HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2
Xin bạn đọc chú ý: Những sự việc tình cảm trong hồi ký phần lớn thuật lại theo thứ tự thời gian đã sống. Song có những trường hợp thuật lại theo thứ tự của dòng hồi tưởng, khớp với lô-gíc của trí nhớ. Hồi ký viết năm 1986.
Tháng
10-1927, tôi đã lên học lớp tư trường Dị Long được một tháng, thì một
buổi chiều trời hơi mưa và gió lạnh, có người vào lớp cho tôi biết là có
người nhà bà ngoại tôi ở dưới Hạ lên, muốn gặp tôi ngay. Tôi ra thì gặp
cố Chắt Lượng người họ rất thân với mẹ tôi. Cố cho biết mợ Vân tôi (cậu
Vân là em trai mẹ tôi) sắp vào Thừa Thiên, và muốn đem tôi đi, cho tôi
vào ăn học trong đó. Tin đột ngột này làm tôi bỡ ngỡ, nhưng tôi cũng
khấp khởi mừng thầm được đi, nhất là được bảo đảm ăn học, vì nhà tôi
nghèo lắm nếu tôi cứ tiếp tục học ở Dị Long thì chắc cũng chỉ đến lớp
nhất, lấy cái bằng tiểu học rồi là về nhà... Tôi xin phép thầy nói là về
nhà có việc trở vào chào bác Nhỡn, rồi tôi cùng cố Chắt Lượng đi nhanh
về nhà tôi ở xã Ân Phú. Mấy hôm ở Dị Long và Ân Phú mưa ít, nhưng ở
nguồn mưa to nước lũ đang đổ về. Từ xóm dưới làng tôi đi ngược về xóm
nhà tôi nước đã lấp xấp ngang bắp chân. Tôi về đến nhà thì thầy mẹ tôi
cũng đã biết tin do bà ngoại nhắn lên vài tiếng đồng hồ trước. Thế là cả
nhà cấp tốc chuẩn bị cho tôi đi vào ngày hôm sau. Nói là chuẩn bị, sự
thực thì chỉ gói vài cái quần áo, mấy quyển sách học và vài quyển vở.
Trưa hôm sau, trời còn hơi mưa, tôi đứng nơi thềm nhà nhìn những giọt
mưa từ mái tranh rỏ xuống rãnh sân nhà buồn đứt ruột. Tôi lại đi thờ
thẫn quanh nhà một lần nữa, nhìn vườn rau còi, nhìn cây mít cà, nhìn đõ
ong mà chậu nước dưới chân giá đã mốc meo, nhìn cây quế bên nhà long
thần bị trâu cọ mình vào hơi nghiêng... Nhìn tất cả cảnh vật quen thân
mà lòng tôi não ruột. Chú Cu tôi biết tôi sắp đi, cũng chạy sang đưa cho
mẹ tôi mấy quan tiền, gọi là tiền đi đường cho cháu. Tôi đi chào bà con
ở gần nhà nhất, và hơi xế trưa mẹ tôi dắt tôi đi bộ xuống xóm dưới, gọi
là xóm Boóng. Ở bến xóm Boóng sẽ có dượng Nuôi Ty đem đò đón để đưa mẹ
con tôi về bến bà ngoại ở làng Tùng Ảnh. Từ xóm nhà tôi đến bến xóm
Boóng nước lụt đã lên cao hơn hôm trước, mẹ con phải bì bõm lội từng
chặng dài, có nơi lút đến ngực tôi. Mẹ tôi phải đi rất thong thả, vì
đường có bùn trơn ở dưới, và phải dò từng bước sợ tụt xuống hố, và tay
phải dắt tôi từng bước một. Nước lụt thì lạnh, mà mẹ con tôi đều không
có áo ấm, khi có gió lạnh thổi tôi run cầm cập. Mẹ tôi chỉ cắn răng lại
và bảo tôi “Cố gắng lên con, về nhà bà ngoại sẽ ngồi bếp ấm”, “Cố gắng
mà đi, may mà học nên người quay lại về nhà thì khổ lắm, và xấu hổ
lắm.... Cứ như vậy hai mẹ con trườn từng bước cho đến bến xóm Boóng, lúc
đó trời đã xế chiều, sông tạnh vắng. Dọc đường có gặp một vài người
quen ở xóm dưới, họ đều hỏi: “Mẹ con đi đâu mà vất vả thế, sao không chờ
cho nước rút hẳn hãy đi.... Mẹ tôi chỉ cười qua quít và đáp: “Về thăm
bà ngoại...; mẹ tôi không muốn cho ai biết là tôi được đi học xa. Ra đến
bến thì thấy dượng Nuôi Ty (chồng o Biên, con gái nuôi của ông bà nội
tôi) chờ sẵn, đò buộc vào một gốc sung ở bến. Hai mẹ con lên đò, dượng
Nuôi Ty một mình chèo đò xuôi.
Nước sông
dường như đã chững lại, lụt bắt đầu rút nhưng cảnh sông nước mênh mông
với những củi rều trôi giạt lềnh bềnh làm cho tôi đang buồn xa nhà lại
bùi ngùi thêm. Mẹ tôi thì chỉ nóng ruột, mong sao cho mau đến bến bà
ngoại, là bến Đình, dưới chân đê, quá đồn Linh Cảm chừng cây số rưỡi.
Lúc đò qua đồn Linh Cảm, ở dưới bến là ngã ba Tam Soa (ngã ba sông, một
nhánh đi về Hương Sơn, một nhánh đi về quê tôi) tôi lại càng nhớ nhà, ứa
nước mắt, vì bao nhiêu lần tôi đã theo mẹ tôi về thăm bà ngoại, ghé bến
Tam Soa này lúc đi cũng như lúc về. Mẹ tôi lại giục dượng Nuôi Ty chèo
thẳng về bến Đình...
Về sau, trong một bài thơ, tôi có nhớ cảnh ngã ba sông Tam Soa mà viết mấy câu sau đây:
Tới ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê
Làng xa lặng lẽ sau tre trúc
Bến cũ thuyền em sắp ghé về...
Đò
cặp bến Đình, thì mẹ con vội vàng chạy vào nhà bà ngoại, bên cạnh một
cái đền thờ gọi là “nhà thánh”. Bà tôi mừng quá, vì bà đang lo mẹ con
không về kịp thì mợ Vân đi mà không đem tôi đi được. Mợ Vân nói: “Hai vợ
chồng tôi hiếm hoi (lúc đó mợ đã đẻ mấy lần sinh mà không nuôi được),
anh chị lại túng bấn, nên tôi có bàn với bà là nói anh chị cho thằng
cháu (tức là tôi) vào với chúng tôi, cháu sẽ ăn học cho đến đỗ Prime rồi
sau sẽ tính.... Mẹ tôi sung sướng cảm ơn cậu mợ và ứa nước mắt... Sau
đó, bà ngoại tôi ngồi bên bếp nói riêng với mẹ tôi: “Tội nghiệp nó hiếm
hoi, tao cũng bàn mãi với nó để vợ chồng nó nhận cho thằng cháu vào ăn
học... Thế là mẹ cũng yên lòng, vì mẹ thấy số kiếp con lận đận quá”, nói
xong bà ngoại cũng ứa nước mắt. Lúc đó cậu giáo (là con trưởng của bà
ngoại) đi vào thấy mẹ con tôi thì cậu nghiêm nét mặt hỏi: “Xuống làm chi
đó?”. Mỗi lúc tôi gặp cậu, tôi cứ sờ sợ, vì tôi có cảm giác cậu không
thương mẹ tôi lắm, và mẹ tôi hễ gặp cậu thì cũng né né, nhất là lần này
sợ cậu phản đối việc mợ Vân đem tôi đi cho ăn học... Nhưng cậu hỏi qua
thế thôi, vì hình như bà ngoại cũng đã nói qua với cậu việc này, và cậu
cũng đã đồng tình, không có cớ gì để ngăn trở... Thế là qua phút hồi hộp
của mẹ tôi. Tối hôm ấy tôi ngồi bên bếp của bà ngoại thấy thật ấm lòng.
Bà ngoại thương mọi người con đều nhau, nhưng dường như thương mẹ tôi
nhiều hơn một chút, vì gia cảnh nhà tôi nhiều chuyện buồn, vì mẹ tôi khổ
trăm bề, mà bà ngoại cũng chưa có cách gì cứu giúp mẹ tôi. Về sau lớn
lên, học ở Huế, học ở Hà Nội, mỗi kỳ nghỉ hè về quê, bao giờ tôi cũng
ghé thăm bà ngoại trước. Dù tôi đã lớn, bà vẫn xem tôi như trẻ nhỏ, cho
tôi ăn từng bát cơm nếp, từng củ khoai lang, khoai giong, từng bát lạc
luộc... Khi về già, người bà nhỏ chắt lại cũng như bà nội tôi, nhìn bà
tôi thương lắm.
Người bà nhỏ lại,
nhưng giọng bà nói vẫn vang, vẫn rõ lời, vẫn ung dung thư thái. Lòng bà
rộng lượng hải hà, thương người, ít giận ai lâu. Mẹ tôi cứ vừa đến cửa
nhà bà là oà ra khóc, khóc vì tủi phận; mỗi lần thế bà lại phải an ủi,
dỗ dành mẹ tôi. Đêm hôm ấy mẹ tôi mợ Vân và bà tôi ngồi nói chuyện với
nhau lâu, câu chuyện xoay quanh việc cậu mợ Vân nuôi tôi ăn học.
Mợ
Vân lúc đó khoảng 26, 27 tuổi, người mảnh dẻ răng nhuộm đen, bít khăn
nhung đen, tóc bỏ đuôi gà bận áo dài lụa đen... Nét mặt mợ không nghiêm
nhưng cũng không tươi cười, mợ nói chuyện thong thả, lời rành mạch. Mợ
chỉ mong thằng cháu (tức là tôi) ngoan chăm học. “Trước là giúp anh chị,
sau cũng là đỡ buồn cảnh nhà tôi hiếm hoi. Và cũng vui lòng mẹ (chỉ bà
ngoại tôi)”. Thái độ và lời nói của mợ cũng làm tôi yên tâm. Lúc đó tôi
mới 8 tuổi, nhưng tôi đã có nhiều cảm giác về tình đời, tình người. Mợ
chỉ dặn dò tôi: “Đi đường phải cho ngoan, phải đi theo sát mợ kẻo mà
lạc. Muốn chi thì hỏi mợ, còn phải đi nhiều chặng đường, có đoạn đi xe
hơi, có đoạn đi tàu hoả”.
Hôm sau hai mợ
cháu tôi đi xuống Vinh, ghé nhà cậu Dương là em trai mẹ tôi, cũng làm
giáo học ở Vinh. Ở Vinh một hôm, tôi chỉ ở nhà cậu Dương không đi đâu,
chỉ sợ lạc thì mất đi học. Lúc bấy giờ tôi vẫn nhớ nhà nhưng lại háo hức
sớm đi vào Quảng Điền (Thừa Thiên) để học trường mới. Ở nhà cậu Dương
được một hôm thì mợ Vân và tôi mua vé xe hơi của hãng Phạm Văn Phi đi từ
Vinh vào đến bến đò Long Đại ở Quảng Bình. Lần đầu tiên được ngồi xe
hơi, tôi thích quá nghe xe nổ máy, tôi xin mợ cho đổi chỗ ngồi sát cửa
xe để xem cảnh bên đường. Lúc bấy giờ, mặc dù khá đông khách đi xe, chỗ
ngồi trong xe vẫn tương đối rộng, không chen chúc lắm, xe chạy tốc độ
vừa phải cho nên đi đường khá thoải mái, và là một cái thú đối với tôi.
Tôi thấy hai người trẻ tuổi, một nam một nữ, ngồi gần nhau nói chuyện
thủ thỉ, có vẻ rất thân mật thì tôi nói nhỏ với mợ tôi “Mợ ơi, chắc là
hai người thương nhau (yêu nhau) lắm!”. Mợ tôi nghiêm nét mặt: “Mặc kệ
người ta? Ngồi im, những đoạn xe lắc thì tay nắm chặt vào cửa cho khỏi
ngã.... Xe đi qua đèo Ngang có đừng lại một lúc. Mọi người xuống xe,
người thì ăn cơm, người thì đứng ngắm cảnh, tôi và mợ tôi ăn cơm nắm với
cá nục nướng...
Tôi vừa ăn cơm, vừa nhìn
cảnh; cây cối thì tôi quen rồi, cũng giống gần như cây cối ở núi Mồng Ga
quê nhà. Nhưng một điều hết sức lạ lùng đối với tôi là biển mênh mông ở
dưới chân đèo. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với biển, vừa choáng ngợp
trước sự bát ngát không bờ của biển, vừa cảm thấy có cái gì thu hút tôi
từ mặt nước xa khơi. Nắng ngả chiều, gió se lạnh những bụi cây thấp trên
đèo rạt theo gió làm tôi nhớ đến những buổi chiều cuối năm chăn trâu
trên núi...
Lúc bấy giờ tôi chưa biết bài
thơ của Bà Huyện Thanh Quan nhưng nhìn xuống chân đèo, thấy một khóm nhà
trong nắng chiều vàng yếu tôi cũng cảm thấy buồn man mác... Nghỉ xong
một lúc, xe hơi lại tiếp tục xuống đèo rồi đi thẳng đến bến Long Đại
(cũng gọi là bến Hàu, tức là bến đò sông Nhật Lệ). Lúc bấy giờ đường xe
lứa từ trong Nam đi ra, mới đến bến Hàu. Ở ngoài Vinh đi vào bằng xe
hơi, qua bến Hàu bằng phà và đáp xe lửa từ bến Hàu đi vào Nam. Mợ cháu
tôi qua phà trời gần tối, nước sông Gianh nổi sóng khá to sóng vỗ vào
mạn phà tung tóe lên, tôi ướt cả người. Mợ tôi nắm chặt tay tôi, cứ sợ
tôi ngã xuống nước. Từ bé tôi chỉ mới quen với con sông La (cũng gọi là
sông Thâm) hẹp và hiền ở quê tôi, nay lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một
con sông lớn, sóng to, lại vào lúc hoàng hôn trong chuyến đi xa nhà...
tất cả những điều đó làm cho tôi bàng hoàng và rợn ngợp.
Nhưng
mặt khác lòng ham biết cái lạ, tính tò mò trước những cảnh mới cũng làm
cho tôi nguôi bớt nỗi bàng hoàng... Qua bến phà Long Đại, mọi người tấp
nập lên xe lửa (vé đã mua từ ở Vinh) đã đỗ sẵn chờ khách. Bậc lên toa
xe lửa cao quá đối với tôi, mợ tôi phải nhờ một người hành khách kéo tôi
lên và mợ tôi theo sau. Tôi nhìn dưới bánh xe lửa thấy đường đổ đá
trắng và xám, như là còn mới, tôi rất ngạc nhiên...
Trước
đây, có một lần tôi theo bà nội sang ga Phụng Công để xem bắc đường xe
lửa tôi cũng đã trầm trồ như thế. Bước lên toa xe lửa, lại là một sự
khám phá mới đối với tôi. Mái toa xe cao người có thể đi lại trong toa
chứ không như trong xe hơi...
Xe lửa chạy
qua Quảng Bình, vào đất Quảng Trị đường sắt sát cạnh những đụn cát trắng
tinh rất đẹp nhưng cây cối lơ thơ và cằn cỗi... Xe vào đất Thừa Thiên
thì cây cỏ xanh mượt hơn nhiều, ruộng đồng cũng tươi mát. Tôi nhìn hai
bên đường thấy các bà, các chị ở dưới cánh đồng bận quần như đàn ông chứ
không phải vận váy như ở quê tôi, đó là một điều ngạc nhiên đối với tôi
lúc đó. Dọc đường, ở các ga đã có những người vùng Quảng Trị, Thừa
Thiên lên xe, giọng nói nhẹ hẳn đi, không như giọng nói Hà Tĩnh quê tôi
trầm và nặng. Lần đầu tiên tiếp xúc với tiếng Huế, với giọng Huế, tôi có
cảm giác lâng lâng, êm ái mà lại thấm thía. Về sau, sống ở Huế mười năm
trong cái tuổi lớn lên, từ 10 đến 20 tuổi (1929-1939) tôi càng cảm nhận
và thấu hiểu cái giọng Huế nhẹ nhàng và ấm sâu thân tình và ân tình,
cái giọng dường như lướt trên mặt nước, mà lại sâu thẳm trong lòng sông.
Sau này tôi có viết tặng một người bạn gái quê ở Huế một bài thơ, chủ
yếu là ca ngợi cái giọng Huế của bạn:
Giọng em vang vọng trời quê Huế
Nhẹ thoảng xanh veo mà xốn xang
Nồng cháy như mồi thống núi Ngự
Giọng em nửa thực nửa mơ màng.
Chỉ một lần nghe đủ nhớ đời
Huống chi anh được đón bao lời
Bâng khuâng em nói trong chiều lạnh
Ngơ ngẩn lòng ta Huế Huế ơi...
Trở
lại tuổi nhỏ của tôi. Đến ga Văn Xá (thuộc huyện Quảng Điền), thì cậu
tôi và anh Đông (người loong toong của trường) ra đón. Từ ga Văn Xá về
huyện lỵ Quảng Điền, nơi cậu tôi làm hiệu trưởng trường tiểu học, cậu
tôi và anh Đông đi xe đạp, mợ tôi và tôi ngồi xe kéo, mà anh Đông đã
thuê trước.
Nhà cậu tôi là một ngôi nhà
gianh ở giữa cánh đồng bên cạnh một con đường huyện đắp cao. Xung quanh
nhà trồng hàng rào cây trà, trước nhà có sân đất khá rộng. Nhà cậu tôi
bị mất trộm nhiều lần, nên cậu mợ đã mua hàng trăm bó củi chất ba phía
nhà như là một thành trì kiên cố. Nhưng lần sau cùng thì kẻ trộm lại đào
ngạch từ sân vào... Cậu mợ tôi có một cái rương (tức là cái hòm) khá to
đựng tất cả áo quần và vật quí. Trong nhà có một số học sinh ở trọ để
học lớp nhì, lớp nhất (tôi nhớ là bốn, năm người) thì cậu tôi chia phiên
các học sinh thức canh gác với ngọn đèn Hoa Kỳ, phòng kẻ trộm. Tôi cũng
được chia phiên gác, và các anh học sinh lớn tuổi cho tôi gác giờ đầu
hôm, hoặc giờ gần sáng... Từ đó nhà cậu tôi không bị mất trộm nữa. Cũng
do bị mất trộm nhiều lần mà cậu mợ tôi có được thói quen rất cẩn thận về
khoá và chìa khoá. Cậu tôi có một xâu chìa khoá, khoá hòm khoá cửa nhà.
Lại còn bao nhiêu chìa khoá của các tủ nhà trường và các cửa nhà
trường. Từ đó tôi cũng kế thừa được của cậu mợ tôi tính cẩn thận về khoá
và chìa khoá. Anh Xuân Diệu lúc còn sống ở cùng nhà với tôi lại hay để
mất chìa khoá, tôi la anh ấy, vì cứ phải đi làm lại chìa khoá cho anh.
Có hôm anh Diệu bảo tôi: “Nếu có thể khoá được cái đời, thì chắc Cận
cũng khoá nốt!”. Cậu tôi làm giấy tờ cho tôi vào học lớp tư trường Quảng
Điền. Cậu phải làm lại giấy khai sinh cho tôi, tôi chỉ biết chắc là
sinh năm 1919, còn ngày tháng thì tôi không biết. Cậu tôi suy nghĩ một
lúc rồi ghi: Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú,
huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
Về sau tôi
hỏi mẹ tôi về ngày sinh, thì mẹ tôi nói là tôi sinh vào ngày 30 tết,
không biết là tết trước hay tết sau tháng 5-1919. Dầu sao thì bây giờ
tôi cũng đã có tuổi xê xích dăm bảy tháng trong khoảng thời gian vô tận
cũng không có vấn đề gì lắm...
Tôi vào học
lớp tư được thầy tôi là thầy Lưu Thành Công, người quê Quảng Trị, xếp
cho tôi ngồi bàn đầu cùng với bốn bạn gái, trong đó có ba chị em ruột là
cô
Tư, cô Năm, cô Sáu, con
ông Cả Hối, một nhà giàu ở huyện Quảng Điền. Ba chị em cùng học một lớp
với tôi thấy tôi hiền lành ngồi ở giữa, mà lại học giỏi các bạn gái rất
mến tôi và hay cho tôi ăn kẹo. Trời rét lạnh các bạn còn mang quế gặm
từng chút cho ấm và tôi cũng được chia phần quế. Ba cô có người chị là
chị Ba đã học trường Đồng Khánh Huế, và đã có vài bài văn đăng ở tạp chí
Thần chung. Tôi nghe nói đến chị Ba viết văn, có bài đăng báo, tôi rất
lấy làm cảm phục. Bạn ngồi đầu bàn là bạn Toàn, mặt hơi rỗ, rất nhanh
nhẹn, và hay nói đùa rất có duyên. Lớp học không rộng lắm tôi ngồi bàn
đầu là rất gần bảng đen và gần bàn của thầy, muốn nghịch cũng không dám
nghịch, nhưng vẫn có thể bày cho các bạn gái làm những bài toán khó.
Dường như thầy cũng cho đó là một việc có ích, một thứ “phụ đạo”, nên
thầy cũng không la mắng gì. Nhưng thi học kỳ thì thầy rất nghiêm, không
cho học sinh “cóp” nhau. Tháng nào tôi cũng đứng đầu lớp (hiện nay tôi
còn giữ được những giấy khen hàng tháng của trường Quảng Điền) nên thầy
rất thương. Năm tôi đậu kỹ sư canh nông (1942), tôi có tìm thăm thầy,
nhưng lúc đó thày Lưu Thành Công đã đổi đi trường khác, có người nói là
thầy đã về hưu, tôi không gặp được. Sau đó tôi nhờ anh bạn học cũ gởi
một thư cho thầy, thầy có nhận được và trả lời cho tôi, cảm động về tình
nghĩa thầy trò của người học sinh cũ. Sân trường tôi học khá rộng lớn,
có nhiều cây hoa đại, hè về hoa nở thơm phức. Giờ ra chơi, chúng tôi
tranh nhau nhặt hoa bỏ túi vào lớp hoa thơm, có lúc chúng tôi như là say
hương. Các bạn gái tôi thì cài hoa lên tóc, và gói hoa vào những mùi
xoa vải mỏng cho vào cặp. Đến ngày kết thúc năm học, thầy trò các lớp
xây dựng một cái bục cao vừa dài vừa rộng để làm lễ phát phần thưởng
chúng tôi lại lấy từng chùm hoa đại kết cho lễ đài phát phần thường. Năm
ấy tôi được phần thưởng nhất lớp, được một chồng sách cao toàn là sách
học các lớp trên bằng tiếng Pháp: sách mẹo tiếng Pháp, lịch sử nước
Pháp, sách địa lý Đông Dương, sách toán, sách tập đọc Di vòng quanh nước Pháp, sách Quốc văn giáo khoa thư do Trần Trọng Kim soạn, sách sử ký cũng
do Trần Trọng Kim biên soạn, có cả quyển sách Năm đoá hoa của Jean
Marquet (giới thiệu năm xứ của Đông Dương: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai
Lao và Cao Miên)... Mùi thơm của giấy, của mực in, của bìa sách để lại
ấn tượng sâu sắc trong bọn trẻ chúng tôi nhất là sau lần nhận thưởng ấy
tôi lại phải rời Quảng Điền theo cậu tôi về Huế để học tại Huế. Ở Quảng
Điền, cách trường khoảng 2 cây số có chùa làng Hạ Lang rất đẹp, chủ nhật
tôi thường rủ các bạn đi chơi chùa. Chùa thấp, nhưng còn vững chãi, và
được trông nom, quét dọn rất sạch sẽ. Trước cửa chùa có nhiều bông trang
(tức là hoa mẫu đơn) “Bông trang tròn trăm chùm dâng Phật”. Phía sau
chùa tôi lại gặp những cây hoa mộc, mà mùi hương rất quen thuộc với tôi
mùi hương mê man, khía vào mũi và có thề nói khía vào tâm hồn không thể
nào phai nhạt được. Khi ở nhà, tôi đã ham đi chơi ở chùa Bổn, bây giờ
tôi cũng thích đến chơi ở chùa Hạ Lang. Lớn lên, mỗi lúc có dịp đi thăm
cảnh chùa, tôi vẫn thấy có cái gì quyến luyến, cảnh yên tĩnh và như
“thoát tục” của các ngôi chùa vẫn có sức hấp dẫn riêng đối với tôi. Sau
này đi thăm chùa Tây Phương năm 1940 cùng anh Nguyễn Đỗ Cung và nhiều
bạn khác, về nhà tôi cứ vương vấn mãi với hình ảnh các vị La Hán ngồi
trong hậu tử trong một ánh sáng mờ mờ, đã hết thế kỷ này sang thế kỷ
khác. Tôi ghi trong vở nháp thơ: “Các vị La Hán, đau khổ của cha ông”.
Tứ thơ đẩy ra từ đó nhưng trong 20 năm trời bài thơ không thành hình.
Đến năm 1960, lúc tôi theo học lớp cao cấp ở trường Nguyễn Ái Quốc Trung
ương, tôi lại đi thăm chùa Tây Phương về đêm đó, gần tết 1961, tôi viết
liền một mạch bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương. Có thể nói bài thơ
đã nảy mầm ở chùa Bổn quê nhà, ở chùa Hạ Lang ngày tôi còn nhỏ. Hình
ảnh các vị La Hán đã theo đuổi tôi từ những ngày thơ bé, nó đã vào trong
“bộ nhớ” tiềm thức của tôi vậy.
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Há phải chăng đây là xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương...
Đó
là nói về cảnh chùa. Nay xin nói về cảnh nhà cậu mợ tôi. Cậu mợ hiếm
hoi, mợ đẻ mấy lần không nuôi được. Mợ đành phải tìm cho cậu một nàng
hầu con một gia đình nông dân ở làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ. Nàng
hầu gọi là dì Em, vừa là vợ hai của cậu nhưng cũng vừa là người ở trong
nhà. Dì Em người khoẻ mạnh, làm quần quật suốt ngày, nấu cơm, bửa củi
giặt quần áo, nuôi gà vịt... Cậu tôi rất thương dì Em, vì nhiều lẽ,
nhưng cũng phải “né” mợ tôi. Tất nhiên là mợ cũng muốn cho dì Em có con,
nhất là có được con trai thì quí lắm. Nhưng cuộc đời nó oái oăm hơn tôi
tưởng.
Có lần đêm cậu vào ngủ với dì,
chắc là đã được sự đồng tình của mợ, nhưng sáng hôm sau nét mặt của mợ
giận dỗi, chúng tôi tuy còn nhỏ, nhưng cũng hiểu được thứ tình cảm phức
tạp này. Thế rồi không nói không rằng, mợ lùa dì Em vào trong cái phòng
chật chứa củi và mợ cầm một thanh củi đánh dì Em túi bụi. Dì Em không
dám chống lại, chỉ lùi dần vào cuối phòng, tay xoa vào chỗ bị đánh, vừa
khóc vừa nói, mà cũng không dám nói to: “Đau quá mợ ơi, đau quá mợ ơi!”.
Sau một chặp, xem chừng mợ cũng đã hả giận, mợ vứt thanh củi xuống đất
và đi ra. Dì Em lại hối hả đi nấu cơm, giặt quần áo trong lúc đó thì ông
cậu ở trên trường, đang dạy lớp nhất. Mà nếu cậu ở nhà, thì cậu cũng
chả làm gì được càng can thiệp thì càng chết dì Em. Dì Em rất tốt đối
với tôi giặt áo quần cho tôi rất tươm tất, và cho tôi ăn no. Bên cạnh
hàng rào có cây mắm nêm, dì thường hái những quả mắm nêm chín cho tôi.
Tôi chỉ có một cái áo dài bằng vải dù đen mặc từ lớp tư cho đến lớp nhì,
lúc lớp tư thì áo dài gần mắt cá, lên lớp nhì thì áo đến đầu gối là
vừa. Dì Em cứ vài ba chủ nhật một lần bắt tôi cởi áo dài ra cho dì giặt
vì “có giặt sạch thì áo mới bền, áo còn phải bận mấy năm nữa, nghe
chưa?”. Đến bây giờ dì đã già, mỗi lần tôi đến thăm dì vẫn nhắc cái áo
dài dù đen của tôi mà đã biết bao lần dì mỏi tay xát giặt rất kỹ...
Đến
lúc về Huế, dì sinh được đứa con trai đầu lòng, cậu mợ rất mừng, và mợ
từ đó cũng nể dì hơn một chút. Cậu con trai đầu này lớn lên học mau tiến
bộ và nay đã trở thành một bác sĩ giỏi. Người con của dì biết chăm sóc
chu đáo cả hai bà, và bà mợ tôi rất quí cậu ta, còn có phần quí hơn con
đẻ của mình nữa.
Ở trong nhà cậu
tôi, cũng có nhiều lúc vui. Chẳng hạn, khi cậu tôi đi ga Văn Xá nhận về
một hòm hàng hoá từ bên Pháp gửi sang. Đó là một ít hàng hoá dùng hàng
ngày mà cậu tôi đã gởi mua của hãng Saint Etienne gồm: cái cốc thuỷ
tinh, cái bút máy, hộp bánh bích qui, mấy con dao, cái dao nhíp mấy hộp
sữa bột, mấy hộp sữa đặc, cái kéo cắt vải cả cái mở nút chai nữa... Lúc
cậu tôi mở cái thùng hàng ra, cả nhà xúm chung quanh như là dự một lễ
khai mạc náo nức... Từ thùng gỗ dán xông lên mùi thơm của phoi bào vàng
rực, mùi thơm của mấy quyển sách nữa, kể cả quyển sách chào hàng dày như
một quyển tự vị, in màu, bìa rất đẹp... Các cốc thuỷ tinh thì cậu tôi
xếp vào tủ rất cẩn thận, trước khi cho cốc vào tủ cậu còn lấy ngón tay
thấm nước vuốt trên miệng cốc để nghe vang lên tiếng vo vo của thuỷ
tinh... Chúng tôi đứng xung quanh cứ trầm trồ. Và hồi hộp, chúng tôi chờ đợi lúc mợ mở hộp bánh bích qui mùi thơm phức, và chúng tôi được mỗi đứa một chiếc giòn thơm.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2-B
Ông huyện Q.
Ông
huyện Q. là bà con xa với cậu tôi. Làm tri huyện ở huyện Phong Điền hay
là Hương Thuỷ, tôi không nhớ rõ. Thỉnh thoảng ông có việc đái qua ghé
thăm cậu mợ tôi. Ông đậu cử nhân Hán học, bận quần áo ta, áo lương đen,
đội khăn xếp và đi giày Gáia Định.
Ông ăn
nói nhẹ nhàng, nho nhã, giọng rất thân tình nghe ông cứ thấy tình bà con
ruột thịt trong mối quan hệ giữa ông với người trò chuyện với ông. Tôi
cứ tưởng tượng ông là một ông quan liêm khiết, hiền từ, xứng đáng là bậc
“dân chi phụ mẫu”. Thế nhưng, qua câu chuyện của cậu mợ tôi nói lại,
bọn tôi mới biết ông là một tay bóp hầu, bóp cổ những người dân dưới
quyền cai trị của ông. Một vụ làm tiền của ông đã suýt làm ông bay mất
chức tri huyện nếu không có Chúa cứu. Số là ông tra khảo một bà bị kiện
trước cửa quan, vì một vụ tranh chấp gia tài thế nào đó. Tra khảo mấy
lần người đàn bà kia khăng khăng không chịu khai theo lời mớm cung của
nha lại nơi huyện đường. Thế là quan huyện nhà ta có một sáng kiến: cho
lấy kim châm vào hai núm vú của người đàn bà, lấy chỉ xâu kim và mỗi kim
buộc một chiếc lông gà, và quan cho lính lệ thay phiên nhau “quạt mát”
người đàn bà xấu số. Gió làm xoay hai chiếc kim và người đàn bà đau buốt
kêu thét lên, có lúc ngất đi. Quan cho nghỉ một lúc, rồi lại trực tiếp
hỏi cung người phụ nữ, cố rứt cho ra lời khai mà quan đòi hỏi. Người đàn
bà xấu số van lạy xin quan tha cho, nhưng không thể nào khai như lời
mớm cung được.
Lại quạt. Lại đau buốt. Lại
kêu thét. Lại ngất đi. Và lại tiếp tục khảo cung với giọng ngọt ngào
của quan huyện nhưng với nét mặt nham hiểm và như muốn vồ vào người ta
như hổ đói vồ mồi. Cuộc tra khảo ghê rợn này tiến hành trong một phòng
kín của huyện đường, nhưng tiếng kêu thét của người phụ nữ cũng lọt ra
ngoài phố huyện, và gia đình người nạn nhân đã phát đơn kiện lên thừa
phủ (cơ quan hành chính đầu tỉnh của Nam triều). Câu chuyện vỡ lở ra,
khó lòng mà tỉnh dẹp yên đi được mặc dù vợ chồng quan huyện cũng đã long
tóc gáy chạy chọt các cửa sau, cửa trước. Không những quan huyện có thể
bị cách chức (điều ấy gần như chắc chắn), mà còn có thể bị ngồi tù
nữa... Bà huyện bèn bàn với quan huyện một phương cứu chữa: Bà huyện và
con gái sẽ cấp tốc đến nhà thờ xứ ở địa phận gần huyện và xin cha xứ rủ
lòng thương, lấy phép Chúa cứu vớt gia đình. Bà huyện và con gái xin
nguyện làm con chiên của Chúa ngay tức khắc, và xin cha làm phép rửa tội
cho hai mẹ con được sớm trở về với Chúa. “Phép lạ” của bà huyện có hiệu
quả gần như tức khắc. Cha xứ rủ lòng thương quan ông, quan bà, và quan
cô, chạy lên gặp bề trên, và xin bề trên lấy lượng hải hà mà cứu vớt
quan trong cơn nguy khốn. Thế rồi vụ án được dẹp ỉm đi; bà huyện, cô
huyện, và quan huyện nữa đều đặn mỗi chủ nhật đi nhà thờ ăn bánh thánh,
và riêng bà huyện thì gần như ngày nào cũng đi xưng tội với cha và được
rửa tội. Còn người đàn bà xấu số kia mà hai vú đã sưng cứng lại thì được
trả về gia đình, và được trám miệng bằng một số tiền... Tôi nghe nói về
sau bà huyện đã chết, hay là nói cho đúng nghĩa, đã “có một cái chết
rất đạo”... Bọn tôi nghe câu chuyện mà rùng mình.
Trong
tâm hồn trẻ con của tôi, thấy hiện lên những ma quỉ những quỉ sứ mà tôi
đã thấy trong địa ngục ở chùa Bổn trên rú Trùa. Cảm giác ghê lạnh về
cái ác ở đời qua câu chuyện ông huyện Q. cứ làm tôi bàng hoàng mãi. Mãi
về sau, tôi lại thấy ông huyện đến thăm cậu tôi ở Huế, ông vẫn giọng
ngọt ngào ấy, vẫn dáng nho nhã ấy, nhưng tôi nhìn vào mắt ông thấy sâu
hoắm và đen như mắt cú vọ, và tự nhiên tôi thấy hoảng sợ, tôi bỏ chạy
không dám nhìn ông nữa. Có lẽ ông đã biến thành quỉ sa tăng. Câu chuyện
“quan huyện quạt vú” được người ta kể lại mãi ở vùng Thừa Thiên, và cho
mãi gần đây, khi tôi trở lại thăm Quảng Điền vẫn còn có người nhắc đến
như một câu chuyện ma quỉ. Bà huyện chết “rất đạo”, không có con trai,
lúc chết người gầy guộc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, như “đã bị quỉ sứ
róc thịt”.
Nuôi dế
Lúc
ở nhà cậu tôi ở Quảng Điền, ngoài việc say mê đọc sách, tôi còn một cái
mê say khác là nuôi dế. Anh Hùng, cháu họ cậu tôi lúc đó học lớp nhì,
thỉnh thoảng về Huế xin được của mẹ và của chị những hộp phấn (đã hết
phấn) hình chữ nhật có một mặt kính, rất đẹp.
Anh
Hùng bày cho tôi nuôi dế trong các hộp ấy, mỗi hộp vừa nuôi một con
bằng lá rau muống hoặc lá khoai lang. Rồi chiều chiều, sau buổi học anh
Hùng và tôi cho những con dế vào một hộp giấy to và xem chúng đá nhau,
chọi nhau. Mỗi con dế trước khi xông ra trận đều phát ra một tiếng kêu
the thé và chân run rẩy, chúng tôi gọi tiếng kêu thé ấy là hồi còi, hoặc là hồi kèn
ra trận của hai địch thủ. Tôi chăm sóc cho dế ăn no không quên để một
ít nước trong cái nắp chai để trong hộp dế. Dế đực đánh nhau với dế đực,
dế cái đánh nhau với dế cái, và có khi đực cái đánh nhau. Tôi lấy làm
lạ là thường dế cái thắng trận, chứ không phải dế đực. Cùng ở với tôi có
cậu Cục, cháu gọi mợ Vân bằng cô học kém, mà cũng kém sáng kiến trong
các trò chơi. Thấy anh Hùng và tôi thích thú trong việc nuôi dế và chọi
dế cậu có vẻ ghen, rồi một hôm tôi đi học về không thấy các hộp dế của
tôi đâu nữa... Tôi tiếc mãi, nhưng cũng không dám mách với cậu mợ, còn
anh Hùng thì an ủi tôi: “Anh sẽ xin cho em những hộp phấn to hơn, để
nuôi những con dế to hơn, cho nó đánh những trận to hơn.... Nói vậy, chứ
về sau tôi cũng không có hộp phấn nào to hơn, không thấy con dế nào to
hơn. Năm 1975, vào Sài Gòn giải phóng, nghe tin anh Hùng ở lại chứ không
di tản mặc dù anh đã giữ một chức quan trọng trong ngân hàng của chính
quyền nguỵ. Tôi có ý muốn tìm thăm anh, trước là để thăm một người bà
con, sau là để nhắc lại câu chuyện nuôi dế và chọi dế, và để hỏi anh đã
thấy con dế nào to hơn những con dế hồi nhỏ
của chúng tôi chưa. Nhưng mãi đến nay tôi vẫn chưa Um ra địa chỉ của
anh. Mỗi lúc tôi thấy các em bé chơi trò chọi dế, tôi lại nhớ những hộp
xinh xẻo thơm phức của tuổi nhỏ của tôi.
Anh Đông
Anh
Đông là loong toong của cậu tôi ở trường Quảng Điền. Tôi gọi là anh,
nhưng lúc đó anh cũng vào trạc tuổi chú tôi. Anh người cao, không vạm vỡ
nhưng khỏe mạnh, tóc chải ngược có cái lược nhôm cài phía sau gáy. Mắt
anh sáng, giọng nói sang sảng và bước đi rất nhanh.
Anh
làm mọi việc của một người loong toong rất mẫn cán: chạy giấy, đi ga
Văn Xá gởi những bưu kiện của nhà trường hay của cậu tôi, quét dọn lớp,
nhất là lớp cậu tôi trực tiếp làm giáo viên, đánh trống nhà trường.
Nhưng cái việc anh Đông làm tôi khâm phục nhất là giặt là áo quần và là
(ủi) áo quần tây cho cậu tôi. Chả biết anh làm thế nào mà áo quần anh
giặt rất trắng, còn là thì anh đem sơ mi láng qua trong một chậu nước
khuấy bột trắng (không biết là bột gạo hay là bột nếp, hay là bột gì tôi
không biết), anh để cho sơ mi hơi se se rồi lấy bàn là nóng là mạnh lên
áo, đặc biệt là là kĩ tấm pờ-lat-tơ-rông trước ngực và cái cổ, là thành
cứng như một tấm bìa, có thể lấy ngón tay búng vào nghe kêu boong
boong.
Còn bàn là thì phía trên là rỗng
nhừ cái hộp sắt trong đó bỏ than hồng, quạt cho thật nóng rồi đậy nắp
lại. Tô: cứ trầm trồ mãi trước cái tài là áo quần của anh Đông.
Có
lẽ do anh khéo tay giặt là cho nên cậu tôi cũng năng thay áo sơ mi; đối
với một ông giáo ở nông thôn như vậy là quá tươm tất, rất chuẩn. Các
thầy giáo ở các lớp khác thấy ông đốc (tức là hiệu trưởng) chỉnh tề
thường xuyên thì cũng theo nếp đó mà ăn bận rất ngay ngắn, tử tế.
Khi
cậu tôi đổi về Huế, muốn đem anh Đông đi theo nhưng hoàn cảnh gia đình
không cho phép anh đổi nơi làm việc. Thỉnh thoảng có dịp đi Huế, anh vẫn
ghé thăm cậu mợ tôi. Anh Đông rất tốt đối với bọn học trò chúng tôi
trong nhà, luôn luôn vui cười, và riêng đối với tôi hình như anh biết
cảnh nhà tôi nghèo nên anh có thương hơn. Có lần anh nói với tôi “Đem áo
quần tao giặt luôn cho một thể”, nhưng tôi không dám, áo quần tôi tôi
chỉ nhờ dì Em giặt mà thôi.
Đi xem máy dẫn thuỷ nhập điền
Gần nghỉ hè 1928
thì thầy Lưu Thành Công dẫn lớp chúng tôi đi xem máy “dẫn thuỷ nhập
điền” ở gần ga Văn Xá. Lúc đó có một người, không hiểu là tung tích thế
nào, ở xa về, mua được một cái máy bơm nước khá to, muốn làm công việc
dẫn nước vào ruộng, chống hạn. Đây là một việc làm hoàn toàn tư nhân,
một sáng kiến cá nhân, cũng không bị chính quyền thực dân và phong kiến
cản trở. Tôi nhớ mường tượng cái máy bơm khá phức tạp, gần như cái máy
để quay bánh lái của các ca nô lớn ngày nay. Cuộc đi tham quan kỹ thuật
này đối với chúng tôi lúc đó là một kỳ quan. Người chủ của máy, cũng là
nhà kỹ thuật, đứng cắt nghĩa tỉ mỉ cho chúng tôi cách hoạt động của máy
cách máy bơm nước vào ruộng. Tôi không nhớ rõ những chi tiết của sự giải
thích kỹ thuật này, nhưng còn nhớ rõ cái ấn tượng “thường dân” của
người chủ máy, cái ấn tượng “văn minh” mà máy móc in vào tâm trí non nớt
của chúng tôi. Thầy Lưu Thành Công của tôi cũng rất hào hứng trong
chuyến đi tham quan kỹ thuật này, dường như các thầy giáo lúc đó cũng
đều náo nức mong mỏi có một sự tiến bộ trong cách làm ăn nghìn đời không
đổi mới của dân quê ta. Về sau tôi không nghe cái máy dẫn thuỷ nhập
điền này có hoạt động được hay không. Hay đó cũng chỉ là một thí nghiệm
của lòng thương nước thương dân của một người trí thức tiến bộ, một sự
thí nghiệm bị chết yểu...
Cùng ở
nhà cậu tôi có một anh học trò lớp nhất vẽ rất giỏi, và rất thuộc thơ
văn của các cụ ngày trước. Ngày nghỉ, chủ nhật anh thường đem hộp màu vẽ
và cái bút lông ra minh hoạ những bài thơ. Tôi còn nhớ anh minh hoạ rất
đẹp bằng nhiều cảnh bài thơ Cảnh chiều của Bà Huyện Thanh Quan:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đốn.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- C
Đổi về Huế
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi
được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường
tiểu học Queignec ở phố Đông Ba. Gia đình cậu tôi thuê một chiếc thuyền
chở tất cả đồ đạc và người nhà đi qua Sình, Sịa rồi ngược sông đào Đông
Ba đến ngay chỗ ở mới của cậu tôi. Đó là một căn nhà trong một dãy nhà
cho thuê của nhà thầu khoán Tôn Thất Bằng. Căn nhà gồm 3 buồng chạy sâu
vào phía sau kiểu như các căn nhà của phố Hàng Đào, Hàng Ngang ở Hà Nội.
Dãy nhà này ở trong một khu phố dành cho người nghèo ở: những người
buôn bán nhỏ, thợ cúp tóc, người làm thủ công, thợ nề, thợ mộc... Con
sông đào Đông Ba (người ta bảo là đào từ thời Minh Mạng) ở ngay trước
dãy phố Đông Ba, nối con sông Hương với ngã ba Sịa đi ra biển. Trước dãy
nhà là hàng cột dây điện và những cây bồ hòn, cây không cao lắm nhưng
lá rậm cho bóng mát quanh năm. Quả bồ hòn chín thì rụng xuống, và những
người nghèo trong phố nhặt lấy để giặt áo quần. Tôi và mấy bạn học sinh
trong nhà cũng có lúc dùng quả bồ hòn để giặt áo, bọt nước bồ hòn cũng
như bọt xà phòng, ngâm kỹ áo quần vào thì giặt rất sạch và rất trắng.
Tôi cứ nhớ câu “Quả bồ hòn ngoài tròn trong đắng” và cái câu ai cũng
thuộc “Đắng cay ngậm quá bồ hòn”, và tôi đã nếm thử thì đắng thật, súc
miệng mấy ca nước cũng không hết đắng. Tôi lại cũng nhớ câu “Khi thương
trái ấu cũng tròn, khi ghét quả bồ hòn cũng méo”. Tôi nhắc vậy là vì cây
bồ hòn trước nhà cậu tôi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tuổi nhỏ của
tôi, vì dưới gốc cây bồ hòn đã có bao nhiêu người nhắc lại những phương
ngôn trên mỗi lần họ gặp điều cay đắng trong đời. Đó là mụ Lợn, đó là mẹ
anh Hường, một người lấy lính Tây rồi bị nó ruồng bỏ, đó là bà mệ Chiều
thương cháu, nhớ nàng dâu trước đã chết mà không vui lòng lắm với nàng
dâu kế... Cây bồ hòn đã nghe bao nhiêu tâm sự của bao nhiêu người, của
bao nhiêu cuộc đời Nó đã dần dần trở thành một nhân vật trong tuổi nhỏ
của tôi, một chứng nhân bền bỉ trên dãy phố nghèo. Năm 1975, lúc mới
giải phóng Huế tôi về thăm dãy phố Đông Ba, nhà cửa có đổi khác nhưng
cây bồ hòn vẫn còn đứng đó. Những người từng gửi cho cây những lời cay
đắng cũng không còn hoặc đã đổi đi nơi khác. Tôi có cầm một quả bồ hòn
nếm thử, vẫn vị đắng ấy, vẫn mầu trong cánh gián ấy, vẫn dáng tròn như
hòn bi ve ấy... Tôi như ngẩn người một lúc trước cây bồ hòn, vì bao
nhiêu kỷ niệm ùa về trong tâm trí tôi. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà
tôi nhắc đến cây bồ hòn khi bắt đầu viết về kỷ niệm những ngày tôi sống ở
phố Đông Ba. Tôi đã sống giữa đám dân nghèo, chung đụng với họ trong
một tình láng giềng thân thiết, gần như một thứ tình bà con ruột thịt.
Đời họ có nhiều cái vui, nhiều lúc vui, và cũng có nhiều cay đắng. Có lẽ
lớp năm tháng phủ dày trên kỷ niệm đã khiến tôi như thấy cay đắng nhiều
hơn. Nhưng dù vui, dù buồn thì những cuộc đời của họ đều rất yên phận,
đều trôi yên lặng như nước con sông đào Đông Ba êm lắng chảy về Sình...
Nói chung là một phố nghèo, nhưng cũng có vài nhà khá giả. Đó là trường
hợp ông Cả Soạn, gia đình buôn gỗ và buôn một vài thứ gì khác từ nông
thôn chở về mà tôi không nhớ rõ.
Bản thân
ông Cả Soạn không phải làm gì, tất cả việc buôn bán đều phó mặc cho vợ
và con. Ông sống cuộc đời phong lưu, mà phong nhã. Ông đánh cờ rất cao
và đàn rất hay, nhất là đàn nguyệt. Ông nổi tiếng là cờ cao (cờ tướng)
khắp cả Huế và có thể nói là cả tỉnh Thừa Thiên. Nhiều người đánh cờ ở
các huyện hâm mộ ông, cũng xin “đến hầu ông một vài nước cờ” và để “học
ông vài nước ngựa, nước xe, có khi nước tốt nữa... mà họ nói vậy không
phải là nói khách sáo đâu vì có lần khách cờ đến, sau mấy nước đầu, hai
bên dàn trận, thì ông đi ngay một nước rất hiểm rồi ông nằm ngủ để cho
đối phương loay hoay đi thử nước này đến nước khác. Đến lúc bạn cờ thức
ông dậy thì ông lại đẩy con pháo hay con xe một cách nhẹ nhàng rồi lại
xin ngủ tiếp. Cứ thế ván cờ kéo dài cả ngày. Ông mời khách cờ ăn cơm với
ông khá thịnh soạn, rồi lại tiếp tục điều khiển trận cờ như là một vị
tướng đã nắm chắc chiến lược, chiến thuật trong tay, không một chút hấp
tấp, không một nước sơ hở. Sau cùng bạn cờ thưa với ông: “Xin cụ cho
chúng tôi được thua.”
Ông Cả lại cũng đánh
đàn rất hay, đàn tranh đàn bầu, đàn nguyệt. Đặc biệt tiếng đàn nguyệt
của ông như thoát khỏi dây tơ, cần gõ, như từ không khí mà vang lên, như
từ những ngón tay tài tử của ông toát ra khi hoà vui, khi nức nở. Ông
đàn nhịp rất thong thả, những bài đàn Huế, nhất là bài Nam bình, có khi
nghe từng tiếng một, như những giọt nước, như những giọt trăng rơi trên
một mâm ngọc trong một ánh trời trong vắt.
Ông
thường đàn vào đêm khuya, lúc phố đã yên lặng, tưởng như ông cần sự
thanh khiết của không gian cho tiếng đàn của ông được toả đi, cho giữa
tiếng đàn và ông không còn sự cản trở của một tạp âm nào nữa.
Tôi
không biết ngày xưa lúc Bá Nha đàn cho Chung Tử Kỳ nghe thì tư thế ngồi
đàn như thế nào, và tôi cũng không biết ông Cả Soạn có bạn tri âm nào
không nhưng thái độ trân trọng của ông khi nâng chiếc đàn khi đưa mấy
ngón tay vê vào dây tơ, mà tôi đã được ghé mắt nhìn trộm thì quả thật là
phong cách của một bậc tài tử, tri âm tri kỷ ngay với chiếc đàn của
mình với cái nghệ thuật âm thanh mà ông cho là linh hồn của người và của
trời đất. Đêm khuya thanh vắng tiếng đàn của ông Cả Soạn có phải là
linh hồn của dãy phố nghèo hay không, mà những người láng giềng của ông
nghe từng tiếng một, cho đến khi tiếng đàn mờ dần, “rơi tàn” vào lòng
đêm thắm, cho đến khi tiếng đàn của ông cũng ngủ theo giấc ngủ của mọi
người.
Ông là người có thật, đã sống thật, mà tôi cứ nhớ đến ông như nhớ một nhân vật huyền thoại.
Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Có ông Cả Soạn, đánh cờ cao
Lắm khi một buổi đi vài nước
Để bạn bè vây nghĩ nát đầu.
Ông lại đàn hay. Nguyệt tiếng tơ
Hồn ve dắng dỏi dưới trăng mờ
Ngón tay tài tử năm cung nhấn
Nghe cả trời thu nức nở mưa...
Tôi hãy nhắc luôn một người khá giả nữa ở phố Đông Ba là chú Xối, người Hoa kiều lấy vợ Việt Nam.
Thím
Xối cũng buôn bán hàng nông sản, lạc, vừng một ít hàng tơ lụa, và thím
cũng có một cửa hàng xén ngay ở phòng trước nhà mình. Hai vợ chồng chú
Xối sống rất hoà thuận và cũng ăn ở hoà thuận với mọi người xung quanh,
được láng giềng cảm mến. Chú Xối cũng giống ông Cả Soạn ở chỗ phong lưu,
không phải làm lụng buôn bán gì, mọi việc kinh doanh và việc gia đình
đều phó mặc cho bà vợ Việt Nam. Nếu chú không có cái phong nhã của ông
Cả thì chú cũng được cái phong cách thảnh thơi, thư thái. Tôi nhớ rất rõ
chú người hơi thấp béo nhưng không bệu, bận cái áo kiểu Hoa kiều tay
rộng với hàng cúc vải trước ngực, nét mặt luôn luôn tươi cười, dáng dấp
hoà nhã. Tôi nhớ mùa đông cũng như mùa hè, ngày tết hay ngày thường cũng
thế, chú luôn luôn có sẵn hạt dưa đỏ trong túi và luôn luôn thong thả
cắn ăn hạt dưa; hạt dưa đối với chú là đầu câu chuyện, cũng như đối với
người khác là miếng trầu hay điếu thuốc.
À
mà chú cũng ăn trầu, trầu quệt rất nhiều vôi và lúc ăn trầu mặt chú vốn
đã hồng hào lại đỏ thắm thêm, nhìn rất cảm tình. Khi có những chuyện
xích mích xảy ra giữa những người hàng xóm, thì thím Xối hay bảo chồng
“có vài lời góp với bà con cho êm thấm”. Chú Xối thong thả đến giữa cuộc
cãi cọ, có khi là cuộc đấu khẩu gay gắt, miệng vẫn ăn hạt dưa tươi cười
nói: “Pà con cả mà, pà con cả mà? Có gì thì vào nhà nói chuyện nhỏ với
nhau, nếu pà con không muốn về nhà mình, thì xin mời vào nhà tôi uống
nước và nói chuyện”. Thế mà thường thường các chuyện cãi cọ được kết
thúc nếu không được thật êm đẹp, thì cũng im tiếng. Chú Xối nghiễm nhiên
trở thành một ông trọng tài hay ít nhất cũng là một người phất cờ biên
trong cái phố nhỏ của tôi.
Bây giờ tôi xin
nhắc đến những người vất vả những người nghèo, láng giềng của tôi. Sát
bên cạnh căn nhà của cậu tôi có gia đình ông Lạng. Thím Lạng hàng ngày
đến lò sát sinh cách nhà chừng 300 thước mua huyết bò về phơi khô để bán
cho những người nhuộm lưới và cho những người chế biến thuốc nhuộm (tôi
nghe nói thế, còn chế biến thế nào tôi đâu có biết). Huyết bò lúc gần
khô thì xông lên một mùi hôi khá nồng nặc, chúng tôi ở bên cạnh khi đầu
không chịu được, nhưng sau cũng quen dần. Vả lại vợ chồng ông Lạng cũng
tìm cách che kín được chừng nào hay chừng ấy cái khoảng sân xi măng dùng
để phơi huyết.
Ông Lạng làm chuồng chim,
một tháng vài lấn mang ra chợ Đông Ba, hoặc chợ Gia Hội để bán, mùa nào
hơi ế thì gánh đi bán rong. Nhưng thường là khách nuôi chim đến đặt hàng
tại nhà ông và cứ thế đúng ngày hẹn là khách đến lấy chuồng, không chê
bai gì vì chuồng chim ông làm rất đẹp. Có thể nói ông làm chuồng chim để
bán, nhưng làm một cách khá say mê tỉ mỉ, trau chuốt, nghĩa là với “máu
mê” nghệ thuật.
Tôi đã từng hàng giờ đứng
trông ông khoan, đục những mẩu tre nhỏ, những khúc mây trắng ngà và vót
những nan tre thật tròn, thật trơn để làm chuồng chim.
Chuồng
ông làm đủ cỡ và đủ kiểu: để nuôi chim bầy thì lồng chim to và vuông,
để nuôi một con chim sâu hay một con chim vàng anh, hay một con vẹt thì
có lồng chim nhỏ, tròn, mái lồng uốn cong như nóc những ngôi lầu cổ.
Chính ông Lạng cũng nuôi vài con chim trong nhà trong hai cái lồng con.
Có lần có người khách thấy chim đẹp lại có tiếng hót, muốn mua cả lồng
lẫn chim. Ông Lạng cười và nói: “Thưa ông, tôi chỉ bán lồng, còn chim
thì phải ở lại với tôi cho vui nhà”. Người khách chắc là cảm phục người
thợ làm lồng chim nên nói tiếp: “Vậy thì khi nào ông gặp một đôi chim cũng hay hay như đôi chim
này ông mua giùm cho tôi, và bây giờ xin gửi ông tiền trước”. Ông Lạng
cười: “Gặp chim tôi sẽ mua giùm ông, nhưng tiền thì ông khoan đưa, vì cá
nước chim trời biết khi nào bắt được mà dám hẹn”. Ông Lạng láng giềng
của tôi là như thế đó. Ông lại còn tài đàn bầu, mà không biết sao ông
thường gảy lên những bài não nuột.
Ông Lạng làm chuồng chim bán rong
Suốt ngày khoan đục giữa mây song
Đàn bầu một chiếc khi tiêu khiển.
Vừa gảy vừa ca thật não nùng.
Tiếp
theo tiếng đàn bầu của ông Lạng là tiếng đàn tranh và đàn nguyệt của
anh Cháu. Anh Cháu ở căn nhà cuối dãy, cách căn nhà cậu tôi hơn 100
thước anh làm nghề đàn chầu văn, và cũng có khi đi đàn hầu đò, tức là
xuống đò dạo sông Hương đàn cho những khách làng chơi, hoặc những khách
trong Nam ngoài Bắc ghé Huế vài hôm để thường thức cái thú chơi đò trên
sông Hương. Đi chầu văn thì anh đàn nguyệt, nhưng đi hầu đò thì anh mang
cả đàn tranh đi theo, lúc nguyệt lúc tranh, tiếng đàn thánh thót giữa
trăng nước đêm khuya. Anh Cháu mù một mắt, mà nhìn anh người ta không có
cảm giác là anh chột, vì miệng anh tươi cười và có lẽ cũng vì người ta
chăm chú vào tiếng đàn rất nội tâm của anh, và có lúc anh đàn thì đầu
anh nghiêng nghiêng xuống như để thỏ thẻ cùng dây đàn, cùng tiếng đàn.
Cậu Vân tôi cũng đã nhờ anh dạy đàn nguyệt cho và tối thứ bảy, tối chủ
nhật nếu anh không bận đi hầu cúng hay hầu đò thì anh đến hoà đàn với
cậu tôi. Tôi không nhớ rõ là anh có vợ con không, chỉ biết anh ở cùng
nhà với anh trai và chị dâu bán chả tôm và bún bò. Trong kỷ niệm của tôi
anh Cháu là người nghệ sĩ đánh đàn, nghèo mà rất tài tứ, vui một cách
âm thầm:
Anh Cháu đàn tranh mù một mắt
Khi thì hầu cúng, khi hầu đò
Hồn anh là mảng trăng khuya khoắt
Một nửa đen sầm, nửa ánh mơ.
Cậu
tôi học đàn nguyệt với anh Cháu mấy năm trời, nhưng tiếng đàn vẫn không
có nhuỵ bằng tiếng đàn của anh. Có lúc anh Cháu nói với cậu tôi “tiếng
đàn của ông còn thật quá”. Lúc đó tôi không hiểu lời nhận xét này, bây
giờ thì may ra tôi cảm nhận được ý sâu của anh “Cháu đờn”, như mợ tôi
thường gọi anh.
Tiếng đàn của ông Cả Soạn,
của anh Cháu là tiếng đàn thanh tao, còn như tiếng đàn của chú Kình thì
lanh tanh vui nhộn, hoặc không vui nhộn thì cũng là tiếng đàn khuây
khoả qua quít trong chốc lát. Chú Kình là thợ cúp tóc, mắt trái cũng bị
mây kéo mờ đi nhưng mắt phải thì rất lanh lợi, mà cái nhìn rất tinh
nghịch, có khi như soi mói nữa. Chú Kình và người anh là chú Kiên mở
phòng cúp tóc phía trước hiên gần nhà ông Cả Soạn. Hai anh em thay nhau
cúp tóc kiếm đủ ăn, và những lúc rỗi thì chú Kình đàn cái đàn đoản (tức
là đàn tam), gọi là đàn đoản vì cái cần đàn rất ngắn.
Chẳng được phong lưu như bác Cả
Chú Kình cúp tóc cũng đàn khua
Lanh tanh đàn đoản cần trun cổ
Như chú Kình hay rụt cổ rùa.
Chú
Kình cũng hay đánh cờ tướng, và có lúc rủ bọn tôi sang đánh với chú cho
đỡ buồn. Bộ quân cờ của chú bằng sừng, mỗi lúc đến phòng cúp tóc (vì
chú ở xa dưới xóm Mang Cá) thì chú mang quân cờ bỏ trong một túi vải
treo đầu cần đàn đoản. Cứ thế chú ung dung tới trước cái bàn cúp tóc và
treo đàn và cờ lên phía trên gương. Thật là thú cầm kỳ của một đời nghèo
mà thanh thú.
Trong giới âm nhạc dân gian
của tôi còn ông Xẩm chợ mù hai mắt cứ mỗi chiều chủ nhật lại đến trước
cửa trường tôi học, dạo vài tiếng đàn bầu và kể vè Kinh đô thất thủ. Có
hai con nhỏ dắt ông đi, và ngửa nón xin tiền mỗi khi ông kể xong một
đoạn vè. Vè “kinh đô thất thủ” ai nấy đều thuộc, nhưng mỗi lần ông kể
người ta lại xúm quanh ông để nghe, cốt để nghe giọng ông kể hơn là
những chuyện xảy ra trong bài vè mà người ta đã nhớ. Mà giọng ông kể thì
thống thiết, não nùng, có khi như uất nghẹn. Chắc rằng ông “sống” với
những câu vè ông kể, mà những người nghe cũng “sống” với ông cái cảnh
nước mất nhà tan. Sự đồng cảm ấy làm nên những buổi chiều xúc động, da
diết:
Cuối phố gốc cây, chiều chủ nhật
Là ông xẩm chợ với hai con
“Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc
Lớn, nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn.
Những
người nghệ sĩ dân gian ấy đã cho tôi cái mê say nghệ thuật, cũng như tủ
sách của ông cậu tôi đã mở cửa cho tôi vào thế giới kỳ diệu của văn
thơ.
Tôi vẫn thường nói với anh Xuân Diệu:
“Mình biết ơn vô kể những người láng giềng tuổi nhỏ ở phố Đông Ba. Vốn
đẹp của quê nhà, hồn đẹp của cha ông, chính những người ấy, những nghệ
sĩ nghèo ấy đã mớm cho mình từ tấm bé”.
Ấy phố Đông Ba nghèo ảm đạm
Chút vui nghệ thuật cũng bồi hồi
Bốn lăm năm trước đời u ám
Trời nghẹn hoàng hôn trên phố tôi.
(Phố Đông Ba của tôi ngày bé, 1972)
Nhân
nhắc đến anh Cháu đờn, tôi còn nhớ câu chuyện chị Th., gái làng chơi ở
gần miếu “âm hồn” ở trong thành Huế, ở cửa Đông Ba đi vào. Chiều chủ
nhật hôm đó, một buổi chiều mùa hè, có một ông hàn (chức tước mua bằng
tiền của người giàu) ở Thanh Hoá vào ghé thăm nhà cậu tôi. Ông hàn cũng
muốn hường thú sông Hương, cậu tôi mời anh Cháu sang giúp tổ chức một
đêm “đàn hát” trên sông. Anh Cháu không quen tổ chức đêm sông Hương,
nhưng cũng thuê đò giùm, và ông hàn nói nhỏ với anh nhờ anh tìm cho một
người hát “trông được”. Anh Cháu liền cho một người học sinh bà con đi
tìm chị Th., gọi là chị “Th. miếu âm hồn”. Anh Cháu cũng bảo tôi đi theo
cùng cậu học sinh kia để nhắc nhau về cho nhanh, vì chúng tôi đi bộ.
Vào đến nhà chị Th., trời đã gần tối; may mà chị ở nhà. Tôi không nhớ
trạc tuổi của chị, nhưng vẻ người chị còn trẻ, da dẻ mịn màng, nét mặt
đầy đặn. Tôi không nhớ cảm giác đẹp, nhưng mà nhớ chị rất có duyên, và
có vẻ gì rất e thẹn. Chị bảo: “Hai em chờ chị một chút”, rồi chị vào
phòng trong son phấn qua loa, khi đi ra, chị bận một áo dài lụa, tay cầm
quạt, và cầm cả dôi sanh bằng gỗ đen như sừng, đôi sanh
để gõ nhịp hát. Chị thuê xe kéo, cho cả hai chúng tôi cùng ngồi với chị
để đi về nhà cậu tôi. Ngồi lên xe, bất thần chị nói nhỏ với hai chúng
tôi: “Hai em đừng cười chị nhé?”. Chị nói xong thấy chúng tôi ngồi im,
chị cúi mặt xuống, nét buồn rõ rệt. Đêm hôm ấy, đêm thưởng ngoạn sông
Hương của ông hàn dường như vui lắm, anh Cháu hôm sau nói lại thế, nhưng
tôi cứ nhớ câu của chị Th. nói với chúng tôi và nét mặt buồn không thấm
nước mắt của chị mà còn buồn hơn khóc. Về sau mỗi lúc vào hồ Tịnh Tâm
để qua miếu “âm hồn” tôi lại nhớ lần gặp “chị Th.”. “Hai em đừng cười
chị!”. Sao mà đau đớn thế, não nuột thế, cay đắng thế?
Ở
phố Đông Ba còn nhiều nhân vật lắm. Tôi xin kể tiếp đến mụ Lợn. Mụ Lợn ở
đàng sau nhà cậu tôi, buôn thúng bán mẹt, khi buôn khoai lang, sắn mì,
khi ngồi bán nước chè, bán bát chè đậu xanh, đậu ván.
Người
mụ hơi có tật, đi hơi vẹo lưng, tay khua khua đàng trước như là luôn
luôn sắp ngã. Không hiểu chồng mụ đã chết, hay là đã bỏ mụ, nhưng lúc đó
chúng tôi chỉ thấy mụ sống một mình trong một căn nhà nhỏ lụp xụp phía
đằng sau dãy nhà cho thuê.
Cũng có lúc
thấy mụ gánh vôi đi bán, có lúc lại gánh cát thuê cho những người thợ nề
cùng ở một dãy phố sau nhà cậu tôi. Rõ ràng là mụ Lợn sống một cuộc
sống rất chật vật, vất vả. Tôi không khi nào gặp mụ ăn cơm, và không
hiểu mụ có ăn cơm không. Thế rồi cũng có một anh lính “Tây đen” ở đồn
Mang Cá che chở mụ, sống với mụ những tối thứ bảy, và cho mụ đủ tiền để
cải thiện cuộc sống quá nghèo hèn của mụ.
Mà
có cái lạ là hàng ngày mụ vẫn sống giữa bà con một cách tự nhiên, “như
thường”, không có vẻ gì là “me Tây” cả. Dường như sự dan díu của mụ với
anh Tây đen là ngẫu nhiên.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- D
Lò sát sinh
Trường
học Queignec của tôi ở sát cạnh lò sát sinh của thành phố Huế, và lò
sát sinh cách nhà cậu tôi ở cũng chỉ hơn 200 thước. Lò sát sinh ở trên
một khoảng đất rộng, có trồng cỏ xanh như bãi để bóng.
Lò
sát sinh là một cái nhà rộng, dài kiểu như một nhà máy cơ khí, chỉ khác
một điếu là trong nhà máy gắn với nền xi măng là những cỗ máy to bự;
còn ở đây gắn với nền xi măng là những vòng kiềng sắt to, buộc vào xiềng
là những sợi xích dài, những xiêng xích ấy là để buộc những con bò dể
người ta giết. Lần đầu tiên, lúc đó tôi học lớp ba, 1929, tôi cùng mấy
bạn học trong nhà vào xem lò sát sinh, và xem người ta giết bò, mổ lợn. Hồi nhỏ,
lúc tôi 5, 6 tuổi, tôi đã thấy người ta giết bò, giết bê làm thịt vào
dịp Tết hàng ngày rằm tháng 7, nhưng cách giết bò là buộc bốn chân bò và
bê rồi lấy dao đâm thọc vào cổ con vật cho máu ộc ra, và máu chảy hết
thì bò bê cũng tắt thở. Đối với tuổi nhỏ việc nhìn thấy giết con vật
thân quen như thế cũng đã là một điều ghê rợn. Nhưng ở lò sát sinh thì
cách giết lại khác. Tôi thấy người ta dắt những con bò vào và lấy xích
buộc nó chặt vào các cái xiềng gắn ở nền xi măng. Không biết các con bò
có linh tính gì không, nhưng tôi thấy chúng bước vào lò sát sinh đi từng
bước nặng trĩu, đầu cúi rạp xuống, và hai con mắt của chúng buồn không
thể tả được. Mà thực sự tôi đã thấy chúng khóc, khóc những giọt nước mắt
không tràn trề, nhưng rõ ràng là những giọt nước mắt của những con vật
cảm thấy giờ tận kiếp sắp đến. Những giọt nước mắt bò, than ôi, cũng đau
đớn, cũng xé gan xé ruột như những giọt nước mắt người. Thế rồi, những
con bò đã bị xiềng xích đứng im, như yên phận chờ số mệnh của chúng. Và
một người vạm vỡ, bận quần đùi, áo cộc, cả quần áo đều màu cháo lòng,
bước vào, tôi sợ quá! Gọi người này bằng tên gì? Trong cảm giác thơ bé
của tôi, anh ta là một đao phủ, đao phủ của những con bò tội nghiệp đứng
chờ kia. Tôi không dám nhìn, nhưng rồi tôi cũng nhìn cho biết việc hạ
thủ những con vật kia sẽ xảy ra như thế nào. Anh vạm vỡ kia đi tới trước
con bò, dừng lại chừng nửa phút, dường như để ngắm dáng đứng của con bò
đã khớp với tư thế đứng của anh chưa và trong nháy mắt anh giơ cái búa
to, nặng cần không dài lắm, giáng mạnh vào gáy con bò. Tôi nhắm mắt
không dám nhìn nữa. Bỗng nghe một tiếng xoạc đổ, rầm một cái: tôi mở mắt
ra, con bò đã ngã khuỵu bốn chân xoài ra, hai mắt nó không còn nhìn
nữa, cũng không khóc nữa, nó đã chết tức khắc sau nhát búa giáng mạnh
vào gáy nó. Mỗi ngày, hoặc là mỗi tuần vài ba ngày, ở trong lò sát sinh
ấy giết đến mấy con bò như vậy. Nhưng tôi chỉ xem phút hạ thủ bò chỉ một
lần ấy mà thôi... Sau đó, tôi cũng tò mò xem người ta mổ bò, lột da bò
và treo con bò đã lột da, đã lấy hết huyết, lên những đòn tay có xích
kéo cao lên, để nhờ ông bác sĩ thú y đến khám xét xem thịt bò lành hay
bị nhiễm bệnh. Sau này tôi có dịp xem bức tranh của Rembrand “Con bò đã
lột da”, thì tôi thấy nó giống những con bò treo ở nhà sát sinh quá. Ông
T. y sĩ thú y của thành phố khoảng 9 giờ đi xe kéo nhà đến, vào thẳng
lò, cầm một con dao mổ “Scalpel” rất sắc và nhọn đi rạch vào từng mảng
thịt của những con bò, để xem có sán hoặc có các ký sinh trùng nào khác ẩn trong cơ bắp của bò không. Dao ông sắc lém đến nỗi ông chỉ rạch qua mà đôi khi
văng cả cục thịt ra ngoài, nhưng những người đi theo không ai dám nhặt,
vì mắt ông còn sắc lém hơn. Có một lần ông N. cậu ruột của một người
bạn học tôi, xớ rớ thế nào mà ông tưởng là nhặt cắp thịt văng ra ông
liền phóng con dao theo ông N., may mà dao trượt qua lưng chỉ trầy da
một chút thôi. Cái anh vạm vỡ đao phủ trên kia và cái ông thú y sắc lém
này làm tôi khiếp đảm, từ đó mặc dầu trường tôi ở sát nách lò sát sinh
tôi cũng không dám vào xem công việc mổ bò, mổ lợn nữa. Huyết bò đổ vào
những cái chậu to bằng tôn, và huyết cũng lai láng trên nền xi măng. Các
bà buôn huyết bò (như thím Lạng đã nói trên kia), vội vàng gánh thùng
vào cho huyết đầy thùng và gánh đi thoăn thoắt, vì trễ giờ thì lò sát
sinh sẽ đóng cửa, và mọi người đều sợ gặp ông thú y như sợ cọp.
Ông
thú y này có một lần bị kiện vì hành động tàn bạo đối với người lao
động trong lò sát sinh, nhưng được quan trên che chở nên ông cũng trắng
án. Trong kháng chiến chống Pháp, tình cờ tôi có dịp gặp lại ông, tôi
không nhắc lại chuyện cũ ở lò sát sinh, ông cũng không nhắc, nhưng cả
hai người đều khêu gợi những kỷ niệm ở Huế. Thú vị cho tôi là nghe ông
nhắc nhiều đến chùa Thiên Mụ, tả tiếng chuông chùa ngân vang mỗi sáng
mỗi chiều, tiếng chuông Thiên Mụ mà tôi cũng rất mê nghe ngày tôi học ở
trường Quốc học. Ông nói rất tự nhiên, như là bộc lộ một suy nghĩ thấm
sâu, dai dắng của mình: “Thật ra ai cũng có Phật tâm, chỉ có lúc này lúc
kia bị chuyện đời che lấp làm cho mờ ám cái Phật tâm kia.... Trong bụng
tôi tự nghĩ: “Chắc hẳn rằng lúc ông phóng con dao vào thắt lưng ông N.
là lúc Phật tâm kia của ông bị che lấp, tối mờ đi...
Từ
lò sát sinh, xung quanh lò sát sinh, nầy nở nhiều nghề phụ: nghề buôn
da và thuộc da, nghề buôn xương (để làm cúc, vạch...), nghề buôn huyết
và chế biến huyết, nghề buôn lông lợn và chế biến lông lợn (làm bàn
chải, làm những cái thông bóng đèn,...).
Người
ta bảo với tôi là còn nghề buôn sừng trâu, sừng bò, móng trâu móng bò
cũng được tiền lắm. Tôi ngây thơ tưởng rằng những người làm ở lò sát
sinh mục kích hàng ngày việc giết trâu giết bò như vậy thì dễ sinh tính
hung tợn, tàn bạo, và tôi cứ phàn nàn tại sao trường tôi lại xấu số ở
sát cạnh lò sát sinh. Lại có người nhắc mẹ thầy Mạnh Tứ không muốn cho
con ở gần chợ... Nhưng cuộc đời nó không theo cái lập luận ngây thơ của
tôi. Vợ ông N. mà tôi đã nhắc đến trên kia là một người rất hiền, rất
thương người, rất thương cháu, đặc biệt là thương người cháu nghèo bạn
học của tôi cùng lớp. Thậm chí bà nói nhỏ nhẹ, và không muốn người khác
nói to tiếng trong nhà mình. Và người ta còn kể cho tôi nghe cái anh vạm
vỡ đao phủ của những con bò, về nhà lại rất hiền, rất êm ái với vợ con
và láng giềng, hàng xóm. Và biết bao nhiêu người hiền lành tôi đã được
gặp, tôi đã được chung đụng trong cái xã hội nhỏ sống gần lò sát sinh
như những người tôi đã nhắc đến trên kia: anh Cháu đờn ông Lạng, chú
Kình, chú Xối, ông cả Soạn, mụ Lợn mệ Chiếu, v.v... Lò sát sinh: một chi
tiết dữ dội trong kỷ niệm tuổi nhỏ ở phố Đông Ba.
Trường Queignec
Trường
tiểu học Queignec của tôi có 6 lớp: lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì
nhất niên, lớp nhì nhị niên và lớp nhất. Đằng sau trường có một sân khá
rộng để học trò tập thể
dục buổi chiều theo sự hướng dẫn của một ông cai lính khố áo xanh. Mỗi
lớp của trường tương đối rộng, chứa được trên dưới 40 học sinh, bàn ghế
của học sinh làm bằng gỗ lim, đã hàng chục năm, vẫn vững chắc. Bàn của
thầy giáo là lối bàn ở các giảng đường, nghĩa là có che kín xung quanh
và để trên một cái bục cao. Từ bàn đó, thầy nhìn xuống lớp thấy rất rõ
từng bàn của học sinh, bàn cuối lớp cũng không lọt được con mắt kiểm
soát của thầy. Áp vào tường là một cái bảng đen to tướng, mầu đen rất
bền, viết phấn trắng lên, phấn rất cắn và rất nổi chữ... Năm tôi học lớp
ba và lớp nhì thì cậu tôi là hiệu trưởng có sáng kiến giao cho thầy trò
mỗi lớp trồng mấy cây bàng phía cửa sổ của lớp nhìn sang cái vườn của
sở trứng (nhà máy làm bột trứng) mà chủ là một người Pháp. Những cây
bàng mà chúng tôi trồng lớn khá nhanh và sau hơn một năm đã cho bóng mát
vào lớp Năm 1975 sau khi giải phóng Huế, tôi về thăm trường, thì việc
trước tiên là tôi thăm mấy cây bàng. Các cây bàng này không to lên bao
nhiêu, có lẽ trồng trên đất sỏi gạch, nhưng lá vẫn mượt, và cây không bị
sâu. Người cai trường, lúc tôi học ở đó, là ông Tộ, hơi nặng tai, nên
ông nói với ai cũng nói thật to Cũng theo lẽ ấy, khi ông đánh trống
trường ông cũng nện dùi trống thật mạnh và tất nhiên là tiếng trống vang
to và vang xa, nhưng tội một cái là trống của trường mau thủng mặt
trống, và ông hiệu trưởng là cậu tôi lại phải xin tiền ty học chánh Thừa
Thiên để thay mặt trống. Sau này cậu tôi không giao ông Tộ đánh trống
nữa, mà giao cho học sinh lớp nhất luân phiên nhau đánh trống. Ông Tộ
rất tốt, đến giờ đóng cửa trường mà gặp học sinh đến chậm, ông vẫn mở
cửa cho vào, có khi ông bày cho học sinh leo qua cửa sổ nhà ông mà vào
lớp. Cả năm, ông không đi đâu nghỉ hè cũng vậy: trường thật sự là nhà
của ông...
Thầy Phan Tiên
Nhắc đến những năm học ở trường Queignec, trước hết tôi nhớ và hết sức
biết ơn thầy Phan Tiên. Thầy người quê ở Quảng Ngãi học ở trường đạo
Pellerin (Huế), đậu bằng thành chung mùa hè 1928 và được bổ nhiệm về
trường tôi vào kỳ tựu trường năm ấy, là lúc tôi học lớp ba. Thầy là
người học giỏi, đọc rộng, tính tình rất sôi nổi, phong cách hào phóng.
Tuy thầy không qua môn sư phạm, nhưng thầy dạy học trò mau tiến bộ dường
như thầy rất tin ở sự thông minh của đám trẻ học với thầy, và một phần
nào thầy giao cho lớp tự quản. Đặc biệt, thầy hay gợi ý cho học sinh đọc
sách sách giáo khoa hoặc những sách tập đọc ngoại khoá.
Thầy
chú ý khêu gọi lòng ham đọc sách, hứng thú tìm cái hay cái đẹp trong
sách cho học sinh. Hàng tháng thầy dành một vài tiết học cho học sinh kể
lại những bài mình đã đọc, những truyện lý thú mà mình đã khám phá
trong các sách đọc ngoài giờ học. Thầy cũng hay gợi ý cho học sinh trau
dồi tình bạn với nhau, và thầy kể hồi nhỏ
ở lứa tuổi của chúng tôi, nghĩa là 9, 10 tuổi, thầy đã kết bạn như thế
nào với một bạn học con trai và một bạn học con gái. Thầy kể tình bạn
tuổi nhỏ ấy với một giọng đầy xúc động, làm cho chúng tôi rất yêu thầy,
và cũng làm cho chúng tôi thấy tình bạn đẹp quá Tôi và vài anh nữa, vào
loại “đắc ý môn sinh” của thầy, vì chúng tôi học giỏi, và cũng giúp thầy
chấm bài cho cả lớp: chấm toán chẳng hạn, thì thầy chấm bài chúng tôi
trước, thầy phê đúng và cho điểm. Sau đó thầy giao số bài còn lại cho
chúng tôi kiểm tra đúng thì đề đúng, sai thì đề sai còn điểm thì chúng
tôi ghi bằng bút chì thường theo sự đánh giá chủ quan của chúng tôi, sau
đó thầy xem lại và phê điểm bằng bút mực đỏ, thường là thầy đồng tình
với những điểm chúng tôi đề nghị; tất nhiên cũng có trường hợp thầy gia
giảm. Anh em học sinh cùng lớp cũng biết cách chấm này của thầy, nhưng
không thắc mắc, một là vì sợ thầy, hai là thấy điểm cho cũng công bằng,
không có gì là thiên vị hay trù úm. Thầy hay dẫn học trò đi chơi thăm
những cảnh đẹp trong thành phố hay ngoài thành phố như đàn Nam Giao,
chùa Từ Đàm, chùa Diệu Đế.
Thầy
Tiên rất thương học trò, cuối mỗi năm học, thầy đòi mỗi học sinh cho
thầy một ảnh nhỏ để thầy dán vào quyển sổ lưu niệm của thầy. Năm 1975,
sau khi miền Nam được giải phóng, từ Sài Gòn đi ra bằng xe hơi, tôi ghé
Quảng Ngãi tìm thăm thầy và tôi đã gặp thầy ở thị xã Quảng Ngãi (huyện
Tư Nghĩa). Thầy đã già nhưng còn quắc thước, giọng nói vẫn sang sảng.
Gặp tôi thầy nhớ ra ngay, và thầy cho tôi ăn kẹo lạc và đường phổi Quảng Ngãi, như hồi bé
tôi vẫn được thầy cho sau khi thầy về quê ăn tết ở quê ra. Thầy đi vào
phòng trong đưa ra một quyển vở dày và mở ra cho tôi xem ở trang có dán
ảnh học sinh lớp ba của thầy ở trường Queignec năm 1929. Thầy chỉ vào
ảnh tôi (cái ảnh mà tôi còn giữ được trong căn cước đi thi tiểu học yếu
lược) và đọc lại tôi nghe lời nhận xét của thầy về tôi “Cậu bé này có
tương lai rực rỡ”. Lời nhận xét khích lệ của thầy, thầy lấy làm tâm đắc.
Năm tôi lên lớp nhì đệ nhị niên lại gặp thầy Tiên. Tình nghĩa thầy trò
từ bấy nay không hề phai nhạt, mỗi lần có cơ hội là tôi thăm thầy, và
điều làm thầy sung sướng là mỗi lần tôi lại tặng thầy một tập thơ mới của tôi...
