tháng 6 năm 1919, đại diện của nhóm Xã hội cũng như nhóm mensêvich bị đẫy ra khỏi các cơ quan chính quyền. Từ đó các đảng
chính trị này kết hợp với nhau thành lập đơn vị chính quyền tạm thời
tại Samara và Omsk. Nhưng chẳng bao lâu họ cũng bị Đô đốc Bạch quân
Koltchak giải tán. Đứng giữa hai thế lực Hồng và Bạch quân, các tổ chức chính trị của nhóm mensêvich cũng như nhóm cách mạng xã hội không chọn được con đường chính trị nào để hoạt động. Hơn thế nữa họ còn bị các tổ chức xã hội đối lập khác xâm nhập, phá hoại, trở nên yếu thế.
Ngày 20 tháng 3 năm 1919, khi Bạch quân tấn công, chính quyền Bônsêvich cho phép nhóm Xã hội cách mạng tái bản tờ báo của đảng dưới cái tên Dân Quyền - Delo naroda.
Ngày 31 tháng 3, cơ quan công an chính trị Tcheka mở cuộc bố ráp tìm bất các phần tử của nhóm xã hội cách mạng và mensêvich, mặc dù họ được phép hoạt động. 1900 đảng viên của hai đảng này bị bắt tại Mạc Tư khoa và tại các thành phố Toula, Somolensk, Voronej, Penza, Samara và Kostroma.
Ngày 28 tháng 8 năm 1918, Lenine viết một bài báo đăng trên tờ Sự Thật - Pravda, kết án nhóm xã hội cách mạng và Mensêvich là những tên tay sai của Bạch quân, địa chủ và tư bản.. Liền sau đó, cơ quan công an chính trị Tcheka bắt giam 2380 người.
Ông Victor Tchernov, vị chủ tịch Quốc Hội một ngày, nhân các thợ
xếp chữ tổ chức lễ đón chào phái đoàn nhân công Anh ngày 23 tháng 5 năm
1920 đã giả dạng lên diễn đàng tố cáo hành động lố bịch của chính phủ và cơ quan Tcheka. Sau đó chính quyền chuyên chế truy lùng ông và những đảng viên xã hội khác. Tất cả gia đình ông bị bắt giữ làm con tin.
Trong một bản tin nội bộ của cơ
quan Tcheka đề ngày 1 tháng 7 năm 1920 có ghi những lời đểu cáng như
sau : Nếu không cho họ hoạt động công khai, thì họ sẽ hoạt động bí mật.
Và như vậy rất khó kiểm soát. Tốt hơn hết là để cho họ hoạt động '' bán
hợp pháp''. Muốn bắt họ lúc nào cũng được, và nhất là cho người trà
trộn vào để chỉ điểm các cán bộ nồng cốt của tổ chức họ. Đối với các đảng chống Xô Viết, làm như vậy chúng ta dễ kiểm soát. Khi muốn bắt chúng ta chỉ cần kết tội như gây chia rẽ, tạo rối loạn, loan các tin thất thiệt,..Lợi dụng tình hình nội chiến, chúng ta ghép họ vào các tội phản động, phản cách mạng, phản tổ quốc, lũng đoạn hậu phương, làm gián điệp cho địch, ..''..
Đầu năm 1918, đảng bônsêvich, nhân danh giai cấp công nhân đứng lên cướp chính quyền, đã mở các cuộc đàn áp lại công nhân. Các cuộc
đàn áp kéo dài đến năm 1919, 1920 và đạt cao điểm vào năm 1921. Điển
hình nhất là cuộc đàn áp công nhân đình công biểu tình ở thành phố
Kronstad. Từ đầu năm 1918, công nhân Mạc Tư khoa đã biểu lộ sự nghi ngờ của họ đối với chính quyền bônsêvich.
Ngày
2 tháng 7 năm 1918 , công nhân tổ chức đình công nhưng thất bại. Đến
tháng 3 năm 1919 chính quyền bônsêvich bắt giam một số lãnh tụ đảng xã
hội cách mạng. Trong đó có bà Maria Spidonova. Mới trước đó bà được các nhân công nghinh đón khi bà đến viếng các công xưởng trong thành phố Petrograd. Các cuộc lùng bắt tiếp tục diễn ra trong lúc tình hình đang căng thẳng vì các cuộc đình công, chống đối.
Ngày 10 tháng 3 năm 1919, nhân một kỳ đại hội của công
nhân công xưởng Poutilov, 10.000 công nhân đã đọc tuyên cáo long trọng
lên án chính quyền bônsêvich. Họ cho rằng chính quyền Bônsêvich là chính
quyền độc tài Cộng sản, cai trị bằng các toán công an chính trị Tcheka và các toà án cách mạng. Bản tuyên cáo đòi hỏi trao quyền lại cho các Xô
Viết công xưởng; Công nhân có quyền tự do chọn ban đại diện; Bãi bỏ hạn
chế lương thực; Được quyền mang thực phẩm mỗi lần 24 ký từ miền quê về
thành phố; Trả tự do cho những đảng viên các đảng chính trị còn bị giam giữ kể cả bà Maria Spiridonova,..
Để
chận đứng phong trào chống đối mỗi ngày một lớn rộng, đích thân Lenine
phải trở lại Petrograd ngày 12 và 13 tháng 3 năm 1919. Nhưng khi Lenine
lên diễn đàn trong các công xưởng 1ể nói chuyện , các công nhân không cho ông nói. Họ trương biểu ngữ và phản đối Lenine và Zinoviev. Họ hô khẩu hiệu : đả đảo Do Thái và các ủy viên. Họ đã ghép phong trào bài trừ người Do Thái cùng với bài trừ Bônsêvich vào một. Những thiện cảm của họ trong những ngày đầu của cuộc cách
mạng tháng 10 giờ đây gần như tiêu tan. Bằng chứng, những lãnh tụ
bônsêvich lớn như Trotski, Zinoviev, Kamenev, Rykov, Radek,.. đều là gốc
Do Thái. Vì thế dưới mắt của quần chúng, có sự trùng hợp giữa Bônsôvich và Do thái.
Ngày 16 tháng 3 năm 1919, các lực
lượng vỏ trang công an Tcheka tấn công công xưởng Poutilov đã bị lực
lượng công nhân thợ thuyền chống trả. 900 công nhân bị bắt và sau đó 200
người trong số này bị hành quyết, tại Schlusselbourg , cách
Petrograd 50 cây số. Không hề có phiên tòa nào xét xử họ cả. Và theo
luật lệ mới, tất cả công nhân đình công đều bị sa thải. Muốn làm trở
lại, họ phải làm bản tự khai là họ đã bị các tên đầu sỏ phản động lạm dụng gây ra tội ác. Từ đó công nhân bị kiểm soát gắt gao. Vào mùa Xuân, cơ quan công an Tcheka tổ chức mạng lưới các tên chỉ điểm trong các công
xưởng. Những tên chỉ điểm có nhiệm vụ theo dõi công nhân rồi báo cáo
cho cơ quan công an theo tiêu chuẩn lao động cần cù, thành phần phản
động hay thành phần lười biếng.
Cũng trong mùa Xuân 1919 cũng đã xảy ra các cuộc đình công và bị đàn áp dã man ở các trung
tâm kỹ nghệ Toula, Sormovo, Orel, Briansk, Tver, Ivanovo-Voznessesk,
Astrakhan. Họ cùng có một nguyện vọng. Dù được tiếp tế phiếu thực phẩm,
nhưng với đồng lương chết đói, họ chỉ có thể mua lối 250 gram bánh mì
mỗi ngày. Công nhân đòi hưởng khẩu phần hằng ngày bằng khẩu phần của Hồng quân và của nhân viên thuộc cơ quan công an Tcheka. Ngoài ra, nguyện vọng của họ cũng có tính cách chính trị. Họ đòi bỏ các đặc quyền dành cho Cộng sản; Đòi trả tự do cho các tù chính trị; Đòi tự do bầu ủy ban thợ thuyền của công xưởng; Bãi bỏ tất cả các cuộc trưng binh của Hồng quân; Đòi tự do báo chí, tự do tư tưởng,..
Sự kiện vô cùng nguy hiểm cho chính quyền Bônsêvich là các đơn vị Hồng quân đóng ở các khu
kỹ nghệ Orel, Briansk, Gomel, Astrakhan nổi loạn và đứng về phía công
nhân. Dưới khẩu hiệu đả đảo bọn Do Thái và cá ủy viên chính trị'' , các đơn vị Hồng quân nổi loạn chiếm đóng một phần các thành phố. Nhưng sau nhiều ngày giao chiến, lực lượng chính phủ cùng các toán công an vỏ trang đã tái chiếm. Lại xảy ra các cuộc
lùng bắt, đàn áp dã man. Hàng trăm người bị hành quyết. Hàng ngàn công
nhân bị sa thải, bị tịch thu thẻ tiếp tế lương thực. Cuộc đàn áp quan
trọng nhất xảy ra tại Toula và Astrakhan trong tháng 3 và tháng 4 năm
1919. Chính Dzerjinski có mặt trong các cuộc đàn áp này. Toula là thành phố sản xuất vũ khí cho nước Nga. Vũ khí này dùng để chống lại các cuộc đình công của công nhân xưởng sản xuất vũ khí. Vào mùa Đông 1918-1919 xưởng đã chế tạo 80% vũ khí cho Hồng quân trên toàn nước Nga.
Trước đó có nhiều vụ bất ổn xảy ra tại Toula. Những tay nghề giỏi trong các hãng xưởng Toula lại là các thành viên của nhóm Mensêvich và nhóm Xã hội cách mạng. Đầu tháng 3 năm 1919, các cuộc truy lùng khởi đầu. Hàng trăm thành viên đảng xã hội cách mạng bị bắt đã làm nổ bùng cuộc chống đối. Cao điểm của cuộc
nổi loạn xảy ra vào ngày 27 tháng 3 khi công nhân mở cuộc tuần hành đòi
tự do và chống đói. Có cả hàng ngàn công nhân và nhân viên hỏa xa tham
dự cuộc tuần hành. Ngày 4 tháng 4, Derjinski ra lịnh bắt 800 người cầm
đầu cuộc tuần hành. Quân chính phủ dùng vũ lực giải tỏa các công
xưởng bị chiếm đóng từ nhiều tuần lễ qua. Công nhân lại bị sa thải. Thẻ
tiếp tế không còn giá trị. Nạn đói đang diễn ra. Muốn được cấp phát thẻ
tiếp tế để được mua 250 gram bánh mì mỗi ngày thì họ lại phải làm đơn
cam kết nếu bỏ sở làm thì sẽ bị kết án tử hình.
Ngày 9 tháng 4, cơ quan Tcheka đem xử bắn 26 người. Ngày hôm sau các hãng xưởng hoạt động trở lại.
Thành phố Astrakhan nằm trên cửa sông Volga, là địa điểm chiến lược then chốt cuối cùng của người Bônsêvich để ngăn chận sự liên lạc giữa các toán quân của Đô đốc Koltchak ở phía Đông và cánh quân của Tướng Denikine ở hướng Tây Nam. Tháng 3 năm 1919 xảy ra cuộc nổi dậy và cuộc đàn áp kinh hoàng các cuộc đình công của nhân công thợ thuyền. Khởi đầu vì lý do kinh tế , vì các tiêu chuẩn cấp phát lương thực. Sau đó với lý do chính trị, đòi thả các chính
trị phạm. Ngày 10 tháng 3, Trung đoàn 45 có nhiệm vụ đàn áp cuộc biểu
tình, nhưng đã quay súng lại và gia nhập lực lương công nhân thợ thuyền.
Họ đập phá trụ sở Bônsêvich, giết chết nhiều cấp lãnh đạo đảng. Chủ
tịch ủy ban quân quản Serge Kirov của thành phố Astrakhan ra lịnh dùng hết mọi phương tiện để tiêu diệt không nương tay những '' con rận của Bạch quân''. Các đơn vị còn trung thành với chính phủ khóa chặt các ngõ
vào thành phố, cho truy lùng bắt công nhân và tái chiếm lại thành phố.
Vì không đủ chỗ nhốt, họ dùng xà lan chở công nhân và quân nhân , cột
vào các cục đá , xô xuống sông Volga cho chết chìm.
Ngày 15 tháng 4 , nhà nước mở chiến dịch đánh tư sản. Họ viện lý do , những người tư sản đã xúi giục các cuộc nổi dậy. Trong hai ngày liền, các căn nhà sang trọng của các thương
gia, tư sản trong thành phố Astrakhan bị nhà nườc tịch thu và đem chủ
gia ra bắn. Có lối 600 người bị bắn và 1000 bị chết chìm. Từ trước đến
nay người ta được biết tại thành phố này chỉ có các cuộc đụng độ giữa phe Hồng và Bạch quân. Gần đây, các tài liệu lấy từ trung tâm văn khố cho biết đó là các cuộc tàn sát công nhân tàn bạo , vĩ đại và xảy ra trước các cuộc tàn sát ở thành phố Kronstadt do người bônsêvich chủ trương.
Cuối
năm 1919 và bước qua năm 1920, vì phải động viên trên 2000 công nhân
cho chiến trường cho nên đã tạo nên một bầu không khí tồi tệ giữa chính
quyền Sô Viết và công nhân. Troski đề nghị quân sự hoá các cơ
xưởng trong kỳ đại hội đảng lần thứ tư tổ chức vào hồi đầu tháng 3.
Theo ông, con người vốn lười biếng. Dưới chế độ Tư bản người ta phải làm
việc vì để sinh tồn, vì lẽ kinh tế thị trường hướng dẫn nhân công. Dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự hữu dụng của công
nhân là nguồn năng lực lao động thay thế cho thị trường. Nhà nước có
nhiệm vụ hướng dẫn, xử dụng và chỉ huy công nhân. Công nhân phải tuân
theo lịnh như quân nhân trong khuôn khổ một nhà nước công nhân, bảo vệ
quyền lợi giai cấp vô sản. Đây là căn bản và hướng đi của công cuộc quân sự hóa các lực lượng lao động. Một số lãnh tụ bônsêvich và nghiệp đoàn chỉ trích quan điểm của Troski. Theo quan điểm này, còn có nghĩa là cấm đình công, cấm đào nhiệm trong thời chiến và tăng cường quyền kiểm soát cho các ban giám đốc các xí nghiệp. Từ nay các nghiệp đoàn và các ủy ban công xưởng lệ thuộc vào sự chỉ đạo của cấp
trên. Công nhân không được phép rời nhiệm sở. Họ sẽ bị trừng phạt khi
vắng mặt hay đi trễ. Hiện tượng vắng mặt và đi trễ xảy ra thường xuyên trước đây vì công nhân còn phải tìm công việc khác làm
thêm để có thể nuôi gia đình. Sự kiểm soát giờ giấc, vì thế gây thêm
khó khăn cho công nhân. Họ không kiếm được thêm tiền. Nạn đói đe dọa.
Trong bản phúc trình đề ngày 6 tháng 12 năm 1919 của cơ
quan công an Tcheka gởi về chính phủ đã viết : '' Nhiều công nhân trong
nhiều công xưởng luyện kim ở Mạc Tư Khoa tỏ ra thật vọng và bất mãn. Họ
sẵn sàng đình công, bạo động, nổi dậy nếu chúng ta không giải quyết cấp
bách vấn đề tiếp tế lương thực .''
Đầu năm 1920, mức lương hằng trung bình của công
nhân ở thành phố Petrograd là 7000 đến 12000 rúp. Với đồng lương này
không thể nào so với giá thị trường 700 rúp cho một lít sữa, 3000 rúp
nửa ký thịt heo, 5000 rúp nửa ký thịt bò. Mỗi công nhân được phân chia
một số lượng thực phẩm tùy theo loại hạng.
Cuối
năm 1919 ở Petrograd, công nhân làm việc nặng mỗi ngày lãnh 250 gram
bánh mì; mỗi tháng được quyền mua 250 gram đường , 1 ký cá khô và 125
gram dầu ăn.
Trên lý thuyết, công nhân được chia làm 5 loại bao tử lao động. Hạng nhất là các công nhân làm công việc nặng. Kế đến là quân nhân của Hồng
Quân. Trí thức được xếp vào hạng ăn không ngồi rồi, không được cấp phát
gì cả. Tuy phân chia như vậy nhưng trên thực tế, phứt tạp và bất công
hơn nhiều. Trong hạng nhân công còn phải chia ra nhiều đẳng cấp. Ưu tiên
dành cho các công nhân phục vụ trong các cơ quan thiết yếu cho sự sống còn của chế độ.
Mùa
đông 1919-1920, tại Petrograd có tất cả 33 loại phiếu mua thực phẩm.
Mỗi phiếu chỉ có giá trị trong một tháng. Với phương pháp tập trung
phiếu phân phối thực phẩm, chính quyền Bônsêvich đã xử dụng vấn đề ''
đói và no''như là một vũ khí quan trọng để thưởng hay trừng phạt những ai hưởng ứng hay chống lại chính quyền.
Ngày 1 tháng 2 năm 1920, Troski báo cáo cho Lenine biết, phải cắt giảm số lượng bánh của các công nhân không phục vụ để cung cấp thêm cho các công
nhân phục vụ cho ngành vận tải. Nếu cần phải bỏ chết đói hàng ngàn
người để cứu chế độ, họ sẵn sàng cho chết đói ngay. Trước tình trạng
này, những ai còn có thân nhân ở miền quê, họ phải trở về quê để xin
thêm thực phẩm. Nhưng con số người có thân nhân ở miền quê rất ít. Chính
sách quân sự hóa lao động các công xưởng kể như thất bại. Năng xuất sản xuất rất thấp. Nhiều cuộc đình công, bỏ việc và bạo động xảy ra liên tục, rồi các cuộc đàn áp thẳng tay.
Báo Sự Thật-Pravda, số ra ngày 12 tháng 2 năm 1920 cho rằng nhân công đình công là những con muỗi vàng phá hoại. Chỗ đứng của họ là các trại tập trung.
Theo thống kê chính thức của Bộ Lao Động , 77% các công xưởng đủ loại ở Nga đã tham gia vào các cuộc đình công phá hoại trong sáu tháng đầu của năm. Xí nghiệp quan trọng nhất là các xưởng luyện kim, hầm mỏ, hỏa xa vì các nơi này chính sách quân sự hóa được thi hành triệt để. Các phúc trình được coi như là tối mật của cơ quan công an chính trị Tcheka gởi về Trung Ương đã nói rõ các vụ đàn áp công nhân chống lại chính sách của nhà nước. Các công nhân bị bắt vì bị truy tố là những phần tử phá hoại, đào ngũ, rồi bị đưa ra tòa án cách mạng. Tháng 4 năm 1920, tại thành phố Simbirsk có 12 công nhân phục vụ trong ngành sản xuất vũ khí đã bị Tòa án Cách mạng buộc tội đình công, tuyên truyền chống phá chính quyền Bônsêvich. Nếu ta phân tích chính sách '' Cái lưỡi gỗ'', chúng ta cỏ thể biết các công
nhân đã ngưng làm việc khi họ chưa được phép. Họ chống đối ban giám đốc
khi bị bắt buộc đi làm thêm vào ngày chủ nhật. Họ cũng đã tố cáo những
người Cộng sản có quá nhiều đặc quyền , tố cáo tiền lương quá thấp.
Ngày 29 tháng giêng năm 1920, các cuộc đình công lan tràn đến các vùng Tây bá lợi á. Lenine gởi điện văn cho Smirnov, chỉ huy trưởng ủy ban quân sự cách
mạng quân khu 5 và khuyến cáo: '' P. đã báo cáo cho tôi hay, công nhân
ngành hỏa xa phá hoại và công nhân vùng Ijevsk cũng gây nổi loạn. Tôi
lấy làm ngạc nhiên tại sao đồng chí chấp nhận sự việc như vậy. Tại sao
đồng chí không ra lịnh đàn áp các vụ phá hoại.''.
Vào năm 1920, do chính sách
quân sự hóa lao động, tại vùng Ekaterinboutg đã xảy ra nhiều vụ đình
công. Có 80 nhân công bị bắt hồi tháng 3 và bị giam trong các trại
tập trung. Trong tháng 4 có 100 nhân viên hỏa xa phục vụ trên đường xe
lửa Riazan - Oural bị kết án . Tháng 5, trên đường xe lửa Mạc Tư Khoa -
Koursk 120 nhên viên. Xưởng luyện kim Bransk có 152 công nhân bị bắt
trong tháng 6. Sự kiện quan trọng hơn hết , đó là vụ đàn áp ngày chủ
nhật 6 tháng 6 tại xưởng chế tạo vũ khí Toula. Công nhân xưởng vũ khí từ
chối không chịu làm thêm giờ phụ trội. Họ viện cớ ngày chủ nhật là ngày
duy nhất để họ trở về miền quê mua thêm thực phẩm. Ban giám đốc nhờ cơ
quan an ninh Tcheka đưa nhân viên đến bắt các người
thợ. Quân luật được thi hành tại xưởng. Họ thành lập một ủy ban gồm có
lãnh tụ đảng, đại diện công an, tố cáo âm mưu chống cách mạng do các tên gián điệp Ba Lan chủ mưu cùng với 100 tên mọi rợ [ ám chỉ các thành phần đảng xã hội cách
mạng và nhóm Mensêvich]. Cuộc đình công lan tràn rất nhanh. Kế hoạch
đãu tranh thay đổi. Cả ngàn nhân công cùng với vợ con đến bao vây văn
phòng của công an và xin được bắt giam luôn. Họ làm như vậy để chứng tỏ lời buộc tội cho họ chống phá cách mạng là vô căn cứ. Bị phản ứng bất ngờ, các chỉ huy công an địa phương không biết giải quyết bằng cách
nào và cũng không biết phải báo cáo làm sao với cấp trên. Một ủy ban
hỏi cung đã tra hỏi hàng ngàn nhân công và vợ con họ hầu tìm ra thủ phạm
chính. Muốn được thả ra , được làm việc trở lại và được cấp thẻ lương thực thì nhân công phải làm tờ tự khai với lời lẽ như sau :
'' Tôi, ký tên dưới đây là một con chó hôi thúi , phạm tội ác, đã ăn năn trước tòa án cách mạng và Hồng quân . Tôi đã kê khai các tội của tôi. Tôi hứa sẽ làm việc chăm chỉ trở lại.''
Không như ở các trung tâm khác, công nhân ở trung tâm Toula chỉ bị kết án nhẹ. 28 người đưa đi trại giam, 200 không cho định cư tại Toula.
Vì
thiếu tay nghề nên ban giám đốc phải giữ lại một số thợ chuyên môn.
Việc đàn áp cũng như việc tiếp tế lương thực vì thế cũng tuỳ thuộc vào
từng loại công nhân. Mặt trận chống lại công nhân chỉ là một trong những
mặt trận nhỏ của cuộc nội chiến. Mặt trận chính của chính quyền Bônsêvich chính là mặt trận chống lại lực lượng vũ trang nông dân. Các tài liệu mật ngày nay phơi bày cho chúng ta thấy trận chiến đàn áp đẫm máu , cuộc chiến bẩn thiểu là cuộc chiến của chính
quyền Bônsêvich tấn công những người lính gốc nông dân . Trong cuộc
chiến quyết định giữa người Bônsêvich và toàn thể khối nông dân dẫn đến
sự hình thành một chính sách khủng bố. Derjinski chê trách nông dân là những người không hiểu biết đâu là quyền lợi vật chất của họ.
Ông coi nông dân là những con thú, cần phải dùng súng đạn để chế ngự.
Troski thì cho rằng phải dùng cây chổi sắt để thanh toán họ như đã thanh
toán đẫm máu các'' băng đảng ăn cướp'' ở Ukraine. Các '' băng đảng '' này do các lãnh tụ nông dân và lãnh tụ Nestor Makhno lãnh đạo.
Các cuộc nổi dậy của nông dân bắt đầu từ mùa Hè năm 1918 sang đến mùa Hè 1919. Cuộc nổi loạn mỗi lúc mỗi gia tăng. Cao điểm của nó
là vào mùa Đông 1919-1920. Đến lúc này chính quyền Bônsêvich thấy nguy
nên họ nhượng bộ. Có hai lý do gây nổi loạn . Thứ nhất là vì nhà nước
trưng dụng lương thực. Kế đến là lịnh bắt nông dân đi lính.
Tháng giêng 1919, xảy ra các cuộc
lùng kiếm lương thực quá bừa bãi. Trung ương cho tái tổ chức. Mỗi tỉnh,
quận, xã, tổ hợp nông dân bắt buộc phải đóng cho nhà nước một số lương
thực nhất định và định kỳ từng mùa. Số lương thực này không chỉ riêng
ngũ cốc mà còn gồm cả 20 loại khác. Khoai tây, mật ong, trứng gà, bơ, sữa, thịt,.. Mỗi tổ nông dân đều phải chịu trách nhiệm giao đủ số lương lương thực. Chính quyền địa phương chứng nhận và sẽ trao đổi vật dụng do các nhà
máy sản xuất, cần dùng cho cuộc sống hằng ngày. Nhưng đến cuối năm
1920, số lượng cung cấp chỉ bằng 15% nhu cầu. Nhà nước chỉ trả một số
tiền tượng trưng theo giá quy định của nhà nước. Trong lúc đó đồng rúp mất 96% giá trị.
Từ năm 1918 đến năm 1920 chỉ số trưng dụng lương thực tăng lên gấp 3. Khó mà biết con số chống đối của nông dân có tăng theo tỉ lệ này hay không.
Lý do thứ hai của các cuộc nổi loạn này là số lính đào ngũ trong trận chiến tranh với Đức. Họ gọi đó là cuộc chiến đế quốc. Các quân nhân gốc nông dân rời bỏ hàng ngũ chạy vào các khu
rừng, tổ chức thành ''quân đội xanh'',chống lại chính quyền Bônsevich.
Có khoảng 3 triệu lính đào ngũ trong hai năm 1919-1920. Các toán công an lùng bắt trở lại khoảng 500.000 quân nhân trong năm 1919. Qua đến năm 1920, các toán
công an phối hợp với ủy ban chống đào ngũ, truy lùng và bắt được
700.000 đến 800.000 lính đào ngũ. Một số lính đào ngũ trốn về nông thôn,
nơi họ quen biết địa hình nên dễ lẫn tránh, trốn thoát các cuộc truy nã. Trước tình trạng đào ngũ trầm trọng này, chính quyền phải cho thi hành các biện pháp mạnh. Họ xử bắn hàng ngàn lính đào ngũ và bắt thân nhân của các quân nhân này giữ làm con tin. Chính sách '' bắt làm con tin'' được áp dụng từ mùa hè năm 1918. Theo lịnh của Lenine ký ngày 15 tháng 2 năm 1919 , các toán công an địa phương bắt '' các con tin'' đi quét tuyết trên các đường xe lửa. Nếu không thi hành chu toàn, công an có quyền đem họ ra xử bắn.
Ngày 12 tháng 5 năm 1920, Lenine ra chỉ thị cho các ủy ban cách mạng tỉnh phải chống lại việc đào ngũ. Các quân nhân đào ngũ được gia hạn một tuần lễ để ra trình diện. Bất kỳ ai giúp đở hay che chở các đào
binh đều bị kết án như là những con tin và sẹ bị trừng phạt. Tuy vậy,
mức độ đào ngũ cũng không thuyên giảm. Cuộc chiến dẹp quân đào ngũ đã
diễn ra rất tàn ác, gay go, đẫm máu và kéo dài có nơi đến 4, 5 năm.
Ngoài lý do bị trưng thu tài sản, bị bắt đi lính, giới nông dân còn cho rằng các ủy viên cộng sản là những người ngoại lai. Cán bộ cộng sản đã xâm phạm vào quyền lực nội bộ của địa phương. Họ lý luận đơn giản rằng chính sách tịch thu lương thực của cộng sản khác với chính sách cải cách điền địa của người bônsêvich năm 1917. Ở nông thôn, sau các hành động bạo tàn của Bạch quân, rồi kế tiếp chính sách trưng dụng của Hồng quân đã làm họ vô cùng khốn khổ.
Ban kế hoạch của cơ
quan tình báo công an chia lực lượng võ trang nông dân ra làm hai loại.
Loại tổ chức từng nhóm nhỏ vài trăm người và tổ chức định kỳ. Loại thứ
hai đông hơn, có khi lên đến hàng chục ngàn nông dân tham đự. Loại này
được tổ chức có kế hoạch, có đường lối chính trị do các lãnh tụ cách mạng xã hội lãnh đạo. Họ có khả năng chiếm đóng các vùng rộng lớn ở nông thôn cũng như ở thành phố.
Đầu tháng 4 năm 1919, lính đào ngũ và nông dân nổi dậy chống chính sách của nhà
nước về việc bắt lính, thu mua lương thự và trưng dụng tài sản tại vùng
Lebiadinski thuộc tỉnh Tambov. Họ trương khẩu hiệu '' Đả đảo cộng sản!
Đả đảo Sô Viết ''. Dùng vũ lực, các toán nông dân phá 4 trụ sở Uỷ ban hành chánh cách mạng và dùng cưa ,cưa 7 cán bộ cộng sản cho đến chết. Lực lượng tiếp trợ của cộng
sản cùng với tiểu đoàn 212 công an đến dẹp tan nhóm nông dân nổi loạn .
60 người bị bất và 50 người bị bắn tại chổ. Khu hoàn toàn bị phá hủy.
Ngày 11 tháng 6 năm 1919, vào lúc 16 giờ 15, tỉnh Voronej báo về trung ương :'' Tình hình trở lại bình thường. Cuộc nổi lọan ở Novokhopersk đã bị đè bẹp. Phi cơ của chính phủ đã san bằng thị trấn Trechia nơi bọn phản loạn nông dân khởi xướng. Cuộc tảo thanh vẫn còn tiếp tục.
Ngày 23 tháng 6 năm 1919, cuộc nổi loạn của lính đào ngũ ở Volost Petropavlovskaia đã bị đàn áp. Thân nhân của các đào binh bị bắt làm con tin. Khi chúng ta đem một thân nhân ra xử bắn thì đào binh của thân nhân này từ trong rừng ra đầu hàng. Chúng ta đã xử bắn 34 đảo binh để làm gương.''
Ba bản phúc trình kể trên được lấy ra trong hàng ngàn bản phúc trình khác trong thư khố của cơ quan chính trị công an Tcheka vừa mới cho phép công chúng tha khảo. Điều này đã nói lên sự kinh hoàng trong trận chiến của chính quyền Bônsêvich chống lại giới nông dân. Phương cách của chính quyền cộng sản áp dụng là bắt thân nhân của những người lính nông dân đào ngũ đem đi xử bắn và dùng phi cơ san bằng nhà cửa, làng xóm của nông dân. Bất kỳ ai che chở đào binh đều bị xử bắn , nhà cửa bị tiêu diệt.
Từ
ngày 15 tháng 10 đến ngày 30 tháng 11 năm 1918, trong 12 tỉnh ở Nga đã
xảy ra 44 cuộc nổi loạn loại nhỏ có vài trăm người tham đự. Có 2320
người bị bắt giam, 620 người bị giết chết và 982 người bị xử bắn. Đồng
thời cũng có 480 cán bộ cộng sản và 112 nhân viên của các toán trưng thu bị giết chết.
Trong tháng 9 năm 1919, tổng kết 48375 lính đào ngũ trong 10 tỉnh của nước Nga. Bị bắt lại 7325, giết chết 1826 và đem xử bắn 2230 người. Phía chính quyền chết 430. Đó là chưa kể con số thương vong của thường dân.
Cao điểm của các cuộc nổi loạn xảy ra ở các thời điểm và tại các vùng khác nhau.
Vùng Trung lưu sông Volga và Ukraine vào tháng 3 đến tháng 8 năm 1918.
Vùng Samara, Oufa, Kazan, Tambov từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1920.
Từ cuối năm 1920 đến giửa năm 1921, nông dân ở các vùng Ukraine, lưu vực sông Don, Kouban, bị đàn áp nặng nề. Ngọn lửa chống đối của nông dân tàn lụi khi nạn đói khủng khiếp của thế kỷ thứ 20 bắt đầu bao trùm trên toàn nước Nga.
Hai
vùng đất phì nhiêu Samara và Simbirk đã cung cấp 1/5 lương thực cho
toàn nước Nga vào năm 1919. Và cũng chính nơi này và cũng vào thời điểm
này, các cuộc
nổi loạn chính thức bùng nổ. Một lực lượng nông dân võ trang với chồng
30.000 tay súng đã chiếm đóng nhiếu thị trấn trong một thời gian khá
lâu. Chính quyền Sô Viết mất tỉnh Samara. Cuộc nổi loạn này đã giúp cho
Bạch quân của Đô
đốc Koltchak tiến chiếm vùng Volga. Sau đó Hồng quân đến tiếp viện và
đánh bật lực lượng nông dân, tái chiếm tỉnh Sanara. Nông dân đòi bỏ
chính sách trưng thu; đòi cho tự do thương mại; đòi tự do bầu cử và đòi chấm dứt giai cấp cai trị của cộng sản.
Ngọn lửa của cuộc
nội chiến ở tỉnh Samar vừa tạm lắn xuống, thì tại Ukraine bùng nổ dữ
dội. sau khi ký hòa ước với Đức và quân Đức Hung rút khỏi đất nga vào
cuối năm 1918, chính quyền cộng sản dồn nỗ lực đàn áp nông dân Ukraine.
Đây là 2 vùng trù phú nhất của nước
Nga thời Nga Hoàng. Chính vùng này đã cung cấp thực phẩm nuôi những
người '' vô sản'' ở Petrograd và Mạc Tư Khoa. Vì phải cung cấp với chỉ
tiêu quá cao, cộng thêm vào đó bị quân Đức- Hung tịch thu trước khi rút
đi, dân Ukraine không còn đủ lương thực để sống chờ đến vụ mùa năm tới.
Dân Ukraine không đủ ăn. Trước đó vùng Ukraine bị tái phân chia đất đai
theo chính sách mới của nhà nước năm 1917, nay lại bị quốc hữu hóa, kế hoạch canh tác thay
đổi, . Nông dân trở thành người làm công. Họ bất mãn và chống lại chính
quyền. Họ học nhiều kinh nghiệm chiến đãu trong thời kỳ bị quân Đức-
Hung chiếm đóng.
Đầu năm 1919, Ukraine có chừng vài chục ngàn nông dân võ trang. Các cấp
chỉ huy có nhiều kinh nghiệm gốc Ukraine như Simon Petlioura, Nestor
Makhno, Hryhoryiv và Zeleny. Họ chủ trương lấy đất cho nông dân, cho tự
do thương mại, cho bầu cử tự do các Xô
Viết, không bị chi phối bởi những người ở thủ đô Mạc Tư Khoa và những
tên Do Thái. Họ coi dân thành phố Mạc Tư Khoa , bônsêvich và người Do
thái là một. Tất cả nhửng thàng phần này sẽ bị đuổi ra khỏi Ukraine. Sự
kiện này giài thích tại sao các cuộc
nổi dậy và đàn áp đã diễn ra trong một thời gian quá lâu giữa những
người bônsêvich và lực lương nông dân. Hơn thế nữa, nông dân cũng chống
lại Bạch quân vì họ không muốn tái lập chính sách đại điền chủ như xưa.
Cuộc nổi loạn lớn nhất xảy ra hồi tháng 4 năm 1919 chống lại các toán trưng thu nông sản của chính
quyền. Có 93 cuộc bạo động xảy ra ở tỉnh Kiev, Tchernigov, Poltava và
Odessa. Trong 20 ngày đầu tháng 7 , công an ghi nhận có 210 vụ chống đối
với trên 100.000 nông dân võ trang và hàng trăm ngàn người dân ủng hộ.
Dưới quyền của lãnh tụ Hryhoryiv có trên 20.00 tay súng mà phần lớn là thuộc các đơn vị Hồng quân ngã về phía nông dân. Với 50 khẩu đại bác, 700 súng đại liên, họ đã chiếm đóng các thành phố phía nam Ukraine như Tcherkassy, Kherson, Nikolaiev và Odessa trong tháng 3 và tháng 4. Họ thành lập tai các vùng này các cơ quan hành chánh tự trị với khẩu hiệu : Tất cả chính quyền thuộc Sô Viết của dân Ukraine. Đất Ukraine của người Ukraine, không có người Bônsêvich cũng không có người Do thái.
Dưới
tay lãnh tụ Zeleny cũng có khoảng 20.000 tay súng , kiểm soát gần hết
tỉnh Kiev, ngoại trừ thành phố. Họ tổ chức thanh toán người Do Thái sinh
sống trong các thành phố.
Lãnh
tụ Nestor Makhno chủ trương tinh thần quốc gia, xã hội và vô chính phủ.
Dưới trướng ông phục vụ vài chục ngàn tay súng. Ông chống lại sự nhúng
tay của chính quyền vào nội bộ của nông dân. Ông đòi quyền tự trị cho nông dân, dựa trên căn bản các Sô Viết do dân bầu ra.
Hàng trâm cuộc nổi loạn của nông dân đã đóng vai trò quyết định ở hậu phương của Hồng quân. Nhờ đó, bạch quân của Tướng Denikine mới đạt được một số chiến thắng.
Bạch
quân xuất phát từ phía nam Ukraine vào ngày 19 tháng 5 năm 1919. Họ
tiến quân mạnh mẻ đánh phá Hồng quân, trong khi lực lượng này đang bận
tay đối phó với nông dân.
Ngày 12 tháng 6, Bạch quân chiếm Kharkov; ngày 28 tháng 8 chiếm Kiev và ngày 30 tháng 9 chiếm Voronej.
Trong lúc tháo chạy, Hồng quân ra lịnh giết hàng loạt các con tin mà họ còn bắt giữ. Khi rút qua các làng
mạc có quân du kích nông dân, Hồng quân cũng như lực lượng võ trang
công an ra tay tàn phá nhà cửa và đàn áp gắt gao dân chúng địa phương và
hành quyết vô số lính đào ngũ.
Đầu năm 1920, trừ một vài đơn vị nhỏ Bạch quân dưới quyền của Tướng Wrangel đang ẩn núp trong vùng Crimee, toàn thể Bạch quân đều tan rã. Cuộc chiến bấy gìơ chỉ là các cuộc đụng độ giữa nông dân và Hồng quân cho đến cuối năm 1922.
Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1920 xảy ra cuộc nôị loạn lớn từ vùng sông Volga đến Oral trong các tỉnh Kazan, Simbirsk và Oufa. Trong vùng này có các sắc
dân Nga, dân cái tên đạo quân'' con ó đen'' với quân số trên 50.000
người. Lực lượng chính phủ đã cửa bị thiêu dùng súng đại liên càn quét
những chiến sĩ Ó Đen trong tay chỉ trang bị chỉa ba hay gậy gộc. chỉ
trong vài ngày, hàng ngàn nông dân nổi loại bị giết, hàng trăm nhà rụi.
Sau vụ đàn áp mau lẹ lực lượng nông dân '' chỉa ba'', cuộc nội loạn lan tràn xuống các vùng
dọc sông Volga., rồi đến vùng Tambov, Penza, Samara, Saratov và
Tsaritsyne. Lãnh tụ Bônsêvich, Tướng Anton-Ovssenko , chỉ huy các cuộc đàn áp nông dân vùng Tambov xác nhận chương trình trưng thu năm 1920-1921 sẽ dẫn đến nạn đói lớn. Các toán
trưng thu chỉ để lại cho mỗi người khoảng 16 ký lúa mì, 24 ký khoai tây
sống trong một năm. Với số lượng thực này họ chỉ có thể sống trong một
năm. Nó khởi đầu cho cuộc chiến đãu sống còn của nông dân từ mùa hè năm 1920. Cuộc đãu tranh diễn ra liên tục và kéo dài trong hai năm.
Cuộc
đãu tranh lớn thứ ba diễn ra trong vùng Ukraine giữa chính quyền và
nông dân trong năm 1920. Hồng quân đánh bại Bạch quân và tái chiếm các thành phố của Ukraine từ tháng 12 năm 1919 đến tháng 2 năm 1920. Nhưng nông thôn vẫn còn trong tay nông dân. Khác với toán quân'' Ó Đen '', lực lượng nông dân này phần lớn là lính đào ngũ có mang theo vũ khí tối tân dưới quyền lãnh đạo của Tướng Makhno. Vào mùa hè năm 1920, quân số lên đến 15.000 trong đó có 2500 kỵ binh. Họ có 100 khẩu đại liên, 20 súng đại bác và 2 xe thiết giáp. Họ tổ chức thành hàng trăm nhóm từ vài chục đến vài trăm tay súng. Họ mãnh liệt chống lại các cuộc tấn công của quân chính phủ.
Chính
quyền Bônsêvich vào đầu tháng 5 năm 1920 bổ nhiệm ông Felix Dzerjinski
làm tư lệnh chiến trường hậu tuyến Đông nam. Cũng nên biết, ông
Dzerjinski la chỉ huy trưởng lực lượng công an chính trị Tcheka. Ông ở
lại Kharkov hai tháng để tổ chức 24 đơn vị An ninh nội chính đặc biệt của cộng hòa Nga. Đơn vị này bao gồm các tóan kỵ binh và các phi đội có khả năng săn đuổi các tổ chức nổi loạn. Nhiệm vụ của họ là trong vòng 3 tháng phải giải quyết xong các nông dân chống chính phủ. Trên thực tế, các cuộc
hành quân bình định phải kéo dài hơn 2 năm, từ mùa hè năm 1920 đến mùa
thu năm 1922. Hàng chục ngàn nông dân cũng như quân chính phủ bị giết
chết.
Kế
đến là giai đoạn tiêu diệt người Cosaque trú ngụ dọc sông Don và
Kouban. Đó là nhóm dân riêng biệt nằm định cư trong một khu vực đặc
biệt.
Đây là lần đầu tiên, tân chính quyền thi hành chính sách phân loại, tiêu diệt và lưu đày tập thể đông đảo một sắc dân. Đây không phải là cuộc trả đũa mang tính chất quân sự. Chính sách này đã được hoạch tính từ lâu. Nhiều nghị định hành chính do các nhân vật lớn trong chính quyền Xô Viết ban hành. Như các ông Lenine, Ordjonikidze, Syrtov, Sokolnikov, Reingold.
Năm 1919, chính quyền thất bại trên nhiều mặt trận. Qua năm 1920, Hồng quân tái chiếm các vùng dọc sông Don và Kouban. Chiến dịch tiêu diệt người Cosaque tái diễn tàn bạo và ác liệt hơn lần trước.
Tháng
chạp năm 1917 tất cả quy chế họ được hưởng dưới chế độ Nga Hoàng đều bị
bãi bỏ. Người Bônsêvich xếp dân Cosaque vào loại quân cướp, kẻ thù của giai cấp. Dân Copsaque đồng loạt đứng dưới cờ của lãnh tụ tinh thần Krasnov. Ông ta liên minh với Bạch quân ở phía nam nước Nga vào mùa Xuân 1918.
Mãi đến tháng 2 năm 1919, Hồng quân mới tổng tấn công vào Ukraine và miền Nam nước Nga. Các toán tiền phương của Hồng quân xâm nhập được vùng đất của dân Cosaque dọc theo sông Don . Liền ngay sau đó, Hồng quân cho thi hành một số biện pháp, nhằm tiêu diệt các đặc tính của dân vùng này. Họ tịch thu ruộng đất sở hữu của người Cosaque phân chia cho các người khai hoang gốc Nga, là những người không được hưởng quy chế của người
Cosaque. Họ ra lịnh dân Cosaque phải giao nạp vũ khí. Không thi hành
mệnh lệnh bị tử hình. Hội đồng hành tỉnh, hội đồng điền địa bị giải tán
và đặc ra ngoài vòng pháp luật. Một nghị quyết đã được Bộ chính trị đảng
cộng sản bí mật soạn
thảo từ ngày 24 tháng giêng năm 1919, nhằm tiêu diệt dân Cosaque.: ''
Xét vì cuộc nội chiến chống người Cosaque, vì nhu cầu tối hậu chính trị
trong cuộc chiến mất còn, phải áp dụng một cuộc khủng bố toàn diện chống
lại các người Cosaque giàu có. Biện pháp tiêu diệt phải được được áp dụng cho tới người cuối cùng''.
Reingold, chủ tịch Ủy ban cách
mạng vùng sông Don được lệnh phải áp dụng trật tự Bônsêvich trên vùng
dân Cosaque sinh sống. Ông ta nhìn nhận : '' Chúng tôi có khuynh hướng
tiêu diệt toàn bộ người Cosaque, không phân biệt loại nào. ''
Trong vòng vài tuần lễ, từ 15 tháng 2 đến 15 tháng 3 năm 1919, các toán
công an đặc biệt đã bắn chết 8000 người Cosaque. Ở mỗi thị trấn, chính
quyền Bônsêvich thiết lập một toà án nhân dân . Họ chỉ cần vài phút kết tội, tuyên án tử hình các phần tử mà họ cho là phản cách
mạng. Đứng trước hành động quá tàn bạo này, dân Cosaque chỉ còn có một
con đường sống duy nhất là kết hợp với nhau chống lại tân chính quyền.
Cuộc nổi dậy bắt đầu ngày 11 tháng 3 năm 1919 tại thị trấn Veshenski.
Được tổ chức khéo léo, họ kêu gọi động viên tất cả nam giới tuổi từ 16
đến 55. Họ gởi các điện văn đến các vùng dọc sông Don, đến các vùng lân cận tỉnh Voronej, kêu gọi dân chúng chống lại bônsêvich. Điện văn viết: '' Chúng tôi không chống lại các Xô Viết. Chúng tôi đòi hỏi có bầu cử tự do. Chúng tôi chống lại các người cộng sản, các hợp tác xã, các người Do thái, chính sách trưng thu, các cuộc hành quyết do công an chủ trương.''
Vào đầu tháng 4 năm 1919, lực lượng Cosaque lên đến 30.000 chiến sị võ trang thiện chiến. Họ tấn công vào phía sau lưng của Hồng quân, trong khi cánh quân này đang giao tranh với các đơn vị Bạch quân của Tướng Denikine ở vùng phía nam của Nga.
Đầu tháng 6, quân Cosaque bắt tay được quân Bạch nga trong vùng sông Don. Dân Cosaque được giải phóng khỏi bàn tay '' ô nhục'' của Mạc Tư khoa, của Bônsêvich, của Do thái. Nhưng người bônsêvich lật ngược lại tình thế. Họ phản công mạnh vào tháng 2 năm 1920. Vùng đất của dân
Cosaque bị tái chiếm lần thứ hai. Cuộc đàn áp tái diễn với mức độ khủng
khiếp hơn lần trước bội phần. Nhà nước bônsêvich ra lịnh trưng thu hàng
trăm ngàn tấn nông phẩm. Một con số vượt mức sản xuất của nông dân. Họ ra lịnh tịch thu tất cả dụng cụ , vật dụng , kể cả cái ấm nấu nước của dân Cosaque. Trước tình thế này, ai còn có thể cầm súng chống lại nhà nước đều gia nhập vào lực lượng Cosaque.
Bị chận đứng ở Crimee, Tướng Wrangel mưu toan thoát khỏi vòng vây của Hồng quân, tìm cách bắt liên lạc với các toán Cosaque ở Kouban , ngày 17 tháng 8 năm 1920 ông cho 5000 quân đổ bộ ở Novorossiski . Dưới sức tấn công của ba
cánh quân: Bạch quân, quân Cosaque và phe nông dân nổi loạn, Hồng quân
phải rút ra khỏi thị trấn Ekaterinodar. Tướng Wrangel tiến quân và phía
nam Ukraine. Nhưng cuộc chiến thắng của Bạch không kéo dài được lâu. Hồng quân đưa quân vào trận, tràn ngập quân của Tướng Wrangel. Tháng 10, quân của Tướng
Wrangel rút lui về Ukraine. Cuộc tháo chạy rất hỗn loạn, làm cản trở
cuộc thoái quân. Hồng quân tái chiếm vùng Crimee. Đây là giai đoạn cuối
cùng của cuộc chiến giữa hai cánh Hồng và Bạch quân. Cuộc thảm sát lớn nhất đã diễn ra tại đây. Hơn 50.000 thường dân bị quân bônsêvich tàn sát.
Vì thua trận, dân Cosaque lại một lần nữa hứng chịu các đòn đàn áp trả thù. Karl Lander, thuộc sắc dân Letton, chỉ huy trưởng công an Tcheka được bổ nhiệm đặc trách tòan quyền Bắc Caucase và vùng sông Don. Ông cho thiết lập các tòa án đặc biệt xử tội dân Cosaque. Chỉ trong vòng tháng 10 năm 1920 đã lên án và đem đi hành quyết 6000 người. Thân nhân, hàng xóm của những binh sĩ lần lượt cũng bị bắt làm con tin, đưa đi giam trong các trại
tập trung, còn gọi là trại tử thần. Trong bản phúc trình gởi về Mạc Tư
Khoa, trưởng cơ quan công an vùng Ukraine, ông Martynlatsis viết : '' các con
tin gồm có phụ nữ, trẻ em, người gìa, tập trung vào một trại ở gần
Maikop. Họ sống trong một hoàng cảnh thật kinh hoàng. Họ sống trong
những vũng bùn, trong cơn lạnh và đày tuyết rơi của tháng 10. Họ chết như các con ruồi. Phụ nữ chấp nhận những hành động xấu xa để thoát chết. Các binh lính canh gát lợI dụng tình trạng này để bán các phụ nữ vào những việc đê tiện.''
Kháng cự lại lịnh của trại đều bị trừng phạt nặng nề.
Theo ông Lander, viên toàn quyền Bắc Caucase, các cuộc khủng bố đỏ xảy ra rất bình thường. Hằng ngày có trên 300 ngườ bị xử bắn. Công an địa phương nhận lệnh phải thiết lập danh sách ở mỗi vùng một số người nhất định. Chính vì trình trạng này đã xảy ra các vụ tố cáo nhau vì tư thù. Tại Kislovodsk, vì không biết cách nào tìm ra phạm nhân nên họ đem các bệnh
nhân trong bịnh viện ra bắn cho đủ chỉ tiêu. Phương pháp tiêu diệt mau
lẹ là thiêu đốt tất cả làng mạc và tống dân Cosaque đi lưu đày. Trong
tập hồ sơ lưu trữ của ông Sergo Ordjonikidze, chủ tịch ủy ban cách mạng vùng Bắc Caucase còn lưu lại một số phúc trình về các cuộc đàn áp dân Cosaque từ tháng 10 đến trung tuần tháng 11 năm 1920.
Ngày 23 tháng 10, Sergo Ordjonikidze ra lịnh :
Tiêu hủy hoàn toàn làng Kalinovskaia.
Đuổi tất cả cư sống trong các làng Ermolovskaia, Rmanovskaia, Samachinskaia và Mikhailosakaia đi nơi khác sinh sống.
Nhà cửa phân phối cho sắc dân Tchchene, là giống dân luôn luôn trung thành với chế độ Bônsêvich.
Cho cán bộ công an hộ tống đưa đi đày tất cả đàn ông tuổi từ 18 đến 55 lên các vùng phía Bắc lao động khổ sai.
Trục xuất phụ nữ và trẻ em, đưa đến các làng ở phía Bắc.
Trưng thu tất cả gia súc, tài sản.
Ba tuần lễ sau, Sergo Ordjonikidze phúc trình về diễn tiến các cuộc hành quân như sau:
Làng Kalinovskaia bị tiêu hủy và lưu đày 4220 người.
Làng Ermolovskaia lưu đày 3128 người.
Làng Romanovskaia đợt một lưu đày 1660. Vì thiếu xe số còn lại là 1661 người.
Làng Samachinskaia đợt một đưa đi 1018. Số còn lại vì thiếu xe 1900 người.
Làng Mikhailovskaia đợt một đưa đi 600. Số còn lại 2200 người.
Ngoài
việc đưa đi lưu đày, chính quyền còn xử dụng 154 toa xe lửa chở lương
thực trưng thu. Những người bị lưu đày thuộc thành phần thân nhân của các người chống đối chính phủ. Thành phần còn ở lại là những người thân chính quyền, gia đình của Hồng quân, công nhân viên nhà nước cộng sản.
Công tác chuyển
vận người lưu đày gặp nhiều trở ngại vì thiếu phương tiện. Cho nên,
thay vì đưa tất cả lên miền Bắc, một số di chuyển xuống miền hầm mỏ
Donetz, gần đó hơn. Hệ thống đường xe lửa không được tu bổ hoàn hảo,
cũng là một trong những lý do chậm trễ. Chiến dịch tiêu diệt dân Cosaque
là một kinh nghiệm tổ chức cho chính quyền cộng sản để 10 năm sau họ áp
dụng vào chính sách đàn áp điền chủ, phú nông.
Dân Cosaque trả một giá quá đắc khi họ chống lại chính sách đàn áp của chính quyền Bônsêvich. Theo các ước
lượng đáng tin cậy, với dân số không quá 3 triệu, đã có khoảng từ
300.000 đến 500.000 người bị giết hay bị đưa đi đày và chết trong các trại tử thần trong 2 năm , 1919 - 1920.
Con số người bị giết trong chiến dịch khủng bố đỏ, tiêu diệt các thành phần phản động trong nửa năm sau của năm 1918, không thể nào biết chính xác được. Để thiết lập một xã hội mới trên căn bản con người mới, giai cấp mới, theo người cộng sản, họ phải liên tục thi hành các cuộc tàn sát như vậy.
Trong tờ nhật báo Thanh kiếm đỏ - Krasnyi Metch , tiếng nói của công an Tcheka, số ra đầu tiên, phát hành tại Kiev, viên chủ bút nhận định : '' Tất cả việc làm của chúng tôi đều được cho phép. Chúng tôi bác bỏ quan niệm của chế
độ cũ về luân lý và nhân đạo. Đó là những điều do bọn tư sản trưởng gỉa
đặt ra để bóc lột và đàn áp giai cấp thấp kém hơn. Quan niệm luân lý của chúng tôi từ trước đến nay chưa hề có. Quan niệm nhân đạo của chúng tôi dựa trên căn bản của một lý tưởng mới. Tiêu diệt tất cả các hình
thức áp bức và bạo động. Đối với chúng tôi, mọi hành động đều được cho
phép, vì chúng tôi là những người đầu tiên trên thế giới không phải vung
gươm lên để áp bức , tạo ra chế độ nô lệ, mà để giải phóng nhân loại
thoát khỏi xiềng xích. Phải đổ máu ! Và máu chảy thành sông! Máu đào sẽ
nhuộm đỏ các ngọn cờ đen của bọn trưởng gỉa ăn cướp. Cuối cùng tiêu diệt thế giới cũ để giải thoát chúng ta ra khỏi các con chó ăn xác chết. Những con chó này sẽ không bao giờ trở lại.''