Tôi ốm thương hàn
Năm
tôi học lớp ba, tôi bị ốm một trận thập tử nhất sinh, sốt liên miên
nhiều ngày mà cậu mợ tôi không hiểu rõ là bệnh gì. Cậu mợ rất lo, một
mặt đánh dây thép mời thầy (cha) tôi vào, mặt khác cậu tôi mời một ông
ngự y quen biết đến bắt mạch cho tôi và cho toa thuốc. Uống thuốc của
ông ngự y (thầy thuốc của nhà vua) được ba bốn hôm thì bệnh thuyên giảm,
và lúc đó cũng vừa lúc thầy tôi ở Hà Tĩnh đi xe lửa vào. Thành ra thầy
tôi được một dịp đi thăm kinh đô Huế, mà thầy vẫn ao ước, và ngồi đánh
tài bàn tổ tôm với cậu tôi và mấy người quen nửa tháng rồi về.
Sau
này tôi mới hiểu rõ lần ấy tôi bị bệnh thương hàn, và ông ngự y cũng đã
cho tôi uống bài thuốc kinh điển về bệnh này, hình như có nhiều phụ tử.
Lúc tôi gần khỏi, đầu cứ choáng váng, nằm thấy trần nhà cứ xoay tròn,
và cố gắng đứng dậy đi lại thì người cứ nhẹ lâng, như không còn sức hút
của đất. Lúc tôi ốm, cả mợ Vân, cả dì Em đều chăm nom tôi hết lòng như
mẹ chăm nom cho con. Có lúc mợ và dì tưởng tôi có thể chết thì đã hối
hận “đem nó vào làm gì để cho cha mẹ nó sẽ oán hận.... Lúc đó tôi không
hề có cảm giác là có thể chết, ý nghĩ về cái chết có lẽ không bao giờ
lởn vởn trong đầu một đứa trẻ con. Tôi chưa làm một cuộc điều tra về
điều này, nhưng tôi đoán chắc như thế. Trẻ con là mầm đang lên, chưa có
cái cụp héo của tuổi già để mà lo sợ cái chết. Tôi khỏi bệnh rồi ăn cháo
mấy ngày, cháo thịt bò, rồi ăn cơm bình thường mà cậu tôi vẫn nhờ ông
ngự y làm cho một thẩu thuốc bổ, thuốc tễ (từng viên vuông như viên
đường kính, mầu nâu) để ăn dần. Ăn hết thẩu thuốc tễ này thì tôi khỏe
hẳn, và từ đó về sau tôi không ốm nữa. Qua trận ốm này, và một lần ốm
nhẹ nữa năm 1936 (sau khi tôi đậu thành chung), tôi càng tin thuốc bắc,
đặc biệt là các phương thuốc bổ nó ngấm lâu dài vào cơ thể của ta, và
cho ta một cái vốn đề kháng rất lớn.
Cũng
vì vậy tôi rất tin tưởng ở phương châm kết hợp y học phương Tây với y
học dân tộc. Cũng là một sự ngẫu nhiên đẹp đẽ ở đời là thầy tôi và thầy
anh Xuân Diệu, sau khi hai con của mình thoát chết vì bệnh thương hàn
thì đều nghiên cứu đông y và trở thành những thầy thuốc “mát tay” chữa
bệnh cho bà con họ hàng, làng xóm.
Xóm Mang Cá
Từ
trường học Queignec của tôi đi xuôi về Sình, qua cầu Thanh Long, là đến
xóm Mang Cá, ở gần đồn Mang Cá Đồn Mang Cá lúc đó là do lính Pháp và
lính khố đỏ đóng, vì đây là một vị trí quân sự quan trọng, chính quyền
thực dân không muốn giao cho lính khố xanh đóng, mà họ gọi là đội lính
bản xứ (garde indigène). Đồn Mang Cá xưa kia, lúc Pháp mới sang, là nơi
đã xảy ra cuộc chiến đấu ác liệt của nhà yêu nước Tôn Thất Thuyết chống
cự (một cách tuyệt vọng nhưng rất anh hùng) bọn giặc Pháp lúc đó muốn
củng cố nền đô hộ chưa ổn định của chúng. Xóm Mang Cá những năm 30 của
thế kỷ là xóm của những người vợ lính Tây, cả Tây trắng và Tây đen (từ
“tây đen” là chỉ những người lính châu Phi da đen ở trong quân đội
Pháp). Một vài người bạn học cùng lớp với tôi (như bạn Côn, bạn Bảo) nhà
ở dưới đó, có rủ tôi đi chơi ở xóm Mang Cá. Đó là những ngôi nhà tranh
vách toócsi (đất nhồi rơm,
có khi cả với phân trâu khô) sạch sẽ, trong mỗi nhà là gia đình của một
anh lính. Các chị vợ Tây này có người có con, nhiều nhất là vài đứa, có
người không có con. Lính Tây chỉ được sống với vợ con tối thứ bẩy và
ngày chủ nhật trừ những anh cai hay đội thì thỉnh thoảng cũng được về
nhà vài đêm “bổ sung”.
Các chị vợ
lính Tây thường nhàn rỗi, vì đã có tiền của anh chồng bao, chỉ đi chợ
mua thức ăn, lo bếp núc, nhất là thứ bẩy và chủ nhật: Còn ngày giờ rỗi
thì các chị đánh tứ sắc, hay là đánh chắn.
Tôi
còn nhỏ (10 tuổi), nhưng tại sao tôi có cảm giác các chị sống một cuộc
đời dường như ngơ ngác, như giả tạo, và trên nét mặt của các chị tôi
thấy một nỗi buồn phảng phất, kể cả những khi các chị vui đùa. Có những
anh lính Tây cũng thương vợ thật, đằm thắm nữa là khác, và lúc về Tây,
không đem vợ theo được, thì để lại cho vợ một số tiền khá lớn, và sắm
sửa cho vợ đủ thứ bàn ghế, giường màn, rương tủ, cả chậu cảnh nữa, về
đến Pháp hay châu Phi còn gởi thư sang, giọng đầy tình nghĩa. Nhưng cũng
có những chị bị chồng Tây hành hạ, đánh đập như một người nô lệ, mà nó
đánh thì không ai dám đến can. Số phận con người “me Tây” tuỳ may, tuỳ
rủi. Nói số phận “me Tây”, tôi lại nhớ đến mẹ anh Hường cùng học lớp với
tôi. Mẹ anh hai đời lấy Tây, chồng trước là một anh Tây trắng đối xừ
với bà rất tàn tệ, thậm chí có lúc giam đói bà cả ngày chủ nhật vì cách
chiều chuộng mơn trớn của bà không vừa ý nó. Đến lúc về Tây, nó chỉ thí
cho bà được vài chục đồng bạc, và chẳng có thư từ hỏi han gì. Nhưng đời
sau là một anh Tây đen, người Xênêgan, “đen như cột nhà cháy”, cao lêu
nghêu nhưng rất hiền. Anh chồng này chiều chuộng bà đủ cách, muốn may áo
là may áo muốn sắm giường là có giường, và không khi nào anh to tiếng
với bà. Người cao to như ông hộ pháp mà giọng nói lại nhỏ nhẹ, tiếng
Pháp bồi, đủ để trao đổi ý kiến về sinh hoạt hàng ngày, và để trao đổi
những tình cảm cơ bản... Đến lúc anh này về nước, anh để lại không những
một số tiền to, mà còn cả những thứ anh sắm mấy năm trời khi anh đóng ở
trại Mang Cá. Ra về anh khóc sướt mướt, hai vợ chồng tiễn nhau đến Cửa
Hàn tức là Đà Nẵng ngày nay, và còn cái đồng hồ nơi tay anh cũng cho vợ
nốt. Anh Hường là con đời chồng Việt Nam của bà, đã chết trước khi bà
lấy Tây. Bà rất thương anh Hường, và anh Hường cũng rất thương dượng Tây
đen của anh. Hai đời chồng Tây không cho bà một đứa con nào, trắng cũng
không mà đen cũng không.
Năm 1975 sau khi
Huế giải phóng, tôi về thăm Huế, và đạp xe đạp xuống thăm xóm Mang Cá.
Cảnh đã khác xưa, có nhiều nhà ngói xây thời Mỹ nguỵ, thay những nhà
tranh vách toócsi xưa kia. Những bà vợ “me Tây” đã phiêu bạt đi đâu và
cái cảnh ngơ ngác của các bà cũng không còn nữa. “Vang bóng một thời”
Tây, tôi xin ghi vài nét trên đây làm chứng liệu. Tôi sẽ trở lại các chị
“me Tây”, khi nói đến cái lớp học tiểu học dành cho bọn trẻ Tây lai
trong trường trung học quốc học...
Các thầy thợ in của báo Tiếng dân
Báo Tiếng dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng ở trên phố Đông Ba, cách nhà cậu tôi chừng nửa cây số.
Một
ông cậu khác của tôi lúc đó học trường quốc học ham đọc báo Tiếng dân,
và thỉnh thoảng viết một cái tin vặt (nhưng có ý nghĩa về đời sống của
dân chúng) gởi đăng báo, và khi tin được đăng lên, cậu tôi rất sung
sướng, có phần nào hãnh diện với những người xung quanh rằng ta có “bài
đăng báo”. Báo Tiếng dân của cụ Huỳnh dùng toàn thợ in ở Hà Nội, ở ngoài
Bắc vào. Các anh em thợ in này, ít người bận âu phục thường là bận áo
quần ta, áo dài đen hoặc áo dài trắng, và đi giày vải trắng, đội mũ
“cát” trắng. Bà con gọi anh em thợ in này là thầy, và cũng nể các thầy,
vì anh em giữ tư cách đứng đắn, ăn nói lịch thiệp dường như anh em cũng
giữ danh dự cho cả nhà in báo Tiếng dân của cụ Huỳnh nữa. Có mấy thầy
quen nhà cậu tôi, chủ nhật thỉnh thoảng đến đánh tổ tôm, tài bàn với cậu
tôi. Đánh bài thì có thua có được có thầy nướng hết vốn, phải vay,
nhưng sau đó trả nợ đàng hoàng. Tôi không biết các thầy này có vợ không
hay là có vợ mà để vợ ở quê. Duy có thầy Yên thì tôi biết đích xác là
chưa có vợ và rất si tình. Thầy thường bận một áo lương đen, đội khăn
xếp lượt, tay cầm một chiếc ô “lục soạn”, dáng đi nho nhã như một ông đồ
nho. Thầy bắt tình với một chị làm công ở hiệu buôn Đức Thuận, ở phố
Pônbe (Paul Bert). Chị cũng đẹp, tóc bỏ đuôi gà, nước da trắng mịn và đôi mắt
rất tình tứ. Hai người dan díu đã lâu và rồi chị có thai với anh. Anh
em đồng nghiệp thương thầy Yên, không những không chê cười thầy mà còn
tìm cách giúp đỡ và nếu thầy và người yêu muốn nên vợ nên chồng thì anh
em cũng sẵn sàng giúp tổ chức đám cưới. Thầy Yên cũng tâm sự với cậu mợ
tôi, và còn mượn nhà cậu mợ tôi làm nơi gặp gỡ người yêu. Ai cũng tường
đám cưới sẽ thành, chị rất thương anh không dấu giếm gì cả và anh cũng
quyết tâm lấy chị, anh săn sóc chị săn sóc cái thai trong bụng chị như
là một người chồng săn sóc vợ đã cưới... Thế mà, đám cưới không thành vì
bà chủ của chị kiên quyết phản đối, kiên quyết bắt thầy Yên phải bỏ chị
lấy cớ rằng chị là “người nhà” của bà, bà phải giữ chị làm ăn với bà
rồi bà sẽ “kiếm tấm chồng cho”. Cuộc tình duyên phải chấm dứt, nhưng chị
đẻ con ra thì thầy Yên nuôi với tất cả tấm lòng của một người cha.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- E
Hồ Tịnh Tâm
Những
năm tôi học lớp nhì, lớp nhất, tôi hay vào trong thành Huế chơi với bạn
học cùng lớp. Nhiều lần tôi đã đến nhà anh Đặng Huệ gần cửa Đông Ba,
nhà anh ở chân thành, có nhiều cây roi (ở Huế gọi là cây đào tiên), cả
vườn xanh mắt. Cha anh làm việc ở một cơ quan Nam triều ở trong thành,
tôi không biết rõ là cơ quan gì. Chỉ nhớ là ông rất niềm nở đón bạn của
con và vào lúc roi chín, ông cho tha hồ chọc hoặc hái quả Gần nhà anh
Huệ có một ông thợ khắc dấu gỗ và cái thú của tôi là đến thuê ông khắc
một cái dấu tủ sách gia đình hình bầu dục, cái dấu này còn in rõ trong
một số sách mà tôi còn giữ được từ trước cách mạng. Một nhà bạn nữa mà
tôi thường đến chơi là nhà anh Đặng Ngọc Khuê (nay là bác sĩ về hưu) ở
gần miếu “âm hồn”. Anh Khuê người gầy, da cứ sủi vẩy như da của kỳ đà,
nhưng miệng cười rất tươi, mà giọng nói thì ỏn ẻn như giọng con gái. Đến
nhà anh Khuê bao giờ chúng tôi cũng được bà anh ấy cho ăn bánh nậm,
hoặc bánh ướt, hoặc bánh canh, các thứ bánh này bà mua ở một hàng cạnh
nhà. Ở nhà anh Khuê có một hòn non bộ rất đẹp trong một cái bể cạn to và
sâu ở giữa vườn. Trên hòn non bộ có đủ cảnh chùa, cảnh tiều phu gánh
củi, cảnh Lã Vọng câu cá cảnh ông quan đi sứ có lọng vàng che, và dưới
chân núi non bộ có cảnh thuyền bè, chợ búa... Bà anh Khuê mộ đạo Phật,
đã đi cầu Phật ở nhiều chùa, nên mỗi lần trở về bà lại bảo anh Khuê làm
thế nào chắp thêm vào hòn non bộ cảnh chùa bà vừa đến thăm.
Anh
Khuê cũng có khiếu tạo hình, lại lấy đất vắt chùa, vắt bụt cho vào bếp
nướng (nung) rồi gắn lên hòn non bộ. Bên cạnh nhà anh là miếu âm hồn.
Miếu này được nhân dân lập ra sau ngày kinh đô thất thủ (1885), để thờ
những người lính và những người dân đã chết trong những trận cuối cùng
chống giặc Pháp của ông Tôn Thất Thuyết và những sĩ phu khác. Người ta
bảo miếu được lập trên một ngôi mộ chung chôn nhiều người tử trận.
Thường cứ rằm tháng bảy âm lịch là có giỗ cúng âm hồn, không ai bảo ai
mà nhiều nhà đem cơm và trứng luộc và xôi đến cúng. Trên mỗi bát cơm có
cắm một chiếc đũa mà phía trên có vót ngược lên thành một cái ngù, tượng
trưng cho vũ khí của những người từ trận, theo lời dân gian kể.
Mọi
người đều bảo miếu âm hồn thiêng lắm. Thực dân Pháp biết đó là miếu thờ
những người tử trận chống Pháp nhưng làm ngơ, không dám đụng chạm đến.
Có vài vị quan, không biết vì lòng yêu nước, hay vì muốn lấy lòng dân mà
đến ngày rằm tháng bảy cũng cho vợ con đem cơm xôi đến cúng miếu âm
hồn. Và cụ Ngáo là người đao phủ của triều đình, và của chính quyền Pháp
nữa, mỗi lúc được lệnh thi hành một án chém thì cụ cũng đến miếu âm hồn
khấn vái xin âm hồn xá tội cho cụ và phụ trợ cụ. Tôi chưa thấy mặt cụ
Ngáo bao giờ, nhưng người ta tả cho tôi thì rùng rợn lắm: hai chân cụ đi
khập khiễng, trên mặt cụ nổi lên những cục, những u sần sùi mốc mốc như
da cóc (người ta truyền nhau rằng mỗi u là biểu hiện một cái đầu cụ đã
chém); mỗi lần phải đi chém cụ uống rượu thật say và múa thử chiếc gươm
trong hàng tiếng đồng hồ, và cũng có khi cụ thử chiếc gươm bằng cách
chém chó. Vả lại cụ Ngáo cũng thường ăn thịt chó hoặc mua ở chợ, hoặc do
cụ tự tay làm lấy. Các bà mẹ ở Huế muốn doạ con trẻ thì cứ nói: “Im
ngay không thì tao mời cụ Ngáo đến!”. Trẻ con chẳng biết gì, nhưng cứ
nghe tên cụ Ngáo thì sợ. 'Nhưng cụ Ngáo lại rất sợ miếu âm hồn.
Từ
“miếu âm hồn” đi vào chơi hồ Tịnh Tâm, nói là chơi nhưng nhiều lần tôi
vào đó học ôn bài thi học kỳ hoặc thi bằng tiểu học. Trước hồ Tịnh Tâm
có một cái hồ để hoang vu, và ở giữa có một ngôi nhà đã gần đổ nát là
Quốc sử quán. Hồ Tịnh Tâm là một cái hồ nhân tạo khá rộng, một bề khoảng
nửa cây số, và bề dài khoảng non cây số. Hồ được xây dựng từ đời Minh
Mạng; nhà vua muốn tạo nên một cảnh yên tĩnh để nghỉ ngơi thư thái, lúc
đi câu, lúc đi săn, lúc ngồi thuyền hái sen, lúc lên gò ngâm thơ, hóng
gió... Ở giữa hồ có hai hòn đảo nhỏ, hòn bên tay phải để như cảnh hoang
vu, hòn bên tay trái có xếp đá xây thành cảnh núi non thanh tú có trồng
trúc, trồng hoa và nhiều cây cổ thụ. Từ ở ngoài vào đi qua một cái cầu
dài, rồi lại qua một chiếc cầu nữa mới đến hòn đảo có cảnh núi đá, hai
cầu đều bằng gỗ sơn son. Ở trên hòn đảo núi đá có một cái nhà bát giác,
mái lợp ngói men nhìn ra tám phía hồ rất đẹp. Trong nhà bát giác có
nhiều ghế dài, đó là nơi chúng tôi học bài rất yên tĩnh, rất mát mẻ. Mùa
hè hoa sen thơm ngào ngạt một mùi hương thơm mát tăng thêm vẻ vắng
lặng, xa xôi của cảnh hồ vốn đã cổ xưa, yên ắng. Cậu mợ tôi đã có lần
dẫn hai cháu là anh Cục và tôi vào chụp ảnh ở hồ Tịnh Tâm. Triều đình
nhà Nguyễn có tái tạo sửa sang phong cảnh, gây mối quan hệ hài hoà giữa
người và cảnh. Nhưng tái tạo cảnh này thành công nhiều hơn ở các lăng
vua, đặc biệt là ở lăng Minh Mạng và lăng Tự Đức, một phần nào ở lăng
Gia Long, chứ ở hồ Tịnh Tâm thì cái nhân tạo còn lộ rõ qua những nét
chắp nối giữa nhân tạo và thiên nhiên chưa liền, không gây được cái thú
vui “nhập cảnh”. Cho nên chơi dạo trong hồ Tịnh Tâm vẫn cho ta cái cảm
giác đi chơi trên một hòn non bộ lớn.
Tôi
cùng bạn học trong nhà một vài lần vào xem bảo tàng thủ công và mỹ
nghệ, ở gần “tam toà” trong thành. Bảo tàng này do Pháp xây dựng lên để tập hợp các ngành nghề của dân ta trong xứ Trung kỳ hồi đó
cùng nhằm phát triển thủ công, và nhất là mỹ nghệ để xuất cảng sang
Pháp, và một phần nào sang các thuộc địa khác. Bảo tàng trình bày khá
công phu và khá đẹp các hàng thủ công mỹ nghệ, tôi nhớ nhất là những
hàng gỗ chạm, hàng ngà, hàng mây đan hàng mộc (có những bộ bàn ghế khảm
xà cừ rất đẹp những cái giường bằng gỗ trắc cũng khảm xà cừ hình hoa lá
tinh vi). Tôi còn nhớ trong bảo tàng này còn trình bày cả mô hình của
những chiếc xe đạp nước, và cái guồng nước hình tròn thường ta thấy trên
các con sông của Quảng Nam, Bình Định... Nhưng chúng tôi vào xem bảo
tàng tam toà không phải chỉ bị thu hút bởi những mô hình thủ công, mỹ
nghệ, mà còn bị thu hút trước mắt bởi những tấm đá ác-đoa (ardoise) còn
chất đống ở một góc vườn, dưới chân cây muỗm hoặc cây nhãn. Đống ác-đoa
này là số thừa hoặc phế phẩm của ác-đoa đã dùng để lợp cái bảo tàng trên
kia và một số nhà khác trong khu vực tam toà. Ác-đoa chở từ bên Pháp
sang. Chúng tôi lượm những mảnh ác-đoa ấy về làm bảng học sinh rất tốt,
phấn viết lên ác-đoa rất rõ và lại dễ lau sạch, bóng đen...
Hội
đồng hương quyên tiền ở nhà cậu tôi, thỉnh thoảng có những ông người
Nghệ Tĩnh, khăn đen áo dài đến thăm và nói chuyện thủ thỉ với cậu tôi.
Các ông tự xưng là người của hội đồng hương đến quyên tiền để giúp dân
Nghệ Tĩnh khi bị lũ lụt, khi bị bão... Tôi thấy cậu tôi hơi e dè nhưng
cuối cùng thì cũng cúng một số tiền nhỏ nhưng xin các ông đồng hương
đừng ghi tên vào sổ, vào danh sách quyên góp, và cậu tôi cũng không đòi
một giấy biên nhận gì. Các ông hội đồng hương làm đúng theo yêu cầu của
cậu tôi và ra về có nói một câu, nói vừa đủ cậu tôi nghe: “Đây là việc
nghĩa cả, chúng tôi sẽ dùng đồng tiền cho có ích nhất, không phụ lòng
hào hiệp của ông”. Các ông chào ra về, cậu tôi lễ phép chào nhưng không
tiễn ra tận đường. Về sau tôi đoán hiểu những ông đồng hương này là
người của một tổ chức cách mạng, không hiểu là của đoàn thể nào, đến gặp
cậu tôi với mục tiêu tối cao là mời cậu gia nhập đoàn thể, và mục tiêu
tối thiểu cũng là quyên góp tiền ủng hộ “nghĩa cả”, ủng hộ phong trào.
Tôi có hỏi những đồng chí lão thành cách mạng có phải lúc ấy ở Huế có
những người đi vận động như vậy không, thì các đồng chí cho biết là đúng
như thế, lúc bấy giờ sau phong trào Xô Viết, các đồng chí ta phải dùng
nhiều hình thức vận động để củng cố phong trào mà hình thức hội đồng
hương là một hình thức tiếp cận với những người trí thức ít nhiều có
lòng yêu nước. Cậu tôi mất rồi (năm 1946) tôi không hỏi được cậu sự thật
trên điểm này, trên đây tôi chỉ ghi sự đoán hiểu của tôi. Dầu sao thì
những ông hội đồng hương khăn đen áo dài này cũng đã để lại cho tôi một
ấn tượng sâu sắc, nhất là cái giọng Nghệ Tĩnh quê nhà của các ông cái
giọng mà suốt đời đi đâu thì tôi vẫn giữ được nguyên vẹn. Cứ về đầu làng
là tôi nói giọng Hà Tĩnh một trăm phần trăm, hơn thế nữa tôi nói đúng
giọng của làng tôi, xóm tôi, không quên giọng đã đành mà cũng không quên
những từ quen thuộc của địa phương nữa, cái giọng và những từ trong đó
tôi đã sinh ra và được mẹ tôi ru hồi tấm bé.
Tuổi dậy thì
Có nên ghi vào hồi ký những
năm tháng phức tạp này không? Nhưng tôi nghĩ cứ nên ghi, cứ nên kể vì
đây là đời của mình, đời xương thịt nó chứa đựng cả đời tâm hồn và làm
nền cho đời tâm hồn. Vả lại ai cũng chỉ sống có một đời, tôi không kể
đời tôi trọn vẹn thì ai sẽ kể thay cho tôi trong thăm thẳm của thời
gian. Người ta thường bảo “Nữ thập tam, nam thập lục”. Nhưng tôi chưa
đến thập lục, chỉ mới thập nhị thập tam cũng đã đến cái tuổi biến chuyển
sinh lý, cái tuổi dậy thì. Tuổi đầy mơ mộng, mà đối tượng mơ mộng thật
chưa rõ ràng, những tình cảm tả trong sách làm cho mình cảm nhiều hơn là
những đụng chạm trong đời. Nhưng các giác quan đã thức dậy, có khi sắc
nhạy, kể cả giác quan của dậy thì. Thế rồi chàng thiếu niên đang lớn lên
cứ âm thầm tưởng tượng những tình duyên, những gặp gỡ, những cảm giác
và những say sưa trong tình cảm. Tâm hồn và máu thịt đang cùng nảy nở
một lần, đang làm giàu cho nhau trong cái buổi “khai thiên lập địa” của
một con người. Chính những năm tháng này, cũng là những năm tháng bắt
đầu nảy nở hồn thơ trong tôi, bắt đầu xao động cái khiếu thơ bấy lâu
đang còn ấp ủ, như một cái mầm bắt đầu nhú lên, mở những cánh lá đầu
tiên đón gió.
Lần đầu tiên đi gặp biển
Trên
kia tôi đã kể lúc đi theo mợ Vân vào Thừa Thiên, tôi đã tiếp xúc với
biển ở đèo Ngang. Nhưng lúc ấy chỉ thoáng thấy biển ở chân đèo, mặc dù
cảm giác rất mới lạ, nhưng chưa phải là một sự chấn động sâu xa trong
cảm giác và tình cảm của tôi. Thật sự tiếp xúc với biển lần đầu tiên là
buổi đi chơi Thuận An với bạn Đồng Sĩ Hiền lúc chúng tôi học lớp nhì như
tôi đã nhắc ở một đoạn trên. Lúc bấy giờ tôi 11 tuổi Hiền và tôi đi từ
sáng sớm. Dọc đường từ Đập Đá qua Nam Phổ đã tiếp xúc với biển qua gió
biển.
Quê tôi ở vùng sơn cước, ở
chân núi Mồng Ga, chưa bao giờ tôi nghe thổi một ngọn gió mát và nhẹ như
thế, một ngọn gió mà tưởng là hơi thở hiền hoà của đất của trời. Tuổi
nhỏ, tôi cứ tưởng là gió dính liền với cây lá, với rừng, nơi nào không
có cây thì không có gió. Tôi quen thấy gió từ cây từ cành lá rung rinh
hoặc bạt theo một chiều. Đi dần về biển, tôi mới có cảm giác rõ rệt gió
có thể rời cây, gió có thể riêng với cây gió là hơi thở của bầu trời
rộng lớn. Cứ đi, cứ nghe gió, tắm mình trong gió. Rồi khoảng 8, 9 giờ
sáng, nghe tiếng ào ào như mưa qua rặng phi lao: cảm giác như đến gần
chợ Nước ở quê tôi. Cũng thấy lạo xạo, dào dạt mỗi lúc một to. Thỉnh
thoảng lắng đi một tí. Rồi bừng lên trước mắt tôi cái mênh mông xanh của
biển, thoạt nhìn thấy hơi cứng. Gió biển vù vù làm rợn cả người tôi.
Tôi thấy mát cả nơi khóe mắt tưởng như mắt tôi mở to gấp mấy lần. Biển
phồng lên, tôi thấy như một cái ngực hồi hộp.
Khối xanh bát ngát ấy không cứng nữa như cảm giác ban đầu. Khối xanh ấy
bây giờ cho tôi một cảm giác đùn lên đùn lên vô tận. Hơi ngợp. Tôi đứng
nhìn say sưa. Biến và sông đều là khối nước, mà sao cho tôi cảm giác
khác nhau quá? Biển hút tôi, biển đặt tôi vào một trạng thái tâm hồn dạt
dào, rộng mở, mà lại lắng sâu. Tôi nhìn biển không chán cho đến trưa
lúc mặt trời chói nắng. Đó là tình yêu đầu tiên của tôi với biển. Từ đó
đến nay tôi mê biển như một nỗi mềm. Cứ có dịp là tôi về với biển. Có
điều lạ là biển bát ngát, rộng mở lại làm tôi lắng về bên trong tâm hồn.
Biển là khối lớn dào dạt, như chiếc võng lớn đưa cao làm tôi say mà lại
yên tâm vô cùng. Trong đời làm thơ của mình tôi đã viết hàng chục bài
thơ về biển, vì biển (có thể gần đến trăm bài), xin kể ra đây vài đoạn
vào những năm khởi đầu của thơ tôi.
Trời thắm duyên rằm, vừng nhạc mờ
Chuông sao rung nhớ tiếng vàng bay
Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng
Biển rủ rê lòng nhập cuộc say.
(Lượng vui, 1941)
Ta, biển sinh đôi tự thuở nào
Sóng lùng bao đợt nhói lòng đau
Cái vui đầu sóng buồn chân sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au.
(Ta viết bài thơ gọi biển về)
Trăng ru sóng vui tràn vũ trụ
Hồn ta ơi chớ ngủ nghe em!
Trăng cao gọi thúc nỗi niềm
Biển bằng phơi dậy bờ đêm trùng trùng...
(Triều nhạc, 1940)
Bãi biển cuối hè dần vắng lặng
Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng
Mai đây ta vắng, đời không vắng
Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng
Sóng trắng bờm phi hí gió mai
Mây bay tới tấp ngợp chân trời
Phải chăng vũ trụ thừa dư sức
Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi.
(Bãi biển cuối hè, 1974)
Rồi một ngày kia hết ở đời
Cho ta theo biển khoả chân trời
Điều chi chưa nói xin trao sóng
Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi...
(1982)
Nếu bạn đọc hồi ký của tôi muốn hiểu thêm mối bình của tôi với biển, xin tìm đọc các tập thơ của tôi trong tập nào cũng có một số bài về mối tình dai dẳng ấy.
Tủ sách của cậu tôi
Cũng
trong nhà cậu một điều vui lớn, ít nhất là đối với tôi là tủ sách của
cậu tôi. Cậu tôi khá giỏi tiếng Pháp, nhưng rất hâm mộ văn thơ dân tộc,
từ Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm cho đến những bài vè nổi tiếng lúc bấy
giờ, ở Bình Định, Quảng Nam hay là Huế. Những ngày tháng ở Quảng Điền,
là những ngày tôi bắt đầu ham mê đọc sách nhờ cái tủ sách của cậu tôi
cái tủ sách kỳ diệu nó đã mở ra cho tôi thế giới thần kỳ của văn thơ
đông, tây, kim, cổ. Tủ sách không to lắm, nhưng lúc đó tôi thấy nó sao
mà bát ngát.
Sách tiếng Việt có các
truyện Nôm (Thạch Sanh, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Nữ tú
tài, Trê Cóc, và Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc...) và
cả những bài vè của địa phương miền Trung mà cậu tôi đã công phu chép
vào một quyển sổ đẹp: vè Thông Tầm, vè Thất thủ kinh dô... Trong quyển
sổ đẹp ấy cậu còn chép cả những bài thơ nổi tiếng như Khuê Phụ Thán 10
bài (và bài Tục Khuê Phụ Thán nữa), thơ của Bà Huyện Thanh Quan, thơ Tú
Xương, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Hồ Xuân Hương và
những câu đối hay những danh ngôn, những tục ngữ... Quá một nửa tủ là
sách tiếng Pháp, tôi nhớ loại nhiều nhất là các truyện cổ tích của Pháp
và của thế giới nhưng đã được soạn gọn lại cho thiếu nhi đọc, và các
sách này đều có minh hoạ. Có truyện cổ tích của Perrault, nhiều tập truyện của Andersen (sau này tôi mới biết đó là sách của Andersen, vì sách mất bìa) có cả một tập truyện của Ấn Độ, và tập truyện
Ba Tư (rút từ Nghìn lẻ một đêm) thuật lại bằng tiếng Pháp. Tôi nhớ mãi
câu chuyện ông vua ở trần truồng ngự giá đi ngoài phố mà ai cũng ca ngợi
là vua mặc quần áo đẹp quá (truyện của Andersen). Cậu tôi đọc và dịch
các truyện và giải thích cho chúng tôi nghe. Thỉnh thoảng cậu tôi cũng
thêm lời bình luận, có khi theo sát bình luận trong sách, nhưng thường
là theo cảm nghĩ của ông. Ví như truyện ông vua vừa rồi thì cậu tôi nói
“đó là vua phương Tây, chứ vua ở nước ta thì không dám liều thế đâu mặc
dù có anh thợ may xảo quyệt lừa vua”. Cậu tôi còn xem Những người khốn
khổ của Victo Huygô sách mượn của hội Trí Tri ở Huế, rồi kể hết tuần này
sang tuần khác cho cả nhà nghe, như người ta kể truyện Tam quốc hay
Thuyết dường diễn nghĩa vậy.
Tôi còn nhớ cái không khí náo nức, hào hứng mà bọn tôi chờ nghe tiếp hồi này qua hồi khác câu chuyện của Giăng Van giăng, chúng tôi hồi hộp
theo dõi những bước đường của nhân vật anh hùng này, chúng tôi cũng ham
mê theo dõi cuộc tình duyên của Côdét và Mariuýt. Cậu tôi kể sát truyện
Victo Huygô, nhưng cách kể của cậu lại có phần kết hợp với truyền thống
truyện nôm của ta nên rất hấp dẫn. Hết Những người khốn khổ cậu tôi lại
kể tiếp sang Ba người ngự lâm pháo thủ của Dumas, cách kể cũng từng hồi từng đoạn hấp dẫn và mê ly như thế. Về sau học ở ban thành chung tôi đọc những tập truyện
này trong nguyên bản tiếng Pháp thì như là đọc lại, và như là gặp lại
những người quen thuộc từ thuở nhỏ. Trong tủ sách của cậu tôi còn có
nhiều tập thơ Pháp, tôi nhớ có một tuyển tập thơ Victo Huygô, một tuyển tập Lamáctin, và một tuyển tập thơ Pháp từ đầu cho đến cuối thế kỷ 19. Lại còn sách của Khổng Tử (dịch ra tiếng Pháp, trong đó có một tập Đại học, tập Trung
dung...), quyển sách của Khổng Tử bìa đen này để trong một góc tủ cậu
tôi không hề mó tới; sau này cậu tôi cho tôi quyển sách đen ấy, tôi cũng
để một góc tủ không hề mó tới cho đến năm tôi đậu tú tài toàn phần tôi
đem cho một người bạn ham nghiên cứu triết học Trung Quốc.
Trong tủ sách của cậu tôi còn có một số “tập san
của Những người bạn của Huế cổ kính” trong đó có nhiều tranh in màu vẽ
lăng miếu, cung điện ở Huế. Thỉnh thoảng cậu tôi lại trích trong tập san ấy những đoạn văn ngắn để đọc chính tả tiếng Pháp cho chúng tôi viết Tôi còn nhớ có cả quyển Bình yên của Dufresne.
Tủ
sách của cậu tôi là trường học văn thơ đầu tiên của tôi. Tôi say sưa
đọc văn thơ tiếng Việt, chẳng mấy lúc mà đọc hết; đọc hết lại đọc lại.
Có những lúc tôi đọc cho mợ tôi nghe, nhất là đọc vè Thông Tằm, vè Kinh
đô thất thủ, đọc truyện Thạch Sanh và các truyện Nôm khác. Rồi tôi tập đọc
dần sách tiếng Pháp, tất nhiên là không hiểu hết; tôi hỏi cậu tôi, đề
nghị cậu nói tóm tắt từng truyện rồi tôi mò tìm hiểu dần từng trang. Rõ
ràng cái tủ sách của cậu tôi đã hé mở cho tôi cái thế giới kỳ diệu của
văn chương, nghệ thuật. Cái thói quen hay mua sách, hay gom sách, hay
tích luỹ sách hay của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Tủ sách, và chính cậu
nữa đã gây cho tôi cái thú ham đọc sách, cái thú tìm niềm vui thanh
khiết trong sự đọc sách, trong sự tiếp xúc với những tâm hồn Đông, Tây
kim, cổ. Cậu tôi chết sớm năm 1946 tại Thanh Hoá lúc đó cậu mới 47 tuổi.
Tủ sách thân yêu của cậu và của tôi về sau bị phân tán, mất mát dần qua
những lần cậu tôi đổi nơi làm việc, và cũng bị người này lấy đi một ít,
người kia lấy đi một ít. Nhưng tủ sách ấy vẫn còn, còn ở trong tâm trí
tôi; còn ở chỗ thân yêu nhất trong kỷ niệm của tôi. Nếu bác Cù Hoàng Thự
đã khai tâm cho tôi về chữ quốc ngữ, thì cậu tôi và tủ sách của cậu đã
khai tâm cho tôi về khiếu thẩm mĩ về nhận thức cái đẹp và cái hay trong
sách và trong đời Vừa rồi tôi gặp mợ tôi, tôi nhắc đến tủ sách, mợ tôi
cũng còn nhớ rõ các truyện, các vè mà tôi đã đọc cho mợ nghe. Mợ tôi
nói: “Anh làm thơ hay, nhớ đến tủ sách, thì cũng thoả lòng cậu”. Khi
quyển thơ đầu tiên của tôi, là tập Lửa
thiêng ra đời năm 1940, tôi có gửi tặng cậu, mợ một bản đẹp, nghe nói
cậu cũng cho vào tủ sách và đọc đi đọc lại nhiều lần. Nếu tập thơ
đầu của tôi đã phần nào làm cậu hài lòng, làm cậu hứng chí trong những
giờ rảnh rỗi thì nó cũng là mong muốn một tôi đáp lại cái công ơn đào
tạo và khơi nguồn của cậu. Nhân nói tủ sách, tôi còn nhớ cậu có quyển tự
vị Larousse khá mới, và chúng tôi hay mở từng trang xem các minh hoạ
trong đó, nhân đó học thêm tiếng, học dễ nhớ nhờ có hình.
Hai tủ sách và hòm sách của tôi bị trôi sông và bị cháy trong kháng chiến
Như một đoạn trên tôi đã kể, trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946)
tôi và anh Xuân Diệu đã chở cái tủ sách của chúng tôi về gởi nhà ông
Trương Đăng ở Kim Bài (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) gần phía Vân Đình.
Những ngày đầu kháng chiến chúng tôi còn ở lại Kim Bài vài tuần, và vẫn
đọc sách với nhưng vốn văn học cổ kim đông tây mà chúng tôi đã mua góp
được vào tủ sách quý của mình.
Trong
tủ sách có nhiều tác phẩm văn học cổ điển của ta như Truyện Kiều (nhiều
bản khác nhau), Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Tần cung oán Bái
Công văn, 3 tập Văn
đàn bảo giám, Đại nam Quốc sử diễn ca, Nam hải dị nhân, có cả Việt Nam
sử lược của Trần Trọng Kim, Hán Việt văn khảo của Phan Kế Bính, nhiều
sách của Tự lực văn đoàn... Đặc biệt có những truyện nôm dân gian mà tôi
đã cóp nhặt mua ở phố Hàng Gai (như Thạch Sanh, Trương Viên, Trê cóc,
Bích câu kỳ ngộ, Nữ tú tài, Trinh thử, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Trương Chi, Bần nữ thán, Nhị độ mai...) và
tôi đã cho đóng thành 1 quyển dày bằng quyển tự vị Larousse, với gáy da
đề dòng chữ vàng “Hồn cổ Việt”.
Trong tủ sách ấy còn cả báo Ngày nay đóng thành 3 tập trong đó có đăng thơ của anh Xuân Diệu và của tôi lại còn tập hồ
sơ xây dựng chính quyền nhân dân mà anh Nguyễn Thượng Đạt và tôi đã cất
giữ sau khi giúp Bộ Nội vụ của ta xây dựng sắc lệnh 68 là sắc lệnh tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp (người chủ trì việc
soạn thảo sắc lệnh này là anh Võ Nguyên Giáp, lúc đó là bộ trường Bộ Nội
vụ kiêm thứ trưởng Bộ Quốc phòng và kiêm tổng chỉ huy vệ quốc đoàn).
Đến sau Tết, chúng tôi lên Việt Bắc, thì tủ sách vẫn gởi lại nhà ông
Trương Đăng, chúng tôi chỉ mang theo mình dăm ba quyển mà thường hay đọc
lại. Thế rồi quân đội Pháp đánh rộng ra, chiếm đóng cả tỉnh Hà Đông, và
từ các đồn bốt đóng ở các huyện ly, ở các ngã ba đường xung yếu chúng
đi lùng sục các làng, nhất là các làng ven đường cái ven các trục giao
thông quan trọng. Làng Kim Bài ở sát bên một trục giao thông ấy đi từ
thị xã Hà Đông đến Vân Đình, và đi xuống khu Ba. Gia đình ông Trương
Đăng hơi hãi, bèn nghĩ cách tẩu tán tủ sách của chúng tôi, vì bọn lính
Pháp hay tay sai của chúng mà phát hiện được tủ sách thì chủ nhà sẽ bị
vạ lây.
Tẩu tán bằng cách gì?
Gia đình đã nghĩ cách đem sách ra đốt, nhưng đốt cũng lâu và khói um
lên dễ bị bọn Việt gian nghi ngờ... Nhưng người nhà đang tính tới tính
lui như vậy thì bọn lính Pháp và lũ tay sai ở huyện đã kéo đến đầu làng.
Người nhà vội vàng khiêng cả tủ sách vứt xuống ao to phía đằng sau nhà.
Từ nhà ra bờ ao cũng khá xa, nhưng cả nhà hì hà hì hục gánh tủ sách
đông tây kim cổ và hồn cổ Việt của chúng tôi cho xuống đáy ao. Đó là về
sau lúc kháng chiến thành công trở về Hà Nội, chúng tôi được nghe kể
chuyện lại như vậy, chứ lúc tủ sách chìm nghỉm xuống đáy ao thì chúng
tôi đã ở Việt Bắc rồi, đâu có biết? Những nhà văn, những nhà thơ đông
tây kim cổ yêu mến của chúng tôi, những Nguyễn Du, những Victo Huygô,
những nhà thơ Đường, những tác giả truyện nôm... Có biết cái nông nỗi bị
dìm xuống ao vì cuộc xâm lăng của thực dân không? Còn cái hòm sách quý
của anh Diệu và tôi toàn đựng tác phẩm của Huy Xuân (nhiều bản của Thơ
thơ in lần thứ nhất và thứ hai, của Phấn thông vàng, mười mấy bản in
giấy đẹp của Lửa thiêng, và một số bản thảo của chúng tôi), và đây chính
là cái rương bằng gỗ thông mà tôi đã dùng trong suốt 7 năm học ở trường
quốc học ở huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) và đã bị cháy theo cả cái trại nơi
chúng tôi gởi không cứu được một chút gì. Về sau này anh Diệu và tôi
phải công phu đi sưu tầm các tác phẩm đầu tay của mình, qua bạn bè và
qua các hiệu sách cũ. May mà gia đình tôi ở Ân Phú còn giữ được một bản
Lửa thiêng giấy đẹp và một bản Phấn thông vàng. Anh Lương Xuân Nhị thì
đã tặng lại anh Xuân Diệu tập Thơ thơ mà anh Diệu đã tặng anh ấy lúc sách mới ra đời (chính Lương Xuân Nhị đã trình bày tập Thơ
thơ). Khi mới giải phóng Sài Gòn, tôi vào công tác trong đó thì ông
Nghiêm Thẩm, một người bạn yêu thơ, đã tặng lại tôi bản Lửa thiêng in
trên giấy rất đẹp. Và sách của chúng tôi cũng được các nhà xuất bản
trong Sài Gòn tái bản thời kỳ Mỹ nguỵ (dưới cái nhãn hiệu là sách tham
khảo cho các trường đại học văn khoa trong đó) cho nên chúng tôi cũng
thu lượm được một số bản in lại trong hoàn cảnh ấy. Một tủ sách bị dìm
xuống sông, một rương sách bị lửa đất cháy, đó là số phận của sách, của
văn thơ trong một trường hợp nhỏ là hai anh em làm thơ chúng tôi qua một
chặng đường khói lửa của dân tộc. Từ đó chúng tôi ngẫm ra: qua bao
nhiêu thời đại, bao nhiêu thế kỷ qua bao nhiêu biến cố lịch sử, qua bao
nhiêu binh lửa trên nước nhà, thì ông cha ta đã mất mát biết bao nhiêu
vốn sách vở, vốn văn hoá, văn nghệ. Ngày nay chúng ta có nhà in in sách
ra nhiều bản, mà tìm lại những sách đã mất còn khó thay, huống hồ cha
ông ngày xưa chỉ chép tay hay chỉ in được một số ít bản bằng mộc bản!
Tôi cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ bản Lửa thiêng giấy Arches dày, đẹp và có kèm
theo 12 bức minh hoạ của anh Tô Ngọc Vân vẽ bằng thuốc nước rất đẹp (anh
Tô Ngọc Vân là hoạ sĩ đã trình bày bìa rất đẹp cho tập thơ
Lửa thiêng của tôi). Bây giờ có Cục lưu trữ quốc gia là một nhiệm vụ là
lưu trữ cả các tài liệu văn học, nghệ thuật. Với sự khuyến khích thúc
giục của đồng chí Hoan, tổng cục trưởng lưu trữ tôi đã gởi một số tác
phẩm in thành sách của anh Xuân Diệu và của tôi vào kho lưu trữ.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- F
Cậu tôi lúc ở Quảng Điền phải chép bài luân lưu cầu nguyện cho thế giới khỏi tận thế
Đầu
năm 1928 lúc cậu Vân tôi đang còn làm hiệu trường trường tiểu học huyện
Quảng Điền, và lúc đó tôi còn học lớp tư, một hôm cậu tôi nhận được một
bức thư khá dài khoảng 3 trang viết tay. Thư không ký tên,
còn nội dung thì đại khái nói là thế giới sắp đến ngày tận thế, và hễ
ai nhận được bức thư này thì phải chép ra 20 bản gởi đi cho những người
quen thân, như vậy là một cách cầu nguyện Chúa để cho Chúa cứu lấy cuộc
đời này khỏi tận thế. Hễ ai nhận được thư mà không chép gửi đi, thì
người đó thế nào cũng bị Chúa phạt, sẽ mắc nạn sớm hay muộn. Cậu tôi
nhận được thư đọc cho học trò trong nhà nghe giọng như đầy màu sắc tôn
giáo và mê tín, và không ai dám cười, mặc dù cả thầy trò đều không ai
theo đạo. Những lời cầu nguyện trong thư, tôi không nhớ hết, nhưng có
những ý nằm trong kinh thánh mà về sau đến lúc đọc kinh thánh thì tôi
gặp lại và mới biết là bức thư luân lưu đã trích dẫn kinh thánh rất
nhiều nhất là trích những ý ở đoạn Apôkalíp (tận thế) cậu tôi ngẫm nghĩ
một buổi rồi cũng quyết định chép bức thư dài 3 trang ra 20 bản, may mà
lúc ấy giấy cũng không đắt lắm, vả lại cậu tôi cứ lấy giấy của văn phòng
trường mà chép. Cậu tôi nói: “Chép cũng mất công một chút, nhưng như
thế cho nó yên tâm, nhỡ mình không chép mà gặp tai nạn rồi lại hối không
kịp!”. Cậu chia cho học trò chép, và bản thân cậu cũng chép 3 bản, tôi
cũng có chép 3 bản. Chép xong phải nhớ địa chỉ của người quen thân mà
gửi đi. Tội nghiệp cho những người nhận được thư luân lưu này lại phải
nằm bò ra mà chép mỗi người 20 bản. Về sau tôi nghĩ không biết đây là
một điều mê tín của những người cuồng đạo, 10 sợ thế giới tận thế, hay
là mưu mẹo của một hãng buôn giấy nó bày ra cái trò chơi tốn giấy này?
Dù sao thì sau khi gởi 20 bản thư cầu nguyện cho cuộc đời khỏi tận thế,
cậu tôi cũng yên lòng và cũng không thấy tai nạn gì xảy đến với mình.
Gần
đây tôi đi họp ở Pháp một số lần, lại có một số người Pháp nói là nên
cầu nguyện Chúa trời cứu cho loài người khỏi tận thế vì sắp đến năm
2000, và vì chiến tranh nguyên tử chắc khó tránh khỏi! Câu chuyện lo
lắng này lại nhắc tôi nhớ tới bức thư luân lưu năm 1928 mà cậu tôi phải
nhân ra bằng chép tay. Nếu bây giờ có vị nào có sáng kiến gửi thư luân
lưu để cầu nguyện cho số mệnh của loài người thì chắc là sẽ nhân lên vạn
bản và bằng máy tính điện tử!
Thầy Ngôn dạy lớp nhất
Ghi
những năm tháng tôi học ở trường Queignec tôi không thể không nhớ đến
thầy Trương Cảnh Ngôn đã dạy tôi ở lớp nhất, vì thầy không chỉ dạy bài
vở để đi thi, mà thầy còn làm cho chúng tôi cảm thấy được cái hay, cái
đẹp trong văn chương. Tôi đặc biệt nhớ thầy đã dạy chúng tôi bài học
thuộc lòng bằng tiếng Pháp Kỷ niệm ngày tựu trường của Anatole France.
“Tôi sẽ kể cho các bạn nghe mỗi năm trời thu xao xuyến, những bữa cơm
chiều đầu tiên ăn dưới ánh đèn, và những lá bắt đầu úa vàng trong những
hàng cây run rẩy gió, tất cả những cái đó đã xui tôi nhớ đến những
gì.... Đoạn văn rất nội tâm và đầy âm nhạc, và đầy chất thơ của Anatole
France đã được thầy Ngôn diễn đạt rất xúc động, làm cho chúng tôi thấy
rung cảm thấm thía cái không khí tựu trường và nỗi niềm kỷ niệm của tác
giả. Thầy Ngôn cũng nói lúc giảng cho chúng tôi bài này, thầy cũng cảm
động nhớ lại những buổi tựu trường trong tuổi nhỏ của thầy. Rồi thầy đọc
đi đọc lại bài văn, có thể nói là ngâm ngợi, cho chúng tôi nghe, như
thế gọi là đọc diễn cảm. Mà giảng bài này đối với thầy tôi cũng là sống
lại nhưng kỷ niệm vấn vương, đẹp đẽ. Đoạn văn của A. F. học năm 1931,
cách đây 55 năm, quá nửa thế kỷ mà tôi vẫn thuộc lòng, không quên một
chữ. Năm 1938, tôi cũng xúc động về cái không khí xôn xao của buổi tựu
trường, tôi đã viết bài thơ Tựu trường mà nhiều bạn đọc nhớ và thích.
Bài thơ của tôi không có điểm nào giống đoạn văn của A. F., nhưng cái
đẹp của kỷ niệm tựu trường mà A. F. đã diễn đạt đầy xúc cảm đã gợi cho
tôi tứ thơ, tôi biết ơn cả thầy Ngôn và Anatole France.
Đọc truyện Tàu cho bà mợ nghe
Mợ
Vân tôi ham xem truyện Tàu, bảo tôi đi thuê các truyện ở một quán sách
rồi về đọc cho mợ nghe, những giờ nghỉ hoặc chiều chủ nhật. Thôi thì đọc
đủ thứ: Thuyết Đường diễn nghĩa, Anh hùng náo, Tiết Nhân Quí, Tiết Đình
San, Chinh đông chinh tây, La Thông tảo bắc, Tam quốc chí, Tái sinh
duyên, Tục Tái sinh duyên, Song phượng
kỳ duyên... Khi đầu tôi đọc cho mợ nghe là vì nhiệm vụ phải làm chưa
thấy thích, nhưng cứ ề à đọc mãi về sau tôi cũng thấy thinh thích. Tôi
đặc biệt nhớ pho truyện Thuyết Đường diễn nghĩa, với cái chuỳ nặng nghìn
cân của Lý Nguyên Bá, với cái cười rồi chết của Trịnh Giảo Kim... Tôi
còn nhớ trong truyện này hoặc một truyện khác, có ông vua cầm cái trâm
cắm mặt trời lại, giữ mặt trời ở mãi buổi trưa, để ông vua đủ ánh sáng
tìm một vật quí gì đánh rơi mất. Không biết tình tiết này có trong
truyện không, nhưng tôi cứ nhớ là có, và điều đó gây ấn tượng kỳ lạ,
thần tiên, huyền bí trong tâm trí tôi. Người và trời đất có một mối quan
hệ gì mật thiết lắm, cảm quan ấy tôi đã nghe từ tuổi nhỏ, gắn với những
truyện cổ kim đông tây tôi được đọc trong tủ sách của cậu tôi. Tam quốc
chí lại cho tôi một cảm giác khác, cảm giác về sự giao thiệp giữa người
và người trước hết là cảm giác về tình bạn giữa Lưu Bị, Quan Công,
Trương Phi. Ở đây tôi không bình luận, không đánh giá Tam quốc chí cũng
như các truyện Tàu khác, tôi chỉ ghi ấn tượng mà các truyện ấy đã để lại
trong tâm hồn thơ bé của tôi. Cảm giác các truyện ấy gậy ra thì khá lộn
xộn, dường như tâm trí đứa bé chỉ giữ lại những cái đẹp, cái huyền
diệu, cái rung cảm về tình người... Trong bài thơ Tựu trường đã nhắc đến
trên kia, có mấy câu:
Buổi chiều đầu họ tìm bạn kết duyên
Trong sân trường tưởng dạo giữa Đào viên
Lòng hé mở giữa tay đời ấm áp...
Đào
viên là vườn đào nơi kết nghĩa của Lưu Bị Quan Công và Trương Phi. Lại
còn nàng Phàn Lê Huê mê Tiết Đình San, tung hồ lô lên trời. Nàng đẹp quá
và tình nàng nồng nhiệt, phép tiên của nàng tuy kỳ ảo nhưng không đủ để
bắt được người yêu. Rút cục lại cũng phải tấm lòng mới chinh phục được
tấm lòng...
Lớn lên tôi ít đọc
truyện Tàu, mà cũng không thích đọc trừ những quyển gọi là truyện nhưng
thực sự lại là sử như: Đông Chu liệt quốc, và Sử ký của
Tư Mã Thiên. Tây du về sau này tôi mới đọc, và cái thú đọc Tây du lúc
đã đứng tuổi lại có một màu sắc khác, không như cái thú mê truyện hồi còn
bé. Dầu sao thì cái việc là “thì đọc” cho mợ tôi cũng đã cho tôi một số
cảm giác, một số ấn tượng mặc dù lộn xộn, nhưng không phải là thừa đối
với đứa bé đang lớn lên, vì theo tôi, phải cần tất cả để nhào nặn nên
tâm hồn của một con người.
Tôi không chỉ đọc truyện Tàu cho mợ tôi nghe mà còn đọc một số truyện của ta xuất bản hồi đó,
truyện dã sử gợi lên lòng yêu nước. Tôi không nhớ những sách ấy do nhà
xuất bản nào xuất bản, nhưng khổ sách cũng như khổ các truyện Tàu, và
sách xuất bản vào những năm 1925, 1926, 1927... Tôi đặc biệt nhớ hai
truyện: Tiếng sấm đêm đông nói về cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền (tác giả
là ai tôi quên mất), và Vị quốc vong thân của Nguyễn Trậm Dự. Truyện
sau này kể lại cuộc chiến đấu của những sĩ phu và nhân dân yêu nước
chống quân nhà Minh, chống Trương Phụ. Truyện viết rất xúc động, lúc tả
mấy sĩ phu yêu nước bị Trương Phụ bắt và hành hình thì mợ cháu tôi và
những người nghe xung quanh đều khóc nức nở.
Sau
này vào thư viện Hà Nội tôi cứ tìm mãi quyển Vị quốc vong thân để đọc
lại mà không tìm thấy, không biết có phải chính quyền Pháp đã loại cuốn
sách yêu nước này đi, hay là do sự quản lý không chặt chẽ của thư viện
đã để mất sách. Lại còn truyện Sóng hồ Ba Bể cũng rất hấp dẫn (hình như
tác giả là Tam lang Vũ Đình Chí).
Chúng
tôi còn đọc tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt trong sách quảng cáo dầu
Nhị Thiên Đường như truyện Gương vỡ lại lành mà mợ tôi nghe cũng lấy làm
lý thú và xúc động. Chúng tôi còn đọc Ánh trăng thu của Bửu Đình, Giọt
lệ sông Hương của Tam lang Vũ Đình Chí, Tuyết Hồng lệ sử của Từ Trẩm Á
(tác giả Trung Quốc dịch ra quốc văn) và nhiều truyện nữa. Tủ sách của
ông cậu, những giờ đọc sách với bà mợ cũng đã góp phần khêu gợi cái thú
văn chương cho tôi.
Lụt vào nhà, vẫn ngồi học
Năm
đó tôi học lớp nhất. Vài tháng sau kỳ tựu trường thì phải, có trận lụt
to nước vào nhà đến gần đầu gối. Mọi thứ trong nhà dọn lên giường: gạo,
thức ăn, hòm rương, sách vở... ở giữa phòng ngoài, có một cái giường to
của mấy anh em học sinh người Quảng Nam và tôi thường ngủ. Bên cạnh
giường có cái bàn vuông để ngồi học. Các bạn học sinh đều nhân nước lụt
mà bỏ đi chơi, bì bõm ngoài đường. Chỉ có tôi ngồi trên giường, chân
ngâm trong nước lụt, chăm chỉ chép bài, học ôn bài cho thi học kỳ. Tôi
còn nhớ lúc đó tôi cố chép cho xong những bài toán yếu về sử, địa, lý
nhất là khoa học thường thức để kịp trả quyển vở cho bạn Lương Văn Chí.
Mợ tôi và dì Em thấy tôi chăm học thì khen và cho tôi ăn trước mọi người
bát cơm nếp lạc. Dì Em bảo: “Mai sau mi làm nên, đừng có quên bát cơm
nếp lạc nghe không!”. Mỗi lần đến thăm dì tôi vẫn nhắc mẩu chuyện này
thì dì bảo: “Bây giờ anh có cho tôi ăn xôi lạc thì tôi cũng chẳng còn
răng mà ăn!”. Sau trận lụt ấy, không hiểu vì sao mà anh Cúc (cháu gọi mợ
bằng cô) và tôi bị ghẻ ruồi khắp lưng, khắp bụng, và cả ở chân tay nữa.
Mợ Vân nấu nước lá (tôi nhớ là có lá sầu đông, tức là lá xoan) tắm cho
hai chúng tôi, rồi bôi thuốc ghẻ, thứ thuốc vàng vàng mà tôi quên tên,
chờ cho thuốc khô mới cho chúng tôi bận áo quần. Phải mấy lần tắm nước
lá và bôi thuốc như vậy mới khỏi ghẻ.
Ở
nhà cậu tôi, chiều chủ nhật thường các bạn của cậu đến đánh tổ tôm. Tôi
phải chia bài, nhiều khi bực mình, tôi lớp bài cho mọi người cầm bài
lên đều thấy bài mình tốt, ông thì chạm chờ tôm, ông thì bài bạch định
mà cũng chạm chờ, ông thì thập hồng... Người cái đánh một con, mọi người hồi hộp. Bốc lên một con là có người ù, và mấy người kia đều đập giường tiếc cho ván bài của mình quá đẹp mà bị ù tay trên...
Tôi
đứng thấy buồn cười, mà không dám cười. Về sau cậu tôi biết được trò
nghịch ngợm của tôi, lấy thước thẻ vào mấy ngón tay tôi, cấm về sau
không được lớp bài như thế nữa. Nhưng từ đó về sau cậu tôi cũng ít bắt
tôi chia bài tổ tôm, có phải vì cậu sợ tôi lại lớp bài chăng.
Ông
cậu dạy tôi học Tôi có trực tiếp học cậu tôi ở trường Queignec suốt năm
lớp nhì đệ nhất niên (1929-1930) nhưng cậu tôi còn dạy tôi ở nhà những
ngày chủ nhật và những ngày nghỉ. Cậu tôi thu nhặt những tờ giấy mà học
trò các khoá trước đã làm bài thi, còn một mặt trắng đóng lại thành
quyển vở như vở chữ Hán cho tôi làm bài. Mỗi sáng chủ nhật, cậu đọc cho
tôi một bài chính tả tiếng Pháp, và bắt tôi làm một bài luận tiếng Pháp.
Chưa hết, ông còn bắt tôi làm mười bài toán mà đề toán lấy ở quyển sách
toán của Brachet, nếu làm buổi sáng chưa xong toán và luận, thì chiều
chủ nhật không được đi chơi, phải ở nhà làm cho xong bài. Nhưng không
những trong buổi sáng tôi làm xong luận, mười bài toán cậu ra mà tôi còn
làm thêm mười bài nữa tôi tự chọn lấy. Ông cậu cuối buổi sáng chấm xong
bài thấy làm tốt cả, chỉ nói: “Chiều nay cho đi chơi”. Và cậu tôi tự
tay mình chép lại bài chính tả vào một quyển vở cho tôi và ghi ở dưới
bài những tiếng một mà tôi cần học, cả những điểm lắt léo về văn phạm
nữa. Cứ thế tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, tôi tiến bộ
nhanh trong học tập nhờ
sự dìu dắt hết lòng và rất có phương pháp sư phạm của cậu tôi. Quyển vở
chép bài học thuộc lòng nói trên tôi đã giữ mãi cho đến ngày kháng
chiến chống Pháp thì bị cháy trong một cái rương cùng một số bản thảo và
mấy bản Lửa thiêng in đẹp của tôi rương sách và bản thảo này lúc đó gởi
gia đình anh Xuân Diệu dời về Hương Khê (Hà Tĩnh).
Nẩy nở hồn thơ
Trong
phần tuổi nhỏ trên kia, tôi đã kể sự tiếp xúc đầu tiên của tôi với
Truyện Kiều, với thơ như thế nào. Vào học ở Huế, trong khung cảnh đẹp
của sông Hương núi Ngự, trong môi trường đằm thắm văn nghệ dân gian, ở
phố Đông Ba, với cái tủ sách kỳ diệu của cậu tôi khiếu thơ của tôi đã
gặp điều kiện thuận tiện để nẩy nở. Bạn học của tôi lúc đó là anh Đồng
Sĩ Hiền cũng mê thơ văn, và hai đứa một ngày chủ nhật rủ nhau đi chơi
cửa biển Thuận An thì mang theo Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc.
Buổi trưa hè, dưới bóng những cây phi lao rào rào gió biền hai chúng tôi
ngâm ngợi một cách say sưa thơ của Đoàn Thị Điểm và của Nguyễn Gia
Thiều, đặc biệt là mấy đoạn sau đây:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền...
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu
(Chinh phụ ngâm)
Cầu thệ thuỷ nằm trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này...
(Cung oán)
Hiền
và tôi ngâm lên thấy réo rắt trong lòng, và cũng buồn man mác. “Quán
thu phong đứng rũ tà huy”, lúc bấy giờ trời đã ngả chiều, mặc dù không
phải mùa thu, mà chúng tôi cũng buồn rười rượi...
Chúng
tôi lại còn đi chơi núi Ngự Bình, dưới bóng những cây thông, trong nắng
chiều vàng, chúng tôi lại cùng nhau đọc Giọt lệ thu của bà Tương Phố...
Nhưng
không chỉ có thơ gợi ý thơ, mà cảnh trời, cảnh đồi xung quanh tôi cũng
cho tôi những rung động thơ đầu tiên. Cây bàng lá rụng, ngọn gió sông
hiu hắt, cây bồ hòn đứng lặng trong chiều đông, rồi tiếng đàn của ông Cả
Soạn, của anh Cháu đờn, ông xẩm chợ kể vè rồi tình bạn trẻ thơ, tiếng
gió biển trong rừng phi lao, ánh nắng thu trên mái rừng thông, tiếng
chuông chùa Diệu Đế, tiếng hò mái nhì, mái đẩy trên sông Hương... Tất cả
đã làm xao động trong tôi cái cảm giác thơ:
Nhớ buổi đầu tiên rung động thơ
Sân trường tiểu học tuổi mười ba
Cây bàng lá rụng mình trần trụi
Gió rít ngoài sông, thuyền nép bờ.
Dãy phố Đông Ba dài xứ Huế
Cây bồ hòn lặng đứng chiều đông
Xa nhà theo cậu lo ăn học
Phận học trò nghèo đâu dám ngông.
Nhưng có niềm chi nửa lặng im
Nửa như ai đốt cháy trong tim
Sân trường những buổi ra chơi ấy
Có phải hồn non đã tự tìm
Thơ đến tìm ta tự lối nào
Từ cành tái vỏ cây bàng cao
Hay từ mặt nước se theo gió
Từ những bàn tay bạn kết giao
Rạo rực nghe thơ kề má lửa
Giữa chiều đông tím một sân trường
Câu thơ thứ nhất không còn nhớ
Nhưng nhớ còn rành nỗi mến thương.
Chỉ nhớ trời thơ rất bạn bè
Duyên thơ mời bén đã say mê
Yêu đời tập sự bằng yêu bạn
Nghe đất trời cùng tự lắng nghe
(1972)
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- G
Vào học cấp thành chung (trung học)
Tháng
6-1932 tôi đậu bằng tiểu học và sau đó tôi thi đậu vào trường quốc học
(cấp thành chung, tức là trung học thời ấy). Tháng 9 năm ấy là tựu
trường đầu tiên của tôi vào trường quốc học, và tôi được vào ký túc xá, vì đậu cao được cấp học bổng toàn phần.
Ôi náo nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương
Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương nhỏ nhỏ với tâm hồn bằng ngọc...
Thật
là náo nức buổi tựu trường đầu tiên này. Được nhà cho mấy đồng bạc, tôi
liền đến một hiệu đồ gỗ trong thành Huế, gần cửa Thượng Tứ mua một cái
rương (hòm) bằng gỗ thông, đánh véc ni màu đỏ thẫm và có nẹp mấy nẹp sắt
sơn đen. Cái rương khá rộng đủ cho hết quần áo và sách vở của tôi vào
trong. Mùi gỗ thông lẫn với mùi véc ni thơm phức gây cho tôi một cảm
giác say say gần như rạo rực trước buổi vào trường. Rương lại có hai cái
khoá bằng đồng sáng choang, mỗi lúc mở lại có tiếng kêu keng càng tăng
vẻ sang trọng của chàng học sinh quốc học. Trong nắp rương có hai đường
nẹp bằng gỗ thông để sau nẹp ấy có thể gài những hồ sơ, lý lịch, các
giấy tờ của một học sinh tựu trường. Tôi nảy ra cái ý dán trên hai cái
nẹp ấy mấy câu mà tôi rất thích, học được trong sách, như để làm phương
châm cho mình:
“Đã sinh ra đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
“Biết cắn răng để chịu thiệt, đứng vững gót mà làm người”
(Ngạn ngữ xưa)
Tôi
viết hai câu này bằng mực tàu mài ra, chữ rất đen trên giấy croquis
(giấy để vẽ) và dán vào trên hai nẹp thông trong nắp rương và lấy làm
tâm đắc.
Chiều ngày 15-9-1932 tôi thuê một
cái xe kéo chở hòm vào trường Quốc học. Sân trường rộng quá, có hai bụi
tre đằng ngà rất đẹp ở trước cái nhà chơi. Nhưng tôi chưa để thì giờ
khám phá cái thế giới khá hấp dẫn ở trong sân trường. Tôi phải lên ngay
phòng ngủ ở trên gác của ngôi nhà lớn bên phải của trường.
Mỗi
học sinh nội trú được nhận một cái giường cá nhân bằng gỗ lim rất chắc
chắn, với một cái màn tuyn rất trắng, trắng như bọt sóng biển. Và thích
nhất là mỗi chúng tôi được chia mỗi người hai cái ngăn tủ con trong một
cái tủ đứng cũng bằng lim, còn khoá thì tự mình lo lấy, nghĩa là chúng
tôi phải đem theo đinh khuy và khoá bóp. Mỗi ngăn tủ dài 60 phân rộng 50
phân và cao 40 phân, tha hồ chứa áo quần và sách vở, và còn có thể để
vào đó những vật kỷ niệm những thẩu đường, những thức ăn khô mà nhà gửi
cho. Tôi đứng trước hai ngăn tủ, xếp áo quần và sách vở còn thức ăn khô
thì tôi chẳng có, mà say sưa ngửi mùi véc ni của tủ mới đánh, véc ni rất
thơm, thơm mùi nhựa thông, thoang thoảng như hương những gốc cây thông
mà tôi đã hít thở ở sườn núi Ngự. Chính cái mùi thơm của tủ mới ấy đã
vào trong bài thơ Tựu trường của tôi (1938):
Tựu trường đó, lòng tôi vừa bắt gặp
Nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương
Của chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ
Người bạn nhỏ! Cho lòng tôi theo ghé
Không nỗi gì có thể vuốt ve hơn
Đêm tựu trường mùi cửa sổ mới sơn
Tủ mới đánh, và lòng ta thơm ngát.
Xếp
sách và áo quần xong, tôi ra cửa sổ nhìn xuống sân trường, lúc đó đối
với tôi thật là bát ngát thơ mộng. Dọc hai đường đi kết thành chữ thập
của sân có những cây hoa phượng, lá vẫn rất xanh, còn hoa thì đã rụng
gần hết, nhưng lơ thơ trên mỗi cành còn vài hoa, màu đỏ rất thắm, tường
như là mùa hè đã tàn gởi lại những nụ cười tươi tắn cuối cùng. Sau bữa
cơm đầu tiên trong nhà ăn, tôi ra dạo ở hai con đường có hoa phượng ấy,
tìm làm quen với những bạn cũng mới vào ký túc xá với tôi, nhất là tìm gặp những bạn sẽ học cùng lớp. Nói sao hết sứ bồi hồi cảm động của những chàng học sinh 13, 14 tuổi đi tìm bạn trong buổi chiều đầu tiên tựu trường.
Trong
sân trường này, trong trường Quốc học này tôi đã gặp bao nhiêu là bạn,
tôi đã kết được bao nhiêu tình bạn, nó bền chặt cho đến ngày nay. Những
tình bạn này tôi sẽ kể đến trong một hồi sau.
Đã nhiều lần tôi về thăm trường Quốc học trước Cách mạng tháng Tám,
cũng như sau ngày Huế được giải phóng. Đi qua những lớp xưa kia tôi đã
ngồi học, tôi bồi hồi xúc
động nhớ lại những thầy, những bạn, mà trong số đó đã có nhiều người
không còn nữa. Tôi cũng có thể nói như một nhà văn xưa kia: “Sau những
cánh cửa đóng kín này, còn ngủ lại một phần quá khứ của tôi”. Trong
những bạn học của tôi, có những người đã hy sinh trong cuộc chiến đấu
lâu dài giải phóng dân tộc, cũng có người đã chết bệnh, và than ôi cũng
có một hai người đã chết điên vì đi tìm lý tưởng mà không gặp được lý
tưởng. Trong mấy dòng hồi ký của
tôi xin các bạn yên nghỉ, hoặc vì các bạn đã làm xong phận sự thiêng
liêng đối với quê hương đất nước hoặc vì lý tưởng mà các bạn không kịp
tìm thấy thì anh em chúng tôi may mắn được sống lâu hơn đã tìm thấy
trong đời... Người ta trường nói: Trường học là một cái xã hội, một xã
hội con trong một xã hội lớn có tường rào ngăn cách phần nào, nhưng âm
vang của xã hội lớn vẫn len vào trong xã hội của trường. Tôi thấy đúng
như thế, mặc dù không khí trong trường giữa thầy với bạn, giữa bạn học
với nhau vẫn giữ được cái gì thanh tao, đầm ấm. Tôi sẽ kể nhiều về những
năm tháng sống và học ở trường Quốc học vì ở đó tôi đã may mắn có nhiều
thầy giáo tốt và gặp được nhiều bạn tốt, trung thành, thuỷ chung.
Năm tôi vào Quốc học, nhà trường lại xếp 35 người đỗ trên vào lớp A, và 35 người cuối sổ vào lớp B.
Thành
ra lớp A của tôi là một lớp đặc biệt xuất sắc có nhiều học trò giỏi,
thầy nào đến dạy cũng lấy làm hài lòng. Trong số bạn lớp A của tôi, có
nhiều bạn sau này đã trở thành nhà khoa học, thầy thuốc nổi tiếng nhạc
sĩ có tài, kịch tác gia độc đáo. Một số bạn khác đã tham gia quân đội
kháng chiến và cũng đã trở thành những nhà quân sự có tài. Tôi riêng nhớ
bạn Nguyễn Hoà Dung và bạn Phạm Gia Ninh là hai bạn rất mê văn thơ Việt
Nam và đã cùng tôi nung nấu hoài bão trao đổi tiếng nước nhà, cái tiếng
Việt mà chúng tôi yêu một cách tha thiết, da diết. Xin nói rõ: chúng
tôi là những học sinh giỏi tiếng Pháp, đọc nhiều sách tiếng Pháp, nhưng
tấm lòng của chúng tôi đối với tiếng Việt là tấm lòng con đối với mẹ.
Tiếng Việt càng bị rẻ rúng bởi bọn thực dân, và một phần bị rẻ rúng
trong cái xã hội nửa thực dân nửa phong kiến hồi đó,
thì chúng tôi càng say sưa, thiết tha trao đổi tiếng Việt. Trong chương
trình của ban học thành chung, mỗi tuần chỉ có một giờ dạy tiếng Việt
(lúc đó gọi là An-na-mít). Một số ít học sinh mất gốc trong tâm hồn, xem
thường giờ này, và đến giờ thì giở các bài toán, bài lý hoặc bài luận
Pháp văn ra làm, chúng tôi thấy thế rất căm phẫn. Bạn Nguyễn Hoà Dung và
bạn Phạm Gia Ninh thì đến những giờ ấy mở sách xưa như Chinh phụ ngâm,
Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc ra ngâm ngợi. Bạn Dung lại còn cắt trên
Ngọ báo, trên báo Phong hoá... nhiều bài văn dán vào một quyển vở to và
đọc cho chúng tôi nghe, nhất là vào những giờ cuối năm. Tôi cứ nhớ mãi
bạn Dung đã đọc vài truyện của Thanh Tùng Tử với một giọng réo rắt thiết
tha, chúng tôi nghe thật bồi hồi xúc
động. Bạn Ninh lại có những quyển sổ con để chép thơ chép văn là bạn đã
chọn lựa trong các báo, hoặc trong Văn đàn bảo giám, những quyển sổ thơ
này đóng bằng giấy trắng, bìa bọc vải rất đẹp, các tuyển tập chép
hai thứ mực, các đầu đề bằng mực đỏ. Bạn Ninh còn sống, tôi thường gặp
luôn. Bạn Dung thì tôi không kịp gặp; lúc Sài Gòn mới giải phóng thì anh
đã mất. Anh và Ninh đã nung nấu thêm cho tôi lòng yêu thơ văn, đã cùng
tôi chung một nỗi niềm đối với tiếng nước nhà.
Chúng tôi không chỉ tự mình trau dồi tiếng Việt mà chúng tôi còn bảo vệ tiếng Việt ngay ở trong trường. Hồi đó
chúng tôi học năm thứ ba (1934-1935). Một số anh em chúng tôi là học
trò giỏi và cũng giỏi về môn Pháp văn, đồng thời chúng tôi yêu quốc văn
với tấm lòng người con thương mẹ, yêu thương người mẹ đẻ bị rẻ rúng, bị
xem thường. Lòng yêu quốc văn của chúng tôi lúc đó, là một biểu tượng,
hay nói đúng hơn là một biểu hiện của lòng yêu nước. Tất nhiên trong lớp
cũng có những đứa “xì dầu” (nịnh hót) thầy Tây, hay ti toe tiếng Tây cả
những khi không bắt buộc, không cần thiết. Chúng tôi căm phẫn, chúng
tôi phản ứng với thái độ nô lệ ấy. Và chúng tôi... hành động. Chúng tôi
đặt ra một cái... thẻ chó, một miếng gỗ đẽo giống hình cái thẻ mà bấy
giờ cảnh sát bắt chó các nhà phải đeo vào cổ để kiểm soát, và phòng chó
dại. Và chúng tôi qui định với nhau: hễ anh nào bị bắt quả tang đang nói
tiếng Tây trong sân trường giờ ra chơi hoặc trước giờ vào lớp, hoặc lúc
tan học thì phải “mang” thẻ chó. “Mang” có nghĩa là phải nhận cái thẻ
chó mà một anh khác đang phải mang trong người giao lại cho mình.
“Mang”.
Mang tượng trưng thôi, nhưng rất đáng xấu hổ trước bạn bè. Anh bị mang
thẻ chó ấy lại phải rình để bắt quả tang một anh khác nói tiếng Tây lúc
không cần thiết để giao thẻ, và mình “mãn hạn” phạt.
Tôi
nhớ qui định của chúng tôi thi hành được khoảng 4, 5 tháng, và thi hành
khá gắt gao. Bọn giám đốc và giám thị người Pháp không khám phá ra được
vì bọn học sinh nịnh Tây cũng không dám báo cáo với chúng. Một vài thầy
giám thị Việt Nam biết, nhưng cũng lờ cho chúng tôi làm. Như vậy mà đỡ
được cái bệnh ti toe nói tiếng Tây và đỡ cái bệnh nói lai nghĩa là trong
mỗi câu có lẫn tiếng ta và tiếng tây. Các em học sinh bây giờ học tiếng
Việt trong một nước Việt Nam đã độc lập có thể không hiểu hết nỗi lòng
chúng tôi yêu tiếng mẹ đẻ lúc bấy giờ như thế nào. Và một số em bây giờ
cũng chưa thấy hết giá trị của tiếng Việt và do đó không để lòng trau
dồi nó. Tôi cứ nhớ mãi một truyện ngắn của Alphonse Daudet nhan đề là
Buổi học cuối cùng. Tác giả kể: Lúc bấy giờ Đức đã chiếm mất vùng Alsace
và Lorraine. Ngày mai là các thầy giáo Đức đến dạy tiếng Đức, buộc học
sinh Pháp phải học để trở thành người Đức. Buổi chiều hôm ấy thầy giáo
Pháp mời cha mẹ học sinh đến lớp để từ biệt, thầy bận áo quần đẹp như
ngày lễ, cha mẹ họe sinh cũng ăn bận tử tế. Mọi người vào lớp đứng dậy
chào cờ rồi thầy nói: “Các em ơi hôm nay không có bài học. Ngày mai các
em sẽ có thầy khác, và học tiếng khác. Giọng thầy rưng rưng nước mắt:
nhưng về nhà các em phải tiếp tục học tiếng Pháp với bố mẹ, nói tiếng
Pháp với anh em bà con. Các em hãy nhớ rằng: “Khi một dân tộc bị nô lệ
mà còn giữ được tiếng nói mẹ đẻ của mình, thì dân tộc ấy vẫn giữ được
trong tay cái chìa khoá của tự do, độc lập”. Truyện ngắn này, tác giả
viết rất xúc động với cả lòng yêu nước và yêu văn hoá dân tộc của mình.
Chúng tôi lúc đó cũng một nỗi lòng như Daudet. Anh Nguyễn Xuân Sanh đã
cùng tôi “xuất bản” một tạp chí văn học hàng tuần, lấy tên là “Bước
đầu”, xuất bản nghĩa là hai anh em chép tay vào một quyển vở rất đẹp
những bài văn, bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác trong tuần cho số tạp
chí: có thơ, có truyện ngắn, có xã luận, có cả bài bình luận văn học
nữa. Trước Cách mạng tháng Tám tôi còn giữ được mấy số “tạp chí” này.
Vừa rồi anh Xuân Sanh và tôi có kỷ niệm năm mươi năm ngày xuất bản tạp
chí hàng tuần này, kỷ niệm nghĩa là ngồi nhắc lại với nhau “cái thuở ban
đầu văn học ấy” chỉ nhắc thôi nhưng lòng đầy xúc động.
Các thầy học của tôi ở trường Quốc học
Như
trên đã nói, chúng tôi có may mắn gặp được nhiều giáo sư người Việt,
rất tốt. Tôi biết ơn các thầy không những đã trang bị kiến thức cho tôi
theo chương trình của nhà trường, mà còn gợi ý cho tôi về trách nhiệm
làm người, về hứng thú làm được cái gì hay và dẹp ở đời.
Thầy Lê Xuân Phương, đảng viên của Đảng Tân Việt Thầy dạy tôi các môn sử ký,
địa lý, và tiếng Việt ở cả ba năm đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Thầy giảng
rất kỹ những đoạn thơ trích ở Cung oán ngâm khúc và Chinh phụ ngâm. Cách
diễn giảng của thầy không có sức thu hút theo kiểu hùng biện, nhưng lại
làm cho chúng tôi rất chăm chú nghe vì thầy giảng sâu, và dường như có
những ý sâu kín, những ý tâm đắc mà thầy chưa biểu hiện hết qua lời
giảng của thầy. Tôi còn nhớ mãi thầy giảng mấy câu thơ của Chinh phụ
ngâm mà mất cả một tiết học:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn
Dầu binh lửa, nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận giai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về...
Thầy
tả ngọn gió hiu hắt thổi lạc những hồn chiến sĩ và ánh trăng trên mặt
chinh phu với một giọng rất xúc động, làm cho chúng tôi ngồi trong lớp
học, giữa bốn bức tường dày mà cảm giác được cái hiu hắt, cái xa vắng,
cái lạnh lùng của chiến trường... Thầy Phương dạy sử Việt Nam theo
chương trình thì thầy bảo chúng tôi học theo quyển sách của Maybon,
nhưng lúc giảng thì thầy phát triển rất nhiều, và thầy gài vào lời giảng
những ý gợi lòng yêu nước. Những ngày gần tết và những ngày gần nghỉ
hè, chương trình đã học xong, thi học kỳ cũng kết thúc rồi, đến giờ sử,
hoặc giờ Việt văn, thầy bảo chúng tôi đóng kín cửa lại, rồi thầy nói
chuyện quốc sự, tất nhiên là nói gần nói xa thôi, nhưng chúng tôi cũng
đủ hiểu. Chính thầy Lê Xuân Phương đã cho anh Tố Hữu trốn vào nhà và
giấu kín hơn một ngày, khi anh Tố Hữu bị mật thám lùng bắt năm 1937.
Thầy
Đoàn Nồng dạy chúng tôi môn Pháp văn năm thứ nhất và năm thứ ba. Thầy
là một trong những giáo sư xuất sắc của trường, và có phong cách ít
nhiều tài tử. Thầy giảng thơ văn Pháp sâu và tế nhị, thường hay nhắc đến
tiểu sử của các tác giả để soi sáng lời bình luận tác phẩm của các nhà
phê bình và của bản thân thầy. Thầy giảng hứng thú, và mỗi lần giảng lại
bài đã học thì thầy lại có những nhận xét mới, những khám phá mới.
Giảng bài văn đối với thầy cũng là một sự sáng tạo. Thầy có cho đăng
trong một tờ báo bằng tiếng Pháp dành cho học sinh là tờ AJS (nghĩa là
Bạn của thanh niên hiếu học), bài luận văn của thầy lúc tốt nghiệp
Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Luận văn ấy “La-mác-tin và Nguyễn
Du, hai nhà thơ trữ tình”, được giới học sinh chúng tôi rất hoan nghênh
và xem đó là một kiểu mẫu về bình luận văn học.
Thầy
dạy tiếng Pháp, nhưng thấy những học sinh nào trau dồi tiếng Việt, làm
thơ tiếng Việt thì thầy rất khuyến khích, và tỏ ý mừng. Thầy Nồng có
viết một quyển nghiên cứu “Nghệ thuật hát bội” mà giới nghiên cứu sân
khấu đánh giá cao, về mặt tư liệu cũng như về mặt suy nghĩ và nhận định
nghệ thuật. Thầy hay rủ học sinh đến nhà thầy chơi những ngày chủ nhật.
Nhà thầy ở xóm Đập Đá, gần thôn Vĩ Dạ, một ngôi nhà nhỏ, có vườn nhỏ, ở
trong bày biện đơn sơ, đúng là nhà một giáo sư thanh bạch. Ở phòng giữa
thầy treo một ảnh to của thi hào Vichto Huygô, mà thầy cho là một con
người lý tưởng về cuộc sống cũng như về sáng tạo văn học, nghệ thuật.
Thầy vẫn dặn chúng tôi: “Học được cái đẹp trong sách vở, ta cũng phải cố
gắng sống cho đẹp trong đời”. Sau ngày miền Bắc giải phóng, thầy Nồng
làm hiệu trường trường Chu Văn An (trường Bưởi cũ) tôi vẫn thường đến
thăm thầy, và hai thầy trò lại đàm đạo văn chương như thuở thầy còn ở
trường Quốc học.
Thầy Nguyễn Đình Dụ
Thầy
Nguyễn Đình Dụ dạy chúng tôi môn khoa học tự nhiên năm thứ nhất, năm
thứ hai, và dạy toán chúng tôi năm thứ ba. Trước kia thầy dạy ở trường
trung học Cần Thơ sau mới đổi ra trường Quốc học. Thầy Dụ rất nghiêm
giảng bài rất chặt chẽ, giảng môn khoa học tự nhiên miệng nói tay vẽ
hình trên bảng rất rõ và rất đẹp. Dạy toán thì thầy hay ra bài làm ở
lớp, và có bài về nhà làm nữa. Chấm xong, thầy giữ lại những bài ưu
nghĩa là không những có đáp số đúng, mà giải trình cũng gọn và có nghệ
thuật. Tôi cũng sung sướng được ghi lại đây rằng tôi đã có vinh dự được
thầy giữ một số bài của tôi, sau này đến thăm thầy thầy còn nhắc tới. Có
một năm (năm thứ ba), để mừng tết thầy các bạn trong lớp cử tôi đọc lời
chúc mừng bằng tiếng Pháp. Lớp đã chuẩn bị mua một bó hoa tươi thật đẹp
để tặng thầy, nhưng luống cuống thế nào mà lại không mua được, sau cùng
bạn được phân công mua về một bó hoa giấy, hoa giấy làm rất giống, rất
đẹp, chủ yếu là hoa hồng. Trong lời chúc mừng, tôi không kịp chữa lại cứ
đọc là “Xin tặng thầy bó hoa tươi thắm....
Thầy
cảm động cầm lấy bó hoa giấy, cảm ơn cả lớp rồi thầy mỉm cười nói thêm:
“Những bông hoa này chắc là nó tươi mãi mãi, vì tôi sẽ bỏ vào lọ mà
không phải tưới nước.... Chúng tôi xấu hổ quá, đỏ mặt, nhưng thầy thông
cảm với chúng tôi và để an ủi chúng tôi thầy nói thêm: “Hồi còn
đi học, tôi cũng đã một lần chúc tết thầy học như thế này.... Thầy Dụ
trong kháng chiến chống Pháp là một cán bộ cốt cán của ngành giáo dục,
đóng góp nhiều vào sự phát triển của ngành.
Sau
khi giải phóng miền Bắc thầy được cử làm giám đốc Sở giáo dục Hà Nội
trong nhiều năm. Hiện nay thầy đã về hưu, tôi thường đến thăm thầy và
nhắc lại những năm học với thầy ở Quốc học, thầy nói còn nhớ tôi học
toán giỏi, không ngờ tôi lại đi vào con đường văn thơ...
Thầy Mai Trung Thứ
Thầy
Mai Trung Thứ (tức là hoạ sĩ Mai Thứ) dạy chúng tôi về môn vẽ, mỗi tuần
có một tiết. Thầy Thứ gần như không nói một câu nào suốt cả giờ học.
Thầy chỉ bảo chúng tôi vẽ một vật gì đặt giữa lớp (một bình hoa, một cái
ché, một đầu pho tượng bằng thạch cao...) rồi thầy ngồi thầy vẽ. Gần
cuối giờ thầy gọi chúng tôi lần lượt đưa bài vẽ lên để thầy chấm. Đôi mắt
thầy rất to nhìn vào bức vẽ của mỗi người, thầy chỉ giơ bút quệch quặc
chữa lại vài đường nét và nói bằng tiếng Pháp “Xà xà... rồi cho điểm.
Thầy
không bao giờ giải thích cho chúng tôi nguyên tắc và phương pháp vẽ, cứ
để chúng tôi tự nhiên vẽ được sao thì thầy chấm nấy, vì có lẽ thầy cũng
nghĩ rằng môn này là môn phụ, Ban Giám đốc chẳng chú ý mà học trò thì
cũng học qua quít mà thôi. Tôi nhắc đến thầy Thứ vì thầy là một hoạ sĩ
có tài vẽ chân dung bằng sơn dầu rất đẹp. Cứ vài năm một lần, thầy lại
có một triển lãm những tranh sơn dầu của thầy (phần lớn những chân dung
phụ nữ) ở hiệu thuốc tây Imbert. Những chân dung của thầy vẽ đẹp, đẹp về
nghệ thuật, nhưng phải nói thầy cũng chọn những đối tượng rất đẹp để
vẽ. Có lần thầy vẽ chân dung một bà, vợ một y sĩ, mà “giam” người mẫu
hai ba ngày liền trong xường vẽ của mình, làm cho ông y sĩ hết sức hoang
mang, nhưng cũng không dám can thiệp. Sau này sang công tác ở Pa ri tôi
có gặp lại hoạ sĩ Mai Thứ, và tôi có nhắc lại với thầy câu chuyện vui
này thì thầy hoạ sĩ vẫn nói với đôi mắt to nhìn tôi cười: “Đó là một nhược điểm của tuổi trẻ, anh hiểu chứ!...
Thầy
Bửu Cân, người hoàng phái, dạy chúng tôi vật lý và hoá học từ năm thứ
nhất đến năm thứ ba. Thầy dạy giỏi, nhưng năm trước dạy thế nào thì năm
sau lặp lại y như thế, không bổ sung, không sáng tạo. Thầy có tính hài
hước, hay cù cho học trò cười, nhưng thầy lại giữ nét mặt rất nghiêm,
mọi người cười xong thầy mới nhếch môi mỉm cười một tí. Tôi cứ nhớ khi
thầy giảng về ba trạng thái của các vật thì thầy nói: “Không phải chỉ có
ba trạng thái mà là bốn: trạng thái đặc cứng, trạng thái lỏng, trạng
thái hơi và trạng thái dẻo như là kẹo mè xửng và cứt gà sáp. Học trò
cười, nhưng thầy không cười. Khi nào gọi học sinh đọc bài thì thầy bắt
đầu gọi họ trước, và nhìn anh nào họ ấy mà luống cuống thì gọi tên anh
ta. Có lần thầy gọi: “Cù”, tôi cứ ngồi yên, thầy gọi thêm: “Cù Huy”, tôi
vẫn ngồi yên. Sau cùng thầy gọi đủ tên Cù Huy Cận tôi mới đứng dậy và
lên bảng. Thầy hỏi: “Rứa chưa có mấy họ Cù trong lớp mà không chịu lên?”
Nhưng đọc bài tốt, thầy vẫn cho điểm tốt. Thầy còn nói đùa: “Mai sau
nếu anh làm thượng thư thì gọi “Cụ Cù” mà không gọi cụ Cận”.
Hè 1935
Kết
thúc năm học đệ tam niên thành chung, hè 1935 tôi cùng hai bạn Nguyễn
Xuân Sanh và Nguyễn Xuân Tám (anh Tám nay là Tổng cục phó Tổng cục Du
lịch) rủ nhau ở lại Huế, và ở trọ nhà ông Đội Đán trên một ngọn đồi sau
nhà ga Huế. Vợ chồng ông Đội Đán là người Quảng Nam, làm được cái nhà
mái tranh vách toóc-si đã mấy năm trên dốc đồi này nhà không rộng lắm,
nhưng xinh xắn, sạch sẽ, mát mẻ. Xung quanh nhà có một vườn nhỏ dưới
bóng mát một cây đa to và cao. Đằng sau nhà có đường đi cỏ mọc hoang dại
dẫn về khu vực đồi núi của ngoại thành Huế. Chỗ ở nửa thôn nửa thị này
rất hợp với “gu” của chúng tôi, nửa muốn có cái tiện nghi của thành phố
(điện, nước), nửa muốn hưởng cái êm ả, và vẻ đẹp của thiên nhiên. Cây cỏ
xung quanh nhà, và nhất là trên con đường phía sau nhà còn vẻ hoang vu
cho chúng tôi cảm giác sống một cuộc đời nửa phiêu lưu. Chiều chiều ba
anh em chúng tôi, nhất là tôi và Xuân Sanh hay đi ra phía sau nhà nhìn
đồi núi, xem mặt trời lặn có khi ngồi gốc cây cho đến tia nắng cuối cùng
tắt ở chân trời đã mờ sương. Gặp buổi chiều mưa giông thì cả ba chúng
tôi trần truồng ra tắm mưa ở ngoài sân dưới những cành đa, tưởng tượng
mình như những người tiền sử. Mỗi tuần chúng tôi xuống phố một vài lần
để mua ít quà bánh, và nhất là để mua sách, báo ở hiệu sách Hương Giang
của anh Hải Triều. Trong ba chúng tôi, tôi là người nghèo nhất, anh Sanh
không giầu gì nhưng cũng nhận được đều tiền của bố, một ông Thừa phái,
gửi cho hàng tháng; anh Tám thì nhận được tiền của gia đình ở nông thôn
(anh quê ở huyện Nam Đàn, Nghệ An), gửi cho đủ sống cả vụ hè. Ông Đội
Đán là đội lính khố xanh, ông có học qua cấp tiểu học, người điềm đạm,
và rất trọng những người trí thức. Nghe chúng tôi đàm luận văn chương,
ông thường ghé nghe, tỏ ra rất thích thú. Có tháng chúng tôi không kịp
trả tiền trọ, thì ông nói: “Không sao, chờ tựu trường, các anh lên lớp
trả cũng không muộn. Các anh ở đây là vui nhà chúng tôi; các anh không
nhiều tiền, nhưng nhiều văn chương, tôi cũng không giàu nhưng hâm mộ văn
chương, thế là vui rồi”. Bà vợ ông Đán, cùng quê với ông, là một người
dân quê hiền lành, chất phác. Bà làm cơm cho chúng tôi chung với gia
đình, bữa cơm nhiều rau, rau muống, rau rền, thường có một ít cá, còn
thịt thì một tuần được vài lần. Nhưng bữa nào cũng ngon miệng nhờ tương
ngon để chấm rau muống và nhờ nước mắm Nam Ô mà chúng tôi rưới cơm rất
ngon. Khi nào bà nghe ai nói điều gì không vừa ý thì bà chỉ cười và nói:
“Vô duyên ôộng!” rồi cười, miệng nhóp nhép miếng trầu. Cuối hè, chúng
tôi nợ một tháng cơm trọ. Sau tựu trường chúng tôi ra thăm nhà và trả
tiền, thì hai vợ chồng ông Đội Đán lại thết chúng tôi một bữa cơm thịt
gà khá thịnh soạn. Những tháng chúng tôi ở nhà ông Đội Đán, có nhiều kỷ
niệm: Tháng 7 năm ấy, nhà văn Nguyễn Công Hoan mà tập truyện
Kép Tư Bền vừa được nhà xuất bản Tân Dân phát hành, vào chơi Huế và có
ghé ở hiệu sách Hương Giang một buổi chiều để tác giả ký tên vào sách cho những bạn đọc muốn gặp tác giả.
Anh
Hải Triều có báo trước vài hôm cho Xuân Sanh và tôi biết cái tin lý thú
ấy. Chiều hôm đó, tôi và Xuân Sanh cùng một số bạn đọc khác xếp hàng để
được bắt tay tác giả Kép Tư Bền và xin chữ ký.
Anh Nguyễn Công Hoan lúc đó bắt đầu cắt tóc, kiểu vận động viên thể dục
thể thao, khỏe mạnh, dáng lanh lẹ không nói chuyện nhiều nhưng vẻ mặt
tươi cười mặc dầu không cười ra tiếng. Chúng tôi nhìn nhà văn Nguyễn
Công Hoan, mà chúng tôi đã đọc một số truyện ngắn rất thích thú, với
lòng cảm phục, kính trọng. Và qua việc nhà văn tiếp xúc với độc giả tuy
trong một khung cảnh đơn sơ, và qua việc nhà văn ký tên vào sách mới ra của mình, chúng tôi như thấy được, như ngửi thấy được cái mùi vị của danh vọng văn chương...
Đến lượt chúng tôi đưa sách xin anh ký,
anh Nguyễn Công Hoan cũng bắt tay chặt như đối với mọi người, và hỏi
thêm: “Các bạn học ở đâu, các bạn có viết văn không?”. Chúng tôi giả lời
qua loa, vì còn nhiều người nữa đợi xin chữ ký.
Anh Hải Triều nói cho anh Hoan biết rằng chúng tôi là những học sinh ưu
tú trau dồi tiếng Việt, và hâm mộ văn thơ hiện tại của nước nhà.
Chúng
tôi thấy náo nức trong lòng, và đứng lại ở hiệu sách chờ cho nhà văn
Nguyễn Công Hoan đi khỏi chúng tôi mới trở về nhà trọ. Về nhà rọc sách
ra xem, sách thơm mùi giấy mới và mùi mực in, như nó là hương vị của văn
chương.
Cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng phát hành vào hè năm ấy, nhưng không có tác giả đến Huế để chúng tôi xin chữ ký.
Xuân Sanh và tôi đã mỗi người mua một bản mang về nhà trọ, trân trọng
đọc lại cho nhau nghe, vì truyện này chúng tôi đã đọc hàng tuần trên báo
Phong hoá. Ở hiệu sách Hương Giang, chúng tôi còn mua nhiều sách cũ,
các tác phẩm của văn học cổ điển và văn học hiện đại nhất là các tập thơ
Pháp của các trường phái lãng mạn, thi sơn, tượng trưng... Chúng tôi
cũng mê mua sách bình luận văn học của Sainte Beuve, của Faguet Lanson.
Nhất là anh Tám rất mê xem sách của Sainte Beuve, với kỳ vọng một ngày
kia sẽ trở thành một nhà nghiên cứu, phê bình văn học sâu sắc và tế nhị
đi sâu vào tâm lý của nhân vật và của tác giả. Chúng tôi càng tìm mua
những sách văn học Việt Nam như Văn đàn bảo giám, Hán Việt văn khảo, các
sách văn học xưa do ông Nguyễn Văn Ngọc sưu tầm và dẫn giải, và Văn học
tạp chí (của nhóm Dương Bá Trạc)...
Anh
Hải Triều, mà chúng ta đều biết là nhà lý luận văn học mác-xít, cũng
ham đọc rộng, và cũng thường thức cái hay của văn chương cổ điển và lãng
mạn, chứ không bó hẹp sự hưởng thụ thẩm mỹ của mình trong dòng văn học
vô sản. Và anh cũng biết tích luỹ những sách hay cho bạn đọc thân quen
của anh. Có những lần anh nói với Xuân Sanh và tôi: “Có mấy quyển hay để
dành cho hai anh đấy, tôi giấu trong nhà, bày ra tủ hàng sợ họ mua
mất”. Chúng tôi nói là chưa có tiền thì anh bảo cứ mang sách về, khi nào
có tiền thì trả sau. Chính ở hiệu sách Hương Giang, lần đầu tiên tôi
gặp anh Hoài Thanh, lúc đó làm ở nhà in Đắc Lập, và ở trong Ban biên tập báo
Tràng An cũng do nhà in Đắc Lập (của ông Bùi Huy Tín) phát hành. Anh
Hoài Thanh người cao, da mặt hơi rám nắng, mắt to và sáng, anh bận bộ âu
phục simili trắng, ca vát đen, cả người anh toát ra một vẻ gì chặt chẽ
và mực thước.
Lúc tôi xem
những bài bình luận văn học của anh trên báo Tràng An, nhất là bài anh
viết về Thế Lữ thì tôi lại đoán hiểu ở nơi anh một tâm hồn đằm thắm, có
một sự say mê thầm kín. Tôi nhớ mãi cái ý anh viết về Thế Lữ “Đọc thơ
Thế Lữ cho chúng ta một xúc động bâng khuâng như bâng khuâng một buổi
chiều cuối xuân đầu hạ.... Hải Triều và Hoài Thanh sẽ bút chiến kịch
liệt về nghệ thuật, nhưng hai anh trò chuyện với nhau rất tự nhiên, nếu
không thân mật thì cũng là hoà nhã, và tôn trọng lẫn nhau. Tôi còn trở
lại nói về anh Hoài Thanh trong một hồi sau.
Anh
Hải Triều, tức là Nguyễn Khoa Văn, một người hoạt động cách mạng sớm
như chúng ta đã biết, là con bà Đạm Phương Nữ Sĩ. Anh người thấp, mắt
hơi mại mại, miệng cười tươi và nói chuyện rất có duyên. Vợ anh, chị
Tuyến là con cụ Hàn Mạn Tử, Giao Thiều một vị nhà nho học rộng, là người
đã hiệu đính quyển Hán Việt từ điển cho ông Đào Duy Anh. Hai vợ chồng
anh làm nghề bán sách, bán báo một cách hứng thú và chắc chắn ngoài lý
do sinh nhai, anh Hải Triều còn sử dụng hiệu sách của anh như một nơi
tuyên truyền văn hoá tiến bộ, và có lẽ là một nơi liên lạc bí mật của
những người hoạt động cách mạng nữa. Sau này tôi có hỏi anh về điểm này
thì anh cho biết cũng có như thế, nhưng hết sức hạn chế, vì mật thám nó
theo dõi rất sát. Anh Hải Triều để lại cho chúng tôi một ấn tượng sâu
sắc, ấn tượng của một nhà báo tiến bộ, của một người hoạt động văn hoá
năng động, của một người trí thức cách mạng gắn bó với truyền thống văn
hoá của dân tộc. Gần anh, người ta có cảm giác gần một người bạn, ý kiến
có thể bất đồng với nhau nhưng tình bè bạn vẫn đậm đà, đượm tình nhân
ái.
Cũng hè 1935, anh Nguyễn Xuân
Sanh, anh Nguyễn Xuân Tám và tôi rủ nhau đi La Vang ở Quảng Trị một nơi
hành hương của đồng bào công giáo. Chúng tôi đi xe lửa đến ga Quảng Trị,
rồi theo đồng bào đi bộ về La Vang trong buổi lễ trọng của nhà thờ La
Vang. Lần đầu tiên chúng tôi mục kích sự biểu hiện của lòng tín ngưỡng
cao độ của một đám đông người phần lớn là nông dân nghèo, trên một mảnh
đất khô cằn. Sau hồi chuông
nhà thờ đổ, tiếng cầu kinh của đám đông tín đồ này rào rào lên như
tiếng sóng biển chiều hôm, và từng đợt, từng đợt đám người đông đảo cúi
rạp xuống như một ruộng lúa có ngọn gió mạnh thổi qua. Chúng tôi có một
cảm giác và một cảm tưởng khó tả: nửa cảm phục đồng bào có một lòng tin
sâu mạnh gần như là một bản năng, nửa lại thấy ái ngại về lòng tin này,
nó gần như một sự mê mẩn.
Chúng tôi
cũng đã từng đọc những sách Pháp nói về đạo của chúa Giêsu, và cũng đã
đọc những trích đoạn của Kinh thánh, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi
tiếp xúc với đám con chiên của Chúa, mà chúng tôi không thấy giống lắm
với những hình ảnh đã tả trong các sách được đọc. “Chúa của những người
nghèo” đã đến với những người dân nghèo ở Quảng Trị, ở Trung Kỳ trong
một nỗi bâng khuâng khó tả. Anh Tám, anh Sanh và tôi đi La Vang về cứ
trao đổi cảm tường về chuyến đi và có một nỗi buồn không phải day dứt
nhưng cũng bàng hoàng hàng tháng...
Cũng
trong mùa hè này một buổi chiều cơm xong ba anh em cao hứng rủ nhau mang
chiếu lên đỉnh núi Ngự Bình để ngủ lại một đêm trên đó. Chúng tôi đi
đường quanh co, cho có vẻ phiêu lưu, và lúc đến gần đỉnh núi thì trời
nhá nhem tối. Bỗng nhiên chúng tôi thấy đường xa xa có mấy ngọn đuốc đi
tới, chúng tôi hơi rợn mình, sợ là ăn cướp. Chúng tôi lánh ra một bên,
giấu mình trong bụi rậm thì đoàn người cầm đuốc đi qua một cách yên ổn,
hiền lành; họ đi săn từ trong núi về, và hình như có gánh về được một
con lợn rừng khá to. Họ mượn đường núi Ngự Bình để đi tắt về làng mà
thôi. Chúng tôi đêm ấy ngủ trên đỉnh núi, gió mát nhưng gần sáng thì
sương lạnh, may mà có mang chăn đơn theo. Ba anh em thức, nói chuyện văn
thơ, mãi quá nửa đêm mới ngủ. Chúng tôi thức dậy cùng một lần với mặt
trời. Nhìn xuống sườn núi những giọt sương long lanh trên lá, trên cỏ,
trong gió hây hây mát, làm chúng tôi khoan khoái, say sưa. Rồi chúng tôi
đi hái những chùm lá, những chùm hoa của những cây dại mà chúng tôi
không biết tên để mang về ép vào trong sách làm kỷ niệm, chẳng khác nào
những nhà thảo mộc học đi góp nhặt những tiêu bản qua những cuộc khảo
sát thiên nhiên. Những lá ép hoa ép này tôi còn giữ mãi một vài mẫu cho
đến ngày nay, nó cũng như là những tiêu bản của tuổi thanh niên đầy mơ
mộng.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2-H
Em bé bán lạc rang và bán báo
Năm
tôi học đệ tam niên thành chung, một sáng chủ nhật, ở trường xa, tôi
ngồi chơi ở vườn hoa bên bờ sông Hương, gần hãng buôn Morin, tôi gặp một
em bé bán lạc rang và bán báo, mặt khôi ngô, lanh lợi. Tôi hỏi em: “Chủ
nhật em bán báo và đậu phụng, thế ngày thường em đi học ở trường nào?”.
Thấy tôi hỏi em bé có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ. Tôi lặp lại câu hỏi thì
em nói: “Thưa anh, em không được đi học, em chưa biết đọc biết viết....
Tôi hỏi: “Thế làm sao em bán báo được, biết tờ nào là báo gì mà đưa cho
khách?” - “Em thuộc mặt các tờ báo, chỉ có ba bốn tờ thôi, cả báo ở Huế,
cả báo Hà Nội, làm gì là em không thuộc...
Rồi
em kể cho tôi nghe: Bố mẹ em đã chết bệnh, vì nghèo quá không đủ thuốc
thang. Và em được một người cô nuôi, người cô cũng nghèo, buôn thúng bán
mẹt ở Gia Hội, chỉ có thể cưu mang nuôi cháu ngày hai bữa cơm cháo,
không đủ sức nuôi cháu ăn học. Em đành phải đi bán đậu phụng rang và bán
báo, kiếm được đồng nào thì về đưa cô, và cô cũng cho lại em mỗi tuần
một hào để ăn quà sáng. Em rất thương cô thấy cô nghèo quá, có tuần em
không nỡ lấy hào bạc cô cho... Em ứa nước mắt, chào tôi định đi. Tôi gọi
em trở lại, và bảo em: “Thế em có muốn học chữ quốc ngữ không?”. Em
hỏi: “Muốn lắm, nhưng bằng cách nào?” - “Anh sẽ dạy em, mỗi sáng chủ
nhật, đúng 8 giờ, em cứ đến đây, ở ghế vườn hoa này, anh ở trường ra,
anh sẽ dạy cho em một tiếng đồng hồ, cứ đều đặn như thế thì mấy tháng là
em biết đọc, biết viết được. Anh sẽ mua chữ quốc ngữ cho em và cho em
cả vở và bút....
Thế rồi, mỗi sáng
chủ nhật, ở trường ra tôi đến chỗ hẹn chờ em bé, có lúc em đến chậm một
chút, nhưng thường là em đến trước tôi, chờ tôi. Cũng có lần tôi ra
chậm, và em vẫn chờ. Em thông minh, tôi dạy em cũng tỉ mỉ nên chỉ sau
mấy chủ nhật là em đọc được đọc ngay hẳn vào chữ in. Chỉ có bày cho em
viết tập là
hơi khó, vì không có bàn, chỉ có bút chì viết trên vở, kê vào đầu gối
mà viết. Tuy nhiên, về nhà em kiên nhẫn đồ theo những trang tôi viết bút
chì rồi em cũng thuộc mặt chữ và viết được. Lúc đầu còn nguệch ngoạc,
sau chữ cũng đứng nét dần, và viết đều đặn.
Tôi
nhớ gần nghỉ hè, khoảng tháng 3 hoặc tháng 4-1935, thì em đã biết đọc
biết viết hẳn hòi, và có hôm chủ nhật tôi ở trường ra thì đã thấy em
ngồi trên ghế đá vườn hoa, cầm tờ báo Phong hoá đang đọc. Tôi mừng thầm
đã thành công trong việc giúp em, đem lại chữ quốc ngữ cho em. Tôi định
nói với em là từ tuần sau tôi không còn phải dạy em nữa, và tôi cũng bận
thi học kỳ, và chào tạm biệt em. Tôi thấy em lúng túng, như muốn nói
điều gì đó với tôi... Sau cùng em rút ở trong tờ báo ra một mẩu giấy,
thì đó là bức thư em viết cho tôi, tỏ lòng biết ơn tôi đã dạy em biết
chữ. “Cô em nói với em: “Cháu đã gặp bụt bày chữ cho cháu đó”. Em nói
với cô: Anh học trò ấy còn trẻ lắm thì cô em nói: bụt thương cháu nên
xui anh ấy bày cháu học. Thưa anh, em biết ơn anh, hứa làm ăn thật tử tế
khỏi phụ lòng anh.... Tôi quên không nhớ rõ tên em bé, không biết có
phải là Quang, hay là Trang...
Lúc gần
nghỉ hè, một sáng chủ nhật, tôi lại gặp em rao bán báo và đậu phụng; hai
anh em gặp nhau, cảm động em đưa tôi một gói đậu phụng, tôi lấy tiền
giả em nhất định không lấy, tôi phải cầm gói đậu phụng bỏ túi cho em vui
lòng, và anh em từ giã nhau, hai đứa đều rơm rớm nước mắt. Đó là lần
cuối cùng tôi gặp em bé bán báo và đậu phụng rang, người học trò nhỏ của
tôi. Sau này, tiếp xúc với phong trào truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội, tôi
lại nhớ đến cậu học sinh vườn hoa. Và bây giờ, thỉnh thoảng bàn vấn đề
xoá nạn mù chữ trên thế giới trong hội đồng chấp hành UNESCO tôi lại nhớ
những sáng chủ nhật ở vườn hoa bên bờ sông Hương kiên nhẫn dạy đứa em
của tôi...
Diễn kịch tại nhà
Hè
1936, sau khi đậu bằng thành chung, các anh Nguyễn Xuân Tám, Nguyễn
Xuân Sanh và tôi lại cùng nhau ở lại Huế, mấy tuần đầu ở trọ tại một nhà
ở xóm An Cựu, gần cầu và chợ An Cựu. Nhà ngói trệt có vườn xanh mát, có
sân gạch, có bể cạn chứa nước mưa bên gốc mấy cây cau. Nhà chỉ có hai
vợ chồng không có trẻ con, ông chồng làm một chức gì trong hàng nho lại
trong thành Huế, bà vợ trạc gần 40 tuổi ở nhà, cũng không hẳn làm nội
trợ, mà rảnh rỗi thời gian, khi đi đánh bài, đánh chắn hay đánh tứ sắc,
khi thì ra chợ kề cà chuyện trò hết buổi. Chúng tôi không thấy bà lo cơm
nước, nhưng đến bữa vẫn có được bữa cơm tươm tất, thì ra bà nhờ một
người ở của nhà láng giềng giúp bà việc bếp núc. Thế rồi một hôm, không
biết hai vợ chồng cãi cọ nhau thế nào, mà sáng hôm sau chúng tôi thấy bà
đã cạo trọc đầu như một bà vãi ở chùa. Chúng tôi thấy ái ngại, không
dám hỏi chuyện sợ chạm vào một tâm sự cay đắng, não nùng... Bà chủ động
nói trước: “Tôi có chuyện buồn riêng nhưng các anh cứ tự nhiên, ở lại
nhà tôi cho đến hết nghỉ hè cho vui, đến tựu trường các anh muốn ở lại
nữa cũng được”. Nói xong, bà ngồi yên, mặt hơi cúi xuống, như trầm ngâm
lắng suy nghĩ vào bên trong. Rồi bà lấy sách ra đọc lấy báo thì đúng
hơn, đó là vài tập Tiểu thuyết thứ bảy, vài quyển truyện của Lê Văn Trương, và một số tiểu thuyết của nhà xuất bản Tân Dân. Hình như có cả vài tập truyện Tàu nữa, và mấy tập truyện
trinh thám của Phạm Cao Củng. Là một tâm hồn bị dày vò bởi những ham
muốn không thoả mãn được hay là một nỗi lòng bất đắc chí của một người
có hoài bão nấu nung? Ba chúng tôi cứ ngồi đoán hiểu tâm hồn uẩn khúc
của bà chủ nhà.
Có một tối ba chúng
tôi cao hứng muốn diễn kịch, mà không có kịch bản tiếng Việt Nam trong
tay. Chúng tôi bèn vạch qua vài nét trong câu chuyện, rồi cứ thế sáng
tạo tại chỗ những lời đối đáp sáng tạo cả nội tâm nhân vật nữa, như ta
nói ngày nay là diễn một vở kịch cương. Anh Tám đóng vai một ông chủ
nhà, anh Xuân Sanh đóng vai bà chủ nhà, còn tôi đóng vai một người khách
lạ đến chơi. Ông chủ nhà (là anh Tám) rất sợ vợ, mà lại hay ghen, lại
có lối suy nghĩ của một người trí thức hay phân tích tâm lý, ông khách
lạ (là tôi) thì tính hay bông đùa, dễ bắt chuyện, nhưng cũng che dưới
tính bông đùa một trái tim dễ xúc động, tha thiết, nhạy cảm... Bà vợ (là
anh Sanh) thì tâm hồn lãng mạn không hẳn là chê chồng nhưng cũng thấy
lòng mình không được thoả mãn trong đời sống vợ chồng hàng ngày. Tính
cách nhân vật là như vậy, nhưng làm thế nào cho có câu chuyện dẫn dắt,
hấp dẫn... Sáng tạo lời đối với chúng tôi không khó lắm, nhưng sáng tạo
hoàn cảnh thì mặc dù đã học bao nhiêu vở kịch cổ điển và lãng mạn của
văn học Pháp, chúng tôi vẫn loay hoay không bày ra được tình huống.
Chúng tôi đang diễn, đang sáng tạo thì đột nhiên bà chủ nhà ở trong
buồng đi thẳng ra giữa phòng lớn, nơi chúng tôi đang biến thành sân
khấu: “Các anh cho tôi chơi kịch với cho vui. Anh Sanh không phải đàn
bà, làm sao mà diễn vai bà chủ nhà được, đó là vai của tôi”. Rồi bà chủ
tự đặt ra lời, diễn rất hoạt bát, rất nội tâm vai bà chủ mơ mộng, trách
chồng mà không hắt hủi chồng có khía cạnh thương hại chồng, và niềm nớ
tiếp người khách lạ, nói với người khách lạ những câu đầy ý tứ mà vẫn
nghiêm trang, lịch sự... Tôi đứng nghe lấy làm thích thú, bị thu hút bởi
tài diễn kịch, tài ứng khẩu của bà chủ nhà, quên bẵng rằng mình đang
đóng vai người khách lạ... Bà chủ nhìn tôi nói: “Ô ông khách! Ông nói đi
chứ? ông có cần tôi nhắc lại những điều tôi vừa nói với ông để ông trả
lời?”. Tôi luống cuống không biết trả lời bà chủ, hay trả lời nhân
vật... thì bà nói: “Ông cứ nói đi, trả lời tôi là bà chủ nhà, hay là bà
chủ trong kịch bản cũng được... Tôi nhập cả hai vai”. Cả ba chúng tôi
ngừng vở kịch ở đó, và ngồi nói chuyện với bà chủ có nhiều tâm sự, đầu
đã cạo trọc như người đi tu, mà lòng đời còn lắm nỗi xao xuyến.
Sau
đó một tuần chúng tôi dọn đi một nhà trọ khác gần trường Providence.
Thỉnh thoảng, tôi và anh Sanh có trở lại thăm bà chủ nhà An Cựu; tóc bà
đã mọc dài trở lại, chải rất mượt, thơm mát mùi dầu dừa...: “Các anh có
diễn kịch nữa không, cho tôi chơi kịch với”.
Tiếc
rằng, cả anh Tám, anh Sanh và tôi không người nào đi vào con đường sáng
tác kịch bản, hoạt động sân khấu, nếu không thì chúng tôi đã mời bà chủ
nhà An Cựu tham gia đóng vai, ít nhất là đóng vai bà chủ nhà mơ mộng và
có nỗi lòng xao xuyến...
Thầy Dương và thư viện của trường Quốc học
Nhớ
những ngày ở trường Quốc học, không thể không nhắc đến thầy T.X. Dương.
Lúc tôi vào học năm thứ nhất, thầy đã khoảng 40 tuổi, không có vợ, ở
luôn trong trường, trong một căn phòng dành riêng cho thầy ở trên gác.
Thầy người thấp, trán cao, một mắt hơi mài mại, lưng hơi còng, dáng đi
thong thả. Thầy được trường giao nhiều việc: làm phụ tá cho những giáo
sư dạy hoá học, trông phòng thí nghiệm hoá học của nhà trường; quản lý
thư viện khá lớn gồm hàng mấy vạn quyển sách của trường. Và còn một
trách nhiệm nặng nề nữa của thầy là: quản lý đám học sinh Tây lai học ở
trường tiểu học ghép vào trường Quốc học (gọi là trường trung học nhỏ).
Đám trẻ Tây lai này là con của các lính Tây, mà các bà mẹ ở xóm Mang Cá.
Bố
của chúng mãn hạn lính ở Đông Dương về Pháp, để lại chúng với mẹ. Chính
quyền thực dân tự cho mình có trách nhiệm nuôi dưỡng đám trẻ Tây lai
này và cho chúng học bổng toàn phần để được ở ký túc
xá học tiểu học. Thầy Dương quản lý chúng, chăm sóc chúng... Người hiệu
trưởng Pháp của trường Quốc học gọi thầy Dương là người cha nuôi của
đám học sinh Tây lai, hàng tuần, chiều chủ nhật, những bà mẹ của đám trẻ
này lại vào trường thăm cha nuôi của chúng có khi lại vào hẳn trong
phòng của cha nuôi để tâm sự.
Mọi
người ở trong trường thấy việc ấy cũng bình thường không ai xì xào gì.
Thầy Dương được mọi người kính trọng, hiệu trưởng và giám thị người Pháp
rất nể, và bọn trẻ Tây lai thì sợ thầy một phép. Thầy Dương rất có ơn
đối với chúng tôi vì thầy quản lý thư viện của nhà trường rất tốt, luôn
luôn xin mua được sách mới và mỗi tuần chiều thứ tư cho chúng tôi vào
phòng thư viện tha hồ chọn sách mà xem, và đổi sách mượn. Tôi đã đọc
được hầu hết các tác phẩm tiêu biểu của văn học cổ điển và hiện đại của
Pháp tại trường, là nhờ công của thầy Dương. Cũng xin nói rõ là tất
nhiên những sách trong thư viện này đều là sách Pháp, từ điển bách khoa
toàn thư, cho đến những quyển tiểu thuyết nổi tiếng của đầu thế kỷ 20.
Khỏi phải nói, chúng tôi muốn đọc sách văn học Việt Nam thì phải tìm mua
ở hiệu sách Hương Giang, hay mượn của nhau trong những thư viện gia
đình. Thầy Dương phụ đạo các giáo sư hoá học thuộc quy trình các bài thí
nghiệm đến nỗi mỗi lần thầy không cần mở sách xem, trong khi một vài
giáo sư còn lúng túng. Thầy rất nghiêm trong khi hướng dẫn học sinh làm
thí nghiệm, cậu nào láu cá muốn đi đến kết quả mà làm tắt thí nghiệm thì
thầy cũng bắt được và phê bình hẳn hoi, bắt làm lại thí nghiệm nhưng
không cho thêm chất hoá học. Tuy vậy thầy được học sinh chúng tôi rất
mến và kính trọng vì thầy thẳng thắn, không nịnh Tây. Suốt đời thầy
không lấy vợ, lấy trường làm nhà, lấy việc chăm sóc lũ trẻ Tây lai làm
vui, lấy việc thí nghiệm hoá học làm thú tiêu khiển.
Thăm một ông cậu của tôi bị giam ở nhà lao Thừa Phủ.
Năm
tôi học đệ nhị niên thành chung (1934), một người bà con về bên ngoại
báo cho tôi biết là cậu A. ở Nga về đã bị bắt tại Hàm Rồng, bị giải về
Trung Kỳ, bị giam ở Lao Bảo hơn 2 năm và nay bị giam ở nhà lao Thừa Phủ.
Cậu A., em mẹ tôi, là cậu thứ tư của tôi. Lúc nhỏ ở nhà cậu không được
bố thương bằng các anh. Đậu tiểu học, cậu được bố cho vào học trường học
nghề của Nam triều. Cậu bỏ trường học nghề này thi đậu vào Quốc học
cùng một khoá với cậu học trung học tại trường Quốc học ở Huế, cùng một
lớp với ông Đào Duy Anh đậu thành chung, rồi ra Hà Nội học trường cao
đẳng y khoa đào tạo ra những y sĩ Đông Dương. Ở Hà Nội, cậu giác ngộ
cách mạng, sau đó năm 1926, tìm cách đi sang Pháp để học thêm và để tham
gia hoạt động cách mạng tại Pháp. Ở Pháp được vài năm, cậu lại bí mật
sang Liên Xô và học một lớp chính trị tại Mátxcơva rồi tình nguyện gia
nhập Hồng quân Liên Xô. Ở trong Hồng quân được gần ba năm, cậu A. lại
xin về Việt Nam hoạt động. Từ Liên Xô cậu đi về qua Trung Quốc, theo
đường dây của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lúc về đến Việt Nam, cậu đi
thuyền về đến mỏ Hòn Gay, từ Hòn Gay đi thuyền về Hải Phòng, từ Hải
Phòng đi xe lửa về Thanh Hoá, xuống ga Thanh Hoá, cậu vác cái thang cho
một người thợ nề đến Hàm Rồng thì cậu bị bắt và bị tù ở Lao Bảo hơn 2
năm sau đó giải về Huế và ngồi tù ở lao Thừa Phủ. Cậu A. có tinh thần
chống Pháp từ hồi nhỏ,
thường hay có những ý kiến xung khắc với bố (là ông ngoại tôi), nhưng
rất thương mẹ (bà ngoại tôi), và thương chị (là mẹ tôi).
Với anh em khác, cậu ít gặp gỡ, vì cậu cho là không hợp tính tình. Tôi nhớ hồi tôi
còn nhỏ, mẹ tôi xin được của bà ngoại một cái ảnh của cậu A. và để trên
cái mâm cỗ bồng, trên bàn thờ nhà tôi. Trong ảnh, nét mặt cậu rắn chắc
và có vẻ gì như ương ngạnh. Lúc tôi vào thăm ở nhà lao, người bà con
cùng đi giới thiệu với cậu tôi là con chị Cháu Ngạn thì cậu tỏ ngay cảm
tình, vì cậu rất thương mẹ tôi. Cậu hỏi tôi việc tôi đi thăm như thế này
có ảnh hưởng gì đến việc học của tôi không, ý nói mật thám có thể theo
dõi. Người bà con và tôi đều nói: “Tình gia đình thì vào thăm, còn họ có
theo dõi hay không thì cũng chịu”. Sau đó vài ba tháng một lần tôi lại
vào thăm cậu tôi cũng ham nghe những câu chuyện của cậu mặc dầu cậu
không nói được nhiều, càng không nói được cụ thể cuộc đời hoạt động của
cậu, nhưng câu chuyện ngắn gọn trong phòng tiếp khách nhà lao, vẫn hé mở
cho tôi thấy một cuộc đời sôi nổi, với những chân trời xa xôi, nửa rạt
rào hào khí, nửa đượm màu phiêu lưu. Cậu khuyên tôi chăm học, muốn làm
gì thì cũng phải có trình độ văn hoá cao, hiểu biết rộng. Mỗi lần thăm,
nhà lao chỉ cho phép tiếp xúc lâu nhất là nửa tiếng đồng hồ, nhưng người
đội gác có vẻ nể cậu tôi, nên cũng có lần cho kéo dài buổi thăm thêm 15
phút. Ở nhà lao ra, cậu tôi làm thuê cho nhà in Đắc Lập, làm kế toán
viên, và một phần nào vào xường in giúp sắp xếp công việc của thợ in,
công việc “lên trang” của tờ báo và của những quyển sách, vì cậu tôi qua
những năm hoạt động ở Hà Nội và ở Pháp cũng đã thạo công việc ấn loát.
Sau đó, cậu tôi còn tham gia viết báo Tờ báo Huế, (báo bằng tiếng Pháp)
nhưng không viết (chắc là không được viết) những bài có tính chất chính
trị. Cậu chỉ viết những bài thời đàm có tính văn hoá, xã hội, không trực
tiếp liên quan đến chính trị đương thời. Tuy vậy, cậu cũng cho đăng
được mấy kỳ một thiên hồi ký về
những bước đường hoạt động của mình, nhưng dưới cái dạng một thiên
phóng sự, mà anh Xuân Sanh và tôi xem rất thích vì thiên phóng sự khá
hấp dẫn, với nhiều tình tiết như rút từ một quyển tiểu thuyết phiêu lưu.
Cậu
A. học rộng, có trình độ hiểu biết mác-xít cao và cũng hiểu văn hoá
chung khá nhiều và khá sâu. Ưu điểm của cậu là có tinh thần yêu nước,
tinh thần cách mạng khá lớn và kiên trì đi theo con đường đấu tranh
chống thực dân Pháp, nhưng một nhược điểm khá rõ của cậu là hay bàn
ngang, mà không chỉ bàn ngang, có thể là cậu tự khép mình vào kỷ luật
cách mạng một cách khó khăn. Khó khăn, nhưng rồi cũng theo kỷ luật vì lý
tưởng. Cậu A. cũng là người đa tình, người ta bảo mắt cậu nhìn đắm lắm,
và cậu đã có một vài mối tình đẹp ở Huế, những mối tình khá lãng mạn
giữa cảnh sông Hương núi Ngự, những người cậu yêu là những phụ nữ trí
thức, những bậc nữ lưu, như ta nói hồi đó. Một nữ lưu ấy đã trở thành vợ của cậu. Còn những bậc nữ lưu khác, thì tôi nhường cho hồi ký của cậu kể, vì hình như ông cậu cũng có viết hồi ký.
Dầu sao tôi cũng phải thêm: một bậc nữ lưu kia dai dẳng yêu cậu mãi, và
người ấy đã kể cho tôi những năm dan díu với cậu tôi “những năm tháng
say nhất, đẹp nhất, bàng hoàng nhất” của đời bà. Lúc tôi ra học cao đẳng
canh nông ở Hà Nội, cậu đã gởi cho tôi rất nhiều bộ áo quần cũ của cậu,
cũ nhưng còn tốt, tôi bận rất vừa. Tôi đã cho một anh bạn hai bộ, một
mùa đông và một mùa hè. Tập Lửa
thiêng của tôi ra đời cuối năm 1940, tôi không kịp gởi tặng, thì cậu đã
mua và đọc ở Sài Gòn, và đọc xong cậu có viết thư cho tôi nói là rất
tán thưởng tập thơ
và khuyên tôi cứ tiếp tục sự nghiệp văn chương đã khởi đầu tốt. Trong
kháng chiến chống Pháp, cậu tôi đã làm việc trong một cơ quan kinh tế
của Khu 4, và có những đóng góp đáng kể. Nhưng cũng vì tính hay nói
ngang và nói thẳng, mà cậu không được lòng mọi người. Nhưng điều an ủi
cho cậu A. là ông giám đốc cơ quan rất quí cậu biết cậu là người có khả
năng, có tài năng, có nhiều ý kiến hay về tổ chức. Hiện nay cậu đã già,
hơn 80 tuổi nhưng óc còn minh mẫn, vẫn đọc sách và thỉnh thoảng có làm
vài bài thơ... tình. Những bài thơ tình này là những hoài niệm, nhắc lại
những mối tình xưa, nhất là những mối tình say và bàng hoàng ở Huế, sau
khi ở nhà lao ra.
Ngủ chung những đêm rét ở trường Quốc học
Tôi sống mấy năm liền trong ký túc xá của trường Quốc học, và cái tuổi mới lớn lên (14, 15 tuổi), trong không khí rất mơ mộng của trường và của cả xứ Huế.
Sau
tựu trường tháng 9 thường ở Huế mưa rả rích suốt hàng tháng, có những
tuần không một giờ nào ngớt mưa. Về cuối năm vừa mưa vừa lạnh. Học sinh ở ký túc
xá như sống trong một tổ ấm, mặc dù có người con nhà nghèo, có người
con nhà giầu, và có cả những công tử con quan nữa. Nhưng những sự phân
biệt xã hội ấy ở trong ký túc
xá cũng có phần mờ đi. Một thứ dân chủ của nhà trường, phần nào dựa
trên tài năng (tài năng đây là học giỏi) cũng an ủi những anh học trò
nghèo như bọn tôi lúc đó. Những đêm trời mưa rét, một cái thú của chúng
tôi là kết bạn ngủ chung với nhau. Chờ cho thầy giám thị (mỗi phòng có
một thầy) đi kiểm tra một vòng rồi đi ngủ trong phòng con của thầy,
chúng tôi nhẹ nhàng đi tìm bạn ngủ chung. Ít nhất là một phần ba học
sinh ngủ chung với nhau như thế; thầy giám thị sáng mai dậy sớm có biết
thì cũng lờ đi. Trong một bài thơ của tôi, đoạn mở đầu đã nhắc đến cảnh
ngủ chung thắm thiết này:
Ôi rét đêm nay mấy học trò
Ngủ chung giường hẹp trốn bơ vơ
Cô hổn vạn thuở buồn đơn chiếc
Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ...
Những đêm ngủ chung như thế “tay choàng làm gối ấm”, những đôi bạn
thường nói chuyện thủ thỉ đến khuya, chuyện tâm tình, chuyện văn
chương, chuyện đời. Còn chuyện học, thì đã có những đêm ai nấy cùng lo
học thi, nằm trong giường riêng của mình mỗi người với một ngọn đèn tí
hon, mà bóng đèn là những lọ thuốc tây đã cưa cái đáy, đèn để trong một
cái hộp kín, chỉ để hở vài phân vuông ánh sáng chiếu vào trang sách học.
Nhân nói giấc ngủ trong ký túc
xá tôi lại nhớ cứ 5 giờ rưỡi sáng là có kèn “la vầy” của trại lính khố
xanh đóng cách trường mấy trăm thước vang lên, thức chúng tôi dậy. Nhưng
trước tiếng kèn “la vầy”, đã có tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang.
Tiếng chuông rất trầm mà ngân nga hồi lâu,
có đến mấy phút đồng hồ, nhất là trong bầu không khí trong trẻo của
những sáng mai hè. Người ta bảo trong cái chuông chùa Thiên Mụ có nhiều
vàng nên tiếng chuông trong và ngân lâu, và trong số vàng đúc vào chuông
có vàng của nhiều thiếu nữ thất tình, bỏ nhà đi tu. Không biết có phải
vậy không, nhưng trong tiếng chuông mà tôi nghe ngân nga mỗi sáng, tôi
không nghe thấy âm hưởng của lòng não nuột, của cay đắng mùi đời. Trong
tiếng chuông Thiên Mụ, dường như tôi chỉ nghe tiếng vang vọng của những
tâm hồn thanh thản, có lẽ đã phần nào thoát tục, gần như tiếng chuông
chùa trong bài thơ của Thế Lữ. Tôi đã nhiều lần đến thăm chùa Thiên Mụ,
cảnh chùa đẹp soi bóng xuống dòng sông Hương Giang, nhất là cảnh vườn
sau của chùa xanh mát, êm ả, đẹp cái đẹp của thiên nhiên và của tay
người sắp xếp. Nhưng tôi vẫn thấy cảnh chùa không đẹp bằng tiếng chuông
chùa cái ngân nga vô tận của tiếng chuông nói với tôi nhiều hơn là mười
mấy tầng tháp trên gò đất cao. Tôi cũng đã nghe tiếng chuông của nhà thờ
Phủ Cam đổ hồi những
ngày lễ trọng. Nhà thờ Phủ Cam cũng ở gần trường Quốc học, nên ở trong
trường nghe chuông rất rõ. Hai tiếng chuông khác nhau quá? Cũng là đạo
nhưng tiếng chuông nhà thờ dường như vẫn náo nức lòng đời, vẫn mang
trong âm thanh những xao xuyến của trái tim đời, còn tiếng chuông chùa
thì như hoà tan chút lòng đời còn lại vào cõi mênh mông bát ngát, vào
nơi “không gian thanh tịnh”. Những chiều thứ năm các thầy giám thị dẫn
học sinh đi dạo chơi thăm những danh lam, thắng cảnh ở ngoại thành thành
phố Huế. Thường chúng tôi được đi chơi ở chùa Bảo Quốc, chùa Từ Đàm,
nơi mà cụ Lê Đình Thám hội trưởng hội Phật giáo Trung Kỳ thỉnh thoảng
đến thuyết pháp về đạo Phật. Cũng có lần chúng tôi được dẫn đi thăm một
lăng vua, lăng Tự Đức hoặc lăng Minh Mạng mãi tối mới về đến trường.
Riêng thầy Lê. Đ. P. thì bao giờ đến phiên thầy, thầy cũng dẫn chúng tôi
đến Tân lăng, tức là lăng của vua Dục Đức (?). Lăng nhỏ nhưng cây cối
xung quanh họp thành một cảnh đẹp có nhiều cây đại làm cho cảnh lăng hơi
giống. cảnh chùa. Thầy Lê. Đ. P. dẫn chúng tôi đến đó, giao chúng tôi
cho cảnh lăng, còn thầy thì vào một ngôi nhà cổ kính ở trong một khu
vườn bên cạnh lăng để đánh chắn hoặc đánh tài bàn với mệ S. Mệ S. là một
người của hoàng gia, một công chúa dòng Duy Tân, lúc bấy giờ còn trẻ
khoảng hơn 30 tuổi. Mệ S. đẹp, cái đẹp quí phái, nhưng không phải là cái
đẹp ẻo lả. Trái lại người mệ rất nở nang, đường nét cân đối, không
thướt tha mà rất hài hoà trong bộ áo quần hoàng phái của mệ. Tôi nghe
nói sau này, trong thời Mỹ nguỵ, lúc bấy giờ mệ đã có tuổi, mệ còn bận
áo quần thể thao, lái ô tô vượt đèo Hải Vân đi vào Đà Nẵng, Qui Nhơn.
Thầy Lê. Đ. P. đánh chắn với mệ đều đặn mỗi chiều thứ năm, còn hai người
có ván bài nào khác không, thì anh em trong trường cũng xì xào nhiều,
còn chúng tôi thì chỉ chờ lúc thầy ra về, mệ S. tiễn ra cổng là chúng
tôi được ngắm cái vẻ đẹp vừa cổ kính vừa có chút gì tân thời, hiện đại
của mệ. Hoàng gia suy tàn, hoàng gia dưới chế độ bảo hộ của thực dân
Pháp, sinh ra một mẫu nàng công chúa như mệ S., vẫn giữ tư thế tự trọng,
mà ôm ủ trong người một vẻ gì chán chường sống cuộc đời như nửa đùa nửa
thật. Thấy mệ S. đi đôi giày
cườm với cái áo dài màu cánh sen, tôi cứ nghĩ đến những cây đại trước
Tân lăng. Không hiểu sao lại có sự liên tương này, có phải vì cái khung
cảnh suy tàn của cây cỏ, của gạch đá xanh màu rêu phong nó nói lên cái
bùi ngùi của cảnh lẫn người, cho dù một sắc đẹp hấp dẫn như sắc đẹp mệ
S. cũng không làm cho tươi tắn lại được.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- I
Valéry và Gide ở Huế
Những
năm 1935-1936 ở Huế có một “phong trào” một thời thượng thì đúng hơn,
xem thơ Valéry và đọc các sách, truyện của Gide. Valéry lúc đó được coi
là nhà thơ siêu việt của văn học hiện đại Pháp; còn Gide thì lúc đó được
xem là nhà văn độc đáo, đang có chiều hướng tiến bộ, xích gần lại với
phong trào cộng sản nhất là sau khi Gide cho xuất bản quyển “Những thức
ăn trần gian mới” (Les Nouvelles Nourritures), mà một phần lớn đã trích
đăng trong báo Marianne, là tờ báo có xu hướng cộng sản. Việc đọc sách
của hai tác giả này trở thành thời thượng đến nỗi một anh bạn học lớp
tôi anh Phan D. viết thư cho Gide, tâm sự với Gide về những nỗi băn
khoăn của mình trước cuộc sống, và được Gide trả lời bằng một bức thư
ngắn gọn trong đó Gide tỏ sự đồng cảm với một tâm hồn băn khoăn ở xứ
Đông Dương xa xôi. Lại có một bác sĩ người Pháp ở bệnh viện Huế là bác
sĩ Tribouillet cho xuất bản liền hai quyển sách nghiên cứu về Valéry và
Gide. Bác sĩ đã diễn thuyết về nhà thơ và nhà văn này, được giới trí
thức Huế rất hoan nghênh, mặc dù có khi thính giả cũng không hiểu hết
bác sĩ phân tích những gì trong thơ Valéry và trong văn Gide. Trước mỗi
buổi diễn thuyết, nhà bác sĩ nghiên cứu văn học giới thiệu cho mỗi người
xem hai bức ảnh lớn mà Valéry và Gide đã gởi tặng ông, với những lời đề
tặng rất trân trọng khích lệ. Bác sĩ lúc đó trạc ngoại tứ tuần, khỏe
mạnh đẹp theo kiểu một người trí thức quen suy nghĩ. Bác sĩ là “bác sĩ
riêng” của Nam Phương hoàng hậu, và mỗi tuần bác sĩ vào hoàng thành để
thăm sức khỏe của bà Hoàng. Người ta kể nhiều chuyện về những buổi thăm
sức khỏe hoàng hậu của bác sĩ, vì nó kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Nhưng
hoàng hậu đủ khôn ngoan để không gây ra tăm tiếng; đã có một bà hoàng
hậu trước kia đã có con với quan khâm sứ. Dầu sao thì bác sĩ cũng gây
được cảm tình với giới trí thức, học sinh ở Huế, và cũng có góp phần làm
cho thành phố Huế có vẻ là một thành phố “trí tuệ” không thua gì Hà Nội
hay Sài Gòn. Nói về thời thượng tôi nhớ anh Hoài Thanh lúc đó cũng đã
dịch một bài văn dài Gide nói về văn học nghệ thuật đăng dày cả hai
trang báo Tràng An. Tất nhiên anh dịch đăng mấy trang này của Gide vì lẽ
nó rất phù hợp với quan điểm nghệ thuật của anh trong cuộc bút chiến
sôi nổi “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”. Lời văn
dịch của anh khá hay; chắc rằng anh đã gởi cái rung động của anh vào
mạch văn vốn đã xúc động của Gide.
Làm
quen với Hoài Thanh Như trên kia đã nói, sau khi xem bài của Hoài Thanh
viết về Thế Lữ, tôi có cảm bình với tác giả bài phê bình, vì tôi đoán
hiểu ở anh một tâm hồn tế nhị có rung cảm, và có phần nào đồng điệu với
những nhà thơ mới lúc bấy giờ. Tôi liền viết một bài nói về
Thế
Lữ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, bài bình luận văn học theo lối ấn
tượng, và tôi gởi cho anh Hoài Thanh. Thế rồi tờ báo Tràng An tuần liền
đó đăng bài của tôi với một lời giới thiệu ngắn khích lệ.
Tôi
lại gởi tiếp một bài bình luận quyển Tiếng suối reo của Khái Hưng. Bài
ấy cũng được đăng liền. Tiếp đó tôi không gởi những bài bình luận nữa mà
gởi vài bài thơ mà tứ thơ là những ước vọng, những hoài bão của một
thanh niên trước cuộc đời. Hai bài thơ này cũng được đăng trong hai số
báo. Tất cả các bài bình luận và thơ, tôi đều ký tên
Hán Quỳ, tức là lấy chữ Huy Cận sắp xếp lại. Cho đến đó, tôi vẫn chưa
gặp anh Hoài Thanh. Mùa hè 1936, tôi lại viết mấy bài bình luận văn
chương gửi đăng báo Sông Hương do Phan Khôi làm chủ nhiệm, và do Hoài
Thanh làm biên tập.
Lúc bấy giờ anh Sanh và anh Tám báo tôi nên đến thăm toà báo và hỏi
tiền nhuận bút. Tôi và Xuân Sanh một buổi chiều đến thăm toà soạn Sông
Hương, ở phố nào tôi quên mất (hình như ở phố Gia Hội). Anh Hoài Thanh
tiếp và nói chuyện với chúng tôi rất niềm nở, rất hợp “gu” chúng tôi với
những suy nghĩ về triển vọng phát triển của văn học nước nhà.
Nhưng
khi chúng tôi nói với những lời rào đón quanh co nêu vấn đề nhuận bút
thì anh cho biết là rất tiếc, báo rất nghèo, phải có sự ủng hộ mạnh mẽ
của người đọc và của cả người viết thì báo mới có thể tiếp tục ra đời.
Tóm lại báo đăng những bài của tôi như là những bài lai cảo. Tôi và Xuân
Sanh trở về tay không nhưng câu chuyện văn chương ở toà soạn cũng làm
chúng tôi nức lòng. Đó là mối duyên văn đầu tiên giữa tôi và anh Hoài
Thanh. Về sau này, trong kháng chiến chống Pháp, cũng như trong những
năm chống Mỹ cứu nước có nhiều điểm tôi chưa thống nhất với anh Hoài
Thanh về cách nhận định văn học nghệ thuật, về cách nhận định phong trào
thơ văn của ta về chức năng, nhiệm vụ của văn nghệ, của người văn nghệ
sĩ. Nhưng không phải vì vậy mà tôi quên cái êm ái, cái thân tình của
buổi đầu gặp gỡ. Với lại bên cạnh những quan điểm, những cách suy nghĩ
của anh mà tôi không đồng tình, anh cũng có những suy nghĩ mà tôi tán
thưởng sâu sắc, như khi anh nói về tấm lòng của Nguyễn Du đối với vận
mệnh của con người hoặc khi anh nói “Có một nền văn hoá Việt Nam”.
Khi tôi đang thực tập kỹ
sư ở đồn điền canh nông trên tỉnh Tuyên Quang (1941) thì tôi nhận được
quyển Thi nhân Việt Nam (trong đó bài anh viết về tôi rất đằm thắm,
thiết tha, sâu sắc biểu hiện một sự đồng cảm từ đáy lòng). Nhận được
sách, tôi đã thắp một nén hương để đọc, vì có cái câu của Nguyễn Du anh
để ở đầu trang sách làm tiêu đề Của tin gọi một chút này làm ghi. Tôi
đồng cảm sâu sắc với anh trong lòng tin đó, tin ở tiền đồ của tiếng
Việt, tin ở tiền đồ của nền văn học, của nền văn hoá nước nhà. Tên khai
sinh của anh là Nguyễn Đức Nguyên, nhưng anh lại đặt tên văn học của
mình là Hoài Thanh, chắc là với cái nghĩa nhớ tiếng, nhớ tiếng mẹ đẻ là
nỗi niềm chung của chúng tôi lúc đó.
Những bài thơ dịch của Song Nam Nguyễn Văn Thuộc
Trở
lại một chút về những năm học tiểu học, tôi đã làm quen với thơ lãng
mạn Pháp qua những bản dịch của Nguyễn Văn Thuộc đăng ở báo Thành chung
(Huế). Nguyễn Văn Thuộc dịch nhiều thơ của Lamáctin phần nhiều dịch theo
điệu song thất
lục bát, lời thơ trôi chảy, mà nhiều đoạn như là phóng tác, đọc lên
nghe réo rắt, có âm hưởng của câu thơ Việt Nam. Tôi nhớ nhất là bài Tình
hận đầu tiên bắt đầu bằng những câu sau đây:
Biển Sở Giang sóng cồn xanh biếc
Khách nhàn du ai biết chăng ai
Một non một nước một trời
Kia kìa trên bến mộ người cửu nguyên
Cây cam mọc một bên mộ chí
Đã một vừng ghi để ngàn thu
Qua chơi, hỏi khách giang hồ
Vạch vùng lau sẽ thấy mồ hồng nhan
Tuổi hai tám suối vàng sao vội
Khách xem bia khôn nỗi thờ than
Than hoa chưa nở đã tàn...
Ai run rủi cho ta tới đó
Để lòng này nhớ chỗ năm xưa
Giấc chiêm bao khéo hững hờ
Người xưa cảnh cũ bây giờ là đâu
Trong mây nước hạt châu tầm tã
Nỗi bi ai khôn tả nên lời...
Những
bài dịch như thế được lưu truyền trong các thầy giáo và đám học sinh,
gần như là những bài sáng tác Về sau này tôi tìm hiểu Nguyễn Văn Thuộc
là ai và ông có để lại một sáng tác nào không, hoặc một tập thơ
dịch đã xuất bản nào không, nhưng tôi chỉ được biết ông là một ông tham
tá công chính, làm việc đâu ở phía Nam Trung bộ, về sau sống ở đâu và
mất lúc nào cũng không ai biết.
Quả
thật, ở nước ta có truyền thống dịch hay dịch hay những bài thơ hay,
truyền thống đó bắt đầu từ bà Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm của ông
Đặng Trần Côn, và từ ông Phan Huy Vịnh dịch Tì bà hành của Bạch Cư Dị.
Có một bài dịch nữa mà tòi cũng cho là đạt, là bài thơ tình của Arvers
do Khái Hưng dịch, chắc nhiều người còn thuộc, nhưng tôi cũng xin ghi
lại đây:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm cơ hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây
Mà ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dám dễ một lần hé môi
Người thì ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khôi tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Gạn gùng lòng sẽ hỏi lòng:
“người đâu tả ở mấy dòng thơ đây”.
Nhân
đây, tôi cũng xin nhắc một điều, mà anh Xuân Diệu và tôi thường hay
trao đổi với nhau. Trong hàng trăm, hàng nghìn bài thơ thất ngôn bát cú
đăng trong báo Nam phong, phần lớn là bài dở, cũ mòn mòn lời, mòn tứ,
nhưng thỉnh thoảng cũng có đôi bài
thơ dịch hay. Có lẽ các nhà nghiên cứu văn học rồi cũng phải để công
tìm kiếm, cứu vớt những chút hay ấy khỏi bị mai một trong mớ bụi của
thời gian. Chẳng hạn như bài sau đây mà tôi còn nhớ 6 câu:
Thầy lý làng ta khăn mỏ rìu
Vườn trồng đầy ngô chưa thật nghèo
Chim vì thóc vãi quanh thềm đậu
Tre đón người quen trước ngõ reo
... ba thước lũ
... một ao bèo
Trúc xanh, cát trắng, vừng trăng nhạt
Tiễn khách bên sông ngán cảnh chiều
Nhân
nói chuyện dịch thơ, tôi cũng nhớ lần đầu tiên đọc bài thơ ngụ ngôn Con
ve và con kiến của La Phongten do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, bài dịch hay
đến nỗi có thể tường là nguyên tác của ông Vĩnh. Sau đó tôi đọc lại La
Phongten trong nguyên tác tiếng Pháp so sánh nguyên văn và bán dịch mới
càng thấy tính sáng tạo của bản dịch, và càng thấy cái thần của tiếng
Việt ta, và tôi cứ nghĩ nếu La Phongten sinh ra là người Việt Nam thì
chắc ông ta làm thơ ngụ ngôn bằng tiếng Việt cũng hay bằng thơ tiếng
Pháp của ông, và biết đâu lại không có phần lý thú hơn. Ông Nguyễn Văn
Vĩnh cũng đã dịch Ba người ngự lâm pháo thủ của A. Dumas rất đạt; bởi có
nhiều đoạn ông dùng lối phóng tác, giúp cho người đọc dễ cảm thụ cái
hay của câu chuyện. Tôi nhắc nhiều câu chuyện dịch văn dịch thơ vì tuổi
nhỏ của tôi đã được hưởng nhiều bài dịch hay... Dịch hay là một sự tái
tạo, một sự giao cảm.
Tìm gặp Thế Lữ ở hội chợ Huế
Gần
Tết năm 1934, ở Huế có mở hội chợ gần Viện dân biểu, bên bờ sông Hương.
Có một tin làm cho chúng tôi náo nức, là nhà thơ Thế Lữ sẽ vào thăm hội
chợ. Lúc bấy giờ chúng tôi đã đọc các bài thơ của Thế Lữ đăng trên báo
Phong hoá, và lúc đó tập Mấy
vần thơ của Thế Lữ cũng vừa mới phát hành. Một bạn đọc lớp tôi đã đặt
mua được một bản Mấy vần thơ giấy đẹp (giấy De Rives), giấy trắng, xốp
rất đẹp. Quyển Mấy vần thơ là quyền đầu tiên trong loại sách mỹ thuật
của nhà xuất bản Đời Nay, do kỹ sư ấn loát Đỗ Văn trình bày, và do hoạ
sĩ Trần Bình Lộc minh hoạ.
Xuân
Sanh và tôi suốt cả một buổi chiều đi đi lại lại trong hội chợ cốt để
gặp cho được Thế Lữ, để chào anh, để nói với anh vài lời, tỏ lòng hâm mộ
của chúng tôi Không khí hội chợ gần Tết rất phơi phới, có cái gì như
xui lòng người ta rạo rực, nghĩ đến những tình duyên đẹp, những cuộc hội
ngộ đằm thắm. Rồi xế chiều Thế Lữ đi vào hội chợ, đi theo có vài người
bạn.
Thế Lữ lúc đó còn trẻ lắm,
nhưng như anh đã nói trong một bài thơ, Nỗi gian truân trên bước đường
đời đã làm cho nét mặt anh có một vẻ trầm tư xa hơn cái tuổi của anh.
Bọn tôi ngắm anh từ đôi mắt
nhìn thắng mà vẫn mơ mộng, đến hai bàn tay thon như bàn tay của các cụ
đồ ngày xưa, đến dáng đi rất nhẹ của anh với thân hình mảnh dẻ, dáng đi
như lướt trên đường, không nghe tiếng chân ấn xuống đất. Chúng tôi chào
Thế Lữ, không nói được gì nhiều, một phần vì chúng tôi cảm động, một
phần vì anh cũng có vẻ phải đi vội. Nhưng anh cười với chúng tôi một
cách rất bè bạn, tỏ ý thông cảm lòng yêu văn thơ của chúng tôi. Sau này
gặp lại Thế Lữ ở Hà Nội, tôi có nhắc việc chúng tôi đi lùng tìm anh ở
hội chợ Huế thì anh nói có nhớ mang máng hai chàng học sinh đến đón anh,
và nhớ mãi cái ấn tượng lòng say văn thơ của thanh niên, học sinh ở
Huế. Trong chuyến đi thăm Huế lần này, anh đã nảy cái tứ làm bài thơ
Nghe đàn nguyệt trên sông Hương, một trong những bài thơ hay của anh,
xin nhắc qua đây mấy câu:
Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng
Tiếng bi ai như vẽ hình cay đắng
Của những chia phôi, thương tiếc, đợi chờ
Trong bao thiên tình sử não nùng xưa...
Thuốc độc êm đềm, ôi! Giọng đàn kiều mị,
Bời vì đâu gieo mãi xuống lòng ta
Những giọt nồng cay, tê tái, say sưa...
Quen Tế Hanh
Tế Hanh cũng học ở trường
Quốc học, nhưng sau tôi ba lớp, (tôi ở đệ nhất niên ban tú tài, thì Tế
Hanh mới ở đệ nhị niên ban thành chung). Tế Hanh cũng bắt đầu làm thơ từ
đó, và biết tôi có làm thơ nên tìm gặp tôi, ở trong trường, và nhất là ở
nhà trọ của tôi năm tôi học đệ nhị tú tài, phải đi làm gia sư, sau khi
bị cắt học bổng (vì đi đón Gô-đa). Thường buổi chiều đi học về, chúng
tôi hay đi dạo trên con đường Khải Định, hai bên đường trồng cây hoa
phượng, lúc gần hè hoa phượng nở từng chùm đỏ rực, cả một lùm cây đỏ
rực, hoa phượng hồn của mùa hè xứ Huế, náo nức mà nhớ nhung: Rưng rưng
hoa phượng màu thương nhớ, và Tưng bừng lựu đỏ trà non nớt, - Chắc nắng
chiều qua phượng nở rồi.
Tế Hanh làm được
bài thơ nào thường có đem cho tôi xem và nhờ tôi góp ý kiến. Tôi cũng đã
góp ý cho Tế Hanh sửa chữa một số câu thơ, một số bài thơ. Tất nhiên là
tôi chỉ gợi ý, và Tế Hanh tự sửa chữa lấy. Tôi nhớ những gợi ý chủ yếu
của tôi là làm sao cho bài thơ gọn lại, làm sao tăng sức khêu gợi của
những câu thơ, do đó nên chọn những từ có nhiều âm hưởng trong tâm tình
người đọc, những từ có mang sức vang động bên trong tâm hồn. Chúng tôi
bàn với nhau nhiều về cách biểu hiện mới trong thơ, biểu hiện mới để nói
được tứ mới, nhưng lại phải được biểu hiện thế nào để dính với truyền
thống cảm xúc của dân tộc. Chúng tôi say sưa bàn cái hay của những câu
thơ Kiều, cái sức khêu gợi của câu thơ lục bát Nguyễn Du. Chúng tôi ngạc
nhiên tại sao câu thơ của Nguyễn Du cứ mới thế, cứ trẻ thế, dường như
Nguyễn Du sáng tác ở thời đại chúng' ta, như cảm xúc ở thời đại chúng
ta. Chúng tôi cũng thán phục cái tài dùng chữ của bà Đoàn Thị Điểm trong
bản dịch Chinh phụ ngâm. Những câu như: Ngòi đầu cầu nước trong như
lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non và câu: Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi câu Vị ào ào gió thu cứ làm chúng tôi tấm tắc mãi. Bài học nghệ
thuật của cha ông gắn bó chúng tôi.
Kỷ niệm về nhà thơ Phạm Hầu
Phạm
Hầu là con vị thượng thư Phạm Liệu của triều đình Huế. Phạm Hầu cũng
học ở trường Quốc học, sau tôi 2 lớp. Lúc học đệ tứ niên thành chung
Phạm Hầu đã làm thơ, và đã có đăng một số bài ở tạp chí Tao đàn hồi đó.
Phạm Hầu thường hay trao đổi bàn chuyện thơ với tôi ở trong trường, sau
giờ học buổi chiều, trước giờ ăn cơm. Anh người mảnh dẻ, giọng nói rất
nhẹ, gần như nói thầm, nhưng thỉnh thoảng cũng cười to lên, khi gặp một ý
thích thú tâm đắc. Mắt Phạm Hầu như nhìn xa đi đâu, không phải là khóe
mắt mơ mộng thường gặp ở các thiếu nữ mới lớn lên, mà là nét nhìn xa
vắng, xa trong tưởng tượng của anh, và vắng với cảnh vật trước mắt. Tôi
rất mến anh, quí anh. Hồi tôi
ra Hà Nội học Trường cao đẳng Nông lâm, anh cũng ra học Trường cao đẳng
Mỹ thuật. Anh ở phố Bôvet (nay là phố Yết Kiêu), số nhà 32, trên gác.
Tôi thường đến thăm và đàm đạo thơ ca với anh. Chúng tôi rủ nhau đi thăm
cảnh chùa Hương, đi lễ đền Hùng. Và khi tôi thực tập kỹ
sư canh nông ở đồn điền Tuyên Quang (1941), thì anh lên chơi với tôi 1
tuần và dịp ấy anh làm được hai bài thơ mà hiện nay tôi còn giữ bản chép
tay nguyên bản của anh. Phạm Hầu thường tâm sự với tôi: “Cận đã có tập thơ
Lửa thiêng và đang có đà làm thơ, đáng mừng cho Cận. Còn mình thì chưa
biết sao đây? Phải có sự nghiệp gì trước tuổi 30, nếu không thì chả sống
làm gì?” Rồi anh say sưa vẽ, thỉnh thoảng làm thơ, trong vẽ, trong thơ
anh cốt tìm lý tưởng. Dạo ấy anh có vẽ một bức tranh tặng tôi, tranh
theo lối lập thể. Trung tâm bức tranh là một cái quạt mở rộng (lấy ý
“lòng anh mở với quạt này” trong bài Ngậm ngùi của tôi), và xung quanh
chiếc quạt là chim, bướm, cây cỏ, mây cuốn ráng chiều, có cả thấp
thoáng, ẩn hiện những hình thiếu nữ lẫn với hoa lá, như từ hoa lá mà nở
ra. Rồi dần dần tôi thấy anh hao gầy đi, mắt đôi khi
như lạc đi, có nét ngơ ngác. Đầu năm 1942 tôi vào Sài Gòn học nốt học
kỳ chót của trường Kỹ sư canh nông, thì được tin anh đã bị điên, và
người ta đã đem anh vào nhà thương Vội ở Bắc Giang (nhà thương điều trị
những người điên). Mặc dù người anh ruột hết sức chăm sóc anh, bệnh tâm
thần của anh không khỏi và anh đã mất tại nhà thương năm 1942, vào tháng
nào tôi không nhớ rõ, và gia đình đã đem thi hài anh về chôn ở Huế, gần
chùa Từ Đàm. Người yêu của anh là một nghệ sĩ đánh đàn tranh rất hay
nhưng tiếng đàn yêu thương ấy cũng không đủ sức bồi lại sức sống cho
anh, không đủ sức lập lại sự cân bằng trí não cho anh. Phạm Hầu đã điên,
nhưng không phải cái điên thường, mà là điên vì đi tìm lý tưởng mà tìm
không ra, rồi tắc nghẹn tâm tư, loạn cuồng trí tuệ. Phạm Hầu si tình thì
được người yêu yêu lại thắm thiết. Nhưng Phạm Hầu si lý tưởng thì khổ
cho anh. Anh đã bị cái chất điên nó ngấm vào anh năm này qua năm khác,
còn hơn là bệnh ung thư gặm nhấm tế bào.
Nhớ thương Phạm Hầu, tôi đã tạc anh thành người “thanh niên điên vì lý tưởng” trong bài thơ sân khấu Người thợ ảnh (trong tập Bài thơ cuộc đời), xin trích ra đây đoạn thơ nói về anh:
Người điên (nói với bác thợ ảnh già):
Tôi đã chết, tôi cũng về thăm bác.
Tôi chết điên, hồn không lìa khỏi xác
Nên tôi còn tha thẩn mãi trần gian.
Bác nhớ không, cứ mỗi buổi chiều vàng
Tôi vác giá ra ngoại ô đứng vẽ
Mặt trời lặn, và vẽ hồn tôi xế...
Thuở ấy tôi học đàn, đàn không đủ bình tâm,
Nhạc không dủ yên hồn, tôi đi vẽ ba năm,
Trộn hết sắc màu không thấy màu lý tưởng.
Người yêu tôi đánh đàn tranh, âm hưởng
Gọi hồn tôi tỉnh về như chị gọi em thơ,
Như tiếng quê hương gọi kẻ giang hồ...
Bên người yêu tôi thấy hồn quang tạnh
Nhưng giữa phút yêu đương có khi hồn trắng lạnh.
Tôi lại ra đi tìm tuyệt đích đời tôi.
Tuyệt đích đâu. Tôi hoá điên rồi
Điên thấm vào tôi như dòng nhựa độc...
Người yêu tôi chỉ còn ôm đàn khóc;
Nhưng khóc, em ơi! Không cứu được đời anh...
Bác nghe không? Có tiếng đàn tranh
Đang nức nở, run từng dây máu đỏ...
Phạm
Hầu chết đã 44 năm, mà tôi nhớ anh rõ mồn một: cái dáng đi của anh rất
nhẹ, lời anh thỏ thẻ, mắt anh xa vắng... Tôi ghi mấy dòng kỷ niệm nhớ
anh, thương anh, tiếc hồn thơ tế nhị của anh chưa đủ tháng năm để nở hết
hương sắc. Phạm Hầu đi qua đời như một cái bóng, cái bóng trong quá,
nhẹ quá không đậu bám được ở cuộc đời, như “du khách giây phút dừng chân
Vọng hải đài”. Nhưng mấy vần thơ ít ỏi mà anh để lại vẫn còn in dấu
trong thơ ca:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng đội gót vân hài
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ra vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai.
(Vọng hải đài)
Một kỷ niệm về anh Lưu Trọng Lư
Lúc
đó (1940) tôi và anh Lư cùng ở số nhà 40 Hàng Than, Hà Nội. Tôi ở trên
gác cùng một số bạn sinh viên, anh Lư ở dưới nhà với chị Lư (tức là chị
Thanh Thuỷ, người vợ đầu của anh) và cháu Hải. Lúc này anh Xuân Diệu đã
vào Mỹ Tho làm tham tá nhà Đoan. Một chiều thứ sáu tháng 10 (hoặc tháng
9) tôi vừa đi học ở trường đại học về, vừa đặt chiếc xe đạp ở cầu thang,
đang lên gác, thì anh Lư bước vội lên gọi tôi: “Huy Cận ơi? Hay lắm,
thú lắm? Đi ngay với mình!”.
- Cái gì thế?
- Bài thơ Tràng giang của cậu đã đăng ở báo Ngày nay, hay tuyệt!
- Thế à? Tôi chưa được xem báo...
-
Đăng rồi! Chiều nay, ông Ngô Tất Tố cùng xem với bọn mình, ông Tố rất
khoái và thốt lên: “Giọng thơ Đường, thịnh Đường, mà hay hơn thơ
Đường!”...
Tôi nói:
- Ồ thế thì thích quá...
Anh
Lư rủ tôi: “Bây giờ Cận đi với mình đến hiệu Xuân Nghi (phố Hàng Quạt)
ăn bữa phở ngon, mừng bài thơ của Cận”. Tất nhiên là tôi đi, với cái
phấn khởi trong lòng, được bạn thơ tán thường, cổ vũ mình và với cơn đói
nữa, vì trưa hôm ấy tôi ở lại trường không về ăn cơm trưa ở Pôpốt. Hai
anh em đạp xe đến hiệu Nghi Xuân, anh Lư dõng dạc gọi phở tái gầu, rồi
lại phở xào với cải làn... Anh Lư có uống tí rượu, còn tôi thì không
uống được rượu, chỉ uống nước chè. Anh Lư vừa ăn vừa hào hứng bình luận
thêm bài Tràng giang, anh say sưa bàn như là thơ của anh, tôi nghe cảm
động. Rồi chúng tôi bàn đến nền thơ nói chung, bàn đến cái hay của tiếng
Việt, đến cái cô đọng của thơ phương Đông... Rồi anh Lư gọi người hầu
bàn tính tiền để anh trả. Anh sờ túi ngoài, túi quần, túi ngực đều không
có ví tiền, cả túi trong của áo vét tông cũng không có... Thì ra anh
quên mang tiền, theo tính đãng trí “truyền thuyết” của anh (người ta còn
bảo anh quên cả số con của mình!). May mà tôi vừa lãnh học bổng, nên
không phải chịu nợ hiệu phở “Nghi Xuân”.
Rồi
hai anh em vẫn chưa hết cơn hào hứng, anh Lư rủ tôi đi thăm chùa Bích
Câu, gần Văn Miếu. Tôi nhớ tối hôm ấy trăng mờ, trăng lu thì đúng hơn,
cái ánh trăng rất hợp với việc khêu gợi những truyện xưa, những truyền
thuyết dân gian, rất hợp với câu chuyện tình nửa trần, nửa tiên Bích Câu
kỳ ngộ. Hai chúng tôi dạo hồi lâu
trong sân chùa, đọc thơ xưa, thơ nay, càng thấy cái hồn xưa của cha ông
đẹp quá, đằm thắm quá. Tôi nhớ tôi còn đọc cho anh Lư nghe bài thơ Hồn
xa của tôi trong đó có mấy câu:
Tự buổi tiên đi, sầu cũng nhỏ
Nhân gian thôi nhớ chuyện trên trời
Đại bàng vỗ cánh muôn năm trước
Ai biết trời xưa rộng mấy khơi...
...
Bích Câu đâu nữa bóng chàng Uyên
Sông núi thô sơ bặt tiếng huyền
Có lẽ hồn ta không đẹp nữa
Nét thần thôi hoạ bức thiên duyên.
Anh Lư và tôi còn ở chung nhà Hàng Than một năm nữa. Cũng cuối năm 1940, anh cho ra tập thơ Tiếng thu, và tôi cho ra tập Lửa thiêng, hai anh em cùng mừng cho nhau đứa con đầu của sự nghiệp văn chương (con đầu về thơ, vì anh đã cho ra tập Người sơn nhân từ năm 1933).
Kỷ niệm về Thạch Lam
Thạch
Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân là em trai Nguyễn Tường Tam (tức là
Nhất Linh). Thạch Lam đậu tú tài toàn phần (tú tài tây), rồi chuyên làm
báo và viết văn, không như Hoàng Đạo làm tham tá, hoặc Tường Bách là bác
sĩ. Thạch Lam người gầy, mặt xương xương, mùa đông hay đội mũ dạ mốt
xăng, vành bẻ cụp xuống. Anh thường đi bộ từ nhà đến toà báo Ngày nay, ở
số 80 đường Quán Thánh. Nhà anh là một ngôi nhà nhỏ, mái gianh, vách
toóc-si ở sát bờ Hồ Tây, ngay bên cạnh đình Yên Phụ, mùa hè khá mát, mùa
đông thì rất rét, gió hồ thổi vào từng hồi lạnh
buốt. Nhưng Thạch Lam thích ở đó hơn là ở phố, một phần vì đấy là cái
nhà, miếng đất do anh dành dụm mà tạo được. Nhưng cái chính là vì ở đó
hợp với tính tình của anh thích yên tĩnh, thích sống gần thiên nhiên; và
dường như sống giữa xóm nghèo, gần gũi những người bình dân mà anh có
cảm tình là một điều thoải mái mà anh tìm kiếm.
Trong
số mấy anh em Nguyễn Tường, anh là nhà văn gần gũi nhất với những người
nghèo. Mà bản thân anh cũng nghèo, vợ anh cũng nghèo phải buôn bán tần
tảo, không như Hoàng Đạo mà vợ là con nhà tư sản giàu có.