Lời kêu gọi này đã gợi trong tâm tư các hành động bạo lực và ý chí trả thù xã hội của các thành viên thuộc cơ quan công an Tcheka, phần lớn được kết nạp là những tên tội phạm, bất hão trong chế độ cũ.
Trong văn thư đề ngày 22 tháng 3 năm 1919, lãnh tụ Bônsêvich Gopner mô tả hành động của công an ở vùng Ekaterinoslavl như sau :'' Có 5 tên công an phạm tội ác, bạo động, ngang ngược và chuyên quyền. Họ bị giựt dây bởi các thành phần đê tiện và các tên mang bản án. Họ
có súng trong tay. Họ bắn bất cứ người nào họ muốn hay họ ghét. Họ lục
soát, cướp bóc, hảm hiếp phụ nữ. Họ muốn bắt ai thì bắt. Mua bán giấy tờ
gỉa, đòi tiền hối lộ. Rồi tố cáo những người đưa hối lộ để đòi thêm
tiền,.''
Trong văn khố của Ủy ban trung ương cũng như củ Dzerjinski còn lưu lại một số phúc trình về hành động say máu bạo động của các nhân viên công an. Vì không có căn bản pháp lý nào nên các nhân viên công an tỏ ra vô trách nhiệm, tự thi hành các hành động khát máu, vô nhân đạo.
Sau đây là ba bản báo cáo lấy ra từ hàng chục bản báo cáo về các hành động suy thoái của công an địa phương trong một xã hội vô luật pháp.
Ngày 22 tháng 3 năm 1919, một huấn luyện viên công an vùng Systran thuộc tỉnh Tambov
gởi báo cáo về cho Dzerjinski : '' Tôi đã kiểm soát lại các vụ nổi loạn ở vùng Volost Novo-Matrionskaia. Việc bắt người rất hỗn loạn. Tôi đọc lời khai của 70
người bị tra tấn mà tôi chẳng hiểu gì cả. Ngày 16 tháng 2, có 5 người
bị xử bắn. Ngày hôm sau 13 người. Trong khi đó lệnh xử bắn đề ngày 28
tháng 2. Khi tôi hỏi viên chỉ huy công an giải thích cho tôi, ông trả
lời là ông không có thời giờ lập biên bản.Và cũng chẳng lập biên bản làm
gì. Công việc chính là tiêu diệt các thành phần tư sản, kẻ thù của giai cấp.''
Ngày 26 tháng 9 năm 1919, viên thư ký đảng bônsêvich vùng Iaroslavl báo cáo các nhân viên công an cướp bóc và bắt bớ người vô cớ. Họ biến văn phòng công an trở thành ổ điếm. Họ mang các phụ nữ tư sản về trụ sở. Họ ăn nhậu say sưa và còn dùng thuốc phiện.
Ngày
16 tháng 10 năm 1919, phái đoàn thanh tra Rosenthal gởi bản phúc trình
từ vùng Astrakhan về trung ương :'' Atarbekov,Viên chỉ huy lực lượng đặc
biệt của quân đoàn 9 không còn nhìn nhận quyền lực của Trung ương. Ngày 30 tháng 7, khi đồng chí Zakovski từ Mạc Tư Khoa phái đến để kiểm soát các việc làm của lực
lượng đặc biệt , khi gặp vị chỉ huy trưởng, ông ta cho biết là hãy nói
lại với Dzerjinski, ông ta không chịu sự kiểm soát nào cả. Không có một
tiêu chuẩn hành chánh nào để cho nhân viên tuân theo. Hồ sơ công tác hầu như không thiết lập. Riêng về các vụ tuyên án tử hình, tôi không thấy hồ sơ nào cả. Họ chỉ đưa cho tôi các danh sách không đày đủ và thường chỉ viết có vài chữ : Đã bị xử bắn theo lịnh của Atarbekov. Khó mà biết rõ những gì đã xảy ra trong tháng 3 năm 1919. Nhậu nhẹt xảy ra hằng ngày. Hầu hết các nhân viên công an nghiện bạch phiến. Họ cho rằng phải dùng bạch phiến mới có thể chịu đựng các cuộc bắn giết hằng ngày. Họ quá say máu bạo hành. Cần phải kiểm soát họ.''
Các báo cáo nội bộ của công an và của đảng cộng sản đã được nhiều nhân chứng xác nhận.
Tướng Denikine thành lập một ủy ban điều tra tội ác của các người Bôsêvich. Các tài
liệu này trước kia lưu trử ở thủ đô Tiệp khắc. Sau năm 1945, văn khố
dời về Mạc Tư Khoa. Ngày nay dân chúng có thể đến tham khảo.
Từ năm 1926, nhà viết sử Nga Serge Melgounov đã lập bản kê khai trong tác phẩm của ông. Các cuộc khủng bố Đỏ, các cuộc tàn sát các con tin, các vụ hành quyết tập thể, các giai đoạn chính liên quan đến các cuộc đàn áp, có sự trùng hợp với các nguồn tài liệu khác.
Các cuộc tàn sát đầu tiên các người tình nghi, các con tin, kẻ thù của nhân dân bị giam trong các trại tập trung, bắt đầu từ tháng 9 năm 1918 khi cuộc Khủng Bố Đỏ mở màng.
Việc cưỡng đặc chính quyền chuyên chính vô sản tại các thành phố đang chiếm hay tái chiếm diễn ra từng giai đoạn.
Trước
tiên, họ giải tán tất cả cơ cấu hành chánh cũ.Sau đó ra lịnh cấm buôn
bán để ngăn chận vật giá leo thang và tránh nạn đầu cơ tích trữ hàng
hóa. Kế đến quốc hữu hóa hay địa phươ ng hóa tất cả công sở, xí nghiệp. Bắt những nhà tư sản, thương
gia đóng thuế thật nặng. 600 triệu vào tháng 2 năm 1919 tại Kharkov.
500 triệu tại Odessa vào tháng 4. Để việc đóng thuế được thành công, họ
bắt tư sản và thương gia nhốt trong các trại tập trung làm con tin. Đây là hình thức cướp giựt trá hình. Đó cũng là giai đoạn đầu của chính sách đánh cho tan thành phần tư sản mại bản.
Ngày 13 tháng 5, trên báo Izvestia có đăng nghị quyết truất hữu tài sàn của tư sản do Hội đồng công nhân thành phố Odessa biểu quyết.
Người nào có tài sản đề phải khai. Khai hết. Từ cái chén, cái nĩa cho
đến đôi giày, cái quần, cái áo, nữ trang, tiền bạc,..Ai không khai tức
là chống lại nhà nước, sẽ bị tử hình.
Latsis, viên công an trưởng vùng Ukraine thú nhận, tiền bạc, vật dụng thu được của tư sản đã chạy vào túi của công an và Hồng vệ binh.
Giai đoạn kế tiếp là tịch thu nhà cửa.
Trong cuộc chiến này, hình thức hạ nhục tư sản rất được phổ biến. Trên báo chí xuất bản ở các vùng Odessa, Kiev, Kharkov, Oural,.. hằng ngày loan tin các hình thức hạ nhục. Bắt thương
gia tư sản , cùng vợ con đi quét đường, lau cầu tiêu, dọn doanh trại
cho Hồng vệ binh ,.. Nhưng còn nhiều chuyện bi đát hơn. Họ hãm hiếp con
vợ con của những người tư sản bị bắt giam. Đặc biệt ở những vùng do Hồng quân tái chiếm từ tay của bạch quân, như vùng của người Cosaque và vùng Crimee vào năm 1920, tình trạng hiếp dâm diễn ra khốc liệt và dã man hơn.
Theo tính toán, đây là gai đoạn cuối cùng của chính sách tiêu diệt giai cấp trung lưu trưởng gỉa. Hành quyết những người bị bắt giam trong các trại tập trung với cái tội, họ là những người có tài sản.
Tại
Kharkov , 2000 đến 3000 bị xử tử từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1919. Khi
Hồng quân tái chiếm vào tháng 12, lại có thêm từ 1000 đến 2000 người bị
giết.
Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1919 tại Odessa có 2200 người. Từ tháng 2 năm 1920 đến tháng 2 năm 1921 3000 vụ.
Tại thành phố Kiev xảy ra 3000 vụ từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1919.
Thành phố nhỏ Armavir xảy ra 300 vụ từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1920.
Trên thực tế còn rất nhiều vụ hành quyết khác đã xảy ra tại nhiều nơi và trong khoảng thời gian khác nhau.
Người ta biết rất rõ các vụ đàn áp xảy ra ở Ukraine, các tỉnh phía nam nước Nga, vùng Cosaque, vùng Tây Bá Lợi Á và vùng Oural.
Thường các cuộc tàn sát diễn ra khi khi có địch tiến quân tấn công, trước khi rút lui, họ '' dọn dẹp'' sạch các trại tù tập trung.
Tại Kharkov, hai ngày trước khi các đơn vị Bạch quân tiến chiếm thành phố, ngày 8 và 9 tháng 6 năm 1919, hàng trăm con tin bị hành quyết.
Tại
Kiev, trên 1800 người bị bắn chết từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 8 năm
1919, trước khi Bạch quân tiến chiếm thành phố vào ngày 30 tháng 8 cùng
năm.
Tại
Ekaterinodar cũng diễn ra tương tự. Trước khi quân Cosaque và quân
Artabekov chiếm đóng, trong 3 ngày, từ 17 đến 20 tháng 8 , công an giết
chết 1600 người. Dân số của vùng này trước khi xảy ra cuộc đàn áp là 30.000 dân.
Sau khi chiếm được thành phố, chỉ huy trưởng Bạch quân cho thiết lập một Ủy ban điều tra các cuộc tàn sát do những người cộng sản thi hành trước khi rút lui. Theo lời khai của một
số nhân chứng còn sống, bản phúc trình khám nghiệm tử thi chứng minh
rằng những người chết sau cùng đều có vết đạn bắn từ sau ót xuyên qua
đầu. Không có vết đạn nào trong thân thể cả hay dấu vết tra tấn. Trái
lại, các thi hài chôn tập thể có dấu tra tấn trước khi đem đi hành quyết. Sử gia Serge Melgounov đã tường thuật trên báo về các dụng cụ và các hình thức tra tấn của công an. Một số khác đã được những người xã hội cách mạng trốn thoát viết lại trong các hồi ký xuất bản trong năm 1922 ở Bá Linh.
Trong vòng một tháng, từ ngày 15 tháng 11 1ền ngày 15 tháng 12 năm 1920, sau khi các đơn vị Bạch quân của Tướng Wrangel rút lui ra khỏi vùng Crimee, Hồng quân tái chiếm, có khoảng 50.000 dân bị xử bắn hay bị treo cổ.
Hàng trăm công nhân khuân vác bến tàu Sebastopol bị xử bắn vào ngày 26 tháng 11, bởi vì họ đã tiếp tay , giúp cho Bạch quân lên tàu rút lui.
Ngày 28 tháng 11 , chính quyền cho đăng danh sách trên báo số người bị xử tử. Danh sách thứ nhất 1634 người. Danh sách thứ hai 1202 người.
Vào tháng 12, các đợt hành quyết giảm dần. Chính quyền cho lập hồ sơ cá nhân và phân loại từng người. Theo họ, còn có rất nhiều tư sản , thương gia từ thành phố về nông thôn lẫn trốn trong đám thân nhân của họ. Ngày 6 tháng 12 Lenine cho các ủy
viên biết hiện có 30.000 nhà tư sản trốn trong vùng Crimee. Đây là
những phần tử tay sai và làm gián điệp cho ngoại quốc. Chúng sẵn sàng
hợp tác với tư bản. Chúng phải bị trừng phạt.
Quân số của chính phủ gia tăng bao vây vùng Perekop. Chính quyền ra lịnh dân trong vùng ra trình diện tại các cơ quan công an. Họ phải làm bản tự khai bằng cách trả lời 50 câu hỏi chi tiết về đời tư, nghề nghiệp và những hoạt động trong quá khứ, lợi tức, cảm tưởng của họ đối với biến cố Pologne, họ làm gì kể từ ngày 22 tháng 11 năm 1920,.. Căn cứ theo các bản tự khai, họ sẽ được chia ra làm ba hạng. Xử bắn, đưa đi lưu đày hay được phóng thích.
Một số người sống sót đã đăng các tin trên báo những gì họ đã chứng kiến trong thành phố Sebastopol vào năm 1921.
Toàn khu Nakhimouski treo lũng lẵn tư thi của các sĩ quan Bạch quân. Xác của thường dân và lính thì treo dài dọc theo đường phố. Đây là một thành phố chết. Ai còn sống thì lẫn trốn trong các đường hầm, cống rảnh. Các biểu ngữ : '' Hãy giết các tên phản bội '' treo đầy trên cột đèn, cửa tiệm, vách phố, hàng rào kẽm gai,..
Giai đoạn chót của cuộc nội chiến không phải là kết thúc các cuộc đàn áp.
Mặc
dù không còn chiến tuyến giữa Bạch quân và Hồng quân nữa, nhưng trận
chiến tiêu diệt và bình định vẫn còn tiếp tục và kéo dài trong hai năm .
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 5
CÁC DIỄN BIẾN TỪ TAMBOV CHO ĐẾN KHI XẢY RA NẠN ĐÓI LỚN
Đến cuối năm 1920, chính quyền bônsêvich gần như thành công. Đạo quân cuối cùng của Bạch quân bị đánh bại. Các toán quân của người Cosaque cũng chịu chung số phận. Còn các đơn vị của Makno
đang ở trên đường tháo chạy. Nhưng cuộc chiến giữa lực lượng quần chúng
xã hội và chính quyền cộng sản vẫn còn tiếp tục. Cao điểm của trận chiến này xảy ra vào đầu năm 1921 của các đạo quân nông dân thoát ra khỏi gộng hiềm của nhà nước bônsêvich.
Toàn tỉnh Tambov, một phần của tỉnh Volga [ Samara, Sarotov, Tsartsyne, Simbirk] và phía tây của Siberia nằm trong tay của quân nông dân. Nhà nước chỉ quản lý các thành phố.
Các cuộc đình công, phản đối, các cuộc nổi loạn của công nhân thợ thuyền xảy ra liên tục ở các trung tâm kỹ nghệ. Cuối tháng 2 năm 1921, các thuỷ thủ của căn
cứ hải quân Kronstadt nằm ngoài khơi thành phố Petrograd nổi loạn. Tình
hình trở nên khẩn trương. Nhà nườc gần như không còn quyền lực điều
hành.
Trước nguy cơ bùng nổ, chính quyền đành phải lùi bước. Nhà nước cho ban hành các biện pháp nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nông
dân, là thành phần chiếm đa số và nguy hiểm nhất. Chính quyền hứa sẽ
đình chỉ lịnh trưng thu lương thực, thay vào đó là thuế trả bằng hiện
vật.
Tháng 3 năm 1921, họ cho thi hành Tân chính sách kinh tế chính trị.
Mặc dù chính quyền có thay đổi chính sách nhưng các cuộc nổi loại của nông
dân vẫn tiếp tục gia tăng. Nhiều tài liệu nằm trong văn khố hiện nay
cho chúng ta thấy, mùa xuân năm 1921 không có '' hòa bình ''. Tình trạng
căng thẳng kéo dài cho đến mùa hè 1922.
Các toán thu mua lương thực vẫn tiếp tục lộng hành ở nông thôn. Việc lùng bắt các lãnh tụ cuối cùng của phe xã hội cách mạng vẫn còn tiến hành. Công nhân thợ thuyền đình công vẫn còn bị đàn áp dã man. Các cuộc
tìm kiếm và tiêu diệt nông dân lẫn tránh trong rừng vẫn còn thi hành
triệt để, dưới nhiều hình thức : xử bắn con tin, dùng đạn pháo binh chứa
hơi ngạt bắn vào làng quê.
Nhưng chính nạn đói năm 1921-1922 đã quy phục các thôn làng xáo động nhất. Vì vấn đề sống còn, nhân dân các làng quê này đã cương quyết nổi dậy chống lại các toán trưng thu của nhà nước. Nếu phải vẻ một bức tranh thì chúng ta sẽ nhận ra tại các nơi năm trước thu mua nhiều, là những nơi có các cuộc chống đối lớn và bị đói kinh hoàng nhất.
Một cách khách quan, chúng ta có thể nói rằng, nạn đói kém là đồng minh của chính quyền. Nhà nước cộng sản đã xử dụng '' Bỏ chết đói'' như là một vũ khí để đè bẹp sức kháng cự của nông dân, tiêu diệt Giáo Hội Chính thống và những người trí thức.
Trong số các cuộc nổi loạn của nông dân chống lại chính sách trưng thu kể từ năm 1918, cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Tambov là quan trọng, được tổ chức chu đáo và do đó cầm cự lâu nhất.
Vùng Tambov nằm phía Đông và cách Mạc Tư Khoa 500 cây số. Từ đầu thế kỷ thứ 20, vùng này là pháo đài của đảng xã hội cách mạng, là di sản của phong trào Bình Dân Nga.
Trong những năm 1918-1920, mặc dù bị đàn áp, nhưng vẫn còn nhiều lãnh tụ hoạt động tích cực.
Tambov được coi là vựa lúa quan trọng nằm sát Thủ Đô. Mùa thu 1918, hàng trăm đoàn trưng thu về công tác vùng này. Đến đầu mùa xuân 1919, các cuộc
đụng độ không tổ chức bắt đầu nổ ra. Nhưng chẳng kéo dài được bao lâu.
Chỉ tiêu trưng thu lương thực năm 1918 là 18 triệu thùng lúa mì . Qua
năm 1920 chỉ tiêu tăng lên 27 triệu thùng. Vì phản đối nhà nước, không
chịu tăng gia canh tác mà lại bi trưng thu nhiều hơn năm trước, nên nông dân sẽ phải nhìn đói nếu nộp hết số lúa để dành.
Ngày 19 tháng 8 năm 1920 xảy ra nhiều cuộc xô xát ở Khitrovo giữa các toán trưng thu và nông dân. Chính quyền địa phương cũng thừa nhận hình thức làm việc bất nhẫn của các toan thu mua lương thực. Nhân viên của các toán này đã lạm dụng quyền hành khi thi hành công tác. Họ thu luôn cả các vật dung hằng ngày như gối, mền, nồi, chén, nĩa,.và nhất là làm ẩm ướt, úng lúa khi chuyên chở ra ga. Họ còn hà hiếp, đánh đập các người gìa cả chỉ vì những người này có con đào ngũ.
Từ Khitrovo, các cuộc
chống đối như lửa gặp rơm khô, lan tràn nhanh chóng. Cuối tháng 8 con
số người tham dự chống đối nhà nườc lên đến 40.000 . Phần đông là các lính đào ngũ có mang theo vũ khí trốn về miền quê. Chĩa ba , cào cỏ, là vũ khí của một số người khác. Họ tấn công và tàn sát, hoặc đuổi đại diện của chính
quyền. Nhiều nhất là ở ba vùng thuộc tỉnh Tambov. Lực lượng nông dân ở
Tambov được chỉ huy bởi một lãnh tụ thiện chiến, ông Alexandre
Stepanovitch Antonov.
Ông là nhà chính trị thuộc cánh Xã hội cách mạng thiên tả. Năm 1908 bị đày ra vùng Tây Bá Lợi Á cho đến cuộc cách mạng tháng 2 năm 1917. Ông đã từng ủng hộ Bônsêvich và đã từng được bổ nhiệm chỉ huy quân dân vùng Kirsonov, quê quán của ông. Tháng 8 năm 1918, ông ly khai Bônsêvich, trở thành lãnh tụ các quân nhân đào ngũ. Các đơn vị của ông đã chận đánh các toán trưng thu của nhà nước khi đi công tác thu mua trong các vùng
ông đang chiếm đóng. Khi cao trào nông dân chống đối lên cao, ông tổ
chức quân đội có kỹ luật và tổ chức toán tình báo xâm nhập vào các đơn vị của nhà nước. Ông tổ chức các toán
tuyên truyền, vận động nhân dân chống lại chế độ Bônsêvich. Ông đòi hỏi
cho nhân dân có quyền tự do mua bán, chấm dứt chính sách trưng thu, tự do bầu cử, bỏ chế độ ủy viên, và giải tán tổ chức công an Tcheka.
Song song với công tác bí mật của đảng xã hội cách mạng, ông còn thành lập tổ chức Liên đoàn công nhân lao động, một hệ thống ngầm của các lãnh
tụ nông dân vẫn còn bám trụ tại địa phương. Mặc dù có bất đồng quan
điểm trong nội bộ, đã dẫn đến một lãnh tụ ly khai, nhưng phong trào nông
dân ở Tambov cũng đã thành lập được một cơ cấu quân sự , một mạng lưới
tình báo, một cơ sở chính trị. Đó là một thành công to lớn mà từ trước
đến nay lực lương nông dân chưa bao giờ có ngoài phong trào của Makhno.
Tháng
10 năm 1920, chính quyền bônsêvich chỉ còn kiểm soát khu lỏm trong
thành phố cấp tỉnh hay cấp quận. Hàng ngàn lính đào ngũ gia nhập lực
lượng của Antonov. . Quân số lên đến 50.000.
Ngày
19 tháng 10 năm 1920, khi nhận ra tình hình quá nghiêm trọng, Lenine
thông báo cho Dzerjinski, chỉ huy trưởng ngành công an, phải mau chóng
tiêu diệt các phong trào chống đối nhà nước ở Tambov để làm gương.
Đầu tháng 11, lực lượng an ninh của chính
phủ chỉ có 5000 quân. Nhưng sau khi đánh bại Tướng Bạch quân Wrangel,
đơn vị an ninh lên đến 10.000, cùng với một vài đơn vị ít quân số của Hồng quân.
Qua năm 1921, các cuộc chống đối làn tràn qua các vùng khác. Vùng Volga, gồm các tỉnh Samara,Saratov, Tsaritsyne, Astrakhan và luôn cả vùng Tây Siberia. Tình hình cực kỳ nghiêm trọng. Nạn đói đang đe dọa tại các tỉnh, trước kia rất trù phú.
Viên chỉ huy tỉnh Samara báo tin cho trung ương biết về các cuộc bao bây các kho chứa lúa của các toán trưng thu chờ chuyển về thành phố và tiếp tế cho chiến trường. Lính giữ kho phải nổ súng vào nông dân đang bao vây họ.
Ở Saratov cũng đã xảy ra các vụ cướp lúa. Nông dân dùng súng của các lính đào ngũ lấy lại 3 triệu thùng lúa mì từ trong kho nhà nước. Nhiều toán Hồng quân giữ kho tan rã.
Khi
vùng trù phú Ukraine không còn gì để thu mua, Hồng quân kéo qua phía
Đông, đến vùng Tây Siberia. Tại đây họ ra chỉ tiêu trưng thu số lượng mễ
cốc cao bằng năm 1913. Nhưng vì vùng này đã bị chiến tranh tàn phá nên
không thể nào cung cấp đủ. Cũng như ở những nơi khác, nông dân Siberia nổi lên chống lại lịnh trưng thu.
Từ
tháng giêng đến tháng 3, chính phủ mất quyền kiểm soát. Đường xe lửa
xuyên Tây Bá Lợi Á bị cắt đứt. Ngày 21 tháng 3, một đơn vị quân nông dân
đánh chiếm thành phố Tobolsk . Đến ngày 30, Hồng quân chiếm lại.
Ở
thủ đô Mạc Tư Khoa , ở Petrogradt, vào đầu năm 1921, tình hình cũng
chẳng khá gì hơn. Nền kinh tế bị đứng lại. Xe lửa ngưng hoạt động vì
thiếu than. Các công
xưởng sản xuất ít lại vì nhiên liệu. Số lượng lương thực tiếp tế cho
thành phố giảm sút. Công nhân bỏ sở tìm việc làm thêm, tụ hợp tranh
luận, hay về miền quê mua thêm thực phẩm. Nhiều xưởng bỏ hoang, ai muốn
lấy gì thì lấy, chẳng còn người quan tâm.
Ngày
16 tháng giêng , công an báo cáo về trung ương : '' Bất mãn lan tràn
khắp nơi. Giới thợ thuyền và công nhân tiên đoán chính quyền sắp sụp đổ.
chẳng còn ai muốn làm việc. Ăn không đủ no. Đình công sẽ nổ ra rất lớn.
Quân nhân ở thủ đô không còn tin tưởng. Họ có thể phản chúng ta bất cứ
lúc nào. Phải áp dụng chính sách phòng loạn.''
Ngày
21, chính quyền ra lịnh giảm bớt 1/3 khẩu phần bánh mì ở thủ đô, và cho
thi hành ngay vào ngày hôm sau. Lịnh này không còn dựa vào khẩu hiệu ''
phản cách mạng'' để kêu gọi lòng ái quốc của tầng lớp dân lao động , vì tàn quân của Bạch nga đã hoàn toàn tan rã.
Quyết định giảm khẩu phần là hành động đổ dầu vào lửa.
Cuối tháng giêng cho đến đầu tháng 3, các cuộc đình công, các cuộc biểu tình tuần hành cứu đói, các cuộc chiếm đóng các công xưởng sản xuất diễn ra hằng ngày.
Ngày 22-24 tháng 2 tại Mạc Tư Khoa cũng như tại Petrgradt công an đặc biệt ra tay đàn áp các đoàn
biểu tình. Xô xát giữa đôi bên. Phía biểu tình tràn vào trại lính giải
thích để gây cảm thông. Nhiều vụ nổ súng. Hàng trăm người chết , bị thương và bị bắt giam .
Cuộc nổi loạn ở thàng phố Petrograd đạt đến cao điểm vào ngày 22 tháng 2 khi công nhân các hãng xưởng tổ chức bầu Hội Đồng Toàn Quyền của Công Nhân. Hội đồng thuộc khuynh hướng của đảng xã hội cách mạng và của người mensêvich. Trong bản tuyên ngôn thứ nhất, họ đòi hủy bỏ chế độ độc tài Bônsêvich. Họ đói bầu cử tự do các Sô
Viết. Họ đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, và đòi trả
tất cả tù chính trị. Để đạt mục đích trên, Hội Đồng kêu gọi công nhân
tổng đình công. Nhiều đơn vị quân đội ủng hộ, tán thành yêu sách và tham gia vào cuộc biểu tình.
Ngày
12 tháng 2, một toán công an nổ súng vào đám biểu tình, bắn chết 12
công nhân. Cùng trong ngày, hơn 1000 đảng viên đảng xã hội cách mạng bị bắt. Nhưng vụ đàn áp của công an không chận đứng sự phẫn nộ của quần
chúng. Hàng ngàn lính chính phủ rời bỏ hàng ngũ chạy sang phía công
nhân thợ thuyền. Màn kịch lật đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng cách nay 4 năm, tháng hai năm 1917, nay lại tái diễn.
Ngày 26 tháng 2, vào lúc 21 giờ, Zinoniev, lãnh tụ Bônsêvich khu vực Petrograd gởi điện văn cho Lenine, bày tỏ sự hoảng hốt của ông:
'' Công nhân thợ thuyền đã bắt liên lạc với lính trong trại. Chúng tôi
đang chợ đợi quân tiếp viện từ Novgorod. Nếu viện binh không đến kịp,
chúng tôi sẽ bị tràn ngập.''.
Qua ngày hôm sau, là ngày kinh hoàng của quân chính phủ. Các thủy thủ của chiến hạm đậu tại căn cứ hải quân Kronstadt nằm ngoài khơi Petrograd nổi loạn.