Tôi
thường gặp Thạch Lam tại toà soạn Ngày nay vào buổi chiều, lúc tôi đi
học về, và cũng là lúc anh đến toà báo để đưa bài hoặc đi chữa bài. Tôi
thích nhất là ngồi nghe anh đánh đàn tam thập lục trong một phòng xép
bên cạnh phòng họp của toà báo, phòng xép này nhìn ra đường Quán Thánh,
có bóng mấy cây bàng che mát.
Tiếng
đàn anh thánh thót, hai cần tre nẩy trên những dây đồng vang lên một âm
hưởng rất tình cảm; dường như mỗi lần anh cứ đánh đi đánh lại có vài bài
ấy thôi nhưng tiếng đàn anh đánh rất nội tâm, chứ không phải chỉ quen
tay, quen điệu. Đánh đàn xong anh rít một điếu thuốc lào, người hơi ngả
ra phía sau trên lưng ghế mắt mơ màng một hồi lâu.
Thạch Lam tỏ ý rất thích thơ tôi, cho là hợp với tâm hồn anh, hợp với
điệu cảm xúc của anh. Thế rồi một hôm gần Tết anh mời tôi đi ăn ở hiệu
Mỹ Kinh, một hiệu Tàu khá sang hồi đó.
Đối với tôi đó là một điều thích thú, ít khi được vào hiệu ăn ngon và
sang, vì anh đâu có nhiều tiền, bữa ăn thết bạn đồng nghiệp như vậy có
lẽ cũng mất đi nửa nhuận bút của một cái truyện ngắn. Thạch Lam nói
chuyện thỏ thẻ dường như e lệ, mắt nhìn chứa đầy cảm tình miệng mỉm cười
rất tươi với đôi môi
đỏ thắm. Thạch Lam rất sành ăn, sành các món ăn dân tộc mà anh đã mô tả
một cách tinh vi và đầy chất thơ trong cuốn Hà Nội 36 phố phường. Vừa
ăn anh vừa giới thiệu cho tôi biết các đặc sản của Hà Nội, của từng phố,
thậm chí của cả người bán rong các món ăn bình dân, như cháo lòng, bún
ốc, mà anh quen. Anh còn nói chuyện nhiều với tôi về Hà Nội cổ, về Thăng
Long ngày xưa, vì anh biết tôi ra ở Hà Nội chưa bao lâu và cũng có tấm
lòng quí những gì là di sản của cha ông. Lúc tôi tập hợp các bài thơ đã đăng báo và chưa đăng báo để in thành tập Lửa thiêng, tập thơ
đầu của tôi, Thạch Lam ngỏ ý muốn viết tựa cho tôi. Đó là một lời ngỏ ý
trân trọng với tình cảm quí mến nhau rất chân thật. Tôi hơi khó xử.
Nhưng khi tôi nói là anh Xuân Diệu đã chuẩn bị viết tựa Lửa thiêng từ
lâu rồi, thì Thạch Lam hiểu ngay đó là điều tự nhiên, “tất yếu', không
hề phiền lòng.
Các
bài thơ của tôi in trên báo Ngày nay, anh đọc thích thú và thường bình
luận. Tôi còn nhớ về bài Tràng giang, anh rất thích thú với cái không
khí rộng lớn bát ngát có khi được mô tả bằng cái nhỏ bé, như trong hai
câu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Tôi
đã tặng anh bài Đi giữa đường thơm vì cảm thấy bài đó rất hợp với tâm
hồn anh. Còn mỗi khi anh ra sách, anh đều tặng tôi, với một cái tên ký và
chữ M ngoắt lên được vẽ thành một cây nến đang cháy. Tất nhiên đó là
một cách chơi bút của nhà văn nhưng không hiểu vì sao tôi cứ nghĩ đến
những cây nến trên các áo quan khi sắp đưa đám... Thạch Lam mắc bệnh ho
lao, gia đình hết sức chạy chữa nhưng lúc đó bệnh này là bệnh nan y; anh
chết năm 1942 trong cảnh nghèo, mới 33 tuổi.
Làm báo Thanh niên
Năm
1942, sau khi tôi tham gia hoạt động Việt Minh, tôi vào Sài Gòn cùng
một nhóm bạn sinh viên như anh Lưu Hữu Phước, anh Đặng Ngọc Tốt anh
Huỳnh Văn Tiểng, anh Huỳnh Bá Nhung, tham gia làm báo Thanh niên mà anh
Huỳnh Tấn Phát chủ trì, và bỏ tiền ra in. Anh Xuân Diệu cũng tham gia
viết bài cho báo. Mục đích của tờ báo là gợi lòng yêu nước cho thanh
niên, nhắc lại những truyền thống vẻ vang của cha ông, truyền thống
chống ngoại xâm, truyền thống văn hoá độc lập. Tôn chỉ mục đích thì như
thế, nhưng cách viết bài thì phải khéo léo, phải viết nhiều bằng ẩn dụ,
và xen vào những bài vô thưởng vô phạt trên báo Thanh niên này, Xuân
Diệu cũng vậy. Tôi còn nhớ cũng trên báo này, chúng tôi đã cho đăng một
bài thơ mà chúng tôi rất thích của anh Huỳnh Văn Nghệ, mở đầu bằng bốn
câu sau đây:
Ai đi về Bắc, ta theo với
Thăm lại giang sơn giống Lạc Hồng
Tự buổi mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long...
Bài
thơ có tiếng vang trong thanh niên trí thức của Sài Gòn lúc bấy giờ, và
tờ báo tuy số in ra không nhiều cũng có tiếng vang, làm chúng tôi phấn
chấn định mở rộng ảnh hường của tờ báo, chạy thêm tiền để in nhiều hơn,
tìm thêm đại lý thì tờ báo bị đóng cửa. Tính ra báo mới ra chưa được 10
số nhưng nó là một hoạt động hào hứng của chúng tôi. Gần đây tôi được
biết một bạn Việt kiều ở Bỉ chuẩn bị làm một luận án về tờ báo Thanh
niên này, xem đó là một tờ báo có tác dụng trong giai đoạn ấy.
Đến gặp anh Hoàng Xuân Hãn
Tháng
4-1942, sau khi tôi đã tham gia hoạt động Việt Minh, một hôm tôi đến
gặp anh Hoàng Xuân Hãn tại nhà ở phố Tràng Thi bây giờ. Dưới nhà là hiệu
thuốc tây của chị Hãn. Tôi gặp anh Hãn ở trên gác, có hẹn trước. Anh
Hãn vốn là thầy dạy toán của tôi ở Trường cao đẳng Nông lâm, anh dạy
toán cao cấp khi tôi học năm thứ nhất của trường cao đẳng.
Tôi
có cảm tình với anh, không phải chỉ vì tình thầy trò, mà vì tôi đặc
biệt cảm tình với tờ báo Khoa học mà anh chủ trì, với sự tham gia của
các anh Tạ Quang Bửu, Nguyễn Xiển, Nguỵ Như Công Tum... nhóm báo Khoa
học có một mục đích rất rõ rệt là tạo ra, là chuẩn bị một tiếng Việt Nam
khoa học, khả dĩ truyền bá tất cả các kiến thức khoa học, kỹ thuật cho
đồng bào ta bằng tiếng nước nhà, không phải nhờ tiếng nước ngoài nào
nữa. Tinh thần và mục đích, tôn chỉ của nhóm có thể nói là tập trung
nơi anh Hoàng Xuân Hãn, người đã tự một mình làm ra quyển Danh từ khoa
học đầu tiên của nước nhà. Vì tôi đoán hiểu ở anh một tinh thần dân tộc
nồng nàn, nên tôi đến gặp anh để thăm dò anh, có thể mời anh tham gia
hoạt động với chúng tôi trong Mặt trận Việt Minh, dưới một hình thức này
hay hình thức khác không. Gặp tôi anh rất niềm nở tiếp chuyện, với cả
tình đồng hương nữa, vì cả hai chúng tội đều là người Hà Tĩnh. Trong
gian phòng rộng, nơi anh tiếp tôi có hàng tủ sơn màu đen, có rất nhiều
hộc, là những ô hồ sơ nghiên cứu của vị giáo sư. Điều đó cũng tăng thêm
cảm tình của tôi đối với anh. Tôi gợi ý rõ ràng chuyện muốn mời anh tham
gia hoạt động bí mật với chúng tôi, ngụ ý rằng uy tín của anh khá lớn
trong đám sinh viên trí thức, nếu anh tham gia thì có thể lôi kéo thêm
nhiều người, hoặc là làm một thứ hậu thuẫn cho chúng tôi dễ hoạt động.
Anh nói hết sức cảm động được anh em thanh niên tín nhiệm anh mà tìm đến
anh vì việc nước, việc dân như thế này, và anh hoàn toàn ủng hộ những
hoạt động yêu nước của anh em, trong khi vận nước có thể có những biến
chuyển. Nhưng, anh nói anh đã hơi có tuổi, xin để cho anh đứng phía sau
làm vai trò ủng hộ, còn xông ra hoạt động phía trước thì để nhường cho
anh em trẻ tuổi còn sức, đang lòng hăng hái... Nhưng anh em có thể tin
cậy ở sự ủng hộ tinh thần phía sau của anh và những người như anh.
Tôi cáo từ ra về, được anh tặng một quyển Danh từ khoa học mà tôi còn giữ cho đến ngày nay, mà tôi vẫn quí.
Một năm làm gia sư
Như
một đoạn trên đã kể, cuối năm học đệ nhất niên tú tài (tháng 4-1937)
tôi bị cắt học bổng vì đi đón Gô-đa (Justin Godart). Vì thế lên năm thứ
hai, tôi không còn được ở nội trú trong trường Quốc học, mà phải đi làm
gia sư để có thể tiếp tục học. Tôi đến ở nhà bác sĩ B. D., nhà là một
biệt thự giữa một khu vườn rộng, có trồng mấy cây dừa, có nhiều cây cao
bóng mát. Đặc biệt có một cái giếng rất sâu, nước rất trong, những đêm
hè, tôi tha hồ tắm và giặt quần áo và ngắm bóng trăng ở đáy giếng... Tôi
được bố trí ở một cái phòng con sát liền với ga-ra, vì bác sĩ B. D. có
một ô tô riêng để đi khám bệnh. Cái nhà lớn, nơi ông bà chủ và gia đình
ở, thì thỉnh thoảng tôi mới lên để lấy sách vở quí hoặc vài thứ vật dùng
tôi cất trong cái rương mà tôi gởi ở phòng ăn. Học trò của tôi là một
cậu con trai học dốt, một cô con gái chăm học nhưng không sáng dạ lắm,
và một cậu con út khôi ngô và khá thông minh. Tôi phải dạy ba học trò
của tôi bằng ba thời khắc biểu khác nhau; còn ngày chủ nhật thì tôi để
cả buổi sáng để dạy toán và Pháp văn cho cả ba đứa. Vợ chồng bác sĩ cũng
biết là hai con của mình dốt, nên thường động viên tôi cố gắng dạy thêm
giờ.
Nhưng có điều không ngờ là cuối năm kết quả học tập của
ba học sinh đều tốt, ngoài cả dự kiến của gia sư. Hai đứa con đầu của
bác sĩ thì học trường trung học Tây ở Hà Nội, một cậu thông minh, còn
cậu cả thì cũng thường thường bậc trung. Đến Tết về nhà hai cậu công tử
ăn diện lắm, nhưng nói thật gặp tôi cũng nể, không dám lên mặt, một phần
vì biết tôi học giỏi, phần nữa là tôi đã bắt đầu nổi tiếng trong đám
trí thức học sinh Huế với những bài thơ của tôi đăng khá đều trên báo
Ngày nay. Nhưng mà tôi cũng hơi thèm những đôi giày da của hai cậu công tứ này có đôi là đóng mới, cũng có đôi mua giày cũ chữa lại nhưng đối với tôi vẫn là sang và quí. Lúc đó đi học tôi chỉ đi một đôi giày
làm bằng săm bánh xe hơi dán lại màu đỏ gạch, mùa đông thì ấm chân,
nhưng mùa hè thì bí hơi, cứ phải rửa chân luôn. Các cô học sinh trường
Đồng Khánh gặp tôi thì mỉm cười, có lẽ vì có cảm tình với nhà thơ trẻ,
nhưng có lẽ cũng vì thấy đôi giày ngộ nghĩnh, độc đáo của tôi. Tôi không muốn lập dị, nhưng cực chẳng đã tôi phải đi đôi giày cao su đỏ đến hết năm thứ hai tú tài. Vừa rồi có anh bạn trước cùng học ở Quốc học gặp tôi lại nhắc “chàng thi sĩ đi đôi giày
đỏ” trên đường Khải Định... Bên cạnh phòng tôi ở có một cây ổi, có mấy
cành là là, có thể mắc võng nằm, có thể đánh đu... Với cái thói quen có
từ thuở nhỏ, tôi hay ra ngồi trên cây ổi đọc sách, làm thơ và nhất là
những đêm trăng sáng, tôi nằm trên cành ổi nhìn mấy ngọn lửa sáng loáng
của nhà tôi ở và của vườn bên cạnh. Bên đó có mấy cô nữ sinh trường Đồng
Khánh thỉnh thoảng lại cất cao tiếng hát, hát mấy bài hát trong các
phim Pháp hồi đó.
Chẳng
biết có tình ý gì không, mà thường khi tôi ra nằm ở cây ổi đọc sách
hoặc làm thơ thì lại được nghe tiếng hát vườn bên kia cất lên sau những
lá dừa... Bà chủ nhà có một cô em gái khá đẹp, mà nhất là có duyên,
thỉnh thoảng đến thăm các cháu tức là học sinh của tôi và cũng nói
chuyện với thầy, nói chuyện thơ văn, cũng tỏ ý có cảm giác rằng cái cầu
đã được bắc, nếu tôi đi tới một bước thì có thể đã thành duyên thành
nợ... Nhưng không hiểu tại sao, bước ấy tôi không đi, và mối cảm tình cứ
lửng lơ, không chín thành tình cảm được. Về sau này tôi biết người con
gái ấy đã có một cuộc đời tình duyên rất đau khổ gần như tủi nhục, đến
nỗi có lúc cô ta muốn tự tử. Được tin, tôi bàng hoàng và tự nhiên cảm
thấy tôi có một phần trách nhiệm trong sự đau khổ của người đẹp xấu
số...
Nhưng kỷ niệm sâu sắc
nơi vườn dừa cây ổi của tôi lại là bà chị của bà chủ nhà, lúc đó đã gần
50 tuổi mà vẻ người còn duyên dáng, mượt mà. Cái giọng nói Huế vốn đã êm
ả, trữ tình, mà riêng cái giọng của bà chị này lại càng êm thấm, càng
nội tâm. Bà ta nói chuyện với tôi hoặc với bất cứ ai khác mà cứ tưởng
như bà tự nói với mình. Mắt bà rất đẹp, nhiều lúc như ngẩn vào trong, đôi lông mày cứ nhíu nhíu lại, chắc hồi trẻ
cái nhíu lông mày đã làm chết điếng nhiều chàng trai. Dần dần tôi mới
hiểu bà thất tình, và bà đến cây ổi của tôi bà ngồi lên cành, hai tay
nắm hai cành con đu đưa như đưa võng, rồi khe khẽ hát những bài ca Huế,
nhất là điệu Nam bình buồn sâu lắng...
Tôi
đã gặp nhiều người điên, nhưng chưa bao giờ thấy một người điên lại
biết điều như bà, thật ra bà ngẩn đi vì tình hơn là điên, bà sống bằng
kỷ niệm mà không sống bằng hiện tại, bà thuộc vào loại người mà thiên hạ
gọi là si dại. Thỉnh thoảng bà tự nói một mình, nói mạch lạc, lời trau
chuốt, làm cho tôi nghĩ rằng những màn độc thoại trong sân khấu cổ điển
của các nước là hiện thực, là rút từ trong đời chứ không phải là một ước
lệ của các thầy tuồng. Sống với những người bình thường, có trí não
lành mạnh tôi hiểu được nhiều về cuộc đời, nhưng tiếp xúc với những
người điên, người si, dường như tôi được hiểu bổ sung về cuộc đời, về sự
sống, vì đây là một thứ toán ảo giác, làm bằng những ảo số.
Một
năm làm gia sư cho tôi được hiểu nhiều về tính cách của nhiều con
người, của ông bác sĩ quá thực tế, cứ muốn dạy con sống theo các nhân
vật của Marcel Pagnol, những nhân vật rất “thực dụng chủ nghĩa”, cố vụ
lợi vật chất, xem đời sống tinh thần, văn hoá là một thứ xa xỉ thậm chí
là không tường... Được biết tính tình bà chủ nhà thương con, lo sắm đủ
thứ cho con, nhưng không dám tiêu pha gì cho mình, và chắt bóp từng xu
đối với bà con thân thích. Hai vợ chồng sống rất tương đắc trong cách
quản lý gia đình, trong cách đối xử với họ hàng nhưng dường như đời sống
nội tâm của họ có một khoảng trống, đó là điều tôi đoán hiểu nhưng cũng
được xác định qua câu chuyện của bà chị thất tình và của cô em gái...
Còn tâm lý của ba đứa học sinh của tôi thì chưa có gì đáng nói, mà tôi
cũng không thèm để ý. À, mà cũng đáng nhắc điều này: cái cậu con trai
học dốt cứ cười tôi là thầy quá mơ mộng quá ảo tưởng... “cuộc đời nó
không đẹp như thầy tưởng đâu? Cuộc đời nó như trong các vở kịch của
Pagnol ấy!”. Ông bố đã đúc cậu con theo cái khuôn của ông không sai một
ly. Có điều nói thế thì nói, chứ trò vẫn trọng thầy và nể thầy. Xã hội
vẫn còn cho phép có những người mơ mộng, có những người không tưởng cậu
học trò quá thực dụng của tôi cũng dần dần hiểu ra điều đó.
Sau
này, trong thời gian chống Mỹ cứu nước, tôi có hỏi thăm tin tức về gia
đình ông B. D. thì được biết hai cậu con học trường Tây Hà Nội đã làm
công chức cho chế độ Mỹ nguỵ, nhưng cũng không phạm tội ác gì. Còn cậu
học trò dốt thì nghe đâu đi buôn cốt kiếm tiền, không tham gia hoạt động
chính trị, đúng với tính cách của anh hồi nhỏ.
Huy Cận
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- J
Những ngày tháng bám cầu Hàm Rồng
Năm
1967, Mỹ liên tục đánh phá cầu Hàm Rồng chiếc cầu anh hùng, tượng trưng
cho tinh thần kháng chiến kiên cường bất khuất của nhân dân Thanh Hoá
của đất Lam Sơn khởi nghĩa, của quê hương của Bà Triệu... Tháng 9, tôi
vào Thanh, bám cầu Hàm Rồng một mặt để thay mặt Bộ Văn hoá chỉ đạo
riêng, công tác văn hoá ở tỉnh Thanh và ở thị xã, mặt khác đối với tôi
là đi thực tế, sống cuộc sống chiến đấu cùng với đồng bào và bộ đội địa
phương. Cùng bám cầu Hàm Rồng với tôi có anh Hồ Bông, nhạc sĩ, cán bộ
của Vụ Nhạc Múa. Anh Hồ Bông, người Nam bộ, quê ở Đồng Tháp là một người
tôi quen đã từ lâu, cũng ham đi thực tế những vùng khói lửa. Hai anh em
vào liên hệ với tỉnh uỷ, Uỷ ban và tỉnh đội, thì các đồng chí ở tỉnh
muốn bố trí chúng tôi ở một huyện hậu phương, cũng có chiến đấu nhưng
không căng thẳng lắm. Nhưng hai chúng tôi khẩn khoản xin được bám cầu
Hàm Rồng để được sống cuộc sống chiến đấu khẩn trương hàng ngày với dân
và quân trên cầu và hai bên cầu. Sau một tuần chúng tôi ở rừng thông,
nơi tỉnh đội đóng, các đồng chí tỉnh không từ chối được nhưng dặn chúng
tôi phải hết sức cẩn thận, thỉnh thoảng ra cầu để cho biết không khí
chiến tranh không nên có mặt ở đó luôn. Tỉnh đội cũng giới thiệu chúng
tôi về một gia đình của xã Hoàng Long, cách cầu Hàm Rồng khoảng 2 cây
số. Hai anh em chúng tôi dọn ngay đến ở nhà ông Năng, một gia đình nông
dân, có nhà ngói, có sân gạch, đủ ăn. Bà cụ mẹ ông Năng đã già yếu,
nhưng thấy cán bộ đến ở thì rất quí và chăm nom bếp nước giúp vợ chồng
ông Năng để “nuôi” chúng tôi. Ông Năng người chất phác trạc tuổi 45, ít
nói nhưng rất ý tứ, thấy chúng tôi cần giúp đỡ cái gì là tìm cách giúp
ngay. Sau hôm chúng tôi đến chúng tôi thấy ông cứ nhìn mãi chúng tôi mà
không nói, lại đi quanh nhìn vào đầu chúng tôi... Chúng tôi tự hỏi hay
là ông này nghi ngờ mình không phải là cán bộ chăng... Sau cùng tôi hỏi
thẳng: “Bác có điều gì băn khoăn phải không? Hay có điều gì muốn hỏi
chúng tôi? Hôm chúng tôi đến đã đưa bác xem đủ các giấy tờ... thì ông
Năng có vẻ bối rối trả lời: “Không có gì đâu, chỉ có điều là tóc hai
đồng chí hơi dài quá tôi muốn xin phép được cắt tóc cho hai đồng chí”.
Thì ra ông cụ thân sinh ông Năng đã có nhận xét là cán bộ đi kháng chiến
thường để tóc quá lứa, cho nên ông cụ bảo ông Năng đi tìm mua một bộ đồ
cúp tóc để khi nào cán bộ đến ở nhà hoặc đi qua thì cúp hộ tóc cho cán
bộ. Thế là những tháng chúng tôi ở đó, cứ hai tuần chúng tôi được cúp
tóc một lần rất tử tế. Bữa cơm nhà ông Năng không nhiều thịt cá, nhưng
theo yêu cầu của chúng tôi thì có cà muối dầm mắm rất ngon. Tuy vậy bà
cụ không yên tâm, thỉnh thoảng cụ mua được một ít thịt lợn kho dừa cho
chúng tôi ăn, vì vườn nhà có mấy cây dừa, và thỉnh thoảng chúng tôi vẫn
được uống nước dừa rất ngọt và rất mát.
Hàng
ngày, sau buổi ăn sáng, anh Hồ Bông và tôi lại ra cầu Hàm Rồng xem anh
em thợ chữa cầu làm việc vì địch đánh liên tục, cầu không sập, nhưng
luôn luôn có những thanh thép trên thân cầu bị đạn bắn xuyên thủng hoặc
mảnh bom rơi từ xa hàm vạt đi từng khúc... Lại còn một số thợ cầu làm
hai bên đầu cầu để củng cố đường cho xe tải và xe con chạy... Mỗi ngày
máy bay địch đến đánh phá mấy đợt, súng phòng không của ta bắn lên đan
lửa trên trời, nên thường địch ném bom trệch mục tiêu, phần lớn bom rơi
vào thôn Yên Vực một thôn nhỏ phía bắc cầu Hàm Rồng, ở bên trái con
đường từ trong đi ra. Thôn Yên Vực được bà con gọi là “Xtalingrat của
Thanh Hoá”. Rất nhiều lần, máy bay ập đến, anh Bông và tôi đang ở giữa
cầu, nhưng cũng chạy kịp vào hang ở đầu cầu bên này. Lần nào cũng hú
vía. Mà máy bay Mỹ nó đổi giờ đánh luôn, để bắt chộp ta, không cho ta
nắm quy luật tấn công của nó. Anh Bông thường nói đùa với tôi giữa đám
anh em công nhân: “Ông Cận ơi, ông có chết thì chết ở đầu cầu tôi còn
tha ông về hang được. Chứ nếu ông chết ở giữa cầu thì ông nặng quá, tôi
không kéo nổi về hang đâu!”. Chúng tôi còn đòi tỉnh đội cho chúng tôi
vào sống vài tuần ở thôn Yên Vực để cho biết cái không khí chiến đấu của
quân và dân tại chỗ nhưng tỉnh đội không đồng ý. Chúng tôi bèn đi
“chui” vào thôn Yên Vực vào những buồi chiều, sau khi mặt trời lặn,
nghĩa là vào cái giờ mà máy bay địch có thể không hoạt động nữa. Thế mà
có buổi chiều tôi và anh Bông vừa bì bõm lội vào thôn, và như mọi lần,
thôn Yên Vực lại hứng mấy quả bom trệch mục tiêu cầu Hàm Rồng. May mà
chúng tôi tụt kịp xuống hầm... Cứ như thế hai anh em chúng tôi trở đi
trở lại nhiều lần cái thôn Yên Vực thân yêu của chúng tôi... Đồng chí
Bàn bí thư chi bộ Yên Vực lúc đó thấy chúng tôi gắn bó với thôn cũng ái
ngại, khuyên chúng tôi không nên về thôn luôn, để tránh nguy hiểm. Có
một lúc địch đánh căng thẳng quá đảng uỷ xã và chi bộ thôn chủ trương
cho dân sơ tán đi một xã xa, chỉ để lại một trung đội dân quân tự vệ 40
người, phần lớn là nam, cũng có mấy chị em tham gia.
Nhiều
người tình nguyện ở lại làm đội trực chiến, nên hợp tác xã phải bầu
những người được ở lại. Bà con được lệnh sơ tán dọn đồ đạc đi, cố gắng
dọn được hết càng tốt... Tuy vậy, trong lúc sơ tán vội vàng, có nhà phải
để lại con lợn đang nuôi, để lại con gà mái đang ấp trứng, thậm chí có
nhà còn để lại cả con chó không kịp dắt đi... Rồi thì có gia đình không
kịp mang thúng ngô đang ướt vì gặp mưa chưa phơi... Sau một tuần mấy bà
con kia trở lại để dọn nốt tài sản thì thấy lợn vẫn béo và máng cám vẫn
đầy, bầy gà con nở ra vẫn được khoanh trong một cái bu to và được cho ăn
tử tế, và cả con chó cũng được nhốt trong buồng với những bát cơm
nguội... còn thúng ngô thì đã được phơi khô, gác từ tế lên giàn bếp...
Và bà con ngạc nhiên hết sức là con đường đi vào thôn đã được trồng thêm
hai dãy dừa non, vì anh em trực chiến đã khám phá ra những quả dừa
giống của hợp tác xã đã lên mầm khá cao và vội đi trồng cho “đúng tuổi”
dừa. Tình đồng đội, tình đồng chí, rất thực mà nghe như truyện truyền
thuyết ấy làm cho anh Bông và tôi hết sức xúc động và nghe chị Tâm kể
lại cứ ứa nước mắt. Một đêm trăng, anh Bông và tôi ngồi trên bờ đê của
thôn, nhìn xuống dòng sông Mã nghe chị Tâm kể chuyện và tâm sự. Chị là
một trong những người trực chiến, người thâm thấp, béo chắc khỏe mạnh,
về sản xuất chị là một tay lao động nhiều điểm nhất, về chiến đấu là một
tay súng cừ khôi, mà về văn nghệ cũng là một “cây” hát... Người yêu của
chị đang ở chiến trường miền Nam, có chuyến xe nào đi ra chị cung đón
hỏi tin tức miền Nam, và cứ hy vọng là người yêu gặp xe ra Bắc thì gửi
thư về cho chị. Chị chờ đợi, chờ người, chờ thư. Trong lúc chờ thì chị
chiến đấu chị sản xuất, chị làm văn nghệ trong đội trực chiến. Chị ham
đọc sách, và gặp chúng tôi không xin gì chỉ xin sách, xin báo. Thế rồi,
cũng có một lần chị Tâm nhận được thư của người yêu gởi một xe tải từ
đường Trường Sơn đem về... Chị đọc đi đọc lại đến mòn cả bức thư, sau
chị phải xin một miếng giấy ni lông để bọc bức thư và cho vào túi trong
phía ngực. Đội trực chiến của chị 41 người, ban đêm thường tập trung
ngủ ở chùa của thôn, tất nhiên là phân tán vào nhiều hầm đào trong vườn
chùa. Rồi một buổi tối bom địch đã trúng vào hầm và ba đồng chí hy
sinh. Được tin, bà con sơ tán lại xung phong về thay ba người đã mất,
lại phải một cuộc lựa chọn của chi uỷ và hợp tác xã, vì nhiều người xung
phong quá. Ở Yên Vực tôi còn nhớ câu chuyện: một chiều máy bay địch từ
xa bay tới, đội dân quân bắn súng máy bay đã bố trí trận địa sẵn sàng,
súng bắn máy bay có đến mấy khẩu, nhưng hôm ấy lại vắng mất một đội
viên. Thế là có một đồng chí bộ đội đi nghỉ phép, về qua đường, thấy đội
trực chiến đang loay hoay thì xung phong vào bổ sung khẩu đội. Và cuộc
chiến đấu diễn ra rất đẹp, tuy không bắn rơi được máy bay nhưng kế hoạch
tác chiến hoàn thành đẹp đẽ. Bắn xong, đồng chí bộ đội lại lên xe đạp
về quê đội trực chiến cũng quên hỏi tên anh, và trong sổ truyền thống
của thôn chỉ ghi: “Anh bộ đội nghỉ phép qua đường bổ sung khẩu đội”.
Những ngày tháng tôi và anh Bông bám cầu Hàm Rồng, còn thường ra thăm
đội nữ công binh nhân dân xây dựng cầu Tào. Đó là một đội toàn là chị em
tình nguyện đi xây cầu, chữa cầu để bảo đảm giao thông, đội cầu Tào,
xây cầu toàn bằng gỗ mà rất chắc chắn, xe lửa có thể đi qua được.
Bám
cầu Hàm Rồng, anh Bông và tôi chết hụt nhiều lần. Chỉ xin kể ra đây một
trường hợp. Chiều hôm đó nắng trong, mây tạnh, anh Bông và tôi đã hẹn
họp với chi đoàn thanh niên trong thôn Nam Ngạn. Tụ tập rồi
sắp họp thì đồng chí bí thư thị uỷ là đồng chí Thi cho người đến gọi
tôi về ngay thị uỷ để cùng các đồng chí đón đoàn Liên Xô đến thăm. Anh
Bông và tôi vừa đạp xe đạp về đến trụ sở thị uỷ thì máy bay đến và nghe
tiếng bom nổ ở đàng sau. Nửa giờ sau, thị uỷ cho người về Nam Ngạn lấy
tin thì biết bom trúng vào cái nhà mà đoàn thanh niên và chúng tôi suýt
họp ở đó. Thanh niên đã giải tán, không ai việc gì: nhưng gia đình có 9
người thì chết mất 6, trong đó có 2 em bé. Cũng hôm đó, hoặc là sau vài
hôm, tôi không nhớ rõ, bom Mỹ đã đánh sập mấy hầm liền, hơn 30 đồng chí
dân quân tự vệ và cán bộ xã và thôn đã bị hy sinh. Phải đào suốt hai
ngày đêm mới tìm đủ xác các đồng chí. Đồng chí bí thư đã có một sáng
kiến rất xúc động là tổ chức một cuộc giao ban giữa những người đã hy
sinh và những người còn lại. Trước thi hài những người đã mất, đồng chí
bí thư đã phân công những ai phải làm việc thay cho những đồng chí đã hy
sinh, sau cuộc giao ban tình nghĩa và đầy sĩ khí ấy mới tổ chức đưa đám
những anh em đã mất. Tôi đã ghi cảm tường về sự kiện lịch sử ấy của
thôn Nam Ngạn trong một bài thơ: Giao ban.
Đào suốt hai ngày đêm
Mới đủ xác anh em
Dẫu chết rồi cũng phải cho đủ mặt
Đồng chí bí thư giao ban trong nước mắt,
Phân công thay những người đã mất
Ai làm thêm phần việc của ai
Nuốt nước mắt, cuộc chiến đấu ngày mai
Còn tiếp tục.
Ở đâu cái chết ghê rợn
Ở đâu người chết vụt biến hư vô
Ở đây cái chết có cuộc đời ở cạnh
Một cuộc giao ban bi thiết biết chừng mô.
Anh
Hồ Bông đã phổ nhạc ngay bài thơ này với một giai điệu trầm hùng, có
hát thử lên cho anh em nghe thì thấy xúc động, nói được nỗi đau thương
nén lại và tình đồng chí keo sơn giữa kẻ mất, người còn. Nhưng cả bài
nhạc và bài thơ lúc ấy chúng tôi không cho đăng báo, sợ gợi lên nhiều
đau xót quá, sợ nhắc đến những mất mát đau thương quá...
Trong
chuyến bám cầu Hàm Rồng, khu Nam Ngạn gần 8 tháng ấy anh Hồ Bông cũng
đã làm được mấy ca khúc cảm động: Đội gái thuyền nan, Những nữ dân quân
tỉnh Thanh, Trực chiến (bài sau này là phổ nhạc bài thơ cùng tên của
tôi). Riêng tôi đợt ấy làm được hơn 30 bài thơ mà một số đã đăng báo in
sách như: Cầu Hàm Rồng, Giờ trưa, Gió mưa sấm sét, Sông Mã sông Chu,
Tháo bom bi, Chào Đông Sơn, Thăm Lò Chum, Bàn tay nữ pháo thủ... Ngoài
những bài thơ ngắn, tôi cũng có viết một bản trường ca. Làng thép bên
núi Ngọc, ca ngợi sự tích anh hùng của dân, quân thôn Yên Vực. Trường ca
này tôi viết bằng thơ ngũ ngôn, còn một chương chưa viết xong, tôi sẽ
cố gắng hoàn thành bản Trường ca này để tặng cái thôn Xtalingrát của
Thanh Hoá, nơi mà anh Hồ Bông và tôi đã sống những ngày hào hứng và hào
hùng với bà con, trong tình đồng chí mặn nồng, thắm thiết.
Trở
lại cuộc sống và chiến đấu của thôn Yên Vực. Đến mùa cấy lúa, đội trực
chiến không thể làm kịp vụ cho nên huyện uỷ đã động viên xã viên các hợp
tác xã bên cạnh, hoặc ở xung quanh đến cấy giúp cho thôn anh hùng. Mọi
việc nước nôi, phân bón bà con cũng trợ lực cho Yên Vực. Cảm động biết
mấy khi thấy những bà, những chị gánh từng gánh phân chuồng đến thôn Yên
Vực và rải xuống ruộng sắp cấy. Các bà vừa gánh vừa nói đùa: “Chăm bón
cho mảnh đất anh hùng chả mất đi đâu mà sợ!”. Thậm chí, thôn thiếu mạ,
bà con xung quanh quẩy mạ tới để cấy kịp thời vụ. Rút cục, thôn Yên Vực
lại được cấy xong trước trong vùng...
Những ngày chiến đấu căng thẳng hồi đầu
năm 1965, lúc Mỹ bắt đầu ném bom khu Nam Ngạn Hàm Rồng, chúng tôi cũng
đã đến đó và tiếp xúc với anh chị em dân quân, với các tổ tự vệ thôn xã.
Lúc bấy giờ nổi lên hai cô gái chiến đấu dũng cảm là chị Tuyển (sau
được tuyên dương anh hùng) và chị Nguyễn Thị Hằng (sau được tuyên dương
chiến sĩ thi đua toàn quốc, được bầu vào Quốc hội và vào Ban chấp hành
TW của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh). Nhưng có một người nữa
cũng rất anh hùng mà báo chí ít nói đến là chị Nguyễn Thị Hiền, người đã
vác những hòm đạn nặng chạy qua cầu kịp tiếp đạn cho các đơn vị pháo
bắn mảy bay. Thành tích của chị cũng xấp xỉ như thành tích của chị
Tuyển, chị Hằng, nhưng địa phương cũng không thể lựa chọn hết để đem vào
danh sách anh hùng, chiến sĩ... Nhưng tỉnh và huyện vẫn rất quí chị
Hiền, và đã tạo điều kiện cho chị học bổ túc công nông, và giao công tác
trong Uỷ ban huyện... Chị Hiền mồ côi cha mẹ, phải một mình nuôi hai em
nhỏ ăn học. Lúc đã hơi yên tiếng súng, chị mở một cái quán bán nước
chè, chè xôi để kiếm đồng ra, đồng vào nuôi em. Tôi ái ngại trước hoàn
cảnh neo túng của chị, và đã đưa giúp chị 50 đồng, chị ngần ngại không
muốn nhận tôi đành phải nói là cho chị vay, khi nào có thì chị giả lại
cũng được. Chị Hiền sau này đã lập gia đình với một đồng chí giáo viên
cấp 2 ở huyện, đã có 2 con... Sau ngày giải phóng Sài Gòn, một hôm tôi
nghe người gọi cổng, một chị gánh mấy quả dừa bước vào hỏi thăm tôi. Tôi
hỏi chị là ai? Thì chị kia giọng rơm rớm nước mắt: “Anh Cận không nhận
ra em à? Em là Hiền ở cầu Hàm Rồng đây mà, chắc là em đã già quá nên anh
không nhận ra?”. Quả thật chị vất vả lam lũ nuôi em, nuôi con nên nét
mặt cũng đứng trước tuổi... Thiệt thòi chung cho người phụ nữ là vậy.
Chị biếu tôi lấy quả dứa gọi là có nhớ những ngày tôi giúp đỡ... Tôi hỏi
chuyện con cái, về công việc làm ăn, về công tác của anh chị. Cũng như
mọi cuộc đời đời của chị Hiền là một sự can đảm hàng ngày, một sự chịu
thương, chịu khó liên tục, âm thầm giữa hoàn cảnh chung của đất nước
đang nhiều bề khó khăn. Biết bao nhiêu chị em của chúng ta như thế, rất
anh hùng, rất dũng cảm, làm người mẹ tận tuỵ nuôi con, làm người chị cưu
mang các em từ tấm bé. Chị Hiền không được tuyên dương anh hùng, tôi
xin dành riêng một trang hồi ký này tặng chị, tỏ lòng cảm mến của tôi đối với người con gái đất Thanh anh hùng mà từ tốn.
Anh
Hồ Bông và tôi bám cầu Hàm Rồng, nhưng thỉnh thoảng cũng đi về các
huyện như huyện Hậu Lộc, huyện Yên Định, huyện Tĩnh Gia, huyện Thạch
Thành để tìm hiểu sâu phong trào dân quân chống Mỹ. Tại một xã bên bờ
sông Chu, lúc bấy giờ trung đội nữ bần máy bay của chị Nguyễn Thị Hằng
hàng ngày kéo nhau ra tập gần một bãi sông. Mấy chị đi tập khá
sớm và đi qua nhà tôi ở, trẻ con thấy chị Hằng xinh hay chạy theo trêu
chị, chị đuổi ngay. Tôi gọi chúng vào và bày cho các cháu mấy câu ca
dao:
Chị Hằng chẳng ở cung trăng
Ở khu Nam Ngạn bắn thằng Mỹ chơi
Mỹ buồn, Mỹ rụng, Mỹ rơi
Bên bờ Nam Ngạn cười tươi cô Hằng.
Thế
là hôm sau các cháu cũng bám theo cô Hằng mà hát lên mấy câu lục bát
này, thì chị Hằng chưa đuổi ngay. Nhưng lúc các cháu hát xong thì chị
lại đuổi “tụi bay cút đi để cho người ta tập!”. Cái xen này cứ lập đi lập lại mãi mỗi buổi sáng giữa lũ trẻ tinh nghịch với cô đội trưởng xinh đẹp.
Đêm
đêm trên cầu Hàm Rồng sáng loáng những ngọn lửa xanh của các anh em thợ
hàn sì hàn những vết thương cho chiếc cầu. Anh Hồ Bông và tôi đứng cách
cầu chừng 500 mét nhìn về phía cầu thấy mà nức lòng, như thấy một mảng
trời sao nhấp nháy xuống đậu trên cầu, như một mảng trời đất thức giữa
đêm khuya đánh đi bốn phương tín hiệu của lòng dũng cảm. Mà thật thế,
đêm đêm trèo lên những thanh cầu, giàn cầu đâu có phải là chuyện thường,
là trò chơi thể thao! Mỗi một lần là một thử thách, mỗi ngọn lửa xanh
là một mục tiêu sáng rõ cho máy bay đêm của Mỹ bay chớp nhoáng từ biển
vào.
Đánh Mỹ là chuyện sự sống cái chết đặt lại hàng
giờ hàng phút
Phải sống anh hùng, không có cách nào hơn
Đánh Mỹ là mỗi đêm bước lên cầu Hàm Rồng
không nhụt không run
Tay cầm ngọn lửa xanh êm rịt hàn xương thép
(Niềm tự hào viết ở Hàm Rồng tháng 9-1967)
Anh
Hồ Bông và tôi được Ban chỉ huy trận địa pháo bảo vệ cầu Hàm Rồng dẫn
đến xem chỉ huy sở cách nhà ông Năng nơi chúng tôi ở có mấy trăm thước.
Ra đa bắt mục tiêu rất nhạy, mục tiêu là những máy bay Mỹ từ hạm đội bảy
ở Thái Bình Dương bay vào. Trên màn ra đa, những hình máy bay lao tới
sở rất đầy đủ. Những bạn lính trẻ, hoặc là sinh viên đại học tòng quân,
hoặc là học sinh tốt nghiệp lớp 10 mới nhập ngũ, điều khiển các máy móc
rất thạo. Nhìn chỉ huy sở mường tượng như một nhà máy con. Tôi nhớ đồng
chí Tiến thượng tá phó chỉ huy đứng trên nắp hầm chỉ huy trận đánh rất
nhạy, rất lẹ, tư thế gắn liền với kỹ thuật khí tài mà vẫn rất hiên
ngang. Chiều hôm đó hai máy bay bốc cháy lao nhanh về phía biển. Cả đội
pháo chỉ tiếc có một điều là không bắt được giặc lái tại chỗ, không nhặt
được mảnh máy bay tan xác. Anh Tiến người nhỏ nhắn, quê ở ngoài Bắc,
dáng nho nhã mà lúc chỉ huy sao mà oai hùng thế, anh chỉ huy giỏi nên
được điều động vào chiến trường miền Nam để diệt máy bay địch trong đó.
Sau ít lâu chúng tôi được tin anh đã hy sinh trong chiến trường B, bà
con xã Hoàng Long ai cũng thương tiếc, khóc anh như khóc nhớ người thân.
Anh
Hồ Bông và tôi còn đi vào thôn Đông Sơn sơ tán phía sau, các gia đình ở
trong hang đá lởm chởm. Thôn Đông Sơn lúc đó cũng là một thôn chiến đấu
rất anh dũng trong tập thể anh hùng là khu vực Nam Ngạn - Hàm Rồng.
Chào bà mẹ tạm vào hang với cháu
Để con trai đi đánh giặc chiến trường xa
Để con gái con dâu ra đồng làm lúa gạo
Hột gửi miền Nam, hột để nuôi nhà
Đông Sơn thôn anh hùng đánh Mỹ
Nơi sơ sinh nền văn hoá quê nhà
Trống đổng vọng từ ba mươi thế kỷ
Lấp lánh trong luồng mắt chớp ra đa.
Bám
cầu Hàm Rồng, một buổi chiều chúng tôi về rừng Thông để tiễn một số
đồng chí tân binh lên đường đi B. Thanh Hoá là hợp điểm của các đoàn tân
binh từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng vào, từ các huyện Thanh Hoá dồn về
nữa. Một cuộc tiễn đưa lên đường náo nức, xúc động ở dưới những cây
thông lực lưỡng mà thanh tao, đoàn tân binh đi nhẹ bước chân không rầm
rập như trong các phim ảnh ta thường xem thấy, người thì đi chân trần
giầy đeo vào ba lô người thì đi dép cao su đúc. Ngoài các đồng chí lãnh
đạo tỉnh, các đồng chí tỉnh đội, còn rất nhiều bà con ở gần rừng Thông
ra tiễn đoàn quân đi chiến trường xa. Tôi vừa nhìn, vẫy chào anh em tân
binh, vừa nghe câu chuyện bà con trao đổi với nhau. Ai cũng khen tân
binh khỏe và trẻ, nhất là trẻ, có cậu khoảng 16 17 tuổi thôi. Bỗng có
một bà nông dân trạc 50 tuổi thốt lên: “Các con ơi, chừng ấy đủ đánh
giặc Mỹ chưa? Nếu chưa đủ thì các mẹ ráng đẻ thêm một lứa nữa cho đủ con
đi bổ sung chiến trường.... Trời ơi! Tôi nghe mà giật mình. Lời bà mẹ
nói vui, nói đùa mà sao sâu thấu tâm can. Không, bà không nói đùa đâu!
Lời gan ruột của bà mẹ Việt Nam đó chứ, đâu có đùa vui. Sinh con, nuôi
con cho khôn lớn để con theo cha lên đường đánh Mỹ. Lời của bà mẹ đứng
bên tôi hay là lời của mẹ Tổ quốc thương yêu? Các mẹ bình dị mà gặp ý
Bác Hồ, lo nghĩ sâu như Bác: “Độc lập Tự do ta phải làm bằng xương máu
của ta. Đời ta đánh giặc chưa xong, thì đời con, đời cháu sẽ tiếp tục
cho kỳ giành được tự do, độc lập.... Tối hôm ấy tôi về cầu Hàm Rồng có
làm bài thơ Lời Mẹ Tổ quốc để ghi nỗi xúc động của tôi cái buổi chiều
tiễn anh em tân binh vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ...
Đội bát âm nhà ông Tam
Hồi tôi
còn nhỏ, một thích thú của tôi là được nghe đàn, sáo của đội bát âm ở
nhà ông Tam. Ông Tam là ông chú của tôi trong họ Cù. Ông là nông dân,
cày sâu cuốc bẫm, không được đi học, chữ Hán không biết, chữ quốc ngữ
chỉ mon men đánh được vần cái tên của mình. Ông chăm chi làm ăn, nên
sống cũng khá sung túc, no đủ với cái mức sống của nông dân Nghệ Tĩnh
thời đó. Điều mà tôi đặc biệt nhớ về Ông Tam là ông rất mê đàn, sáo. Ông
đi chơi ở các làng phía chợ Thượng, phía Đức Thọ, ông gặp những người
thổi sáo hay, đánh đàn hay, ông rất mê, và ông đã mời một số các nghệ sĩ
dân gian ấy về nhà ông những ngày rảnh rỗi sau vụ gặt lúa chiêm, lúa
mùa, đàn hát ở nhà ông. Và ông cũng tập thổi
sáo và kéo đàn nhị, tiếng sáo và tiếng nhị của ông cũng mượt mà, có
tình; có nội tâm. Mặt ông Tam hơi rỗ, nhưng mắt ông rất lanh lợi và
miệng ông nói chuyện rất tươi và có duyên. Đến lúc ông chúm môi thổi
sáo, hay nghiêng đầu kéo nhị thì mặt ông sáng hẳn lên, và như thần nhạc
đã nhập vào vẻ mặt của ông làm cho nó trở nên hấp dẫn khác ngày thường.
Các nghệ sĩ dân gian và ông Tam hợp lại thành một đội bát âm nổi tiếng
khắp làng trên, xóm dưới. Cứ đội bát âm nổi tiếng đàn, tiếng sáo lên là
một số bà con trong xóm kéo đến nhà ông Tam để nghe, và mỗi lần như vậy
thì bà Tam lại nấu một nồi nước chè xanh và có khi còn luộc cả một nồi
khoai lang để tiếp khách không khí rất là đầm ấm, rất là “nghệ thuật dân
gian”.
Những bà con
không đến nhà ông Tam, thì ở nhà cũng lắng tai nghe tiếng đàn, sáo bay
khắp xóm. Đời sống của bà con nông dân trong xóm làng hồi ấy
có bao nhiêu khổ cực, tủi nhục nữa, nhưng những giờ phút nghệ thuật như
sinh hoạt bát âm ở nhà ông Tam cũng đem lại cho họ những giờ phút thư
thái, đôi chút
ngọt ngào hoạ may an ủi họ một phần nào trong cuộc đời lam lũ, cực
nhọc. Cũng nhờ đó bà con theo tư tưởng mê tín nói rằng “cứ vui lắm, rồi
buồn lắm cho mà xem” nhất là khi họ nghe tiếng đàn bầu não nùng, gần như
ai oán. Chả biết có đúng thế không, mà sau đó một thời gian nhà ông Tam
chịu liền mấy cái tang, và ông cũng làm ăn sa sút dần. Rồi đội bát âm
của ông cũng chia tan, mỗi người về một ngả. Dù sao tiếng đàn hát ấy đã
làm sáng tâm hồn thơ bé của tôi lúc 6, 7 tuổi, khi tôi bắt đầu học a, b,
c với bác Thự.
Tính tinh nghịch tuổi nhỏ
Hồi tôi
5-6 tuổi, còn ở nhà, ngoài việc cưỡi trâu cho trâu phóng nhanh như ngựa
phi, và việc đi thả diều và đi chọi chim với chú tôi, tôi thường có
những trò tinh nghịch khác của một đứa bé nông thôn thời đó. Đánh khăng,
bắn bóc (bóc là một ống trúc có một thanh tre làm cần thụt để bắn những
hạt cây chua me nén chặt ở trong, bóc bắn như vậy khá xa vì có hơi nén
và khá đau nếu hạt chua me trúng vào người) là những trò chơi thú vị của
các trẻ chăn trâu trong đó có tôi. Nhưng cũng có những sự tinh nghịch
không lành mạnh, mang tính quái ác của cái tuổi “chưa biết thương”, của
cái tuổi mà tâm hồn đang còn ngẩn ngơ một cách nghịch ngợm. Tôi nhớ lúc
5-6 tuổi, mỗi lúc đi bến ở Bãi Giang về, tôi thường đi qua nhà ông Chắt
Nguyện, ở sát nhà tôi. Ông Chắt Nguyện chăm làm vườn, và trước nhà ông
trồng một dãy cây mít non, và trong khoảnh vườn phía trước ông đúc rất
nhiều hạt chè (tức là ươm chè). Có lần đi tắm về, tôi dừng lại trước
hàng mít non, và lấy tay kéo hai cây lên, như vậy là cây đứt rễ non,
nhưng không ai biết là cây đã bị nhổ rễ. Thế rồi mấy hôm sau hai cây mít
con cứ héo dần dần... Ông Chắt Nguyện rất bực mình, nhưng không hiểu
nguyên do của sự chết héo của hai cây mít. Ông cặm cụi lấy hoang (một
thứ xẻng dài và hẹp) đào sâu dưới rễ hai cây mít để xem có phải có con
sâu nào đục ăn rễ đi không. Nhưng ông không thấy gì và cứ bực mình, ngẫm
nghĩ. Rồi ông sang kể hiện tượng cây mít chết héo với bố tôi... Tôi
nghe câu chuyện giữa ông và bố tôi, tự nhiên thấy hối hận. Sau đó tôi đã
thú thật với ông là chính tôi đã nghịch làm hai cây mít tươi tốt của
ông chết oan. Ông nghe tôi thú tội, giận dữ một lúc, mắng tôi sao lại
“quái ác” thế, nhưng ông cũng không đánh tôi và cũng không mách với bố
tôi. Sau một lúc, ông Chắt Nguyện lại có vẻ hứng thú, vì đã tìm ra được
nguyên nhân sự chết héo của đôi cây
mít và ông nói: “Từ rày tao sẽ rào những cây mít vào trong những cái rọ
tre, thì bay hết phá!”. Từ đó hàng mít của ông lên tươi tốt, và sau này
tôi còn được ăn mít của nhà ông mỗi lúc nghỉ hè về nhà. Bây giờ, mỗi
khi tôi về quê, ông Chắt Dự, con ông Chắt Nguyện, vẫn nhắc câu chuyện
nhổ cây mít non của tôi...
Một nỗi thương tâm lớn của anh Xuân Diệu
Số
phận đau khổ của người em giai: Như đã kể trong chương tuổi nhỏ của
Xuân Diệu, Tịnh Hà (tức là Ngô Xuân Sanh) là em ruột cùng cha cùng mẹ
của anh Xuân Diệu. Tịnh Hà phải bỏ học sớm, vì gia đình lúc đó (tức là
ông cụ thân sinh và bà vợ lớn của ông) cũng không chăm lo đầy đủ việc ăn
học của anh. Thế rồi, sau một buổi bị phạt ở trường Qui Nhơn, bị bố
đánh túi bụi tại lớp, anh bỏ học luôn và đi hoang. Những năm tháng đầu
anh còn sống cầu bơ cầu bất, có lúc gần như đi ăn xin dọc đường. Cái
truyện ngắn Thằng ăn mày của Xuân Diệu (trong tập Phấn
thông vàng) chính là mô tả đứa em bất hạnh của anh. Tịnh Hà đã sống một
cuộc đời lang thang “đi hoang” như anh thường nói, một cuộc đời hoang
dại trong nếp sống và trong tâm hồn. Có lúc anh làm thuê trong một hiệu
giặt, có lúc anh đi bán báo ngoài đường phố có lúc anh đi ở gánh nước
cho một quán ăn... Nhưng dọc cuộc đời đi hoang ấy anh vẫn mơ mộng, vẫn
nghiền ngẫm về đời người, và từ năm 1942 trong khoảng vài ba năm, anh đã
viết được một tập hồi ký rất có giá trị mà anh đặt tên là Gió cuốn bụi đời, mà anh Diệu về sau đặt lại cho cái tên Đi hoang.
Mười mấy quyển vở hồi ký này,
viết bằng bút chì anh Diệu và tôi đã xem kỹ, và đã cho đánh thành mấy
bản, hiện nay tôi còn giữ cả bản thảo và bản đánh máy ấy, cùng trong một
tủ với các di cảo của anh Xuân Diệu. Văn của Tịnh Hà trong tập hồi ký này
rất sống, rất hoạt, chứa đựng nhiều chất xúc động trực tiếp toát lên từ
cuộc sống, từ những mảng đời mà anh đã sống với cả máu thịt của anh,
với cả tâm hồn đau khổ và sâu sắc của anh, giọng văn ở đây như không
phải là văn, mà lại như bình thản tự nhiên, lời tâm sự trần trụi của một
kiếp người. Anh Diệu và tôi đánh giá cao tập hồi ký của
Tịnh Hà, và đang muốn giúp Tịnh Hà sửa sang lại chút ít để cho xuất bản
thì anh Diệu đã mất. Bây giờ tôi có nhiệm vụ thay cả anh Diệu giúp đỡ
Tịnh Hà hoàn tất tập hồi ký mang
đầy tính nhân đạo chủ nghĩa này và tìm nhà xuất bản để xuất bản một
quyển sách rất “cuộc đời”, có giá trị nhân văn như thế. Trong cuộc đời
đi hoang của anh Tịnh Hà đã tiếp xúc với đủ hạng người, kẻ cao sang có,
người bần cùng trong xã hội có, thậm chí anh đã chung đụng, có khi đụng
độ với cả những dân trộm cắp với những người “dưới đáy xã hội”. Vậy mà
anh vẫn giữ được trong một góc tâm hồn cái trong trắng cái ngây thơ, cái
mơ mộng cố hữu của anh. Tôi không sợ nói quá lời, nói đại ngôn, khi tôi
cho rằng có những đoạn hồi ký của Tịnh Hà làm cho ta nghĩ đến những tập hồi ký về
tuổi nhỏ của Mácxim Goócki. Anh đã sống như vậy ở Bình Định, Qui Nhơn, ở
Nha Trang, ở Sài Gòn, và cả ở mấy tỉnh Tây Nguyên nữa. Sau cùng thì anh
cũng có được một cuộc đời gọi là yên ổn nghĩa là có vợ và có con tại
Nha Trang. Trong thời kỳ Mỹ chiếm đóng ở miền Nam, anh sống rất cơ cực ở
Sài Gòn dưới chế độ Mỹ nguỵ, với bà vợ thứ hai của anh là chị Lệ, người
Nghệ An lưu lạc vào trong đó.
Hai
vợ chồng và mấy đứa con (của bà vợ đầu) sống trong một gian nhà ổ chuột
hôi hám, tối mò ở gần bờ sông Sài Gòn, bên cạnh cầu Bông. Ban ngày anh
đi bán báo, hoặc vừa bán báo vừa bán kem, cũng có lúc đạp xích lô
thuê... Bà vợ thì buôn thúng bán mẹt cả hai vợ chồng sống “trên biên
giới của sự đói rách và của sự chết mòn”. Nhưng chính trong hoàn cảnh cơ
cực và tủi nhục ấy mà hai vợ chồng đã nuôi giấu một số cán bộ cách mạng
nằm vùng, tức là chị Vân đảng viên đảng cộng sản hoạt động bí mật trong
nội thành.
Cái cảnh đời và cảnh nhà ổ
chuột của vợ chồng Tịnh Hà cũng đã giấu cán bộ, bọn mật thám của Mỹ nguỵ
cũng không nghĩ tới lùng sục cái ổ chuột làm gì. Đến ngày giải phóng
Sài Gòn, chị Vân ra hoạt động công khai và nghiễm nhiên trở thành một
cán bộ rất có uy tín và có trọng trách trong quận và trong phường. Chị
Vân rất biết ơn vợ chồng Tịnh Hà đã nuôi giấu mình và đã giới thiệu vợ
chồng với phường, và giúp cho chị Lệ nhận một công việc thích hợp trong
phường chị ở...
Còn anh Tịnh Hà thì anh
Diệu và tôi đã giới thiệu cho bộ phận thường trực của báo Văn nghệ tại
thành phố Hồ Chí Minh, báo đã giao cho anh việc chữa bài và làm liên lạc
với các cơ quan văn hoá và báo chí.
Cuộc
đời vậy là tạm ổn. Nhưng cái phòng ổ chuột thì tính sao đây? Lúc mới
giải phóng Sài Gòn tôi vào công tác trong đó, tìm theo địa chỉ đến thăm
ngay Tịnh Hà. Lần đầu tiên tôi nhìn cảnh ăn ở của gia đình anh, không
cầm được nước mắt. Tịnh Hà cũng khóc. Lúc bấy giờ anh Diệu chưa vào,
giao cho tôi tìm cách giúp đỡ Tịnh Hà có công ăn việc làm. Đồng chí lái
xe đi với tôi, có theo tôi vào chỗ ở của Tịnh Hà thì cũng động lòng trắc
ẩn mà rơm rớm nước mắt. Nghèo khổ như vậy, mà anh cũng nèo tôi ở lại ăn
cơm trùng phùng với anh một bữa. Tôi không thể từ chối, ngồi ăn cơm với
vợ chồng, tôi cứ nuốt nước mắt, và không dám nói chuyện nhiều về cái
cảnh đời của anh, vì cứ đụng tới câu chuyện là tôi cứ muốn oà khóc. Tôi
viết thư ngay cho anh Diệu hoàn cảnh sống cơ cực của em anh, và gợi ý là
phải tìm cách giúp Tịnh Hà có một nơi ăn ở tốt hơn. Thế rồi anh Diệu
vào, và cho anh Tịnh Hà một số tiền khá lớn (lớn đối với anh Diệu) để
tìm mua một căn nhà gọi là ở được trong cái khu phố nghèo ấy. Anh Phạm
Hữu Nhuận (biên tập viên
của báo Văn nghệ, em kết nghĩa của anh Diệu) và tôi giúp Tịnh Hà, tìm
kiếm nhà trong vài tuần, và giúp chạy thủ tục để mua được nhà, vì ngay
lúc mới giải phóng thủ tục mua nhà cũng đã khó và phức tạp.
Nhưng
vì chị Lệ là cán bộ của phường, và được phường giúp đỡ nên việc mua nhà
cũng được giải quyết tương đối gọn và sớm. Vậy là anh Tịnh Hà và gia
đình với số tiền tiết kiệm của anh Diệu trút gần hết vào đây đã có được
một căn nhà khá tươm tất gồm một phòng ở tầng trệt, và một phòng trên
gác, bề ngang thì hẹp (2m50), nhưng bề sâu thì khoảng 6-7m. Cửa sổ phía
sau nhìn xuống cái nhánh sông Sài Gòn ở gần cầu Bông đen ngòm, nhưng gió
sông thổi vào thì mát. Nhà có hố xí riêng, có bếp riêng. Đối với gia
đình anh Tịnh Hà đó là một sự đổi đời ghê gớm, một sự hoá kiếp như anh
đã nói. Trong nhà không có tủ, chỉ sắm được vài cái ghế và một chiếc bàn
con. Còn ở trên gác thượng, thì trải chiếu nằm xuống sàn, về mùa hè thì
cũng không trải chiếu nữa mà sàn là giường. Mỗi lúc anh Diệu và tôi vào
thành phố làm việc, đến nhà Tịnh Hà ngủ lại vài bữa, thì vợ chồng lại
có những bữa chiêu đãi anh Diệu và tôi, có cả rượu nữa, vì Tịnh Hà
thường ngày cũng có uống chút rượu thuốc (ngâm sâm đại hành).
Anh Tịnh Hà không chỉ viết hồi ký Đi
hoang, mà anh còn viết truyện ngắn, và một số truyện của anh đã được
đăng trên các báo, trên báo Văn nghệ nữa. Thật ra, nếu có điều kiện
thuận tiện thì Tịnh Hà cũng có thể trở thành một nhà văn “chính cống”.
Nhưng anh Xuân Diệu thì cứ bảo với Tịnh Hà: “Văn thơ gì cứ lo cho cái
đời yên ổn đi đã. Cứ văn chương thơ thẩn thì rồi chết đói?”. Mà có lúc
anh Diệu còn thật sự mắng em về chuyện viết lách. Kể cũng lạ! Sự nghiệp
văn chương của anh thì như thế, mà anh đeo đuổi cả một đời, bỏ mọi thứ
vặt vãnh xung quanh, mà anh lại trách em muốn đi vào con đường văn
chương trong khi anh vẫn thấy tập hồi ký của
em là rất có giá trị. Ngày anh Diệu mất, được điện của báo Văn nghệ,
Tịnh Hà ra ngay Hà Nội để lo tang cho anh cùng với con dâu của tôi (lo
về mặt gia đình, còn đám tang thì thật sự Hội Liên hiệp văn học nghệ
thuật và Hội Nhà văn lo đầy đủ hết). Lúc tôi ở Pari về, không kịp đám
tang anh Diệu, nhưng còn gặp Tịnh Hà ở nhà để hai anh em tâm sự với nhau
trước cái tang lớn của chúng tôi. Tịnh Hà nói với tôi với giọng đầy
nước mắt: “Anh Diệu mất đi, may mà còn anh Huy Cận. Anh Huy Cận thay anh
Diệu làm anh của Tịnh Hà. An ủi ở đời chỉ còn có thế”. Gần đây, hồi cuối
hè, Tịnh Hà lại ra Hà Nội để bốc mộ bà má (mẹ của anh Diệu và của Tịnh
Hà) đã được chôn ở khu vực cố định của nghĩa trang Văn Điển. Hôm ấy
không may gặp trời mưa, mà vợ chồng Tịnh Hà cũng cặm cụi dưới mưa cùng
với anh em công nhân ở nghĩa trang bốc mộ, và sau đó đốt thiêu xương của
bà má để lấy gio mang về thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay cái bình gio
của bà má đã được gởi ở chùa Vĩnh Nghiêm, ngôi chùa lớn nhất thành phố,
trên bình gio có gắn ảnh của bà má ảnh mà tôi đã nhờ một bạn nhiếp ảnh
chụp lại theo cái ảnh dán trong căn cước. Anh Tịnh Hà làm được việc này,
rất yên tâm với hương hồn má và anh.
Nỗi thương tâm lớn trong đời anh Diệu là cái số phận đau khổ cùng cực của người em như tôi đã kể.
Lúc
anh còn sống, anh vẫn nói với tôi: “Cái nghiệp của thằng Sanh là tại
gia đình, nhưng cũng một phần tại nó. Mỗi người có một số phận, như đã
định trước. Đôi lúc
cứ nghĩ rằng không biết con người có tự do đến mức nào trong sự quyết
định của số mệnh của mình. Cứ nghĩ đến đời thằng Sanh mà đâm ra bàng
hoàng”. Anh Diệu thương má thương em, suốt đời anh day dứt về cái khổ
của má và em. Trong một trang nhật ký của
anh viết về tuổi nhỏ mà tôi vừa xem lại anh đã ghi bên cạnh bằng bút
chì đỏ hai chữ “Đàn ơi” là tiếng thảng thốt thương tâm của anh, Đàn là
tên của Tịnh Hà hồi bé ở nhà... Tôi viết hồi ký thay cho cả anh Diệu, còn sẽ kể nhiều về những mối thương tâm của anh.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2-K
Thế Lữ và Xuân Diệu
Anh
Xuân Diệu bắt đầu làm quen với Thế Lữ khi anh còn học tú tài phần thứ
nhất ở trường Bưởi. Làm quen, nghĩa là gởi những bài thơ của mình đến
cho Thế Lữ xem, và nhờ Thế Lữ nhận xét, cho ý kiến. Lúc bấy giờ anh Diệu
vừa tự tin, vừa rụt rè, không tìm đến toà soạn Ngày nay để gặp Thế Lữ,
mà chỉ viết thư và gởi thơ... Thế Lữ nhận liên tiếp bài thơ này đến bài
thơ khác của Xuân Diệu, đọc kỹ, nhưng không có thư trả lời Thế rồi một
hôm trên báo Ngày nay đăng bài Với bàn tay ấy của Xuân Diệu, đó là bài
thơ đầu tiên Xuân Diệu ra mắt với độc giả báo Ngày nay. Bài này rất hay
và đã in trong tập Thơ thơ. Sau đó đăng liền mấy bài khác như bài Vì sao
(Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, Có nghĩa gì đâu một buổi chiều, Nó
chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bàng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu... ). Đến Tết
năm 1987, lúc đó anh Diệu đang học tú tài phần hai tại trường Khải
Định, ở Huế, trên số Tết báo Ngày nay có một bài của Thế Lữ rất trân
trọng giới thiệu Xuân Diệu: Một nhà thơ mới: Xuân Diệu. Lời giới thiệu
không những trân trọng, mà còn đầm ấm, sâu sắc. Đúng là lời giới thiệu
của một người tri kỷ đối với một tài năng thơ đang độ nở, đối với một
tâm hồn đang rộng mở trước cuộc đời. Đến lúc tập Thơ thơ ra đời, thì Thế
Lữ lại đề tựa, một bài tựa xúc tích và xúc động. Sau này nhà xuất bản
Văn học cho in tuyển tập của Thế Lữ thì Xuân Diệu viết lời bạt (gọi là:
Đọc thơ Thế Lữ), trong đó anh phân tích đầy đủ thơ Thế Lữ, và cũng là
một cách uốn nắn những chỗ không thoả đáng của bài giới thiệu do Lê Đình
Ky viết. Hai nhà thơ chí tình với nhau là như vậy.
Xuân Diệu đấu tranh chống bọn phản động Quốc dân Đảng
Cuối
năm 1945, khoảng tháng 11 và tháng 12 bọn Quốc dân Đảng kết hợp với bọn
Nguyễn Hải Thần, được bọn quân đội Tưởng Giới Thạch đỡ đầu và ủng hộ,
đã có những hoạt động ráo riết chống chính quyền cách mạng, khi thì ngấm
ngầm phá hoại (như bắt cóc và thủ tiêu cán bộ, đặt mìn vào các công sở
hoặc ở đường xe lửa như chúng đã đặt mìn trên đường Hải Phòng - Hà Nội
lúc chúng ta đón Hồ Chủ tịch từ Hải Phòng về Thủ đô, sau chuyến
đi Pháp về), khi thì hoạt động công khai, dán truyền đơn, tổ chức những
cuộc biểu tình, hô khẩu hiệu đả đảo chính phủ. Những cuộc biểu tình của
chúng chỉ lèo tèo mấy chục người, nhiều lắm là hơn 100 người bà con lúc
đó gọi là biểu tình pháo tép, pháo xì pháo xịt ngòi... Một buổi sáng
tháng 12, anh Diệu đi ra đường gặp lũ côn đồ này đang kéo nhau đi lê thê
lếch thếch, gọi là biểu tình để đả đảo tổng tuyển cử (tổng tuyển cử đầu
tiên cử hành vào ngày 6-1-1945) anh Diệu liền dừng lại, dắt xe đạp hô
“đả đảo biểu tình” và anh lại tập hợp bà con ở khu phố làm một cuộc biểu
tình chống lại cuộc biểu tình phản cách mạng. Bà con bắt đầu tập hợp và
cũng hô khẩu hiệu như anh “đả đảo biểu tình phản cách mạng”, thì bọn
đầu trâu mặt ngựa bất đầu tan rã, nhưng cũng có mấy đứa đuổi rượt theo
anh, định bắt cóc anh đem về hắc điếm. Anh đành phải bỏ xe đạp giữa
đường và đi vào đám đông đồng bào. Đồng bào bảo vệ anh và đem anh về trụ
sở Văn hoá cứu quốc. Vài giờ sau lại có người mang xe đạp của anh giả
lại cho anh.
Câu chuyện
Xuân Diệu hăng hái, sôi nổi đấu tranh chống bọn Quốc dân Đảng phản
động, ai cũng biết và đồn đi các tỉnh. Anh Thép Mới trong bài viết về
Xuân Diệu sau khi nhà thơ mất, cũng đã nhắc lại sự kiện trên. Sau buổi
biểu tình ấy anh Diệu viết ngay bài thơ châm biếm Một cuộc biểu tình và
cho đăng vào báo Độc lập số ngày 24-12-1945. Xin trích sau đây vài đoạn
trong bài thơ đả kích ấy:
Bữa kia trong vài phố Hà Nội
Có cuộc biểu tình (nghĩ cũng tội)
Vẻn vẹn đếm được những ba mươi
Linh bảy thằng người đi quấy rối...
Khuyển ưng một lũ sắp mưu gian
Cai quản ít nhiều tên bỉ ổi,
Di qua mấy phố diễn trò hề,
Khiến cả quốc dân đều... bịt mũi!
Biểu tình chi đó? Biểu tình ai
Ai biểu tình, mà lạ nhỉ!
Họ đều như thể... đũa so le,
Bước mạnh như là... người thất chí.
- Bà ơi! Dắt cháu ngó kỳ quan!
- Mợ nó ngừng tay, ra ngắm tí!
Một đoàn nhơ nhuốc mang trên trán
Uể oải há mồm rao bánh rán:
“Tẩy chay tuyển cử” với... nhân dân!
“liên hiệp quốc gia” cùng... “nước bạn”
Vài ông mặc lính bước xa xa,
Hộ vệ đám người đem nước bán.
(Lính nào ăn mặc giả trang kia,
Không phải Việt Nam, thưa các bạn.)
Tẩy chay tuyển cử - Cứ tẩy chay!
Dân Việt Nam tôi cứ tuyển cử!
Quốc gia Liên hiệp... Quốc gia liên...
Những hiệp với ai, ông nói thử?
- Những quân liếm gót sạch bong rồi,
Mới dám anh hùng như thế chứ!
Ai đem máy ảnh chụp giùm tôi!
Nghĩ đến biểu tình mà xấu hổ
Đi như phu bắt phải khiêng đồn,
Kêu tựa làm công cho các chú.
Mấy anh mang súng kèm hai bên
Thỉnh thoảng nhắc vào: - Hô đi chứ!
Chen nhau đông tựa chùa Bà Đanh!
Hăng hái như người đang ngái ngủ!
Thuê người - hỏi thật - mấy quan kim
Gớm! Cứ lòe nhau chi thế, cụ!
(cụ đây là chỉ tên Nguyễn Hải Thần)
Đến
tháng 2-1946 bọn phản động Quốc dân Đảng lại có cuộc “vận động” “tổng
đình công”, anh Diệu lại có bài thơ châm biếm đả kích chúng. Bài Tổng...
bất đình công này đã đăng ở báo Sự thật số ngày 20-2-1946. Xin trích
một số đoạn dưới đây:
Tổng đình công hỡi! Tổng đình công
Tướng có, ai ngờ lại hoá không!
Trời hỡi, đất ơi, xin chứng giám
Lấy mo mà bịt mặt cho xong!
Tổng đình công ấy, nghĩ mà thương,
Phố đóng sao mà cửa mờ toang
Tàu điện long cong ra vẫn chạy,
Đồng Xuân ầm ĩ họp như thường!
Tổng đình công hỡi! Tổng đình công!
Dân chúng sao mà xỏ chúng ông
Tưởng chắc được dân nên mới tổng:
Mà dân không được, thế là... tong!
Tổng đình công hỡi! Tổng đình công!
Họ chẳng đình cho, lại họp đông
Tiu nghỉu như mèo tai bị cắt,
Nước bày đem bán, bán không xong.
Một lần tuyển cử phá không xong,
Nay khối nhân dân vẫn một lòng.
Biết trước thôi đành câm miệng hến,
Tổng đình công hỡi! Tống đình công!
Xuân Diệu đối với các nhà thơ trẻ
Suốt
đời anh, nhất là từ năm 1954, sau ngày giải phóng miền Bắc, Xuân Diệu
luôn luôn theo dõi sự nẩy nở của những tài năng trẻ trong thơ ca, và anh
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các bạn trẻ làm thơ bằng những nhận xét
tỉ mỉ, chính xác về cả nội dung lẫn hình thức sau khi xem kỹ thơ của họ.
Những nhận xét của anh rất có lý, rất có tình được các người đồng
nghiệp trẻ tiếp nhận một cách sâu sắc mà thoải mái vì đó không phải chỉ
là vấn đề tu từ học, mà là câu chuyện đời, câu chuyện sống, câu chuyện tâm thành trong cảm xúc, cùng là câu chuyện
chính xác trong ngôn từ dân tộc. Và anh rất công phu sưu tầm cả những
bài thơ bích báo của quần chúng đem ra giới thiệu trên các báo và bình
luận làm cho nồi bật cái hay, cái nhuần nhị của giọng thơ quần chúng,
nghĩa là thơ dân gian mới. Ngay trong kháng chiến chống Pháp anh cũng đã
đi hết cơ quan này đến cơ quan khác tiếp xúc với đơn vị bộ đội này và
đơn vị khác, và đi vào thôn xã để sưu tầm những bài bích báo, những bài
ca dao của quần chúng cơ sở, và anh giới thiệu các bài ấy một cách rất
trân trọng trên báo Cứu quốc, và trên tạp chí Độc lập. Có lần anh Xuân
Thuỷ đã nói: “Xuân Diệu nhà thơ đa tình, cũng rất chí tình với văn nghệ
quần chúng. Xuân Diệu là tri kỷ của nhân dân làm thơ”. Tôi nghĩ không có
lời khen nào thấm thía và chính xác hơn sự đánh giá trên đây của anh
Xuân Thuỷ. Chính anh Xuân Diệu và Xuân Thuỷ đã cùng chủ trì một cuộc
chấm thơ do báo Cứu quốc hồi đó
tổ chức (1948). Hai người công phu đọc hàng ngàn bài thơ, bài ca dao,
và cũng chọn ra được mấy chục bài để tặng giải và để đăng báo. Chính anh
Xuân Diệu cũng tâm sự: “Mình vừa chấm thi, nhưng cũng vừa học được
nhiều cái hay trong cách quần chúng làm thơ”. Đó là một thu hoạch rất
chân thực của anh hồi đầu
kháng chiến. Rất nhiều bạn trẻ (như Vũ Quần Phương, như Nguyễn Bùi Vợi,
như Phạm Tiến Duật, như Nguyễn Duy...) đã viết những kỷ niệm về sự tiếp
xúc với Xuân Diệu, về việc nâng cao những bài thơ và nghề thơ của mình.
Riêng đối với hai nhà thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa và Khánh Chi thì anh
Xuân Diệu lại càng chăm sóc tỉ mỉ, gần như một người làm vườn tưới bón
cho những cây non mới trồng, cho những mầm mới nhú.
Trần
Đăng Khoa, mỗi năm rất nhiều lần đến gặp “chú Diệu” để được nghe chú
phân tích cái hay và cái chưa hay trong những bài thơ của mình. Trước
hết anh Xuân Diệu tấm tắc phục cái tài làm thơ tưởng như hồn nhiên mà
thật ra rất chín về nghệ thuật của Trần Đăng Khoa. Anh và tôi rất quí
cậu bé Trần Đăng Khoa, cậu bé nông thôn ở Nam Sách có cái cảm thụ, rất
mới, rất lạ, rất tươi về cuộc sống, về thiên nhiên, về quê hương, về con
người. Và cũng thấy rõ Trần Đăng Khoa mặc dù còn rất nhỏ tuổi đã biết
học vốn cha ông, và biết học những người làm thơ vào tuổi cha chú của
mình, và chúng tôi cũng khuyến
khích Trần Đăng Khoa đi vào hướng đúng ấy. Còn lúc phân tích cái chất
cảm xúc, nội dung tình ý, nội dung cảm giác nữa của những bài thơ, câu
thơ. Và anh đã viết nhiều bài giới thiệu thơ Trần Đăng Khoa trên các
báo. Nhà điện ảnh nổi tiếng của Pháp là Gérard Guillaume có dựng một
phim về Khoa mà thuyết
minh là của anh Diệu. Lúc anh Diệu mất đi, Trần Đăng Khoa cũng như
nhiều bạn thơ trẻ khác đã khóc nức nở, đau như thắt ruột lại theo lời
của các bạn. Chính anh Tố Hữu cũng đã có nhận xét: “Xuân Diệu là người
chí tình với giới nhà thơ trẻ, có tấm lòng cưu mang với những mầm non,
đó là một cái gương sáng”.
Đới với
cô bé Khánh Chi (bây giờ thì đã lớn lắm rồi, và đang học đại học Tổng
hợp văn tại Liên Xô) anh Diệu ít có dịp tiếp xúc như với Trần Đăng Khoa
nhưng anh cũng đã theo dõi sát sự hình thành của tài thơ Khánh Chi, và
anh đã trân trọng viết bài tựa cho tập thơ Gởi gió về cho nội của Khánh
Chi do nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Khánh Chi và Trần Đăng Khoa đều
là hai nhà thơ thiếu nhi có tài nhưng tính cách thơ rất khác nhau. Anh
Diệu đã từng nói: “Trần Đăng Khoa là hương hoa nông thôn, còn Khánh Chi
là cái lấp lánh của ánh đèn thành thị. Thơ Trần Đăng Khoa sát gần cảm
giác, gần cảm xúc, cũng có phần khái quát, nhưng không khái quát cao.
Còn Khánh Chi thì cảm xúc đã tổng hợp, và đã khái quát vào trí tuệ”. Đó
là nhận xét của “chú X.D”.
Những tháng ngày tôi đi thâm nhập thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả
Tháng
8 năm 1958, sau cuộc tổng kết đấu tranh chống bọn Nhân văn giai phẩm,
có chủ trương văn nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế cuộc sống sâu hơn và bền
hơn. Tôi xin đi về vùng mỏ than Hòn Gai - Cẩm Phả vừa là để chỉ đạo
phong trào văn hoá văn nghệ tại tỉnh Quảng Ninh, và vùng mỏ, vừa là để
tìm hiểu sâu hơn cuộc sống của công nhân mỏ. Giữa tháng 8, sau khi tiếp
xúc với Tỉnh uỷ, Uỷ ban tỉnh, với Ty văn hoá, với ban giám đốc và công
nhân ở thị xã Cẩm Phả, tôi về nhà bác Dậu. Bác Dậu đã có tuổi nhưng cũng
còn làm việc ở trong một Xường của mỏ, còn hai người con trai của anh
Hưng và anh Hợp đang tuổi trai tráng làm công nhân cuốc than vào loại có
năng suất cao, và em gái tên là Gái thì làm công nhân xúc than ở trong
nhà sàng than. Còn người anh cả thì làm công tác bảo vệ mỏ Đèo Nai, vợ
anh cũng là công nhân ở trong nhà sàng than. Tôi ăn ở nhà bác Dậu, hoàn
toàn như người trong gia đình, cùng ăn cơm với gia đình, không có gì là
thức ăn làm riêng cho tôi, và ngủ thì tôi ngủ chung giường với anh Hợp.
Tắm rửa, thì nhà có một cái giếng rất trong bên cạnh mấy bụi mía và một
cây chanh, tha hồ tắm giặt một ngày mấy bận cũng được. Mà thật ra phải
tắm rửa nhiều, ít nhất là một ngày hai lần, vì mỗi lần lên tầng mỏ về áo
quần đầy bụi than và bụi đường.
Tôi
được bố trí làm công nhân cuốc than cùng một tổ với anh Hợp, cứ mỗi
buổi sáng hai anh em lại ăn sáng thật sớm rồi ra bến xe ở gần xưởng cơ
khí để xe cam nhông chở chúng tôi lên tầng than Đèo Nai. Xe thì cao tôi
thì thấp, leo lên thành xe cũng khá vất vả nhưng mấy ngày là quen dần.
Đứng trên xe khá chật, nên dù xe lên đèo có lúc lắc nhiều, nhưng cũng
không phải chao đảo lắm, và cũng không chóng mặt. Tôi lại còn cái thú là
đứng trên xe nhìn xuống thị xã Cẩm Phả rất đẹp với những mái ngói đỏ
chêm giữa những lùm cây xanh tốt, và xa xa ngoài kia là vịnh Bái Tử
Long. Con đường đi lên đèo hơi dốc, nhìn ra cảnh mấy phía đều ngoạn mục,
nhất là lúc đó đã vào mùa thu, nắng hanh vàng rất đẹp. Lên đến tầng
than của chúng tôi, tôi được phân công xúc than cho vào những chiếc
goòng phải xúc luôn tay vì các xe goòng nối tiếp nhau chuyển
than ra máng than. Những anh công nhân đào than (gọi là khao than) thì
đứng trên cao vỉa than đào xuống bằng những cái choàng to và nặng, các
anh rất khéo cho choàng vào những điểm thích hợp làm cho mỗi lần choàng
đào vào là từng mảng than lớn đổ xuống, có khi có những khối than to
bằng cái chum lăn xuống.
Mấy
ngày đầu tôi xúc than chưa quen, cứ lấy hết sức hai tay mà nâng cái xẻng
to đầy than cho than lên goòng, khá mệt. Nhưng sau đó tôi đã bắt chước
các anh chị công nhân lấy bắp đùi làm điểm tựa mà hất cái xẻng than vào
goòng thì vừa nhẹ, vừa nhanh, năng suất khá cao. Tất nhiên là vẫn còn
mệt, và mặc dù mùa thu đã se lạnh, mà vẫn toát mồ hôi. Nhưng chỉ hơn một
tuần là tôi đã thạo công việc xúc than, có thể nói là cái nghề xúc than
của tôi. Và cuối tháng, họp trong tổ công nhân, mặc dù tôi không ăn
lương của mỏ, nhưng cũng được xếp hạng vào loại công nhân có năng suất
trung bình, nghĩa là ăn lương tháng 70 đồng (loại kém chỉ được 40-50
đồng, loại giỏi thì có thể được 90-100 đồng). Buổi trưa, cũng như anh
Hợp tôi mang cà mèn cơm và thức ăn đi theo, ăn trưa tại mỏ, trong một
cái lán che lá hoặc che vải bạt cùng với tất cả anh chị em công nhân
cùng tầng. Cơm trưa có chút cá kho, đôi khi có cả tầu xì (là một thứ đậu muối mặn và hơi chua, là thức ăn quen thuộc của người Hoa kiểu sống ở mỏ).