23
giờ đêm ngày 28 tháng 2, Zinoniev gởi thêm cho Lenine một công điện
nữa. Ông báo cáo với Lenine, hai chiến hạm Sebastopol và Petropavlovsk
gởi tối hậu thư buộc nhà nước cộng sản phải trả lời. Ông cho biết tình hình công nhân thợ thuyền rất bất ổn.
Các yêu sách của công nhân thợ thuyền chính là yêu sách của những người đã sống 3 năm trong chế độ độc tài cộng sản Bônsêvich. Ngoài các yêu sách về các quyền tự do, họ còn đòi bình đẳng trong khẩu phần lương thực. Họ còn đòi bầu ủy ban cứu xét các người bị bắt giam trong tù. Giải tỏa lịnh trưng dụng. Giải tán các đơn vị đặc quyền công an. Nông dân có quyền canh tác loại nào, nuôi gia súc nào họ thấy cần thiết.
Ở Kronstadt tình thế biến chuyển dồn dập.
Ngày
1 tháng 3, công nhân tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại. Có 15.000 người
tham dự, một phần tư là lính hải quân và dân vùng Kronstadt.
Chủ
tịch Ủy ban hành pháp trung ương bônsêvich, ông Mikhail Kalinine phải
đích thân đến để cứu vãn tình hình. Nhưng ông ta bị nhóm biểu tình đả
đảo và bị đuổi đi. Ngày hôm sau một nhóm Bônsêvich chừng 2000 của tỉnh Krostadt đứng ra thành lập một Ủy ban cách mạng lâm thời và tiếp xúc với đòan biểu tình.
Để
bẻ gãy phong trào chống đối, ngày 7 tháng 3, lực lượng công an được
lịnh hành động dứt điểm cuộc nổi loạn. Trong vòng 48 tiếng đồng hồ, công
an bắt giam trên hai ngàn công nhân, cảm tình viên, đảng viên đảng xã
hội cách mạng, và những người không đảng phái. Vì không có vũ khí chống cự nên họ bị bắt dễ dàng. Sau đó, chính quyền Bônsêvich và các toán công an tổ chức chu đáo tấn công căn cứ hải quân Krostadt. Tướng Toukhatchevki chỉ huy cuộc tấn công. Ông ta dùng khóa sinh của trường võ bị và các toán
công an trong chiến dịch dẹp loạn. Cuộc tấn công bắt đầu ngày 8 tháng
3. Sau 10 ngày giao tranh, căn cứ Kronstadt thất thủ. Trên 1000 người
chết cho cả hai bên. Cuộc đàn áp tiếp diễn với tất cả mức độ tàn ác của nó. Quân thua trận bị bắn tại chỗ.
Tài liệu mới đây cho biết từ tháng 4 cho đến tháng 6 có 2103 người bị án tử hình, 6459 tù chung thân khổ sai.
Trước
khi Kronstadt thất thủ, gần 8000 người trốn thoát theo con đường băng
tuyết thuộc vịnh Phần Lan. Họ tụ tập ở Terijoki, Ino và Vyborg. Khi nghe
lịnh ân xá, họ trở vê Nga. Nhưng họ bị lừa. Liền ngay khi trở về, họ bị
bắt giam và bị đày đi lao động khổ sai ở đảo Solovski và Kholmogory.
Trong số 5000 người bị đày đến nơi này, vào muà Xuân 1922 chỉ còn sống
sót có 500 người.
Trại khổ sai lao động Kholmogory nằm ven sông Dvina, là một trong những trại tàn bạo nhứt. Họ đưa tội nhân xuống thuyền, trói tay chân, và buộc cục đá vào cổ, rồi xô xuống sông.
Đây là sáng kiến của chỉ huy trưởng công an Mikhail Kedrov. Ông ta áp dụng phương thức giết người này từ năm 1920.
Một số lính nổi loạn ở Krostadt, các người Cosaque và nông dân vùng Tambov là nạn nhân của phương thức giết người dã man này trong năm 1922.
Sau khi dẹp xong Kronstadt, nhà nước Bônsêvich dồn lực lượng vào công tác lùng bắt các đầu não của các cuộc đình công. Mặc khác, họ đình chỉ các cuộc trưng thu và các cuộc đàn áp Tôn giáo.
Ngày 28 tháng 12, chỉ huy trưởng công an Dzerjinski ra lịnh cho các công an địa phương bắt giam tất cả các thành phần trí thức, nhóm Mensêvich, đảng cách mạng xã hội. Bắt giam cả các công chức làm việc trong các uỷ ban phụ trách nông nghiệp và bộ phận tiếp tế.
Nhóm
xã hội ôn hòa cũng bị truy nã cùng với đảng Mensêvich. Đảng này có ảnh
hưởng lớn trong quần chúng. Từ tháng 3 đến tháng 6, cơ cấu trung ương
đảng Mensêvich bị phá vỡ. Các uỷ viên bị bắt và đe dọa chuyển ra vùng Siberie. Các vị này tuyệt thực phản đối. Chính quyền tống 12 lãnh tụ đảng Mensêvich ra khỏi nước Nga. Tháng 2 năm 1922 họ tới thủ đô Bá Linh của Đức. Hai lãnh tụ nổi tiếng là ông Dan và Nikholaievski.
Mùa
Xuân 1921, chính quyền cộng sản bắt đầu cho sản xuất công nghiệp. Lúc
bấy giờ mức sản xuất giảm 1/10 so với năm 1913. Qua chính sách quân sự hóa lao động, nhà nước bắt công nhân gia tăng năng làm việc.
Trung
tâm hầm mỏ cung cấp 80% thép và than đá cho toàn nước Nga là vùng
Dombass. Tại vùng này , chính quyền áp dụng phương pháp độc tài để bắt
công nhân làm việc.
Cuối năm 1920, một trong những lãnh tụ thân tín với Troski, ông Piatakov được chỉ định làm Tổng cục trưởng phụ trách hầm mỏ. Trong một năm, ông đã cho công nhân sản xuất gấp 5 lần so với mức sản xuất bình thường. Bất cứ công nhân nào vắng mặt đều bị ghép vào tội phá
hoại, sẽ bị đưa đi lao động khổ sai hay bị xử bắn. Đả có 18 công nhân
bị bắn trong năm 1921. Ông bắt công nhân đi làm luôn ngày chủ nhật, họ
mới nhận đủ khẩu phần bánh mì hằng ngày. Ngoài ra họ chỉ nhận 1/3 hay
1/2 khẩu phần để sống qua ngày. Sau khi làm việc xong, họ phải tháo đôi
giày của họ để lại cho toán khác mang , tiếp tục làm việc.
Tổng
cục trưởng hầm mỏ thừa nhận có nhiều lý do công nhân bỏ việc. Ngoài
chuyện thiếu ăn trầm trọng, công nhân mắc bịnh vì thời tiết quá lạnh,
quần áo không đủ ấm. Nhất là bị ẩm ướt lâu ngày không có quần áo thay.
Để giảm bớt miệng ăn, ngày 24 tháng 6, chính quyền ra lịnh đuổi một số
người không có việc làm ra khỏi các trung tâm hầm mỏ. Bớt khẩu phần lương thực của thân nhân công nhân hầm mỏ. Tiêu chuẩn tiếp tế lương thực căn cứ vào năng xuất lao động. Đó là hình thức sơ khai của chính sách trả công theo sản phẩm.
Các biện pháp trên hoàn toàn đi ngược lại các tư
tưởng bình đẳng và bảo đảm tiếp tế lương thực mà nhiều công nhân hằng
mơ tưởng. Họ bị nhóm người Bônsêvich lợi dụng. Đó là những phương pháp
phản lại tầng lớp thợ thuyền, lại sẽ được áp dụng sau này vào năm 1930
dưới thời Staline. Nhà nước cộng sản bất chấp luật lao động. Họ chẳng
quan tâm đến nghiệp đoàn. Chính sách lao động tàn bạo này không phải chỉ là sản phẩm của cuộc nội chiến dưới thời Lenine, mà nó là một báo hiệu trước chính sách sau này của trung tâm quyền lực chủ nghĩa Staline.
Mùa Xuân 1921, chính phủ tiếp tục công tác bình định các vùng còn do nông dân chiếm đóng.
Ngày 27 tháng 4, cục chính trị uỷ nhiệm cho Toukhatchevski đàn áp các toán nông dân phiến loạn của Antonov trong vùng Tambov. Một lực lượng quân số chừng 100.000 trong đó đơn vị chính là các toán công an, có pháo binh và không quân yễm trợ, đã tiêu diệt lực lượng đối kháng của Antonov. Các biện
pháp thanh trừng, lưu đày, xử bắn, diễn ra thảm khốc tại vùng này sau
khi quân chính phủ đánh tan phiến loạn. Họ dùng cả hơi ngạt trong các làng xa xôi mà họ nghi ngờ đã che chở các quân lính của Antonov.
Ngày
11 tháng 6 năm 1921, Toukhatchevski và chủ tịch toàn quyền ủy ban hành
pháp, ông Ovseenko cùng ký bản nhật lịnh số 171, cho thi hành các biện pháp sau đây:
1./ Bắn tại chổ những ai không xưng tên khi bị xét hỏi.
2./ Các ủy ban chính trị quận hay xã có quyền bắt các con tin hay đem xử bắn những người có vũ khí mà không chịu đem giao cho nhà nước.
3./ Khi tìm thấy vũ khí ở nơi nào là những người ở đó sẽ bị hành quyết.
4./
Gia đình nào che chở lính phản loạn, sẽ bị bắt giam và đưa đi lao động
khổ sai, biệt xứ. Tài sản sẽ bị tịch thu. Người lớn tuổI nhất trong nhà
sẽ bị hành quyết không cần xét xử.
5./ Gia đình của các phiến loạn cũng bị ghép vào các phần tử phiến loạn. Nhà cửa bị tịch thu. Chủ gia bị xử bắn.
6./ Nếu gia đình quân nhân phiến loạn bỏ trốn, tất cả tài sản sẽ chia cho nông dân trung thành với chế độ.
7./ Nhựt lịnh này phải được thi hành triệt để.
Ngày 12 tháng 6, Tướng Toukhatchevski ra lịnh bắn đại bác có đầu đạn chứa hơi ngạt vào các vị trí của quân nông dân nổi loạn. Tàn quân phải di chuyển qua các vùng khác.
Một số lãnh tụ phản đối phương thức dùng hơi ngạt tấn cộng loạn quân.
Tháng
7 năm 1921, công an cho thiết lập bảy trung tâm tập trung, chứa 50.000
bị bắt làm con tin mà phần đông là phụ nữ, thiếu nhi, và người gìa. Họ
là thân nhân của các nông
dân, quân nhân đào ngũ. Tính trạng sức khỏe ở vào mức độ tồi tệ nhất.
Bịnh tiêu chảy, chí rận, không đủ quần áo, thiếu ăn, diễn ra hằng ngày.
Con số tử vong hàng tháng lên đến 15%.
Ngày
1 tháng 9 năm 1921, từ quân số 40.000 trong cuộc nổi loạn tháng 2 , lưc
lượng nông dân nay chỉ còn lối 1000 người có vũ khí. Đến tháng 11, loạn
nông dân gần như tan rã. Một số bị lưu đày số khác bị án tử hình. Cuộc bình định của vùng Tambov được coi như hoàn tất.
Nhưng tại các vùng quê ở Ukraine, miền Tây Siberiee, các tỉnh ven sông Volga à vùng Caucase vẫn còn các cuộc bạo động, ít ra cũng kéo dài đến cuối tháng 6 năm 1922. Mặc dù chính sách trưng thu đã hủy bỏ nhưng các hình thức sách nhiễu dân chúng vẫn còn tái diễn tại các vùng vừa mới bình định. Cho nên tình hình ở nông thôn vẫn còn ngột ngạt. Nhân dân và chính quyền không tin tưởng lẫn nhau.
Sau đây là bản phúc trình đề ngày 11 tháng 7 năm 1921 của chủ tịch đoàn của ủy ban toàn quyền gồm 5 thành viên, chỉ đạo các biện pháp áp dụng chống lại các tên phiến loạn ở Tambov.
'' Các cuộc càn quét ở xã Koudrioukovskaia đã bắt đầu từ ngày 27 tháng 7 tại làng Ossinovski. Đó là nơi trú ẩn của loạn quân. Dân làng tỏ ra thờ ơ với các toán công an. Họ không chỉ điểm các nơi ẩn trú của lính nông dân. Họ trả lời không biết.
Chúng
ta bắt giữ 40 người làm con tin. Thông báo cho họ biết làng bị bao vây,
trong vòng 2 tiếng đồng hồ phải mang vũ khí ra nạp và phải tố cáo các quân phiến loạn. Dân làng hội hộp nhưng không có thái độ dứt khoát hợp tác với các toán tảo thanh càn quét. Có lẻ họ cho lịnh xử bắn của chúng
ta chỉ là để hâm dọa. Nhưng khi 2 tiếng đồng hồ trôi qua, trước đám
đông dân chúng tụ tập, chúng ta đã bắn tại chổ 21 con tin. Cuộc hành
quyết diễn ra từng người có sự hiện diện của các thành viên của ủy ban toàn quyền, những người cộng sản, .. để gây ảnh hưởng trong quần chúng.
Đối
với làng Kareievska, một làng có nhiều tàn quân trú ẩn, với địa hình
hiểm trở, chúng ta phá hủy toàn diện và xóa tên luôn trên bản đồ. Dân
làng phải bị đưa đi lưu đày. Những gia đình có con phục vụ cho Hồng quân
thì được đưa qua các làng lớn hay vào trú ngụ trong các căn nhà tịch thu của các gia đình loạn quân.
Ngày 3 tháng 7 năm 1921, chúng tôi hành quân vào làng Bogoslovka. Chưa có nông dân của làng
nào mà cứng đầu và có tổ chức như vậy. Khi chúng tôi đặc câu hỏi, từ
trẻ em tới người già đều ngạc nhiên trả lời : - Ở làng chúng tôi không
có tên ''ăn cướp'' nào cả. Các ông
đừng có nghĩ như vậy! Thỉnh thoảng chúng tôi có thấy họ di chuyển qua
làng chúng tôi, nhưng chúng tôi không biết không biết có phải họ là
những tên'' ăn cướp'' không ? Chúng tôi sống yên ổn. Chúng tôi không làm
hại ai cả. Chúng tôi không biết gì cả...
Ủy ban đã thi hành các biện
pháp như đã xảy ra ở làng Ossinovski. Chúng tôi bắt giử 58 con tin. Qua
ngày 4 tháng 7 chúng tôi xử bắn trước mắt dân làng 21 con tin. Ngày hôm
sau 15. Chúng tôi đã loại 60 gia đình của quân phá hoại tổng số lên đến 200 người. Cuối cùng chúng tôi đạt được mục đích. Dân làng chịu hợp tác truy lùng các tàn quân nông dân và chỉ điểm các hầm vũ khí.
Các cuộc tảo thanh càn quét kết thúc vào ngày 6 tháng 7 năm 1921. Kết quả rất tốt đẹp. Tiếng vang ,tràn đến các làng bên cạnh. Những người lính nông dân trốn trong xã Volots cạnh đó đã ra đầu hàng.
Ký tên : Chủ tịch ủy ban toàn quyền''
Siberie là vùng cung cấp một số lớn nông phẩm vào lúc nạn đói đe doạ trầm trọng nhất ở các tỉnh ven sông Volga.
Để xúc tiến việc thu thuế vùng Siberie, Dzerjinski được biệt phái đến vùng này vào tháng 12 năm 1921 với tư cách
là toàn quyền đặc biệt. Ông thiết lập một tòa án lưu động. Tòa án di
chuyển từ làng này qua làng kia và xử án tù hay đưa đi lao động khổ sai
đối với những ai không chịu đóng thuế. Các toán trưng thu, các toán thu thuế cùng với tòa án lưu động đã gây ra biết bao tội ác.
Viên chủ tịch tòa án tối cao Nikolai Krylenko đã ra lịnh điều tra các hành động sách nhiễu của các tổ chức dưới quyền của viên chỉ huy ngàng công an, tướng Dzerjinski.
Ngày 14 tháng 2 năm 1922, sau khi thanh tra vùng Omsk, ông viết phúc trình: '' Hành động lạm quyền của các toán trưng thu không thể tưởng tượng được. Họ bắt nông dân không đóng thuế nhốt vào trong các nhà kho không có lò sưởi. Họ tra đánh nông dân bằng các roi da và hâm dọa xử bắn. Nông dân đóng thuế không đủ tiêu chuẩn thì bị trói và bắt chạy khỏa thân qua các đường phố, rồi sau đó bị nhốt trong các nhà kho kông lò sưởi. Phụ nữ cũng bị bắt khỏa thân, ngồi trong các hố băng tuyết giá lạnh. Tình hình trong các làng rất là căng thẳng.
Một năm rưỡi sau, khi cho thi hành chính sách kinh tế chính trị, cơ quan công an chính trị, được coi như là nhân chứng đã làm một tờ phúc trình như sau :
'' Trong tỉnh Pskov, các số thuế được quy định trên 2/ 3 các vụ mùa thu hoạch. Bốn xã võ trang nổi dậy chống lại chính sách thuế cao.
Tỉnh Novgorod vì thất mùa nên thuế giảm xuống 1/ 4 . Hai tỉnh Riazan và Tver bị đánh thuế 100%. Dân của hai tỉnh không còn lương thực. Họ phải đào rễ cây hay cắt cỏ để ăn, sống qua ngày. Nhưng ở đây chúng tôi không thấy các cảnh
tự sát tập thể như ở Kiev khi nông dân không thể đóng thuế mà cũng
chẳng có vũ khí để chống lại. Gần hơn một năm nay, nạn đói đe dọa liên
tục, càng làm cho người dân bi quan hơn.
Qua
đến mùa Thu 1922, tình hình khả quan hơn. Sau hai năm sống trong cảnh
đói kém, vụ mùa năm nay họ được phép giữ nông phẩm để ăn qua mùa Đông,
với điều kiện vụ mùa Xuân phải đóng thuế trả từng phần. Năm đó số lượng
ngũ cốc thu hoạch giảm rất nhiều so với 10 năm trước.
Hạn
hán không phải là lý do duy nhất dẫn đến sự giảm sút trong thu hoạch.
Sự thiếu tổ chức, trình độ hiểu biết về kỹ thuật nông nghiệp quá thấp,
dụng thu quá thô sơ, lỗi thời là những nguyên nhân . Ngoài ra vấn đề
chiến tranh, sự chống đối của nông dân trong chính sách nông nghiệp cũng là lý do làm chậm trễ các quá trình sản xuất.''
Trong lời khai, họ có nói đến cái tại họa nhưng nêu đích danh. Đó là yếu tố chính của các vụ mất mùa: Chính sách trưng dụng.
Các quan đầu tỉnh của các tỉnh bị nạn đói đe dọa nhiều nhất đã cùng nhau họp tại Mạc Tư Khoa trong tháng 6 năm 1921 đã quy trách nhiệm vào chính phủ và nhất là các toán trưng dụng. Chính các toán
này vì có quá nhiều quyền hành, đã lạm dụng, thi hành quá gắt gao cho
nên làm cho nạn đói trầm trọng hơn. Ông Vaviline, đại diện cho tỉnh
Samara giải thích rằng các ủy ban tỉnh phụ trách
tiếp tế từ lúc khởI đầu trưng thu ước lượng con số quá cao.Họ thổi
phồng con số trưng thu. Năm 1920, mặc dù mùa màn thất thoát, họ củng
trưng thu hàng triệu thùng lúa mì. Tất cả lúa dự trữ, lúa giống điều bị
tịch thu. Qua tháng giêng năm 1921, dân không còn bánh mì để ăn. Qua
tháng hai, con số người chết vì đói gia tăng. Vài tháng sau, trong tỉnh
Samara không còn lực lượng chống đối nào nữa cả. Dân chỉ đến bao vây ôn
hòa các văn phòng hành chánh Xô Viết hay văn phòng đảng cộng sản. Họ chờ đợi các đoàn tiếp tế lương thực trong nhiều ngày.
Chúng tôi không biết cách nào giải tán. Mỗi ngày, họ lăng ra chết tại trụ sở, chết như con ruồi. Có đến chín trăm ngàn người chết đói trong tỉnh.
Đọc các bản báo cáo của công an địa phương, của cục
tình báo quân đội, người ta biết được vụ thiếu lương thực xảy ra từ năm
1919. Từ đó, tình trạng thiếu lương thực mỗi ngày một tăng. Trong các bản phúc trình nội bộ, các ủy ban nông nghiệp và tiếp tế đều có kê khai các vùng đang bị đói và các vùng sẽ bị đói. Vụ đói ở năm 1921 là do các cuộc trưng thu cuồng nhiệt của năm 1920. Cơ quan công an chính trị suy luận rằng chính nhờ nạn đói mới giảm được sự chống đối của quần chúng. Mặc dù chính phủ biết rằng chính cưỡng bách thu mua lương thực sẽ dẫn đến hậu quả không lường được, chính phủ không dùng biện pháp nào để ngăn chận nạn đói.
Ngày 30 tháng 7 Lenine và Molotov gởi điện thư đến các bí thư tỉnh,
vùng, ra lịnh họ gia tăng bộ phận thu mua và mở chiến dịch giải thích
tầm mức quan trọng chính trị và kinh tế về việc đóng thuế để duy trì sức
mạnh của đảng và nhà nước.
Đứng trước chính sách thi hành triệt để tiêu diệt giai cấp nông dân, tháng 6 năm 1921, các nhà trí thức, chuyên viên nông nghiệp, kinh tế, giáo sư đại học đã đứng lên thành lập Ủy ban Chống Đói trong phạm vi của Hội Canh Nông Mạc Tư khoa. Các ủy viên đầu tiên là hai kinh tế gia Krondatiev và Prokopovitch, ông Ekaterina Kouskova, cựu Bộ Trưởng tiếp tế của Chính Phủ lâm thời, một nhà văn, một ký giả và một số chuyên viên nông nghiệp. Nhờ sự giới thiệu của Gorki, ủy ban được ông Levkamenev tiếp kiến vào trung tuần tháng 7. Lenine từ chối tiếp kiến ủy ban.
Sau cùng ủy ban thuyết phục được một số nhân vật lãnh đạo đảng về một số vấn đề. Các ủy
viên trong ủy ban chống đói là những người rất có uy tín với Tây phương
qua cuộc cứu đói năm 1891. Nay họ đứng ra vận động sự giúp đở của quốc
tế. Ủy ban đòi một quy chế cho họ. Ngày 21 tháng 7 năm 1921 chính quyền
bônsêvich cho hợp pháp hoá uỷ ban cứu đói dưới cái tên '' Ủy ban liên
Nga cứu đói''. Ủy ban này được phép mang dấu Hồng Thập Tự, và được toàn
quyền tìm kiếm lương thực, thuốc men trong hay ngoài lãnh thổ Nga. Họ
được phép xử dụng các phương tiện chuyển vận đặc biệt để mang thực phẩm đến phân phối cho các nạn nhân của nạn đói. Họ tổ chức các quán cơm miễn phí. Họ có quyền liên lạc với các cơ
quan ngoại quốc. Chưa bao giờ trong lịch sử nước Nga có được một tổ
chức với nhiều quyền như vậy. Sự nhượng bộ này là do sự khủng hoảng kinh
tế và xã hội trong khi nước Nga đang cho thi hành tân chính sách chính tri kinh tế. Chính quyền còn đang lo sợ .
Ủy Ban liên Nga liền bắt liên lạc với Giáo chủ Tikhon của giáo hội Chính Thống. Vị Giáo chủ cùng với các giáo sĩ thành lập ủy ban cứu trợ.
Ngày 7 tháng 7 năm 1921, Giáo chủ gởi cho các tu sĩ của các nhà thờ ở Nga một bức thơ. '' Xác của những người chết đói là món ăn ngon nhất của những người sắp chết đói. Mà món ăn này cũng khó mà tìm cho ra. Cảnh người ăn thịt người đã diễn ra. Hãy ra tay cứu giúp các người anh em của chúng ta. Với sự chấp thuận của giáo dân, các Người có thể xử dụng các kho tàng của giáo đường để cứu các nạn nhân đang chết đói. Các vật dụng không có giá trị tâm linh như vàng vòng nữ trang, các tượng thánh,v,v..''
Sau khi được Giáo hộ tiếp tay cứu trợ, Ủy ban liên Nga liên lạc với các cơ
quan từ thiện quốc tế, như Hội Hồng Thập Tự , Hội Tân Giáo Ước [ Quaker
] , Hội người Mỹ cứu trợ [ ARA ]. Tất cả đều phản ứng tích cực. Nhưng
than ôi, Ủy Ban Liên Nga sống không quá 5 tuần lễ. Đến ngày 27 tháng 8
năm 1921, sáu ngày sau khi ký hiệp đồng với đại diện Hội cứu trợ Mỹ ông
Herbert Hoover, chính quyền cộng sản giải tán Ủy ban. Đối với Lenine,
một khi các con tàu Mỹ chở lương thực rời bến là nhiệm vụ của Ủy ban liên Nga hoàn tất. Phần tiếp nhận là phần của người chính quyền , ông Kouskov ký tên nhận lãnh. Đủ rồi.
Chủ tịch ủy ban Liên Nga , ông Prokopovitch bị bắt giam ba tháng vì tội '' phiến loạn''. Một số uỷ viên của ủy ban bị tống ra nước ngoài. Một số khác bị đày đi sinh sống ở các vùng khác nhau,
nơi đó không có hệ thống vận chuyển công công. Họ bi quản thúc và bị
theo dõi hằng ngày. Chính quyền giải thích với dân chúng bằng cách công bố rằng: vì Ủy ban không chịu làm việc nên phải giải tán. Chính quyền ra lịnh cho báo chí mạ nhục. Họ gọi các ủy viên là các cậu ấm , các tên lính của Nga Hoàng, muốn đi rong ra nước ngoài, ít chịu đi công tác ở các tỉnh. Qua báo chí, Chính quyền hạ nhục các nhà trí thức, các nhà từ thiện ít nhất hai lần trong một tháng.
Tuân hành theo chỉ thị của nhà nước, báo chí phát động chiến dịch tố khổ một danh sách
60 nhà trí thức tên tuổi trong Ủy ban Liên Nga cứu đói. Báo Sự Thật số
ra ngày 31 tháng 8 năm 1921 chạy tin '' Người ta không thể đùa bỡn với
thần đói'', '' Người ta đầu cơ trên sự đói kém'', hay '' Ủy ban cứu
trợ,.. .. bọn phản cách mạng''.
Khi
có người nói rằng Ủy ban liên Nga đâu có làm gì phạm pháp, thì
Unschlicht là một phụ tá chỉ huy ngành công an trả lời:'' Phải rồi, họ
chẳng làm gì phạm pháp. Nhưng các việc làm của họ thu hút quan tâm của xã
hội. Sự việc này chúng tôi không chấp nhận. Như ông biết, khi ta đặt
một nhánh cây vào ly nước, nhánh cây sẽ mọc rễ và nẫy mầm. Khi Ủy Ban
liên Nga hoạt động, trong cộng đồng xã hội phát sinh ra nhiều chi nhánh
khác. Chúng tôi phải rút nhánh cây ra và đập nát nó..''.
Thay vào vai trò của Ủy ban liên Nga, nhà nước cộng sản dựng ra Ủy ban trung ương cứu đói. Đó là một cơ chế nặng nề, quan liêu, gồm các công nhiên viên nhà nước, các uỷ viên nhân dân không có khả năng, không có uy tín, thối nát và chỉ biết ăn hối lộ.
Trong lúc có đến 30 triệu ngưới chết đói cần cứu giúp, Ủy ban chỉ có thể trợ cứu bất thường cho chừng 3 triệu, 1/3 trên tổng số nạn nhân. Các cơ
quan từ thiện quốc tế, như Hội Hồng Thập Tự, Hội Quaker, Hội ARA, phụ
lo cho chừng 10 triệu nạn nhân. Có ít nhất 1 triệu người chết đói trong
những năm 1921-1922. Trong khi đó nạn đói lớn của Nga
vào năm 1891 chỉ có 400 ngàn người chết ở những vùng ven sông Volga và
vùng Kazakhstan. Lúc đó chính quyền và toàn dân cùng nhau tham gia vào
công tác cứu
trợ. Chỉ trừ ông luật sư trẻ Vladimir Lenine, đầu năm 1890 cư ngụ tại
Samara là một người trí thức trong vùng đang bị nạn đói đe dọa trong năm
1891, không những không tham gia vào chiến dịch cứu đói, ông còn lên
tiếng chống lại chính sách cứu trợ của chính quyền. Một người bạn của Lenine nhắt lại quan điểm của Lênine: '' Lenine nói trước quần chúng rằng nạn đói là cơ hội tốt cho sự ra đời lớp giai cấp vô sản. các người vô sản sẽ là những '' đạo tì'' chôn cất giai cấp trưởng gỉa. Khi nạn đói hủy diệt hết các nông
dân lạc hậu, chúng ta sẽ tiến dần đến mục tiêu. Đó là tiến đến Xã hội
chủ nghĩa, một giai đoạn đến sau chủ nghĩa Tư Bản. Nạn đói sẽ phá hủy
niềm tin của dân chúng vào Nga Hoàng và lòng tin nơi Thượng Đế''.
Ba mươi năm sau, vị luật sư trở thành chủ tịch chính phủ Bônsêvich cũng lập lại mưu đồ của ông.
Ông cho rằng nạn đói sẽ là phương tiện đánh chết kẻ thù. Kẻ thù lúc này
là Giáo hội Chính Thống. Khi đàm thoại với ông Leonid Krassine về kế
hoạch Điện Khí Hóa cho nước Nga, Ông nói, điện khí sẽ thay Thượng đế. Hãy để nông dân cầu nguyện điện khí. Như vậy nông dân sẽ tin phục vào quyền lực nhà nước hơn là tin vào thượng Đế.
Từ khi thành lập Tân chính quyền, sự ban giao giữa nhà nước và Giáo hội càng ngày càng tồi tệ hơn.
Ngày 5 tháng 2 năm 1918, chính quyền ra nghị quyết tách rời Giáo Hội ra khỏi nhà nước, ra khỏi nhà trường và quốc hữu hóa tất cả tài sản của Giáo Hội. Dưới thời Nga Hoàng, Chính Thống Giáo là quốc giáo. Để chống lại hành động vi phạm vào vai trò truyền thống của Giáo hội, Giáo chủ Tikhon đã gởi bốn bức thư đến giáo dân . Người Bônsêvich liên tục đả phá giao hội bằng cách bôi xấu tên thánh của các vị thánh. Họ tổ chức các cuộc
'' hội hoa phản tôn giáo'' trong những ngày Thánh Lễ. Họ đòi biến Tu
viện lớn Trinite Saint Serge gần thủ đô, thành '' viện bảo tàng vô
thần''. Các vị giám mục chống lại lời đề nghị của Bônsêvich đều bị bắt giam. Lenine lấy cớ nạn đói để tiêu diệt Tôn giáo.
Ngày 26 tháng 2 năm 1922, trên các báo của nhà nước đăng một nghị định của chính phủ cho tịch thu lập tức tất cả các quý vật bằng vàng, bạc hay đá quý của các Thánh đường, Tu viện nếu những vật dụng này không dùng vào trong các cuộc hành lễ. Tất cả quý vật phải chuyển giao cho bộ Tài Chánh. Bộ này có quyền xử dụng trong công tác cứu trợ nạn đói.
Các biện pháp tiến hành tịch thu tài sản Giáo hội bắt đầu vào tháng 3 và tiếp diễn sau đó với nhiều vụ đụng độ giữa các toán trông thu và các tín
đồ trung tín. Vụ chống đối lớn xảy ra tại Chouia vào ngày 15 tháng 3
năm 1922. Đây là một thành phố nhỏ có nhiều nhà máy , nằm trong tỉnh
Ivanovo. Quân đội nổ súng vào đám đông tín đồ bắn chết 10 người. Lãy cớ các cuộc chống đối của tín đồ, Lênine ra tay tiêu diệt tôn giáo.
Trong một văn thư gởi cho các thành viên của Bộ chính trị đề ngày 19 tháng 3 năm 1922, với lời lẽ vô liêm sĩ, Lenine giải thích : '' Nạn đói là công cụ để đánh chết đầu não của kẻ thù. Về biến cố ở Chouia, chúng ta phải quyết định ngay bây giờ vì nó nằm trong chính sách đãu tranh toàn diện của chúng ta. Cứ theo như các tin trên báo chí, chúng ta cần phải xét đến thái độ chống chính sách tịch thu tài sản của các tín đồ và nhất là lập trường của Giáo chủ Tikhon. Hiện gìơ Giáo Hội của ''một trăm tên áo đen'' [ 100 Linh Mục ] đang tổ chức chống lại nhà nước. Tôi nghĩ rằng kẻ thù của chúng ta đã tính sai. Lúc này là lúc thuận lợi cho chúng ta hơn là cho bọn chúng. Sự thành công của chúng
ta có thể lên đến 99%. Nó cho phép chúng ta đánh gục bọn đầu não và
chúng ta cũng cố địa vị cần thiết cho lúc này và cho vài thập niên về
sau. Trong cái khung cảnh người ăn thịt người, người chết hàng trăm,
hàng ngàn nằm ngỗn ngang, chúng ta phải thu hết nghị lực, phải hết sức
dữ tợn, hết sức tàn nhẫn mới tịch thu tài sản của Giáo
hội được. Chỉ có lúc này là lúc mà nông dân sẽ bỏ bọn Giáo sĩ, bọn tiểu
tư sản, chạy về phía chúng ta. Chúng ta có thể cưỡng đoạt kho tàng trị
giá cả trăm triệu Rúp. Nếu không có tài sản này, chúng ta không thể nào
thực hiện được công trình xây dựng kinh tế, hành chánh và phòng thủ.
Chúng đã sẽ không thể đứng vững được. Chiến dịch tịch thu phải được thi
hành ngay lúc này. Chính vì tình hình đói kém, dân chúng chẳng quan tâm
đến tình cảm hay xúc động. Vì vậy tôi đi kến kết luận rõ ràng là phải
đập tan bọn Giáo sĩ, bọn ''trăm người áo đen'' quyết liệt và tàn nhẫn.
Tôi đề nghị chương trình hành động của chúng ta như sau:
Giao cho đảng viên Kalinine giải quyết cấp bách mọi vấn đề. Không cho Trotski xuất hiện trước công chúng hay trên báo chí. Gởi ngay một ủy viên thông minh và cương quyết của uỷ ban hành pháp trung ương đến Chouia. Không ra văn thư mà bằng khẩu lịnh cho bắt giam giáo sĩ càng nhiều càng tốt. Phải bắt ít nhất vài chục tiểu tư sản và thương gia và tố cáo họ đã tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các cuộc chống đối chính sách
trưng thu tài sản giáo hội. sau khi thi hành nhiệm vụ, nhân viên thi
hành phải báo cáo cho Bộ chính trị hay ít nhất cũng phải báo cáo cho hai
thành viên của bộ. Căn cứ vào bản báo cáo, Bộ chính trị sẽ ra khẩu lịnh cho các cơ quan hữu trách Tư Pháp thi hành bản án các phần tử phản loạn trong biến cố ở Chouia. Xử bắn một số lớn của '' 100 tên áo đen'' cùng với các giáo dân ở thủ đô Mạc Tư khoa hay các trung tâm giáo dân khác.
Chúng ta phải cho chúng một bài học ngay bây giờ để cho chúng không còn
dám nghĩ đến một hình thức chống cự nào nữa trong vài chục năm sau .''
Căn cứ trên các bản phúc trình hằng tuần của cơ quan công an chính trị, cao điểm của chiến
dịch tịch thu tài sản Giáo hội xảy ra hồi tháng 3, tháng 4 và tháng 5
năm 1922. Trong số 1414 vụ chống cự, có 2691 Linh mục, 1962 nữ tu sĩ và
3447 nam tu sĩ ở các dòng tu kín bị hạt sát. Nhà nước mở các vụ xử án tu sĩ công khai tại Mạc Tư Khoa, Ivanovo, Chouia, Smolenk, Petrograd. Theo chỉ thị của Lenine, Bộ chính trị đưa ra một số biện pháp. Từ ngày 15 đến ngày 20 bắt giam vị Giáo chủ và các Giám mục trong hội đồng Giáo hội. Trong vòng một tuần lễ đưa ra tòa án những người theo đạo Chính Thống tại Chouia. Xử bắn các người cầm đầu cuộc nổi loạn. Trong một báo cáo gởi về Bộ chính trị, Dzerjinski cho biết Giáo chủ và phe của ông ta có hành động rõ ràng chống lại lịnh tịch thu tài sản của giáo hội. Nhà nước có đủ chứng cớ để bắt giam Giáo chủ Tikhou và những thành viên phản động nhết của giáo khu. Việc bắt giam là một hành động hợp thời và hợp pháp. Linh mục nào chống lại lịnh tịch thu là kẻ thù của nhân dân.
Ở Petrograd, có 76 giáo sĩ bị bắt giam trong các trại
lao động khổ sai, 4 vị bị hành quyết trong đó có vị Tổng giám mục giáo
phận Petrograd tên là Benjamin được bầu vào năm 1917. Vị Tổng Giám mục
này rất gần dân. Ông kêu gọi Giáo Hội độc lập với nhà cầm quyền ở
Petrograd.
Ở Mạc Tư Khoa, có 140
Linh mục và giáo dân bị bắt lưu đày lao động khổ sai. Sau đó họ bị kết
án tử hình. Giáo chủ Tikhon bị nhốt tại tu viện Donskoi ở Mạc Tư Khoa.
Vài
tuần lễ sau khi diễn đi diễn lại trò xử án, ngày 28 tháng 2, báo chí
đăng tin xử lại vụ án Mạc Tư Khoa. 34 thành viên đảng xã hội cách mạng bị kết tội '' phản cách
mạng và chống lại chính quyền Bônsêvich, là ban chỉ đạo cuộc nổi loạn ở
Tambov'' , trong đó gồm luôn vụ mưu sát Lenine xảy ra ngày 31 tháng 7
năm 1918.
Lenine
cho áp dụng hình thức bị cáo hỗn hợp, như trong năm 1930 sau này
Staline áp dụng. Nó gồm cả thành phần chính trị, mười hai thành viên của Ủy ban trung ương đảng xã hội cách mạng do Abrmham Gots cầm đầu và các người khiêu khích do chính quyền gài vô. Họ tố cáo các người cùng bị can và khai những lời tự thú của mình. Theo nhận xét của bà Helene Carrere d'Encause thuộc Hàn lâm viện của Pháp, là để thử nghiệm phương pháp tố cáo cho ăn khớp với nhau, có xuất xứ là một sợ thật. Cuộc chống đối của lực lượng xã hội cách
mạng chống lại chính quyền bônsêvich từ năm 1918 sẽ đưa đến một nguyên
tắc là mọi sự chống đối cuối cùng là đưa đến việc cộng tác với giới tư sản quốc tế.
Chính quyền dàn cảnh các cuộc biểu tình của dân chúng ở bên ngoài các tòa án, đòi xử tử hình các tên khủng bố.
Ngày 7 tháng 8, có 10 đảng viên đảng xã hội cách mạng bị kết án tử hình. Nhờ các cuộc vận động quốc tế của một
số nhà trí thức Nga trốn ra nước ngoài, cùng với tình hình căng thẳng ở
nông thôn, nhà nước cộng sản tạm thời ngưng thi hành các bản án với điều kiện đảng xã hội ngưng các hoạt động chống lại nhà nước.
Tháng giêng năm 1924, các bản án Tử hình giảm xuống án 5 năm lao động khổ sai. Nhưng các tù
nhân sau 5 năm không được thả ra . Họ bị xử tử vào năm 1930 khi mà dư
luận thế giới quên đi và tình hình trong nước không còn là mối lo cho
chính quyền nữa.
Kể từ 1 tháng 6 năm 1922, nhà nước cho ban hành bộ hình luật mới. Lenine theo dõi sự soạn thảo các điều khoản của bộ luật. Bộ hình luật mới cho phép dùng bạo lực chống lại kẻ thù chính trị. ''Bằng chứng'' của các vụ thủ tiêu nhanh chóng không còn giá trị trong thời chiến. Trong các bản dự thảo theo đề nghị của ông, đề ngày 15 tháng 3 năm 1922, Lenine bày tỏ ý kiến với viên chủ tịch nhân dân phụ trách Tư pháp Kourskii :'' Theo thiển ý của tôi, phải nới rộng tất tầm xét xử tội tử hình cho tất cả các hoạt động của bọn Mensêvich, bọn cách mạng xã hội. Ta hãy tạo ra một hình phạt mới. Đó là hình phạt tống ra các vùng xa xôi hay ra nước ngoài. Phải tu chính một số hình thức kết tội các hoạt động có liên quan đến bọn tư sản quốc tế.''
Hai ngày sau, Lenine chỉ thị thêm cho Kourskii.
''
Đồng chí, tôi muốn thêm vào bản dự thảo một khoản bổ túc cho bản tân
hình luật. Việc cần thiết là phải rõ ràng. Phải đặt ra một nguyên tắc
cho đúng với đường lối chính trị, chớ không phải chỉ trong phạm vi hẹp
hòi của tư pháp. Các nguyên tắc này sẽ là nguyên do thúc đẫy các cuộc khủng bố. Thiết lập các nguyên tắc rõ ràng, không gian lận, không che giấu. Các điều khoản của hình luật càng cởi mở càng tốt. Chỉ có ý thức cách mạng hợp pháp mới tạo ra các điều kiện áp dụng cho các việc làm.''
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 6
TỪ CUỘC HƯUCHIẾN ĐẾN ĐOẠN QUANH LỚN
Thời-gian
5 năm, từ đầu năm 1923 cho đến cuối năm 1927, cuộc đối đầu giửa
chính-quyền Bôn-sê-vít và đảng toàn xã-hội đả tạm ngưng.
Việc tranh-giành địa vị để thừa kế Lénine, qua đời ngày 24 tháng giêng
năm 1924, sau một thời-gian bị tê-liệt vì bệnh đứt gân máu ở nảo vào
tháng 3 năm 1923, và trong khoảng tám tháng ông nằm liệt nên ông đả
không tham-gia dược vào một hoạt-động chính-trị gì cả. Cơn bệnh của Lénine đưa mọi hướng hoạt-động của các lãnh-tụ
Bôn-sê-vít tấp trung vào việc tìm coi ai là người thứa kế để lãnh-đạo
Đảng và nhà nước. Nhờ vậy, mà trong vòng 5 năm, xã-hội Nga có thời-gian
để '' băng bó '' lại các đổ vở.
Trong khoảng thời-gian 5 năm này, Xã-hội của người nông dân họ bao gồm gần 85% toàn thể các dân-số của nước Nga đả cố lập lại các cuộc trao đổi để thương-lượng các sản-phẫm của sức lao-động của chính họ và được sống theo sở nguyện, như theo định-thức đẽp-đẻ của nhà sử-gia lớn chuyên nghiên-cứu về thân phận của nông-dân Nga. Định-thức mà ông gọi là : '' Cuộc chuyễn vận trong ảo-tưởng của nông-dân ''. Các người Bôn-sê-vít đả đặt tên '' ảo-tưởng'' này là Eserovschina, nếu ta chuyển-nghĩa thì gần như là : ( Tâm trạng xã-hội cách-mạng ), được căn cứ vào 4 nguyên-tắc và củng là căn-bản của mọi chương-trình hoạt-động của giới nông-dân từ nhiều thập niên đả qua : Chấm dứt quyền sở-hữu của các vị điền-chủ và phân chia ruộng đất cho các nông dân tùy theo số nhơn khẩu của mỗi gia-đình, quyền được tự do định-đoạt cách dùng các sản-phẫm do các nông-dân tạo ra với sức lao-động của họ, tự do mua bán và ở các vùng nông-thôn, họ '' tự-quản '' . Nông dân thay mặt cho các cộng-đồng làng xã với sự hạn chế hiện diện vào việc can-thiệp nôi bộ tại các làng xã của nhà nước Bôn-sê-vít. Chỉ lập một ban Sô-Viết cho vài làng và một tổ của Đảng Cộng-sản cho 100 làng.
Được chính-quyền chấp nhận một phần nào đó, được tạm '' dung thứ '' vì đó là một dấu hiệu '' lạc hậu '' trong một nước mà yếu tố của kinh-tế thị trường lại chính là nông dân, đả bị gián đọan từ năm 1914 đến năm 1922 vừa được khởi hoạt-động trở lại. Sau các vụ làm mùa, với thời-gian rảnh-rổi, các nông dân từ các làng quê đổ về các thành-phố để tỉm việc làm hòng kiếm thêm lợi tức. Việc này đả có từ lâu dười chế độ Nga hoàng ; các ngành kỹ-nghệ của nhà nước không quan tâm đến việc sản-xuất các vật dụng cần-thiết cho việc tiêu dùng hàng ngày nhờ vậy các ngành nghề thủ công nghiệp nơi nông-thôn đả phát-triễn khả quan, nạn thiếu lương thực và đói kém đả bắt đầu bớt đi và các nông dân đả có cái ăn hàng ngày.
Sự an-sinh trước mắt không che dấu được các mối bất đồng giửa chế độ Bôn-sê-vít và xã-hội Nga, vì họ chưa quên các cuộc bạo động mà chính họ là nạn nhơn. Giá các nông-sản quá hạ và các bất mãn của giới nông dân quá nhiều, giá các sản-phẫm công-nghệ thì quá cao và lại rất ít ; có thể gọi là hiếm có vì các sắc thuế quá nặng. Giới nông dân họ có cảm-tưởng họ là loại công dân hạng thứ hai, so với các người dân ở thành-phố và đáng kể là các người thợ công nhơn được coi là các người dân được ưu-đải. Nông dân đả than van rất nhiều về các việc '' lộng-quyền '' của các cán-bộ đại-diện căn bản của chế-độ Sô-viết ; các người này được đào-tạo từ môi-trường '' Cộng-sản chiến-tranh ''. Các cán-bộ này đả lạm dụng tuyệt đối các quyền-lực mà họ đả có được từ xưa những tập-tục và thói-quen hay từ những chính sách khủng-bố và đàn áp từ những năm 1918 cho đến 1923. Các cơ-quan hành-chánh, tư pháp và cảnh sát đều bị hư-hỏng vì nạn say rượu ; nạn đòi hối lộ công khai, nạn quan liêu và các tư cách bất nhã đối với toàn thể các nông dân. Bản phúc-trình dài của cơ-quan '' Cảnh-sát chính-trị '' vào cuối năm 1925 đả nhìn-nhận về : tình-trạng hợp-pháp của xã-hội chủ-nghĩa ở nông-thôn đả xác-nhận các tệ đoan kể trên.
Mặc dù các lãnh-tụ Bôn-sê-vít củng là các người đại diện cho chính-quyền Sô-viết đả lên án các tệ đoan xảy ra ở nông-thôn nhưng họ vẫn lo sợ đề phòng là nơi có thể phát-xuất các điều bất lợi và có thể coi là nguy-hiễm có thể đe dọa đến quyền-lực của họ. Họ coi nơi đây là nơi : chứa đựng các phần tử koulaks, các người xã-hội cách-mạng, các linh-mục, các vị cựu địa-dhủ chưa bị thủ-tiêu. Đây là tất cả các lời được biểu lộ trong một bản phúc-trình của viên chỉ-huy cảnh-sát chính-trị ở Toula. Và các tài liệu của ngành tình báo nơi cơ-quan Guépou (tên mới của cơ-quan này thay thế cho tên Tchéka ), củng báo cáo là các giới thợ công-nhân củng cần phải kiễm-soát gắt gao. Giới thợ công-nhân được phục-hồi sau những năm xảy ra nội chiến, cách mạng . Họ vẫn còn gìử được các mội liên-lạc với giới nông thôn thù-nghịch chính-quyền. Các người '' điềm chỉ '' đả hiện-diện rất nhiều trong các xí-nghiệp, theo dỏi từ các '' lời nói '' đến các '' hành động '' của các người thợ công nhơn, coi họ có đi sai hướng chỉ định của chính-quyền hay không. Các ''
Khí sắc nông dân '' được chỉ cho những người công-nhân đả trở về làm
việc trở lại sau những ngày nghỉ hàng năm mà trở về làng quê, giúp thân
nhân của họ làm việc trong những ngày mùa . Những bản phúc-trình của các cơ-quan cảnh-sát đả phân-tích tỉ-mĩ các phần-tử chống đối trong giới công-nhân, thường nằm trong hệ-thống '' tiểu tổ '' của xã-hội cách-mạng và các phần tử lạc hậu về chính-trị này thường xuất phát từ nông-thôn , được coi là các phần tử hiểu biết về chính-trị.Những sự đình công và ngưng làm việc thường xảy ra trong các năm
này, vì số người thất-nghiệp lên rất cao. Cuộc sống hàng ngày được
cải-thiện phần nào cho những người có việc làm. Tất cả đều được phân
tích kỹ và các người cầm đầu đều bị bắt.
Ngày hôm nay chúng ta được tham khảo các tài-liệu chính-trị nội bộ của cơ-quan cảnh-sát , đả cho ta biết là sau nhiều năm cơ quan này phát-triễn quá mau đả bắt đầu gặp các khó-khăn vì việc tạm ngưng chương-trình tự-nguyện Bôn-sê-vít để biến đổi cải-cách xã-hội. Trong 2 năm 1924-1926, Dzerjinski đả phải đấu-tranh nhiều với một vài lãnh-tụ Bôn-sê-vít vì các vị này đả đòi giãm bớt nhân số của các cơ
quan Tchéka vì với việc thay đổi tình-hình được coi như tạm yên. Do
vậy, con số nhân sự này được coi là quá nhiều không còn thích ứng nửa.
Và đây là lần thứ nhất mà sự việc giãm nhơn sự xảy ra rất mạnh bạo. Đến
năm 1953 mới lại xảy ra lần thứ hai việc giãm nhơn-viên nghành cảnh-sát
chính-trị. Năm 1921 cơ-quan Tchéka có 105.000 nhơn-viên dân chính và
180.000 nhơn-viên quân-sự đặc-biệt, bao gồm luôn các lực-lượng biên-giới, các toán Tchéka phụ-trách an-ninh cho các cơ-quan xe hỏa ( đường sắt ) và các toán canh gác các trại
tập trung. Qua đến năm 1925, cơ quan này chỉ còn lại 26000 nhơn viên
dân chính và khoảng 60000 ngàn nhơn-viên quân sự. Công thêm với các con số này còn có thêm lối 30000 người '' điềm chỉ '', so với con số người loại này vào năm 1921, với các tài-liệu tham-khảo các con số này không được biết rỏ. Tháng chạp năm 1924, trong thơ của Nikolai Boukharine gởi cho Feliks Dzerjinski, ông đả viết :'' Chúng ta cần phải chuyễn qua giai đoạn ' tự do hơn ' của chính-quyền Sô-Viết : Bớt đàn áp, các việc làm phải hợp pháp, mở nhiều cuộc bàn cải, cho tản quyền về các địa phương và lẽ dỉ nhiên phải dưới sự chỉ-đạo của đảng Cộng-Sản. Vài tháng sau đó, ngày 1 tháng 5 năm 1925 Chủ-Tîch Tòa-Án Cách-Mạng, Nikolai Krylenko người đả chủ-tọa cuộc xữ-án '' trá hình '' tư-pháp (mascarade) của cuộc xữ-án các người cách-mạng, đả gởi một bản phúc-trình dài lên bộ-chính-trị đảng Cộng-sản Nga, ông đả chỉ-trích các việc lạm dụng của cơ quan Guépou đả có những hành-động vượt quá mức giới-hạn đối với các sắc-luật mà họ có trọng-trách phải thi-hành. Năm 1922-1923 đả có nhiều sắc-luật được ban ra với tác-dụng hạn chế các khả-năng của cơ-quan Guépou về các việc liên-quan đến : ''Gián-điệp, Ăn cướp,Tiền giả và Phản cách-mạng''. Đối với các tội-ác kể trên, cơ-quan Guepou sẽ là '' Ông Tõa'' duy nhất và với '' tập đoàn đặc-biệt '' của họ, họ có thể tuyên-án, lưu-đày hay cưởng-bách cư ngụ để dễ bề kiễm-soát cho tới 3 năm, cho đi tập trung vào các trại lao-động cưởng-bách hay tối đa là án tử-hình. Năm 1924, trong số 64000 hồ sơ được cơ-quan Guépou phụ-trách thì 52000 hồ sơ được chuyễn qua các tòa-án thường. Các cơ-quan tư-pháp của Guépou
đả lưu lại 9000 hồ-sơ , một con số quá cao so với hiện-tình chính-trị
được coi như là ổn-đînh. Ông Nikolai Krylenko nhắc lại : : '' Các điều-kiện sinh-sống của các người bị đüa đi đày ở các vùnghẻo lánh tại Sibérie, không được cấp phát một đồng tiền nào, các người này đả sống quá thê-thãm. Trong số này có các sinh-viên tuổi từ 18-19 và các người già 70 tuởi. Thành-phần nhiều hơn hết là các thành-viên củaGiáo-hội và các phụ-nữ
già, họ đýu thuộc vào thành-phần '' nguy hiễm cho xã-hội '' và Nikolai
Krylendo cũng đề-nghị giới hạn việc dùng danh-từ '' phản cách mạng'', danh-từ này chỉ được dùng riêng cho các đoàn-viên các '' đảng chính-trị, đại-diện của các quyền lợi kinh-tế của các người trung-lưu trưởng-giả '' để hầu tránh được việc lạm dụng quá độ các từ này trong các ngành nơi cơ-quan Guépou.
Đứng trước các sự chỉ-trích trên, Dzerjinski và các viên phụ-tá của ông đả gởi lên các vị lãnh-tụ Bôn-sê-vít là những người chỉ-huy cao cấp của Đảng, và riêng cho Staline, nhiều bản báo-cáo báo động về các rắc-rối nó kéo dài trong nước Ba-Lan, các nước Baltes, nước Anh, nước Pháp và nước Nhật.
Về bản phúc-trình các hoạt-động của cơ-quan Guépou trong năm 1924 gồm có :
- Bắt giam 11.453 tên ''ăn cướp '' trong số này đả hành-quyết 1858 tên tại chổ.
- Điều tra 926 người ngoại-quốc và trong số này đả trục-xuất 357 người ra khỏi nước Nga và bắt giam 1542 tên tội phạm làm '' Gián-điệp ''.
- Đả hành-quân 81 lần chống lại các nhóm'' vô chính-phủ'' và bắt giam 266 người.
- Được điềm chỉ và phá vở một mưu toan nổi-loạn của Bạch-quân ở Crimée, và đả hành-quyết 132 người trong khuôn-khổ của cuộc mưu-toan nổi dậy này.