Hoạ
hoằn lắm, mẹ anh Hợp mới cho vào cà mèn của anh và của tôi vài miếng
thịt kho. Nhưng không biết có phải vì đói không mà tôi ăn những bữa cơm
trưa trên Đèo Nai rất ngon, và uống nước gạo rang trong cái thùng ở lán
cũng rất ngon. Ăn trưa xong chúng tôi nghỉ một lát, không đủ thì giờ để
ngủ trưa (nhưng thường ở nhà tôi vẫn ngủ 15-20 phút chỉ ngồi dựa vào cái
cột tre của lán thiu thiu một chốc. Đến 1 giờ chiều, chúng tôi lại tiếp
tục ra vỉa than, người thì khao, người thì xúc. Cũng có lúc tôi đổi
việc, đi đẩy xe goòng chở than đến máng than, công việc tường nhẹ, nhưng
cũng phải cật lực mới đẩy xe chạy nhanh theo nhịp độ cần thiết được.
Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi lại lên xe tải để về dưới phố Cẩm Phả. Lại
một dịp cho tôi ngắm toàn cảnh mỏ Đèo Nai, và thị xã Cẩm Phả, cùng vịnh
Bái Tử Long trong nắng chiều vàng, cái cảnh tôi được ngắm hàng ngày đó
được thể hiện trong nhiều bức tranh (sơn mài có, sơn dầu có) của các hoạ
sĩ đã về thâm nhập vùng mỏ. Hàng ngày, sau bữa cơm chiều cùng với gia
đình bác Dậu, tôi đi thăm các gia đình công nhân, tìm hiểu đời sống vật
chất của họ, và nhất là quá trình làm thợ mỏ của mỗi người. Có khi tôi
còn được các bác, các anh chị công nhân tâm sự cho tôi nghe cả chuyện nhà cả chuyện riêng tư từ lịch sử gia đình cho đến lịch sử của mỗi lứa đôi.
Chính trong những buổi tiếp xúc thân mật, thân tình ấy, mà tôi đã được
hiểu cặn kẽ cuộc đời của anh Tài Lạc, của anh Phòng, của bác Sự, của bác
Xướng, của chị Bồi, của chị Tâm, của anh Hợp và của rất nhiều người
nữa. Tôi cũng được tiếp xúc với nhiều công nhân đã từng tham gia đấu
tranh trong thời kỳ Pháp còn tạm chiếm vùng mỏ, như bác Phở Cầu, như gia
đình của 5 người con gái anh hùng Cẩm Phả. Tôi cũng được tiếp xúc với
những người thân thuộc của anh Điều mù... Có lúc tôi ngồi nói chuyện đã hơi khuya (khoảng 10 giờ tối) muốn xin phép về, thì bà con giữ lại nói chuyện
và tâm sự thêm. Bà con cũng biết tôi làm công tác gì, và nghe mang máng
là tôi làm thơ, nhưng dần dà bà con thấy tôi thân tình và gần gũi như
người nhà nên có khi còn nhắn tôi đến nói chuyện,
nhất là những ngày chủ nhật mà bà con được nghỉ. Cũng một số lần, các
bác, các anh chị còn mời tôi ăn cơm với gia đình, cũng có khi tôi từ
chối được, nhưng cũng có trường hợp không thể nào không dự bữa cơm thân
tình đó.
Anh Hợp rất nhanh chóng
trở thành người anh em của tôi thật sự anh xem tôi như anh em ruột thịt,
nhắc tôi đi làm như bạn cùng nghề, chia với tôi cái chăn bông như anh
em ruột. Công nhân ở mỏ có người đã hai ba đời là công nhân, nhưng cũng
khá đông là mới ở các tỉnh về bổ sung vào đội ngũ. Số khá đông là người
từ Thái Bình, Nam Định ra đây, kể cả công nhân mấy đời hoặc công nhân
mới vào vùng mỏ.
Cũng có nhiều công
nhân Hoa kiều, ở đây đã lâu đời và họ làm việc rất chăm chỉ, rất có năng
suất, có người đã được tuyên dương anh hùng lao động (anh Hồ Xây Dậu).
Tôi cũng đã đến thăm mấy gia đình công nhân Hoa kiều, bà con cùng nói chuyện tâm sự với tôi, kể cả chuyện
lo dựng vợ gả chồng cho con. Bà con Hoa kiều sống khá hoà nhập vào cộng
đồng người Việt Nam tại mỏ. Trong thời kỳ tôi đi xâm nhập vào thực tế
cuộc sống ở vùng mỏ, báo Nhân dân có đưa tin, và có đăng một cái ảnh của
tôi đang xúc than ở Đèo Nai. Thế là có mấy tờ báo của bọn nguỵ ở Sài
Gòn đưa tin xuyên tạc, và bảo rằng “nhà thơ Huy Cận chắc là không được lòng lãnh đạo cộng sản nên đã bị đày ải đi làm phu mỏ ở Hòn Gai....
Tất
nhiên là tôi không cần cải chính, mà báo Nhân dân thì cải chính gián
tiếp bằng cách đăng nhiều bài thơ của tôi viết về vùng mỏ lúc đó... Sau
mấy tháng đi lao động ở vùng mỏ về, tôi có được gặp Bác Hồ trong một
cuộc Bác gặp chung nhiều văn nghệ sĩ khác đi thực tế các nơi về. Bác bảo
“chú đưa tay tôi xem!” Và Bác sờ thấy có chai khá dày ở trong bàn tay
thì Bác cười: “Có lao động thật đó, chú xúc được nhiều than, và làm được
nhiều thơ, thế là tốt”. Đến lúc bài thơ của tôi nhan đề là Năm người
con gái anh hùng Cẩm Phả đăng lên báo Nhân dân, được Bác xem, thì Bác
gởi ngay 5 huy hiệu
của Bác về cho Uỷ ban thị xã Cẩm Phả để tặng 5 gia đình đã có 5 người
con gái hy sinh oanh liệt tại mỏ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Cùng đi về mỏ trong một chuyến với tôi có các nhà thơ Khương Hữu Dụng, anh Huy Thành
đạo diễn điện ảnh, anh Lê Thọ Vụ trưởng Vụ đào tạo của Bộ Văn hoá có cả
anh Phạm Chính trưởng ty văn hoá Quảng Ninh và mấy anh em khác trong
Ty. Chúng tôi hội ý đều với nhau về công tác văn hoá văn nghệ quần chúng
tại mỏ cùng anh Đặng Trần Nhân phụ trách công tác văn hoá trong công
đoàn mỏ. Còn anh Khương Hữu Dụng thì không phải hội ý, mà là “hội thơ”,
vì mỗi lúc làm được bài thơ mới, chúng tôi lại đọc cho nhau nghe, và góp
ý góp từ cho bài thơ... Trong mấy tháng (gần 4 tháng) tôi ở mỏ, có
tranh thủ đi thuyền
ra Vịnh Hạ Long, và ra mấy hòn đảo ở trong vịnh. Những ngày tháng tôi
sống ở mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả là những ngày tháng đẹp trong đời tôi. Lần
đầu tiên tôi được tiếp xúc với giai cấp công nhân của ta, không những
bằng những câu chuyện
thăm hỏi, mà bằng cả lao động hàng ngày với họ. Những tình cảm mà tôi
nhận được là như tình cảm bà con ruột thịt và những tình cảm mà tôi có
được trong lòng cũng là những tình cảm ruột rà thân thích đối với những
người mà thật tình tôi thấy như là anh em máu mủ của tôi. Tôi sống và
lao động ở mỏ với tất cả cái hào hứng của một nhà thơ, của một cán bộ
muốn đi sâu vào phong trào quần chúng, của một con người vốn ham giao
thân với nhiều người khác, ham kết bạn với những con người chân thực,
với những tấm lòng bè bạn. Đối với tôi việc lao động ở mỏ, việc làm thợ
mỏ trong mấy tháng không có gì là khó khăn, không có gì là phải cố gắng,
một phần có lẽ nhờ tôi có sức khỏe, nhưng một phần chính là nhờ cái
lòng hào hứng, lý thú vừa nói trên kia.
Mấy
tháng đó tôi đã có một đợt sáng tác mới, rất mới đối với tôi. Tôi đã
viết được mấy chục bài thơ về cuộc đời của công nhân mỏ, về lao động ở
mỏ, về cái không khí, có thể nói là hào khí bắt đầy xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở vùng công nhân tập trung này. Những bài thơ ấy đã in trong tập
thơ Trời mỗi ngày lại sáng (15 bài về mỏ in ở đầu sách) (xuất bản cuối
năm 1958), và còn in tràn sang tập thơ sau Đất nở hoa (xuất bản năm
1960).
Những bài Anh Tài Lạc, Năm người con gái anh hùng Cẩm Phả, Bác Phờ Cầu, Chuyện anh Phòng đấu tranh, Vệt lá trên than, Thu về trên Đèo Nai, Đoàn thuyền
đánh cá, Sập lò cái đá, Tiếng sào anh Điều mù, Mưa xuân trên biển, Một
đêm thức trong mưa bão,... đều được viết tại nhà bác Dậu, có khi viết
trên tầng than Đèo Nai... Khi tôi ở vùng mỏ về, anh Tố Hữu và các bạn
thơ đều mừng cho tôi “được mùa thơ mới”, anh Tố Hữu còn nói thêm “Thơ xã
hội chủ nghĩa là đây đây. Tôi rất biết ơn vùng mỏ, anh chị em công nhân
mỏ đã gieo cho tôi và giúp tôi gặt mùa thơ mới mẩy hạt ấy”.
Tôi đi nghe hát chèo ở Hoài Đức
Cuối
năm 1940 trời đã lạnh, một hôm Khái Hưng rủ tôi và Tú Mỡ, Thế Lữ đi
nghe hát chèo tại phủ đường của phủ Hoài Đức, nơi mà Trần Tự, em ruột
của Khái Hưng, làm tri phủ hồi đó.
Tôi ra Hà Nội đã xem hát chèo một vài lần ở rạp chèo của ông Nguyễn
Đình Nghị ở phố Hàng Quạt, nhưng xem chèo ở nông thôn Bắc Bộ thì chưa
bao giờ.
Tối hôm đó, tại phủ
đường, một gánh chèo ở nông thôn được Trần Tự mời đến cũng chỉ diễn
những trích đoạn của mấy vở chèo truyền thống: Suý Vân giả dại, Quan âm
Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, cốt là để chúng tôi nghe các làn điệu
thưởng thức cái giọng nghe nói là đặc sắc của mấy đào, kép quanh vùng.
Tất nhiên là ông phủ và chúng tôi cùng xem kỹ, xem tận mắt và tận mặt
những trò độc đáo của đào kép, những “miếng” chèo độc đáo của gánh chèo
này. Sân khấu diễn cũng là mấy chiếc chiếu cạp điều trải trên nền phủ
đường, nơi quan phủ Trần Tự thường ngồi xử kiện. Khái Hưng giải thích
cho tôi biết đó là cốt phục hiện đúng cung cách diễn chèo truyền thống ở
các đình làng xưa. Và Khái Hưng cũng dẫn giải cho tôi hiểu sâu thêm các
làn điệu chèo và cái hay trong cách diễn xuất của mỗi đào, kép, đặc
biệt là anh đã bình luận kỹ cho tôi nghe về các vai hề, và về tiếng
trống đế trong chèo. Buổi biểu diễn kéo dài đến khuya
và ông phủ Trần Tự mời cả gánh chèo ở lại ăn cháo gà, và “thường” cho
gánh một số tiền tôi không biết là bao nhiêu. Chúng tôi cũng được ăn
cháo gà, và còn ngồi nói chuyện
thơ văn một lúc rồi mới lên xe về Hà Nội. Về sau tôi xem cái truyện
ngắn Dọc đường gió bụi của Khái Hưng, tôi rất thích thú, vì anh tả cái
say mê nghệ thuật của đào Mơ và của tất cả gánh chèo một cách rất thấm
thía, rất sâu đầy cảm tình với môn nghệ thuật dân gian truyền thống của
cha ông. Cô đào Mơ là một hình ảnh đẹp còn lưu lại trong trí nhớ của
tôi, nói lên một sự gắn bó với cái gì là vốn cổ của cha ông, với cái gì
là cảm xúc mộc mạc mà đằm thắm của đồng bào ta ở nông thôn trong xã hội
cũ. Sau này, trong nhiều năm làm công tác chỉ đạo nghệ thuật, cùng anh
em chăm lo phục hồi và nâng cao luôn nghệ thuật chèo, tôi vẫn không quên ấn tượng về cô đào Mơ.
Viết thêm về tập hồi ký Đi hoang của Tịnh Hà
Một
đoạn trên tôi đã kể về nỗi thương tâm lớn của anh Diệu là số phận long
đong của Tịnh Hà, em cùng cha cùng mẹ của anh, và tôi cũng đã nói qua về
tập hồi ký Gió cuốn bụi đời (Đi hoang) của Tịnh Hà.
Nay tôi xin chép vào đây lời tựa của chính anh Tịnh Hà viết cho tập hồi ký của mình, tựa viết tại Sài Gòn ngày 15-7-1942:
“Không
hiểu vì sao, hễ cứ chiều đến, và mỗi một cơn gió bắc hay làn gió nam,
thì tôi lại thấy lòng tôi buồn thấm thía, cái buồn ăn sâu vào tâm khảm.
Nhưng
cũng có một chỗ trống trải, một chỗ đáng để cho tôi ghi nhớ suốt đời,
vì tôi là một kẻ không có gia đình, đời sống lẻ loi, cô độc.
Thượng
đế đã làm cho tôi như thế. Từ vật chất đến tinh thần tôi hoàn toàn là
một nạn nhân của đau khổ. Tôi đã nhiều phen nuốt lệ, để gượng cười mà
cảm ơn Thượng đế, Thượng đế đã thương tôi và đã đào tạo một hột cát nhỏ
bay từ chỗ này sang chỗ khác, mỗi khi gặp một trận bão lòng lôi cuốn.
Nhưng
tôi đã hiểu đời tôi như thế tôi cũng gắng mà đi theo ngày giờ vàng ngọc
mà tôi đã phí bỏ trong 7 năm trường. Tôi sẽ thuật lại đời gió bụi của
tôi, lăn lóc trong 7 năm qua, tôi sống cực, sống tủi để xem đời và hiểu
đời. Than ôi! Đến nay vẫn còn nửa cuộc đời tôi còn lại dài lắm, và càng
khổ nhiều hơn nữa, nhưng tôi phải ngượng tiến bước, và tiến lên nữa, tuy
rằng, đến đây tôi thấy thân hình tôi đã tiều tuỵ và yếu đuối lắm rồi.
Các bạn đời của tôi ơi! Các bạn hãy đọc cho thật kỹ và phải có hiếu để tránh những lỗi sai lầm, lỡ bước như tôi”.
Đó là lời tựa. Tôi sẽ cùng Tịnh Hà xem kỹ lại tập hồi ký Đi
hoang, giúp Tịnh Hà sửa sang lại chút ít chủ yếu không phải là trau
chuốt câu văn, và sắp xếp lại các sự kiện cho có mạch lạc, và chính xác
hơn nếu có đôi chỗ còn chưa rõ. Còn sự chân thực của hồi ký thì phải giữ nguyên.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- L
Hai tháng tôi dạy học trường tư ở Vinh
Sau
khi đậu tú tài toàn phần, tôi có ý định ra Hà Nội đi dạy học tư, và
viết văn, làm thơ, làm báo mặc dù tôi vẫn đâm đơn xin học bổng đi học
triết lý và văn khoa bên Pháp. Như một đoạn trên tôi đã kể, ngày
1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì tôi quyết định ở lại
nhà, vì cảm thấy sẽ có những biến cố lớn lao xảy ra với đất nước. Trong
lúc chờ đợi, được lời mời của ông Hà Thúc Chính, tôi nhận lời dạy văn ở
trường “Chính hoá” tại Vinh.
Ông Hà Thúc
Chính và người anh của ông là Hà Thúc Kính (và vợ ông là bà Kiệm) được
tôi nhận lời dạy thì rất mừng, rất hoan hỉ vì lúc đó tôi đã bắt đầu nổi
tiếng về mặt thơ văn, mà học sinh dạo ấy rất “mê tín” các nhà thơ mới
dạy văn chương. Tôi dạy môn văn cho cả 3 lớp đệ nhất, đệ nhị, đệ tam
(ban thành chung). Trong số học sinh học năm thứ nhất với tôi lúc đó có
anh Chính Hữu, anh Đào Văn Lan (hiện là đại tá) và một số khác nữa mà về
sau tôi thường gặp lại trong kháng chiến chống Pháp.
Anh Chính Hữu trong một bài hồi ký đăng
ở tạp chí văn học Hà Nội có nhắc đến “thầy Huy Cận” khi anh học ở
trường Chính Hoá. Tôi dạy văn đương nhiên là dựa theo chương trình,
nhưng cách chọn bài để giảng, và cách giảng thì cũng khá tài tử.
Tôi
đã để cả hai buổi liền để giảng một đoạn ngắn trong Truyện Kiều. Đó là
đoạn nói Kim Trọng trở lại thăm vườn Thuý sau khi chịu tang chú ở Liêu
Dương trở về:
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song giăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời...
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Sập sè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy
Đi về này những lối này năm xưa...
Riêng
hai câu cuối của đoạn thơ trích trên đây, tôi đã để cả tiếng đồng hồ để
phân tích cái hay, cái bề sâu của tình cảm của Nguyễn Du đối với nhân
vật.
Cái câu Đi về này những lối này năm
xưa, tôi hỏi học sinh rằng đó là lời của ai? Tất nhiên là các bạn học
trò của tôi đều trả lời là lời của tác giả dẫn truyện. Tôi lại hỏi có
thể là lời của ai nữa không, thì có một cô học sinh (nếu tôi nhớ không
sai là chị Đính, con của bà Kiệm) đứng lên nói ngập ngừng: “Cũng có thể
là lời nói thầm của Kim Trọng... Vì trong bản Kiều ngày xưa cũng như
ngày nay không có dấu ngoặc kép trên câu thơ này nên có thể hiểu là lời
của tác giả hay lời của nhân vật cũng được.... Cô Đính nói xong, mà như
chưa tin ở sự phân tích của mình cho nên có vẻ ngượng ngùng và xin lỗi
thầy và các bạn học là đã mạo muội đưa ra một ý nghĩ ngớ ngẩn. Tôi nói:
“Chị Đính được 20 điểm, vì chị đã hiểu sâu tâm lý của câu thơ”. Tôi lại
hỏi có thể là lời của ai nữa không thì cả lớp ngồi im. Tôi nói với các
em: “đó còn có thể là lời của cảnh vật, của tạo hoá thông cảm với nỗi
nhớ nhung bùi ngùi của Kim Trọng mà thốt lên, mà nói to lên cái điều mà
Kim Trọng đang cảm nghĩ thầm. Khác nào như ta thấy cảnh vật của vườn
Thuý đang nhìn vào Kim Trọng, đang chỉ tay vào Kim Trọng mà nói anh trở
lại thăm vườn, những bước chân anh đang đi trên con đường ngày trước đó,
những lối đường mà anh và chị Thuý Kiều đã cùng dạo ban đêm....
Các
học sinh của tôi đều thiết tha cho rằng sự phân tích của thầy là đi vào
tận cùng tình cảm của tác giả, của nhân vật, và thấu được cả ý thầm của
tạo hoá thông cảm với con người. Cho đến nay tôi vẫn nghĩ rằng lời
giảng văn trên đây của “thầy Huy Cận” là chấp nhận được, là chính xác.
Tôi lại yêu cầu học sinh của tôi sưu tầm ca dao, đặc biệt là ca dao Nghệ
Tĩnh, mỗi học sinh phải nộp cho tôi ít nhất là 100 câu ca dao, hễ trò
nào chép được nhiều câu hay thì được điểm cao. Tôi lại nhớ chính cô Đính
đã cung cấp nhiều câu hay nhất và được 18 điểm. Tôi hỏi cô làm sao sưu
tầm được nhiều câu hay như thế, thì cô thưa là mẹ cô (bà Kiệm) đọc cho
cô chép mà cũng chưa đọc hết kho của bà.
Đầu
tháng 10-1939, tôi nhận được điện của anh Diệu gọi ra đi học trường cao
đẳng Nông lâm, vì tôi đã trúng tuyển. Thầy trò trường “Chính hoá” làm
một bữa cơm tiễn tôi với tình cảm hết sức lưu luyến. Bà Kiệm cũng có mặt
trong bữa cơm, và ra về, và nói nhỏ với tôi: “Nhà thơ còn bay nhảy
nhiều, còn rong ruổi trên con đường danh vọng chứ đâu thiết gì đến cái
đất Vinh và trường “Chính hoá” nhỏ bé này... Ở đây chắc chẳng có gì đáng
níu chân nhà thơ lại....
Tôi cũng không hiểu hết ý “ngôn ngoại” của bà, tôi chỉ biết bà rất đẹp với hàm răng đen nháy như hạt na, với đôi mắt
nhìn rất quyến rũ. Bà hơn tôi 10 tuổi và tôi cũng đã nghe nói qua về
những mối tình lãng mạn rất đẹp của bà... Hôm tôi đáp tầu hoả ra Hà Nội,
học sinh ra tiễn rất đông, và bà Kiệm cũng có ra ga chào tôi, cùng đi
với cô con gái... Hai tháng ở trường “Chính hoá” là đoạn đời đi dạy học
duy nhất của tôi cộng thêm với 1 năm làm gia sư ở nhà bác sĩ B.D. Hồi tôi
còn học ở ban thành chung, tại trường Quốc học, tôi vẫn mơ ước một ngày
kia làm giáo sư dạy trường trung học để được giảng văn thơ Việt Nam và
văn thơ Pháp cho học sinh, thủ thỉ với họ truyền cảm cho họ cái hay mà
tôi thu nhận được vào tâm trí mình, vào lòng mình nữa. Nhưng cuộc đời đã
không chiều mơ ước tuổi nhỏ của tôi, cho nên nếu tôi kể hơi dài dòng về
mấy tuần dạy tư ở Vinh thì bạn đọc cũng phải thông cảm cho chút nuối
tiếc của tôi đối với hoài bão muốn làm giáo sư dạy văn của “chàng thơ”
thuở ấy.
Anh Xuân Diệu viết bài giới thiệu thơ tôi trên báo Ngày nay
Bài
thơ đầu tiên của tôi đăng ở báo Ngày nay (số Tết năm Mậu Dần, 1938) là
bài Chiều xưa. Bài ấy tôi gởi cho anh Diệu xem (lúc đó tôi học năm thứ
hai tú tài ở Huế), anh Diệu bèn gởi đến báo Ngày nay bằng thư qua bưu
điện, như một bài thơ lai cảo. Thế Lữ đọc bài thơ thấy thích quá cho
đăng vào số Tết cùng trong một khung với bài Cảm xúc của Xuân Diệu. Thế
Lữ khoe với Xuân Diệu là đã phát hiện được bài Chiều xưa rất thích, và
hỏi Xuân Diệu có biết Huy Cận là ai không. Tất nhiên là anh Diệu giả
lời: “Chính tôi gởi bài thơ của Huy Cận đến báo đấy vì Huy Cận là bạn
thân của tôi, tôi không muốn tự tay mang đến, để cho khách quan”. Thế Lữ
gật gù trước cái thận trọng và tế nhị của Xuân Diệu đối với bạn của
mình và đối với toà soạn nữa... Về sau Thế Lữ gặp tôi cứ hay nhắc lại
câu chuyện gởi thơ đăng báo này, nhất là khi gặp dịp Tết về...
Sau
bài thơ ấy, báo Ngày nay đăng khá đều đặn thơ tôi liên tiếp suốt cả năm
1938 và 1939. Đến ngày 17-6-1939 trên số 166 báo Ngày nay, anh Diệu lại
viết bài giới thiệu thơ tôi với đầu đề: Thơ Huy Cận (Xuân Diệu phê
bình). Đoạn mở đầu như sau:
“Đã giáp một
năm nay, Huy Cận đã tới giữa chúng ta với những bài thơ đặc biệt, với
một tâm hồn có nhiều hương vị; một kho tàng tuy đương hỗn tạp nhưng thực
là giầu. Bổn phận của chúng ta đối với văn chương Nam Việt, chẳng phải
và ráng thấu hiểu để yêu mến những văn tài mới lên hay sao.... Và bài
phê bình - giới thiệu ấy kết thúc bằng đoạn sau đây: “Huy Cận! Một tâm
hồn đặc biệt quá, nồng cháy bên trong, e lệ bên ngoài, hay nói nhớ và
hay làm thinh, để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hay
lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc vì cái gì; vừa mạnh, vừa yếu,
rất mới và rất xưa, rất Âu tây và rất Á đông: nghĩa là cả con người,
con người phức tạp của muôn thuở.
Thơ Huy
Cận không phải là một lời hứa hẹn nữa. Thơ ông chỉ chờ một ít thời gian
để trút hẳn cái vỏ còn sót lại, và lộ ra bao nhiêu nụ hộc xanh tốt, mạnh
cứng, cho ta hưởng một hương sống rất lạ lùng.
Đến cuối năm 1940 tập Lửa thiêng của tôi ra đời thì anh Diệu lại đề tựa, một bài tựa khá nổi tiếng trong giới văn thơ hồi bấy giờ (tựa viết tháng 6-1940 tại Mỹ Tho). Lúc tập thơ
Hai bàn tay em của tôi xuất bản (năm 1967) anh Diệu lại viết tiểu luận
in ở đầu sách, và than ôi một tháng trước khi anh mất, anh vừa viết xong
tiểu luận giới thiệu tuyển tập của tôi (Thế giới thơ của H.C). Tội nghiệp cho bạn tôi! Anh đã để ra hơn 1 năm trời để viết bài giới thiệu tuyển tập của tôi. Anh công phu đọc đi, đọc lại không biết bao nhiêu lần 16 tập thơ
đã xuất bản của tôi đến lúc đó và gần 500 bài chưa đăng báo, chưa in
sách. Anh tỉ mỉ ghi chép những câu thơ, những đoạn thơ mà anh thấy là
cần sẽ trích dẫn vào bài bình luận của anh. Anh nói đùa với tôi: “Tôi
sống với ông cả một đời, mà tôi vẫn chưa ôm được hết cái khối thơ, cái
khối cảm xúc của ông! Huy Cận ơi, chưa bao giờ Xuân Diệu viết tiểu luận
về thơ vất vả như lần này! Đời thơ giàu có của Huy Cận quần mình mệt
quá.... Anh nói xong, hai chúng tôi cùng cười xoà với nhau. Hôm
5-12-1985, anh Diệu tiễn tôi đi họp ở Sênêgan, tiễn tôi đến chân máy bay
(đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối tiễn nhau đến tận máy bay như
vậy), và anh còn dặn tôi:
“Cận
nhớ mua kẹo ngon cho Diệu, thứ kẹo đặc biệt ở Paris ấy, có đắt một chút
cũng chịu khó mua, biết còn sống được bao nhiêu năm nữa mà cứ phải nhịn
thèm thì phí quá! Với lại Cận cũng phải thưởng cho bài giới thiệu tuyển tập viết
cả một năm trời chứ.... Lúc ghé qua Paris trên đường di Sênêgan tôi đã
mua một gói kẹo ngon cho bạn, có ngờ đâu lúc đem kẹo về Hà Nội là để
cúng bạn...
Nhân câu anh Diệu nói “Đời thơ giàu có” của tôi tôi lại nhớ đến hồi dầu
kháng chiến chống Pháp ở tại đồn điền Tuyên Quang, một đêm trăng anh
Diệu và tôi đã tâm sự với nhau về bước đường làm thơ... Lúc đó tôi thấy
làm thơ sao khó quá, mặc dù rất muốn làm, và tôi đã hơi bi quan, thầm
nghĩ không biết mình có còn tiếp tục được sự nghiệp văn thơ không. Nay
tuyển tập của
tôi đã ra, với bài giới thiệu công phu của bạn, tôi nhớ đến câu chuyện
đêm trăng ở đồn điền Tuyên Quang nửa phấn chấn, nửa bùi ngùi... Cuộc đời
đi qua mau quá...
Tưởng nhớ hai nhà phê bình văn học: Trần Thanh Mại và Thiếu Sơn
Tôi
nhắc tới tên hai anh, là vì khi tôi bước vào con đường văn thơ, với
lòng yêu tha thiết và da diết tiếng nước nhà, thì tôi đã được đọc hai
quyển sách của hai anh cùng chứa chan một hoài bão ấy. Quyển Trông giòng
sông Vị của anh Trần Thanh Mại xuất bản năm 1938, phát hành ở Huế, mà
tôi vội vàng mua ở hiệu sách Hương Giang của anh Hải Triều. Tôi đọc một
mạch cuốn sách, nó làm cho tôi yêu mến Tú Xương thêm, yêu mến cái đất Vị
Xuyên, quê hương của nhà thơ, và càng nung nấu trong tôi cái lòng yêu
tiếng Việt, cái chí trau dồi tiếng Việt vốn đã có sẵn từ khi tôi học lớp
nhất tiểu học. Cái cách anh Trần Thanh Mại kể lại cuộc đời của Tú Xương
(có tiểu thuyết hoá một chút) gợi lên cho tôi một sự mê say đi theo con
đường văn chương, cho dù phải gặp cảnh nghèo túng như nhà thơ đất Vị
Hoàng. Quyển sách của anh Mại là sách nghiên cứu, phê bình nhưng cũng
toát lên một cảm xúc thơ, một không khí thơ, có lẽ vì sự cảm thụ thơ của
anh có bề sâu và sự đồng cảm của anh với nỗi lòng của tác giả cũng
thống thiết. Mấy câu thơ của Tú Xương để lên đầu sách dưới bức vẽ nhỏ
minh hoạ ngôi nhà năm gian lợp lá gồi càng tăng thêm ý vị thơ của cuốn
sách:
Nhà gỗ năm gian lợp lá gồi,
Trông giòng sông Vị tựa non Côi,
Đầu nhà khanh khách vào làm tổ
Ngồi thấy chim con nó há mồi.
Sau khi đọc quyển sách của anh, trong lòng tôi đầy một sự cảm tình đối với anh Trần Thanh Mại. Lúc đó anh làm thư ký ở
kho bạc Huế, cùng với anh Phan Văn Dật (nhà thơ). Tôi có tìm đến gặp
anh ở kho bạc và nói chuyện với anh, tỏ lòng hoan nghênh quyển sách của
anh. Sau đó tôi còn gặp anh nhiều lần ở ngoài phố, ở trường tư Hộ Đắc
Hàm mà hình như anh có đến dạy văn mỗi tuần vài giờ ở đó. Anh thường
mang trong tay quyển Trông giòng sông Vị của anh, điều ấy không làm cho
tôi buồn cười, mà trái lại còn gợi lên cho tôi cái thú làm văn chương...
Vả lại Trông giòng sông Vị là cuốn sách của anh Mại, ai mà chẳng muốn
khoe đứa con đầu lòng của mình. Tiếp theo quyển sách của anh Mại là
quyển Phê bình và Cảo luận của Thiếu Sơn ra đời. Tôi cũng đã mua ngay
quyển ấy và cũng đọc một mạch, rất say sưa. Trong cuốn này Thiếu Sơn có
những bài phê bình nhân vật (như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Tuấn Khải,
Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Trọng Kim, Hồ Biểu Chánh, Tương Phố nữ sĩ, Nguyễn
Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Khôi), và phê bình ba quyển sách: Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật và Người vợ hiền
của Nguyễn Thời Xuân. Cuối sách là mấy bài Cảo luận: Nói chuyện quốc
học, Nói chuyện tiểu thuyết, Báo giời và văn học quốc ngữ.
Văn
của anh Thiếu Sơn chưa thật mới, còn pha biền ngẫu nhiều, nhưng tôi đọc
vẫn rung động vì lối văn nửa cổ nửa kim ấy vẫn chứa đựng được những cảm
thụ tinh tế, sâu sắc của anh, có thể nói là cảm xúc rung động của mình
trước những tác phẩm, hay trước những con người mà anh cảm mến. Hãy kể
một ví dụ: kết thúc bài phê bình Huỳnh Thúc Kháng, anh viết: “Nhà chí sĩ
cũng như khách đa tình bao giờ cũng có cái tâm lý thiên lệch: khách đa
tình thì thiên lệch về tình, nhà chí sĩ thì thiên lệch về nước”. Lại một
ví dụ khác: viết về Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), anh có đoạn: “Trong cõi
lòng đó (cõi lòng nhân loại), từ thượng cổ đến nay, những sự bi thương
oán cảm, những điều khoái lạc ham vui, không bao giờ là không có, mà
cũng không bao giờ là không sanh. Thương ai mà ngậm ngùi? Nhớ ai mà thơ
thẩn? Mất ai mà đau lòng? Cùng ai mà vui sướng? Ta không có văn tài mà
tả diễn được ra, thì nhà thi sĩ chính là để giúp ta mà cho ta coi được
tới cái cõi lòng của ta vậy...
Cuốn sách
của anh Thiếu Sơn cũng chứa chan một tinh thần yêu trọng quốc văn, cùng
một hoài bão xây dựng nền văn học, nền văn hoá dân tộc cho có bản sắc.
Tất nhiên tôi không đồng ý hết những điều nhận xét của anh về nhân vật
hay về tác phẩm được anh phân tích, nhưng cái điều tôi quí ở anh là tấm
lòng đối với tiếng nước nhà. Sau này tôi muốn tìm gặp anh để nói chuyện
văn thơ, nhưng không có dịp gặp vì anh làm sở bưu điện ở trong Nam. Mãi
năm 1974, lúc anh ra Hà Nội dự Hội nghị MTTQ, anh em mới gặp nhau sau
bao nhiêu năm biết nhau qua tác phẩm. Anh đề tặng tôi và anh Xuân Diệu
quyển Phê bình và cảo luận mà tôi đã mua được ở một hiệu sách cũ.
Xuân Sanh và tôi gởi tập thơ cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng
Hè năm 1935, Xuân Sanh, tôi và bạn Nguyễn Xuân Tám cùng ở lại Huế như tôi đã kể ở một đoạn trên.
Xuân
Sanh và tôi thấy đăng trên các báo có Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng
xuất bản thơ và tiểu thuyết bèn nảy ra cái ý là gởi thơ cho nhà này.
Hai anh em tập hợp được một tập thơ chung khoảng 50 bài, lấy nhan đề gì tôi cũng quên mất, chép rất cẩn thận và ra bưu điện gởi tập thơ theo lối bưu kiện bảo đảm. Kèm tập thơ
chúng tôi có thư dặn nhà xuất bản là tiếp được tác phẩm của chúng tôi
có định xuất bản hay không, thì cũng trả lời cho chúng tôi biết. Chúng
tôi chờ cho đến hết hè cũng không thấy thư trả lời, rồi tựu trường vào
vẫn mong ngóng chờ thư từ Hải Phòng gởi đến... Vậy là nhà xuất bản Mai
Lĩnh không xuất bản tập thơ
của hai chúng tôi, mà cũng không thèm trả lời. Nhưng không phải vì vậy
mà chúng tôi nản làm thơ. Sau này, nhà xuất bản Mai Lĩnh phải đóng cửa,
vì thua lỗ, nhưng chắc chắn Xuân Sanh và tôi không chịu một chút nào
trách nhiệm trong sự thua lỗ ấy. Biết đâu, nếu xuất bản tập thơ
của chúng tôi thì nhà xuất bản còn có thể kéo dài tuổi thọ thêm vài
tháng!... Có một người ở Hải Phòng, có biết nhà xuất bản này, về sau gặp
tôi có cho tôi biết là quảng cáo thì trưng cái tên nhà xuất bản cho nó
oai, chứ sự thực thì cũng chả in được bao nhiêu sách, và chủ yếu là ông
chủ làm nghề khác, buôn bán hàng xuất khẩu là chính. Nhưng dạo ấy cũng
có cái mốt là một số nhà buôn cứ muốn kiêm cái tên giám đốc nhà xuất bản
này nọ...
Những tháng tôi thực tập kỹ sư ở đồn điền Canh nông
Cuối năm 1941, tôi được cử lên thực tập kỹ
sư ở đồn điền thí nghiệm Canh nông Tuyên Quang (đồn điền của nhà nước)
cùng với anh Hoàng Văn Đức, bạn cùng lớp với tôi ở trường cao đẳng nông
lâm. Tôi đã xin làm việc ở sở nghiên cứu tằm tang trong Viện nghiên cứu
nông lâm toàn Đông Dương, tại Hà Nội. Và do đó, trong năm học cuối cùng,
tôi đi sâu vào môn học về sâu bọ, và chuyên khoa là nghiên cứu về tằm
và ong. Yêu cầu của tôi được giám đốc nhà trường và Viện nghiên cứu nông
lâm chấp nhận dễ dàng, là vì không ai trong lớp tôi và cả những lớp
trước đâm đơn vào Viện nghiên cứu. Còn tôi, sở dĩ xin vào Sở nghiên cứu
tầm tang, là cốt có một chân làm tịnh tại Hà Nội, để còn làm thơ, viết
văn. Nói một cách khác là tôi chọn Hà Nội, chứ cũng chả phải chọn cái
nghề mổ xẻ con tằm, soi kính hiển vi các bệnh gai của tằm, hay là ngồi
hàng giờ bên tổ ong theo dõi con ong chúa đẻ trứng, và các con ong thợ
tha phấn về tổ. Tuy vậy cái chuyên môn tằm tang và ong mật cũng phù hợp
với cái thú thôn dã của tôi đã có từ bé. Trong lúc chờ đợi để nghiên cứu
tại Sở ở Hà Nội, thì tôi phải thực tập ba
tháng ở đồn điền, để biết công việc chung của một kỹ sư canh nông, từ
trồng trọt cho đến chăn nuôi. Anh Đức thì sẽ về làm việc ở Sở canh nông
Bắc Bộ. Anh đi sâu nghiên cứu môn trồng trọt các cây công nghiệp ở đồn
điền: mía, cà phê, chè, trầu,... và anh cũng xem xét việc chăn nuôi bò,
lợn, gà ở đồn điền. Tất nhiên tôi cũng theo dõi, tìm hiểu các môn trên,
và được anh Đức giúp đỡ rất nhiều, gần như là phụ đạo cho tôi trong
chuyến thực tập này.
Đồn điền có một ông giám đốc và một anh phó giám đốc người Pháp. Tay
giám đốc mà tôi quên mất tên thì suốt ngày uống rượu, và cứ chiều thứ
năm, thứ bảy và chủ nhật là sang thị xã Tuyên Quang vào câu lạc bộ Tây
để uống rượu và chơi bài. Bà vợ không đẹp lắm, nhưng cũng có duyên, và
luôn luôn đi cặp kè chồng, cả những khi tay giám đốc đi thăm các vườn
chè, vườn cà phê hay ruộng mía. Mỗi lúc tôi gặp lão giám đốc, thường là
gặp ở bến đò đi sang thị xã, thì tôi nói chuyện với lão về văn thơ, nhất
là văn thơ Pháp nhiều hơn là về trồng trọt chăn nuôi. Hai vợ chồng nghe
tôi nói chuyện cũng tỏ ra thích thú, và hình như câu chuyện của tôi
cũng gợi lại sự nhớ nhà nhớ nước của hai vợ chồng, gợi lại những kỷ niệm
tuổi nhỏ của họ qua những liên tưởng mà câu chuyện văn thơ Pháp của tôi
dẫn đến. Còn tay phó giám đốc, trẻ hơn, thì không biết gì về chuyên
môn, đại khái anh ta như là một người cai đồn điền ở bên Pháp được cử về
đây để “quản lý” công việc làm của công nhân đồn điền ở đây. Thế nhưng
thỉnh thoảng anh ta cũng tỏ ra có lắm chuyên môn, cũng có nhận xét này
nọ trước các vườn thí nghiệm, bằng cách học lỏm các thầy tham biện canh
nông ở đồn điền như ông Tri, ông Điền... Nhưng anh ta làm ra điều có
hiểu biết thế thôi để ra oai với đám công nhân, chứ không dám lên mặt
với chúng tôi, nhất là với các ông ở lâu năm trong đồn điền như ông Tri,
ông Điền, ông Tuy.
Anh phó giám
đốc này tên là Mulra, có một cô vợ trẻ và khá đẹp Mụ vợ này chiều thứ
bảy nào cũng đi về Hà Nội, và chiều tối chủ nhật mới trở về đồn điền.
Thỉnh thoảng lắm tay phó giám đốc Mulra mới cùng vợ đi về Hà Nội. Người
ta kể nhiều chuyện lắm xung quanh những chuyến đi thăm Hà Nội mỗi cuối
tuần của bà phó giám đốc, hình như tay Mulra cũng đoán biết đường đi lối
về của vợ, nhưng cũng lờ đi, và chấp nhận những sự bất thường trong
cuộc sống, miễn là nó không xáo động quá mức cuộc sống yên phận của
anh... Những nhân vật có bản lĩnh độc đáo, có cá tính hay ở đồn điền lại
là những ông tham biện canh nông mà tôi đã kể tên ở trên. Ông Điền là
một nhà chuyên môn giỏi, đặc biệt giỏi về sự lai giống của cây cà phê,
và trong các cách lai giống thì ông là bậc thầy trong việc ghép giống
“gteffage”. Có thể nói ông ghép một trăm cành thì sống một trăm phần
trăm.
Anh Đức và tôi học được ở ông
nhiều lắm. Khi nào ông nói đến lão giám đốc và phó giám đốc đồn điền,
thì có khi ông văng tục, vì ông cho họ dốt, nhưng vì có quyền cho nên
làm oai. Nhưng điều mà tôi nhớ người về ông Điền là mối tình dai dẳng
của ông với chị T. Chị T. là một công nhân làm ở đồn điền đã lâu năm, có
nhan sắc tính tình rất thuỳ mị. Ở hoàn cảnh khác có thể chị đã có một
cuộc đời nếu không lộng lẫy thì cũng êm đẹp. Nhưng vì hoàn cảnh nghèo,
và vì nhiều sự không may khác nữa chị phải buộc chân vào cái nghề làm
cỏ, hái cà phê, bón phân các đồi chè, ruộng mía. Trong sự buộc chân chị
lại đồn điền cũng có phần trách nhiệm của ông Điền, vì mối tình của ông
đối với chị đằm thắm, bền chặt, nhưng sự bền chặt này cũng là một sự
khống chế. Các chị em công nhân đều thông cảm với chị T., và thường
tránh đi để cho chị T. và ông Điền được thoải mái tâm sự trong các vườn
thí nghiệm, hoặc ở trong kho phân phát các thứ phân hoá học... Lúc anh
Đức và tôi thực tập ở
đó, chị T. đã hơi đứng tuổi, nhưng còn đẹp, và dáng đi của chị có một
vẻ gì âm thầm, gần như ngượng ngùng; và chị rất ít nói, chỉ thỉnh thoảng
mỉm cười, mà sao cái mỉm cười của chị nó buồn và héo thế! Chị T. không
có con, sống cuộc đời âm thầm, “bên cạnh” ông Điền, chắc là an phận
trong sự héo mòn. Ở đồn điền Tuyên Quang rất nhiều nắng, rất nhiều gió
nhất là những ngày cuối năm, hoặc đầu xuân, nhưng tâm tình của chị T.
thì gợi lên trong tâm trí tôi một buổi chiều mù sương se lạnh...
Ông
Tri cũng là một nhà chuyên môn giỏi của đồn điền, nhưng tính tình ông
chất phác, không tài ba như ông Điền. Suốt ngày ông chỉ chăm lo làm việc
trong các vườn thí nghiệm, tham gia mọi công việc trồng trọt hay chăn
nuôi với công nhân, không nề hà chân lấm tay bùn... Ngày chủ nhật thì
ông cặm cụi làm việc gia đình cùng vợ con, ít khi đi chơi, ngay thị xã
trước mặt đồn điền ông cũng ít sang.
Còn
ông Tuy là một chuyên gia về cơ khí của đồn điền, các máy móc của đồn
điền hư hỏng đều qua tay ông chữa, kể cả hệ thống điện nước. Mắt ông hơi
kèm nhèm, nhưng vẫn rất tinh để xem xét và điều chỉnh các chi tiết
trong các ổ máy. Anh Đức và tôi được phân công ở một cái phòng bên cạnh
mấy gian gia đình ông ở nên rất rõ tính nết của ông. Ông cũng chăm làm,
và được giám đốc và phó giám đốc đồn điền rất nể. Bà Tuy buôn bán ở bên
chợ Tuyên Quang, và thu hoạch cũng khá, nên gia đình ông bà sống khá
sung túc, nuôi một cô con gái và cậu con trai ăn học đến nơi đến chốn.
Không may cho các gia đình, bom Mỹ thả xuống hồi Mỹ
Nhật đánh nhau đã sát hại cả ông bà. Trong kháng chiến chống Pháp tôi
có gặp lại cô con gái và cô kể lại thảm hoạ xảy đến với gia đình cô; cô
và người em giai phải tự lập, và đã can đảm xây dựng cuộc sống rất có
phẩm chất trong kháng chiến.
Một
ông bạn nữa ở đồn điền là ông Q. Ông này không giỏi chuyên môn lắm nặng
về việc hành chính, nhưng có được học ít nhiều ở cấp thành chung nên sự
giao dịch của ông cũng gây được cảm tình với mọi người, kể cả với lão
giám đốc và tay phó giám đốc. Chỉ có một cái tội là ông nghiện thuốc
phiện và làm khổ vợ con về cái nghiện ngập của ông. Nhiều lần ông định
bỏ hút, nhưng rồi tính nào lại tật ấy cơn nghiện lên nó vật vã ông, ông
như người sắp chết, thì bà vợ lại tất tưởi đi tìm xái về cho chồng ngậm
cho đỡ cơn...
Kỷ niệm tốt đẹp nhất
mà các nhân vật ở đồn điền để lại cho chúng tôi là ông giáo Tr. Ông Tr.
là một vị giáo học có trình độ văn hoá, được bổ nhiệm về đồn điền để dạy
văn hoá cho học sinh trường trung cấp canh nông đặt tại đồn điền. Ông
rất nho nhã, và ham đọc sách báo. Chính anh Đức và tôi đã đến nhà ông để
mượn các số tạp chí Nam phong và một số sách quốc văn khác để đọc trong
những tháng chúng tôi ở đó... Những tháng anh Đức và tôi thực tập ở
đồn điền canh nông, là những tháng đẹp trong đời sinh viên. Ngoài việc
nghiên cứu tại ruộng và vườn thí nghiệm, chúng tôi còn giao du với nhiều
bạn quanh vùng, với các thầy giáo, với các thầy ở bên cái mỏ than nhỏ
gần thị xã nữa. Riêng tôi những ngày chủ nhật, hay đi chơi những cảnh
đẹp gần đó, như có lần tôi đã ở suối Yên Lĩnh suốt một ngày, anh Đức sợ
tôi lạc đi đâu phải mang súng săn đi tìm. Nhưng chính ở suối Yên Lĩnh
tôi đã có dịp viết mấy câu thơ tình: “Trưa nay suối biết nỗi niềm - Vui
này đã nguyện đến tìm nước đưa - Lòng vui lừng suối ban trưa - Nghìn năm
rồi lại mơ hồ chiêm bao... Đã 45 năm qua từ buổi trưa Yên Lĩnh ấy.
“Nghìn năm rồi lại mơ hồ chiêm bao!”...
Xuân Diệu với hai nữ thi sĩ Amrita Pritam và Blaga Dimitrova
Anh
Xuân Diệu thường nói đùa: “Không biết tôi sinh dưới dấu hiệu của ngôi
sao nào, mà thường tôi được sự che chở của phụ nữ. Đó cũng là lời đoán
bói bài của anh Nguyễn Xuân Khoát cho tôi năm 1939”.
Quả
thế, trong đời Xuân Diệu đã gặp rất nhiều phụ nữ tốt bụng giúp đỡ anh
một cách tận tình, mà cũng có thể nói là đã che chở anh, che chở cái vận
mệnh của anh trên đường đời. Có những trường hợp không phải là che chở,
cũng không phải là giúp đỡ, mà là một mối tình cảm bền chặt qua bao
nhiêu năm tháng nó cũng là một nỗi an ủi lớn cho tấm lòng dễ cảm thấy cô
đơn của anh.
Năm 1956 anh đi họp
Ban chấp hành Hội nhà văn Á Phi (cùng đi với Nguyễn Công Hoan), tại Niu
Đê li, Ấn Độ. Sau cuộc họp anh còn đi tham quan một số nơi, những danh
lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước Ấn Độ mấy nghìn năm văn hiến.
Trong chuyến đi này anh đã gặp và làm quen với nữ thi sĩ Ấn Độ Amrita
Pritam, một nữ thi sĩ khá nổi tiếng. Hai người trao đổi câu chuyện thơ
văn, và sau đó dịch thơ của nhau in trên báo mỗi nước. Bà Amrita Pritam
có lẽ cũng trạc tuổi anh Xuân Diệu (tôi đoán thế vì còn giữ bức ảnh hai
người chụp tại Hội nghị) có một cảm tình nồng thắm với nhà thơ Việt Nam,
và bà rất thích mấy bài thơ của anh Diệu trao tay cho bà (Bản dịch ra
tiếng Anh): Xuân không mùa, Lời kỹ nữ, Chỉ ở lòng ta, Thơ duyên... Bà
Pritam đã sửa sang lại chút ít bản dịch mà anh Diệu đưa và đã cho đăng
mấy bài thơ ấy ở trên báo Văn học Ấn Độ. Sau đó bà thỉnh thoảng gửi thư
cho anh Diệu, và có dịp ai sang Việt Nam là bà gửi các tập thơ
của bà tặng người bạn thơ Việt Nam. Mối duyên văn tự ấy kéo dài cho đến
ngày anh Diệu mất. Tôi không biết bà Pritam có nhận kịp thời cái tin
người bạn thơ Việt Nam từ trần không. Tôi đang định sẽ nhờ Sứ quán ta
tìm địa chỉ muộn. Đây là một mối duyên thơ đẹp nồng thắm giữa hai nhà
thơ trữ tình bên bờ Ấn Độ Dương nước trong xanh và sâu thẳm.
Nữ thi sĩ Blaga Dimitrova
Là
người Bungari, đã đến Việt Nam những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1965 nếu tôi không nhớ nhầm). Chị sinh năm 1923, lúc
sang Việt Nam chị đang ở cái tuổi thanh niên thứ hai của chị, còn giữ
cái đẹp lộng lẫy của tuổi thứ nhất.
Gặp
chị lần đầu chúng tôi cứ ngỡ là chị mới ngoài ba mươi. Nhưng cái đẹp
Blaga là một cái đẹp có thể nói là một cái đẹp lắng đọng mặc dầu lộng
lẫy, vẫn có nhiều nét thuỳ mị bên cạnh những làn sắc sảo, cái đẹp vừa
của phương Bắc, vừa của phương Nam, có chút gì như pha mầu Tiểu Á. Bởi
vì chị đẹp nên tôi không thể không nhắc đến điều đó, nếu tôi làm lơ
không giới thiệu chân dung hình thể của chị thì cảm thấy như thiếu lễ độ
với một giai nhân. Nhưng điều làm chúng tôi ngay phút đầu cảm mến sâu
sắc người bạn thơ của xứ “hoa hồng” là tình cảm sâu xoáy của chị đối với
Việt Nam, đối với cuộc chiến đấu anh dũng và đầy hy sinh của nhân dân
ta. Trong cuộc tiếp xúc chị không nói nhiều, chị đặt những câu hỏi để
nghe những câu trả lời của chúng tôi, của những người chị gặp dọc đường,
của những bộ đội, dân quân chị gặp trên đường hay trong địa đạo. Blaga
cũng như Monica Varnenska, đã sống hết lòng mình cuộc chiến đấu của nhân
dân Việt Nam, hai chị cũng đau xót tận đáy lòng mình những hy sinh mà
các chị đã chứng kiến. Có thể nói thật sự các chị đã vận vào mình cái số
mệnh đau thương và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Hai chị và Sara
Lidman (nữ sĩ Thuỵ Điển) tự nhiên đã có một cảm tường gần giống hệt nhau
về những ngày sống ở Việt Nam. Các chị nói: “Ở đây tôi ngủ giấc ngủ
dưới một bầu trời đầy bom đạn, một giấc ngủ thật sự là dưới bom đạn.
Nhưng chưa bao giờ tôi lại thấy yên với lòng mình đến thế, yên với lương
tâm đến thế. Đây thật là mảnh đất của lương tâm loài người”.
Riêng Blaga Dimitrova đã viết hơn 100 bài thơ ca ngợi cuộc chiến đấu đầy hy sinh và anh dũng của nhân dân Việt Nam. Tập thơ này anh Xuân Diệu đã dịch ra tiếng Việt và xuất bản với nhan đề Vây giữa tình yêu. Tôi xin nhắc ra đây vài ý thơ trong tập thơ nặng tình nghĩa ấy:
Người
đàn bà mang thai: Chị nông dân ơi, chị đang đi trên đường đê kia, cái
bụng to tròn đi trước chị. Việt Nam ơi, người sắp sinh thành một thế
giới mới nào đây!...
Chiếc đàn bầu: đàn
bầu một dây, dây đàn căng căng mãi, căng đến lúc gần như sắp đứt. Và
trên dây căng thẳng ấy dội lên những âm thanh thiết tha huyền diệu. Việt
Nam ơi, trên dây đàn của Việt Nam đang nổi lên những giai điệu thiết
tha tân kỳ, huyền diệu làm giàu cho giai điệu của loài người.
Hương
biệt ly: ở thị xã Phủ Lý, trong bóng tối đầu hôm, anh chị nhìn nhau,
không nói một lời. Chị hít thở mái tóc của anh, hít tận sâu đáy phổi cái
mùi hương tóc đẫm mồ hôi và bụi đường. Hít thật sâu để rồi mai đây xa
nhau chị thở cái hương biệt ly ấy để mà sống, để mà chờ cho đến ngày gặp
lại...
Anh Xuân Diệu và tôi đã hết sức
xúc động khi được đọc những bản thảo đầu các bài thơ mà chị dịch cho
chúng tôi nghe qua tiếng Pháp. Có cái gì đau xé xoét đắng trong giọng
thơ của chị, mà chan chứa lòng tin tường, cháy bỏng lửa căm thù. Cứ ngày
ngày, chị tâm sự với Xuân Diệu về những nỗi đau của chị, về những phấn
chấn của chị và thế là hai người bạn thơ như cùng nhau sáng tạo lại
những bài thơ đầy tâm huyết kia ra tiếng Việt.
Có
hôm chúng tôi đang ngồi nói chuyện với nhau ở khách sạn Thống Nhất (Hà
Nội), thì máy bay Mỹ ập tới và ba chúng tôi chạy gấp xuống hầm. Chị
Blaga hồi hộp, nhưng không chút sợ hãi nói với chúng tôi:
“Chắc chắn là không chết, nhưng nếu có sập hầm mà cùng nhau chết trong niềm tin thì cũng là sống mãi....
Tất nhiên là chúng tôi đã không chết, và tối hôm đó Blaga đã viết một trang nhật ký dài.
Nhớ lại những ngày kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sống với đồng bào,
sống với bạn trong chiến đấu hy sinh, sao mà đẹp thế, sao mà nức lòng
thế! Đôi lúc bản thân tôi nhớ lại những giờ phút ấy như hít thở thêm ôxy vào tim phổi mình.
Blaga
Dimitrova yêu thương Việt Nam đến nỗi muốn có một em bé Việt Nam ở với
mình suốt đời, và như vậy là chị đã xin bé Hà, con một đồng chí công
chức nghèo ở Hải Phòng làm con nuôi. Theo chị việc nuôi con nuôi là vật
thể hoá sợi dây tình cảm của chị nối với đất nước đau thương và dũng cảm
này. Chị đã kể câu chuyện của chị với bé Hà trong một quyển tự sự dài
mà chúng ta đã dịch ra bằng tiếng Việt với cái tên Sự phán xét cuối
cùng. Quyển này đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Anh, và độc giả đều
đọc quyển tự sự với một niềm cảm thông sâu sắc với tác giả và với cuộc
chiến đấu của Việt Nam. Tôi kể về Blaga Dimitrova cặn kẽ như vậy, cũng
là kể về mối tình bạn sâu sắc đầy tình nghĩa giữa chị và nhà thơ Xuân
Diệu. Trong những năm gần đây Blaga Dimitrova có lúc ốm nặng có lúc bệnh
nguy kịch tưởng như không qua khỏi, thì anh Diệu đã nhiều lần viết thư
động viên an ủi bạn động viên với tất cả cái suy ngẫm của anh về cuộc
sống, về số mệnh của mỗi con người, về sự phấn đấu của bản thân anh để
vượt qua những lúc đau yếu, những lúc buồn nản nữa... Nghĩa là anh chia
xẻ với bạn những lo âu và những kinh nghiệm sống của mình. Chính Blaga
Dimitrova đã nói với tôi và với anh Tế Hanh rằng những bức thư của anh
Diệu thật sự đã giúp chị vượt qua những lúc khó khăn, vượt qua những
phút mà chị tưởng như cụt đường trước mắt. Blaga Dimitrova đã viết một
bài thơ tặng Xuân Diệu, để vào tập thơ
của anh Diệu được dịch ra tiếng Bungari và đã xuất bản tại Sofia năm
1983. Ngày được tin anh Xuân Diệu mất, Blaga Dimitrova đã tập hợp
một số văn nghệ sĩ Bungari cùng chị mang hoa và hương đến viếng bạn tại
sứ quán Việt Nam tại Sofia (tiếc rằng ở sứ quán không thiết lập bàn thờ
cho nhà thơ vừa mất, nên hương và hoa chị trao tay cho đồng chí đại sứ
với những lời chia buồn đầy nước mắt của chị Blaga).
Blaga
đang có ý định viết một quyển sách về nhà thơ Xuân Diệu, nói về đời và
đời thơ của nhà thơ, và cũng để kể lại tình bạn, duyên thơ của hai nhà
thơ Bun - Việt.
Anh Diệu hát Huế, hát cải lương và ngâm sa mạc
Như
đã kể lại trong chương Tuổi nhỏ của Xuân Diệu, anh Diệu hát Huế, hát
cải lương rất hay đến nỗi thầy trò trường Qui Nhơn liệt anh vào hàng đào
kép cải lương. Lúc chúng tôi mới kết bạn với nhau ở trường Quốc học,
một cái thú của tôi là nghe anh Diệu hát Huế (Nam ai, Nam bằng, Tứ đại
cảnh, Phú lục..., nhất là hát nam bằng) và tôi rất mê cái giọng ngâm sa
mạc của anh. Tôi đã từng nghe ngâm sa mạc trong các đĩa hát Bé ka (các
bài anh Khoá, các đoạn Kiều...). Nhưng đến lúc nghe anh Diệu ngâm thì
tôi khám phá ra một chân trời giai điệu mới, tất cả cái xa vắng nghìn
đời tất cả cái mênh mông của cuộc sống thật sự đã được thể hiện qua
giọng luyến láy của anh, và tôi cảm thấy cái sa mạc của cảnh đời của
tình đời qua giai điệu và giọng ngâm. Và tôi cũng thấy cái mênh mông bát
ngát của câu thơ lục bát mà tôi đã thấm nhận qua truyện Kiều và ca dao,
một lần nữa lại được thể hiện lên qua giọng ngâm đầy sáng tạo của bạn.
Có mấy lần anh Diệu lười làm luận Pháp văn (lúc đó anh Diệu học năm thứ
ba, tôi học năm thứ nhất tú tài) nhờ tôi làm hộ, thì tôi mặc cả đùa:
“Diệu phải ngâm mấy bài sa mạc cho Cận nghe thì mới có bài luận làm
thay”. Thế là tôi lại được nghe bao nhiêu là bài sa mạc buổi chiều, buổi
tối và khích lệ cho tôi là anh lấy những bài thơ lục bát của tôi mà
ngâm... Tất nhiên là tôi phải làm bài luận thay anh, và những bài ấy
cũng được điểm khá cao, cũng là ngang giá với cái giọng mê ly của anh.
Đến tháng 5-1946 anh được cử tham gia phái đoàn quốc hội sang thăm ngoại
giao nước Pháp, thì anh lại nhờ một bà con Việt kiều ghi vào một đĩa
hát bài thơ Ngậm ngùi của tôi mà anh ngâm sa mạc với một giọng hết sức
xúc cảm, thương nhớ, có lẽ một phần do nội dung của bài thơ, mà một phần
cũng do nhớ nước và nhớ bạn ở nhà.
Tiếc rằng cái đĩa hát ghi giọng sa mạc ấy đã bị cháy cùng cái rương của tôi gửi ở Hương Khê hồi đầu kháng chiến. Bây giờ Diệu mất rồi, tôi chỉ còn tìm lại trong trí nhớ, trong tin nhớ cái giọng ngâm mê ly, sâu thẳm của bạn.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- M
Những buổi chiều ở trường Quốc học
Khi
anh Diệu và tôi mới kết bạn với nhau, thường buổi chiều sau giờ học, và
trước giờ ăn cơm tối, rủ nhau ra sân cỏ rộng phía sau trường, bãi cỏ
này cũng là bãi cỏ đá bóng của học sinh, thường đi dạo chơi với chúng
tôi có anh Nguyễn Định lúc đó học dưới tôi một lớp, và cũng rất mê thơ
văn. Ba chúng tôi đọc cho nhau nghe những bài thơ mới làm, có khi đọc cả
những bài đang làm dở dang. Thật ra tôi với anh Định cố khêu gợi cho
anh Diệu đọc những bài chưa đăng báo của anh. Sân bãi rộng, cỏ xanh
mượt, gió hiu hiu se lạnh rất phù hợp với những buổi “liên hoan thơ”
giữa ba chúng tôi. Tôi còn nhớ một chiều, anh Diệu nhìn mấy cây trinh nữ
(tức là cây cỏ thẹn, trong Nam gọi là cây hổ ngươi), rồi khe khẽ ngâm:
Đỡ mấy đài xiêu, nâng mấy nhị,
Hồn ơi, phong cảnh cũng là ngươi.
Hai câu thơ này ở trong một bài về sau đã in trong tập “Gửi
hương cho gió”. Sở dĩ tôi nhắc hai câu trên là vì nó gợi lên cái không
khí man mác, cái chất thơ tiềm ẩn trong những buổi chiều Quốc học của
chúng tôi, cái bâng khuâng khó tả trong sự hoà nhập giữa tâm hồn của
chúng tôi với cái hồn mênh mang của cảnh vật. Anh Diệu không đàm luận
nhiều về cách làm thơ, nhưng mỗi lần anh đọc xong một bài thơ thì anh
Nguyễn Định lại như rút ra những kinh nghiệm về bố cục, về câu chữ, còn
tôi thì nói lên tâm đắc của mình về tứ thơ và ý thơ. Thật ra cả anh Định
và tôi cũng không bình luận gì nhiều, chủ ý là cốt nghe thơ sáng tác
như ở trong lò mới ra. Cũng trong một buổi chiều anh Diệu đã nhẩm đi
nhẩm lại với chúng tôi mấy câu trong bài “ý thư”:
“Những chút hồn buồn trong lá rụng,
Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân.
Trăm hoa giã cánh rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần..
Anh Diệu ra đảo Cát Bà suýt bị chết đuối ngoài biển
Liền
sau Cách mạng tháng Tám, Tổng giám đốc thương chính là anh Trịnh Văn
Bính cử một đoàn viên chức thương chính ra đảo Cát Bà để nắm tình hình
về công việc thuế quan ngoài ấy. Đoàn gồm 4-5 người, trong đó có anh
Xuân Diệu (mặc dù lúc đó anh Diệu không còn là nhân viên thương chính
nữa). Lúc trở về bị một cơn bão nhỏ ập đến bất thường, thuyền tròng
trành giữa biển có lúc tưởng đắm đến nơi, nhưng rồi anh em chở thuyền
khéo lèo lái cho nên cũng cập được đến bờ Hòn Gai, nhưng vào đến gần bãi
thì một cơn sóng to hất mấy người xuống nước ướt như chuột lột. Cùng đi
với anh Diệu có đồng chí tham tá nhà Đoan (là anh Uyên, hiện nay còn
sống) về kể chuyện lại rất tỉ mỉ chuyến đi đảo Cát Bà nguy hiểm ấy. Sở
thương chính đã uỷ lạo đoàn cán bộ bằng một bữa cơm... Đó là lần cuối
cùng mà anh Xuân Diệu làm nhiệm vụ “tây đoan” trong đời anh. Suýt nữa
thì chết đuối mất một nhà thơ.
Anh Diệu ngã xe đạp gãy tay
Mùa
hè 1943, sau khi đã từ Mỹ Tho về Hà Nội ở với tôi, ở số nhà 61 Hàng
Bông, một hôm tôi đang ngồi theo dõi sự sinh nở của mấy con bọ ăn hại lá
dâu tại Sở nghiên cứu tằm tang, thì được anh giúp việc nhà là anh Hạp
đến báo cho biết là anh Diệu đã ngã xe đạp ở phố Tràng Thi, gãy tay
trái, và đã phải vào bệnh viện để bó bột. Tôi cấp tốc chạy về nhà và vào
bệnh viện thì được biết qua chiếu X quang cả hai xương ở cổ tay đều bị
gãy. Bó bột được ba tuần mở ra xem thử thì xương vẫn chưa liền. Lại phải
tháo ra nắn lại và bó bột lại, rất đau. Lần sau này Bác sĩ Lê Khắc
Quyền tự tay bó bột cho anh Diệu, không những hết sức cẩn thận mà với
một lòng trìu mến nhà thơ.
Anh Diệu
cứ phải mang cái tay trái bó bột hơn một tháng, và đã đi vào Sài Gòn với
tôi với cái tay bó bột ấy, và ra tiễn tôi ở bờ sông Sài Gòn lúc tôi đáp
ca nô đi lên Phnông-pênh để nghiên cứu việc trồng dâu nuôi tằm dọc hai
bờ sông Mê Công trên đất Campuchia. Anh Diệu về sau nhớ mãi ơn bác sĩ
Quyền và ra tập thơ nào cũng tặng bác sĩ.
Cuộc đời đau khổ của em gái tôi (O Điểu)
Em
gái thứ nhất là o Trà, tôi đã có dịp nói đến trong phần kể về tuổi nhỏ
của tôi; em gái thứ hai là o Điểu cũng có một cuộc đời lận đận, đau khổ.
O thông minh, được học ít nhưng học đến đâu nhớ đến đó. Và o cũng chăm
làm như o Trà, đầu tắt mặt tối suốt ngày, đi cày đi bừa, gặt hái, gánh
nước, nấu cơm... Tất cả công việc gia đình là do hai o gánh vác cùng mẹ
tôi, không một lời than van, không một phút uể oải hoặc chán nản.
O
Điểu sọi người, trong làng ngoài xóm nhiều người muốn hỏi làm vợ, muốn
xin làm dâu. Cân nhắc mãi sau cùng bố mẹ tôi gả o cho con ông T.C ở xóm
giữa.
Nhà ông T.C. khá giả, bản thân
ông T.C. lại kiêm nghề thuốc bắc, cho nên gia đình cũng có vẻ “sang
trọng”. Anh D. chồng o Điểu cũng có học chút ít, lúc đầu cũng thương yêu
vợ, nhưng không hiểu về sau chuyển biến trong gia đình thế nào mà anh
ta nghe bố mẹ đâm ra hắt hủi vợ. Ông T.C. thì đặc biệt tàn tệ, đòi đuổi o
về nhà, mà giữ lại con là cháu ruột của ông. O Điểu về nhà than thở với
bố mẹ tôi, mẹ tôi dặn o cứ kiên trì, mong anh D. hồi tâm,
và cũng mong ông bà T.C. sẽ biết điều mà không hành hạ con dâu nữa.
Nhưng sự kiên nhẫn của o Điểu chỉ mang lại những trận đòn của ông gia,
những lời chửi mắng của chồng. Sau cùng o phải làm đơn ly dị (sau Cách
mạng tháng Tám). Toà đã xử cho o được nuôi con, đứa con gái đầu tên là
Kh. nay đã lấy chồng và đã có con. O Điểu từ đó “bôi vôi” vào gia đình
ông T.C. không bao giờ thèm đi qua ngõ nữa. Sau khi giải phóng miền Bắc,
tôi về đón mẹ, o Điểu ra Hà Nội ở với tôi, và tôi đã tạo điều kiện cho o
đi học làm y tá. O làm y tá ở công trường được 3 năm thì được cơ quan
cho đi học y sĩ. Tốt nghiệp y sĩ o về phục vụ một trường cao đắng và có
đời chồng thứ hai với một đồng chí người Nam bộ, quê ở Bến Tre, cán bộ
quản lý một khách sạn. Đời chồng sau có ba con một trai hai gái. Anh
Th., chồng o lại chết sớm, o phải chịu thương chịu khó nuôi ba con trong
sự túng thiếu.
Kỷ niệm về Nguyễn Nhược Pháp
Nhà
thơ Nguyễn Nhược Pháp là con nhà báo và nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh, mẹ anh
là một đồng bào dân tộc Tày. Anh là bạn thân của nhà thơ Phạm Huy Thông
từ lúc hai người còn học ở trường Trung học An be Sa rô. Phạm Huy Thông
thì viết những bài thơ có tính chất hùng tráng (Tiếng địch sông Ô, Con
voi già, Tần hồng châu...) và một số bài thơ trữ tình như Anh Nga và tập Tần Ngọc... Nhưng những bài đạt nhất của Huy Thông là những bài mang hơi tráng ca.
Còn
Nguyễn Nhược Pháp thì khác hẳn Huy Thông viết những bài thơ vừa trữ
tình nhẹ nhàng, vừa mang tính hu-mua, tính hóm hỉnh kín đáo, biểu hiện
rõ rệt ở tập Ngày xưa mà anh cho xuất bản năm 1934, lúc tôi còn học năm thứ hai ban thành chung. Tập Ngày
xưa gồm có mười mấy bài, sách in mỏng với một cái bìa tím nhạt, trông
rất cảm tình, quyển sách cũng nhẹ nhàng, kín đáo như một bóng người xưa
hiện về trong phòng học của một thư sinh. Sách về đến Huế tôi mua ngay
một quyển, đọc liền một mạch và rất quyến luyến với một số bài mà tứ thơ
cũng như nghệ thuật câu thơ hấp dẫn tôi ngay: Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Chùa
Hương, Đi sứ, Tay ngà... Tôi nhập tâm ngay từng đoạn thơ của bài Sơn
Tinh Thuỷ Tinh:
Thuở ấy trời mây còn u ám
Sông núi còn vang um tiếng thần
Con Vua Hùng Vương thứ mười tám
Mỵ Nương, đẹp như tiên trên trần
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ
Sơn tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương
Hai thần trước cửa thành thi lễ
Mỵ Nương chớp mắt, lòng hơi kiêu
Nhưng có một nàng mà hai rể
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều
Mấy câu thơ của bài thơ vừa buồn cười vừa bâng khuâng:
Mỗi năm Thuỷ Tinh dâng nước bể
Dục núi hò reo, đòi Mỵ Nương
Trần gian đâu có người dai thế
Cũng bởi thần yêu nên khác thường...
Tôi có cảm tình ngay với thơ Nguyễn Nhược Pháp và tôi đã viết một bài bình luận về tập Ngày
xưa mà anh Hoài Thanh đã cho đăng ngay ở trang văn nghệ của báo Tràng
An. Đến lúc anh Diệu ở Hà Nội về học năm thứ ba ban tú tài ở Huế, và lúc
đó tôi học năm thứ nhất, thì gần hè Nguyễn Nhược Pháp vào thăm Huế, đi
xem các lăng tẩm và có tìm gặp cho được Xuân Diệu mà anh đã đọc những
bài thơ đăng trên báo Phong hoá và báo Ngày nay. Tiếc rằng lần ấy hai
người không kịp gặp nhau, và Nguyễn Nhược Pháp có nhờ anh Hoài Thanh
nhắn lại với Xuân Diệu những lời thăm hỏi thân thiết nó là mối duyên văn
tự chắp nối giữa những người bạn văn thuở đó, càng nung nấu một hoài
bão đối với tiếng nước nhà. Nguyễn Nhược Pháp cũng khá giỏi tiếng Pháp
và cũng có viết một vài bài báo bằng tiếng Pháp, nhưng anh chuyên tâm
trau dồi tiếng Việt; ngoài một số ít bài thơ, anh đã viết một số truyện
ngắn ý nhị đăng trong báo Tinh hoa và một vài vở kịch trong đó có vở
Người học vẽ. Văn xuôi của Nguyễn Nhược Pháp cũng mang nhiều chất thơ
nhẹ nhàng kín đáo, hóm hỉnh mà thật ra thầm cảm động. Lúc anh Xuân Diệu
trở ra Hà Nội học luật và dạy văn ở trường Thăng Long thì hai người gặp
nhau nhiều lần, đàm luận rất tâm đắc về văn thơ và tiền đồ văn học nước
nhà. Nguyễn Nhược Pháp lúc đó đã nhiễm bệnh lao, và anh cũng đã nói với
anh Diệu rằng anh biết anh sống không còn bao năm, cho nên một vài mối
tình của anh anh chủ động để dang dở. Mắt Nhược Pháp có lẽ vì thế luôn
luôn đượm một vẻ buồn xa vắng mặc dầu rất sáng, rất tinh anh. Nhà anh ở
gần trường Bưởi, lộng gió hồ Tây càng làm vẻ xa vắng của đôi mắt anh xa thẳm thêm. Anh mất năm 1938, vừa tròn 24 tuổi, “lòng trong trắng như hồi còn thơ”, theo lời bình luận của Hoài Thanh khi nhắc đến thơ anh...
Kỷ niệm về Mạnh Phú Tư
Anh
Xuân Diệu và tôi bắt đầu quen anh Mạnh Phú Tư khi anh được giải thưởng
văn chương của Tự lực văn đoàn về quyển tiểu thuyết Sống nhờ. Lúc đó
chúng tôi ở phố Hàng Bông (số nhà 61); thỉnh thoảng Mạnh Phú Tư đến
chơi, và có ngủ đêm lại; có những đêm ba chúng tôi rủ nhau đi xem chiếu
bóng ở rạp Êđen ở phố Tràng Tiền, ở rạp Magiettic ở phố Đồng Khánh (Hàng
Bài ngày nay); khuya về chúng tôi leo cột điện để vào phòng không muốn
phiền người nhà dưới phải mở cửa. Mắt Mạnh Phú Tư hơi hiếng, nên lúc nói
chuyện anh cứ nhìn nghiêng nghiêng, như người hơi nặng tai. Mạnh Phú Tư
và hai chúng tôi lại cũng có một người bạn chung là Bằng Vân. Anh Bằng
Vân dạo ấy bắt đầu viết văn, đang rèn văn bình luận văn học theo kiểu
Thánh Thán bình các sách tài tử của văn học cổ điển Trung Quốc. Văn bình
luận của Bằng Vân cũng có giọng hào phóng, sảng khoái phóng túng và
cũng hơi “nói trạng” như giọng văn Thánh Thán. Anh đã dùng lối văn bình
luận ấy bình gần nửa Truyện Kiều; tiếc rằng anh đã mất sớm trong những
ngày đầu cách mạng, do một sự rủi ro. Bà cụ mẹ vợ anh Bằng Vân rất
thương Mạnh Phú Tư, rất quí cái anh chàng nhà văn ăn nói thủ thỉ, khiêm
nhường mà rất lịch lãm chuyện đời, bà cụ cũng có ý muốn gả con gái út
cho anh Mạnh Phú Tư, hoặc làm mối cho một người cháu.
Nhưng
câu chuyện bắt mối chưa khởi đầu thì anh Mạnh Phú Tư đã có một cuộc
tình duyên “rất tiểu thuyết”. Số là anh đã yêu một người con gái cùng
quê, lúc đó mới 17 tuổi người xinh đẹp, vẻ mặt thuỳ mị, nhưng mang một
tấm lòng rất sôi nổi, rất lãng mạn và có một quan niệm tự do luyến ái
rất mô đéc. Ông cụ bà cụ cô người yêu của Mạnh Phú Tư không bằng lòng về
mối tình duyên của hai anh chị. Cảm thấy hạnh phúc của mình có thể bị
đe doạ, hai người đã có ý định bỏ nhà trốn đi, tất nhiên là không cho
hai gia đình biết. Thế rồi bố mẹ cô gả cô cho một người trong làng. Đúng
ngày cưới thì anh Mạnh Phú Tư và người yêu trốn biệt, đi ẩn dấu tại nhà
quen ở Hà Nội. Hai nhà (ở huyện Thanh Hà) sùng sục đi tìm, nhưng làm
sao mà tìm được đôi chim uyên ương giữa trời Hà Nội mênh mông nhất là khi đôi tình
nhân này lại được nhà văn Vũ Ngọc Phan và chị Phan là nhà thơ Hằng
Phương che giấu rất kín trong nhà hàng tháng trời. Âu đó cũng là một
cách Mạnh Phú Tư và người yêu “sống nhờ”. Và hai người không có giấy giá
thú đã nghiễm nhiên trở thành vợ chồng dưới sự che chở của tác giả Nhà
văn hiện đại. Anh Mạnh Phú Tư chết đi lúc còn rất trẻ, mới 46 tuổi, sau
khi giải phóng Hà Nội mấy năm.
Anh
chị có nhiều con và tất cả đều đã trưởng thành, mỗi lần dựng vợ gả chồng
cho con (tôi cũng không còn nhớ là mấy lần), chị đều mời anh Diệu và
tôi đến dự. Anh mất một cách nhẹ nhàng, không phải quằn quại bởi một
bệnh kéo dài. Sau một đêm, anh ngủ khuya, sáng dậy người ta đã thấy anh
nằm bất tỉnh trên giường, chắc là đứt mạch máu não mà không ai biết. Mấy
năm sau khi anh mất, có một đêm tôi nằm chiêm bao thấy Mạnh Phú Tư,
trong chiêm bao tôi vẫn thấy anh mắt hiêng hiếng nói giọng thủ thỉ và
đang kể lại những mẩu chuyện của đời mình. Tôi có ghi giấc chiêm bao ấy
bằng mấy vần lục bát sau đây:
Chiêm bao thấy bạn Phú Tư
Tay cầm một quyển “Sống nhờ” nằm xem
Tôi nhìn bảo bạn: “Cố lên!
Thứ ơi viết nốt những thiên sau này”
“Tao còn đâu nữa hỡi mày!
Chết rồi khôn sống lại ngày trần gian”
Thứ (1) nhìn khóe mắt chứa chan,
Yêu đời như thuở lầm than vào đời
Mắt nghiêng, héo nửa nụ cười
Vẫn nguyên cu Thứ cách mười mấy năm
Bây giờ Thứ chết Thứ nằm
Trong chiêm bao cũng không nhầm âm dương
Chết rồi, còn nuối, còn thương,
Chiêm bao đọc lại từng chương “Sống nhờ”.
Quen nhau mười mấy năm xưa
Chưa xong quyển sách, bây giờ Thứ đâu.
2 giờ - 2 giờ 25. Sáng ngày 1-9-1959, Huy Cận
Chú thích:
(1) Tên khai sinh của Mạnh Phú Tứ là Phạm Văn Thứ
Một sự thua lỗ của nhà xuất bản Huy Xuân
Hồi đó,
cuối năm 1939, anh Diệu và tôi ở trên gác 40 Hàng Than. Bỗng một hôm có
người ăn bận quần áo ta nhưng chân đi giày Tây gõ cửa, muốn gặp chúng
tôi người đó tự giới thiệu là Nhượng Tống, ở Hà Nam lên. Chúng tôi có
nghe thấy tên Nhượng Tống một vài lần trên vài tờ báo, và biết anh ta là
một người khá thâm nho và đã từng dịch hay nhiều bài thơ Đường nhất là
thơ Đỗ Phủ. Lúc đó chúng tôi chưa biết quá trình hoạt động chính trị của
anh.
Sau này chúng tôi mới rõ Nhượng Tống đã từng tham gia hoạt động Quốc dân Đảng hồi đầu
(Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học), và về sau con đường chính trị của
anh đã thoái hoá, và dẫn anh đi vào hoạt động chính trị phản động, trái
với quyền lợi của dân tộc.
Nhưng
lúc anh đến gặp chúng tôi thì chỉ là chuyện văn chương. Anh nghe nói
chúng tôi có nhà xuất bản Huy Xuân, nên anh muốn chúng tôi xuất bản bản
dịch Tây sương ký của
anh, mà anh mang theo hôm đó. Ngồi nói chuyện một lúc và nghe anh đọc
vài đoạn bản dịch Mái tây thì chúng tôi thấy quả thật là một bản dịch
hay đặc biệt là những đoạn dịch thơ trong tác phẩm của Vương Thực Phủ -
Rồi anh cao hứng ghi vào quyển vở nháp thơ của anh Xuân Diệu bài Nguyệt
vịnh trích ở Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần.
Nguyên văn chữ Hán như sau:
NGUYỆT VỊNH
Thanh huy dục yểm liệu ưng nan
Ánh tử quyên quyên phách tự hàn
Nhất phiến châm xao thiên lý bạch
Bán luân kê xướng ngũ canh tàn
Lục xoa giang thượng thu văn địch
Hồn tú lâu đầu giả ỷ lan
Bác đắc trường nga ưng tự vấn
Như hà bất xử vĩnh đoản loan...
Bản chữ Hán anh viết chữ rất đẹp, đúng là nét bút của một nhà nho lão luyện. Bản dịch của anh như sau:
Khó mà dấu được vẻ thanh thanh
Ngấn lạnh lùng thay, bóng khéo xinh
Nghìn dặm chày khua đều một sắc
Nửa vừng gà gáy nhạt năm canh
Tơi xanh mặt sóng thu nghe sáo
Vạt thắm trên lầu đêm tựa mành
Sao chẳng để cho tròn trặn mãi
A Hằng đâu cũng khó làm thinh.
Quả
thật là một bài dịch hay, rất nhuần nhuyễn có những câu như câu 3 câu 4
tưởng như là nguyên văn bằng tiếng Việt... Thế rồi ba chúng tôi bàn
việc xuất bản tập Tây sương ký do
Nhượng Tống dịch. Anh cũng không đặt điều kiện gì phức tạp, chỉ cần một
số tiền để tiêu, vì lúc đó anh đang túng. Trao đổi vài lời, anh Diệu
đưa cho Nhượng Tống 90 đồng bạc Đông Dương, xem như là mua bản thảo
dịch. Chín mươi đồng bạc Đông Dương là số tiền khá lớn lúc ấy, giá trị
bằng mười một tạ gạo, vì mỗi tạ gạo trị giá có 8 đồng. Anh Diệu và tôi
cũng nói thêm: Nếu xuất bản mà có lãi khá thì cũng sẽ đưa anh thêm,
không để cho anh thiệt thòi đâu... Anh Nhượng Tống nhận tiền vui vẻ ra
về, có lẽ cũng vì cảm kích trước cách xứ sự có lý có tình của hai nhà
thơ, chủ “nhà xuất bản Huy Xuân”.
Câu
chuyện không dừng ở đó. Ít lâu sau, đầu năm 1940, sau khi anh Xuân Diệu
đã vào Mỹ Tho làm tham tá nhà đoan, một hôm anh Lê Văn Vang, chủ nhà
xuất bản Tân Việt (ở phố Nhà Chung) đến gặp tôi và nói: “Nghe anh và anh
Diệu có mua được bản dịch Tây sương ký của
Nhượng Tống. Tôi cũng có một bản dịch tương tự, nếu có thể anh cho tôi
mượn bản của Nhượng Tống để tra cứu thêm vài chỗ cho chính xác Hai anh
giúp tôi thì rất cám ơn”. Tôi với anh Diệu đều có quen anh Lê Văn Vang ở
Mỹ Tho. Tôi cũng không nghĩ quanh co gì và đưa ngay bản dịch của Nhượng
Tống cho nhà xuất bản Tân Việt mượn. Thế rồi, mấy tháng sau thấy Tân
Việt cho phát hành bản Mái tây do Nhượng Tống dịch, đúng như bản mà
Nhượng Tống đã bán cho chúng tôi. Thế là nhà xuất bản Huy Xuân bị mất
không chín mươi đồng bạc Đông Dương. An ủi là một bản dịch hay được ra
đời.
Mấy tháng làm thầy phù đạo ở phố Quan Thánh, Hà Nội
Tháng
10 năm 1939 tôi ra học trường Cao đẳng Nông lâm, cùng ở pô pốt với anh
Diệu ở gác 40 Hàng Than. Mặc dù được học bổng mỗi tháng 25 đồng Đông
Dương, tôi vẫn nhờ người ta giới thiệu làm thầy phụ đạo cho học sinh
trung cấp của một gia đình ở phố Quan Thánh. Đây là gia đình một ông
quan huyện ở Sơn Tây, nhưng có nhà biệt thự khá sang trọng ở phố Quan
Thánh, đằng sau đường xe điện chạy. Học sinh của tôi là hai cô gái học
trường Sainte-marie và cậu con trai út học ở trường Bưởi. Hai chị em học
cùng một lớp. Mỗi tuần cứ chiều thứ năm là tôi đến giảng thêm những bài
Pháp văn mà hai cô đã học ở trường, và chiều thứ bẩy thì tôi đến phụ
đạo cho cậu con trai út cũng về môn Pháp văn và thỉnh thoảng bày cho cậu
ta làm những bài toán khó. Hai cô con gái không phải là người đẹp,
nhưng cũng có duyên, nhất là cô em có đôi má
lúm đồng tiền khi mỉm cười thì rất tươi và nói chuyện rất tế nhị, có
khi là ý nhị nữa. Thường tôi đến giảng bài thì hai cô gái ngồi cùng một
phía đối diện với tôi, và tôi giảng đến đâu tôi bảo hai cô ghi chép
những ý chính đến đó. Chương trình mấy tháng đó đang học về văn thơ lãng
mạn Pháp ở thế kỷ thứ 19. Tôi phải giảng lại những bài thơ nổi tiếng
của Lamartine, của Victor Huygo, Musset, Vigny (như các bài: Cái hồ, Đêm
trên biển, Đêm tháng năm, Chiếc tù và). Tôi giảng các bài thơ này theo
cách cảm thụ của tôi, diễn tả cảm xúc của tác giả qua sự cảm xúc của
tôi, chứ không theo sát sự hướng dẫn giảng bài của sách giáo khoa
Pháp... Có lẽ vì vậy mà những giờ giảng bài của tôi có một sức hấp dẫn
riêng, làm cho hai cô học trò nghe rất chăm chú, có lúc mắt hai cô như
dán vào miệng giảng bài của tôi, quên cả ghi chép, tôi lại phải nhắc cần
ghi lời thầy giảng. Bà Huyện mẹ hai cô, thường ở nhà những buổi tôi đến
giảng, và thỉnh thoảng lại pha nước trà ra mời thầy.
Chắc
là bà Huyện cũng biết rõ tôi không chỉ là sinh viên trường cao đẳng
Nông lâm mà còn là một nhà thơ đã bắt đầu nổi tiếng. Bà tiếp tôi rất
lịch sự, rất quý nể và có lần bà mời tôi chủ nhật đến dùng cơm với gia
đình, nhưng tôi thoái thác một phần vì tôi bận, nhưng một lẽ nữa là tôi
không muốn đi sâu vào những mối quan hệ xã hội phức tạp với những người
giàu, với những ông quan... Cậu con trai út thì rất quý thầy, mỗi lần
tôi đến giảng là cậu đã đón ngay từ ngoài ngõ và kể chuyện học hành ở
lớp cho tôi nghe với thái độ trìu mến như đối với một người anh... Thế
rồi có một buổi chiều thứ năm, như thường lệ tôi đến để giảng bài cho
hai cô thì thấy cả nhà đi vắng, chỉ một mình cô em gái ra đón tôi vào
phòng học, không thấy bà huyện, cũng không thấy cậu em út. Tôi ngồi vào
chỗ thường ngồi của tôi, lưng ngoảnh ra cửa sổ đối diện với phía tường
là chỗ hai cô thường ngồi nhìn ra phía tôi cũng tức là nhìn ra cửa sổ.
Cô em gái rất tự nhiên đến ngồi bên cạnh tôi để nghe thầy giảng bài. Tôi
luống cuống một vài phút, rồi tôi nói: “Cô về ngồi chỗ cũ, để tôi giảng
và như vậy cô dễ nghe và dễ ghi chép”. Cô cứ ngồi yên, một lúc sau cô
nói: “Em ngồi thế này, nghe gần hơn, hiểu mau hơn”. Tôi đành phải tiếp
tục giảng bài, nhưng trong người thấy hơi bối rối. Tôi nhớ chiều hôm đó,
tôi giảng bài Thung lũng quê hương của Lamartine. Tôi vẫn phân tích sâu
sắc và say sưa ý thơ và hình tượng thơ của tác giả, nhưng dường như có
chút rung động hơn lần trước, và cô học trò của tôi cứ ngoảnh mặt nhìn
chằm chặp vào miệng tôi, làm tôi ngượng và đỏ mặt, hai tai nóng bừng.
Lúc bấy giờ chưa hết giờ dạy, nhưng tôi đứng phắt dậy, nói là cần về sớm
vì có chút việc bận đã hẹn trước, vả lại bài thơ tôi cũng đã giảng xong
mọi điều cần giảng. Vừa lúc tôi đứng dậy thì bà huyện ở trong nhà đẩy
cửa đi ra, chào tôi niềm nở và nói: “Sao thầy về vội quá?” rồi nhìn cô
con gái bà nói: “Sao con chẳng ý tứ gì, ngồi cạnh thầy như thế có phải
làm phiền thầy không mà thầy phải rút ngắn giờ giảng!”. Nói xong bà tủm
tỉm cười, cái cười vừa lịch sự, vừa khó hiểu... Như thế nghĩa là lúc cô
con gái đến ngồi sát bên tôi, và trong suốt giờ tôi giảng bài mà cô con
gái chăm chăm nhìn tôi thì bà mẹ từ buồng trong đã ghé mắt quan sát...
May là tôi “vững vàng” không có một sự sa ngã, đắm say nào cả trong giờ
phút giảng thơ lãng mạn, nếu không thì bà huyện đã có thể có cớ gán ghép
tôi với cô con gái khá có duyên của bà... Chiều thứ bảy tuần đó tôi đến
không phải là để giảng bài cho cậu con út, là để nói với bà huyện là
tôi bận học quá không thể đến giảng bài phụ đạo cho các con của bà được.
Chiều hôm đó hai cô con cùng ở nhà, nghe tôi nói vậy thì sửng sốt, cố
nài tôi tiếp tục đến dạy cho hai cô, riêng cô em thì đôi mắt
long lanh chớp nhiều và khóe mắt hơi ướt. Tất nhiên là bà huyện cũng có
lời luyến tiếc và trả cho tôi một số tiền khá hậu, gấp hai gấp ba số
tiền đã thoả thuận trước... Đến lúc tôi đậu kỹ sư, 1942, tôi có trở lại
thăm gia đình bà huyện, thì được biết cô chị đã lấy chồng, lấy một ông
tri huyện trẻ, còn cô em còn tiếp tục học, và còn chờ... Cô gặp lại tôi
có vẻ ngượng nghịu, tôi thăm hỏi qua rồi chào ra đi...
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2 - N
Thăm lại Nguyễn Gia Trí
Trên
kia tôi đã kể liền sau ngày giải phóng Sài Gòn, tôi và anh Diệu đã đến
thăm hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí ở một phố hẻm đối diện với chùa Vĩnh Nghiêm.
Ngày 2-9-1987
vừa rồi, tôi trở lại thăm Nguyễn Gia Trí, tôi rủ anh Diệp Minh Châu
cùng đi với tôi. Nguyễn Gia Trí từ trong cửa hỏi kỹ tên người đến thăm
rồi mới chịu mở cửa. “Huy Cận đây mà?”. Nghe tiếng tôi, anh mở cửa ngay.
Anh đã yếu lắm rồi, nhưng đôi mắt
vẫn tinh anh, và hàm răng anh vẫn còn biểu hiện một ý chí mạnh mẽ như
ngày nào. Tôi hỏi anh có còn tiếp tục vẽ không, thì anh cho biết cách
đấy hơn một năm anh bị ngã gãy chân trong lúc ngắm xem một miếng gỗ đẹp
nhằm làm sơn mài. Sau khi bó bột lành chân anh không đứng vẽ được nữa.
Tôi đọc anh nghe đoạn hồi ký kể
anh vẽ chân dung Xuân Diệu theo trí nhớ thì anh nói: “Tôi có tài đến
thế kia à”... Tôi hỏi anh: “Sống có vất vả lắm không?” thì anh mỉm cười
trả lời: “Nhà thơ hỏi câu ấy làm gì!”. Câu trả lời hóm hỉnh đầy lòng tự
trọng của anh làm tôi càng ái ngại cho cảnh sống của anh..
Anh Như Phong đến thăm chúng tôi ở 61 Hàng Bông
Tôi
nhớ khoảng sau Tết 1944, anh Như Phong một hôm chủ nhật đến thăm anh
Xuân Diệu và tôi trên gác 61 Hàng Bông. Ngồi nói chuyện lân la một lúc,
tôi mới hiểu ý anh muốn rủ chúng tôi vào một đoàn thể văn hoá, mục đích
là bảo vệ văn hoá dân tộc và phấn đấu cho độc lập của đất nước. Ý anh
nói xa nói gần, nhưng sau này tôi hiểu là vận động chúng tôi vào Hội văn
hoá cứu quốc lúc đó mới thành lập. Về phía tôi, tôi cũng nói cho anh
ngầm hiểu rằng tôi cũng đã tham gia một tổ chức yêu nước, và đang hoạt
động trong đám anh em sinh viên và trí thức ở Hà Nội. Nghĩa là tôi cũng
muốn vận động anh cùng hoạt động Việt Minh với tôi nhất là trong đám trí
thức đang cần có những người trí thức giác ngộ bắt mối, xâu chuỗi. Hai
người hiểu nhau như vậy, cùng cười và nói chuyện văn chương tôi có đọc
cho anh nghe bài Giọt lệ Hoàng Mai (có in trong tập Hồi ký này),
một bài văn nói lên tâm trạng yêu nước đau xót của tôi khoảng năm
1941-1942. Anh Như Phong cũng nói chuyện với chúng tôi về những dự định
văn chương của anh, nhất là những bút ký anh định viết về văn hoá văn nghệ dân tộc, về đất nước quê hương. Vài năm trước anh đã cho xuất bản một tập bút ký,
nay có lẽ anh viết tiếp theo cái mạch ấy và mở rộng vấn đề ra. Về sau,
có lẽ vì anh bận việc, nên tôi không thấy anh hoàn thành tập bút ký mà
anh nói chuyện với tôi hôm ấy. Trong buổi gặp nhau trên gác phố Hàng
Bông, anh Diệu và tôi cũng có nói nhiều với anh Như Phong về sự cần
thiết phải bảo vệ văn hoá dân tộc, cổ vũ thanh niên trí thức trau dồi
tiếng Việt phát huy vai trò của tiếng Việt trong mọi mặt đời sống xã
hội, vì lúc đó chúng tôi đã thấy một bọn người sau khi xu nịnh thực dân
Pháp, đã lại chạy theo xu nịnh phát xít Nhật và om xòm ca ngợi văn hoá,
văn nghệ Nhật. Sau này anh Như Phong mấy năm làm giám đốc Nhà xuất bản
Văn hoá, tôi lại có dịp tiếp tục bàn với anh vấn đề khai thác và phát
huy vốn văn nghệ tốt đẹp của cha ông. Cũng trên tinh thần ấy, mà nhà
xuất bản đã liên tiếp cho tái bản những tác phẩm của Nguyễn Du và các
nhà thơ cổ điển khác.
Lần đầu tiên thăm làng Bát Tràng
Cuối
năm 1940, một hôm chủ nhật, trời rét ngọt một nhóm sinh viên chúng tôi
rủ nhau đi thăm làng Bát Tràng, làng làm gạch và làm đồ gốm nổi tiếng
nằm bên kia sông Hồng. Trong số đi thăm hôm ấy có cả sinh viên luật học,
y học, canh nông, người Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ đủ cả. Cùng đi với
chúng tôi có chị Phùng Thị Duy Cúc, lúc đó học nha khoa, bây giờ là nhà
điêu khắc Điềm Phùng Thị khá nổi tiếng ở Paris. Tất cả chúng tôi ai cũng
thuộc mấy câu ca dao:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Thì anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hổ Bán nguyệt cho nàng rửa chân,
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh.
Buổi
sáng hôm ấy không những trời rét, là lại hơi âm u, gió sông thổi vào
làng từng đợt gió lạnh buốt. Sau khi đi xem các lò gạch và gốm, chúng
tôi có tập hợp
nhau lại ở đình làng để nói chuyện. Anh chị em biết tôi là nhà thơ bảo
tôi nên nói một mẩu chuyện gì về văn chương, văn hoá đất nước. Tôi không
được chuẩn bị nhưng cũng nói vo câu chuyện về sự tiến hoá của tính tình
người Việt Nam trong quá trình mở mang đất nước trong quá trình Nam
tiến. Câu chuyện của tôi xoáy cái ý chính sau đây: dân tộc ta cũng như
một người đi đường xa, lúc ra đi trên vai mang một tay nải nặng, dần dần
bỏ bớt vài thứ cho nhẹ gánh, nhưng dọc đường lại gặp nhiều của quý lại
cho vào tay nải, vốn lại giàu thêm, cứ thế cho đến cuối đường đã trở
thành một người giàu có mà cái vốn ban đầu mang đi vẫn còn gần như
nguyên.
Những đức tính,
những tính tình của dân tộc ta trên đường Nam tiến, cũng được bổ sung
dần, nhiều đức tính mới, tốt đẹp làm giầu thêm những đức tính cố hữu.
Cuộc sống mấy mươi thế kỷ của dân tộc ta là một sự phát triển hài hoà,
thêm mà cũng củng cố thêm cái vốn tinh thần cố hữu của dân tộc. Ý này về
sau tôi đã viết lại kỹ hơn trong tập bút ký Tao phùng (1942).
Tôi bị ngã ngựa ở Việt Bắc
Tháng
6-1954, một buổi tối tôi đi họp Hội đồng Chính phủ về, thì cách nhà lán
khoảng 300 thước tôi đã lên tiếng gọi em Kiên, người phục vụ tôi, ra
đón.
Tôi cưỡi một con ngựa trắng, cao hơn
con ngựa xích thố mà tôi đã kể trong một đoạn trên. Con ngựa này cũng
tương đối hiền, đi qua đèo qua suối theo nhịp độ mà tôi muốn, chứ không
chạy ào hay là phi theo ý muốn của nó có khi rất nguy hiểm nhất là khi
đi qua rừng nứa. Như thường lệ hôm ấy ở Hội đồng Chính phủ về trên vai
tôi mang một chiếc ba lô chất đầy tài liệu và vài quyển sách tôi mang
theo đọc, lại kèm mấy củ sắn tươi mà bà con gần nơi họp biếu tôi. Con
ngựa thủng thẳng đi về phía nhà lán tôi ở thì em Kiên mang chiếc đèn bão
ra đón. Thế là ngựa gặp đèn đưa ngang lên tầm mắt nó, bị choáng váng và
nó nhảy lồng lên, hất tôi lên cao cả người và ba lô rồi tôi rơi bịch
xuống đất, rơi trong tư thế ngồi, ba lô vẫn dính trên lưng. Tôi đau
điếng, tưởng như có thể ngất đi được, và kêu to một tiếng “Chết anh rồi
Kiên ơi!”.
Con ngựa sau khi hất tôi
lên, cũng đứng yên tại chỗ ngoảnh về phía tôi. Còn em Kiên thì hoảng sợ
và gọi người ra cứu tôi. Mấy anh em văn phòng hội đồng Chính phủ ra nhấc
tôi dậy, tôi đau buốt quá, như là trụn xương sống, anh em phải lấy tấm
ván đặt tôi nằm lên và khiêng tôi vào nhà lán. Tôi vẫn tỉnh táo nhưng
hết sức đau nhức, và phải nằm yên, cựa bên trái hay bên phải đều đau
nhói. Thế là tôi phải nằm dính ván hơn một tuần, ăn uống thì đã có em
Kiên chăm sóc, bữa ăn cơm, ăn cháo. Đồng chí y tá của cơ quan có cho mọi
thứ thuốc bóp và tiêm thuốc giảm đau cho tôi. Anh em có báo cáo với Bác
Hồ là tôi bị ngã ngựa đau, Bác liền bảo anh Trường (hoặc anh Kháng, tôi
không nhớ rõ) đem cho tôi một mẩu mật gấu để hoà tan trong rượu vừa
uống vừa xoa bóp chỗ đau. Nhờ thế mà sau mấy hôm tôi đỡ đau hẳn, và bác
sĩ Chánh khám cho tôi thì cũng thấy không có vết thương, chỉ là một dây
thần kinh bị chèn do xương sống dồn mạnh lúc tôi ngã từ cao xuống. Lúc
bấy giờ phái đoàn chính phủ ta đi dự hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề chiến
tranh Đông Dương, về vấn đề lập lại hoà bình ở Việt Nam, sắp lên đường.
Tôi đỡ đau, cũng đi rất thong thả, đến chào anh Tô (tức là Thủ tướng
Phạm Văn Đồng) và cũng để nghe anh dặn dò công việc ở nhà (vì lúc đó tôi
là thứ trưởng Tổng thư ký Hội
đồng Chính phủ). Anh Tô cũng cho tôi một mẩu cao hổ cốt để uống cho
lành hẳn chỗ đau... Từ đó cho đến lúc về Hà Nội, tôi thấy không có biến
chứng hay dị tật gì do ngã ngựa cả. Nhưng đến mùa thu 1956, tôi thấy hơi
đau nhức trở lại, tôi gặp bác sĩ Tôn Thất Tùng; sau khi khám xét và
chiếu X quang, anh cho tôi nằm bệnh viện Phủ Doãn (tức là bệnh viện Việt
Đức) tiêm các thứ thuốc cần thiết, nhất là thứ thuốc bồi lại dây thần
kinh trước đây bị chèn. Với đợt nằm bệnh viện hơn 2 tuần này, tôi khỏi
đau hẳn, và lại được lãi mười mấy bài thơ mà thi hứng đến với tôi trong
những đêm nằm một mình tại bệnh viện. Những bài thơ này tôi đã chọn lọc
lại và cho in một số vào tập thơ
Trời mỗi ngày lại sáng (xuất bán cuối năm 1958). Cùng nằm bệnh viện với
tôi lúc đó có anh Tôn Thất Phùng và chị Thoa thường hay đàm đạo văn thơ
với tôi vào những buổi chiều, sau giờ ăn cơm. Câu chuyện với những
người tri kỷ, tri âm cũng khuyến khích tôi làm thơ, trong cái đà tôi trở
lại sáng tác dồi dào, hào hứng trước cuộc sống mới. Cũng xin nói thêm,
là sau lần ngã ngựa ấy, tôi vẫn đi công tác tại Việt Bắc bằng ngựa, chỉ
có điều là đi càng cẩn thận và dặn em Kiên ra đón tôi lúc trở về thì
đừng cầm đèn. Con ngựa trắng của tôi, hình như nó cũng hiểu là tôi đã bị
ngã đau, nên nó đi càng chậm rãi, và những lúc lên dốc nó không chạy
còn tôi thì tôi bám thật chặt vào bờm ngựa và hai chân kẹp chặt bụng
ngựa. Đến đầu tháng 10-1954, tôi cùng một số anh em trong Chính phủ ra
bến đò Bình Ca để xuôi thuyền về Sơn Tây (trước khi về Hà Nội), thì tôi
giao lại con ngựa trắng cho anh em văn phòng còn ở lại thu xếp công
việc, về sau. Tôi còn nhớ rõ lúc tôi rời cái nhà lá ra đi, và chào con
ngựa của tôi thì nó dẫm hai chân xuống đất một lúc rồi hý lên: không
biết đó là một phản xạ ngẫu nhiên của nó hay là thứ tình cảm “khuyển mã
chi tình” mà nó thể hiện bằng ngôn ngữ riêng biệt của nó. Dầu sao tôi
bước ra đi, từ giã Việt Bắc để về Thủ đô với hình ảnh lưu luyến của con
ngựa trắng đã bao năm tháng cùng tôi băng rừng, leo đèo, lội suối trong
lòng thấy ngùi ngùi, xúc động.
Tôi bị xuất huyết nặng ở đáy mũi cuối năm 1974
Đầu tháng 11-1974, có “đoàn văn công giải phóng” ở bưng biền miền Nam ra Hà Nội tập huấn,
để chuẩn bị đi biểu diên ở các nước anh em. Đoàn do anh Mười Đờn phụ
trách và do anh Lưu Hữu Phước lãnh đạo về chính trị và nghệ thuật. Tôi
phải làm việc trực tiếp với đoàn trong vài tuần, đêm nào cũng họp cũng
bàn tỉ mỉ từng tiết mục, có khi rất căng thẳng vì những sự tinh tế của
nghệ thuật đã đành, mà cũng một phần do những sự xung khắc tinh tế giữa
những người chỉ đạo nghệ thuật nữa. Tóm lại sự căng thẳng ấy kéo dài
hàng đêm, làm tôi mất ngủ và huyết áp đột ngột lên cao mà tôi không
biết, và một buổi chiều tôi thấy máu chảy ộc ra ở mũi thì tôi tưởng là
máu cam, lấy bông dịt lại. Qua đêm máu vẫn ri rỉ chảy, và sáng hôm sau
tôi vẫn cố gắng ra nhà hát thành phố nói chuyện với anh em trong đoàn về
cách tu chỉnh, nâng cao các tiết mục trước khi đoàn đi.
Tôi
đang nói thì máu lại ộc ra ở mũi, tôi lấy mu xoa lau thì ướt thấm cả mu
xoa. Anh em phải đem tôi vào bệnh viện Việt Xô ngay. Vào bệnh viện tôi
vẫn chủ quan, cho là một sự chảy máu thường, tiêm thuốc cầm máu là khỏi.
Nhưng đến khi bác sĩ Phúc xem xét kỹ, mới thấy đây là một sự xuất huyết
khá nặng do đứt một mạch máu ở đáy mũi bên phải, mà sự đứt mạch máu là
do huyết áp lên cao quá đột ngột. Bác sĩ Phúc còn nói: “May lớn cho anh.
Nếu không đứt mạch máu ở đáy mũi mà đứt một mạch máu não thì không còn
nhà thơ Huy Cận!”. Tôi nghe vậy, hơi chờn, nhưng cũng tin vài ngày sẽ
khỏi. Bác sĩ Phúc cho bông thấp thuốc cầm máu vào mũi tôi, rồi nhét một
sợi gạc dài gần 3 tấc; bông và gạc nhét vào căng và tức trong mũi, gây
đau nhức lên đầu.
Thế là tôi phải
nằm yên và thở bằng miệng. Hai mươi bốn giờ sau, bác sĩ kéo nhẹ sợi gạc
ra thì thấy máu vẫn chưa cầm, nhưng tôi vẫn bình tĩnh, cho là vài ngày
sẽ đâu vào đấy Anh Diệu và vợ tôi vào thăm tôi hàng ngày, vợ tôi có ngày
vào hai lần mang một ít thức ăn bổ sung, và nhất là ngồi trông nom tôi
hàng giờ để cho tôi ngủ yên, có tối đến 9, 10 giờ vợ tôi mới ra về.
Chính trong những ngày nằm bệnh viện này tôi đã viết được “Chùm thơ làm
trong bệnh viện” mà anh Diệu rất thích (những bài thơ này đã in một số
vào trong tập Ngày hằng sống, ngày hằng thơ và tập Ngôi nhà giữa nắng.
Sau
một tuần, máu vẫn không cầm, tôi bắt đầu hoang mang; lần đầu tiên trong
đời tôi cảm thấy hơi chờn trước cái chết có thể đến. Những năm tôi đi
vào khu 4 khói lửa, suýt bị chết rất nhiều lần ở Vĩnh Linh, ở Quảng
Bình, ở cầu Hàm Rồng mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hoảng sợ trước cái
chết lướt bên cạnh mình. Nhưng lần này thì khác. Một đêm, đã khuya tôi
bừng tỉnh dậy, thì thấy cả cái gối ướt đẫm máu, và tôi bắt đầu sợ. Nhưng
tính nào tật ấy, tôi gọi bác sĩ đến dịt bông và băng cho tôi tiêm thuốc
cầm máu nữa, nhưng trong đầu lại thảo một bài thơ. Đó là bài Hạt lại
gieo, xin nhắc đây mấy câu nói lên cái tâm trạng đêm hôm ấy:
Anh nghỉ làm thơ để máu cầm
Máu ơi, ở lại chớ ra dầm
Máu là thế giới trong ta đó
Chớ để ta nằm với lặng câm
Yêu nữa yêu rồi đâu hết yêu
Cuộc đời như miếng đất phì nhiêu
Trồng bao nhiêu vụ còn tươi tốt
Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo
Rồi một ngày kia giã cõi này
Xin cho gieo hết hạt trong tay
Chứ tay còn nắm, chưa vơi hạt
Mà phải ra về, cực lắm thay!
Nỗi tiếc nuối còn dào dạt suốt cả chùm thơ bệnh viện, tôi xin kể thêm một hồi sau...
Hai lần thăm Kim Tự Tháp
Tháng 2-1962,
tôi dự Đại hội nhà văn Á Phi tại Cairo, thủ đô Ai Cập; vào tháng 7 năm
ấy tôi lại sang Cairo để dự lễ quốc khánh Ai Cập. Cả hai lần tôi đều
tranh thủ đi xem những Kim Tự Tháp nổi tiếng, thành phố Memphis và thành
phố Alexandrie, hai thành phố cổ nổi tiếng, tiêu biểu cho nền văn minh
cổ Ai Cập Đặc biệt tôi đã thăm kỹ Kim tự tháp Khéops và đã chui vào
lòng, trung tâm điểm của Kim tự tháp.
Cảm
giác kỳ vĩ, có phần nào choáng ngợp mà tôi cảm nhận trước công trình
kiến trúc đồ sộ và độc đáo thì cũng trùng hợp với cảm giác của các nhà
văn nhà thơ đã đến trước tôi. Nhưng cái điều mà tôi băn khoăn là bấy
nhiêu sự chăm lo, săn sóc cho cái vĩnh viễn của con người lại bị lở lói
mất, bị xói mòn bởi những trận gió cát của sa mạc, và của thời gian.
Cát!
Tuổi
nhỏ tôi đã rất quen thân với cát của bãi Giang quê nhà, tôi đã chạy
trên bãi cát để thá diều những buổi trưa hè, tôi đã lấy tay đào sâu
xuống cát để chơi trò cối xay... Cát đối với tuổi thơ bé của tôi là một
cái gì êm ả, gần gũi, thân thương. Lớn lên đi khắp miến đất nước cát gắn
liền trong tâm trí tôi với phù sa, cát và phù sa sông Hồng, sông Luộc,
cát với phù sa của sông Cứu Long trên đất Nam Bộ phì nhiêu. Cát mịn, cát
tơi, cát mát... Cát xây nhà, những đống cát là chỗ mà các trẻ con, con
tôi, bây giờ là cháu nội của tôi thích vọc, thích đắp để làm trò xây
nhà. Lại còn cát trên bãi biển những chiều sóng lên trẻ con cũng như
người lớn xây những lâu đài, xây chưa xong sóng đã cuốn đi. Và cát trong
câu thơ của Lưu Trọng Lư:
Trên cát vô tình vạch chữ Vân
Chữ viết vừa xong, sóng xoá dần.
Nhưng
lần này tôi mới biết thế nào là cát, là cát sa mạc, là cát với tư cách
là một sức mạnh của trời đất nổi tung lên đe doạ và phá hoại những công
trình những sự nghiệp của con người... Ở rìa sa mạc Ai Cập cũng như ở
rìa sa mạc Angiêri tôi đã thấy cát là một nhân vật, một nhân vật dữ dội,
một hung thần có những cơn giận dữ đúng là long trời lở đất. Cho nên
đứng ở chân Kim tự tháp, hình ảnh cát hung thần đã ám ảnh tôi:
Chỉ có trời xanh thay cỏ cây
Mênh mông sa mạc cát làm ngày;
Cát làm đêm nữa. Trăng phơi cát
Sao sáng đằng xa hay cát bay
Vua chúa không yên chịu cát vùi
Trăm kim tự tháp đá chen trời
Năm nghìn năm đứng cười sa mạc
Nắm chắc trong tay vĩnh viễn rồi...
Nhưng
đó là chưa tính đến sức mạnh của cát và của thời gian. Cho nên cái vĩnh
viễn vua xây dựng bị cát của sa mạc và nước của thời gian xói mòn,
không một sức gì cưỡng được...
Nhưng rồi sao, Kim tự tháp ngàn năm
Trong lòng tôi một xác ép vua nằm;
Dời chân tôi vạn thần dân chết lụi.
Vua muốn thắng thời gian vòi vọi
Nằm yên trong giấc đá, kín bưng.
Suốt đời vua lo chỗ ngủ cuối cùng,
Ôm cái chết mong thắng dần cái chết.
Thời gian thổi, hồn vua không sợ rét,
Mặt trời quay, trục tháp chẳng mòn xoay.
Vua ngủ yên nhưng tôi thức đêm ngày;
Cát, cát cát nổi từng cơn dữ dội,
Cát thổi đập vào mình tôi nhức nhối.
Tôi thức vua cho vua biết:giữa trăng sao
Hạn nằm trong vĩnh viễn chẳng còn bao
“Dậy vua ơi! Cái chết chẳng thể rào
Được cái chết”. Vua ngủ mê giấc đá
Lở chân trời nhiều bạn tôi tàn tạ,
Hắt ra ngoài vĩnh viễn xác vua phơi...
Tôi thấy thời gian rúng lạnh bốn chân tôi...
Hai
chuyến đi thăm Ai Cập có để lại cho tôi nhiều ấn tượng nữa, chứ không
chỉ cảm nghĩ về Kim tự tháp. Nền văn minh cổ Ai Cập mà dấu vết còn đầy
rẫy trên đất nước sông Nin này, tôi sẽ xin ghi những cảm tưởng Ai Cập
một lần khác. Nhưng cũng xin ghi ngay ở đây cái cảm giác mát mẻ, xanh
tươi của những mảng sa mạc đang biến thành vườn, thành đất trồng trọt
màu mỡ nhờ nước của đập Átxuăng mà Liên Xô đã giúp Ai Cập xây dựng, một
công trình thuỷ lợi khổng lồ trên đất châu Phi, một sự lấn đất quyết
liệt của con người chống lại sa mạc.
Chính cũng trong hơi gió mát của vườn mới, đất mới ấy mà tôi đã viết bài thơ Trò chuyện với Kim tự tháp mà câu cuối cùng là:
Bóng Kim tự tháp trải lên bờ sông mát
Thăm di tích Babilon
Tôi
lại có cái may mắn được thăm đất nước Irắc hai lần: lần đầu tháng
7-1962 để dự quốc khánh Irắc và lần thứ hai năm 1980 để dự hội nghị các
nước không liên kết về công tác văn hoá, thông tin, truyền thông. Đất
nước Irắc rất đẹp, đẹp một phần vì phong cảnh và các công trình xây dựng
ngày nay, đẹp một phần lớn nữa là do quá khứ văn minh của cái đất nước
“Nghìn lẻ một đêm” này. Tôi đã say sưa đi dạo giữa các phố của thành phố
Bát-đa cũ, với cuộc sống nhộn nhịp như rào rào sinh khí của nhân dân,
làm tôi tưởng như mình đang đi trong một dòng truyền thuyết và có cảm
giác như ở bất cứ ngõ hẻm nào của phố xá cổ sơ này cũng sắp hiện ra một
ánh đèn Alađanh.
Phụ nữ Irắc rất
đẹp, da trắng mịn, má ửng hồng tự nhiên, mắt đen láy, tóc đen mượt, mũi
cao dọc dừa nghĩa là một cái đẹp Âu Á kiêm toàn. Chỉ tiếc là lúc tôi
sang thăm, đa số các chị còn theo phong tục xưa mang khăn quàng kín mặt,
chỉ để hở vừng trán và đôi mắt, nhưng dường như thế cái đẹp của các chị có bề hấp dẫn hơn...
Mỗi
lần tôi đều tranh thủ đi thăm di tích kinh đô ngày xưa là Babilon. Dọc
đường những rặng cây chà là cũng mang dáng dấp những công trình kiến
trúc với thân cây vững chãi, với ngọn cây túa đẹp như những ngọn tháp,
như những cột nhà Hi Lạp ngày xưa. Lý thú nhất là xem lại những đường
phố của Babilon còn nguyên vẹn với những gạch hoa, những mảng tường lớn
trang trí bằng những hình sư tử lớn và hình ngựa cao to, tất cả đều bằng
gốm men màu chủ yếu là màu xanh lá cây và màu nâu. Màu men gốm vẫn tươi
ánh như mới ra lò. Giữa những đường phố có tường trang trí lộng lẫy
này, vua quan, công hầu bá tước, và những nàng công chúa đẹp như truyền
thuyết đã dạo qua trong những ngày lễ lớn, trong những ngày hội của
triều đình, trong những ngày đăng quang của các vị hoàng đế. Bên cạnh
cái lộng lẫy của đời sống vua chúa tôi còn được thấy những vết tích của
công trình thuỷ lợi, những hệ thống cống rãnh của một thành phố lớn xưa
kia. Ở Babỉlon đối với khách phương xa đến còn hai di tích nổi tiếng là
con sư tử bằng đá cao to, chưa sứt mẻ chút nào, và cái vườn treo
Babilon. Cũng như khách thập phương khác tôi đã có cái thú trèo cưỡi lên
con sư tử để chụp ảnh cùng một đồng chí Anbani đi vãn cảnh hôm đó. Anh
này tôi còn giữ, với lời đề tặng của đồng chí Anbani: “Mong rằng chúng
ta - những con người - sẽ còn đứng vững bền hơn con sư tử này”. Nếu là
loài người nói chung thì câu đề tặng ấy chắc chắn là đúng. Còn riêng
đồng chí Anbani và tôi đã thăm Babilon hôm ấy thì chắc rằng đứng trên
trái đất này chẳng còn bao năm. Còn cái vườn treo của Babilon thì đã xơ
xác đi nhiều, tất nhiên còn cái dáng của vườn và đã có một ít cây cối
cằn cỗi trên mảnh đất treo ấy. Câu chuyện thì ai cũng biết: Có một ông
vua thời đó cưới hoàng hậu rất đẹp quê quán ở một làng hẻo lánh xa xôi
cách kinh đô Babilon hơn trăm dặm. Hoàng hậu rất mực yêu vua, chiều
chuộng vua không phải với nghi lễ của một chánh cung, mà với tất cả cử
chỉ âu yếm đắm say của một người yêu, của một người tình, mà tình yêu
của cái xứ “Nghìn lẻ một đêm” này thì đắm say, đam mê như thế nào chúng
ta cũng có thể tưởng tượng. Nhưng hoàng hậu vẫn nhớ nhà, vẫn nhớ cha mẹ,
nhất là nhớ mẹ. Chiều chiều hoàng hậu cứ ra cửa sau của hoàng cung để
nhìn về phía quê mẹ mà ứa nước mắt. Vua thấy vậy càng yêu hoàng hậu và
càng thương. Vua bèn cho xây một cái vườn treo khá cao trên vườn treo
trồng các thứ cây, hoa của quê nhà hoàng hậu, để chiều chiều hoàng hậu
lên đó dạo chơi tiêu khiển, nhưng, hoàng hậu đứng trên vườn treo vẫn
nhìn về quê mẹ, mà một câu thơ của Babilon hồi ấy cũng nói là hoàng hậu nhìn về quê mẹ lòng đau đớn không nguôi. Thật đúng như câu ca dao của ta:
Chiều chiều ra đứng cửa sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Xem tế Nam Giao
Bảo
Đại về nước năm 1934, học sinh trường Quốc học, trường Đồng Khánh và
các trường tiểu học ở Huế, cùng với đội ngũ giáo viên đều được huy động
đi rước “Hoàng đế hồi loan”.
Chúng tôi lúc đó mỗi đứa phải cầm một tờ giấy màu vàng (màu của nhà
vua) và khi xe của Bảo Đại đi ngang thì phất cờ và hô “Hoàng đế vạn
tuế”. Xe của Bảo Đại đi ngang đám học sinh cũng chạy tương đối nhanh,
chúng tôi liếc vào thấy Bảo Đại bận áo vàng, chít khăn vàng, ngồi im
không nhúc nhích như phỗng đá, không hề giơ tay vẫy chào đám người đi
đón ông ta. Vả lại cửa kính của xe cũng đóng kín, chắc ông ta cũng không
nghe thấy tiếng hô “vạn tuế” rời rạc của đám học sinh.
Mùa
xuân năm 1935, một năm sau khi Bảo Đại về nước, triều đình Huế tổ chức
lễ tế Giao (nghĩa là nhà vua làm lễ cúng trời ở đàn Nam Giao, cách
trường Quốc học 3, 4 cây số về phía núi Ngự Bình). Lễ tế giao này đã
được quy định từ thời Gia Long, với cái ý nghĩa là nhà vua cầm quyền cai
trị dân, cai trị đất nước là do mệnh trời, cho nên cứ 3 năm một lần nhà
vua làm lễ tế giao để trình lại với trời công việc trị dân, trị nước,
và cũng để cảm nhận ý trời trong sứ mệnh cao cả của nhà vua. Theo thuyết
của Khổng Tử và truyền thống của các triều đại Trung Quốc thì vua là
Thiên tử (con trời), nhưng các nhà vua triều Nguyễn không dám tự xưng là
thiên tử với nhân dân, chỉ dám nói qua quít là trị dân, trị nước theo ý
trời mà thôi.
Đó cũng là một sự mặc cảm
của một triều đại mà trong tiềm thức cũng tự cảm thấy cái vị trí con
trời đã bị lung lay, cái mệnh trời cũng không còn là một “chân lý” vững
chãi nữa, dù cho là “chân lý” tượng trưng, hình thức. Bảo Đại theo nghi
lễ của triều đình làm lễ tế giao này cũng là làm chiếu lệ, cho qua
chuyện chứ không với một lòng tin như các ông vua ở các triều đại trước.
Đến
ngày lễ tế giao, triều đình rước Bảo Đại ra cửa chính Ngọ Môn, đi qua
cầu Tràng Tiền, đi thẳng con đường lớn dọc sông Hương (lúc đó là đường
Jules Ferry, đi qua trước trường Đồng Khánh và trường Quốc học), rồi đi
thẳng lên đàn Nam Giao. Chúng tôi tập trung
trước cửa trường Quốc học, gọi là chào vua, mà thật ra là tò mò xem ông
vua đi tế trời như thế nào. Bảo Đại ngồi trong một cái kiệu 4 mặt đều
che bằng những tấm kính lớn trong suốt, kiệu do tám người lính gánh,
lính của Hoàng thành đội nón dầu, mặc quần áo vải điều và quấn xà cạp
bằng vải điều có viền nỉ xanh tím. Còn Bảo Đại thì ngồi nghiêm nghị
trong bộ áo quần hoàng bào, đầu chít khăn vàng, chân đi giày cườm. Nhà
vua cũng ngồi im như pho tượng, không nhúc nhích, mắt cố gắng nhìn thẳng
phía trước. Các quan đại thần đi theo sau cũng ngồi trong những chiếc
xe hòm đen, những chiếc xe kiểu năm 1900, các quan bận lễ phục hoặc bận
áo dài đen, chít khăn chữ nhất, rồi lên đến đàn Nam Giao mới mặc áo đại
lễ. Trước kiệu của nhà vua có hàng lính Nam triều mang cờ đi trước, tôi
nhớ có cờ đại và nhiều cờ đuôi nheo bằng nỉ đỏ viền tím xanh. Tiếp theo
hàng cờ là đội lễ nhạc, nghĩa là một phường bát âm của triều đình, vừa
đi vừa tấu bài nhạc “Đăng đằng cung”. Cuộc rước nhà vua từ Ngọ Môn lên
đến đàn Nam Giao diễn ra trong nửa buổi sáng cũng không lấy gì lâm rực
rỡ lắm, mà cũng không gây được cái gì gọi là náo nức trong lòng dân
chúng. Đó là một cuộc rước không đến nỗi âm thầm, nhưng cũng không có gì
là “khí phách thiên tử”. Đêm hôm ấy Bảo Đại phải ăn chay tắm rửa bằng
các thứ nước cho nhiều hoa lá xông vào để nhà vua được thật “thanh
khiết” trước khi tiếp xúc với trời. Ăn uống và tắm rửa như vậy, người ta
gọi là lễ trai giới của hoàng đế. Đến khoảng 4 giờ sáng thì nhà vua và
triều đình làm lề tế trời, trong bầu không khí mát mẻ và yên tĩnh của
ban mai, trước khi mặt trời mọc.
Đàn
Nam Giao là một cái nền hình tròn (tượng trưng cho trời), có ba bậc tam
cấp cao vừa vừa, có bốn cửa đi lên theo hướng đông, tây, nam, bắc. Ngày
tế giao thì triều đình cho dựng lên trên nền đàn Nam Giao một cái nhà
tế với những cột gỗ cắm vòng quanh nền tròn và lợp trên những cột gỗ là
một thứ tăng bằng vải màu xanh lơ (cũng là tượng trưng màu xanh của
trời). Bọn tôi tò mò, ngủ dậy sớm, rủ nhau trèo tường ra khỏi trường và
lên Nam Giao để xem tế.
Trong ngọn
gió mai rì rào qua những cây thông chúng tôi nghe lễ nhạc thoát qua cái
tăng màu xanh và những lời xướng lễ của các quan như vọng từ một quá khứ
cổ sơ. Cảnh tượng ấy cũng gây cho chúng tôi một cảm tưởng hay hay, hiu
hiu. Nhưng tất cả cảnh vật và nghi lễ ấy, ngay lúc bấy giờ, cũng không
còn đủ cái vẻ thiêng liêng, không còn cái nội dung quân thần của các
thời đại lịch sứ xa xưa nữa, cho nên không thể làm rung động lòng thanh
niên chúng tôi, dù là một thứ rung động hoài cổ. Thật ra ngay bản thân
nhà vua cũng cảm thấy đây là một cái trò một nghi lễ giả tạo, cái hồn
của nghi lễ không còn nữa, chỉ còn cái xác của nghi lễ, cũng như ông vua
bù nhìn chỉ còn cái xác vua chứ quyền trị vì, trị dân, trị nước đâu còn
có nắm trong tay. Cảm giác giả tạo cảm giác trò sân khấu ấy làm chúng
tôi không còn hứng thú xem hết lễ tế giao còn kéo dài mấy tiếng đồng hồ,
và chúng tôi cũng không màng xem lễ rước vua hồi cung. Thế mà nhà văn Nguyễn Tiến Lãng đã viết trong tạp chí Nam phong hồi đó
một bài tường thuật bằng tiếng Pháp hết lời tán tụng lễ tế giao tán
tụng nhà vua, cố gắng tạo ra cái không khí thiêng liêng gần như một thứ
không khí tôn giáo trong việc nhà vua tiếp xúc với trời để nhận những ý
trời trong bầu không khí tinh khiết và trầm mặc của buổi rạng đông. Giả
tạo lại được giả tạo ca ngợi là vậy.
Đồng Minh thắng hay Trục thắng?
Lúc
xảy ra cuộc tiến công của phát xít Hít le vào Liên Xô (1941), thì tôi ở
Pôpốt cùng một số anh em sinh viên các ngành tại số nhà 198 phố Lò Đúc,
trước cây đa Nhà bò. Trong số anh em sinh viên ở chung ăn chung, khoảng
10 người, tự nhiên chia làm hai phe, và mỗi phe cũng khoảng 5 người,
một bên thì đánh cuộc và mong rằng Liên Xô và đồng minh thắng, phe kia
thì mong và tin chắc rằng Trục (tức là liên minh Đức - Ý- Nhật) sẽ
thắng. Ngày nào tôi cũng ghé qua bưu điện để xem tin của hãng ARIP đưa
tin về diễn biến chiến sự trên chiến trường châu Âu, châu Á, và xem đều
báo tiếng Pháp “Ý chí Đông Dương” (La volonté Indochinoise). Tờ báo này
là của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, đăng tin có vẻ khách quan
nhưng thực ra cũng ngầm mong là Đồng minh sẽ thắng song những
bài bình luận thì nói lấp lửng, vì lúc đó bọn phát xít Nhật đã vào Đông
Dương và chúng cũng theo dõi sát các cơ quan ngôn luận của người Việt
và người Pháp. Trong đám chúng tôi đã ít nhiều giác ngộ, thì không những
mong ước, mà cũng có chút ít lập luận để tin rằng Liên Xô sẽ thắng, mặc
dầu cuối năm 1941, đầu năm 1942 Liên Xô bị tấn công ào ạt, và bị tổn
thất lớn. Nhưng đầu năm 1942 đã thấy sự cầm cự của Liên Xô rất ngoan
cường nhất là trong những trận ở Koursk và Orel... Thế rồi trong những
buổi ăn trưa và ăn tối trong cái phòng ở tầng dưới, hai phe đều đưa tin,
với những chi tiết để thuyết minh rằng Liên Xô thắng hay là Trục
thắng... Từ chỗ đưa tin đến chỗ bàn cãi, từ chỗ bàn cãi đến chỗ đập bàn,
từ chỗ đập bàn đến chỗ thụi nhau, đánh nhau, có lần vỡ cả bát đĩa. Tính
tôi thường là điềm đạm, mà cũng có lần hăng máu tham gia cuộc “chiến
đấu” trong buồng ăn, nó là hình ảnh thu gọn của cuộc chiến tranh đang
diễn ra trên chiến trường châu Âu, châu Á. Tôi nhớ có một anh học ngành
dược, mắt cận thị nặng, đeo kính cận thị dày, đầu lại húi ngắn, giống y
như một tên lính Nhật, và anh cũng đứng về phía bênh vực bọn phát xít.
Trong lúc cãi nhau hăng máu chúng tôi đã gọi anh là “thằng phát xít trà
trộn vào chúng ta”. Anh tức uất lên, nhưng không cãi gì được, chỉ doạ
“rồi chúng mày sẽ biết!”. Anh ta rất thân với một anh học trường luật
quê ở Quảng Nam có xu hướng thân Nhật và thỉnh thoảng anh bạn cận thị
lại mời anh sinh viên trường luật đến thuyết trình về chủ nghĩa Đại đông
Á cho chúng tôi nghe. Nhưng anh bắt đầu nói thì phe chúng tôi đứng dậy
bỏ đi, không gây sự nhưng cũng không giữ lễ độ, khinh khỉnh ra mặt.
Thành ra anh sinh viên trường luật thân Nhật lại thuyết trình cho những
người đồng điệu mà thôi. Thế rồi anh sinh viên trường luật này được Nhật
mời sang học và nghiên cứu tại Tôkyo, thực chất là để đào tạo thành một
nòng cốt của bọn Nhật sau này khi chúng nắm quyền lực ở Đông Dương,
điều mà chúng tin chắc sẽ thực hiện. Phe Trục trong pôpốt chúng tôi làm
một bừa tiệc linh đình để tiễn anh T.H. lên đường đi Nhật. Cuộc tiễn đưa
diễn ra ở sân ga Hàng Cỏ. Tất nhiên là bọn chúng tôi tẩy chay, nhưng
chúng tôi cũng không gây sự, để mặc cho bọn họ bù khú với nhau, vì lúc
đó hie~l binh Nhật đã sục sạo nhiều trong các tổ chức xã hội, trong các
trường học. Tôi lại còn nhớ, về sau khi tôi đã chuyển sang ở ngõ Tân
Hưng (nay là ngõ Tức Mạc), thì bọn lính Nhật thỉnh thoảng tự nhiên vô cớ
sục vào pôpôt của chúng tôi, mặt đỏ gay, gươm dài kéo lết đất, lúc đầu
nói sừng sộ, rồi sau ra hiệu mượn một cái bát, và rút trong túi lấy ra
một quả trứng gà. Chúng tôi không hiểu nó làm trò gì. Thằng lính Nhật
hình như là hạ sĩ quan, liền đập quả trứng nhẹ nhàng bỏ vào cái bát và
chỉ cho chúng tôi thấy lòng đỏ ở giữa, bao quanh là lòng trắng. Rồi nó
lấy giấy vẽ cái cờ Nhật ở giữa là mặt trời đỏ và xung quanh toàn trắng,
nghĩa là mặt trời lên lúc rạng đông. Đó là nước Nhật. Xong rồi nó lại
lấy ngón tay đánh tan lòng đỏ hoà vào với lòng trắng thành một màu tuyền
vàng, ý nói là người châu Á cùng da vàng đoàn kết với nhau, hoà với
nhau thành một khối trong khối thịnh vượng chung Đại đông Á. Đó là cách
tuyên truyền bằng hình tượng của quân đội Nhật. Nó bước ra, vẫn kéo lê
lết chiếc gươm dài, hơi cười một chút nhưng cái cười của bọn lính Nhật
thì dễ sợ không kém lưỡi gươm nhọn sắc của chúng. Chúng lại thỉnh thoảng vứt vào nhà chúng tôi những tập sách
mỏng in đẹp, tuyên truyền cho nền văn minh Nhật, có những hình ảnh về
nghi lễ trà đạo, về lễ thưởng thức hoa anh đào, về núi Phu-di, về võ sĩ
đạo, và luôn luôn có hình ảnh phụ nữ Nhật bận bộ kimônô màu sắc rất đẹp.
Cuộc tranh luận, cãi cọ trong pôpốt phố Lò Đúc của chúng tôi cứ kéo dài
và diễn biến sôi nổi theo nhịp độ của chiến trường châu Âu, châu Á,
nhất là theo cuộc chiến đấu dữ đội của quân đội Xô Viết ở mặt trận phía
bắc và phía nam. Những ngày tháng Lêningrát bị bao vây là những ngày
tháng hồi hộp
tường như chúng tôi cũng là những người dân của thành phố anh hùng đang
bị giam hãm trong gọng kìm của quân đội phát xít Đức. Chúng tôi hồi hộp
theo dõi tin hàng ngày trên báo, trên bản tin ARIP. Lúc đó Hít le lại
huênh hoang đã in sẵn thiếp mời dự tiệc chiến thắng ở trung tâm thành
phố Lêningrát vào ngày lễ Nôen 1942. Tất nhiên đó là một sự huênh hoang
ngông cuồng của tên trùm phát xít, cốt cổ vũ tinh thần của quân lính nó,
nhưng tin đưa ra cũng làm cho một số anh em bàng hoàng...
Thế rồi quân đội phát xít Đức bị bẻ gãy gọng kìm, và phe Trục trong pôpốt Lò Đúc của chúng tôi cũng co vòi, tiu nghỉu cụp tai...
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2-O
Một kỷ niệm về Nazim Hikmet
Tôi
bắt đầu quen Nazim Hikmet, nhà thơ cộng sản lớn của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ
tại Lêningrát trong chuyến đầu tiên tôi đi thăm Liên Xô. Lúc bấy giờ tại
nhà hát Opêra - Ba lê của thành phố đang diễn vở ba lê Một truyền
thuyết tình yêu theo kịch bản của Nazim. Tôi đến chào anh, vì tôi đã đọc
thơ anh, nhất là đã đọc tập Thật
là đau khổ cái nghề đi đày. Anh nói chuyện ngay, bằng tiếng Pháp, giọng
rất thân tình, rất anh em như quen biết đã từ lâu. Mùa hè 1959, tôi gặp
lại Nazim Hikmet tại Lai xích (Cộng hoà dân chủ Đức), nhân dịp tôi đi
dự hội nghị xuất bản các nước xã hội chủ nghĩa tại đó. Nazim Hikmet đang
mệt; bệnh đau tim của anh đã nặng thêm, thường đau nhói nơi tim. Qua
mấy lần nói chuyện, tôi biết anh cảm thấy mình không còn sống lâu nữa.
Nhưng anh không tuyệt vọng, không buồn, nhất là không hốt hoảng. Anh đã
tự luyện cho mình một sự bình tâm trước mọi chuyện có thể xảy ra, trước
cái chết đang rình anh “như con rắn độc nó chực cắn vào tim anh”.
Anh nói chuyện với tôi với thái độ rất anh em, với tình đồng chí cộng sản. Giọng anh ấm áp lạ thường.
Tức
khắc anh trở thành người bạn thân, như đã thân nhau từ hàng chục năm
trước. Tình người toả từ mắt anh, từ tay anh, từ tiếng nói bè bạn của
anh.
Quen anh tôi tường làm quen
Nghìn năm nhân loại thành tên một người
Anh
đang mệt, nhưng nghe tôi nói có chiếu phim tài liệu Việt Nam là anh đòi
đến xem để biết thêm về dân tộc Việt Nam mà “anh rất cảm phục, rất yêu
mến”, để biết thêm về Chủ tịch Hồ Chí Minh mà anh “yêu mến vô hạn” với
tấm lòng cách mạng, tấm lòng cộng sản của anh. Sau buổi chiếu phim anh
hỏi nhiều về đất nước, về con người, về cuộc sống chiến đấu của Việt
Nam. Anh mong một ngày kia sức khỏe cho phép anh được sang thăm đất nước
“anh hùng, đau khổ và tất thắng”. Buổi tối trước hôm tôi về nước, tôi
đến thăm anh lần nữa tại khách sạn Astoria. Nazim Hikmet đang cơn mệt,
tim đau nhói, tay phải anh luôn luôn áp vào phía trái tim, áp một thứ
giấy có tẩm thuốc trợ tim, như một lá cao. Tôi đến bên giường anh nói
khẽ. Anh muốn vui với tôi, nhưng giọng anh nói tôi cảm nghe như ướt nước
mắt, thứ nước mắt cầm lại chảy vào trong lòng. Mắt anh, nhìn thương
lắm. Anh bảo tôi đọc cho anh nghe, đọc nguyên bản tiếng Việt Nam, vài
bài thơ của tôi cho anh nghe, đọc nguyên bản tiếng Việt để anh được
“hưởng sự ngọt ngào, sâu lắng của tiếng nói phong phú của con người”.
Tôi đọc và giải thích cho anh nghe về điệu thơ lục bát Việt Nam. Anh tỏ ý
rất thích và rất tin ở sự nảy nở mới của các nền văn hoá, của các văn
học nghệ thuật phương Đông. “Phương Đông đã đóng góp lớn cho văn minh
nhân loại và sẽ còn đóng góp lớn hơn nữa. Chúng ta là Phương Đông, đồng
thời chúng ta hiểu cả phương Tây, chúng ta rất giàu”. Anh nói những lời
trên giọng trầm trầm, với một sức tin tưởng như ấn nặng xuống cuộc đời.
Đã hơi khuya, tôi còn muốn nói chuyện, ý anh cũng lưu luyến, nhưng tôi
nài anh cứ nằm. Tôi không nỡ rời anh trong lúc anh đang cơn đau. Tôi
không sao ngoảnh lưng mà ra về được. Tôi đi giật lùi từng bước. Anh chào
tôi, giọng rơm rơm nước mắt: “Đồng chí Huy Cận ơi, chắc tôi không còn
sống lâu không còn sống đến ngày nước Thổ Nhĩ Kỳ, dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ
thân yêu của tôi được giải phóng. Ý nghĩ ấy làm tôi chết điếng trong đáy
tâm hồn. Anh còn sống lâu sau tôi, anh nhớ đến thăm đất nước và nhân
dân của tôi thay tôi. Đó là một yêu cầu bè bạn, anh em, anh nhớ cho.
Thôi anh về kẻo khuya; mai anh còn phải về Việt Nam chiến đấu với nhân
dân anh dũng của anh. Cho tôi gởi lời chào. Tạm biệt, tạm biệt”.
Câu
cuối cùng anh nói trong nước mắt! Tôi kể cho anh nghe nội dung bài thơ
sân khấu Người thợ ảnh của tôi. Sau đó gặp lại ở Mát-xcơ-va, tôi đưa anh
xem bản dịch bài thơ ấy ra tiếng Nga do nhà thơ lớn Pavel Antakolski
dịch. Anh rất thích và hứa sẽ dịch ra tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Kỷ niệm về nhà thơ Nicôla Ghiden
Lần đầu tiên tôi được gặp Nicôla Ghiden là tại Đại hội nhà văn Á - Phi họp ở Cai rô, thủ đô Ai Cập hồi tháng 2-1962. Tôi đã được đọc thơ anh từ trước trong một tuyển tập của
anh do nhà xuất bản Pháp Seghers xuất bản tại Paris. Tứ thơ và nhịp
điệu thơ của anh (dầu là qua bản dịch) rất độc đáo, có một cái gì trần
trụi trực tiếp, vừa êm ái vừa sâu xoáy làm cho tôi nhớ ngay, và có những
bài thơ như cứ vương vấn trong tâm trí tôi, như tiếng nói của một người
bạn quen đã lâu ngày. Anh là một trong hai nhà thơ da đen của châu Mỹ
mà tôi biết trước hết, đó là Langston Hughes (nhà thơ da đen Mỹ) và anh.
Sau này tôi biết và quen thân thêm Keng Depestre, người Haiti. Nicôla
Ghiden thật ra không phải là hoàn toàn da đen, mà anh là người lai giữa
da trắng và da đen, bố anh là người Cuba da đen, mẹ anh là người da
trắng gốc Tây Ban Nha. Những người lai như anh ở Cuba gọi là người da
nâu (mulâtre). Gặp nhau ở hội nghị, qua vài câu chuyện, là chúng tôi trở
nên thân thiết, như đã quen biết nhau từ lâu, anh hơn tôi 17 tuổi,
nhưng tình thơ tình cách mạng tạo ngay được mối tình anh em, dù cách
nhau nửa vòng trái đất. Thế rồi ngoài giờ hội nghị trong những lúc đi
tham quan, hoặc đi dạo phố chúng tôi lại cặp kè đi với nhau nói chuyện
thơ, chuyện đời, chuyện đất nước và cách mạng Cuba, Việt Nam châu Mỹ la
tinh. Chúng tôi dùng tiếng Pháp để nói chuyện với nhau, nhưng đôi khi
trong một câu tiếng Pháp, anh chen tiếng Tây Ban Nha vào mà tôi cũng
đoán hiểu, và như thế tôi bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha nhờ anh. Sau này
đi công tác hai lần ở Cuba tôi học thêm và có tiến bộ về tiếng Tây Ban
Nha, ít nhất là để khỏi lạc đường giữa các phố La Havana. Nicôla Ghiden
rất nổi tiếng ở Cuba đã đành, mà trong toàn châu Mỹ la tinh nữa, các
giới văn học thế giới cũng biết đến anh nhờ những bản dịch qua tiếng
Pháp tiếng Anh và tiếng Nga. Anh làm thơ cách mạng nhiều năm trước khi
cách mạng Cuba thành công. Những bài thơ đầu của anh in những năm 30,
với tình cảm xót xa, uất hờn trước cảnh đất nước Cuba bị đế quốc Mỹ và
bọn tư bản bản xứ bóc lột thậm tệ, trước thân phận những người công
nhân, những người nông dân Cuba sống như những người nô lệ, những em bé
cả da trắng và da đen đi ăn xin như “những con chó ghẻ” tìm ăn đáy đĩa
dưới các bàn tiệc. Tôi nhớ mãi bài thơ của anh Đất nước tôi bên ngoài
dịu ngọt, bên trong cay đắng, và bài thơ Cái tên tôi. Trong bài thơ này
anh nói cái tên châu Phi của tổ tiên da đen của anh không còn nữa, cái
tên ấy bị đánh chìm trong đêm tối của thời gian, trong cái kiếp nô lệ
của cha ông bị bán làm sức lao động từ châu Phi sang châu Mỹ hơn 2 thế
kỷ trước. Bây giờ anh phải mang tên một vị thánh (Nicôla) và tên Ghiden
là tên Tây Ban Nha ghép vào trong sổ của người công chứng (Notaire).
Đoạn cuối bài thơ anh Xuân Diệu dịch ra như sau:
Như thế, vậy thì sẽ có gì quan trọng
Vậy bây giờ còn quan trọng cái gì.
cái tên bé nhỏ của tôi
và mười bốn chữ trên trang giấy trắng
Và cái tên Phi châu xứ Đahômây,
xứ Tô gô, xứ Mali hoặc là xứ khác
của ông tổ đáng buồn
bị chết chìm trong mộc của một tên công chứng,
các bạn thuần khiết của tôi ơi, có quan trọng gì
đâu
Ồ! Vâng, các bạn thuần khiết của tôi ơi,
Vâng, hãy đến nhìn cái tên của tôi!
Cái tên tôi dài dằng dặc
và kết thành bằng những tên dài dằng dặc
cái tên tôi: tên của tôi, tên của người khác,
cái tên tự do của tôi, của anh, của bao người khác,
của bao người khác, cái tên tôi tự do như khí trời...
Còn bài thơ Tổ quốc tôi bên ngoài dịu ngọt thì mở đầu như sau:
Tổ quốc tôi bên ngoài dịu ngọt...
Nhưng biết bao cay đắng bên trong;
Tổ quốc tôi bên ngoài dịu ngọt
Với mùa xuân xanh thắm
Với mùa xuân xanh thắm
Nhưng mặt trời mật đắng ở trong tim.
Trời xanh trầm lặng im lìm
Thản nhiên ngắm nhìn cay đắng
Trời xanh im lìm trắm lặng
Ôi Cuba! Tuy Thượng đế cho Người
Ôi Cuba! Tuy Thượng đế cho Người
Xanh xanh đây một mảnh trời...
Một con chim gỗ
Mỏ mang lại lời ca,
Một con chim gỗ
Mỏ mang lại lời ca...
Ôi Cuba! Tôi muốn cùng Người nói
Tôi hiểu Người sâu sắc xiết bao
Rừng cọ Người nhuộm những máu đào
Rừng cọ Người nhuộm những máu đào
Biển Người đó chỉ toàn nước mắt!
Tôi biết Người xiết bao sâu sắc
Sau nụ cười hiền dịu của Người
Tôi trông thấy máu tươi và nước mắt
Sau hiền dịu nụ cười
Máu tươi và nước mắt
Sau hiền dịu nụ cười
Máu tươi và nước mắt.
Những
bài thơ có tinh thần và tình cảm cách mạng của anh viết bằng điệu
“Xông” được những người hát dạo lang thang ở những bến tàu hát lên một
cách buồn bã và cay đắng cho những khách du lịch tìm nghe những điệu hát
“Bản xứ”. Nhưng cuốn sách của anh gồm những khúc “Xông” ấy thì lại được
ra đời ở Mêhicô, bởi vì ở Cuba lúc bấy giờ là chế độ độc tài quân sự
cai trị, việc phổ biến những bài thơ như thế bị cấm. Song le - như Nicôla Ghiden đã nói - thơ đến với nhân dân bằng những đường tinh vi nhất và khác nhau nhất.
Nicôla
Ghiden đã sang thăm Việt Nam trong những ngày chúng ta chống Mỹ cứu
nước, tôi và anh Xuân Diệu đã hướng dẫn anh đi thăm Hà Nội, các vùng lân
cận, và vịnh Hạ Long, khu mỏ Hòn Gai. Anh thích được nghe các điệu dân
ca của ta, và thích được xem các kiến trúc cổ như đền chùa. Đối với anh,
cũng như đối với các nhà thơ chân chính khác, cái gì là bản sắc dân tộc
đều có sức hấp dẫn, đều khơi dậy những vang động sâu xa trong tâm hồn.
Trước khi anh sang thăm Việt Nam, tôi đã có dịp gặp lại anh hai lần ở
Cuba: năm 1965, lúc tôi dẫn đầu đoàn nghệ thuật sang biếu diễn bên đó,
và tháng giêng năm 1968 lúc tôi sang dự Đại hội văn hoá toàn thế giới
họp tại La Havana. Mỗi lần, gặp nhau thân thiết anh đều ao ước được sang
thăm đất nước Việt Nam anh hùng, nước Việt Nam thân thiết đối với anh
cũng như đất nước Cuba” như lời anh nói.
Nhà
xuất bản Văn học của ta có yêu cầu anh Xuân Diệu, tôi và một số nhà thơ
khác dịch và giới thiệu thơ Nicôla Ghiden. Anh Xuân Diệu đã viết bài
giới thiệu dài hơn 60 trang, và tôi đã viết lời nói đầu như sau:
“Thơ
của Nicôla Ghiden là một dòng thơ cách mạng cỡ lớn. Cái giá trị trước
tiên mà mọi người công nhận ở ông, chính là ông đã cho thơ của mình một
nội dung rất cách mạng: những đắng cay và nhung căm giận của một dân
tộc, một lòng yêu tổ quốc nồng nàn, sự thúc giục và kêu gọi bất tuân
chính quyền phản động.
Và tất cả nội dung
ấy đã được nói lên, được truyền đi một cách giản dị, không chút kiểu
cách. Đây là một thứ thơ trực tiếp, một ngôn ngữ trực tiếp, không văn
hoa, chẳng bày bố thông thái.
Mỗi bài thơ
của Ghiden là một chấn động tâm hồn. Tại sao như vậy. Cái bi tráng qua
đởi sống quần chúng được nói với những tiếng, chữ của nhân dân, với
những cách nói của nhân dân, với cách diễn tả ngắn gọn của những tục ngữ
ca dao của dan tộc.
Và nhạc điệu của thơ ấy nữa! Dù qua các bản dịch, người đọc cũng xúc cảm và vương vấn bồi hồi vì
nhạc thơ ấy; có lẽ vì trước hết đây là một nhạc điệu nội tâm, một nhạc
điệu của tâm hồn. Nhưng tâm hồn và thể xác, làm sao tách đôi ra được.
Một
giá trị lớn khác của Nicôla Ghiden chắc hẳn đã gia nhập được yếu tố da
đen - ảnh hưởng gốc rễ sâu xa của xúc cảm và tính nhạc điệu cao ca của
các cử chỉ của ngôn ngữ - và đã thực hiện được cuộc hôn nhân đẹp đẽ giữa
sự xúc cảm da đen với sự xúc cảm Tây Ban Nha. Nói chung, Ghiden đã sáng
tạo ra cái nên thơ “lai giống” lai da đen và Tây Ban Nha, như chính ông
cũng thích nói như thế. Sự độc đáo lớn lao của ông nằm ở điểm này, sự
đóng góp vô giá của ông vào ngôn ngữ nhân loại cũng ở điểm này.
Ai
một ngày kia sẽ định nghĩa được cho chúng ta cái diệu kỳ, cái phép lạ
và sức quyến rũ của thơ chân chất và chân chính? Chúng ta đọc thơ Nicôla
Ghiden luôn luôn với một giọt lệ rưng rưng, nước mắt căm giận, nước mắt
mừng vui, những giọt lệ thiên cảm và chung hoà của tình nhân loại”.
(Hà Nội, 23-10-1974)
Năm 1982,
chính phủ và nhân dân Cuba đã làm lễ trọng thể mừng Nicôla Ghiden 80
tuổi. Trong số báo tạp chí thì đúng hơn, Bôhemia số đặc biệt về Nicôla
Ghiden đã có cho in tấm ảnh chụp Nicôla và tôi đứng ở trên bờ Địa Trung
Hải, lúc dự Đại hội nhà văn Á- Phi 1962. Chính phủ ta đã cử anh Xuân Diệu sang dự lễ mừng thọ Nicôla Ghiden, và mang sang cho anh tuyển tập thơ
anh bằng tiếng Việt Nam. Anh lấy làm hứng thú và nói với anh Diệu: “Thơ
tôi có cay đắng và có dịu ngọt, chắc rằng qua tiếng Việt Nam phần dịu
ngọt sẽ dịu ngọt hơn, phần cay đắng đã cay đắng hơn lên”, đó là một cách
anh ca ngợi tiếng Việt Nam của chúng ta, tiềm năng thơ trong tiếng
Việt. Hiện nay Nicôla Ghiden đã 85 tuổi, vẫn khỏe, chắc mạch như “một
con trâu cày”, chắc sự so sánh này không làm phiền lòng anh. Nicôla
Ghiden! Một nhà thơ lớn của Cuba của châu Mỹ la tinh, của đội ngũ nhà
thơ cộng sản ở thế kỷ 20 này. Chúc anh sống lâu để thấy Tổ quốc anh và thế giới của chúng ta thêm nhiều dịu ngọt, không còn cay đắng.
Kỷ niệm về nhà thơ Thanh Tịnh
Mùa
hè năm 1937, lúc gần mùa thi, anh Xuân Diệu và tôi được anh Thanh Tịnh
rủ đi thăm các lăng tẩm ở Huế. Anh hướng dẫn chúng tôi đi thăm lăng thì
không còn ai hơn, vì anh rất hiểu sự tích các lăng, và có thể nói là rất
thạo trong công tác du lịch, trong cái nghề hướng dẫn khách thập phương
vãn cảnh. Anh lúc đó đang làm việc trong hội những người bạn của cố đô
Huế” (Les amis du Vieux Huế). Hội này có cho ra đều một tập san lấy tên của hội, mỗi số của tập san
dày hàng 400-500 trang, có nhiều bản minh hoạ bằng ảnh, bằng tranh màu,
và những bản đồ hoạ kiến trúc rất tỉ mỉ. Những kiến trúc lăng tẩm, cung
điện lại còn kèm thêm những hoạ tiết được vẽ lại rất công phu, những
hình chạm những mẫu áo quần, những mũ mão đều được khắc ghi lại rất
chính xác như là những bản vẽ kỹ thuật để sau này ai muốn phục hiện lại
những thứ đó có thể căn cứ theo mà phục hiện. Anh Thanh Tịnh là nhà thơ,
nhà văn nhưng anh lại có trí nhớ rất chính xác, rất tỉ mi về những câu
chuyện lịch sử, về những mẩu chuyện dân gian liên quan đến Huế, đến
triều đình nhà Nguyễn, đến phong tục tập quán
của vua quan và của nhân dân xứ Huế. Anh biết tôi và anh Xuân Diệu đã
kết thân với nhau tại trường Quốc học, anh rất quí hai chúng tôi và anh
muốn “chiêu đãi” chúng tôi bằng một bữa đi thăm lăng.
Chúng tôi đi xe đạp lên đến bến Tuần rồi qua đò từ bến Tuần sang thăm lăng Minh Mạng và lăng Tự Đức.
Ở
bến Tuần thấy cảnh nước sông Hương êm lắng chảy về xuôi, anh Xuân Diệu
sực nhớ hai câu thơ Trung Quốc, và đọc lên như là tức cảnh:
Thiếp tâm chính tự trường giang thuỷ
Trú dạ tuỳ lang đáo Phúc Châu
Thế Lữ dịch là:
Lòng em như nước Trường Giang ấy
Sớm tối theo chàng đến Phúc Châu.
Thanh Tịnh cũng đọc liền câu ca dao:
Thuyền đi cát cũng rung rinh
Lòng em trờ lại bập bềnh trôi theo
Không
biết đây là câu ca dao của dân gian hay là câu ứng khẩu của anh Thanh
Tịnh, tôi cứ ngờ ngợ là câu của anh, vì Thanh Tịnh có tài làm ca dao, và
thỉnh thoảng cứ tưng tửng đọc lên nói là của dân gian để lừa thiên hạ,
cho vui... Ngày hôm ấy (một chủ nhật), trời trong xanh, chưa nóng lắm,
chúng tôi ngoạn cảnh lăng tẩm, lòng hoài cổ thì ít mà thú thưởng thức
thiên nhiên thì nhiều, và nhiều hơn nữa là sự hào hứng nói về văn thơ,
sự hào hứng của ba anh em đã bước vào phong trào Thơ mới, của ba lính
xung trận của một cuộc cách tân thơ văn... Sau cuộc đi thăm lăng tẩm đó,
chúng tôi nhất là tôi còn gặp anh Thanh Tịnh nhiều lần, còn tâm sự
nhiều với nhau về chuyện đời, chuyện thơ. Năm 1938, anh Thanh Tịnh cho
xuất bản tập thơ
Hận chiến trường, trong đó có rất nhiều bài nói về sự chết chóc ở các
chiến trường xưa nay, và cũng đượm ít nhiều lòng hoài cổ, hay nói đúng
hơn là lòng nhớ quá khứ oanh liệt của cha ông. Nhưng ít nhiều cái thời
thượng lúc đó làm cho tập thơ
của anh có pha màu ma quái (ma cabre), và nhấn mạnh vào điểm ấy là anh
đã cho làm hàng trăm cái đầu lâu bằng bột giấy ép lại, màu trắng hếu như
sọ dừa thật. Hàng trăm cái đầu lâu ấy là anh tặng cho những độc giả đã
đặt tiền trước mua cả thơ và đầu lâu. Thỉnh thoảng gặp anh Thanh Tịnh,
tôi có nhắc lại giai thoại Hận chiến trường và hận đầu lâu này thì anh
cũng cười xoà, như nhớ lại những ngày tháng ngông cuồng của tuổi trẻ
lãng mạn.
Anh Xuân Diệu và
anh Thanh Tịnh đã lần đầu tiên gặp nhau trên báo Phong hoá trong một số
báo đăng bài thơ Tơ lòng và tơ trời của Thanh Tịnh, và bài thơ Với bàn
tay ấy của Xuân Diệu. Hai người ra mắt với độc giả cùng một lúc, khi mà
báo Ngày nay đang ở lúc thịnh thời. Anh Thanh Tịnh còn đăng một số
truyện ngắn trên báo Ngày nay, và vài báo khác các truyện này về sau đã tập hợp lại in thành quyển Quê mẹ. Gần đây, Nhà xuất bản Văn học đã cho tái bản tập Quê mẹ, đây là một tập truyện
ngắn có giá trị, đậm đà hương vị quê hương, thôn dã. Ở đầu truyện Quê
mẹ, anh đã để câu ca dao vùng Bình Trị Thiên làm tiêu đề?
Chiều chiều ra đứng cửa sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ở một truyện khác, anh cũng lấy một câu ca dao để đầu:
Rồi mùa, toóc rạ rơm khô
Bạn về xứ bạn, biết nơi mô mà tìm.
Đầu kháng chiến chống Pháp, anh Thanh Tịnh đã sáng tạo ra một thể loại thơ truyền khẩu là “độc tấu”.
Tôi
còn nhớ trong trận Việt Bắc, cuối 1947 anh đã viết và trình diễn bài
độc tấu Ở cây số 7 (cây số 7 trên đường Tuyên Quang đi Chiêm Hoá là nơi
mà giặc Pháp đã thua một trận đau). Trong suốt cuộc kháng chiến anh còn
trình diễn nhiều độc tấu nữa tiếc rằng những độc tấu ấy lúc nghe thì rất
thích nhưng qua câu chuyện rồi người ta quên, vả lại giá trị văn học bị
hạn chế, không định hình được.
Riêng tôi nghĩ, bên cạnh một số bài thơ đạt của anh, có in vào các tuyển tập,
một cái mạnh của Thanh Tịnh là viết truyện ngắn về thôn quê, về tình
quê hương, một tình cảm đằm thắm mang nhiều chất thơ và đậm tình người.
Nếu anh cứ tiếp tục sáng tạo theo hưởng này thì chắc anh đã để lại một
sự nghiệp văn xuôi dày dặn, chứ không phải chỉ có tập Quê mẹ, tập Ngậm
ngải tìm trầm. Nhưng chuyện đời nói sau thì vô cùng. Anh Thanh Tịnh đã
để rất nhiều thì giờ để tham gia quản lý văn nghệ trong quân đội, để làm
chủ nhiệm chủ bút tạp chí Văn nghệ quân đội, cống hiến của anh về mặt
này không phải nhỏ, và được nhiều anh trân trọng ghi nhớ. Về số phận
riêng của anh thì có nhiều đau đớn, do kháng chiến mà gia đình phải ly
tán. Khổ cho anh là người vợ yêu quý của anh (chị Bích Đào) trong lúc ở
Nam đã được báo tin sai là anh đã mất, và sau nhiều năm chờ đợi chị đã
buộc lòng “đi bước nữa”. Đến lúc Sài Gòn giải phóng anh về Nam thăm, hai
người gặp lại nhau, khóc nức nở nhưng số phận không quay lại được bánh
xe...
Kỷ niệm về Khái Hưng và Nhất Linh
Khái
Hưng và Nhất Linh về cuối đời, hay nói cho đúng hơn là từ năm 1940, sau
khi quân đội phát xít Nhật vào Đông Dương đã đi vào con đường hoạt động
chính trị sai lầm, và hơn thế nữa, sau cùng đã đi vào con đường chính
trị phản động. Sau khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã làm
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhất Linh (tức là Nguyễn Tường Tam) đã
cùng Việt Nam cách mệnh đồng minh hội dựa vào quân đội Tàu (quân đội
Tưởng Giới Thạch) ráo riết hoạt động chống đối với Việt Minh, chống
chính quyền cách mạng. Nguyễn Tường Tam lúc đó là một trong những lãnh
tụ (cùng với Vũ Hồng Khanh) của Đại Việt quốc dân Đảng tập hợp
các lực lượng phản động để đương đầu với Việt Minh và chính phủ lâm
thời do Hồ Chủ tịch lãnh đạo. Xu hướng thân Nhật của Nguyễn Tường Tam
(Nhất Linh) và của Khái Hưng đã nảy nở từ khi Nhật vào, và do hoạt động
có xu hướng thân Nhật đó nên Nhất Linh, Khái Hưng và những người cùng
chí hướng đã bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam tại Hà Nội năm 1941
và sau giam tại Vụ Bản thuộc châu Lạc Sơn tỉnh Hoà Bình nhưng Nhất Linh
trốn thoát kịp sang Nhật. Lúc Cách mạng tháng Tám nổ ra, Khái Hưng và
đồng bọn đã cho ra tờ báo Việt Nam để tuyên truyền, cổ động cho Đại Việt
quốc dân đảng và cho Việt Nam cách mệnh đồng minh hội của Nguyễn Hải
Thần, làm hậu thuẫn cho hoạt động chính trị và mưu đồ cướp chính quyền
(hay ít nhất là chia xẻ chính quyền) của Nguyễn Tường Tam và của Đại
Việt quốc dân đảng. Tờ báo Việt Nam đã có một loạt bài rất sâu độc công
kích Việt Minh nói xấu, vu cáo một vài lãnh tụ của Việt Minh, tìm cách
chia rẽ nhân dân với mặt trận Việt Minh, với Đảng Cộng sản. Những hoạt
động chính trị phản động đi đến phản nước, hại dân của nhóm Đại Việt
quốc dân đảng mà một lãnh tụ chủ yếu là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), mà
một cây bút cổ động hô hào sắc bén là Khái Hưng, thì mọi người đã biết,
mà một số tài liệu lịch sử cũng đã ghi và lên án, tôi không kể rườm rà
lại đây. Đoạn hồi ký tôi
viết sau đây là muốn ghi lại một số kỷ niệm, một số ấn tượng về hai nhà
văn Nhất Linh và Khái Hưng là hai trụ cột của Tự lực văn đoàn trong
giai đoạn thịnh thời của nó. Những thành tựu những đóng góp quan trọng
và những hạn chế của Tự lực văn đoàn trong nền văn học Việt Nam hiện đại
thì các nhà văn học sử sẽ bình luận, phân tích và đánh giá sau. Ở đây
tôi chỉ ghi lại một số nét kỷ niệm về hai nhân vật sáng lập và tiêu biểu
cho trào lưu văn học ấy.
Lần
đầu tiên tôi gặp Nhất Linh là vào dịp Tết Mậu Dần (1938), lúc bài thơ
Chiều xưa của tôi được đăng trên báo Ngày nay số Tết; và Tết đó tôi từ
Huế ra chơi Hà Nội cùng anh Xuân Diệu.
Anh
Xuân Diệu giới thiệu tôi với Nhất Linh. Nhất Linh đọc ngay câu thơ đầu
của bài Chiều xưa “Buồn gieo theo gió veo hổ - Đèo cao quán chật, bến đò
lau thưa”. Thì ra Nhất Linh đã chú ý bài thơ của tôi đăng số Tết vừa
phát hành. Rồi anh nói: “Hồn xưa trong một câu thơ lục bát rất mới! Chắc
anh đã làm nhiều thơ? Về Huế anh nhớ gửi đều thơ ra báo chúng tôi”.
Xong
rồi Nhất Linh nói sang chuyện khác, chuyện chợ Tết, chuyện đi mua hoa,
chuyện làng quê còn giữ được không khí Tết ngày xưa như hồi anh
ấy còn đi học. Anh có mời tôi trở lại nhà báo chơi trước khi tôi trở về
Huế tiếp tục học Ban tú tài. Tôi đã trở lại toà báo Ngày nay ở số 80
đường Quan Thánh Hà Nội thăm Nhất Linh và Khái Hưng trước khi đáp tàu
hoả về Huế. Câu chuyện thân mật, thân tình, không có gì là khách sáo,
không có gì là “hàn lâm”. Tôi có nhắc qua những truyện tôi đã được đọc
của các anh, tôi có nói qua phong trào Thơ mới, nói sự hâm mộ của thanh
niên học sinh ở Huế, ở trường quốc học đối với báo Ngày nay và sách của
nhà xuất bản Đời nay. Nhất Linh và Khái Hưng không nhấn mạnh vào sự hâm
mộ và hoan nghênh ấy của công chúng độc giả. Hai người nói nhiều với tôi
về truyền thống nghìn năm văn vật của đất Thăng Long, của thành Hà Nội.
Qua câu chuyện tôi cảm thấy những tình cảm của quê hương đất nước mà
các anh đã diễn tả một cách kín đáo trong các truyện, các bài văn là một
tình cảm sâu sắc, nung nấu trong lòng qua nhiều năm tháng. Trong câu
chuyện cả Nhất Linh và Khái Hưng đều xen những câu hóm hỉnh, một thứ
hu-mua rất Việt Nam, nhưng ở Nhất Linh thì kín đáo và đượm chút trữ
tình, còn ở Khái Hưng thì bộc lộ thoải mái và điểm những tiếng cười y
như các cụ ta ngày xưa khi bàn chuyện tâm đắc với nhau. Về sau lúc tôi
ra Hà Nội học trường Cao đẳng Nông lâm, tôi còn thường gặp Nhất Linh ở
toà soạn báo Ngày nay. Có khi anh còn rủ tôi về chơi nhà anh ở thị xã Hà
Đông vào một dịp Tết. Lúc đó Nhất Linh đang viết truyện dài Bướm trắng,
anh có khoe với tôi là đã viết được gần nửa truyện rồi. Nhất Linh viết
truyện trên những quyển vở gạch ca rô, và viết bằng bút chì vót thật
nhọn, chữ viết đều đặn và chữ nhỏ.