-Đả thanh-toán 14 tổ-chức men-sê-vít và bắt giam 540 người, sáu tổ-chức cách-mạng xã-hội thiên-hữu và bắt giam 152 người, bảy tổ-chức xã-hội cách-mạng thiên-tả và bắt giam 52 người, 117 tổ-chức các người
trí-thức đủ loại và bắt giam 1360 người, hai mươi bốn tổ-chức bảo-hoàng
và bắtgiam 1245 người, 85 tổ-chức đạo và giáo phái cùng bắt giam 1765
người, và 675 nhóm người koulaks bắt giam 1148 người.
- Trong 2 cuộc '' ruồng bắt'' lớn diễn ra vào tháng 2 và tháng 7 năm1924 và trục-xuất ra khỏi các thành-phố Moscou và Léningrad khoảng 4500 tên ăn-trộm, các tên tái phạm, các tên đả theo kế-hoạch nepmen (NEP-các tiểu-thương và các tên thầu khoán nhỏ)
- Đả cho '' kiễm-soát và theo-dỏi chặt-chẻ'' từ mỗi cá nhân, có 18200 người bị xếp vào thành phần '' nguy-hiểm cho xã-hội.
- Đả cho'' canh chừng'' 15.501 xí-nghiệp và cơ-sở hành-chánh.
- Đả đọc và kiễm-duyệt 5.078.114 thư từ và các văn thư liên-lạc đủ loại.
Với các việc làm kể trên đây, với các con số được coi là chính-sác đả nói lên sự '' lố-bịch trơ-trẻn '' của chế-độ thư lại, vậy có-thể đáng tin hay không ? Và nằm trong kế-hoạch về ngân-sách của cơ-quan
Guépou cho năm 1925 đả nói lên sự kiện là cơ-quan này sẽ không bớt hay
là nới tay về việc phòng vệ và bảo vệ , đây là nhiệm vụ chính-trị chánh của cơ-quan cảnh-sát và tương xứng với ngân-sách được cấp phát. Các dữ-kiện này là tư liệu quý giá đối với các sử-gia , vì ngoài các con số nêu trên việc hành-sự chuyên-quyền đủ loại tự nó đả nói lên được việc hành sự thường-trực đối với các kẽ thù có tiềm năng, cơ-quan Guépou có một vài hệ-thống bớt hoạt-động nhưng vẩn được đặt trong tình-trạng sẳn-sàng hành-động.
Mặc dầu ngân-sách bị cắt giảm và củng do các lời chỉ-trích không có kết-quả của các viên lảnh-tụ Bôn-sê-vít, các hoạt-động của cơ-quan Guépou còn được khuyến-khích bởi các điều mà luật hình-sự được sửa đổi cho thêm cứng rắn hơn. Căn cứ trên : Các nghuyên-tắc
căn-bản nơi hình-luật củ Liên-Bang Sô-Viết, được chấp thuận ngày 31
tháng 10 năm 1924 và Bộ luật mới về Hình-luật được ban hành năm 1926, đả
mmỏ tầm giải-thích rộng-rải hơn những tội ác bị coi là phản cách-mạng và xếp thành luật '' các người
bị coi là nguy-hiễm cho xã-hội '' mọi hoạt-động dù không '' nhắm''
thẳng vào việc lật đổ hay làm suy yếu chính-quyền Sô-Viết và bị coi là
phạm nhân đả vi-phạm vào các quyền-lợi đạt được về chính-trị và kinh-tế của cuộc cách-mạng vô-sản. Như vậy đạo luật này sẽ trừng-phạt mọi trường hợp bất-chính và cả các mưu-toan hay ý đồ có dính líu đến các trường-hợp sẽ xảy ra.
Củng bị xếp loại và coi như '' thành phần nguy hiểm cho xã-hội '' tất cả các cá nhân nào đả làm một hành-động nguy-hiễm đói với xã-hội hay là có dính líu hoặc liên-quan đến các giới tội ác hay trong quá khứ đả có một hành-độngnào bị coi là một hiễm nguy. Các người bị chỉ đînh tùy theo các tiêu-chuẩn rất là co giản có thể bị lên án mặc dầu thiếu các bằng chứng là thủ-phạm. Và hình luật này còn giải-thích rỏ-ràng là tòa-án có thể cho thi-hành các biện pháp để bảo vệ xã-hội, các người đả bị coi là thành-phần nguy hiểm cho xã-hội vì đả vi-phạm một khinh tội được xác-định, hay trong trường-hợp bị truy-tố đả phạm phải một khinh tội được xác-định và được tòa-án phán xét là '' vô tội '' vẫn bị coi là nguy-hiểm cho xã-hội . Tất cả các khuynh-hướng được coi là luật hình sự của năm 1926 có điều phi-thường, số 28 với 14 phụ chương xác-định các tội danh '' phản cách mạng ''đả củng cố căn-bản hợp pháp của các cuộc khủng-bố của chế độ. Ngày 4 tháng 5 năm 1926, Dzerjinski đả gởi một văn thư cho phụ tá của ông là Iagoda, trong văn thư này ông ta nói về một chương-trình rộng lớn để '' chống lại các sự đầu cơ '', đả phân-tích các ranh giới của chính-sách NEP ( tân chính sách kinh-tế chính-trị do Lénine đề ra ) và tinh-thần cuộc nội-chiến thường trực của các người lãnh-đạo cao cấp của chế độ, như sau :
''..Cuộc chiến chống lại các sự đầu cơ có một tính cách quan-trọng cho ngày hôm nay. Chúng ta cần quét sạch ra khỏi thành phố Moscou các phần tử ăn bám và các bọn đầu cơ. Tôi đả ra lịnh cho Pauker thu-thập tất cả các tài-liệu hiện đang có về việc lập phiếu cá nhơn của mổi
người dân cư-ngụ tại Moscou để giải-quyết vấn đề này. Cho đến ngày hôm
nay, tôi chưa nhận được gì cả. Đồng chí có nghỉ rằng chúng ta phải cho
thành lập một bộ đặc-biệt để di dân đi khẩn khoang và ngân-sách đặc-biệt này sẽ cho các số tiền mà chúng ta đả tịch-thâu, để đài thọ cho công-tác này. Chúng ta sẽ đưa các phần-tử ăn bám này và gia-đình của họ đến cư-ngụ ở các thành-phố hẻo-lánh và khổ-cực này ở những vùng xa-xôi của đất nước Nga, theo một kế hoạch đả được soạn-thảo trước và được sự chấp-thuận của chính-phủ. Chúng ta cần '' quét sạch '' các thành-phố nơi có nhiều trăm ngàn người '' ăn bám '' và '' đầu cơ'', họ đang sống sung-túc. Các tên '' ăn hại '' này đang lủng-đoạn và tiêu-diệt chúng ta. Vì bọn chúng là thủ-phạm đả tạo nên sự khan hiếm các vật dụng kỹ-nghệ sản-xuất và các hàng-hóa để cung-cấp cho các người
nông dân. Vì chúng giá cả đả leo thang và đòng tiền Rúp đả mất giá ? Cơ
quan Guépou phải ra tay hành-động liền để giải-quyết vấn đề này với tất
cả các nghị-lực của cơ-quan."
Trong các đặc-điễm khác của chế-độ hình-luật Sô-viết có nói đến sự hình-thành của hai hệ-thống phân biệt truy tố tội phạm : Một là Tư Pháp, Hai là Hành-Chánh. Và có hai chế độ lao từ : Một do Bộ Nội-Vụ và Một do cơ quan Guépou đảm-trách. Các nhà tù đả có sẳn một hệ-thống củ để giam các tội-phạm bị kết-án do các thủ-tục tố-tụng thường dùng, còn có một hệ-thống các trại tập-trung cưởng bách lao-động do cơ-quan Guépou quản-lý để giam-cầm các tội phạm bị kết-án do các thủ-tục tố-tụng đặc-biệt của ngành cảnh-sát chính-trị để xử tất cả các loại tội trạng thuộc về : Phản cách-mạng dưới mọi hình thức, các tên đại cường đạo, làm tiền giả và các tội của các nhơn viên cành-sát chính-trị gây ra.
Năm
1922, chính-phủ đề-nghị lập một trại tập trung lớn ở đảo Solovki, năm
hòn đảo trên Bạch-Hải nằm ngoài khơi vùng Arkhangelsk, và một hòn đảo
lớn có một tu-viện lớn của Giáo-hội Chính-thống Nga. Sau khi đả đuổi các tu-sĩ ở đây đi nơi khác, cơ-quan Guépou đả tổ-chức ở quần đảo nhiều trại tập-trung được mang danh là SLON ( Trại đặc-biệt ở Solovki ). Các số tù nhơn đầu tiên được lấy ra từ các trại ở Kholmogory và ở Pertaminsk đả đến Solovki vào đầu tháng 7 năm 1923. Đến cuối năm con số các tội nhơn lên đến 4000 người và sang đến năm 1927 con số lên đến 15000 người và cuối năm 1928 là 30000 người.
Một đặc-điễm của các trại ở Solovki là họ áp dụng chế độ '' tự-quản '' ngoài viên giám-đóc và vài nhơn viên có trách-nhiệm, tất cả các dịch-vụ của các trại đýu do các phạm nhơn đảm nhận. Các phạm nhân này là cựu cộng-tác-viên và cựu nhơn-viên của cơ-quan Cảnh-sát chính-trị. Các hành-động của các loại người này đả đüa đến một kết-quả là việc chuyên quyền toàn bộ về việc '' tự quản-trị '' và làm tăng thêm các đặc-quyền hưởng lợi, được thừa hưởng rộng-rải dưới chế độ củ, vì các tù nhơn được hưởng quy chế là tù nhơn chính-trị.
Với chính-sách NEP, cơ-quan hành-chánh của Guépou đả phân loại ra ba hạng tù phạm.
Hạng thí nhất bao gồm các tù-phạm thuộc về chính-trị, riêng biệt cho các cựu đảng-viên của đảng Men-sê-vít, xã-hội cách-mạng và '' vô-chính-phủ '', các tù
phạm này đả đòi được ở Dzerjinski và được hưởng một chế-độ chính-trị
khoan hồng vì Dzerjinski củng đả là tủ-phạm chính-trị và đả ở tù 10 năm
luôn cả thời-gian bị đưa di lưu-đày. Họ được hưởng một khẩu-phần ăn gọi
là '' khẩu phần chính-trị '', được quyền giử một vài vật dụng dùng cho
cá nhân, có quyền được nhận báo chí của thơn nhơn gởi vào và không bị bắt buộc làm các việc khổ sai. Đến cuối thập niên 20, quy chế này bị bải bỏ.
Hạnh hai là hạng đông tù phạm nhiều hơn các hạng khác gồm có các thành phần '' phản cách-mạng '' : đoàn-viên các đảng không thuộc phe xã-hội hay vô chính-phủ, các thành-viên của giáo-hội, các cựu sĩ-quan của Nga Hoàng, các cựu công-chức, các người Cosaque, các người đả tham dự vào cuộc nổi loạn ở Kronstadt và ở Tambov, và tất cả các người bị tuyên án theo điều luật số 58 của luật hình-sự.
Hạng thứ ba gồm các tù phạm thuộc luật thường phạm như : ăn cướp, làm tiền giả do các tòa án Guépou kết-án và những cựu nhơn viên của cơ-quan Tchéka mang các tội loại thường phạm và vi phạm các tội của cơ-quan này.
Những người '' Phản cách-mạng '' bị giam chung với các người này và những người tù phạm thuộc loại luật thường phạm họ tác yêu, tác quái trong trại giam, các người '' phản cách-mạng '' phải chịu đựng rất nhiều sự chuyên-chế hoàn toàn, khổ-cực, phải chịu đói vì phần ăn của họ
đả bị những người kia cướp đoạt, với thời tiết quá lạnh vào mùa Đông và
qua mùa Hè phải chịu đựng nạn muổi cắn vì vùng này có quá nhiều ao, hồ.
Một hình-thức tra tấn thường diễn ra ở nơi dây là bắt các nạn-nhơn
ở nơi đây cởi bỏ tất cả quần áo và trói họ lại rồi bắt đùng cả đêm ở
ngoài rừng để cho muổi chích. Khi bị bắt buộc phải di chuyển từ trại này
qua trại khác, các tù phạm xin được trói hai tay về phía sau lưng, và đó là điều được ghi ở trong bản điều lệ của trại-giam. Đó là cách duy nhất tự-vệ của tù
phạm, để khỏi phải bị giết vì lý do muốn tẩu thoát. Và sau khi đả
hạ-sát một tù phạm chỉ cần một báo cáo '' cộc lốc '' như vậy. Nhà văn có
danh ở trong đám các tù phạm tại Solovki tên Varlam Chalamov, ông thuộc loại các tù phạm về chính-trị và đả viết lên các thãm trạng xảy ra ở nơi này.
Và với các kinh-nghiệm khai-thác sức lao động khổ-sai của các người từ ở Solovki của cơ-quan Guépou trong những năm nội-chiến, và phương-pháp xữ dụng hình-phạt khổ-sai lao-động đả phát-triển triệt để vào các năm 1929. Trong thời-gian từ khi các trại này được thiết-lập, các tù phạm được xữ dụng rất ít vào các việc làm sản-xuất ở trong vòng các trại, cho đến năm 1925. Bắt đầu từ năm 1926, ban biám-đóc của trại tù ở Solovki đả ký các khế-ước để sản-xuất với các cợquan quốc-doanh và khai-thác hợp-lý nguồn lao-động khổ-sai này thành được một nguồn lợi và không giống như các năm 1919-1920 khác với lý-thuyết khi các trại tập trung đầu tiên được thành-lập là : '' Lao-động sửa sai '' và để '' tái cải-huấn '' các tù-phạm . Được tái tổ-chức dưới danh-xưng USLON ( Direstion des camps spéciaux du Nord ), Ban lãnh-đạo các trại-giam đặc-biệt ở miền Bắc. ; các trại-giam đặc-biệt Solovki được thiết lập thêm rất nhiều nằm rải-rác trên lục địa và khởi đầu ở các vùng ven Bạch Hải. Năm 1926-1927 nhiều trại mới được thiết-lập ở cửa sông Petchora, ở vùng Kem và ở nhiều vùng '' đất độc '' ở các ven biển không có người sinh-sống, và đi vào phía sâu trong các vùng này có toàn là những khu rừng gổ để khai-thác. Các tù
nhân phải được thực-hành một kế-hoạch và chương-trình sản-xuất và phải
thực hiện đủ số cây gổ được hạ xuống và đúng thời hạn chỉ định. Các chương-trình sản-xuất với chỉ số gia-tăng việc cung cấp gổ cho các cơ-quan
quốc doanh nên cần thêm một số tù-phạm, và số tù phạm này gia-tăng rất
mau và rất nhiều. Vì yếu tố kể trên, bắt đầu từ năm 1929, tất cả các người tù phạm nào bị kết án trên 3 năm đều bị đüa đi về các trại lao-động khổ-sai để tham-gia vào việc sản-xuất và cung-cấp '' cây-gổ '' cho các khế-ước đả được ký kết. Biện pháp này đả làm phát-triễn thêm các trại lao-động khổ-sai. Đây là nơi mà có thể nói là '' phòng thí nghiệm '' về lao động khổ-sai, các trại tập trung đặc-biệt ở quần đảo Solovki là '' khuôn-khổ '' của một bán đảo khác đang được '' thai nghén '' một quần đảo bao la nằm trên toàn một lục địa đó là : Quần đảo Goulag
Hàng năm cơ-quan Guépou lên án vài ngàn người bị đüa đi đày vào các trại tập trung '' lao động khổ sai '' hoặc là bị '' quản thúc tại gia '' hoặc cưởng bách đi ở các nơi cư-ngụ khác. đó là các hoạt-động bình-thường của cơ-quan này. Ngoài ra họ còn mở các cuộc hành quân lớn đàn-áp với các chỉ tiêu đặc biệt. Trong những năm từ 1923 đến 1927 tình thế tạm lắng yên, nhờ chính sách NEP tại nước Nga, thì trên thực tế những nước ở các vùng Liên-Trung-Á và ở Trung-Á ( Transcaucasie và Asie centrale ). Các cuộc hành quân lớn để đàn-áp các phần tử chống đói đả diễn ra với từng giai-đoạn đàn-áp rộng lớn và đẩm máu. Các nước và các sắc dân ở các vùng này đả chống đối lại dữ-tợn các cuộc chinh phục của người Nga hồi thế kỹ 19 và đả bị các người
Bôn-sê-vít tái chiếm lại : Xứ Azerbaidjan bị tái chiếm vào tháng 4 năm
1920, Xứ Arménie bị tái chiếm vào tháng 12 năm 1920, xứ Géorgie bị tái
chiếm vào tháng 2 năm 1920, xứ Daguestan vào cuối năm 1921, xứ Turkestan
với Boukhara vào mùa Thu năm 1920. Họ tiếp tục chống cự lại mảnh liệt
với việc Sô-viết hóa. Tháng Giêng năm 1923 Peters, ủy-viên toàn-quyền
chỉ huy các cuộc hành quân tái chiếm các vùng nói trên đả báo cáo : '' Chúng tôi chỉ kiễm-soát các thành
phố lớn ở vùng Turkestan. Từ năm 1918 cho đến cuối năm 1920 và trong
một vài vùng được kéo dài cho đến năm 1935-1936, một phần lớn của vùng Trung-Á, trừ các thành phố lớn, còn do các người basmatchis kiễm-soát. Danh từ batmaschi ( ăn cướp , tiếng của sắc tộc Ouzbek ), mà người Nga dùng để chỉ cho tất cả các sắc-tộc Ouzbeks, Kirghiz, Turkmènes, các sắc-tộc này hoạt động riêng rẻ ở nhiếu vùng khác nhau.
Tụ điễm chính của cuộc nổi loạn là ở các vùng thung-lũng Fergana. Sau khi tái chiếm được Boukhara vào tháng 9 năm 1920, Hòng quân phải đương đầu với các cuộc nổi loạn lan tràn về các vùng phía Đông và phía Nam của cựu tiểu quốc Boukhara và các vùng phía Bắc của các đồng cỏ Turkmènes. Các chiến sĩ Basmatchis gồm có các sắc dân đả định cư cùng với các sắc dân du-mục. Đầu năm 1921, bộ tham mưu của Hònh-quân đả ước lượng số người đả chống lại họ lên đến 30000 người có võ-trang. Các người chỉ-huy các cuộc nổi loạn này không được đòng nhất. Có nơi thì là những thân hào của các làng xã, các tù-trưởng hay là các vị lãnh đạo tôn-giáo truyền thống và củng có các người quốc-gia Hòi-giáo họ không thuộc các sắc dân nói trên như : '' Ông Enver Pacha, cựu Bộ-Trưởng-Quốc-Phòng của Thổ-Nhỉ-Kỳ đả tử-trận vào năm 1922 lúc giao-chiến với các lực lượng vũ-trang của cơ-quan Tcheka. Các cuộc nổi loạn của các toán quân basmatchis chỉ có tính cách bất giác, tự nhiên chống lại các người '' bất-trung '' ( danh từ của Hồi-giáo chỉ vào những người không cùng đạo ), bọn '' áp bức '' người Nga kẽ thù củ tái xuất hiện dưới hình thức mới vì các kẽ thù này cướp đoạt đất đai, các súc vật của họ mà lại còn phạm vào '' thế giới tâm linh '' của các người Hồi-Giáo. Trận chiến-tranh bình-đînh này có tính chất '' thuộc địa '' và các người basmatchis đả chống cự lại ròng rả 10 năm, đối đầu với các đạo quân của Hòng-quân và các lực-lượng đặc biệt của cảnh-sát chính-trị dưới sự chỉ huy của Bộ Đông Phương của cơ-quan Tcheka. Đến ngày hôm nay, rất khó mà ước lượng dù với con số phỏng chừng, số nạn nhơn của các trận chiến đả xảy ra ở các vùng kể trên.
Khu vực lớn thứ hai do Bộ Đông Phương của cơ-quan Tcheka ( Guépéou ) là vùng Transcaucasie. Trong vòng 5 năm bắt đầu từ năm 1920, các vùng đất Daguestan, Géorgie và Tchéchénie đả bị đàn áp củng như các vùng ở Trung-Á. Vùng đất Daguestan đả chống cự lại đến cuối năm 1921. Dưới sự lảnh đạo của cheikh Uzun Hadji ( lảnh tụ tôn-giáo ) của hội đạo Hòi-giáo của các người Nakchbandis, họ đả chủ-động các người sơn-cước và cuộc chiến đãu mang tính cách
một cuộc '' thánh-chiến '' chống lại những người Nga Xâm lăng. Cuộc
chống cự kéo dài suốt một năm và có vài vùng chỉ được '' bình-đînh ''
vào năm 1923 sau khi các người Bôn-sê-vít cho phi cơ oanh-tạc các khu vực rộng lớn và tàn sát các người dân thường.
Sau
3 năm sống độc lập với một chính phủ Men-sê-vít, vùng Géorgie đả bị
Hòng-quân chiếm đóng vào tháng Giêng năm 1921. Alexandre Miasnikov,
thơ-ký của ũy ban Bolchevique của vùng
Transcaucasie đả tuyên bố đây là '' một vụ khó khăn ''. Đảng Bôn-sê-vít
địa phương chỉ quy tụ được lối 10000 đảng viên trong thời gian suốt 3
năm dưới chính-phủ Men-sê-vít. Họ phải đương đầu với một từng lớp trí
thức và cựu quý tộc gồm có gần 100000 người, các số
người này thuộc loại chống Bôn-sê-vít. Thêm vào còn có một mạng lưới
mạnh mẽ người men-sê-vít bởi vì đảng Men-sê-vít vào năm 1920 đả có 60000
đảng viên. Mặc dầu dưới sự chỉ huy của một uỹ-viên của cơ-quan Tchéka Lavrenti Beria mới có 25 tuổi, một người sẽ có được tương lai quan-trọng, cuộc đàn áp đả diển ra với sự tàn ác quá sức tưởng-tượng vì cơ quan Tcheka ở đây được quyền tự-trị, không chịu sự chi phối của trung-ương ở Moscou. Các người Men-sê-vít bị lưu đày vào cuối năm 1922 đả hợp tác với các tổ chức chống Bôn-sê-vít khác,
tổ chức một Uỹ Ban Bí Măt dành độc-lập cho vùng Géorgie để nổi loạn.
Khởi loạn được bắt đầu vào ngày 28 tháng 8 năm 1924 ở tỉnh nhỏ
Tchiatoura, và trong vòng 5 ngày sau đó cuộc nổi loạn lan tràn ra khắp
25 địa hạt ở vùng Gourie, và số đông các người nông dân đả tham dự cuộc nổi loạn này. Cuộc nổi loạn này đả bị dẹp tan trong vòng một tuần lễ vì các lực lượng Hồng-quân có quá nhiều lính và họ lại có thêm phi-cơ oanh tạc và pháo-binh yễm trợ. Sergo Ordjonikidze, đệ nhứt bí thư của Ủy ban Đảng bôn-sê-vít vùng Transcaucasie và Lavrenti Beria lấy cớ về cuộc nổi loạn này để : Thanh toán một lần cho dứt khoát các người Men-sê-ví và các quý-tộc gốc người Géorgie. Với các con số ghi trên các văn thư vừa
được cho phép tham khảo, 12578 người đả bị xử bắn trong thời-gian từ
ngày 29 tháng 8 năm 1924 cho đến ngày 5 tháng 9 năm 1924. Tính rộng lớn của cuộc đàn áp này đả làm Bộ-Chính-Trị của đảng Bôn-sê-vít súc động. Ban lãnh đạo của Bộ-Chính-Trị liền kêu gọi Đảng bộ địa phương trở về trật tự, và ngưng các cuộc tàn sát một số lớn vì không tương ứng cùng với cuộc nổi loạn, đùng hành quyết các người chính-trị mà không được ũy ban trung-ưöng cho phép. Nhưng các vụ hành quyết đon giản tiếp tục trong nhiều thang. Vào cuộc họp toàn đảng của Ũy
Ban Trung Ương ở Moscou vào tháng 10 năm 1924, Sergo Ordjonikidze, đả
báo cáo '' Có lẽ chúng tôi đả hành động hơi quá đáng, nhưng không thể
không có một cái gì cả ''.
Một năm sau các cuộc đàn áp tháng 8 năm 1924 chống lại các người
nổi loạn ở Géoegie, chế độ lại cho thi hành một cuộc hành quân lớn để
'' bình đînh ' ở vùng Tchétchénie, nơi đây ai củng nói là chính quyền
So-viết không có nơi đây . Từ ngàby 17 tháng 8 đến ngày 15 tháng 9 năm
1925, trên 10 000 Hòng quân dưới sự chỉ huy của tướng Ouborecitch, với sự yễm trợ nơi cánh quân lực lượng đặc biệt của cơ quan Guépou, bắt đầu tước vỏ khí các thân binh người Tchetchène. Cả chục ngàn vũ khí đả bị tịch thu và 1000 tên ' ăn cướp ' đả bị bắt giam. Trước sự kháng cự của dân chúng viên chỉ huy Guépou tên Ounchlicht, đả nhìn nhận là phải kêu pháo binh nặng và phi cơ oanh-tạc các '' tổ kháng cự của bọn ăn cướp ''. Cuộc bình đînh ở vùng này được diễn ra vào thời điễm mà người ta gọi là '' cực điễm của chính-sách NEP '', trong bản phúc-trình Ounchlicht đả viết : '' Qua các kinh nghiệm chiến đãu chống lại bọn basmatchis ở Turkestan, chống lại bọn '' ăn cướp ' ở Ukraine, ở tỉnh Tambov và các nơi khác, các cuộc đàn áp dùng quân lực chỉ có hiệu lực với cách là phải được Sô-viết hóa ở tại các nơi này và cần đi xâu vào các vùng hẻo lánh xa-xôi ''.
Cuối năm 1926,sau cái chết của Dzerjinski, cánh tay mặt của ông
là Viatcheslav Rudolfovitch Menjinski, người gốc Ba-Lan củng như
Dzerjinski, đả được Staline cất nhắc lên làm chỉ-huy cơ-quan Guépou. Lúc
này Staline đang âm-thầm mưu toan chống lại Trotski và Boukharine.
Tháng Giêng năm 1927, cơ-quan Guépou được lịnh thi-hành mau lẹ việc lập các phiếu cá nhơn các '' thành phần nguy-hiễm đối với xã-hội và chống lại sô-viết '', ở các thôn quê. Trong vòng một năm con số người bị ghi vào các phiếu
từ khoảng 30 000 tăng lên 72 000 người. Đến tháng 9 năm 1927, cơ-quan
Guépou đả cho phát động trong nhiều tỉnh, nhiều đợt bắt giam các người koulaks và '' các phần tử nguy hiểm đối với xã-hội ''. Các đợt lùng bắt này được coi là cuộc thí-nghiệm đầu tiên hay là các cuộc thực-tập dự bị cho cuộc '' bố ráp '' lớn để thi-hành kế-hoạch '' giải-thể các người koulaks '', sẽ được phát động vào mùa Đông 1929-1930.
Năm 1926-1927, cơ-quan Guépou củng tích cực hoạt-động trong việc lùng bắt các người chống đối chế độ cộng-sản và gán cho các người này danh-từ thân Zinoviev hay là trốt-kít. Việc thực thi làm phiếu cá-nhơn để theo dỏi các người chống cộng đả được bắt đầu sớm hơn vào các năm 1921-1922. Tháng 9 năm 1923, Dzerjinski đả đề-nghị siết chặt lại ý-thức chủ-nghỉa của Đảng. Các người cộng-sản phải cam-kết báo cho cơ-quan cảnh-sát chính-trị mọi tin-tức mà họ biết về sự hiện-diện của các thành-phần sai-lệch, xét lại ở trong lòng Đảng. Đề nghị này bị một sự phản đối của một số lảnh tụ, trong đó có Trotski. Nhưng thói quen cho canh chừng các người chống đối đả được phổ biến rộng rải các năm sau đó. Cuộc thanh-trừng ( purge ) của tổ-chức cộng-sản của thành-phố
Léningrad, do Zinoviev chỉ huy ; xảy ra vào tháng Giêng và tháng 2 năm
1926 đả làm liên lụy nhiều vào cơ-quan Guépou. Các người chống đối không những bị đuổi ra khỏi đảng và vài trăm người trong số này bị bắt buộc đi lưu đày ở các thành-phố xa-xôi và số phận của họ rất là bấp bênh vì không một ai giám cho họ một việc làm để kiếm sống. Đến năm 1927, cuộc lùng bắt các người bị liệt vào danh sách là trốt-kít, có độ vài ngàn người, đả huy động trong nhiều tháng vào một phần các cơ sở của cơ quan Guépou. Tất cả những người này đả bị ghi tên vào các phiếu cá nhơn, hàng trăm người trốt-kít đang hoạt động bị bắt đưa đi đày ở nơi khác bằng các biện pháp hành chánh. Vào tháng 11 năm 1927, các lãnh
tụ Bôn-sê-vít chống đối lại Staline là : Trotski, Zinoviev, Kamenev,
Radek, Rakovski, đều bị khai trừ ra khỏi Đảng và bị bắt giam. Tất cả mọi
người nào từ chối làm tờ tự kiễm thảo công khai, đều bị đưa đi lưu đày.
Ngày 19 tháng Giêng năm 1928, báo Prava đả loan tin Trotski và một nhóm
30 người chống đối, bị đày đi Alma-Ata. Một năm sau Trotski bị trục
xuất ra khỏi Liên-Bang Cộng-hòa Sô-viết. Việc biến đổi một nhân vật
chính tạo ra cuộc khủng bố Bôn-sê-vít , thành ra một người phản cách mạng là một chặn đường mới được vượt qua, với trách nhiệm của người hùng mới của Đảng : Staline.
Đầu năm 1928, sau khi loại trừ phe Trotski chống đối lại chủ trương của phe Staline, đa số đảng viên của Bộ Chính-trị của Trung-Ương
Đảng Cộng-sản Sô-viết đả quyết đînh chấm dứt cuộc '' hưu chiến '' chống
lại toàn xã-hội Nga vì xã-hội này trên con đường '' tiến-triễn '' đả
đang đi khác với những kế-hoạch của người Bôn-sê-vít mong muốn đạt được.
Củng giống như những gì đả xảy ra ở 10 năm về trước, kẽ thù chính vẫn là giới nông dân mà các người Bôn-sê-vít coi là một khối người không thể kiễm-soát được, chống đối họ và vô kỹ-luật. Và khởi điễm của cuộc nội-chiến '' thứ hai '' chống lại toàn khối các người '' nông dân '' như sử gia Andrea Graziosi đả nhận định và lần này các diễn tiến sẽ khác hơn lần trước. Tất cả các sáng kiến đều do nhà nước phát động, các thành phần xã-hội không còn có khả năng để phản ứng và các cuộc chống đối chỉ yếu dần đi không còn gây được một ảnh hưởng gì cả.
Sau các tai
biến xảy ra trong những năm 1918-1922, nên nông nghiệp đả có thể coi
như là toàn thể phục hồi ; '' những người nông dân '' bị coi như là các '' kẻ thù của chế độ '' đang suy yếu toàn thể và nhà nước đả trở thành mạnh hơn vào những cuối năm của thập niên 20. Chính quyền đả nắm vững tình thế và hiểu biết những việc gì đả diển ra ở các làm xóm, việc thiết lập các phiếu cá nhơn các người bị xếp vào loại '' thành phần nguy hiễm cho xã-hội cư ngụ ngoài các thôn làng ''. Các yếu tố này đả cho phép cơ-quan Guépou hành động hữu-hiệu khi họ cho thi hành các cuộc
'' bố ráp '' (rafles) đầu tiên trong chiến dịch '' giải thể người
koulak '', việc '' tiêu diệt lũy tiến '' và '' thực sự '' các người nông dân chống đối bị gán cho từ '' ăn cướp '', tước đoạt các vũ khí của các người nông dân và việc trưng binh khi cần trong các cuộc hành quân. Với con số người phục tòng chịu lịnh trưng binh và việc phát triễn một hệ thống bao vây và kiễm soát các trường học. Căn cứ trên các văn thư liên lạc giửa các người lảnh đạo bôn-sê-vít và các bài viết ' bằng chử viết tắt '' tóm tắc các lời phát biểu của các người này, dưới sự giám sát của Staline, và củng có khi với sự hiện diện của các người chống đối là : Kamenev, Rykov và Boukharine họ củng đả đo lường được các hậu quả mà xã-hội sẽ phải gánh chịu khi các cuộc
tấn công đầu tiên được phát động vào năm 1928, vào toàn thể khối nông
dân. Boukharine đả viết xong một văn thơ gởi cho Staline : Tôi báo trước
cho đồng chí là sẽ xảy ra một cuộc chiến ở nông thôn. Nhưng Staline đả
sẳn-sàng chấp nhận , dù phải trả với mọi giá và lần này chế độ sẽ chiến
thắng.
Việc thu mua các sản
phẫm nông nghiệp vào năm 1927 đả gặp cơn khủng hoảng ; Staline viện cớ
này và củng là điều ông mong muốn. Tháng 11 năm 1927, số lượng nông sản
do các cơ-quan thu mua của nhà nước, đả ít đi quá mức và qua đến tháng 12 thì số lượng này đả tụt xuống một cách thê thãm. Đến qua tháng Giêng năm 1928, mặc dầu được mùa, các cơ-quan
thu mua chỉ thâu đạt được có 4.800.000 tấn nông sản thay vì năm trước
đả thâu đạt được 6.800.000 tấn. Vì giá mua quá hạ do nhà nước định giá,
ngược lại giá các sản-phẫm kỹ-nghệ do nhà nước cung cấp lại quá cao và khan hiếm. Các cơ-quan thu mua của nhà nước bị xáo-trộn vì có tin đồn là sẽ xảy ra '' nội chiến '' và toàn thể khối các người nông dân đều '' bất mản '' vì cuộc khủng hoảng này. Với các diễn tiến trên Staline coi đó là cuộc '' đình công của người koulak ''.
Nhóm các lảnh tụ phe Staline viện cớ vì các diễn biến ở trên, để lập lại các tổ trưng dụng và cho thi hành nhiều biện pháp đàn áp đả được thực-hiện vào thời '' chiến-tranh của cộng-sản '' đả xảy ra mấy năm về trước. Staline đích thân đi thăm vùng Sibérie. Các người lảnh tụ khác : Andreiev, Mikoian, Postychev hay Kossior, đi tham quan các địa phương sản xuất nhiều nông-sản, các vùng đất đen là vùng Ukraine và phía Bắc vùng Caucase. Một văn thơ của Bộ Chính-Trị của Trung-Ương Đảng Cộng-sản đề ngày 14 tháng Giêng năm 1928 gởi cho các chính-quyền địa-phương, ra lịnh cho họ phải bắt giam những người '' đầu cơ '', các người koulak và các người '' phá rối thị trường '' cùng '' chính sách giá cả ''. Và củng giống thời-gian năm 1918-1922, chính-sách trưng dụng được áp dụng, các viên '' toàn quyền '' được phái đi, cùng các phân đoàn lảnh-tụ cộng-sản, về các vùng nông-thôn để '' thanh-trừng '' các chính-quyền địa phương bị coi là quá '' dể dải '' đối với các người koulak. Các vị toàn quyền này hứa với các người nông dân rằng nếu họ tố cáo các nơi cất giấu các nông sản, họ sẽ được thưởng cho một phần tư các nông-sản giấu diếm được tịch thâu từ các người nông dân đả dấu.
Để trừng phạt các người
nông dân '' cứng đầu '' nhiều biện pháp đả được nghỉ ra. Nếu họ không
chịu giao nạp số nông-sản mà họ bị bắt buộc phải giao nạp cho các tổ
thu mua và được trả '' rẻ hơn '' từ 4 đến 5 lần so với giá trên thị
trường, thì họ sẽ bị phạt như sau '' thay vì phải nạp cho đủ số 1 tấn
được chỉ định ; họ sẽ bị phạt là phải nạp từ 2, 3 hoặc 4 tấn. Điều 107
bộ Hình-luật Sô-viết đả dự định là sẽ bị kết án ba năm tù giam mọi hành
động làm giá cả gia tăng đả được áp dụng bừa bải. Và sau hết là các sắc thuế dành cho các người
koulak đả được tăng lên gấp 10 lần trong vòng 2 năm. Người ta ra lịnh
cấm '' họp chợ '', biện pháp này không có ảnh hưởng đến các người nông dân khá giả. Trong vòng vài tuần lể, các biện pháp kể trên đả làm tan vở tình thế '' tạm ngưng đấu tranh '' được diễn ra từ các năm 1922-1923 để giảm đi các mối xung khắc giửa chế độ với các nông dân. Các cuộc trưng dụng và các biện pháp đàn áp chỉ tạo thêm các đổ vở cho cuộc khủng hoảng ; liền khi ấy chính quyền đả dùng vũ-lực và các tổ
thu mua chỉ thu được một số nông-sản kém hơn một ít số nông sản đả thu
mua được vào năm 1927. Để phản ứng lại, người nông dân đả tự giãm bớt
diện tích canh-tác trồng các ngũ cốc.
Cơn '' khủng hoảng thu mua '' đả xảy ra vào mùa Đông 1927-1928 đả đóng một vai trò quyết định cho các diển biến của đời sống xã-hội về sau : Và vì thế, Staline sau khi đả nghiên cứu nhiều bài kết luận về việc phải cho thành lập các '' pháo đài của chủ-nghỉa xã-hội '' ở các vùng nông thôn, các hợp tác xã sản xuất nông-nghiệp ( kolkhozes ) và các nông trại lớn sản xuất nông nghiệp ( sovkhozes ) và tất cả đều là tài sản của nhà nước, thi hành '' tập thể hóa '' nền nông-nghiệp để dể bề kiễm soát các sản lượng nông sản sản xuất ra và kiễm soát các người sản xuất ra các nông sản để khỏi phải chịu các luật của kinh tế thị trường. Và sau hết là để trừ bỏ '' các người koulak '' và '' tiêu diệt họ '' như là một giai cấp.
Năm 1928, chế độ củng chấm dứt tình-trạng '' tạm ngưng đấu tranh '' đối với một giai cấp xã-hội khác, các người '' spetzy '' các chuyên viên '' trung lưu trưởng giả '' xuất phát từ giới trí thức của chế độ củ, vì vào các năm cuối thập niên 20, họ còn được lưu dụng ở các chổ quan trọng ở các xí-nghiệp quốc doanh và các cơ-quan hành chánh. Nhơn cuộc họp các lảnh tụ của Ủy
Ban Trung Ương Đảng vào tháng 4 năm 1928, ủy ban này đả ra một thông
báo là vừa '' khám phá '' ra '' một âm mưu phá hoại kỹ-nghệ '' ở trong
vùng Chakhty, một vùng mỏ than ở Donbass, xảy ra tại đại xí nghiệp hổn
hợp gan thép Donougol còn lưu dụng nhiều '' chuyên viên trung lưu trưởng
giả '' và đại xí-nghiệp này còn có nhiều liên-lạc tài chính với các giới tài chính phương Tây. Vài tuần lể sau, năm mươi ba người bị cáo, phần lớn là các kỹ-sư và các chuyên viên điều-khiển xí-nghiệp, bị đưa ra trước tòa án có sự hiện diện của công chúng và là phiên tòa đầu tiên từ khi có những vụ xữ án các người xã-hội cách mạng vào năm 1922. Mười một người bị cáo bị lên án tử hình và 5 người đả bị hành quyết. Các cuộc xử án gương mẫu này, được các báo chí đăng đi, đăng lại rất lâu đả nêu lên các '' huyền thoại '' của chế độ, đó là '' các tên phá hoại, tay sai ăn lương của ngoại bang '' và huyền thoại này nó động viên các lãnh tụ cùng các người '' điềm chỉ '' của cơ-quan Guépou. Để giải-thích mọi thất bại về kinh tế, và luôn để '' trưng dụng '' các '' chuyên viên mới '' cho các văn phòng mới lập của '' ngành xây dựng đặc biệt '' của cơ quan Guépou được biết với danh xưng là : Charachki. Cả ngàn người kỹ-sư và chuyên viên bị kết án phá hoại đả thọ án của họ ở các nông trường và ở các xí nghiệp hàng đầu. Những tháng sau cuộc xử án ở Chakhty, ngành phụ trách kinh tế của cơ
quan Guépou đả '' tạo ra nhiệm vụ xử án tương tự '' ở Ukraine. Riêng ở
đại xí nghiệp luyện kim Iougostal ở vùng Dniepropetrovsk, đả có 112
người chuyên viên bị bắt vào tháng 5 năm 1928. Không riêng gì các chuyên viên điều khiển các xí nghiệp là nạn nhơn của các chiến dịch '' chống các chuyên
viên '' được phát động vào năm 1928. Nhiều giáo sư và sinh-viên bị ''
đuổi '' ra khỏi ngành giáo dục cao đẳng vì họ thuộc thành phần '' xã hội
ngoại lai '' trong nhiều đợt thanh-trừng được phát động tại các trường đại học để '' thăng trật '' trong một đợt '' các người trí-thức Đỏ và vô sản ''.
Với lối hành sự '' cứng rắn '' hơn các cuộc đàn áp và các khó khăn về kinh tế của những năm sau cùng của chính sách NEP, thêm vào nạn thất nghiệp gia tăng, các tệ đoan xã-hội củng nhiều hơn khiến các khinh tội củng gia tăng. Các vụ tuyên án về tội phạm hình đả gia tăng một cách ngoạn mục : '' 578 000 vụ vào năm 1926, 709 000 vụ vào năm 1927, 909 000 vụ vào năm 1928 và 1 178 000 vụ vào năm 1929 !.. Các nhà tù bị đầy nghẹt các tù phạm vì khả năng chứa các nhà tù này chỉ có thể chứa tối đa lối 150 000 người. Để giải tỏa các nhà
tù và để thích ứng với số tù nhân gia tăng, vào năm 1928 chính phủ đả
đưa ra hai quyết nghị quan trọng. Quyết-nghị thứ nhất là ban hành đạo
luật ngày 26 tháng 3 năm 1928 : '' đối với các tội phạm nhẹ, các người bị án sẽ được giam trong một thời gian ngắn sau đó, phải đi phục vụ '' cải tạo '' không lãnh lương ở các xí nghiệp, các công trường xây dựng hay là khai thác lâm
nghiệp ''. Quyết-đinh thứ hai là đạo luật được ban hành vào ngày 27
tháng 6 năm 1929, và đả có nhiều kết quả rộng lớn : '' Tất cả các phạm nhơn bị kêu án trên ba năm tù giam, sẽ bị chuyễn đi phục vụ ở các trại tập trung lao động khổ sai ở các vùng phía Đông và các vùng nơi phía Nam để khai thác các tài nguyên thiên-nhiên của đất nước'', ý đồ này đả được dự tính từ nhiều năm trước. Cơ quan Guépou đả hoạch định một chương-trình lớn khai-thác '' cây gổ '' để xuất cảng ; vì lẻ trên cơ-quan Guépou đả đòi hỏi nhiều lần Nha Đặc Trách các nhà tù phải cung cấp thêm các tù nhơn để chuyển qua các trại '' đặc biệt '' ở Solovki, vì năm 1928 con số tù ở nơi này chỉ có 38 000 người, không đủ để đãm trách cho đạt được con số '' cây gổ '' mà cơ-quan Guépou đả đưa ra quá cao.
Công việc sửa soạn cho kế hoạch 5 năm đả đặt lại trật tự vấn đề phân phối nhân công và khai thác các vùng hẻo lánh khó sống nhưng lại có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Dưới diện này các người nhơn công không dùng đang nằm trong các nhà tù, nếu được khai thác đúng
độ có thể sẻ là một nguồn lợi tức mới nếu việc kiễm soát và quản lý
đúng đắn là thêm một nguồn lợi tức, có ảnh hưởng cùng có thêm quyền lực.
Các người lảnh đạo cơ-quan Guépou, và riêng Menjinski và viên phụ tá là Iagoda, được Staline ủng hộ đả đòng ý thức được các thành quả của việc
này. Qua mùa hè năm 1929, họ cho phát động một kế hoạch '' quá cao ''
để khẩn hoang một vùng rộng lớn gồm có 350 000 cây số vuông . Các khu
rừng ( taiga ) ở vùng Narym-Sibérie thuộc về miền Tây. Họ không ngừng
đòi thi hành đạo luật ngày 27 tháng 6 năm 1929, và năm trong khuôn khổ các dẩn giải trên mới nảy sinh ra ý-nghỉa tạo ra cuộc '' giải thể các người koulak '' vì theo quan niệm của các giới chính thức là các người koulak sẽ chống lại việc tập thể hóa nền nông nghiệp.
Nằm trong khuôn khổ nội bộ của Đảng Cộng-sản Nga, Staline và các người đứng về phía của ông, đả cần một năm để thuyết-phục các thành viên khác hưởng ứng kế hoạch của ông. Chính sách cưởng bách tập thể hóa nền nông-nghiệp, chính sách '' giải thể các người koulak'', gia tăng tốc độ phát-triển kỹ-nghệ, ba chính sách kể trên nằm trong một chương-trình dính liền với nhau, để biến đổi một cách phủ phàng nền kinh tế và xã-hội. Chương-trình này củng đưa đến việc dứt bỏ các cơ-cấu của nền kinh-tế thị-trường và việc khai-thác các tài nguyên thiên-nhiên ở các vùng hẻo lánh khó sống bằng sự cưởng bách lao động đối với cả triệu người bị '' phóng truất - bị đày '', các người koulak bị giải thể, các cuộc tịch thâu điền địa của nông dân và các '' nạn nhơn '' khác của cuộc '' cách mạng thứ hai '' này.
Các người chống đối đường lối của chính sách
do Staline đề ra là Rykov et Boukharine. Hai người này coi việc tập thể
hóa nền nông nghiệp là trở về thời '' bốc lột quân sự-phong kiến '' các người
nông dân ; việc làm này sẽ đüa trở lại cuộc nội chiến phát động khủng
bố, sự hổn độn sẽ xảy ra và sau đó là nạn đói kém sẽ xuất hiện. Sang đến
tháng 4 năm 1929, các phe chống đối bị khai trừ ra khỏi Đảng. Trong mùa Hè năm 1929, các phần tử '' hữu huynh '' bị đả kích hàng ngày trên các báo chí và một '' chiến dịch báo chí '' mảnh liệt tố cáo rằng họ đả '' hợp tác với các phần tử tư-bản và thông lượng với các bọn trốt-kít. Bị hoàn toàn thất sủng, các đảng viên chống đối công khai đả làm bản tự kiễm thảo vào tháng 12 năm 1929 tại cuộc họp các lảnh tụ của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng-sản Nga.
Trong lúc ở trên các lớp đảng viên đang bàn thảo để coi ai theo, ai chồng lại về vấn đề hủy bỏ chánh sách NEP do Lénine chủ xướng, thì Sô-viết đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế mỗi ngày mỗi trầm trọng thêm lên. Các thu hoạch về canh nông của năm 1928-1929 đả giãm sút một cách thê thãm. Mặc dầu đả dùng nhiều biện pháp cưởng chế đối với đoàn thể các người nông dân như : phạt tiền rất nặng, bỏ tù những người nào từ chối bán các sản phẫm của họ cho chính quyền, chiến dịch thu mua các nông sản của mùa
Đông 1928-1929 chỉ thu mua được một số lượng nông-sản ít hơn năm trước
và vì vậy đả tạo ra một bầu không khí '' căng thẳng '' ở các vùng nông thôn. Cơ quan Guépou để kiễm kê, từ tháng Giêng năm 1928 cho đế tháng 12 năm 1929, đả xảy ra trước khi có việc cưởng bách thu mua. Có 1300 vụ quần chúng biểu tình và bạo động đả xảy ra ở các vùng nông thôn tạo đến việc có cả chục ngàn người nông dân tham gia và bị bắt giam. Một con số khác đả nói lên tình hình của nước Nga vào thời ấy : năm 1929 vào tháng 2 đả có 3200 cán bộ của chế độ Sô-viết đả là nạn nhơn của các vụ bạo động ? Củng vào tháng 2 năm 1929, các thẻ tiếp tế lương thực đả lại được '' tái cấp phát ''. Các thẻ tiếp tế này đả được hủy bỏ khi nhà nước cộng-sản Sô-viết thi hành chính sách NEP vì để đáp ứng với việc khan hiếm thực phẫm khi các Ủy Ban Sô-viết ra lịnh đóng cửa các cửa hàng tiểu thương và các nhà tiểu công-nghệ lại bị coi là xí-nghiệp tư-bản.
Đối với Staline, tình hình nguy kịch của nền canh nông là do các hành động của các người Koulak, và các thành phần chống đối khác, họ đang '' Âm mưu-đánh bằng mìn '' vào chế độ sô-viết. Sự việc đả rỏ ràng để chọn lựa : Các tên '' tư-sản nông-thôn '' hay các khu
'' tập thể hóa nông-nghiệp '' tên gọi là Kolkhozes. Tháng 6 năm 1929
chính phủ cho phát động toàn diện một kế-hoạch '' tập thể hóa toàn bộ
nông dân '' ; mục tiêu của kế-hoạch 5 năm này, là được xét lại để tăng lên, đả được Đại hội thứ 16 của Đảng Cộng-sản chuẩn y. Kế-hoạch này dự định sẽ tập thể hóa 5 triệu trung tâm, tức khoảng 20% các cơ
sở sản-xuất, từ nay cho đến ngày kết thúc kế-hoạch 5 năm. Qua đến tháng
6 người ta loan báo riêng cho năm 1930 sẽ có 8 triệu trung tâm, rồi
sang đến tháng 9 con số này lên đến 13 triệu trung tâm. Mùa Hè năm 1929,
chính quyền đả động viên vài chục ngàn người đảng viên cộng-sản và các đoàn viên các nghiệp đoàn, các thanh niên cộng-sản ( les komsomols ), các công nhơn và các sinh-viên, tất cả đều được đưa đi về các vùng thôn quê, những nơi sản xuất ra lương thực và đặt tất cả dưới sự hướng dẫn của các đảng viên địa phương và cơ quan Guépou. Áp lực vào các người nông dân gia tăng lên ; các tổ chức địa phương của Đảng thi đua để tranh các thành
tích kỷ lục về việc '' tập thể hóa ''. Ngày 31 tháng 10 năm 1929, báo
Pravada loan báo đả hoàn thành toàn bộ việc tập thể hóa không giới hạn các phong trào. Một tuần lể sau, nhơn dịp kỷ niệm lần thứ 12 củ cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917, Staline đả viết một '' bài báo phi thường '' dưới tựa đề : '' Khúc quanh lớn '' căn cứ các điều sai lầm căn bản và nhận định : Các người nông dân đả quay trở về các khu '' Tập thể hóa khai thác nông-nghiệp Kolkhozes ''. Chính sách NEP của Lénine đả bị cáo chung.
Stéphane Courtois et al.
Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản
Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 1. Chương 7
GIẢI TÁN QUY CHẾ ĐIỀN CHỦ Và CƯỠNG BÁCH CANH TÁC TẬP THỂ
Căn cứ theo các tài liệu vừa mới công khai hóa trước quần chúng, người ta thấy rằng chính sách canh tác tập thể là một cuộc tuyên chiến của nhà nước cộng sản chống lại toàn thể nông dân trên toàn nước Nga.
Riêng
trong năm 1930, nhà nước cộng sản lưu đày 2 triệu nông dân. Qua năm
1931, chính quyền bắt thêm một triệu tám trăm ngàn nông dân. 6 triệu
người chết đói vì không có đủ lương thực. Trên đường chở đến các trại lao động khổ sai, có hàng trăm ngàn người chết thê thảm. Các con số người chết trên đây đã nói lên tấm thảm kịch của chiến dịch tấn công nông dân do nhà nước cộng sản chủ mưu.
Ngoài các diễn biến xảy ra rong suốt mùa Đông 1929-1930, các cuộc đàn áp nông dân còn kéo dài thêm vài năm sau đó. Cao điểm của cuộc tàn sát diễn ra trong năm 1932 và 1933, với số người chết đói lên cao nhất. Đó là hệ quả của chính sách nhằm '' đánh tan âm mưu chống đối nhà nước của bọn nông dân ''. Chính sách đàn áp nông dân được coi như một thí điểm , lấy kinh nghiệm để sau này nhà nước áp dụng vào các thành phần xã hội khác. Học hỏi kinh nghiệm khủng bố là giai đoạn quyết định quan trọng trong chính sách khủng bố của Staline.
Trong
bản phúc trình gởi cho Ủy ban trung ương đảng trong phiên họp hồi tháng
11 năm 1929, ông Viatcheslav Molotov trình bày :'' Vấn đề tốc độ thi
hành chính sách tập thể hóa không quan trọng. Nếu từ nay cho đến đầu năm tới các đế quốc không tấn công chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được thắng lợi về kinh tế và sẽ thành công trong chính sách tập thể hóa.''
Chính quyền thành lập một uỷ ban đặc biệt soạn thảo lịch trình tập thể hóa với các chỉ
tiêu gia tăng. Ngày 5 tháng giêng năm 1930 nhà nước cộng sản cho thi
hành chương trình tập thể hóa nông nghiệp . Vào mùa Thu năm 1930, các vùng Bắc Caucase, vùng trung và hạ lưu sông Volga sẽ đi vào nề nếp làm ăn tập thể. Các vùng sản xuất nông sản lớn lần lượt vào tập thể trong vòng một năm sau.
Tất nhiên các hành động thi hành theo chỉ thị sẽ dẫn đến sự lạm quyền. Phải định nghĩa cường hào, phú nông như thế nào cho đúng nghĩa của nó. Người nào bị xếp vào hạng 2 và ai thuộc hạng 3,.. ? Sau nhiều cuộc tranh luận giữa các '' lý thuyết gia và các kinh
tế gia'' cộng sản, họ vẫn chưa tìm ra một tiêu chuẩn thích hợp nào cho
tầng lớp nông dân này. Về sau, vì phải đóng thuế càng lúc càng nhiều, các phú nông chẳng còn gì để gọi là '' phú'' nữa. Nhưng nhà nước vẫn căn cứ vào các lần thu thuế trước đây để gán cho các nông dân vốn đã bị cướp hết tài sản này là phú nông.
Theo chỉ thị, nông dân phải làm tờ khai chính xác tài sản của mình. Sau đó làm đơn chuyển nhượng tài sản cho hợp tác xã nông nghiệp. Tài sản của họ trở thành công quỹ. Nông dân không có quyền bán lại cho ai cả. Nhưng đối với các toán trưng thu, họ cho rằng đó là tài sản chung, cứ tự do xử dụng.