Trên
trang bản thảo ít có chỗ chữa, thoảng hoặc có thêm câu nào thì móc ra ở
ngoài lề như kiểu ta chừa bản mo-rát của nhà in đem tới. Anh khoe với
tôi là viết tiểu thuyết như vậy, anh không hề có đề cương trước, có dàn
bài trước, hay nói cho đúng hơn là anh có một thứ dàn bài mơ hồ trong
tâm trí, một thứ khung của câu chuyện. Rồi thì anh xông vào viết truyện,
mặc cho các nhân vật lôi cuốn anh đi. Anh cũng cho biết có những khi
anh chủ động dẫn nhân vật qua các ngõ ngách của cuộc đời, nhưng cũng lắm
khi nhân vật mà anh đã tạo ra lại cưỡng lại anh và sống theo cái đời tự
lập của chúng. Sự vật lộn giữa tác giả và nhân vật có lẽ khá sâu sắc
trong truyện Bướm trắng này, là một tiểu thuyết không có luận để xã hội
bộc lộ như những truyện Đoạn tuyệt hay Lạnh lùng ở hai quyển tiểu thuyết
này tác giả đã phân công cho nhân vật sống những điều cần sống, và nói
những điều cần nói, tất nhiên là có xúc cảm, nhưng số phận của nhân vật
đã được tiền định trong tâm trí của tác giả. Có một thời vài ba năm,
Nhất Linh như đã có “xu hướng xã hội” với tập truyện
Tối tăm, mà anh đã lấy một câu của André Gide làm tiêu đề “Anh hãy tin
chắc rằng cuộc đời có thể tốt đẹp hơn, cuộc đời của bân thân anh và cuộc
đời của những người khác”. Thật ra đó là xu hướng “Duy dân” (populiste)
của Nguyễn Tường Tam, thể hiện trong các truyện của anh cũng như trong
phong trào làm nhà “ánh sáng” mà anh cổ động, mà kiến trúc sư Nguyễn Cao
Luyện đã hào hứng tham gia, vận động nông dân và người nghèo thành thị
làm những nhà mái gianh, vách toóc-si bốn phía có mái hiên rộng và mở
nhiều cửa sổ để cho “nắng gió ùa vào cái đời tăm tối nơi bùn lầy nước
đọng”. Nhất Linh đã chủ trì phong trào nhà “ánh sáng” một cách thực
lòng, hào hứng và tin tưởng là mình làm một việc xã hội có ích. Cái sức
hấp dẫn của Nhất Linh, cái sức tập hợp
của anh với tư cách là giám đốc Tự lực văn đoàn chính là cái lòng tin
đó chính là cái lòng hoài bão của anh đối với tiền đồ văn học nước nhà,
tất nhiên là theo quan niệm của anh.
Nhất
Linh đã đi học Pháp gần 5 năm, cùng một lứa du học với anh Nguyễn Mạnh
Tường, nhưng anh Tường thì học về văn chương, mà Nhất Linh thì học khoa
học; anh đã đậu cử nhân khoa học về thiên nhiên học, đặc biệt là về sinh
vật học. Nhất Linh vẽ rất khéo, đặc biệt là vẽ những côn trùng, những
con vật để minh hoạ những câu chuyện nửa văn chương, nửa khoa học của
anh đăng trên báo Phong hoá. Anh cũng đã minh hoạ tiểu thuyết Hồn bướm
mơ tiên của Khái Hưng bằng những nét vẽ rất gợi cảm; những tháng anh đã
học ở trường mỹ thuật trước kia không phải là vô ích. Học khoa học nhưng
về nước thì anh cùng Khái Hưng lo xây dựng sự nghiệp văn chương, hơn là
đi dạy học như đa số những bạn đã du học như anh.
Nhất Linh lại có một hồi mê
học nhạc, đặc biệt là mê thổi kèn clarinét; thường tôi đến toà soạn báo
Ngày nay hay gặp anh thổi những bài nhạc theo những điệu hát trong các
phim nổi tiếng hồi bấy
giờ là bài Horsay, Nàng Bạch Tuyết và bảy chàng lùn... Thỉnh thoảng anh
cũng thổi một vài bản nhạc cổ điển Âu Tây ngắn như bài Sêrênát của
Sube, bài Ánh trăng của Bitôven... Lúc Nhất Linh chúm môi thổi clarinet
thì vẻ mặt anh trầm lắng, hai mắt say sưa, thật dễ gây cảm tình.
Có
người đã nói với tôi là có một bà lần đầu tiên gặp Nhất Linh trong lúc
anh đang thổi kèn như vậy là đắm say ngay và về sau mối tình dai dẳng
mãi, mỗi một lần bà ta định cắt đứt thì lại gặp tiếng kèn đầy tình cảm
kia níu lại. Cũng có người về sau bảo với tôi rằng Nhất Linh thổi kèn
clarinét là để che mắt bọn mật thám đấy thôi. Anh vờ say âm nhạc để đánh
lạc hướng bọn phòng nhì, và lấy cớ liên hoan kèn hát để tập hợp
những người cùng chí hướng tại Đầm Vạc (Vĩnh Yên), hay tại một đồn điền
của người bạn quen ở Vĩnh Yên. Dầu sao thì tiếng kèn clarinét của Nhất
Linh cũng để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc cũng như tiếng đàn tam
thập lục của Thạch Lam. Trong ánh mắt của Nhất Linh tôi cảm thấy vừa có
một sự tin yêu đằm thắm, một sự say mê nung nấu, lại vừa có chút gì như
là điên, như là ánh sáng thỉnh thoảng chớp lên một niềm điên. Về sau,
lúc cuối đời, người ta bảo Nhất Linh có một phần điên trong tâm tưởng.
Nếu
qua có thế, thì cái hạt nhân điên đã thoảng hiện trong những năm minh
mẫn của anh và có lẽ đó cũng là một yếu tố làm nên cái tâm hồn say mê
của nhà văn và làm nên sức hấp dẫn của người thu lĩnh của Tự lực văn
đoàn. Thích nhạc, Nhất Linh rất thích nghe hát và trong những buổi gặp
nhau, anh hay cù rù anh Xuân Diệu hát những bài hát dân tộc của 3 miền
mà anh Xuân Diệu rất thuộc như: Nam ai, Nam bình, hò Huế, vọng cổ,
Trường tương tư, Xàng sứ líu (cải lương Nam bộ), bống mạc sa mạc (nhạc
Bắc), và những bài hát mới lúc đó như Con thuyền không bến, Đêm đông,
Cánh buồm trắng và một số bài hát bằng tiếng Pháp trích trong các phim
nổi tiếng lúc bấy giờ, những bài hát mà Tino Rossi đã hát và được lưu
truyền khắp thế giới những năm ấy... Có khi Xuân Diệu hát thì Nhất Linh
thổi kèn clarinet điệp theo. Có một Tết, Nhất Linh và Thạch Lam đã rủ
anh Xuân Diệu và tôi về ăn Tết ở Cẩm Giàng (Hải Dương), nơi bà cụ của
hai anh vẫn ở và sinh sống từ ngày ông cụ thân sinh của các anh còn làm
quan ở huyện. Đêm giao thừa chúng tôi thức để đi bẻ lộc trong vườn, và
sau khi ăn bát chè đậu xanh giữa phút giao thừa thì chúng tôi trải chiếu
ngủ trên ổ rơm rất ấm và thỉnh thoảng ngâm thơ Thế Lữ Thuở ấy đượm màu
sóng gió biếc - Trời mây huyền ảo đắm hồn thơ - Cây im vin bóng um ùm lá
- Sông thẳm nguồn sâu nước đợi chờ... Ấn tượng tổng quát mà Nhất Linh
để lại trong tôi ở giai đoạn ấy là một tâm hồn nghệ sĩ say mê, một người
đứng đầu một trường phái văn học có hoài bão, một người bạn văn chương
có con mắt sành biết khám phá và biết ủng hộ những tài năng. Đó là giai
đoạn đẹp trong đời Nhất Linh. Nhất Linh có nhiều con. Nhất Linh đã cưới
vợ theo đúng nghi lễ của một gia đình “gia giáo ít nhiều thế phiệt” buôn
cau ở phố Hàng Cau. Bà là một người vợ đảm đang, lo mọi việc gia đình,
để chồng mình có thể để toàn tâm lực làm việc xã hội, làm báo, làm văn.
Có lần Nhất Linh tâm sự với tôi: “Chắc anh sẽ hỏi tại sao tôi có nhiều
con. Có gì đâu? Bà vợ tôi thích đẻ con, vì bà ta cho biết mỗi lần mang
thai thì sức khỏe của bà tốt lên thấy yên ổn trong người. Thụ thai và
mang thai đối với vợ tôi là một hạnh phúc. Đó là một hạnh phúc cụ thể,
vừa cơ thể vừa tâm hồn, đó là kinh nghiệm của tôi, hay đúng hơn là kinh
nghiệm của bà vợ tôi”. Nhất Linh nói mấy câu đó với một nụ cười không
phải là hóm hỉnh, mà như là một nụ cười tình cảm, tỏ lòng biết ơn đối
với người vợ đoan trang và đảm đang của mình. Có lần Nhất Linh cũng nói
với tôi: “Làm vợ một nhà văn nhiều khi cũng phiền, và cũng thiệt phải hy
sinh nhiều. Cứ xem vợ cũng Tú Xương thì rõ:
Quanh
năm buôn bán ở mom sông - Nuôi đủ năm con với một chồng - Lặn lội thân
cò khi quãng vắng – Eo sèo mặt nước lúc đò đông” (thơ Tú Xương mà Nhất
Linh đọc thuộc lòng, với một giọng như là mượn lời thơ trên đây để tỏ
lòng biết ơn vợ, mặc dù bà Nhất Linh không đến nỗi vất vả, tần tảo như
bà Tú Xương).
Nhất
Linh đông con mà Khái Hưng lại không có con. Bà Khái Hưng là con gái
một gia đình quan lại, nề nếp nho phong, sống giữa xã hội Hà Nội những
năm 30 mà cứ như là một phụ nữ khuê các ngày xưa, dáng dấp e lệ, kín
đáo. Khái Hưng và Nhất Linh là hai người bạn rất thân mặc dầu tình bạn
đó đã được xây dựng lúc hai người đã lớn tuổi, sau khi Nhất Linh đi học ở
Pháp về, khi hai người gặp nhau cùng dạy học ở trường Thăng Long, lúc
đó Nhất Linh khoảng 26
tuổi và Khái Hưng 36 tuổi. Vì tình bạn đó mà Nhất Linh đã cho đứa con
trai của mình tên là Triệu làm con nuôi của vợ chồng Khái Hưng, và em
Triệu này lấy họ bố nuôi, thành Trần Triệu. Một kỷ niệm vui nữa của Nhất
Linh đối với tôi là khi tập Lửa
thiêng của tôi sắp đem in thì tôi hỏi Nhất Linh muốn tôi tặng bài thơ
nào. Nhất Linh lật qua các trang thơ đã đánh máy, dừng lại ở bài Áo
trắng: “Anh cho tôi bài thơ này”. Tôi hỏi: “Chắc anh có một kỷ niệm gì
liên quan đến tình cảm của bài thơ?” - “Đúng thế, trong đời tôi cũng có
một cô áo trắng”. Sau khi đề tặng Nhất Linh bài này, thì có một người
khác trong Tự lực văn đoàn cũng muốn tôi tặng bài đó. Thì ra trong đời
hầu như ai cũng có một cô áo trắng! Về sau đọc tiểu thuyết của Nhất
Linh, tôi có chú ý rằng Nhất Linh đã một vài lần tả chiếc áo trắng của
người trong truyện, đặc biệt là trong một đoạn của cuốn Bướm trắng tác
giả đã tả chiếc áo cánh trắng phơi trên dây còn bay ra mùi hương da thịt
làm đắm đuối một nhân vật đứng ngắm chiếc áo. Chắc hẳn tác giả đã vận
dụng kỷ niệm, đã sống lại kỷ niệm say sưa của mình để viết đoạn văn
trên.
Nhân nhắc đến bài Áo trắng,
tôi xin ghi thêm kỷ niệm sau đây. Lúc đó là mùa đông 1940, anh Xuân Diệu
đã vào Mỹ Tho làm tham tá nhà đoan, tôi vẫn ở gác Hàng Than ngày ngày
đi học ở trường cao đẳng, áo quần mùa đông vừa đủ mặc, có chiếc áo len
mỏng nhưng không có áo bành tô. Một chiều rét như vậy tôi ghé toà báo để
lấy báo thì gặp Nhất Lình sắp bước ra về. Anh thấy tôi ăn mặc có vẻ sơ
sài liền hỏi: “Anh không có bađơxuy à?” Tôi đáp: “Làm gì có. Nhưng cũng
không rét lắm”. Anh liền cởi cái bađơxuy anh đang bận, mặc vào cho tôi.
Đó là một chiếc bađơxuy đã cũ, nhưng còn rất lành lặn, chưa đến nỗi bạc
màu và may bằng một thứ dạ màu tím than rất nhẹ. Tôi cứ thế ra về với
bađơxuy đầu tiên tôi có trong đời. Chiếc áo này tôi đã dùng 3 năm, lúc
đã sờn vai tôi mang về quê cho đứa em giai lúc đó đã bỏ học về nhà đi
cày. Chiếc áo cũ của một nhà văn và của một nhà thơ cũng làm anh trai
cày có vẻ hãnh diện với bà con trong xóm và trong những buổi chợ làng
quê.
Về Khái Hưng tôi cũng ghi
sau đây một vài kỷ niệm. Lần đầu tiên tôi gặp Khái Hưng cũng là những
ngày Tết Mậu Dần (đầu năm 1938). Khái Hưng hơn Nhất Linh 10 tuổi, người
mảnh khảnh, nước da mai mái, mắt hơi mài mại. Dáng dấp của Khái Hưng rất
nhẹ nhõm chân đi không nghe tiếng, người ta bảo đó là tướng mèo, có thể
là biểu hiện một sự thư thái, thoải mái trong tâm hồn, mà cũng có thể
là biểu hiện một sự rụt rè, thiếu tự tin. Đó là cách nói của các thầy
tướng còn tôi thì tôi thấy Khái Hưng rất hoạt bát, rất cởi mở, gần như
có lúc bộp chộp nữa. Khái Hưng cũng có cái cười hồn nhiên, chào đón, môi
cười mà dường như mắt cũng cười theo. Khái Hưng ngồi làm việc, nghĩa là
ngồi viết suốt ngày ở cái bàn to của phòng họp toà báo giữa một đống
báo ngổn ngang, bên cạnh luôn luôn có một cái kính lúp để thỉnh thoảng
anh lại dùng để đọc những chữ quá nhỏ hoặc quá khó đọc trên một trang
báo hay trong một quyển tự vị. Khái Hưng viết truyện dài đăng trên báo
Ngày nay, thường là viết hàng tuần một, theo nhịp độ in tờ báo. Đó cũng
là cách làm anh phải viết nhanh, viết kịp thời nhưng điều đó cũng ảnh
hưởng đến sự trau chuốt câu văn, và ít nhiều cũng anh hương đến sự bố
cục tình huống. Nói vậy thôi, chứ Khái Hưng viết truyện đã có dàn bài
trước, tính cách nhân vật đã được nghiên cứu tương đối kỹ khi đặt bút
viết, tất nhiên nhiều tình tiết sẽ được sáng tạo trong quá trình viết,
trong quá trình văn đưa in lên trang báo. Còn văn của Khái Hưng thì
thường trong sáng, trong trẻo nữa, và có những đoạn mang tính chất thơ
như trong Hồn bướm mơ tiên, trong một số truyện ngắn của tập Dọc
đường gió bụi. Văn của Khái Hưng còn một ưu điểm nữa là rất Việt Nam,
một thứ văn Việt Nam mới, hiện đại nhưng tính dân tộc trong câu văn rất
rõ. Khái Hưng đọc nhiều tiểu thuyết của phương Tây, và theo tôi biết thì
anh đặc biệt thích đọc các tiểu thuyết của Somerset Maugham và của
Dickens. Anh cũng đọc Stendhal, Flaubert và Balzac. Điều mà tôi quí nơi
anh là anh còn ham đọc những sách chữ Hán, chữ Nôm của cha ông để lại
(Khái Hưng hồi nhỏ đã học chữ Hán đến 12 tuổi
rồi mới học chữ quốc ngữ và chữ Pháp). Khái Hưng trong lúc làm việc
thích uống cà phê và nhờ bà vợ hoặc người nhà ra mua cà phê ở quán
Joseph ở bên kia đường Quan Thánh, trước mặt toà báo. Cũng có mấy lần
anh mời tôi đi uống cà phê ỏ quán này, và tất nhiên là ăn bánh ngọt nữa.
Ông chủ quán quen thân với nhà văn, biết tính nhà văn uống cà phê đậm
nên bao giờ cũng cho lượng bột cà phê gấp rưỡi hoặc gấp đôi vào
cái phin. Đối với các bài thơ của tôi đăng đều trên báo Ngày nay anh
đều xem kỹ và mau thuộc. Rất nhiều lần tôi đến toà báo gặp anh thì anh
lại đọc một loạt mấy câu thơ trong những bài đã đăng trước đây, tỏ ra
thích thú và có khi bình luận lý thú. Anh cứ ngạc nhiên tại sao tôi là
một người học mới, không biết chữ nho, mà hồn nhiều bài thơ của tôi lại
có phong cách dân tộc đậm đà như vậy và cũng có những bài phảng phất hồn
thơ Đường mặc dù không phải là bắt chước thơ Đường, và cấu trúc bài
thơ, cũng như cấu tứ bài thơ lại hiện đại. Đến lúc tập thơ
Lửa thiêng của tôi sắp in anh tha thiết muốn tôi đề tặng bài Buồn đêm
mưa, sau đó lại tiếc bài Tràng giang và lại đề nghị tôi cho anh bài thơ
đó..
Thành thứ một
bài đề tặng Khái Hưng và một bài đề tặng Trần Khánh Giư là tên khai sinh
của anh. Để đáp lại tình cảm, duyên văn tự ấy, anh đã tặng tôi bản thảo
viết tay bằng mực tàu đen nhánh một truyện vừa anh đã biết lúc mới vào
đời văn. Bản thảo này tôi để trong một cái rương đã bị cháy ở Hương Khê
lúc đầu kháng chiến chống Pháp, cháy cùng một số bản thảo và mấy bản Lửa
thiêng giấy đẹp của tôi. Khái Hưng những ngày chủ nhật và những dịp lễ
dài ngày thường rủ bạn bè đi thăm danh lam thắng cảnh, đặc biệt anh
thích đi vãn cảnh chùa vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, là nơi có nhiều chùa
chiền đẹp xây dựng từ đời Lý đời Trần. Cũng trong một chuyến đi thăm
chùa Tiêu Sơn ở Bắc Ninh mà anh đã nẩy ra cái ý viết quyển tiểu thuyết
Tiêu Sơn tráng sĩ. Cảnh chùa Tiêu Sơn gợi cảm, đã thúc giục anh viết
nhanh, viết hào hứng quyển truyện gọi là lịch sử, nhưng có tính chất
kiếm hiệp này. Anh cũng thường giao du với một số vị sư mà anh quen biết
trong cuộc đời nay đây mai đó trước đây của anh, lúc anh còn là một nhà
buôn tài tử, trước khi về sống ổn định ở Hà Nội đi dạy học ở trường
Thăng Long. Chính anh và Nhất Linh đã mời tôi đi xem chùa Thầy và cảnh
núi Sài Sơn ở huyện Quốc Oai, Sơn Tây vào một ngày hè năm 1940. Anh rất
thạo về đạo Phật và thuyết minh cặn kẽ cho tôi hiểu về ngôi chùa, về Từ
Đạo Hạnh, về các vị La hán thờ trong hậu tự, về kiến trúc cổ kính của
ngôi chùa.
Lên thăm cảnh chợ trời trên núi
Sài Sơn, chúng tôi lại cùng nhau ngâm lại những câu thơ phóng khoáng
đầy gợi cảm của Hồ Xuân Hương:
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi...
Khái
Hưng mang cốt cách một người tài tử, thích ngao du nay đây mai đó, du
sơn du thuỷ như một cụ nhà nho ngày xưa. Những cảnh vật vùng trung du mà
anh thường hay tả trong các truyện của anh (vùng Phú Thọ, vùng Bắc Ninh
Bắc Giang, vùng Sơn Tây Hoà Bình...) chính là những cảnh anh đã sống,
đã thân thuộc, đã yêu mến với tấm lòng “lãng tử” của anh. Chính vì vậy
mà thứ tình quê hương nhẹ nhàng nhưng thấm thía mà anh đã gợi lên trong
văn của anh có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục. Lần đầu tiên trong văn
học Việt Nam, cảnh đồng quê, cả ở vùng trung du và vùng đồng bằng được
gợi lên một cách đẹp đẽ và dễ cảm tình như vậy, khác hẳn với những cái
cảnh “cổ điển” được ghép lại bằng những hình tượng vay mượn trong sách
xưa của ta hay của Tàu. Nhưng thôi, lúc khác tôi sẽ bình luận về văn và
truyện của Khái Hưng.
Trong Tự lực
văn đoàn, Nhất Linh là người chỉ đạo, nhưng Khái Hưng là lực lượng có
thể nói là nền móng. Sức sáng tác dồi dào của anh, sự hoan nghênh của
công chúng lúc bấy giờ đối với những tác phẩm của anh là chỗ dựa chính
cho sự tồn tại của tờ báo Ngày nay và của Nhà xuất bản Đời nay. Đối với
hai chúng tôi - Xuân Diệu và Huy Cận - thì Khái Hưng cũng như những
người khác trong Tự lực văn đoàn đều một lòng yêu nể, rất quí đôi bạn thơ này. Khái Hưng dịch thơ rất hay. Bài Sonne d’ arvers, dịch rất đạt đã in trong tập truyện ngắn Anh phải sống mà tôi đâu có nhắc lại trong một đoạn trên kia:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu...
Bài Oceano-nox của Victor Hugo anh cũng dịch rất sát nghĩa mà rất hay, đã đăng trên báo Phong hoá năm 1932:
Biết bao thuỷ thủ, bao thuyền chủ
Thuận gió xuôi buồm đi viễn xứ...
Bài
này anh Gia Ninh và tôi đã chép ngay vào quyển vở sưu tầm thơ liền sau
khi xem báo, và cho đến bây giờ vẫn thuộc. Sau này có người dịch lại bài
này, nhưng không hay bằng. Khái Hưng ít dịch thơ Đường, nhưng rất
thưởng thức những bài dịch thơ Đường của Tản Đà, đặc biệt là bài dịch
Hoàng Hạc lâu. Có hồi báo Phong hoá riễu Tản Đà, nhất là về mặt uống rượu, nghiện rượu của nhà thơ, và đôi khi
cũng lấy những câu chuyện mộng mị của Tản Đà ra làm câu chuyện hài
hước. Nhưng trong thâm tâm Khái Hưng, Nhất Linh cũng như Tú Mỡ, Thế Lữ
đều quí trọng Tản Đà, đều quí sự đóng góp của Tản Đà vào nền thơ Việt
Nam. Theo tôi biết, có lúc tờ báo Ngày nay có giục Tản Đà gửi những bài
thơ dịch đến đăng báo để nhà thơ có tiền tiêu. Tản Đà lại có lúc phải
đăng quảng cáo trên báo về việc mình lấy số bói toán, với giá tiền
“nhiều năm, ít có ba”, mà cũng có kỳ báo đăng giùm quảng cáo, không lấy
tiền. Những bài thơ vui trao đổi giữa Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Tú Mỡ
Hồ Trọng Hiếu trên báo Ngày nay là một kỷ niệm tốt đẹp giữa nhà thơ trữ
tình và nhà thơ trào phúng. Nhất Linh cuối đời có viết một quyển tiểu
thuyết lấy tên là Xóm cầu Ghênh (Xóm cầu Mới) với cái nhan đề phụ là Bèo
dạt và lấy câu thơ của tôi trong bài Tràng giang, Bèo dạt về đâu hàng
nối hàng làm tiêu đề cho quyển sách. Trong quyển tiểu thuyết này, Nhất
Linh muốn tả nhiều số phận người đời bị trôi dạt về tập trung ở một xóm (Xóm cầu Ghênh) nhưng quyển sách đang viết dở dang thì Nhất Linh đã tự tử giữa năm 1963.
Trong
Tự lực văn đoàn, người quản lý kinh doanh kinh doanh nhà xuất bản Đời
nay, tờ báo Ngày nay, và nhà in Ngày nay là Hoàng Đạo, cũng gọi là Tứ ly
tức là Nguyễn Tường Long, em Nguyễn Tường Tam và anh của Nguyễn Tường
Lân (Thạch Lam), Hoàng Đạo thường viết những bài xã luận, cũng có viết
một vài truyện ngắn và một quyển tiểu thuyết Con đường sáng Hoàng Đạo
vừa làm báo vừa làm tham tá trong ngạch toà án của Bắc kỳ. Vợ Hoàng Đạo
là con một nhà tư sản giàu, nên trong số anh em Nguyễn Tường và trong
nhóm Tự lực văn đoàn, Hoàng Đạo là sống tương đối sung túc hơn cả. Về sự
nghiệp văn chương Hoàng Đạo không để lại một tác phần nào gọi là có giá
trị. Hoàng Đạo viết văn, chẳng qua là theo cái đà của anh em trong
nhóm, sóng cao thì thuyền lớn, thuyền bé cũng theo lên. Về mặt quản lý
kinh doanh thì Hoàng Đạo rất chặt chẽ, chi ly. Mức độ trả nhuận bút cho
các bài đăng báo đều do Hoàng Đạo quy định mặc dầu mỗi người trong toà
soạn thay phiên nhau phụ trách từng số báo. Anh Xuân Diệu đã có lần phải
phàn nàn (trong một trang nhật ký của
anh) về mức trả quyền tác giả quyển Thơ thơ quá thấp, vì có nhiều món
trừ đầu trừ đuôi không hợp lý gì cả: ví như trừ số tiền những quyển sách
“không bán được” (mà thực ra không còn dư một quyển nào cả, không ế một
quyển nào cả); ví như tiền quảng cáo (trên báo Ngày nay) cho tập thơ tính quá cao... Về sau cách tính bản quyền tác giả cho tập thơ Lửa thiêng của tôi cũng có những điều không hợp lý như vậy... Thật ra xén đầu, xén đuôi tiền nhuận bút tập thơ
chẳng còn bao nhiêu mặc dầu sách được hoan nghênh, không ế một quyển
nào. Sự quản lý chặt chẽ ấy ta có thể hiểu được vì phải thu va thu vén
thì tờ báo và nhà xuất bản mới có thể sống lâu bền được. Nhưng có điều
mà anh Thế Lữ bực là việc Hoàng Đạo “nguýt” Thế Lữ về việc Thế Lữ cộng
tác mật thiết với báo Tinh hoa của Đoàn Phú Tứ. Hoàng Đạo cho rằng Thế
Lữ là người của Tự lực văn đoàn, lại là một người chủ chốt trong ban
biên tập báo Ngày nay, thì không thể ở trong bộ biên tập của
tờ Tinh hoa được. Và Hoàng Đạo đã nói thẳng điều ấy với Thế Lữ, và kèm
theo một câu bằng tiếng Pháp, ý là “ai thính tai thì hãy nghe lấy”. Cái
ấn tượng mà nhà quản lý Hoàng Đạo để lại trong anh em không lấy gì làm
tốt đẹp lắm.
Trong sự
hoạt động chính trị sai lầm rồi đi đến phản động, Hoàng Đạo cũng nhất
nhất theo anh là Nhất Linh. Trong chính phủ liên hiệp kháng chiến đầu
năm 1946 có lúc Hoàng Đạo đã được cử làm thứ trường Bộ Kinh tế. Tôi nhớ
Hồ Chủ tịch có bảo tôi đến gặp Hoàng Đạo (vì tôi có quen biết trong báo
Ngày nay trước đây) để đề nghị anh ta bàn với những người trong Đại Việt
quốc dân đang thật lòng hợp tác giúp ổn định tình hình trong nước, đặng tập trung
sức chống lại kẻ thù thực dân Pháp đang lăm le trở lại. Sáng hôm ấy tôi
đến gặp Hoàng Đạo ở phố Lý Thái Tổ, bên cạnh trụ sở Bộ Canh nông lúc đó
(bây giờ là trụ sở Viện văn học). Hoàng Đạo mấy hôm cáo ốm không đến
họp hội đồng chính phủ, cũng vì vậy mà Hồ Chủ tịch phái tôi đến gặp để
hiểu ý tứ ra sao.
Hoàng Đạo bận một
cái áo ta, áo đoạn màu tím huyền từ trên gác đi xuống, ra dáng mệt mỏi
và nói luôn: “Cảm ơn Cụ Hồ phái anh đến thăm tôi. Nhưng cung cách làm ăn
như bây giờ thì khó lòng mà hợp tác lâu bền được”. Tôi có trình bày ý
kiến của Hồ Chủ tịch thì Hoàng Đạo nói tiếp: “Tôi cũng đã hết sức bàn
nhưng khó quá. Nếu Cụ Hồ trực tiếp nói chuyện với anh em, may ra nhờ uy
tín của Cụ mà người ta còn nghe ra được chăng.... Tóm lại nhóm Đại Việt
quốc dân Đảng vẫn ngoan cố nêu những yêu sách quá đáng của mình. Về sau,
mấy tháng trước toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn
Tường Tam, Hoàng Đạo và cả nhóm đã chạy sang Tàu, theo gót quân đội
Tường Giới Thạch rời khỏi Việt Nam. Hoàng Đạo đã chết trên tàu hoả từ
Nam Ninh đi Quảng Châu, gục đầu chết (chắc vì xuất huyết não), theo lời
kể lại của Nguyễn Tường Bách khi về thăm Hà Nội có gặp tôi và Thế Lữ.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2-P
Những năm tháng ở phố Hàng Than
Tựu
trường năm 1939, tôi thi đậu vào Trường cao đẳng Nông lâm. Hôm đi thi ở
trường đại học (ở phố Lê Thánh Tôn bây giờ), anh Xuân Diệu nhét 5 xu
vào túi tôi để đi tàu điện. Hồ sơ thì anh Diệu đã lục trong cái rương
của tôi mà nộp giùm cho tôi lúc tôi đang dạy tư ở trường Tư thục “Chính
hoá” ở Vinh. Tóm lại việc thi vào trường Nông lâm là một sự tình cờ đối
với tôi, do bạn xếp đặt, nhưng cũng hợp với ý nghĩ của tôi là cần có một
nghề tay trái để sau này khỏi lâm vào cái cảnh bán rẻ thơ văn để nuôi
sống. Thế mà tôi đậu vào trường với thứ tự khá cao (số 5/25 người trúng
tuyển), nhờ bài luận Pháp văn của tôi được 18 điểm và những bài khoa học
cũng không đến nỗi tồi... Tôi ở trọ trên gác 40 Hàng Than cùng với anh
Diệu và một số bạn sinh viên khác như Lê Ngọc Chấn (sau này đi theo Mỹ
nguỵ, có lúc làm trợ lý quốc phòng cho Ngô Đình Diệm), anh Thụ người
Thanh Hoá, em vợ anh Chấn thi trượt tú tài nhiều năm và anh Ngô Nhật
Quang (bạn thân của anh Diệu và tôi, hiện nay là chuyên gia về xoá nạn
mù chữ của Bộ Giáo dục). Phía gác trong có anh Nguyễn Hải (sau này là
bác sĩ làm việc ở miền Nam trong thời Mỹ nguỵ chiếm đóng hình như cũng
chỉ làm chuyên môn) và anh Phạm Đình Sơn (sau này là Thứ trưởng Bộ Lâm
nghiệp đã về hưu). Chúng tôi ở pôpốt với nhau và có thuê một cậu nhỏ
(tên là anh Bá) giúp việc bếp núc. Anh nhỏ này người hơi gầy yếu, nhưng
làm việc siêng năng, thật thà, giúp chúng tôi có đều cơm ngon canh nóng.
Sau anh Bá là anh Hạp giúp việc chúng tôi. Còn ăn sáng thì chúng tôi
lấy dây thòng một cái rổ đựng bát xuống lề đường để mua phở 3 xu kéo
lên, phở rất thơm ngon, rất nóng, có đủ cả hành chần và chanh múi. Ông
phở sáng này thành ra quen thân với chúng tôi, đêm khuya về; đi ngang
nhà lại mời chúng tôi ăn xương phở, chỉ phải trả 1 xu thôi, có khi ông
còn cao hứng mời ăn không cho vui, đó là những lúc chúng tôi đi xem
chiếu bóng ở phố Tràng Tiền về (ở rạp Êđen), hoặc ở rạp Magiettich,
trước cửa trường Đồng Khánh. Chúng tôi lại còn cái thú đi chợ Đồng Xuân
(gần phố Hàng Than) ăn bún ốc, và bún thang, giá cũng chỉ 5 xu thôi. Có
khi chúng tôi gặp cơn đói, còn vào ăn quán cơm bình dân, cũng ở phố Hàng
Than phía bên kia đường, quán dành cho các anh phu xe kéo.
Ông
chủ nhà Hàng Than mà chúng tôi ở trọ là cụ Tạ Tài. Cụ là một nhân vật
trong khu phố. Cụ có một số xe kéo cho thuê, và cụ cũng bóc lột đến mức
các anh phu xe, xe trả chậm giờ, là cụ phạt hẳn hoi, và có khi ngày sau
không cho thuê xe nữa.
Nhưng cũng
phải công bằng mà nhắc rằng có khi cụ thấy một anh phu xe cả ngày hẩm
hiu không kiếm được tiền thì cụ cũng cho chịu tiền thuê xe và có lúc còn
xoá nợ. Nhưng một điều làm cụ nổi tiếng là cụ đã dám chống cự với một
thằng tây bán đấu giá đồ tầm tầm. Lần ấy thằng Tây bán đấu giá giơ lên
một cái bô vệ sinh của trẻ con, và dám nói đùa: “Thưa các ngài, đây là
cái bát ăn cháo của người An-na-mít, đặt giá 1 đồng ai mua xin giơ
tay?”. Cụ Tạ Tài đứng gần thằng Tây nói to: “Anh đừng có láo!”. Thằng
Tây sửng cồ cãi lại thì cụ lấy ba toong nện vào lưng nó một cú mạnh. Thế
là cả góc phố xôn xao lên. Thằng Tây ỷ quyền, doạ gọi cảnh sát đến bắt
cụ, nhưng bà con công phẫn tỏ ý bênh vực cụ nên thằng Tây cũng lờ đi.
Sau đó thằng Tây bán tầm tầm đâm đơn kiện cụ Tạ Tài về việc làm mất danh
dự nó. Cụ lại có đơn kiện lại là thằng Tây làm mất danh dự cả người
Việt Nam hôm đó. Vụ kiện kéo dài mấy tháng, và rút cục toà án (mà chánh
án Pháp chủ trì) phải xử cho cụ được kiện và cụ được bồi thường 1 đồng
bạc Đông Dương, gọi là bồi thường danh dự. Thế là cụ nổi tiếng khắp cả
khu phố. Cụ lại còn làm thơ chế diễu bọn Tây “mắt xanh mèo, tay quào như
cáo, mũi thò lò, thô bạo nói năng.... Ở nhà dưới 40 Hàng Than là anh
Lưu Trọng Lư và người vợ đầu của anh là chị Thanh Thuỷ ở một nửa phòng,
che chắn bằng một cái bình phong gỗ dài. Lúc đó anh Lư mới có đứa con
đầu là cháu Hải, bây giờ là một kiến trúc sư (nếu tôi không nhớ nhầm).
Mỗi lúc tôi đi học về, tôi phải dắt xe đi rón rén đặt ở chân cầu thang
để khỏi làm phiền gia đình anh chị Lư, nhất là sau những đêm anh đã đi
chơi khuya với bạn bè, hoặc thức khuya để viết lách. Chị Lư người rất
hiền, nói năng nhỏ nhẹ chúng tôi rất quí mến và nể chị. Cháu Hải thì rất
ngoan và hay vẽ tàu bay và tàu lặn lên nền nhà, cả trên nền ban công
trên gác chúng tôi ở. Anh Lư làm thơ (về sau in trong tập Tiếng thu) thỉnh thoảng gọi tôi xuống đọc cho tôi nghe, đoạn nào tâm đắc thì hai anh em cùng ngâm đi ngâm lại.
Cụ
Tạ Tài có hai cô con gái, một cô tôi nhớ là tên Tuất, hình như là cô em
và tháng 10 năm 1940, vào lúc trời đã rét, rét ngọt, thì một cô con gái
hoặc một cô cháu gái của cụ chết. Đám ma làm theo kiểu xưa có mời hàng
kèn về thổi nhưng bài nhạc đám tang suốt ngày đêm... Tôi ngồi trên gác
nghe nhạc tang này buồn không thể nói được, mỗi câu nhạc như len thấm
vào từng thớ thịt, thớ da của mình. Rồi đến buổi chiều đưa đám tang đi,
tôi cũng có đi đưa đám.
Có hai hàng cờ đen
do những người phu cờ bận toàn đen đi trước, cái xe tang cũng phủ toàn
màu đen, mà con ngựa kéo xe tang cũng được phủ một tấm vải đen lên mình
nó. Người ngồi xe tang điều khiển ngựa cũng bận toàn đồ đen, và điệu
nhạc đám ma thì buồn xé gan xé ruột, nhất là trong buổi chiều gió lạnh
hiu hắt, chân trời xám xịt thì có thể nói là cái buồn “tận thế”. Chính
trong cái khung cảnh ấy mà ngồi trên gác Hàng Than tôi đã viết bài thơ
Nhạc sầu, xin nhắc đây mấy câu đầu:
Ai chết đó nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu, màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tá
Từng tiếng lệ, ấy mộng sầu úa lá,
Chim vui đâu, cây đã gãy vài cành
Ôi chiều buồn, sao nắng quá mong manh
Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy!...
Và sau đây là những câu cuối của bài thơ:
Ai chết đó nhạc buồn chi lắm thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió đông quạnh quẽ...
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế.
Bài
thơ này, tôi cho đăng báo Ngày nay mà không kịp gởi cho anh Xuân Diệu
xem trước. Đến lúc anh Diệu đọc bài thơ trên báo Ngày nay, thì bị ám ảnh
bởi bài thơ, bởi cái nhạc đám ma được gợi lên trong bài thơ, và đêm ngủ
phải lấy bông nhét vào tai cho khỏi nghe điệu nhạc tan hồn ấy (thư của
Diệu).
Lúc tôi ở phố Hàng Than, láng giềng
với tôi ở số nhà 36, có anh Phạm Huy Cơ, sinh viên Trường đại học Y
khoa rất mê thơ Xuân Diệu và Huy Cận. Anh Cơ thường hay sang để nghe
chúng tôi đọc thơ, nhất là những bài thơ chúng tôi mới làm chưa đăng
báo.
Anh người hơi gù lưng, hơi rụt cổ,
giọng nói rất nhỏ nhẹ, lời nói rất tế nhị, có khi hơi hoa mỹ, nhưng tấm
lòng yêu thơ của anh thì thật là hiếm có và đáng quí. Về sau lúc Nhật
sang, Mỹ có lúc đến ném bom Hà Nội, anh đã mời tôi về làng anh ở Chém,
để tránh bom. Ở tại nhà anh bên bờ sông Hồng, chúng tôi lại thù tạc thơ
văn suốt đêm. Anh Cơ sau 1954 vào Sài Gòn, nghe nói cũng chỉ làm chuyên
môn thầy thuốc và thời Mỹ nguỵ thì không biết đi đâu. Lúc giải phóng Sài
Gòn, tôi có hỏi thăm tin anh nhưng không ai biết tung tích anh ở đâu.
Tôi nhắc anh ở đây vì tấm lòng mê thơ bền bỉ, thuỷ chung của anh.
Cũng
xin nhắc đến anh Nguyễn Đức Soạn, một bạn yêu thơ khác ở phố Hàng Cót
(tôi còn nhớ là ở số nhà 14). Anh Soạn là một thương gia, nhưng tính
tình rất nho nhã, và cũng rất sành sỏi trong việc thưởng thức thơ. Anh
hay mời anh Diệu và tôi đi chơi Hồ Tây, anh thuê thuyền để ba anh em dạo
trên hồ những đêm trăng thanh gió mát, và lúc đó là lúc anh đọc lại
những bài thơ của chúng tôi cho chúng tôi nghe, đọc với một giọng rất
thanh và rất diễn cảm. Anh Diệu có lúc nói đùa “Anh Soạn là chú lái khờ”
(xem truyện cùng tên của anh Diệu), nghĩa là một nhà thương gia có tâm
hồn rất tài tử tâm hồn nghệ sĩ... Anh Soạn đã lâm bệnh mất sớm trong
kháng chiến chống Pháp (?) chúng tôi rất thương anh, tiếc anh như tiếc
một người tri kỷ, tri âm của cái đẹp, của thơ văn, của những cái gì gọi
là lý tưởng ở đời này. Cũng ở gác Hàng Than, có lúc Đinh Hùng đã đến làm
quen với chúng tôi (lúc đó Đinh Hùng ở đê Yên Phụ, mới bắt đầu làm thơ,
dáng dấp thư sinh, khiêm tốn, chứ chưa kênh kiệu như về sau này thời Mỹ
nguỵ). Đinh Hùng lúc đó còn đọc thơ cho anh Diệu nghe, nhờ anh Diệu
nhận xét, và nghe chăm chú những lời phân tích của anh Diệu, rõ ràng với
lòng kính nể một bậc đàn anh. Lúc đó nhà xuất bản Tân Việt cũng đã in
vài bài thơ của Đinh Hùng trong tập Lúa mới.
Câu chuyện lôi thôi sau khi anh Xuân Diệu cho đăng truyện ngắn Người học trò tốt trên báo Ngày nay
Năm
1938, anh Diệu cho đăng báo Ngày nay truyện ngắn nói trên. Trong truyện
này anh mỉa mai một anh học trò tốt, nhưng lúc tả việc học tập của
anh học trò anh có mô tả cách dạy học của một vài giáo sư ở trường Quy
Nhơn, cũng là tả những nét vui trong cách giảng bài của thầy, chứ không
có gì là xúc phạm đến danh dự, đến phẩm chất của các thầy cũ của mình.
Ví dụ anh có ghi một nét: một giáo sư khi giảng xong vài câu lại giơ tay
nói “hơ hơ”... Đó là một nét vui, hơi buồn cười, mắm muối cho câu
chuyện. Đại khái là những chi tiết như vậy. Thế nhưng tờ báo vừa đến Quy
Nhơn, thầy đọc trò đọc, và bỗng nhiên thành một câu chuyện khá ầm ĩ: À?
Nhà thơ Xuân Diệu chê bai, châm biếm các thầy cũ của mình. Ông cụ thân
sinh anh Xuân Diệu, cụ Tú Thọ, dạy chữ Hán ở trường Quy Nhơn, rất lấy
làm phiền lòng về câu chuyện xoay ra chiều hướng như vậy. Một vài thầy
cũng gặp cụ Tú, nói lời trách móc. Ông cụ viết thư ra cho anh Diệu hết
sức phàn nàn về thái độ của con, và về sự vụng về của con nữa. Thế rồi
có dư luận đồn rằng các thầy giáo cũ của anh Diệu sẽ phát đơn kiện về
chuyện một người học trò cũ bêu riếu thầy của mình trên báo chí! Không
những kiện mà còn sẽ đề nghị báo Ngày nay đăng bài cải chính. Anh Diệu
tuy bình tĩnh nhưng với bức thư của ông bố cũng hơi phân vân, và đem câu
chuyện kể lại với ban biên tập của báo Ngày nay. Ban biên tập cười
ồ, và nói: “Mong cho có đơn kiện, chúng ta sẽ trả lời các thầy giáo, và
lại sẽ có dịp tuyên truyền cho văn học, và riêng tuyên truyền cho nhà
thơ kiêm nhà viết truyện ngắn Xuân Diệu, và làm cho mọi người rõ thế nào
là chuyện thực ở đời, và thế nào là chuyện trong văn chương, thế nào là
đời làm tư liệu cho văn chương.... Thế rồi câu chuyện cứ ỉm dần không
có đơn kiện, cũng không có thư đòi báo Ngày Nay cải chính. Và hè năm đó
anh Diệu về Quy Nhơn lại đi thăm các thầy cũ với lòng kính mến chân tình
và cụ Tú Thọ thân sinh anh Diệu cũng thở phào một cái, khỏi mang tiếng
là có người con bội nghĩa với thầy “tôn sư trọng đạo”, là phương ngôn mà
mỗi học sinh lúc vào trường đã phải học lấy làm lòng...
Xuân Diệu bênh vực Đoàn Phú Tứ về vở kịch Ghen
Năm
1938 Đoàn Phú Tứ viết vở kịch Ghen và sau đó nhờ đoàn kịch của Thế Lữ
diễn ở nhà hát lớn, tôi còn nhớ anh Vũ Đình Hòe, anh Đoàn Phú Tứ, bà Lê
Đình Quy (vợ một y sĩ công tác ở tỉnh) đều đóng vai trong vở.
Anh
Thế Lữ đạo diễn vở này rất đạt. Vở kịch như vậy là rất được hoan nghênh
trong giới thanh niên trí thức trong giới văn hoá, văn nghệ lúc đó ở
thủ đô. Nhưng liền sau đó có một số bài báo nêu vấn đề Đoàn Phú Tứ ăn
cắp văn của Sacha Guitry, một nhà viết kịch và làm phim khá nổi tiếng
của Pháp hồi đó,
vì Sacha Guitry cũng có một vở kịch tên là Ghen (Jalousie) Mấy bài báo
công kích này, có gây một chút dư luận. Anh Đoàn Phú Tứ cũng hơi khó xử,
vì quả thật câu chuyện trong hai vở Ghen có chỗ giống nhau, tình huống
của vở này cũng làm cho người ta liên hệ đến tình huống của vở kia. Tôi
nghĩ có thể lúc anh Tứ viết vở của mình cũng có được sự gợi ý xa gần của
vở kịch Pháp. Nhưng mà làm sao nói được điều này cho xuôi. Anh Tứ bèn
nhờ anh Xuân Diệu viết bài trả lời hộ. Anh Diệu nể bạn và quí bạn, liền
xông ra trận và viết một bài “Xung quanh vở kịch Ghen” đại khái như sau:
chuyện đời có bao nhiêu chuyện giống nhau, nhưng mỗi nghệ sĩ, văn sĩ
khai thác theo cách của mình, với cảm nghĩ độc đáo của mình, mà vẫn là
sáng tạo riêng của mình như thường (trường hợp Corneille Racine,
Molière). Và Nguyễn Du sáng tạo truyện Kiều thì sao? Nói thật ra, với uy
tín của báo Ngày nay lúc đó với danh tiếng của nhà thơ Xuân Diệu bắt
đầu nổi lên với cách nói có lý có tình trong bài bênh vực, cho nên sau
bài báo này cũng không thấy báo nào có thêm bài công kích Đoàn Phú Tứ
hoặc trả lời bài của Xuân Diệu nữa. Và như vậy là câu chuyện Đoàn Phú Tứ
và Sacha Guitry tạm xếp ổn. Tất nhiên trong câu chuyện trà dư tửu hậu
trong đám anh em văn nghệ sĩ hồi đó
người ta còn lào xào về câu chuyện này, nhưng rồi cũng yên. Vừa rồi tôi
gặp lại anh Đoàn Phú Tứ (nay đã 73 tuổi) có nhắc câu chuyện này như là
một chuyện vui của quá khứ, thì anh cũng hất hàm cười khà khà như là cho
qua một chuyện không đâu cách đây nửa thế kỷ...
Xuân Diệu nhờ Nguyễn Cao Luyện giới thiệu với trường Thăng Long
Năm
1938, anh Diệu học Luật ở Trường đại học Đông Dương, đồng thời viết báo
Ngày nay. Học luật thì không có học bổng còn nhuận bút của báo Ngày nay
cho những bài thơ và những truyện ngắn của anh cũng không đủ nuôi sống
anh. Anh phải nhờ anh Nguyễn Cao Luyện (kiến trúc sư nổi tiếng, và có
chân trong Hội đồng quản trị của trường Thăng Long mà hiệu trưởng là anh
Hoàng Minh Giám, và người quản lý là giáo sư Tôn Thất Bình) giới thiệu
với Ban giám đốc trường Thăng Long để xin một chân dạy văn, cả Pháp văn
và Việt văn. Sau đó mấy tuần, anh Diệu được mời vào dạy ba lớp đệ nhất
đệ nhỉ đệ tam ban thành chung.
Những buổi
dạy đầu tiên đối với anh là một sự thử thách ghê gớm, một thứ “cực hình”
(theo lời anh kể lại) vì đứng trước một đám học sinh đông, mà lại là
học sinh trường tư, những ngày đầu anh rất lúng túng giảng bài không tự
nhiên, và có khi còn nói lặp. Nhưng với uy tín của anh trong làng thơ,
với lòng yêu mến học sinh với thơ Xuân Diệu, nhất là với thơ tình của
Xuân Diệu, nên anh cũng dần dần giảng bài được suôn sẻ với sự ủng hộ của
đám học sinh đối với nhà thơ - thầy giáo. Lương anh lĩnh ở trường Thăng
Long, cũng không được bao nhiêu, vì dạy không nhiều giờ, và thang lương
dạy Việt văn vẫn thấp hơn là thang lương dạy toán và khoa học. Nhưng dù
sao, thì cũng là một cái nghề trong sạch, thanh cao để nuôi thân, khỏi
phải bán rẻ văn chương “rẻ như bèo” (chữ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu).
Anh dạy trường Thăng Long chưa được bao lâu thì anh đi làm tham tá
thương chính (tức là nhà đoan) ở Mỹ Tho. Nghề dạy học của anh tuy ngắn
ngủi như vậy nhưng cũng để lại cho anh một số kinh nghiệm tốt mà sau này
anh vận dụng rất tài tình vào việc bình thơ, nói chuyện thơ với những
công chúng đông, với các loại công chúng rất khác nhau.
Nguyễn Gia Trí vẽ chân dung Xuân Diệu
Đầu năm 1945, nhà xuất bản Thời Đại (mà anh Ngô Nhật Quang, bạn của anh Diệu làm giám đốc) xuất bản tập thơ thứ hai của Xuân Diệu là Gửi hương cho gió. Tập thơ
gồm hơn 50 bài, thuộc vào loại sách đẹp của nhà xuất bản Thời Đại, bìa
do hoạ sĩ Trần Văn Cẩn trình bày, có một số bản quí in bằng giấy dó dầy
rất đẹp, như là in trên lụa. Xuân Diệu ngỏ ý với hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí
nhờ hoạ sĩ vẽ cho mình một chân dung để cho in làm phụ bản kèm vào quyển
sách. Xuân Diệu và Gia Trí quen nhau đã lâu, và thường gặp nhau ở toà
soạn báo Ngày nay. Xuân Diệu ăn bận áo quần sang đến gặp Gia Trí và nói:
“Tôi cần ngồi bao nhiêu giờ cho anh vẽ?”. Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí tủm tỉm
cười: “Không cần giờ phút nào cả, anh có bận việc thì anh cứ về, hoặc
đi dạo chơi để lấy tứ thơ tôi sẽ vẽ Xuân Diệu theo trí nhớ của tôi,
giống hay không giống cái đó còn tuỳ.... Nói rồi hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí
đứng dậy bắt tay Xuân Diệu... Thế rồi Xuân Diệu không phải ngồi làm mẫu,
và một tuần sau Nguyễn Gia Trí đưa cho Xuân Diệu bức chân dung của
mình, nét vẽ rất phóng khoáng “mmớ tóc mây trên đài trán thơ ngây” (lời
của Thế Lữ trong bài tựa Thơ thơ) mắt mơ màng mà suy nghĩ, tóm lại dáng
dấp rất là Xuân Diệu, rát giống Xuân Diệu, không phải giống từng chi
tiết nét mặt, mà giống cái thần của nhà thơ Xuân Diệu. Tôi cho đó là một
trong những bức chân dung rất đạt mà Nguyễn Gia Trí đã vẽ trong đời
mình. Tất nhiên là tác giả tập Gửi
hương cho gió và nhà xuất bản Thời Đại hết sức hài lòng và tự hào, đắc ý
có một bức chân dung của nhà thơ, do hoạ sĩ nổi tiếng Nguyễn Gia Trí vẽ
làm phụ bản. Bức chân dung này in trên giấy dó đẹp chân dung in trên
nền màu vàng, hiện nay tôi còn giữ được hai bản, một bản để trong quyển
Gửi hương cho gió gọi là Huy Xuân, và một bản để trong cánh gương của
một tủ sách trong phòng lưu niệm nhà thơ Xuân Diệu.
Tháng
5-1975 khi mới giải phóng Sài Gòn, tôi và Xuân Diệu có đến thăm anh
Nguyễn Gia Trí, có nhắc câu chuyện vẽ chân dung theo trí nhớ này, thì cả
ba cùng cười. Anh Trí còn nói thêm: “Dáng dấp Xuân Diệu có nhiều nét
độc đáo quá, ai mà quên được, nhất là các cô thiếu nữ mê thơ anh?”...
Những người yêu trộm nhớ thầm Xuân Diệu
Hồi anh Diệu học Ban tú tài ở trường Bưởi có lúc anh ở ký túc
xá trong trường, có lúc anh ở trọ ở chùa Tàu (gần Văn Miếu). Ăn ở tại
chùa Tàu, cảnh vật rất yên tĩnh cho việc học và làm thơ của anh, nhưng
anh thường đến chơi nhà một người bạn học sau anh mấy lớp. Người bạn anh
có cô em gái là K., cứ anh Diệu đến chơi là cô chăm sóc bạn của anh
mình bằng mọi động tác của một người em quý mến người anh, nhưng cũng
dần dà có những cử chỉ rất trìu mến đối với anh Diệu.
Thế
rồi, anh Diệu về học ở Huế năm thứ ba tú tài, anh nhận được thư của cô
K. mấy thư đầu còn như là em gái viết cho anh, nhưng anh Diệu đã linh
tính là giọng thư sẽ chuyển điệu. Y như rằng chỉ mấy thư sau, là lời
xưng em đã nồng nàn hơn, say đắm, thương nhớ, nhớ thương.
Và
cứ thế thư tiếp thư, mối tình yêu trộm nhớ thầm ngày càng sâu sắc, càng
đắm đuối. Tôi có được xem những bức thư ấy: Quả thật là một tâm hồn
đẹp, say đắm mà trong trẻo, nhưng rõ ràng cô K. không phải chỉ yêu nhà
thơ Xuân Diệu, mà còn là yêu anh chàng Xuân Diệu đẹp giai. Về sau anh
Diệu lại ra Hà Nội học trường Luật và dạy tư ở trường Thăng Long, giòng
thư tình kia vẫn tiếp nối không dứt. Có những bức thư cô K. trằn trọc
mãi mới gửi cho anh Diệu; vì cô thấy mối tình của cô gần như tuyệt vọng
“vì không thấy anh Diệu có thư trả lời”, nhưng nỗi lòng tha thiết và da
diết của cô không thề không bộc lộ được với người yêu lý tưởng của cô
được. Mối tình yêu trộm nhớ thầm này kéo dài mấy năm trời, cô K. có lúc
người như gầy hao đi, tâm thần buồn bã làm cho người anh cô cũng hơi lo
lắng cho sức khỏe và tâm tư của em gái mình. Nhưng cô K. trong đời vẫn
giữ thái độ bình thản, tự chủ, và tuy còn ít tuổi nhưng có tư thế như là
một người đã chín tâm hồn, và đã từng trải việc đời. Có lẽ mối tình sâu
sắc của cô đối với anh Diệu, mối tình thầm mà sâu nặng, đã nung nấu tâm
hồn cô làm cho cô có sự trưởng thành sớm về tâm lý. Sau cùng anh Diệu
cũng phải ngỏ ý rõ ràng là anh rất cảm động về mối tình đẹp đẽ và cao
thượng của cô K., nhưng anh khuyên cô hãy quên anh đi, và cứ xem anh như
là một người anh, và chúc “em sẽ có được cuộc đời đầy hạnh phúc xứng
đáng với tâm hồn đẹp đẽ của em”. Cô K. về sau yêu một cán bộ, và chồng
cô đã là một cán bộ cao cấp của ngành kinh tế quan trọng, nay đã về hưu.
Hai vợ chồng đã sống một cuộc đời êm ấm, hạnh phúc và đã có con đàn
cháu lũ. Tôi nghĩ ở trong đời có những tâm hồn đẹp như tâm hồn của cô K.
là một điều may mắn cho cuộc đời này, nó tôn thêm sự đẹp đẽ và cao quý
của cuộc sống cũng có khi quá tẹp nhẹp và tầm thường. Nay anh Diệu đã
mất đi, và việc đời cũng nhiều bề đã ổn định. Tôi có thể kể lại thay bạn
mối tình thầm mà tôi cho như là một bài ca trữ tình mà riêng tôi rất
quí và nhớ lại rất cảm động.
Trên đây là
mối tình của cô K. Nhân đây tôi lại xin kể mối tình của cô Kh. L. Cô Kh.
L. là một người có trình độ học vấn khá cao, và rất say mê văn chương,
đặc biệt là văn thơ của Tự lực văn đoàn. Cô mê Xuân Diệu qua thơ văn,
qua Thơ thơ và Phấn thông vàng, và viết cho anh Xuân Diệu hàng chục bức
thư, bắt đầu là đàm luận về văn chương, rồi dần dần là tỏ tình với nhà
thơ, một mối tình say đắm, nồng cháy, rạo rực không kém gì thơ tình của
Xuân Diệu. Tôi có cảm giác cô Kh. L. vừa là con đẻ của thơ Xuân Diệu,
vừa là một tâm hồn đồng điệu của nhà thơ. Thế rồi cô tìm đến gặp trực
tiếp anh Xuân Diệu, tỏ lòng yêu đắm đuối của mình, vừa e thẹn, mà cũng
vừa “tấn công”, với tất cả sự say sưa bồng bột của tuổi 20 lãng mạn. Anh
Diệu có gặp cô Kh. L. một vài lần, nhưng dường như anh muốn đổi mối
tình cảm “cầm sắt” ra cảm tình “cầm kỳ”. Tôi đã gặp cô Kh. L., quả thật
là một con người có sức hấp dẫn lạ thường, từ lời nói cho đến khóe mắt
nhìn đều có ma lực lôi cuốn người nói chuyện với cô. Anh Diệu cũng đã có
lúc “cảm động” sâu sắc trước mối tình sôi nổi, nồng cháy của Kh. L.,
nhưng sự cảm động ấy theo tôi biết cũng không được bền.
Đến ngày Cách mạng tháng Tám, cô Kh. L. đã có chồng, mà vẫn đến gặp anh Xuân Diệu, ít nữa là để đàm luận văn thơ...
Một mối tình không thành mà rất đẹp trong đời tôi (Huy Cận)
Năm
tôi học năm thứ nhất Trường cao đắng Nông lâm, lúc bấy giờ tôi ở ngõ
Tân Hưng trước ga Hàng Cỏ (nay là ngõ Tức Mạc), một hôm tôi nhận được
một bức thư nét chữ cứng cáp, không ký tên,
nhưng là một bức thư tỏ tình đằm thắm. Tất nhiên là tôi xem bức thư
trong lòng rất cảm động, nhưng rồi cảm xúc ấy cũng qua đi vì không biết
người gửi thư là ai, mà không biết có còn bức thứ hai không. Nhưng mấy
hôm sau lại nhận tiếp một phong bì màu ngà ngà, nhưng nhìn nét chữ thì
tôi đã biết là thư của người hôm nọ hay nói cho đúng hơn là của người mà
tôi không biết là ai. Mà quả thật lần này bức thư vẫn không ký tên.
Không ký tên,
nhưng tình thì rất rõ rệt, rất say đắm rất thao thức, rất thổn thức nữa
vì người viết thư viết rằng đã khóc nhiều lắm trước khi viết thư này.
Mà quả thật, không biết tôi có tương tượng không, trên trang thứ ba của
bức thư tôi thấy có những dòng chữ nhòe. Và thế là thư tiếp thư, tôi
nghĩ rằng nếu ngày kia tôi biết được người viết thư là ai, thì chắc tôi
sẽ yêu, vì tình cảm thổ lộ trong thư sâu sắc lắm, sự sâu sắc của một tâm
hồn đẹp đẽ và sâu lắng. Người con gái này rõ ràng là có một đời sống
bên trong rất phong phú, có những tầng sâu, có những chân trời xa vợi.
Và qua những bức thư tiếp theo tôi hiểu đây là một nữ sinh Trường đại
học Y khoa, hàng ngày tiếp xúc với khoa học, với bệnh tật của người đời,
và có lẽ nhờ thế mà có những cảm nghĩ sâu thắm cả trong khi thổ lộ tình
yêu. Trong một bức thư có đoạn viết: “Em yêu anh quá thì viết cho anh
cốt để trút lòng mình, vì để trong lòng nó nặng quá, còn anh có biết em
là ai đâu mà đáp lại tấm lòng của em”. Cho đến mấy ngày nghỉ hè tôi đi
chơi Đồ Sơn với nhóm Ngày nay, mà không biết sao cô cũng tìm được địa
chỉ mà gửi thư cho tôi ra tận bãi biển. Chuyện thật, mà cứ như là chuyện
tiểu thuyết lãng mạn. Rồi tôi có mấy tháng vào học tại Phân viện nghiên
cứu Nông lâm ở Sài Gòn, người viết thư không ký tên
lại tiếp tục gửi cho tôi hàng chục bức thư. Cứ như là “người tình không
quen biết” của Nguyễn Khắc Hiếu, đây là người tình có thật không ký tên.
Đến
mùa rét 1941, khoảng tháng 10 thì phải, một sáng tôi sắp ra đi học, thì
một bưu kiện đến đề tên tôi. Tôi vội vàng mở ra xem, thì đó là một
chiếc áo len, len trắng rất đẹp, đường thêu rất khéo, và ở đằng sau cổ
áo có thêu bằng len đỏ thắm câu thơ của tôi “Hồn nhớ thương em dệt áo
dâng anh” (câu này ở trong bài Tình tự đăng báo Ngày nay và đã in trong tập Lửa thiêng).
Kèm
theo chiếc áo trắng tinh đẹp đẽ ấy có thêm mấy dòng cũng với nét chữ
ấy: “Em gửi anh chiếc áo em mới đan cho anh vì trời đã trở lạnh”. Và vẫn
không ký tên.
Tôi cảm động quá, nhà thơ cũng như thằng con trai trong tôi đều thấy
lòng mình được mơn trớn êm ái. Mặc dù giờ đi học đã chậm rồi, tôi vẫn
vào phòng, cởi áo vét tông ra, mặc luôn chiếc áo len trắng vào người,
thì than ôi nó chật quá, mặc dù lúc ấy tôi còn thon người, chứ chưa béo
như ngày nay.
Nhưng tôi cũng không
trách người đan áo được, vì đã bao giờ tôi để cho người ta đo kích thước
của thân tôi đâu, đo vòng ngực của tôi rộng bao nhiêu đâu, đo bằng
thước hoặc đo bằng những vòng tay ôm... Tôi xếp áo vào giấy của bưu kiện
và cất ngay vào rương rồi lại đạp chiếc xe đạp lạch cạch lên Trường cao
đẳng Nông lâm ở vườn bách thảo. Không mặc được chiếc áo quá chật, mà
hôm ấy tôi cảm thấy ấm áp vô cùng, đúng là trời đã trở lạnh mà chiếc áo
đến đã đúng lúc, chỉ có chút sai số về kích thước. Nhưng đó mới là kích
thước của áo, của len, nhưng còn cái sai số về kích thước của cuộc đời
thì còn bi kịch hơn nữa.
Thế rồi một sáng
chủ nhật, có người nữ sinh viên y học đến thăm một người bạn trong số ở
cùng nhà với tôi. Người nữ sinh bận chiếc áo lụa trắng đơn giản, bên
trong có bận áo len hồng, vẻ mặt tự nhiên không son phấn gì, nói chuyện
rất có duyên với giọng nói vừa nhẹ vừa trầm lắng của vùng Bình Định, Phú
Yên. Sáp mặt tôi, vẻ mặt cô hơi ừng thẹn một chút rồi hai người cùng
nói chuyện qua quít nhưng tự nhiên tôi có linh cảm rằng chính người này
đã viết những bức thư đắm đuối và đằm thắm cho mình. Lúc cô ra về, tự
nhiên tôi tiễn ra tận cổng ngõ Tân Hưng, cô nắm chặt tay tôi, và hỏi nhỏ
“anh có nhận được các thư của em không?”. Tôi gật đầu, cô nhìn tôi với
một khóe mắt hơi ướt, và lên xe đạp không nói gì thêm.
Và
những bức thư lại tiếp những bức thư, nồng nàn hơn, đằm thắm hơn, và
cũng sâu lắng hơn. Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là đã nhận được thư và rất
cảm động.
Thế rồi một buổi
sáng cuối năm tôi nhận được thư của cô T. (từ đây tôi có thể nói tên)
nói rằng: “Em biết anh không yêu em, chính vì thế mà chủ nhật tới anh
phải gặp em”, và trong thư hẹn tôi gặp ở con đường tàu bay, trước trường
thú y lúc đó, vào lúc 10 giờ sáng. Tôi đến nơi hẹn gặp đúng giờ và tôi
hỏi: “Đi đâu bây giờ?” (tôi hỏi trống, không gọi em, cũng không gọi cô)
Cô T. đáp: “Anh đi theo em” rồi cô lên xe đạp đi trước, tôi đi theo, rồi
đạp song song về
phía Hà Đông, đến lúc gần Hà Đông thì dừng lại, rẽ sang tay phải vào
một khóm cây um tùm, như là một khu rừng con. Hai người ở đó chuyện trò hồi lâu,
cả hai đều tránh nói đến tình yêu nhưng câu chuyện vẫn rất tình tứ và
tế nhị. Gần đó có một nhà thờ nhỏ. Đến lúc chuông nhà thờ đổ hồi 12
giờ thì cô hỏi tôi: “Anh có biết hát những bài hát tiếng Pháp hay trong
các bộ phim không?”. Tôi nói: “Có biết một số bài”. - “Vậy em hát cho
anh nghe bài “Tình yêu ơi, ta thấy lại mặt người”(1). Bài hát này tôi
biết, cũng có thuộc điệu và lời, và cô hát với một giọng đầy xúc cảm,
như giọng hát phát ra từ tâm can nung nấu của cô. Hát xong cô khóc nức
nở, nhất là đến câu cuối cùng có nói đến “sự phản bội của lòng anh”. Tất
nhiên tôi không thể sắt đá trước một nỗi lòng như vậy, và tôi đã ôm cô
vào lòng; cô tiếp tục khóc, nhưng rồi cũng nín. Rồi hai đứa chúng tôi ăn
bánh mì với trứng tráng như kiểu pích-ních. Mãi đến sẩm tối chúng tôi
mới ra về. Ra đến đường thì trời đã tối hẳn. Cô T. mua hai thẻ hương ở
quán bên đường và báo tôi thắp lên mỗi người cầm một thẻ để thay đèn,
không phải để soi đường mà để cho người ta thấy, đừng đâm vào mình.
Đạp
về đến chỗ hẹn ban sáng (trước trường thú y), thì hai thẻ hương tắt. Cô
T. mắt ráo hoảnh nói: “Thôi anh về, hương cũng vừa tắt, đó là nén hương
cúng mối tình của đôi ta!” cô không khóc, nhưng lại đến lượt tôi khóc nức nở...
Bẵng
đi một dạo, tôi không nhận được thư của cô T. nữa. Thế rồi tháng
5-1942, tôi nhận được một bức thư ngắn “Em thi xong rồi, sắp sửa về nghỉ
hè ở quê. Em muốn em được gặp anh tại ga chiều ngày... là ngày em đáp
xe lửa về Nam”. Ngày hôm sau, tôi đạp xe đạp ra ga, vội vã mua vé ra sân
ga, ra đến nơi thì thấy tàu bắt đầu chuyển bánh, tôi đưa mắt nhìn thật
nhanh ở các cửa toa thì thoáng thấy cô T. nhìn về phía tôi. Tôi nảy ra
một sáng kiến: rời ngay sân ga, lấy xe đạp đạp về chỗ chắn đường ngày
nay là ngõ đi vào khu Kim Liên, và chờ cho tàu đi qua đấy. Y như rằng
tàu còn làm chuyển toa, móc toa một lúc rồi mới khởi động chạy về hướng
Nam. Và lúc tàu chạy qua chặng đường chỗ tôi đứng chờ, thì tàu còn chạy
thong thả, đủ cho tôi nhìn rõ được cô T. ở cửa sổ nhìn ra, và cô T. cũng
thấy rõ được tôi ở đường nhìn lên phía tàu. Thế là hai chúng tôi vẫy
tay chào nhau lần cuối cùng. Tôi không rõ tâm tư của người bạn gái buổi
chiều hôm ấy lúc rời Hà Nội nhưng riêng tôi sau khi kịp chào cô T. trong
một hoàn cảnh hối hả như vậy, tôi trở về nhà trong lòng cảm thấy bùi
ngùi, vì mối quan hệ giữa người bạn gái có tâm hồn đẹp đẽ ấy với tôi
không trở thành mối tình, nhưng sự tiếp xúc với một tâm hồn đẹp như vậy
để lại trong lòng tôi một kỷ niệm vô cùng sâu sắc và tôi cảm thấy tâm
hồn tôi cũng được giàu lên, được mở rộng thêm một chân trời. Mãi về sau
tôi vẫn nghĩ: tất cả mối tình trong đời, kể cả những mối tình được đáp
lại, và cả những tình cảm một chiều đểu góp phần nung nấu thêm tâm hồn,
tình cảm, đều nhào nặn cho tâm hồn của con người được chín thêm, được
sâu đậm thêm. Vì thế tôi nghĩ trong địa hạt tình cảm, không bao giờ có
“tình mất” cả.
Sau này, qua bao nhiêu biến
cố lịch sử xảy ra trên đất nước trong mấy chục năm, tôi không có dịp
gặp lại nữ bác sĩ T. Gần đây, có dịp đi công tác nước ngoài, tôi được
biết nữ bác sĩ hiện có phòng khám bệnh ở một thành phố phía Nam nước
Pháp. Có người bạn biết câu chuyện của tôi và cô T. ngày xưa, gợi ý tôi
đi thăm nữ bác sĩ. Nhưng tôi không đi, không nên khuấy động lại tro tàn
của quá khứ, nhất là tro ấy chỉ do một ngọn lửa đốt cháy mà thôi.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- Q
Một mối tình dang dở vì kháng chiến (Huy Cận)
Cuối
năm 1944 tôi gặp N.M. ở Đại học xá ở Hà Nội. Lúc đó tôi đang hoạt động
mạnh ở trong Tổng hội sinh viên cùng với anh Dương Đức Hiền và một số
bạn sinh viên hoặc cựu sinh viên như đã kể một đoạn trên. Hồi đó
có một dạ hội do Tổng hội sinh viên tổ chức, mục đích cốt cổ vũ phong
trào yêu nước của sinh viên và thanh niên, và cũng để quyên một ít tiền
cho việc truyền bá quốc ngữ, và công tác y tế bình dân. N.M. lúc đó đang
học năm thứ 3 ban thành trung của một trường tư thục ở Hà Nội. N.M.
không đẹp lộng lẫy, nhưng có cái đẹp khá hấp dẫn, và nhất là cái duyên
toả ra từ mỗi nét mặt, từ dáng đi, từ nụ cười kín đáo. Dáng thon thon,
bước đi lanh lẹ, với mớ tóc rủ xuống quá vai, tôi còn nhớ rõ mồn một...
Hôm ấy N.M. bận chiếc áo lụa hồng đứng ở cuối phòng, tôi đi ngang là tự
nhiên dừng lại, bị luồng mắt nhìn của N.M. làm tôi hơi sững. Tôi nói
chuyện bâng quơ, tìm cách bắt chuyện. N.M. cũng trả lời tôi một cách tự
nhiên, chưa phải là mặn mà gì, nhưng cũng không lạnh nhạt. Lúc ra về tôi
hỏi muốn gặp lại N.M., thì gặp ở đâu. Thế rồi một buổi chiều tôi đón
N.M. ở trường ra, đạp xe theo đến cầu Long Biên, và còn đạp sang bên kia
cầu nữa vì N.M. nhà ở trong một khu vườn nhỏ bên bờ sông Nhị, cách đầu
cầu Long Biên chừng nửa cây số. Gió chiều cuối năm hơi lạnh, tà áo của
N.M. bay trong gió, tôi cứ đạp theo mà thấy tâm hồn lâng lâng, ngây
ngất. Thế rồi đến đầu cầu bên kia N.M. dừng lại, và chào tôi, ý nói tôi
nên trở lại.
Tôi hồi hộp,
nhưng cũng mạnh dạn trao cho N.M. bức thư đã viết sẵn từ đêm hôm trước.
Thế là mấy hôm sau tôi nhận được thư trả lời đằm thắm, chưa hứa hẹn gì,
nhưng trong thư nói những mơ ước của N.M. về một cuộc sống tình cảm đẹp
đẽ, lâu bền: Tôi thấy rằng tín hiệu đầu tiên như vậy là đã quá khẳng
định.
Thư đi từ lại suốt cả năm 1945, rồi cách mạng tháng Tám đến, lúc ở Tân Trào về tôi lại viết thư cho N.M.
Trong
một bức thư, N.M. có nói rằng rất tiếc là chưa đủ tuổi để đi bầu quốc
hội và để được bầu tôi. (Sự thực nếu N.M. đủ tuổi cũng không bầu tôi
được vì tôi ứng cử ở Hà Đông, mà N.M. thì trong danh sách cử tri ở Hà
Nội). Trong một bài thơ, tôi có phản ảnh điều tiếc ấy của N.M., bài thơ
lạc mất, nay tôi chỉ còn nhớ hai câu:
Trong thư em nói tiếc vô chừng,
Thiếu tuổi bầu anh vào quốc hội...
Đến
ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chúng tôi không kịp liên lạc với
nhau, mà các thư của N.M. gởi cho tôi thì cũng bị dìm đáy sông cùng bao
nhiêu văn thơ trong tủ sách quý. Tôi từ Hà Đông lên Quốc Oai (Sơn Tây)
rồi lên Tuyên Quang ở An toàn khu, tôi hỏi dò tin tức xem N.M. sơ tán về
hướng nào, nhưng hỏi mãi không biết được tăm hơi. Đến gần kết thúc
kháng chiến, năm 1953, mới có người bạn cho tôi hay tin rằng N.M. đã lấy
chồng “sau mấy năm chờ đợi”.
Thì ra N.M. cũng tìm cách liên lạc với tôi mà không bắt được mối.
Năm 1955, sau một năm đã về thủ đô Hà Nội một hôm tình cờ tôi gặp lại N.M. Ở phố Hàng Gai. Hai người bồi hồi một lúc, nhưng không hề ngỡ ngàng.
Tất
nhiên N.M. không còn là cô gái phơi phới mà tôi gặp trong buổi dạ hội ở
Tổng hội sinh viên, nhưng những nét đẹp định hình gần cái tuổi 30 càng
làm cho vẻ đẹp vốn kín đáo của N.M. càng đằm thắm, càng có sức hút từ
bên trong, như cái sức hút của lửa ngún, của than hồng dưới trấu. Sau đó
N.M. có hẹn tôi gặp lại vài lần nữa. Tuy hai bên gặp nhau không thật
ngỡ ngàng, vẫn thấy mối tình buổi trước như còn nồng cháy, nhưng thật ra
chuyện đời cũng như chuyện lòng không còn đứng yên một chỗ... Sau một
buổi gặp ấy tôi có viết mấy dòng thơ sau đây gởi đến cho N.M.:
Trưa nay anh lại bồi hồi
Trời thu buổi ấy xanh ngời mắt em
Ba tuần duyên đã bén duyên
Ra đi kháng chiến hai miền cách nhau.
Mấy mùa man mác hương cau
Thu đông chiến dịch trung châu khó tìm...
“Tìm nhau như thể tìm chim”
Em ơi! Năm tháng lỗi niềm hẹn xưa...
Mười ba năm ấy bây giờ
Gặp nhau những tưởng mới vừa hôm qua.
Hôm qua đầu bến Nhị Hà
Thư anh trao vội, gió xoà tóc mây.
Hôm qua anh nhận thư dày
Em mơ hạnh phúc từ rày có anh.
Hôm qua trong buổi bình minh
Lòng ta chung một ân tình sáng trong.
Hôm qua... nước đã chia dòng
Thuyền không gặp lại bến sông thuở đầu.
Gặp em hồi hộp xót đau
Trời xanh đầu hạ nhìn nhau mỉm cười.
Trưa nay anh lại bồi hồì
Trời thu buổi ấy xanh ngời mắt em
Sau
khi trao đổi bài thơ để nói lòng hoài niệm của mình, hoài niệm có phần
tiêu tao, da diết, tôi không tìm gặp N.M. nữa, vì nghĩ rằng không nên
khuấy động lại tro tàn quá vãng, huống chi tro cũng chưa thật tàn, mà
nhất là tro còn nóng này là do hai ngọn lửa đốt cháy... Thỉnh thoảng,
ngoài đường phố tôi lại xáp mặt N.M. hai bên chào nhau mỉm cười, có lần
tôi thấy N.M. sau khi chào tôi thì ngoảnh mặt đi.
Có
phải còn chút gì xao xuyến từ ngọn gió của sông Nhị Hà thổi từ buổi
chiều xưa đó chăng? Nếu một ngày kia N.M. có đọc tới trang hồi ký này,
thì cũng thứ lỗi cho tôi đã không kể lể hết những niềm say sưa của hai
chúng tôi ngày xa nhau vì kháng chiến bùng nổ. Tôi tiếc đứt ruột đã để
mất những bức thư say đắm mà trong trẻo N.M. đã viết cho tôi trong gần
hai năm trời. Những dòng hồi ký này
có trữ tình, tiếc nuối đến đâu cũng không bù đắp lại những dòng thư đẹp
và say, và ngây ngất của N.M., lúc bắt đầu yêu mà lại là yêu tôi. Nhưng
thôi, nước đã chảy dưới cầu; tôi níu lại cũng chẳng được, nhưng mong
rằng mấy dòng hồi ký này trong muôn một, tạ tấm lòng yêu say của N.M...
Xuân Diệu đi thi vào ngành thương chính
Đầu
năm 1940, phủ toàn quyền mở cuộc thi tuyển một số tham tá ngành thương
chính (nhà đoan), bằng cấp phải có để thi là bằng tú tài, hoặc bằng cử
nhân.
Anh Xuân Diệu bàn với tôi: “Ta cứ đi
thi xem sao, nếu đậu có được đồng lương để yên thân về cuộc sống, thì
làm thơ mới thoải mái được, mới theo lý tưởng văn chương của mình được”.
Anh Diệu có câu thơ được nhiều người nhắc đến:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Thế
rồi anh nộp đơn và anh đi thi. Đến ngày thi đến Sở đoan Trung ương (tức
là trụ sở của Bảo tàng cách mạng Việt Nam) để thi thì anh gặp nhà thơ
Vũ Đình Liên. Anh em vui gặp nhau, và hơi ngỡ ngàng có chút bùi ngùi.
Hai anh mượn lời trong vở kịch Le Cid của Coócnây mà nói với nhau: “Xuân
Diệu ơi có ai đó có thể nói là như thế này! - Vũ Đình Liên ơi có ai có
thể ngờ là như thế này” (Qui l’eut -Qui l’eut cru?)
Về
sau đó anh Vũ Đình Liên và anh Xuân Diệu đều trúng tuyển, anh Liên được
bổ nhiệm làm tại Sở thương chính Hà Nội, còn anh Diệu thì phải đi làm
tham tá tại Sở thương chánh Mỹ Tho (ngày nay là tỉnh Tiền Giang). Anh
Diệu phải xa rời Hà Nội là một nỗi đau buồn, cho hai chúng tôi, nhưng
cũng đành phải ra đi, vì “Cơm áo không đùa với khách thơ”. Về sau tôi
mới hiểu ra rằng, sở dĩ chính quyền thực dân Pháp lúc đó bổ nhiệm anh
Diệu đi xa là vì chúng nghi rằng nhóm Ngày nay là một nhóm hoạt động
cách mạng chống Pháp, chúng nó tách chia nhóm này được chừng nào hay
chừng ấy cho chúng. Mà rõ ràng là ý đồ của chúng như vậy, vì chúng yêu
cầu lệnh bổ nhiệm phải được thi hành ngay lập tức, không cho trì hoãn
việc nhậm chức. Vừa rồi sau khi anh Diệu mất tôi có gặp lại anh Vũ Đình
Liên và nhắc câu chuyện hai nhà thơ đi làm “Tây đoan”, anh Liên vẫn còn
cười chua chát, và nói thêm “Nhưng cũng may có Cận, nên Diệu được sớm
thoát cái cảnh khổ cực làm “tây đoan” này. Đau khổ của một thời cho kiếp
nhà thơ!”.
Xuân Diệu đối với u Khang
Sau
khi má anh Diệu mất, anh có nhờ một u già giúp việc tên là u Khang. U
Khang có mấy người cháu làm việc ở Hà Nội, có thể nuôi dưỡng u, và do đó
cũng nhờ u giúp đỡ trong việc gia đình. Nhưng sau khi tiếp xúc thì u
Khang quyết định ở lại giúp anh Diệu trong việc bếp núc, trông coi chốn
ăn ở cho anh. Công việc giúp anh Diệu chỉ là đi chợ, nấu ăn, quét dọn
cái phòng anh làm việc. Mà ngay việc đi chợ, thì nhiều khi anh Diệu cũng
đỡ phần cho u Khang, vì thỉnh thoảng anh cũng trực tiếp đi mua rau và
nhất là đi mua thịt chó ở chợ Hàng Bè, hoặc ở phố Sinh Từ.
Còn
giặt áo quần thì những áo mỏng như sơ mi, may ô anh mới nhờ u giặt, còn
quần và áo dày thì anh tự giặt lấy, không nỡ phiền u. Anh Diệu đối xử
với u Khang như là đối xử với mẹ đẻ, chăm lo từ miếng ăn cho đến chỗ
ngủ, chiếc chiếu, cái chăn, chiếc khăn len trùm đầu, đôi tất
ấm... Anh lại còn đưa tiền đều cho u Khang mua trầu, mua thuốc lào, vì u
thỉnh thoảng cũng hút điếu thuốc lào, hoặc cho thuốc lào cùng nhai với
trầu. Có được thức ăn gì ngon do bạn yêu thơ biếu trong những chuyến anh
đi nói chuyện thơ, anh đều để phần cho u Khang. Mỗi khi u ốm đau, mà u
cũng hay ốm vặt, anh lại lo thuốc thang chu tất, và dỗ u uống thuốc, như
anh đã từng dỗ má anh. Anh có định làm một bài thơ đầu đề là “U Khang”,
mà anh chưa kịp làm xong thì anh đã mất. Ý bài thơ anh có nói cho tôi
biết: cuộc đời kiên nhẫn, chịu thương chịu khó tích luỹ từng chút an vui
như u Khang. Anh thấy nơi u Khang một biểu hiện của sự sống, của cuộc
sống trăm nghìn kiên nhẫn, trăm nghìn âu lo, trăm nghìn chăm chút cho
hạnh phúc đơn sơ của con người. U Khang đã mất đi mấy năm trước khi anh
mất, vậy mà đến lúc anh mất bài thơ vẫn chưa làm xong. Trong vô vàn ân
hận của anh khi mất đi, chắc chắn có điều ân hận này. Khi u Khang đã đến
ngày cải táng, thì anh cùng các người cháu của u chăm lo việc bốc mộ
của u rất chu đáo, và anh cùng tôi đã đem tiểu sành của u về chôn tại
quê nhà của u, bên cạnh những ngôi mộ của gia đình, trong tỉnh Hà Nam
Ninh. Tấm lòng của anh Diệu đối với u Khang thật là như con đối với mẹ.
Vì sao anh Xuân Diệu phải đi làm tham tá Nhà đoan
Trong một trang nhật ký đề ngày 27-9-1939, anh có ghi “tôi đã đỗ tham tá tập sự ngành Đoan. Thoát dạy tư! Thoát những lo âu về cuộc sống hàng ngày”.
Nhưng trong quyển nhật ký viết ở Mỹ Tho, ở trang đề ngày 18-5-1940 anh lại ghi:
“Một
bạn thân vừa trách tôi trong thư, những lời làm tôi sung sướng. Anh
trách tôi sao lại đi làm, thiếu can đảm thì mới đi làm. Anh muốn tôi
đừng bao giờ bỏ làm thi sĩ. Tôi sung sướng vì có một người nói thật, nói
thẳng, họ nhắc cho tôi cái mệnh lớn của tôi.
Sao tôi lại đi làm? Nhiều cớ lắm.
Ở
nhà bắt buộc, thúc giục, than thờ. Nếu nhà có tiền, tôi không cần nghe.
Nhưng đây là một gia đình đã 50 năm quay trong cái vòng đau khổ, những
người trong gia đình ấy, cha mẹ, má, em,... đều là những vai trong
truyện “Cái vòng”. Tôi đi làm: có một ít tiền để cho những người đời ấy
khỏi hèn mọn; có một ít tiền để cho họ bớt lo tính; họ là người đời, họ
cần những của cải thông thường của đời. Nếu tôi không may đậu đi làm,
thì hiện giờ họ còn khổ sở, chứ có đâu cái vui!
Những
người ấy tôi thương yêu hết lòng, tội nghiệp cho mẹ, thầy, má, em; tôi
phải chịu khó vì họ ít nữa là trong 5-6 năm đã. Không phải vì yếu, nhưng
vì nhân đạo vì tôi thương những con người; những con người ấy mà thân
thích tôi, nên tôi biết rõ cái khổ mà càng thương thêm.
Cớ
thứ hai: Không làm việc ngoài thì phải làm văn, nghĩa là rút cục: làm
báo. Cái tiền ấy khó ăn lắm. Được nó, cũng trải bao cái nhục. Lại còn
cái khổ kéo cày. Tôi đã được biết một ít cái mặt trai của báo, của văn.
Tôi muốn sổng cái văn, nhưng không muốn chen vào cái “đời văn”, có nhiều
bỉ ổi. Bây giờ, tôi “ngoài vòng cương toả” kia, để trong vòng cương
toả” này. Thà vậy, cái xấu trong đời, chịu được; chứ cái xấu trong ăn
không nên chịu và không chịu được.
Chẳng
qua cũng vì tình thế nước ta, nó ảnh hưởng luôn đến số phận của một thi
sĩ. Nếu ở nước ta, viết văn chứ không làm báo mà sống đủ, thì tôi đã
viết văn như văn sĩ Pháp, ra sách, rồi đủ ăn, nhưng ở nước ta, độc giả
ít, cái bè đảng lại cần có lắm. Mà bè đảng nào - Tự lực văn đoàn, cái
hội cao nhất ở nước Việt (về mặt văn chương) lại cũng là một cái hội
báo. Tôi chen chân vào chỗ nào? Cái tiếng thì được, chứ cái miếng, đó là
chuyện khác. Thôi, tôi cũng tại trời gởi tôi vào chỗ này. Gởi tạm để
rồi tôi sẽ ra. Cũng vì sợ cái đời văn ở nước mình sống lăn sống lóc,
viết bạ viết bừa, mà tôi vào cái đời bó buộc; tuy nó bó buộc, nhưng
trong sạch, không có mánh khoé, không có lừa độc giả, không chạy theo sờ
thích thiên hạ, cạnh tranh để mà sống.
Ở
đời có toàn vẹn bao giờ! Tôi sợ chen vào làng báo thì chết cái hồn thơ,
lẽ nào cái làng gãi giấy lại cũng giết được cái hồn thơ nữa. Thế thì tôi
biết đi ngả nào để cứu hồn tôi? Rút cục, cái đáng phàn nàn, là tôi đi
làm lại làm vào Nam Kỳ. Nêu ở Hà Nội hay Hải Phòng xứ rét, tôi quả quyết
rằng tôi hoạt động hơn”.
Những năm tháng
anh làm tham tá nhà Đoan ở Mỹ Tho cũng có những giờ phút tủi cực, có thể
nói là tủi nhục nữa. Thỉnh thoảng thằng chủ Sở đoan tên là Soulage lại
doạ đổi anh đi nơi khác, vì anh làm việc hơi tài tử, không vừa ý nó lắm.
Ngày 26-4-1940 anh lại ghi trong nhật ký:
“Làm
việc suốt đời? Thế thì bao giờ mới sống. Tôi định làm đến 30 tuổi, cả
tôi và Cận đều làm việc nhà nước, thì một người có thể xin thôi. Người
nào khổ nhất chắc là tôi. Làm 6 năm, tôi gắng góp tiền; được bao nhiêu?
Vào xứ này, nghe nói người ta tiêu một trăm ngàn như không, mà tủi quá!
Mình cặm cụi một năm được chăng là một nghìn đồng! Mà chịu bao nhiêu
ràng buộc.
Trong hai tháng nay, hầu như tôi quên là Xuân Diệu. Tôi ít được dịp ký cái tên chọc trời chữ ký của
tôi ngắn lại cho tiện trên giấy má của Sở. Tự quên mình là thi sĩ, văn
sĩ nghệ sĩ. Lẽ nào đến thế, ai ơi! Ở đây một thân mình, không kẻ đồng
loại, không ai có một hoài bão với mình.
Hà
Nội! Muôn lần thân yêu! Ngươi là nước, ta là cá, xa nước ta sống sao
đặng. Nếu tôi không ra được cái vòng này. Làm sao trở về được Hà Nội.
Tài tôi chưa cạn. Nhưng tâm trí không thư thái, thì biết làm sao! Hay là
sự sáng tạo cần có trở lực. Tôi viết Thơ thơ lúc ở Huế đang phải học tú
tài phần thứ hai. Bây giờ... còn hai bài trường ca, bao giờ viết xong.
Nếu trong năm 1940, mà không xong thì nhục nhã lắm; thế sẽ tỏ rằng tôi
bị thua cảnh ngộ.”
Ngày 10-5-1940, trong nhật ký anh lại ghi:
“Ông
chủ lại doạ: đổi tôi đi. Thì đổi đi! Ai cần. Bây giờ chỉ có một cái va
ly, và một cái hòm gỗ; dễ khuân lắm; đây lại muốn đi cho biết đó biết
đây!
Mà tại tôi: cộng sai một con số,
thành ra sai những mười ngàn lít rượu! Mỗi lần làm báo cáo về việc làm
của cá nhân là mỗi lần tôi bị càu nhàu; hai tháng bị hai lần rồi, chắc
còn những lần khác nữa.
Người khó tính thì
bao giờ bằng lòng ai! Ngoài ra, chẳng có việc gì to lớn. Bây giờ nghèo,
phải tòng quyền. Ít lâu có vốn, tôi sẽ liệu chứ! Thực vậy lòng tôi
không yên một nơi nào cả; chỉ muốn lăn đi, dù không bám rêu cũng được.
Sống
trong lo lắng, chết vì yên vui, nói cho đúng hơn: Lo lắng thì làm cho
ta sống một trình độ cao, yên vui thì ta sống mà chết tinh thần. Phải có
bị những cái nhăn nhó của bà mẹ chồng khắc nghiệt, tôi mới biết rằng
nghề này chẳng vinh gì; tôi mới nhớ cảnh tôi mới tính bàn khôn dại”.
Tôi
ít muốn tiêu tiền, càng đi làm, càng ít muốn tiêu. Thấy đi làm bằng
cách nào mà đỡ thân. Vui sướng gì, vinh hạnh gì là tiêu pha! Cái tiền bị
người ta cau có, ra mặt mới được, cái tiền ấy ta nên thu góp nó lại,
đúc nó ra thành thuốc súng, thành sức mạnh, để sau này giúp ta. Bọn tiêu
sài tiền lương, rút cục mắc luôn vào cái cùm; tháng nào xào tháng ấy,
đã lúc hết nửa đời, vẫn còn tôi mọi. Khi có tiền thì dù không xin thôi
cũng có thể vững chãi, kiêu hãnh, vì có thể thôi lúc nào cũng được.
Không tiền phải bám cái khổ nhục mà sống!”
Trong nhật ký của
anh Diệu không chỉ ghi những lời đau xót về cái cảnh đi làm công cho
nhà Đoan. Mà phần chủ yếu là anh ghi những cảm nghĩ về cuộc đời những
suy ngẫm về văn thơ của cha ông, của anh, của bạn anh. Nhiều trang rất
hào hứng viết về những cảm nghĩ và suy ngẫm ấy. Trên đây tôi trích mấy
đoạn nói về cái đau khổ, cái tủi nhục phải đi làm “Tây đoan” để nói lên
cái việc anh đi làm tham tá là một việc vạn bất đắc dĩ đối với anh. Cho
nên lúc tôi đậu kỹ sư canh nông và bắt đầu đi làm, có tiền lương (trong
lúc đó tôi vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng bí mật), thì tôi mời anh về
sống với tôi tại Hà Nội. Anh Diệu đánh điện cho tôi: “Diệu từ chức được
chưa?”. Thì tôi trả lời tức khắc: “Từ chức ngay, và về ngay Hà Nội”. Vậy
là đầu năm 1943 anh Diệu thôi làm Tây đoan, về Hà Nội cùng sống với tôi
ở số nhà 61 Hàng Bông, hai người chung một đồng lương của tôi.
Thằng
Soulage chủ sở đoan của anh Diệu, hay càu nhàu nhăn nhó với anh Diệu
như vậy, mà anh cũng rất bực mình nó, có lần anh cãi to tiếng với nó,
nên nó doạ đổi anh đi một nơi xa. Nhưng một mặt khác, anh lại thương hại
nó, mà không phải chỉ thương hại mà có phần thương xót nó... Số là,
thằng Soulage này sống không vợ con, hình như nó đã có một đời vợ mà sau
đã li dị... Ở Mỹ Tho nó sống cô độc, ngoài công việc Sở, và thỉnh
thoảng đi bắt rượu lậu ở các quận xung quanh, thì nó chỉ còn một trò
tiêu khiển là chăm sóc con khỉ của nó. Con khỉ nó đặt tên là Nana. Nó
chăm sóc con vật này như chăm sóc một con người, một con người thân
thích. Có thể nói con Nana là đối tượng tâm sự, tâm tình của ông chủ
Soulage. Anh Diệu đã nhận xét rất tỉ mỉ, rất sâu sắc cuộc sống của con
vật này bên cạnh ông chủ, hay nói cho đúng hơn là bên cạnh người nhà của
nó. Anh đã định viết một truyện ngắn lấy tên là “Thân em”, em đây là
con khỉ Nana. Truyện ngắn không viết xong, nhưng còn lại hai trang trong
di cảo của anh, tôi xin trích ra đây một đoạn để nói lên chủ nghĩa nhân
đạo trong mạch văn của anh:
“Mỗi lần tôi
nhớ đến con Nana, tôi lại thương đến thân liễu bồ của nó. Tôi lại tương
tượng nấm mồ nho nhỏ nó nghỉ dưới gốc cây dừa ở Sở nhà đoan Mỹ Tho. Con
Nana thoạt nhìn rất dễ sợ. Nó là một con khỉ đặc biệt, không biết đến từ
rừng nào, núi nào. Ông Soulage người Tây già chủ nó mua ở đâu tôi chẳng
biết. Người con Nana dong dỏng cao, mồm nó giô ra, hàm dưới nở, cái cằm
to lắm, chẳng trách nó hét nhiều. Hai tay của Nana dài lòng thòng, gần
chấm đất. Con Nana lông đen như mun vậy, dài và thưa hơn lông mèo. Người
nó thấp nhỏ, nhưng mình dài, chân dài, hai cánh tay thật dài, cái gì
cũng dài, cái ngón chân nó dài; còn tay nó thật là tay ngòi bút. Dáng
người nó có thể nói là thướt tha.
Loài vật
trong tiếng Việt Nam đều là giống cái hết. Bò, trâu, chim, ngựa tất cả
đều gọi bằng “con”. Cho nên nghe gọi là con Nana, tôi chỉ biết nó là con
khỉ mun. Một con vật, chứ nào có để ý nó là giống gì. Ai gọi con Nana
là khỉ. Nó không có cái gì là khỉ cả. Nó là một con vật đi hai chân;
chẳng có lúc nào nó chịu hạ mình mà đi bốn cẳng. Nó mặc một cái áo gi-lê
bằng dạ xanh nước biển cài khuy phía trước sau cho ấm ngực, nó nhẹ
nhàng một cách lạ. Nana nó có một tâm hồn... người Tây già chủ nó khi
nói đến nó dùng ngôi thứ ba thì dùng “giống cái”. Nó là cô Nana; nó là
thiếu nữ Nana. Cái tên dịu dịu xinh xinh; thật là tên con gái.
Cô
Nana thật là xinh. Ừ, ừ Nana đẹp lắm, Nana đáng yêu lắm. Nana nó vuốt
cái áo của nó với những ngón tay mềm mại. Nhưng tại sao lần đầu tiên gặp
nó tôi sợ nó thế. Trông nó rất kinh. Tính hay sợ loài vật là một tính
xoàng. Sợ loài vật tức là không biết cái địa vị của mình là con người,
cái địa vị của người anh phải thương yêu những giống đàn em, là loài
vật. Ông Soulage người chủ nhà đoan già là hiện thân của hồn thuộc địa.
Người ông to lớn, hai hàm răng cằn khít lại. Ông ta nức tiếng là ông ác
trong làng thương chính. Cả Sở nhà đoan run sợ khi ông ta đổi xuống Mỹ
Tho. Tính ông già còn mạnh mẽ này là tính của một người không muốn cho
ai hơn mình. Ông không thích cho người khác vui sướng. Có vui sướng thì
phải vui sướng thua ông, hay là do ông ban cho cái sướng. Những biển Đại
Tây dương Địa trung hải, Ấn Độ dương, Thái Bình dương đã từ làn sóng
này đến làn sóng khác lăn một hình người xa lạ đến ở một tỉnh nhỏ này.
Mặt trời nhiệt đới đã bạc tóc ông, ông đến đây để ngửi trên cát những
cái gì là nhà đoan ở tỉnh này và các tỉnh lân cận. Ông Soulage không có
ai ưa hết. Ngày ngày xong giờ làm việc ông lại lên trên lầu lủi thủi một
mình. Ở bàn giấy ông làm vương làm tướng nhưng khi Sờ đóng cửa rồi, ông
già lại trở lại là một người già. Xa nhà xa nước không vợ không con,
không có gì giải trí ông lấy sự nanh ác làm một cái vui”
Sau
đó anh Diệu định tả cái niềm an ủi duy nhất của ông là cái tình của ông
đối với con Nana, và cái tình của con Nana đối với ông...
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- R
Bài diễn thuyết đầu tiên của Xuân Diệu
Đó là buổi diễn thuyết về “Thanh niên với quốc văn” tại hội trường của Đại học Đông Dương vào hồi tháng
3-1944. Hoài bão của chúng tôi đối với tiền đồ của tiếng Việt Nam đã
được diễn tả nhiều lần trên báo Ngày nay và trong những bài thơ. Nhưng
để nói tập trung
cái hoài bão đó, cái nỗi niềm đó thì anh Diệu đã bàn với Tổng hội sinh
viên làm cuộc diễn thuyết nói lên trách nhiệm của các thế hệ thanh niên
đối với tiền đồ của tiếng nước nhà, đối với công cuộc xây dựng nền văn
hoá dân tộc.
Trước ngày diễn
thuyết, anh đọc đi đọc lại rất kỹ bài của mình, lấy bút chì đỏ gạch
dưới những câu, những chữ cần nhấn mạnh, chẳng khác nào như một diễn
viên sân khấu nghiên cứu đài từ của mình trước giờ diễn xuất.
Tối
hôm đó tại hội trường lớn của trường Đại học, hội trường theo bậc
thang, chật ních những sinh viên và một số khách mời. Trong đám khách
mời có các giáo sư đã học, và một số bạn quen của chúng tôi. Anh Hoàng
Xuân Hãn tối ấy cùng đến dự, và ngồi ở ghế hàng đầu có nói chuyện hồi lâu
với anh Diệu trước khi anh Diệu bắt đầu nói chuyện. Không khí khá náo
nức, vì cái tinh thần yêu tiếng Việt, trau dồi cho tiếng Việt cũng đã
được gây lên trên báo chí, qua sách vở của Tự lực văn đoàn và của nhiều
nhà xuất bản khác, qua phong trào truyền bá quốc ngữ. Nhưng lần này sự
náo nức lại được tăng lên bởi lẽ diễn giả là một nhà thơ mới nổi tiếng
được thanh niên rất yêu mến. Cũng nhắc thêm: ở diễn đàn này, về sau anh
Nguyễn Đình Thi cũng nói chuyện về tinh thần chống phong kiến, tinh thần
dân chủ trong ca dao Việt Nam. Anh Xuân Diệu bước lên diễn đàn được một
tràng vỗ tay của hội trường chào đón làm cho anh vốn đã dễ hồi hộp càng hồi hộp
thêm, nhưng đó là điều cổ vũ anh, làm anh vững tâm đọc bài diễn văn của
mình. Anh mở đầu: “Chưa khi nào tôi nói trước đông người. Lần này nói
với các bạn, đó là lần thứ nhất của tôi. Tôi không muốn mang cái vẻ dễ
thành ra khôi hài của một nhà diễn thuyết. Đây chỉ là một cuộc trò
chuyện nó có vẻ một câu chuyện tâm tình. Tâm tình với quốc văn, tâm tình
của chúng ta đôi với quốc văn.
Sinh
viên với quốc văn? Sinh viên Việt Nam với quốc văn Việt Nam! Biết bao
nhiêu điều các bạn có thể tự tình kể lể với cái hồn của nước ta đọng
trong quốc ngữ! Chúng ta tâm sự với tiếng nói của mẹ Việt Nam, chúng ta
nghe rõ trong lòng ta lời nói của mẹ Việt Nam. Vậy tôi chắc các bạn cùng
cảm thông với tôi trong cái nỗi niềm dạt dào khi nghĩ đến Mẹ”.
Xong
rồi anh nói đến thái độ hờ hững của một số thanh niên đối với tiếng
nước nhà, nói đến việc dạy quốc văn không được tốt trong một số trường
học, nói đến tác dụng của tiếng mẹ đẻ trong sự nghiệp, giành độc lập và
bảo vệ độc lập. Anh cũng có nhắc đến câu của Alphonse Daudet trong cái
truyện ngắn Buổi học cuối cùng: “Một dân tộc nào mà cũng còn giữ được
tiếng của mình, thì dân tộc ấy cũng như giữ được cái chìa khoá để tự
giải phóng cho mình”. Sau đó anh nói trách nhiệm của sinh viên thanh
niên là phải trau dồi tiếng mẹ đẻ, dùng tiếng mẹ đẻ làm công cụ phát
triển văn hoá, văn minh của nước nhà. Anh lại khuyến khích sinh viên đi
vào nghiên cứu vốn văn học dân tộc, vì không có tiếng nào hơn là tiếng
nước ta để biểu hiện trung thành và sâu sắc tư tưởng và tình cảm của con
người chúng ta. Anh cũng khuyến khích công việc dịch thuật để làm giàu
thêm cho kho sách của nhân dân.
Anh còn
phác hoạ ra một chương trình gồm 6 điểm để củng cố địa vị của quốc văn
trong đời sống của quốc dân: một là phải chống những tật xấu trong tinh
thần Á Đông, hai là phải chống lại những tật xấu của riêng người Việt
Nam. Ba là phải chuộng sự thật; bốn là phải chuộng sự lành mạnh; năm là
chuộng sự sáng sủa; sáu là chuộng sáng tác, đẩy mạnh tinh thần sáng tạo.
Đoạn kết anh nói: “Tôi xin tóm tắt lại cùng anh em bằng một tình cảnh.
Này một đứa bé Việt Nam lọt lòng ra đời. Tiếng mẹ nó ru bao bọc lấy nó,
mơn trớn, vuốt ve. Dần dần đứa bé nghe lọt tai rồi ngày ngày được ẵm
bồng trong câu ru Nam Việt. Tâm linh nó tự nhiên thấm nhuần tiếng mẹ đẻ,
nghe lời ru, nó hết khóc, nó mỉm cười Nó nằm trong nôi, mà cũng là nằm
trong lòng mẹ, mà cũng nằm trong tiếng nước nhà:
Nằm trong tiếng nói yêu thương,
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời.
Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi:
Hồn thiêng đất nước cũng ngồi bên con.
Mấy
câu thơ ấy của một thi sĩ bạn tôi (Huy Cận) thật đã tả cái cảnh yêu
thương chẳng những của lòng mẹ mà còn cái lòng đất nước. “Hồn thiêng đất
nước cũng ngồi bên con.... Anh lại thêm: “Anh em đừng ngại rằng quốc
văn ta nghèo nàn, kém cỏi, không đủ món ăn cho anh em. Không đủ, anh em
cũng cứ xem rồi thì khen lao hay chỉ trích, hay chế nhạo cũng được;
nhưng miễn sao anh em đừng hừng hờ. Anh em làm cái bổn phận ủng hộ, bổn
phận dễ nhất của anh em. Còn nhà chúng ta nghèo, chúng ta chớ ngại. Nhà
nghèo mà anh em ta biết chịu thương chịu khó, biết cố gắng, biết hy sinh
thì chẳng mấy chốc mà cái nhà văn Việt Nam, từ vách đất mái tranh, sẽ
hoá nên lâu đài cung điện. Thưa anh em, văn học Việt Nam đang mong mỏi ở
mỗi chúng ta”.
Buổi diễn thuyết thành
công mỹ mãn, lúc ra về mọi người tìm bắt tay diễn giả và cũng nói lên
cái lòng hoài bão chung đối với tiếng nước nhà... Lúc cuốn Thanh niên
với quốc văn xuất bản ở nhà “Thời đại”, anh Diệu đề tặng tôi “Diệu tặng
Cận bài diễn thuyết đầu tiên của Diệu; sắp sẵn những cuộc “chu du nói
chuyện” của ta về sau. Sở dĩ anh đề như vậy là vì cả hai chúng tôi lúc
đó có cái mộng là đi diễn thuyết khắp nước để cổ vũ công cuộc xây dựng
nền văn học và nền văn hoá nước nhà.
Mộng
này về sau anh Diệu đã thực hiện một cách đầy đủ bằng hàng trăm (gần đến
1000) cuộc bình thơ, nói chuyện thơ của anh. Tôi cũng làm được mức nào
bằng những cuộc nói chuyện của tôi về văn hoá, văn nghệ về sự trau dồi
bản sắc văn hoá dân tộc, về việc xây dựng các vùng văn hoá đẹp và bền
trong cả nước.
Xuân Diệu viết về “Hàng bia Văn Miếu”
Cùng
một lúc với việc chúng tôi trau dồi tiếng Việt làm thơ viết văn bằng
tiếng Việt, với lòng yêu tiếng nước nhà một cách thiết tha, da diết thì
cũng có dăm ba người trong đám trí thức ti toe viết tiếng Pháp, hòng xây
dựng sự nghiệp văn chương bằng tiếng Pháp. Đối với chúng tôi lúc đó,
việc chạy đòi làm thơ văn bằng tiếng Pháp là một tinh thần nô lệ, hướng
theo cái uy thế của “mẫu quốc”. Chúng tôi không những cười cái trò ấy mà
còn căm phẫn nữa. Thái độ căm giận ấy anh Diệu đã tỏ rõ trong bài Hàng
bia Văn Miếu. Ở giữa bài có đoạn anh viết:
“Một
chiều kia tôi đã nhận bài học của hàng bia Văn Miếu. Tôi xin kể lại bài
học ấy cùng mọi người. Thái học sinh nghĩa là gì? Nghĩa là những cậu
học sinh giỏi giang, ở trên cả các học sinh khác, những người “học trò”
tốt vậy, nghĩa là thuở Hán học, các học sinh ấy khéo thuộc lòng, khéo ăn
cắp sách, khéo nấu nướng những món văn sách, kinh nghĩa, nấu giả Đường,
giả Tống cũng như người ta nấu giả cầy, và dọn lên cho các quan trường
thưởng thức. Các thái học sinh đã làm việc rất hữu công cho thân mình
họ, bởi cái lẽ hiệu nghiệm nhất là họ đã làm việc không công cho tiếng
nước Tàu... nào có ra gì bác Nguyễn Du, nếu bất hạnh Nguyễn Du không đỗ
đạt....
Đoạn kết thúc anh viết:
“Tôi
buồn cười trông thấy sự ngây ngô của đời trước, tưởng rằng đậu ông nghè
là có đại công với văn học, với tổ quốc, vội xây đài kỷ niệm... Người
Việt Nam đời nay đã bỏ cái “công danh Tàu” đời trước: và cái “công danh
Tây” đời này người Việt Nam đời sau sẽ để vào góc nào? Chắc sẽ có một
Văn Miếu thứ hai, hai hàng bia đá khắc ghi tên những ông nghè, ông thạc,
và rêu tha hồ bám, cỏ tha hồ che”. (bài đăng ở báo Ngày nay năm 1938).
Giọng
mỉa mai của anh đối với các bậc khoa cừ ngày xưa cũng có chỗ chưa thật
thoả đáng, nhưng cái ý chính của anh là mỉa mai các vị văn sĩ viết tiếng
Tây, và cái ý đồ bảo vệ tiếng mẹ đẻ, bảo vệ văn học và văn hoá dân tộc
là hoàn toàn chính đáng, mà vì vậy bài báo ra đã được đám thanh niên rất
hưởng ứng.
Xuân Diệu công phu học vốn cổ thơ văn dân tộc
Trong
các di cảo của anh có cả một quyển vở dày trong đó anh chép các bài
thơ, bài từ, bài phú hay (chép từ thời anh còn học tiểu học và trung học
ở Qui Nhơn, từ năm 1930-1933. Chẳng hạn về thơ ngụ ngôn anh đã chép
nhiều bài theo ngụ ngôn bát cú như bài Dạ hoài của Phạm Tuấn Tài:
Đêm năm tay vắt trán,
Thân thế nghĩ mà dơ!
Đội đức dường non bể,
Đền ơn chửa tóc tơ.
Giá hèn bầu bạn rẻ,
Xu ít chị em lờ!
Tủi phận hờn duyên chán,
Châm đèn dậy viết thơ.
Anh
lại cũng chép những bài hát nói thấy dăng trên các báo như bài Kỷ niệm
vua Hùng Vuông của Trần Duyệt, bài Nhà nho với nhà trò than thân của
Huyền Mặc Đạo Nhân... Anh lại công phu chua chữ Hán bằng mực đỏ dưới
những câu đối trong các bài hát nói. Anh công phu chép hàng chục bài hát
nói như vậy.
Thể thơ song thất
lục bát anh cũng chép nhiều bài như Đêm buồn tự thuật của Vũ Như Châu
hay bài Trường hận ca diễn âm (nguyên văn của Bạch Cư Dị, bài diễn âm
này không biết của ai, không phải bài dịch của Tản Đà). Anh lại còn chép
nhiều từ khúc, theo các điệu từ khúc của Tàu và của ta ngày xưa, như
điệu “Nhất tiễn mai”, điệu “Trường tương tư”, điệu “Lâm Giáng tiến”,
điệu “Cán khê sa”, điệu “Khoa phong lạc”, điệu “Thái xuân hoa”, điệu
“Vân thê”, điệu “Giá cô thiên”, điệu “Nga mi dương”, điệu “Như mộng
lệnh”, điệu “Xuân quang hảo”, điệu “Đổ bộ thiềm”, điệu “Mộc lan hoa”
điệu “Nguyễn lang qui”, điệu “Bắc giang mai lệnh” điệu “Nhất chi thất”,
v.v... Cái điều mà ta gọi là làm chủ vốn cổ văn học nghệ thuật nước nhà
thì Xuân Diệu đã công phu chuẩn bị cho mình từ bé, để sau này thật sự
anh làm chủ cái vốn quí của cha ông khi anh trân trọng nghiên cứu “các
nhà thơ cổ điển Việt Nam”...
Dự định ra tạp chí Tao phùng tạp chí văn học và triết học
Từ lúc tôi học ban thành chung, nhất là từ khi tôi học ban tú tài tôi rất ham mê triết học, song song với
cái say mê văn chương. Tôi đọc sách đều cả hai loại: triết lý và văn
thơ. Đến năm tôi học năm thứ ba ban tú tài tôi Càng say sưa nghiền ngẫm
triết học, và những sách tôi đọc ngoài chương trình triết học của nhà
trường là rất nhiều. Thầy giáo tôi về triết học là ông Nguyễn Huy Bảo đã
ghi trong học bạ của tôi “Cù Huy Cận có một cảm quan nhạy bén và sâu về
triết lý”. Lúc tôi thi tốt nghiệp ban tú tài, giáo sư triết học người
Pháp Hertrich (ở Hà Nội vào Huế chấm thi) cũng cho tôi điểm cao nhất cả
về bài viết và bài vấn đáp. Và giáo sư này cũng khuyên tôi nên sang Pháp
học môn triết học để lấy bằng thạc sĩ về triết học, lời khuyên ấy là
gãi đúng chỗ ngứa của tôi. Tôi cũng đã làm đơn xin học bổng để đi học
theo hướng gợi ý của giáo sư Hertrich và của thầy Nguyễn Huy Bảo. Nhưng
ngày 1-9-1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, không biết đơn xin
học bổng của tôi có được chấp nhận không, nhưng tôi quyết định ở lại
nhà, vì cảm thấy rằng sẽ có những biến cố lớn xảy ra với đất nước. Rồi
tôi đi dạy ở trường Chính hoá (Vinh), rồi vào học Trường cao đẳng Nông
lâm ở Hà Nội, học nông lâm là cốt để có một nghề tay trái, khỏi phải bán
văn thơ nuôi thân. Và cái mộng vừa làm thơ, vừa tìm tòi nghiên cứu về
triết học vẫn đeo đuổi tôi mài. Và đầu năm 1942, lúc tôi đã tham gia
hoạt động cách mạng, tôi vẫn nghiền ngẫm trong tâm trí cái dự kiến ra
tạp chí triết học kiêm văn chương.
Tôi
gặp nhà thơ Vũ Đình Liên, lúc đó vừa dạy tư, vừa làm tham tá nhà đoan,
hai anh em tâm sự và trao đổi những ý đồ văn chương với nhau, rất tâm
đắc. Tôi bàn với anh Liên sẽ cho ra tờ tạp chí lấy tên là “Tao phùng”
tạp chí văn chương kiêm triết học, mà chủ nhiệm kiêm chủ bút là tôi và
quản lý trị sự là anh Liên phụ trách.
Hiện
nay tôi vẫn còn giữ cái “ma két” của tờ tạp chí ấy vẽ bằng mực xanh
trên một tờ giấy không trắng lắm và nay thì đã ố vàng. Trong tạp chí này
chưa để tên Xuân Diệu vì anh Diệu lúc đó còn làm tham tá nhà đoan ở Mỹ
Tho. Tôi có viết thư cho anh Diệu biết dự định của tôi thì anh Diệu tán
thành và nói: “Diệu sẽ góp phần văn thơ là chính, còn phần triết học thì
đó là miếng đất và cái thú riêng của Cận”, nói câu ấy với một mỉm cười
kín đáo. Cái mộng tạp chí triết học kiêm văn thơ của tôi chỉ còn là một
kỷ niệm, vì ở đời có phải bất cứ dự định nào, bất cứ mơ ước nào cũng
thành được sự thật cả đâu. Vừa rồi tôi gặp lại anh Vũ Đình Liên có nhắc
câu chuyện tạp chí “Tao phùng” này, thì hai anh em cùng cười, nhưng
không phải là cái cười chua chát, cay đắng nhớ đến một sự thất bại của
đời mình, vì chúng tôi, vì tôi nghĩ rằng mộng triết học kiêm văn chương
không thể hiện bằng tờ tạp chí, nhưng vẫn thực hiện trong cuộc đời,
trong sự sống của mình trong những cảm nghĩ và suy nghĩ hàng ngày của
mình.
Có thể nói vui rằng hằng ngày tôi
vẫn cho ra tạp chí “Tao phùng” trong cuộc sống và trong hoạt động văn
học, nghệ thuật của tôi. Chắc các bạn đọc có thể thông cảm điều này.
Định lấy cái tên “Tao phùng” là vì nhớ đến câu “Nghìn năm một hội tao
phùng” của Vũ Lượng trong bài Văn tế trận vong tướng sĩ nổi tiếng.
Một cô người Pháp cực kỳ mê thơ Xuân Diệu
Cô
ấy là Louise Koger, bố là người Pháp, mẹ cũng là người Pháp, chứ không
phải là đầm lai. Không biết cô học tiếng Việt trong trường hợp nào, mà
nói tiếng Việt rất sõi, giọng đặc là giọng người Hà Nội. Cô học văn khoa
tại Paris, và yêu một anh trạng sư Việt kiều.
Hai
người nói chuyện với nhau toàn bằng tiếng Việt và cô tỏ tình với người
yêu toàn mượn lời thơ của Xuân Diệu để nói thay lòng mình. Và trong câu
chuyện hàng ngày cô cũng vẫn dùng những câu thơ của Xuân Diệu để nói
chuyện với người yêu, ví dụ hai người đi dạo ngoài phố mà cô Louise muốn
giục người yêu của mình đi mau thì cô đọc lên câu thơ “Mau với chứ, vội
vàng lên với chứ!”. Cũng có lần hai người đi chơi ở Angiêri gặp tuần
Ramađăng (là một tuần lễ của Hồi giáo,
trong tuần đó người ta nhịn ăn, các cửa hàng ăn không bán thức ăn, mà
chỉ bán nước giải khát). Thế thì hôm trước tuần Ramađăng, hai người vào
tiệm ăn A-rập, cô giục người yêu cố gắng ăn no đi vì ngày mai có thể
phải nhịn đói, nếu không tìm được nhà người quen để ăn nhờ. Cô liền đọc
câu thơ: “Ăn đi anh. Em rất sợ ngày mai” (câu thơ của Xuân Diệu là: “Mau
lên em! Anh rất sợ ngày mai” trong bài Giục giã). Cô Louise Roger lại
còn thuộc thơ Xuân Diệu đến nỗi có thể tập thơ Xuân Diệu (như người ta tập Kiều) ví dụ cô đã ghép bốn câu ở bốn bài khác nhau của Xuân Diệu thành một bài tứ tuyệt đúng niêm luật và có nghĩa:
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều (trong bài Vì sao)
Ta cần uống ở suối thương yêu (trong bài Vô biên)
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói (trong bài Dây mùa thu tới)
Không khóc nhưng mà buồn hiu hiu (trong bài Nhị hồ)
Cô
này rất thuộc văn thơ Việt Nam, đặc biệt là Thơ mới. Anh bạn trạng sư
yêu cô say đắm, trọng vì nết, say vì tình, và hai người lại có một sự
say mê chung, là mê Thơ mới và đặc biệt là mê thơ tình của Xuân Diệu.
Tưởng là hai người kết duyên với nhau suốt đời, thế mà vì một sự vụng về
và cạn nghĩ của anh chàng trạng sư mà mối tình phải chấm dứt. Cô đành
phải kết hôn với một người bạn ở châu Mỹ la tinh, và anh bạn trạng sư về
sau cứ tiếc ngơ tiếc ngẩn. Gặp tôi ông trạng sư si tình còn tự hỏi
thầm: “Không biết bây giờ thì cô đọc thơ tình của Xuân Diệu cho ai
nghe?”...
Chắc chắn là không còn đọc cho
ông trạng sư nghe nữa. Chính câu chuyện này người bạn trạng sư Việt kiều
đã kể cho anh Xuân Diệu và tôi nghe tháng 11-1981 lúc anh Xuân Diệu
sang Paris để diễn thuyết về văn thơ Việt Nam tại trường đại học
Sorbonne.
Bà bán hoa, cô bán thịt chó, và bà hành khách đi tàu hoả đối với nhà thơ Xuân Diệu
Cách
đây hơn 10 năm, khi còn chống Mỹ cứu nước một hôm anh Xuân Diệu đến mua
hoa ở cửa hàng hoa trên bờ hồ Hoàn Kiếm. Anh thích hoa hồng và tỉ mỉ
chọn được 5 bông hoa vừa ý, và rút ví để trả tiền thì bà bán hoa nói:
“Sao ông lấy ít hoa thế, mùa này hoa đẹp, ông lấy vài chục bông về cắm ở
phòng, vừa đẹp vừa thơm. Hoa ái tình mà”. Anh Diệu nói “Hoa thì đẹp
nhưng tiền thì không nhiều!”. Bà hàng hoa đáp: “Có bao nhiêu đâu? Xin
biếu nhà thơ. Yêu là chết ở trong lòng một ít mà?”. Thì ra bà hàng hoa
rất thuộc thơ Xuân Diệu và rất quí nhà thơ, anh Xuân Diệu cảm động và
cảm ơn và nói đùa thêm: “Cho rất nhiều nhưng chẳng nhận gì cả?” câu thơ
của anh là “Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”...
Năm
1983, một hôm anh Diệu ra chợ Hàng Bè tìm mua thịt chó. Anh gặp được
một chỗ bán thịt mềm và ngon, mua nửa ki lô, toàn thịt không lấy
xương... Hỏi giá bao nhiêu thì cô hàng thịt chó cho biết là 50 đồng nửa
ki lô anh Diệu hơi ngần ngừ vì cảm thấy hơi đắt.
Cô
hàng thịt nói “Xin nhà thơ cứ lấy, em chỉ tính 30 đồng thôi, và nếu nhà
thơ quen hầm vó cầy, thì em xin biếu luôn bộ vó này để nhà thơ có thêm
hứng mà làm thơ”. Thì ra cô này cũng rất thuộc thơ Xuân Diệu.
Anh
Diệu vừa trả tiền vừa cảm ơn “Cô biếu tôi nhiều quá”, thì cô hàng lại
nói: “Có nghĩa gì đâu một buổi chiều” (câu thơ trong bài Vì sao). Từ đó
trở đi, cần ăn thịt chó thì anh Diệu lại ra chợ Hàng Bè tìm cô bán hàng
thịt chó rất thuộc Thơ thơ...
Năm 1982,
anh Diệu đi từ Tuy Hoà ra Qui Nhơn bằng xe lứa. Lúc ở ga Tuy Hoà lên xe
thì trong toa tầu tối mịt người chen chúc nhau rất lộn xộn, anh Diệu tay
xách tay mang tìm chỗ đặt một chân cũng không được chứ đừng nói là có
chỗ ngồi. Anh Diệu phải nói to lên: “Thì các bà cũng phải để cho tôi chỗ
đứng với chứ?”. Sau đó vài phút, có một anh thanh niên tìm đến chỗ anh
Diệu đứng và nói: “Má em mời nhà thơ đến ngồi đằng này với chúng em
không thừa chỗ, nhưng em xin đứng để nhà thơ ngồi”. Anh Diệu hỏi sao
biết tôi mà tìm đến giúp thì anh thanh niên nói: “Má em nghe tiếng của
nhà thơ, nhận ra cái giọng đặc biệt của nhà thơ hôm nhà thơ nói chuyện ở
Tuy Hoà, cho nên bảo em đến mời nhà thơ ngồi đằng này cho thoải mái một
chút.... Đại khái cảm tình của quần chúng bình thường đối với nhà thơ
Xuân Diệu là như vậy, một thứ cảm tình tự nhiên, tưởng như mộc mạc, mà
thật là một mối cảm tình sâu sắc đầy sự cảm nghĩ của những người có cuộc
sống bên trong sâu lắng, yêu mến cái đẹp, yêu mến văn thơ. Những chuyện
như chuyện tôi vừa kể còn nhiều lắm trong đời anh Xuân Diệu, lúc khác
tôi sẽ kể thêm. Anh Xuân Diệu cũng biết cái “thế mạnh” của mình, nên
trong khi giao thiệp với người này người kia, với cơ quan này, cơ quan
kia, anh cũng nói vui: “Tôi là đồng chí Xuân Diệu, đồng chí nhà thơ Xuân
Diệu đây”, tôi xưng danh chỉ có thế” rồi anh cười xoà...
Một bà má ở Mỹ Tho muốn gả con gái cho Xuân Diệu
Lúc
anh làm tham tá nhà đoan ở Mỹ Tho anh ở nhà bà Nguyễn An Ninh ở phố bờ
sông Bảo Định (tôi sẽ kể sau với những năm tháng ở nhà bà Ninh). Nhưng
thỉnh thoảng anh có đến chơi nhà một bà má khá giàu sang ở gần Sở anh
làm việc, bà má người hiền lành nhưng cách ăn nói rất mực thước vừa thân
tình mà cũng vừa lịch thiệp. Bà có một cô con gái khá xinh, đã học qua
bậc tiểu học rồi ở nhà lo việc gia đình với bà. Thỉnh thoảng hai mẹ con
về quê (trong đó gọi là về vườn) mang nhiều hoa quả của ngon vật lạ ra
Mỹ Tho. Theo cách hiểu bây giờ thì tôi nghĩ rằng đó là một bà địa chủ cỡ
vừa ở cái đất phì nhiêu của đồng bằng sông Cửu Long. Không thấy chồng
bà ra Mỹ Tho bao giờ, hoặc giả bà là quả phụ, nhưng cũng không thấy bà
nói chuyện ấy.
Anh Diệu đến chơi nhà thì
bà rất quí, bà cũng biết anh Diệu là nhà thơ nổi tiếng, nhưng bà cứ gọi
anh Diệu là “Ông tham biện” trước mọi người. Nhưng khi hai người nói
chuyện riêng với nhau thì bà xưng má với anh Diệu và gọi anh Diệu là con
một cách rất tự nhiên. Cứ má má, con con như thế hàng tháng giời, anh
Diệu cũng thấy êm ái và nghĩ rằng đó là tình cảm trìu mến của một bà má
Nam bộ đối với một người trí thức ở Hà Nội vào, nhất là đối với một nhà
thơ. Và bà cùng cô con gái đã làm những bữa cơm thật ngon có cá chà
bông, có canh chua theo kiểu Nam bộ, có cơm gạo nanh chồn nấu với nước
dừa... để chiêu đãi anh Diệu những chiều thứ bảy hoặc trưa chủ nhật.
Chính tôi cũng đã được hưởng thụ những bữa cơm ngon đó khi vào thăm anh
Diệu những dịp nghỉ hè. Mãi mà bà má không thấy anh Diệu ngỏ ý, bà má
đâm ra nóng ruột và có một hôm giọng rất tâm tình bà hỏi nhỏ anh Diệu:
“Vậy chớ con đã có ý định làm duyên với ai chưa, đã có ba má nào trong
này nhận con làm con chưa?”. Lúc bấy giờ anh Diệu mới hiểu ra rằng bà má
muốn gá con gái cho mình mà có sự săn đón thân tình đối với anh gần
trong một năm giời. Tất nhiên là anh có những lời thối thác, và rút lui
“có trật tự”. Tuy vậy thỉnh thoảng anh vẫn đến thăm bà má này, vì bên
cạnh tấm lòng người mẹ lo gả chồng cho con gái, vẫn có tấm lòng trìu mến
của một bà má Nam bộ đối với một người trí thức ở Bắc vào...
Đem má anh Diệu tập kết ra Bắc
Tháng 10-1954, chúng tôi về Hà Nội, thì anh Diệu và tôi tìm hỏi ngay việc tập kết
cán bộ và gia đình cán bộ ở Khu 5 ra Bắc như thế nào. Anh Diệu rất lo
lắng và không biết có thể đem má mình ở Gò Bồi (Bình Định) ra Hà Nội
sống với mình được không. Tôi tìm hỏi mãi thì liên lạc được với đồng chí
Minh (lúc đó là khu uỷ viên của Khu 5, và bây giờ là uỷ viên của Mặt
trận Tổ quốc) là người đang phụ trách sắp xếp việc đưa gia đình các cán
bộ tập kết
ra Bắc với con mình. Thế là may quá anh Diệu và tôi đến trình bày
trường hợp cụ thể của bà má anh Diệu (là bà Nguyễn Thị Hiệp), lúc đó
đang sống ở Gò Bồi, đơn chiếc không ai chăm nom, mà nếu phải ở lại với
chính quyền nguỵ thì sẽ điêu đứng và nguy hiểm cho bà. Đồng chí Minh hết
lòng giúp đỡ, liên hệ với trong Bình Định, nhờ người của ta trong đó đi
tìm bà má và bố trí cho bà được cùng ra với một số đông cán bộ tập kết trên một chuyến tàu Ba Lan lúc đó chở cán bộ tập kết
từ Khu 5 ra Hà Nội. Như vậy là sau bao nhiêu năm mẹ con xa cách, anh
Diệu lại được đón mẹ đẻ của mình về cùng sống với mình tại ngôi nhà 24
Điện Biên Phủ cùng gia đình của tôi. Bà má anh Diệu đã sống một đời đau
khổ, như đã kể rõ trong chương trình nói về tuổi nhỏ anh Diệu, nên bà
sinh tính hơi rụt rè, nói rất nhỏ nhẹ, đi đứng âm thầm. Và bà rất dễ tủi
lòng. Có đôi khi
anh Diệu bực mình một việc nhỏ gì đó nói hơi to tiếng (không phải là to
tiếng với mẹ đâu) thì bà má cũng thấy tủi cực và lủi thủi đi xuống bếp.
Thế là anh Diệu hối hận lại phải xuống an ủi má, có khi hai má con cùng
ứa nước mắt. Bà má biết tôi là bạn thân của anh Diệu, bà cũng rất
thương tôi và đi chợ mua được quà gì cho anh Diệu ăn thì bà cũng chia
phần cho tôi từ quá chuối đến cái bánh giò, đến miếng mít... Bà má cứ ăn
bận áo quần bà ba đen, theo kiểu đồng bào Khu 5 và Nam bộ, anh Diệu
muốn may áo cánh trắng hay là áo màu nâu cho bà, bà cũng không chịu mặc.
Nỗi đau khổ lớn về tình cảm của hai mẹ con trong thời thơ bé của anh
Diệu cứ đeo đẳng bên anh nên anh tìm mọi cách để làm vui lòng má chăm lo
từng miếng ăn, từng miếng trầu, từng chén nước. Bà má đã mất trong
những ngày còn chống Mỹ cứu nước... Nay Tịnh Hà đã đưa gio bà má về
thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi suýt chết đuối ở sông Đáy
Cuối năm 1949, lúc tôi mới từ Bộ Kinh tế trở về Phủ thủ tướng làm Thứ trưởng Tổng thư ký Hội
đồng Chính phủ, một hôm đi họp về, nước sông Đáy hơi to, tôi cưỡi con
ngựa đen (anh em gọi đùa là con ngựa Xích thố), tìm một chỗ sông cạn để
lội qua, nhưng mọi chỗ đều đã sâu.
Tôi đành ôm chặt bờm ngựa, cho ngựa bơi qua sông, hai chân kẹp chặt vào bụng ngựa, trên vai vẫn mang ba lô.
Ngựa
bơi chỗ nước sâu, nước chảy hơi mạnh, con ngựa vẫn ngẩng đầu lên bơi
rất thong thả, còn tôi thì nước đã ướt cả quần và ướt cả đến bụng vì có
lúc lưng con ngựa cũng chìm xuống một chút. Trong bụng tôi hơi run,
nhưng hai tay bám chặt bờm ngựa, và cố ngồi thật yên để giữ thăng bằng,
vì tôi không biết bơi, hay nói cho đúng hơn lúc tắm sông bận quần đùi
tôi chỉ bơi được mươi thước.
Nếu bây giờ
con ngựa chòng chành mà tôi rơi xuống sông thì nhất định chết đuối. Thế
rồi ngựa bơi được sang bờ bên kia, và tới bờ nó chạy nhanh lên chỗ gò
đất cao thì tôi ngã xuống cả ba lô trên lưng, vì cái dây thắng đái đã
đứt lúc nào không biết trong lúc ngựa còn bơi qua sông. Thế nghĩa là chỉ
cần một chút chòng chành của lưng ngựa khi đang bơi, là cái bành lật
nghiêng và tôi sẽ chết đuối... Thật là hú vía, may mà sông hôm ấy nước
to nhưng nước chảy không thật mạnh lắm, không có những chỗ nước xoáy.
Con ngựa rất khôn, nó lên gò đất cao thấy tôi ngã, nó dừng lại chờ chứ
không chạy thẳng về nhà nơi tôi ở. Sau một vài phút bàng hoàng, tôi lại
đứng dậy mang ba lô lên người và nối lại dây thắng đái, buộc bành vào
lưng ngựa và rất cẩn thận nhẹ nhàng lên ngựa đi lững thững về nhà cụ
Muỗi, một đồng bào người Tày ở trong xã Tân Trào, nơi tôi ở gần hai
tháng trời trước khi vào ở trong Lán của ATK (an toàn khu) của Chính
phủ.
Từ đó về sau, tôi vẫn đi ngựa, nhưng
mỗi lần trước lúc đi đều nhờ đồng chí bảo vệ là anh Lư kiểm tra thật kỹ
dây thắng đái của ngựa... Con ngựa Xích thố này về sau bị vết thương
trên lưng, tôi cho rắc thuốc sunfamít chữa lành nhưng rồi lại bị xước và
ung nhọt trở lại... Tôi nghỉ không đi ngựa hàng tháng, thế rồi con ngựa
chết, nó chết ban đêm, đến trước cửa phòng tôi ngủ mà chết. Thật đúng
là khuyển mã chi tình.
Đồng chí Trường Chinh dặn tôi đừng tịt thơ
Một
chiều cuối năm 1947, trời đã trở rét, tôi đang đứng chờ trên bờ sông
Đáy để chờ bè chở sang sông đi họp Hội đồng Chính phủ thì gặp đồng chí
Trường Chinh vừa đi đến. Trong lúc chờ bè đồng chí Trường Chinh hỏi
chuyện tôi công việc trong Chính phủ, về việc vận động tăng gia sản xuất
(vì lúc đó tôi phụ trách Bộ Canh nông). Rồi đồng chí với một giọng thân
tình hỏi tôi: “Thế nhà thơ Huy Cận có còn làm thơ nữa không, hay là bận
việc Chính phủ thì tịt mất thơ?”. Tôi trả lời là “vẫn tiếp tục làm một
số bài nhưng thấy làm thơ khó hơn trước”. Đồng chí Trường Chinh vui vẻ
nói với tôi: “Làm thơ đương nhiên là khó, huống chi hồn thơ bây giờ cũng
có khác trước khác lúc anh làm tập Lửa
thiêng. Nhưng bây giờ làm cách mạng rồi, có hào khí mới thì làm thơ
càng hứng thú chứ sao. Nhất định nhà thơ Huy Cận phải tiếp tục làm thơ,
và làm thơ nhiều, dồi dào hơn trước nữa. Nếu Huy Cận mà tịt thơ thì là
có tội với Đảng với cách mạng, vì người đời sẽ bảo rằng vì theo cách
mạng, vì đi làm cách mạng mà nhà thơ cạn mất nguồn thơ. Cho nên làm công
tác gì thì đồng thời Huy Cận phải làm thơ....
Dặn
tôi rồi anh bắt tay đi, với một nụ cười rất thân tình. Tôi cứ nhớ mãi
câu chuyện dặn tôi làm thơ bên bờ sông Đáy buổi chiều mùa đông năm ấy.
Sau này tôi tiếp tục làm thơ nhiều, dồi dào như đồng chí Trường Chinh
nói, với tất cả cái hào hứng của một người nghệ sĩ ở trong phong trào
cách mạng, sống trong cái luồng hào khí của nhân dân, của dân tộc sôi
nổi làm cách mạng. Và mỗi lần tập thơ
mới của tôi ra đời thì tôi lại gửi tặng đồng chí Trường Chinh, với dòng
chữ báo cáo với anh là tôi không tịt thơ, vẫn sáng tác đều như anh dặn.
Hôm nay, viết đoạn hồi ký này, tôi đã có 18 tập thơ xuất bản, và có tuyển tập thơ
sắp phát hành, ngoài ra còn hơn 400 bài thơ đã hoàn thành mà chưa đăng
báo, chưa in sách. Tôi kể lể như vậy, để nói lên lòng cảm ơn một đồng
chí lãnh đạo đã có tấm lòng tri kỷ đối với một người làm thơ như tôi.
Lúc anh Trường Chinh cho xuất bản cuốn sách Chủ nghĩa Mác và văn hoá
Việt nam trong thời kháng chiến chống Pháp, anh cũng có tặng tôi một bản
với một lời đề tặng rất khích lệ...
Xuân Diệu đấu tranh chống cảnh sát Tây ở phố Hàng Bông
Tôi
nhớ lúc bấy giờ là mùa hè 1943, anh Diệu bị gãy tay (vì bị ngã xe đạp)
tay đang bó bột treo lên bằng một sợi gạc buộc vào cổ. Anh đi dạo về nhà
đến đầu phố Hàng Bông thì gặp một cuộc cãi cọ giữa mấy người đi đường
với tên cảnh sát Tây đi qua đó. Anh Diệu hỏi sơ qua câu chuyện thì hiểu
rõ thằng cảnh sát Tây có lỗi nhưng nó ỷ thế ỷ quyền quát mắng những
người mà nó đã đâm xe đạp vào. Mấy người này có sự ủng hộ của bà con đi
đường vây quanh thằng cảnh sát nhưng không ai nói tiếng Pháp thạo, nên
thằng cảnh sát cũng có vẻ có thế áp đảo.
Anh
Diệu mặc dầu tay đau, xông tới mắng thằng cảnh sát bằng những lời lẽ
khá mạnh, và bằng một lời văn tiếng Pháp rất đanh. Thằng cảnh sát ngạc
nhiên một phút, nhưng rồi cũng làm oai với cả anh Diệu, và nó có nói:
“Nếu anh không im thì tôi sẽ mời anh về bót”. Anh Diệu nổi nóng lên,
càng nói hăng lên, và đám người dừng lại giữa phố càng ủng hộ sự phê
phán của anh Diệu. Cũng lúc ấy thì tôi đi xe đạp ở vườn Bách Thảo về đến
chỗ đang có cuộc đấu tranh. Tôi cũng nói bồi thêm những lời phê phán
cần thiết...
Thằng cảnh sát Tây thấy núng
thế, lên xe đạp chuồn thẳng về phía Bờ Hồ... Và còn nói lời hăm doạ
“chúng bay đều là bọn chống Pháp, sẽ biết tay các ông”.
Nhân đây cũng nhắc chuyện anh Diệu đã chống thằng hiệu trưởng trường Khải Định là Lafferandne, hồi anh
học năm thứ ba Ban tú tài (1936-1937). Thằng hiệu trường này là một lão
cáo già thuộc địa, rất hách dịch, rất khinh thường học sinh Việt Nam.
Anh Diệu bèn viết thư kiện thằng hiệu trưởng này với Sở học chính toàn
Đông Dương ở Hà Nội. Giám đốc học chính Đông Dương lại trả đơn kiện về
cho hiệu trưởng trường Khải Định. Thế là lão Lafferandrie lùng sục xem
chữ viết của học sinh nào dám kiện nó. Anh em trong lớp đều biết anh
Diệu viết đơn kiện, nhưng đều một lòng bảo vệ anh. Có lần lão hiệu
trường nhìn anh và nói “Anh coi chừng”. Thì anh Diệu thản nhiên trả lời:
“Ông bảo tôi coi chừng cái gì? Tôi là học sinh, có việc gì đã có hội
đồng giáo sư của trường xem xét....
Tên hiệu trưởng thấy anh cứng cựa, nó đành làm lơ bỏ đi...
Xuân Diệu viết bài cho Tạp chí Độc lập của Đảng Dân chủ trong thời kháng chiến chống Pháp
Lúc
bấy giờ anh Nguyễn Thành Lê làm chủ bút tạp chí này, cứ mỗi tháng ra
một số, in bằng giấy dó, giấy dó thì không phẳng lắm, có tờ lợn gợn từng
hạt như hạt thóc, mà mực in thì lại nhạt, cho nên báo đọc không được rõ
lắm. Tuy vậy Ban biên tập (mà linh hồn là anh Nguyễn Thành Lê), vẫn tập hợp
đủ bài để ra báo đều đặn. Cộng tác viên về mặt bình luận văn học chính
là anh Xuân Diệu, nhưng dưới những bài bình luận này lại ký tên Trảo Nha (Trảo Nha là tên xã quê hương của anh Diệu ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Nhưng Trảo Nha ký dưới
các bài này cũng có nghĩa, vì Trảo Nha có nghĩa là răng và vuốt như là
nanh vuốt, vì đây là những bài phê bình, có khi là bút chiến gay gắt.
Tôi đặc biệt nhớ bài của Trảo Nha bình luận về quyển sách Nguyễn Du và
quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Hoài Thanh. Tất nhiên là
anh Diệu cũng có lời hoan nghênh anh Hoài Thanh về công phu nghiên cứu
Truyện Kiều và nêu lên vấn để chu nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du trong
kiệt tác của mình. Nhưng Trảo Nha đã đặc biệt phê phán mạnh mẽ thái độ
của Hoài Thanh đối với Nguyễn Du khi nói: “Nếu Nguyễn Du sống đến ngày
nay, và sống giữa chúng ta thì chúng ta cũng sẽ mời cụ vào Hội Liên
Việt, dành cho cụ một chỗ ngồi trong Hội Liên Việt”. Câu nói ấy của Hoài
Thanh rất sai về cả hai phương diện: một là sai về thái độ xem thường
nhà thi hào Nguyễn Du, hai là sai về thái độ xem thường và có tính cách
mỉa mai đối với Mặt trận Dân tộc thống nhất (lúc đó là Hội Liên Việt)
Tất nhiên anh Hoài Thanh xem được bài của Trảo Nha cũng hơi bực mình,
nhưng ngẫm lại thấy Xuân Diệu phản ứng có lý, có lẽ, nên việc bực bội ấy
không thành chuyện. Vả lại cả hai người thật sự đều rất bái phục tài
thơ của Nguyễn Du, và đểu trân trọng đến mực tấm lòng ưu ái của Nguyễn
Du đối với số phận con người. Nhưng Trảo Nha không chỉ phê bình, mà
trong nhiều bài còn giới thiệu và biểu dương thơ của bộ đội, của lớp nhà
thơ trẻ...
Những năm tháng Xuân Diệu ở nhà bà Nguyễn An Ninh
Những
năm anh Diệu làm tham tá nhà đoan ở Mỹ Tho, anh ở trọ nhà bà Nguyễn An
Ninh (mà chúng tôi gọi thân mật là bác Ninh), ở phố dọc bờ sông Bảo
Định. Bác Ninh là vợ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh lúc đó đang bị đầy ra
Côn Đảo. Bác Ninh một mặt lo chạy chữa cho chồng khỏi bị đối xử nghiệt
ngã quá tại nhà lao Côn Đảo, một mặt lo nuôi cho con ăn học: con gái lớn
là Bình (nay là một kỹ sư công tác rất giỏi) con trai là Nguyễn An Định
(sau này là cán bộ thiết kế mỹ thuật ngành sân khấu, tập kết
ra Bắc, nay đã về Nam). Con trai út là Vĩnh, mà bác Ninh cứ thường gọi
là “Vĩnh cục vàng của má”. Anh Diệu ở đó cũng có bày vẽ chút ít cho các
em Bình, em Định học hành.
Lúc tôi
vào thăm anh Diệu nghỉ hè thì tôi cũng có dạy cho các em, mỗi tuần vài
buổi. Bác Ninh cũng có buôn bán chút ít và làm lạp xường rất ngon để bán
lên Sài Gòn. Anh Diệu và tôi ở trên gác, và trên gác này lạp xường cứ
treo lủng lẳng khắp bốn phía tường vừa thơm, vừa ngậy... Khi đầu chúng
tôi không quen mùi lạp xường hơi khó ngủ, nhưng rồi cũng quen dần và mỗi
lúc về nhà ngửi thấy mùi lạp xường lại thấy dễ chịu. Bác Ninh rất
thương hai chúng tôi, và thấy hai chúng tôi thân nhau trong một tình bạn
hiếm có như vậy thì bác càng quý. Có hôm bác nói vui “Tao nằm dưới nhà
mà cứ nghe hai anh em nói chuyện với nhau “Diệu Diệu, Cận Cận” thì càng
thương tụi bay.”
Có lần tôi đã đi theo bác
Ninh về Sài Gòn để gặp trạng sư Trịnh Đình Thảo, để nhờ trạng sư chạy
chữa cho nhà cách mạng Nguyễn An Ninh được đối xử tử tế hơn một chút ở
nhà tù Côn Đảo. Nhà bác Nguyễn An Ninh có một tủ sách tiếng Pháp vô cùng
phong phú mà nhà cách mạng Nguyễn An Ninh đã mua góp trong hàng chục
năm trời. Chính ở đó tôi đã được đọc những bộ sách quý giá về triết học,
về thơ (như thơ Tao, thơ Heine, thơ Omar-Khayam, thơ Gớt-tơ, thơ
Sin-le...).
Bác Ninh nay đã mất, bác để
lại trong lòng chúng tôi hình ảnh của một bà má miền Nam trìu mến, hình
anh của một người vợ gương mẫu, đảm đang nuôi con trong lúc chồng bị cầm
tù vì hoạt động cách mạng.
Sau đây là bài Giọt lệ Hoàng Mai, tôi đã viết sau chuyến về thăm quê vào mùa hè năm 1941.
Giọt lệ Hoàng Mai
Mẹ Quê hương! Con đã khóc thầm với mẹ! Con đã
khóc những giọt lệ nóng nhất của lòng con. Nhìn Mẹ
mà không thương sao được? Mặt non sông yêu mến, ở người toả ra một nỗi niềm chi mà lòng ta thổn thức, bồi hồi.
Ta nhìn giang sơn, non nước thì lòng ta tan thành nước mắt. Ôôi quê
hương bởi vì đâu là lòng ta thương yêu lại hoá ra xa xót, ngậm ngùi? Anh
em ơi, đã nhìn mặt Mẹ bao giờ chưa?
Một
ngày giữa hè ta từ Hà Nội về thăm nhà. Chiếc tàu chợ chậm rãi, cần cù
lê thê dọc ngày, mãi xế chiều mới về đến xứ Nghệ. Nắng không oi lắm,
nhưng ngọn gió Lào – như tiếng rú của mấy con thú đau thương - cứ phần
phật tạt qua từng loạt. Ánh nắng chân trời thì trong, nhưng sát mặt đất
hơi mờ mờ vì bụi dấy lên từng lúc. Trời đất như cặm cụi làm việc gì khó
khăn, phải bền gan, vững chí mới làm được. Núi gần bên cây cổi cỗi cằn,
cỏ vàng úa, ngọn cháy sém bời gió thiêu; núi đứng từng đoàn, kết hợp mà
ngó như cô đơn, bời ngôi nào cũng như quả quyết đứng lại ở đây trấn thủ
cho một ý mạnh gì. Này dưới chân núi, ruộng cạn, đất nứt nẻ khắp nơi;
đám lúa trỉa không ngất đầu lên được dưới ngọn gió thép, và dưới trời
cháy lặng. Ngọn lúa sém nức lên những tiếng khô, não ruột như hơi thờ
của một kẻ cùng lực. Này đôi bụi
mưng, bụi mốc giữa đồng những điểm xanh rải rác càng tăng thêm cái nặng
nề, cái không khí khó nhọc của đồng ruộng nồng khan. Chim ở đâu? Hoa
sao không thấy nở? Mà người cũng ẩn đâu? Từng hồi mới
gặp được cái áo nâu, chiếc nón thượng: người cũng như cầm sức lại, để
dành cho những lúc khó khăn hơn nữa, phải nỗ lực để giành với cái chết
một phần sự sống.
Tàu chậm rãi, cần
cù đi qua. Lòng ta lúc ấy không phân tích như ta vừa kể. Lòng ta cảm
thông thắm thiết trong giây phút với cõi đất này. Phân tích ra thì làm
tan mất cái ẩn ý của non nước mà ta cứ cảm nghe hiển hiện khắp chốn,
khắp nơi.
Có phải không, ở trên đông
lúa sém, trong dáng núi kiên gan, cả trong ngọn gió Lào hồng hộc, ta
nghe một linh hồn rắn rỏi vô cùng. Tưởng như ở đây là lò hun đúc những
bản lĩnh gang thép, bản lĩnh của cảnh vật nghĩa là bản lĩnh của người.
Sự sống đi đến đây dừng lại một chút, cô đặc hơn lên, để rồi còn đi xa,
trên con đường vạn dặm. Dòng nòi giống đến đây không còn long lanh, óng ả
như dòng sông mượt mà, mà đã trở nên một dòng thép chảy, nồng và nặng,
ấn sâu xuống đời. Gió Lào không phải là hơi thờ phơi phới của tuổi thơ.
Không! Đây tuổi đã đứng, đường đã đến một ngõ quyết định, nòi giống đến
đây thờ hơi thở quả quyết, nhọc nhằn nhưng không hề chán nản; trong hơi
thở ấy, tưởng toát ra cả hơi nóng của ruột gan, không thở luôn luôn, mà
thở từng hồi để
cầm sức. Nhưng cũng có cái vui của khí phách hào hùng, cái vui không tỏ
ra nụ cười, mà ở trong dáng đi tin tưởng, cái vui hiện ra nơi mắt nhìn
tròng trọc mà trong suốt thay!
Đến đây là một chặng đường tối quan yếu của dân tộc; trước lúc đi xa hơn, giống nòi như kiểm soát lại sức mình.
Ngọn lúa hơi cằn bỗng trở nên oai hùng một cách lạ đồng ruộng nứt nẻ phải chăng là nét nghị lực trên mặt giang sơn.
Con
tàu chậm rãi đi qua. Sắp đến Hoàng Mai, ga lớn đầu tiên của xứ Nghệ,
Thanh Hoá phì nhiêu, mát dịu là thế, mà mới một quãng vào đây, sông núi
đã trở nên trầm hùng và gân guốc.
Tàu chạy
cách núi chừng nửa cây số, hai bên đường sắt là ruộng lúa và một ít
rau. Ta bỗng thấy như lòng Mẹ mở ra, bòn tất cả sức sinh sống còn lại
đem nuôi con. Mẹ gắng đến cái sức cuối cùng để sinh ra lúa, ra ngô ra
khoai, ra đậu mà nuôi đàn con đông đảo và lực lưỡng này. Đường sắt chạy
qua, tàu dằn trên đất, ta đau xót như thấy Mẹ ta đang nằm đó, đưa tay
qua lòng mà phân phát cho anh em ta máu sống. Tàu chạy cần cù, chậm rãi
bao nhiêu, ta nghe đất lại dội lên đau xót bấy nhiêu. Và ta không cầm
lòng ta được nữa, ta gục đầu vào thành cửa tàu, khóc nức nở, nước mắt
tràn nóng trên tay như máu uất tan ra: Ta khóc mãi cho đến quá xế chiều,
gần về chợ Thượng.
Giọt lệ Hoàng Mai! Giọt lệ non sông chảy qua lòng ta đó. Đã hơn năm rồi, từ buổi chiều hè ấy. Hôm nay kể lại, lòng ta vẫn bồi hồi xa
xót như lúc ấy, như bao giờ. Ta muốn nói chuyện với anh em ta, nói đến
cái nỗi niềm của sông núi. Nỗi niềm ấy phải là nỗi niềm chung của chúng
ta. Trong lòng thương yêu bao giờ cũng ẩn một bài học quyết liệt; nếu
không, yêu thương hoá ra chỉ là lời điệu văn hoa nói cho qua chuyện.
Khí
phách hào hùng của dân tộc: nghĩa rộng bao la. Giành lại quyền sống!
Giành lại quyền tư tưởng của giống nòi! Cha ông đã bấu vào sự sống trên
mảnh đất này, đã vật lộn với thiên tai và nhân hoạ dai dẳng mấy nghìn
năm.
Cha ông đã thắng cuộc, cha ông đã
sống, và cha ông đã có một điệu sông riêng. Điệu sống ấy bảo đảm cho
quyền sống ấy. Cái gang thép không chỉ phải thực hiện trong đời, mà còn
phải rạng ngời trong tư tưởng. Hôm nay ghi lại vài ý tâm sự với anh em,
qua ánh sáng một giọt nước mắt. Chớ ngại rằng bắt đầu bằng giọt lệ.
Những cuộc lên đường xưa nay đều đã bắt đầu sau một cơn nước mắt.
Huy Cận
Hà Nội 1942
Cuối
năm 1941 tôi tham gia hoạt động cách mạng trong Việt Minh, hoạt động ở
Hà Nội trong thanh niên, sinh viên, và trong giới trí thức khoa học.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Tập 2- S
Từ Đại hội Tân Trào đến sự sụp đổ của triều đình Huế
Trước
Cách mạng tháng Tám, tôi hoạt động ở Hà Nội trong Việt Minh và trong
đảng Dân chủ được giao nhiệm vụ cùng một số đồng chí khác, vận động sinh
viên và trí thức tham gia phong trào đánh Nhật, đuổi Pháp. Mùa hè năm
1945, phong trào cứu quốc ở Hà Nội rất sôi nổi. Sau khi ra đời chính phủ
bù nhìn Trần Trọng Kim thân Nhật, thì uy thế của Việt Minh càng lên
mạnh, có thể nói rằng trong tất cả các giới đồng bào thủ đô rạo rực một
tinh thần cứu nước, tin tưởng chờ đợi những hành động quyết liệt và
quyết định của Việt Minh. Các tổ công tác của chúng tôi cũng trong đà ấy
hăng say hoạt động mở rộng lưới tuyên truyền, tổ chức ngày càng nhiều
trí thức và thanh niên vào Việt Minh, mặc dù bọn hiến binh Nhật và bọn
Việt gian tay sai của chúng (như nhóm bọn “Võ sĩ đạo”, hay một nhóm sinh
viên Dại Việt trong Tổng hội sinh viên) hàng ngày lùng sục có khi bám
riết những hoạt động của chúng tôi.
Những tháng ấy, tôi cũng như một số đồng chí khác
thường không ngủ ở nhà, mà có khi lên ngủ ở Nhật Tân, ở Chèm Vẽ hoặc một
khu phố khác nơi mình ở (lúc đó nhà tôi ở phố Hàng Bông). Trong không
khí hoạt động sôi nổi và náo nức ấy, thì cuối tháng 7-1945, tôi được
Tổng bộ Việt Minh triệu tập đi
họp Quốc dân Đại hội tại Tân Trào (châu Tự Do, tỉnh Tuyên Quang). Tôi
cùng một số đồng chí khác rời Hà Nội vào một buổi chiều cuối tháng 7 oi
bức, bận áo quần nâu, với nét mặt và dạng người thì rất giống một đồng
bào nông dân vùng Nghệ Tĩnh, cho nên anh em bảo tôi là nguỵ trang rất
đạt. Chúng tôi thuê xích lô đạp qua cầu sông Cái. Đến giữa cầu, xe căm
nhông của quân đội Nhật còi inh ỏi, bác xích lô không thể đạp nhanh hơn
được, bọn lính Nhật xuống xe sừng sộ, đá túi bụi vào bác làm chúng tôi
vừa tức giận, vừa chờn (vì sợ lộ bí mật, cái giấy giới thiệu cuốn tròn
như điếu thuốc lá giắt trong nón, thì chúng tôi sẵn sàng búng cho nó bay
xuống sông Hồng, hoặc cho cả nón bay xuống sông, nếu như bọn Nhật lục
soát). Nhưng đến chỗ rẽ, xích lô của chúng tôi dạt vào một bên, và bọn
Nhật phóng xe đi thẳng. Sang đến Từ Sơn, chúng tôi chờ mãi người liên
lạc ở chỗ hẹn nhưng không gặp. Trời gần tối, chúng tôi đành quay về Hà
Nội, rất hồi hộp
và lên xe điện đi thẳng vào Hà Đông, tất nhiên là không thể về nhà. Vào
Hà Đông chúng tôi đi thẳng về làng Vạn Phúc và được đồng chí liên lạc
đưa về nhà anh Trong (sau này anh Trong đã hy sinh ở Nam bộ trong chuyến
Nam tiến đầu tiên). Ở Vạn Phúc thì rất yên tâm, vì đó là một cơ sở mạnh
của cách mạng, của Đảng.
Đêm hôm ấy, chúng tôi đang ngủ thì nghe mấy tiếng súng nổ, các đồng
chí trong nhà cho biết đó là tiếng súng trừ gian, và đội tự vệ của ta
đã khử được hai tên Việt gian định mò vào làng do thám. Sáng hôm sau
chúng tôi đi xe kéo lên bến Chèm, rồi từ đó đi đò dọc về phía Bắc Ninh.
Lên đi bộ về phía Từ Sơn lần này đồng chí liên lạc đã chờ sẵn chúng tôi ở
chỗ hẹn. Từ đó chúng tôi đi về phía sông Cầu, qua một vườn dâu xanh
mượt, lá cành che kín, rồi xuống bãi sông đáp đò ngang sang bờ bên kia.
Qua bờ cũng lại đi qua một bãi dâu xanh kín rồi mới lên đường. Bước lên
đường thì không khí khác hẳn: những nam nữ tự vệ bận áo quấn đen, lưng
đeo mã tấu, đi lại khẩn trương và dẫn chúng tôi đến gốc một cây đa to. Ở
đó đã thấy người người ngồi nghỉ chân, chắc là chờ đợi liên lạc. Một
nồi cơm to (chừng là nồi mười) đã chín và bên cạnh là một thùng canh bí
rất to. Chúng tôi xúm xít ăn cơm ngay tại gốc cây đa, chỉ có cơm và canh
bí với muối ớt mà ai nấy ăn rất ngon miệng.
Tôi vừa ăn vừa nhìn ra chung quanh, thấy những khẩu hiệu bằng phấn
trắng trên các bảng gỗ ở các cổng đi vào từng nhà: “Việt nam độc lập”,
“Chính quyền nhân dân muôn năm”... Thì ra đây đã là khu giải phóng. Tôi
mường tượng ngày xưa cha ông khởi nghĩa ở Lam Sơn, hay ở Bình Khê có lẽ
không khí cũng như thế này. Đó là lối liên tưởng lịch sử hơi văn chương
một chút của một cán bộ trí thức hoạt động ở Hà Nội lần đầu tiên tiếp
xúc với quần chúng cách mạng ở khu giải phóng. Cùng đi đường với nhóm
chúng tôi có anh Trần Huy Liệu (lúc đó bí danh là anh Bút). Chân anh hơi
yếu, tôi phải dìu anh đi cho đến tận Tân Trào. Tôi có nghe nói nhiều
đến anh và anh cũng đã đọc thơ tôi, cho nên dọc đường hai anh em làm
quen nhau rất mau, và nói chuyện nhiều về thời cuộc đã đành, về lịch sử,
về văn chương nữa, làm quên nỗi mệt đi đường. Chúng tôi đến Văn Lãng
thì được tin Nhật đầu hàng, và ai nấy đều cố gắng đi nhanh chân để chóng
đến Tân Trào. Xế chiều 14-8 thì đoàn chúng tôi đến xã Tân Trào, tinh
thần rất phấn chấn, nghe các câu chuyện ở khu giải phóng càng náo nức.
Cờ đỏ sao vàng thêu rất đẹp không to lắm, được treo trên một cột tre
cao, và vài ngọn khác được treo lên cây đa. Thấy trụ sở Việt Minh của xã
(một cái lán nhỏ), chúng tôi cũng trám trồ.
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp
ở đình làng Tân Trào. Ở ngoài nhìn vào, phía bên trái là một cuộc triển
lãm nhỏ, có những ảnh, những báo treo trên cây, đó là các báo cách mạng
như Việt Nam độc lập, như Cờ giải phóng, và một số ảnh của khu giải
phóng. Phía bên phải ở trên sàn đình kê những ghế dài bằng cây tre là
nơi Quốc dân Đại hội hội họp. Có gần một trăm đại biểu cả ba miền Bắc,
Trung, Nam về dự.
Anh Khuất Duy Tiến và tôi được cử là thư ký đoàn
của đại hội. Mở đầu đại hội, đồng chí Trường Chinh Tổng bí thư của
Đảng, đã thay mặt Đảng đề ra chủ trương: Nhân dân Việt Nam phải triệt để
lợi dụng sự thất bại của phát xít Nhật mà nổi dậy giành lấy chính quyền
từ tay Nhật và bọn bù nhìn tay sai của Nhật trước khi quân đội Đồng
minh vào Đông Dương và phải đứng địa vị chủ nhân của nước nhà tiếp quân
Đồng minh nếu họ vào tước vũ khí quân đội Nhật. Đại hội nhất trí hoan
nghênh chủ trương của Đảng đề ra và quyết định phát động tổng khởi nghĩa
trong cả nước. Sau đó Quốc dân Đại hội đã bầu ra Uỷ ban dân tộc giải
phóng cả nước gồm 15 người đứng đầu là Cụ Hồ Chí Minh. Tôi được bầu vào
Uỷ ban dân tộc giải phóng. Lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ là ở Đại hội
Tân Trào này. Buổi chiều, lúc đại hội sắp khai mạc, tôi và một số đồng
chí ra trước cửa đình Tân Trào. Chúng tôi đang nói chuyện với nhau thì
thấy một ông cụ mặc bộ quần áo cũ màu chàm, đội mũ cát két, ngồi xuống
nền đình, dựa vào cột đình, sát phía sau đại biểu sắp họp. Ông cụ thấy
chúng tôi đang nói chuyện với nhau, giơ tay ngoắt tôi lại và hỏi: “Đồng
chí hoạt động ở tỉnh nào về?”. Tôi được anh em đại biểu khác cho biết đó
là Cụ Hồ Chí Minh và cũng đã được anh em nói thầm lại cho nghe rằng: Cụ
Hồ Chí Minh tức là Cụ Nguyễn Ái Quốc. Thấy Cụ gọi lại và đột ngột hỏi
tôi như vậy trong người tôi có một nỗi bàng hoàng... nửa phấn khởi, nửa
lại run run, vì tôi mới bước vào hoạt động cách mạng chưa được bao năm,
cho nên trong phút đầu tiên tiếp xúc với lãnh tụ không khỏi bối rối. Tôi
đáp lời một cách ngập ngừng: “Thưa Cụ con mới hoạt động ba bốn năm tại
Hà Nội trong đám anh em sinh viên, trí thức, nhất là trí thức khoa học.
Con cũng theo đòi Cụ và các anh đi trước góp phần nhiệt huyết của mình
vào phong trào....
Ông Cụ liền mỉm cười và giơ tay bảo tôi ngồi xuống thong thả nói
qua giọng hơi mệt vì sốt rét vừa qua: “Chú còn thanh niên, chú hoạt động
trong anh em sinh viên, trí thức là rất tốt. Còn làm cách mạng thì
không phân biệt người trước người sau, người hoạt động lâu năm với người
mới vào phong trào, cốt nhất là có nhiệt huyết với sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Người mới vào phong trào mà làm việc hăng hái thì cũng có thể
đóng góp cho sự nghiệp chung. Chú cứ yên tâm mà hoạt động với các đồng
chí”. Rồi Cụ lại nói chuyện khác với các đồng chí khác. Lúc Quốc dân Đại
hội Tân Trào bế mạc thì Bác cùng toàn thể Uỷ ban dân tộc giải phóng
toàn quốc vừa được bầu ra đọc lời tuyên thệ. Anh Trần Huy Liệu đọc mấy
lời thề trước bàn thờ Tổ quốc có đốt hương nghi ngút đặt trước đình Tân
Trào. Bác và chúng tôi trong Uỷ ban dân tộc giải phóng đều giơ tay xin
thề. Ba đồng chí đội viên của Giải phóng quân đứng trên phiến đá to
trước sân đình bắn ba loạt đạn ầm vang cả các vách núi chung quanh.
Không khí rất trang nghiêm và thiêng liêng. Liền sau đó có
một đoàn đại biểu nhân dân xã Tân Trào ra mừng Uỷ ban dân tộc giải
phóng. Một cụ già áo quần không được lành lặn lắm, áo hở đôi tay,
một chị phụ nữ áo chàm gọn ghẽ và một em bé mặc một chiếc áo rách và
bụng để trần hơi ỏng. Em bé đứng khom lưng, hai tay em vòng ấp ngực, vai
em hơi sưng: ông cụ xách một bu gà, chị phụ nữ xách cái giỏ có con lợn
con và một nải chuối xanh. Chị phụ nữ nói: “Nhân dân Tân Trào không có
gì, xã nghèo chỉ có mấy con gà, nải chuối và con lợn giống mừng Uỷ ban
dân tộc giải phóng mới được bầu, xin chúc Uỷ ban lãnh đạo nhân dân. giải
phóng cả nước”. Cụ Hồ Chí Minh liền bảo: “Uỷ ban ban xin cử đồng chí
Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch Uỷ ban, cảm ơn đoàn đại biểu”. Anh Trần Huy
Liệu bước ra nói mấy lời cảm ơn, nhưng lại quên không cảm ơn cụ thể chị
phụ nữ và gửi lời cảm ơn các phụ nữ trong xã. Cụ lại nhắc: “Đồng chí Phó
Chủ tịch phải cảm ơn các phụ nữ Tân Trào và phụ nữ cả khu giải phóng,
vì chị em góp công rất lớn vào công việc chung, vào phong trào cứu
quốc”. Anh Liệu lại ra nói mấy lời bổ sung và hứa với nhân dân Tân Trào
sẽ làm tròn nhiệm vụ mà quốc dân Đại hội giao cho và nhân dân nhắc nhở.
Sau đó, Bác Hồ lại ngồi xuống dựa vào cột đình và nói: “Chúng ta
trong Uỷ ban dân tộc giải phóng và tất cả các đồng chí cách mạng hãy nhớ
lấy lời thề, và hãy nhìn xem em bé này: Các cháu cùng tuổi với em bé
này ở các nước khác thì đã đi học và được đùa chơi; tuổi học và chơi của
các cháu ấy lại được ăn no mặc lành. Nhưng các đồng chí có biết cháu
này 9 tuổi ở trong