Toán công an tỉnh Smolenk phúc trình:'' Các toán trưng thu tịch thu cả áo lạnh của nông dân. Họ thích nhất là các quần áo lót, giày mang mùa đông và mùa hè, các đôi giày cao su, y phục phụ nữ, các cây cào than trong lò sưởi, các bình đựng nước,..Họ lấy luôn các chiếc gối của trẻ em, các chiếc bánh còn đang nướng trên bếp. Họ bóp nát các bánh và rãi lên các tượng thánh trên bàn thờ''.
Tài sản tịch thu được coi là tài sản của điền chủ phú nông nên bị đập phá thẳng tay cho bán đãu giá với một giá rất thấp. Các toán
trưng thu coi đây như là cơ hội để trả thù cá nhân. Ở nhiều vùng nông
thôn, 80 đến 90 % tầng lớp trung lưu bị ghép vào giai cấp phú nông. Các nông dân này, thay vì bán nông phẩm thặng dư cho các toán
trưng thu, trước đó họ đã bán ra ngoài dân chúng. Họ cũng bị bắt. Nông
dân nào có thuê người làm trong vòng hai tháng cũng bị bắt. Nhà nào có
hai bình nấu nước cũng bị tịch thu. Kể từ tháng 9 năm 1929, giết heo làm
thịt tức là không muốn bán heo cho các toán trưng thu, bị ghép vào tội cướp đoạt tài sản của xã hội để làm của riêng , cũng bị bắt.
Sau đợt đầu bị các toán trưng thu lợi dụng tình hình để trả thù cá nhân, cướp đoạt tài sản, nông dân ở các vùng nông thôn quyết tâm kết hợp thành một khối chống lại chính sách cướp tài sản và chương trình cưỡng bách tập thể nông nghiệp của nhà nước cộng sản.
Tháng
giêng, cơ quan tình báo địa phương ghi nhận 402 vụ nông dân biểu tình
chống đối. Tháng sau, 1048 vụ và trong tháng ba xảy ra 6528 vụ.
Vì bị chống đối quá mạnh, chính quyền cộng sản phải thay đổi kế hoạch.
Ngày 2 tháng 3 năm 1930, Staline viết trên các báo Liên Xô bài viết lịch sử của ông ta. Trong bài báo, ông lên án các vi phạm vào cái mà ông ta gọi là '' sự tình nguyện tập thể hoá'' cuả nông dân trong các hợp tác xã. Ông đề cập đến sự thái quá trong công tác tập thể hoá. Bài viết gây chống động trong hàng ngũ nông dân.Chỉ trong vòng 3 tháng, có 6 triệu nông dân rút ra khỏi hợp tác xã. Họ đòi lại dụng cụ, máy móc , trâu bò trong các khâu sản xuất. Tình hình xã hội trở nên rối loạn. Suốt trong tháng 3, Trung ương đảng cộng sản liên tục nhận báo cáo của các quan tình báo địa phương về các cuộc biểu tình chống chính quyền xảy ra ở các vùng Tây Ukraine, vùng trung tâm đất đen, vùng Bắc Caucase, vùng Kazakhtan. Chính quyền phải đưa các đơn vị quân đội đến giải tán 800 vụ biệu tình ở mức độ lớn trong số 6500 cuộc biểu tình đã xảy ra trong các vùng này.
Trên 1500 nhân viên nhà nước bị nông dân chống đối , gây thương
tích. Con số thiệt haị về phía nông dân không được công bố. Qua tháng
tư, nhà nước đưa ra một số điểm nhượng bộ nông dân. Trung ương gởi nhiều
chỉ thị xuống cho các cơ quan chính quyền địa phương, buộc phải thi hành chậm lại chính sách tập thể hóa. Trung ương cũng nhấn mạnh, cuộc chống đối của nông
dân có thể làm nguy hại đến chính quyền cộng sản và làm tiêu hao nhân
công viên nhà nước địa phương. Cuối tháng tư vẫn còn 1992 vụ biểu tình.
Đến mùa hè, mức độ chống đối giảm dần. Cuối tháng sáu có 886 vụ và trong
tháng 8 chỉ còn có 618 cuộc biểu tình.
Trong suốt năm 1930 có đến 2 triệu nông dân tham dự vào 14.000 cuộc biểu tình và nổi loạn bạo động chống lại chính sách trưng thu và cưỡng bách canh tác tập thể. Các cuộc chống đối thường diễn ra ở các vùng biên giới của Ba Lan va Lỗ Ma Ni, các vùng đất đen và vùng phía Tây Ukraine.
Phụ nữ đã đóng một vai trò then chốt trong các cuộc biểu tình chống đối. Họ xung phong đi đầu các cuộc biểu tình, vì họ nghĩ rằng các toán công an sẽ nương tay hay không đàn áp. Nông dân dùng kềm búa, gậy gộc, chĩa ba,.. xâm nhập vào các văn phòng của nhà nước địa phương đập phá và gây thương tích nhân viên. Nông dân chiếm các Xô
Viết trong vài giờ hay trong vài ngày. Họ đứng ra giải quyết một số vấn
đề hằng ngày cho dân chúng trong vùng. Họ lập hồ sơ khiếu nại đòi lại các dụng cụ canh tác, gia súc,..của quần chúng đã bị trưng dụng trước đây. Quần chúng làm đơn đòi giải tác các nông trường, các hợp tác xã,
đòi cho bán bán tự do và đòi trả tự do cho những người bị nhà nước cộng
sản bắt giam . Họ đòi hủy bỏ chính quyền Bônsêvich và đòi lại độc lập
cho Ukraine.
Các cuộc chống đối của nông dân trong tháng ba và tháng tư đã làm đảo lộn chương trình tập thể hoá của nhà nước. Nhưng nông dân chỉ thành công trong một khoảng thời gian rất ngắn. Điểm khác biệt với các cuộc nổi loạn của những năm 1920-1921 là lần này nông dân không có một cơ quan lãnh đạo thực thụ để hướng dẫn các cuộc chống đối thống nhất, đồng bộ và liên kết. Vì nông dân thiếu tổ chức nên lực lượng chính phủ đàn áp họ dễ dàng. Các lãnh tụ nổi tiếng của nông dân bị giết ngay trong các cuộc nổi loạn đầu tiên. Có đến 15.000 nông dân bị chính quyền bắt trong tháng ba năm 1930 tại vùng phía Tây Ukraine. Các toán
công an địa phương bắt giam 26000 người và đem đi hành quyết 650 người
trong nửa đầu tháng ba. Toà án đặc biệt kết án tử hình 20.200 người.
Theo chỉ thị số 44/21 của G. Iagod, các toán công an bắt 60.000 người và xếp họ vào'' hạng 1''. Các bản phúc trình hằng ngày của các toán
công an địa phương gởi về cho Iagod cho thấy lịnh lùng bắt thi hành tốt
đẹp. Bản phúc trình đầu tiên đề ngày 6 tháng hai, báo cáo bắt giam
15.985 người. Ngày 9 bắt thêm 25.245 người. Bản phúc trình mật đề ngày 15 ghi rõ đã thanh toán xong 64.589 ngừơi trong đó có 51.166 thuộc '' hạng 1 ''.
Thừa cơ hội này, các toán công an thẳng tay '' quét sạch các phần tử xa lạ với xã hội chủ nghĩa.'' Đó là các cựu cảnh sát của chế độ cũ, các sĩ quan Bạch quân, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các thương gia, trí thức,..
Trong bản phúc trình đề ngày 15 tháng 2 năm 1930, Iagod viết :'' Các vùng Tây Bắc và thành phố Leningrad không hiểu hay không chịu hiểu chỉ thị của chúng ta. Chúng ta bắt họ phải hiểu. Chúng ta còn có nhiều thì giờ để thanh toán các Linh Mục và các thương gia. Ngày nay trước mắt, chúng ta phải nhắm đúng vào mục tiêu là đánh vào các nông dân phản cách mạng.''
Cho đến giờ này chưa ai biết chính xác con số nạn nhân của chiến dịch '' Thanh toán cường hào địa chủ hạng 1''. Đó là các nông dân bị đày vào các trại lao động cưỡng bách chung thân. Mùa hè 1930, chính quyền cộng sản địa phương cho thành lập các trại lao động khổ sai . Toàn bộ các trại
cũ ở Solovski được dùng lại cộng thêm một số trại mới dọc theo bờ Bạch
hải , vùng Carelie và mở rộng đến Arkhangelsk. Ở phía Bắc, 40.000 tù
nhân xây con đường Kem-Oukhta và khai thác gỗ xuất cảng tại bến tàu Arkhangelsk. 40.000 tù nhân khác xây dưng đường xe lửa dài 300 cây số chạy qua Oust, Sysolsk và Piniong. Một con đường xe lửa khác dài 290 cây số nối liền Oust , Sysolsk với Oukhta.
Trong
vòng một năm rưỡi, từ cuối năm 1928 đến mùa hè 1930, con số tù nhân bị
đưa đi lao động khổ sai tăng lên 3,5, tức là từ 40.000 lên đến 140.000.
Kết quả của chính sách cưỡng bách lao động của tù nhân đã khuyến khích chính quyền cộng sản mở thêm các trung tâm cải tạo lao động khác. Tháng 6 năm 1930, chính quyền quyết định cho đào con kinh dài 240 cây số từ biển Baltiques qua vùng Bạch Hải. Phần lớn của con
kinh phải đào qua vùng đá hoa cương. Vì thiếu phương tiện kỹ thuật cơ
giới, nên nhà nước đã tung vào dự án này 120.000 tù nhân. Nhờ vào chính sách
giải thể chế độ điền chủ vào mùa hè 1930 nên mới có đủ con số nông dân
bị bắt lao động, cung cấp cho dự án đào kinh. Họ làm việc với các dụng cụ thô sơ như cuốc , xẽng, xe cút kít,..
Trên
thực tế, con số nông dân giải thể lên đến 700.000 người vào cuối năm
1930. Chính quyền không đủ nhân viên quản lý. Tình hình trở nên hỗn loạn
khi nhà nước mở chiến dịch bắt nông dân ''hạng 2 và hạng 3''. Họ bị bắt
đưa đi lưu đày và bỏ quên ở đó. Nếu xét về mặt kinh tế, quả là con số
không cho nhà nước. Chính quyền dự tính giải thể nông dân, khai thác sức lao động của tù nhân trong các vùng hoang dại phong phú tài nguyên, nhưng cuối cùng chẳng được gì cả.
Vào các tuần
lễ đầu tháng 2 năm 1930, Bộ chính trị Trung ương cộng sản chấp thuận kế
hoạch khởi đầu chiến dịch lưu đày nông dân cấp hai. Đợt đầu tiên hoàn
tất cuối tháng tư. 45.000 gia đình đưa đi miền Bắc và 15.000 gia đình
đến vùng Oural.
Ngày 16 tháng hai, Lenine gởi điện văn khiển trách Eikke, bí thư thứ nhất của Ủy ban nhân dân vùng Tây Siberie vì lý do vùng này chưa sẵn sàng để tiếp nhận 15.000 gia đình đến định cư.
Trong thư trả lời, Eikke biện minh vì số tiền dự tính chi tiêu để tiếp nhận định cư 40 triệu Rúp, cho đến nay ông ta chưa nhận được.
Sự kiện trên cho thấy nhà nước tổ chức không ăn khớp với nhau. Nông dân bị bắt và bị nhốt khắp nơi. Họ bị nhốt tại các trại
lính cũ, tại văn phòng Xô Viết, tại nhà ga,..Do vậy có rất nhiều người
trốn thoát. Công an dự tính chuyển đợt đầu phải cần đến 240 đòan xe lửa.
Mỗi đoàn gồm có 150 toa trong đó có 44 toa dùng để chở súc vật, nay
trưng dụng chở người, 8 toa chở lương thực và một ít dụng cụ riêng tư
được phép mang theo và một toa chở lính hộ tống. Mỗi gia đình được phép
đem theo không quá 480 kg.
Giữa mùa Đông, đoàn xe dừng lại chờ lịnh trên để biết là phải chở các gia đình này đến nơi nào. Họ sống chật vật trên các toa xe lửa trong cái lạnh cắt da của mùa đông ở nước Nga. Vì thiếu vệ sinh và phải sống chật vật trong các toa xe nên bịnh truyền nhiễm phát sinh. Không biết bao nhiêu người chết trên con đường đi lưu đày.
Khi đoàn xe đến nơi quy định, công an tách rời những người đàn ông còn khỏe mạnh ra khỏi gia đình của họ, cho tập trung vào các chòi lá xây cất vội vàng. Sau đó họ bị dẫn đi sâu vào trong các cánh
rừng để khẫn hoang. Mùa hè, họ đi bộ hay đi bằng những chiếc xe , thay
phiên nhau đẫy. Mùa đông họ đi bằng xe trượt tuyết. Nông dân hạng ba
cũng cùng chung số phân với nông dân hạng hai. Nhưng vào chặng cuối,
nông dân hạng ba được đưa vào vùng nội địa, vùng đất quen thuộc của họ. Họ coi đó như là một ân huệ. Các vùng này ở Siberie, Oural rộng bao la, hàng trăm ngàn cây số vuông.
Trong
bản phúc trình đề ngày 7 tháng ba năm 1930 chính quyền địa phương Tomsk
thuộc vùng Tây Siberie có đề cập đến toán nông dân hạng ba. Họ đến
không có xe trượt tuyết, cũng không có ngựa. Thật ra nông dân hạng ba
còn có quyền giữ gia súc của mình. Nhưng những con ngựa khỏe mạnh của họ bị công an đổi các con
ngựa yếu đuối, không thể nào còn sống sau đoạn đường dài 300 cây số. Vì
không có ngựa cũng như không có xe trượt tuyết nên họ không thể mang
theo nhiều lương thực và dụng cụ canh tác mặc dù họ được quyền đem theo.
Ủy
ban nhân dân vùng Siberie cũng gởi bản phúc trình có nội dung như bản
phúc trình trên. Bản phúc trình trình bày sự phi lý và không thể thực
hiện công tác định cư của 4921
gia đình nông dân hạng ba tại một vùng thuộc tỉnh Novossibizsk. Bản
phúc trình ghi nhận :'' Việc chuyển vận trên con đường tồi tệ dài 370
cây số với số lượng thực phẩm 8560 kg, cùng với rơm rạ cho ngựa ăn, kéo
dài trong hai tháng, phải cần đến 280909 con ngựa và 7227 ngân viên chăm
sóc ngựa. Một khi hoàn tất kế hoạch chuyển người, chắc chắn sẽ làm chậm
trễ vụ mùa vì các con ngựa sau chặng đường dài , không còn đủ sức để kéo cày. Cho nên phải xét lại kế hoạch và giảm bớt lương thực đem theo''.
Và như vậy, các gia đình nông dân sẽ không có đủ lương thực để sinh sống, không đủ dụng cụ để canh tác và khi đến nơi , họ không có nơi cư trú. Họ bị bắt buộc định cư với những cái '' không'' này.
Tháng
9 năm 1930, Ủy ban nhân dân vùng Arkhangelsk cho biết chỉ có thể xây 7
căn trại trong số 1641 trại như đã dự tính. Gia đình nào may mắn còn
mang được theo các dụng cụ canh tác, họ đào lỗ, chặt cây phủ lên và chun vào đó sống qua mùa đông. Họ sống trong các cánh đồng cỏ hay ven bờ rừng. Một số người đưa đi canh tác ăn và ở tại các khu làm việc.
Chính sách giải thể chế độ điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể trong những năm 1930-1931 đã chính thức đưa lưu đày 1.803.392 người. Biết bao nhiêu người chết trong các vùng'' kinh tế mới ''. Trong văn khố của tỉnh
Novossibizsk còn lưu trự một bản phúc trình rất quan trọng, gởi cho
Staline vào tháng ba năm 1930. Bản phúc trình do Ủy viên tuyên huấn đảng
bộ Narym báo cáo. Ông trình bày số phận của hai
đoàn xe và người xuất phát từ Mạc Tư Khoa và từ St. Petersboug. Hai
đoàn khởi hành trễ hơn dự tính. Họ không thuộc hạng nào cả. Họ là những
người bị loại ra khỏi xã hội của cộng sản vào cuối năm 1932. Đó là thành phần đưa đi lưu đày và vứt bỏ luôn. Một đoạn kinh hoàng của bản
phúc trình ghi lại như sau : '' Ngày 29 và 30 tháng tư năm 1933, hai
đoàn người bị xếp vào loại ngoại hạng, bị tống ra khỏi Mạc Tư Khoa và
St. Peterbourg bằng xe lửa. Khi đến thành phố Tomsk, một toán 5070 người
bị đưa xuống tàu để chuyển ra đảo Nazino vào ngày 18 tháng 5 và toán
sau 1044 người đến ngày 26 tháng 5. Đảo Nazino nằm giữa cửa sông Ob và
Nazina. Phương tiện chuyên chở thật kinh hoàng. Thức ăn thiếu thốn,
không có chỗ chen chân, thiếu không khí. Người già và người bịnh , không
chịu nổi. Hằng ngày con số người chết từ 35 đến 40. Tuy vậy, họ cho
rằng vẫn còn sướng hơn khi đến đảo Nazino. Tại đảo, họ bị chia ra từng
toán nhỏ, đưa đi định cư ở những vùng hẻo lánh ven sông Nazina. Nazino
là hoang đảo hoang, không có dấu vết của sự sống. Họ đến, không đem theo hạt giống, không dụng cụ canh tác,
và cũng không có lương thực để sinh sống qua ngày. Với điều kiện đó, họ
bắt đầu một cuộc sống mới. Ngày hôm sau , trời bão tuyết. Vừa không có
thức ăn, vừa không có chổ che thân, họ sống trong tình trạng tuyệt vọng.
Họ tìm cách
nhúm lửa ngồi hơ ấm. Qua đến ngày thứ tư, thứ năm, chính quyền mới cho
tàu đem bột mì đến chia cho họ, mỗi người vài trăm gram. Họ dùng áo, nón
đựng bột rồi chạy ra ngoài sông lấy nước trộn bột. Một vài người đói
quá, ăn vội bột sống, nghẹt thở chết tại chỗ. Bột mì là lương thực duy
nhất mà họ thỉnh thoảng nhận được của nhà nước. Số lượng bột chẳng bao lâu khô cạn. Vì đói, tình trạng người ăn thịt người đã diễn ra.
Cuối tháng 6, nhà nước chuyển ho đến các làng khai hoang, cách đảo Nazino chừng 200 cây số. Làng khai hoang nằm về phía thượng lưu sông Nazina, giữa cánh rừng bao la Taiga. Đó là một vùng hoang dã. Công việc đầu tiên của họ
là xây lò nướng bánh mì. Cái cảnh túng quẫn ngồi quanh bếp lửa lại diễn
ra. Ở đây cứ 4 ngày, tù nhân được phân phối bột mì. Người chết vẫn tiếp
tục xảy ra hằng ngày. Sau đó, vì không thể tiếp tục sống ở khu vực này,
nhà nước chuyển họ về phía hạ lưu sông Nazina.
Trung tuần tháng 7, nhà nước phát dụng cụ xây cất doanh trại cho những người còn sống sót. Họ xây cất đơn sơ. Một phần chiều cao của trại nằm sâu dưới đất. Mặc dù cuộc sống tương đối khá hơn trước nhưng tình trạng ăn thịt người vẫn còn diễn ra.Họ bắt đầu canh tác. Sức khỏe của họ
vẫn còn yếu. Người tiếp tục chết. Lúc khởi hành ra đi ở sân ga Tomsk
hồi tháng 4 với con số 6100 người, thêm vào đó chừng 500 đến 700 dân địa
phương hay ở những vùng khác đưa tới, đến tháng 8, chỉ còn sống sót có 2200 người.
Nhiều vùng trên đất Nga xảy ra các cảnh tương tự như ở trên đảo Nazino.
Bao nhiêu người bị lưu đày? Và bao người đã bỏ thây?
Từ
tháng 2 năm 1931 có chừng 1.800.000 nông dân bị cướp đoạt ruộng đất và
bị lưu đày. Đến tháng giêng năm 1932, khi nhà nước kiểm kê lại, thì chỉ
còn có 1.317.022 người còn sống sót. Như vậy, con số người chết lên đến
nửa triệu, tỉ lệ 30%. Thật ra trong số nửa triệu đó cũng có một số trốn
thoát. Trong năm 1932, các toán công an địa phương kiểm tra thường xuyên những người còn sống sót. Công an chịu trách nhiệm chuyển từ nơi xuất phát và tiếp nhận tại các nơi đînh cư. Các cuộc điều tra của công
an cho biết có tất cả 210.000 người trốn trại và có 90.000 chết. Trong
năm 1933 xảy ra nạn đói lớn làm chết 151.000 người, trong trên tổng số
1.420.000 đi vùng kinh tế cưỡng bách.
Tỉ lệ người chết là 6,8% trong năm 1932 và 13,2% trong năm 1933. Trước
đó, con số người chết chỉ được kiểm kê từng vùng. Nhưng tỉ lệ người chết
không ít. Trong năm 1931, ở Kazakhtan có 1,3% người chết. Ở vùng
Siberie con số chết tăng lên mỗi tháng 0,8%. Trẻ em chiếm từ 8% đến 12%.
Tại vùng Magnitogorsk, 15%.
Tổng cộng trong 3 năm, con số người chết trong các vùng lao động cưỡng bách khổ sai là 300.000.
Đối với chính quyền trung ương, kế hoạch thu lợi sức lao động của những người mà họ gọi là '' lưu đày đặc biệt'' mà qua năm 1932 họ đổi lại là những người '' lao động khai hoang'', là chính sách
đem con bỏ chợ. Chính quyền trung ương thờ ơ, nhân viên thuộc cấp làm
việc lấy lệ. Ông N. Pouzitski, một trong những nhân viên đặc trách
định cư người lưu đày nhận định rằng đó là một sự ''thờ ơ chết người'',
chỉ vì chính quyền địa phương không ý thức gì về chính trị và không am
tường khả năng khai hoang của những người lưu đày.
Tháng 3 năm 1931, chính quyền thành lập một ủy ban đặc biệt dưới quyền lãnh đạo của V. Andreiev và Iagoda, nhằm chận đứng sự phung phí nhân lực của những người lưu đày. Ủy ban chịu trách nhiệm trực tiếp với Bộ chính trị trung ương của đảng cộng sản Nga. Nhiệm vụ của ủy ban là quản lý hữu hiệu và hợp lý con số nhân công lao động khổ sai. Qua các cuộc điều tra sơ khởi, ủy ban nhận định năng suất lao động của lớp nhân công lưu đày chỉ là con số không. Chỉ có 8% trong số 300.000 người trong vùng Oural được chỉ định đi khai thác gỗ va đi lao động sản xuất. Còn số người khỏe mạnh khác đi làm các công tác xây cất nhà ở hay làm các công việc khác cho có lệ. Một tài liệu khác cũng xác nhận chính sách giải thể nông nghiệp cá thể đã làm cho nhà nước thất thu rất nhiều. Giá trị trung bình tài sản tịch thu của nông
dân vào năm 1930 chỉ tương đương với một số tiền là 564 Rúp cho mỗi cơ
sở sản xuất. Đó là con số quá nhỏ, chỉ bằng nửa tháng lương của người thợ. Nhưng đối với nông dân lưu đày, số tiền này tương đối dễ chịu.
Để
có thể quản lý nhân công lao động hợp lý, Ủy ban đặc biệt tái tổ chức
cơ cấu hành chánh. Vào mùa hè năm 1931, công an đứng ra chịu trách
nhiệm quản lý hành chánh. Trước đó, công việc này trực thuộc chính
quyền địa phương. Ủy ban cũng thành lập một cơ quan hành động và một cơ
quan tình báo. Các cơ quan này được hưởng quyền bất khả xâm phạm và chịu trách
nhiệm kiểm soát một vùng đất bao la và một số người khai hoang đông
đảo. Ủy ban cho ban hành quy chế kiểm soát chặt chẽ. Họ chỉ định nơi
định cư và phân phối công tác lao động ở các nông trường, xí nghiệp , hợp tác xã, công trường xây dựng, cơ sở bảo trì hay tu bổ và các trục lộ giao thông. Nhân công lưu đày làm việc theo chỉ tiêu lao động và được hưởng quy chế lương bỗng đặc biệt. Thường, chỉ tiêu này bằng 30% hay 40% so với nhân công bình thường. Cơ quan công an giữ lại 15% hay 20% tiền lương của nhân công để làm quỹ cho cơ quan.
Tháng
3 năm 1933, tại vùng Tây Bá Lợi Á, chính quyền bắt đầu tái tổ chức lực
lượng nhân công. Họ chia 203.000 nhân công ra làm 83 hệ thống chỉ huy
dưới sự quản lý của 971 nhân viên nhà nước. Khi các xí nghiệp nhận nhân công, họ phải trả tiền cho cơ quan quản lý. Ngoài ra cơ quan quản lý còn ăn tiền theo tỉ lệ bách phân trên tiền lương của nhân công lao động cưỡng bách.
Trên nguyên tắc, các công ty phải lo nơi ăn chốn ngủ cho công nhân lao động. Nhưng trên thực tế, các công ty coi thường . Họ đánh giá những người này chỉ là một nửa nhân công tự do và một nửa là miễn phí. Đúng là một nguồn nhân lực miễn phí. Thường các nhân
công này không được lãnh tiền. Và nếu có lãnh, thì chỉ lãnh một ít. Số
còn lại, bị khấu trừ vào tiền ăn, tiền cư trú, tiền sắm sửa các dụng cụ lao động, tiền quỹ nghiệp đoàn, tiền công khố phiếu nhà nước.
Những người lao động khổ sai bị đối xử như những người vứt bỏ, phế thải. Họ thường
bị bỏ đói, hành hạ, lạm dụng và khinh rẻ. Họ phải lao động với một chỉ
tiêu vượt mức khả năng, làm việc không trả lương, bị đánh đập và bị nhốt
trong các phòng tối không có lò sưởi. Các ban
quản lý có quyền trao đổi công nhân lao động khổ sai với nhau , hay
trao đổi họ với hàng hóa. Một số ban giám đóc trại xử dụng công nhân
phục vụ cho công việc riêng tư của họ. Nếu có công nhân nào chết thì sẽ có các công nhân khác thế vào.
Từ năm 1932, chương trình định cư tại các vùng hoang dã giảm dần. Chính quyền đưa nhân công lao động cưỡng bách vào làm việc tại các đại công trường xây cất và các trung tâm kỹ nghệ , các khu hầm mỏ. Tại một số địa phương, công nhân lao động cưỡng bách làm việc chung với công nhân thường. Họ sống chung với nhau trong các căn nhà gỗ chật hẹp.
Cuối năm 1933, có 41.000 nhân công lao động cưỡng bách phục vụ trong công trường hầm mỏ Kouzbass.
Tại vùng Magnitogorsk, con số công nhân lưu đày lên đến 42462 người, chiếm 2/3 dân số trong vùng.
Nhờ định cư trong các vùng đặc biệt và cũng nhờ làm việc chung với các công nhân bình thường, công nhân lưu đày cảm thấy giảm đi sự cách biệt. Và nhất là vì lý do kinh tế, các nông
dân trước đây bị giải thể , ngày nay bắt đầu hội nhập vào đời sống xã
hội mới. Cái xã hội mà họ đã từng chịu đựng quá nhiều trừng phạt .
Và ai biết được, người nào trong cái xã hội này sẽ bị khai trừ trong ngày mai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét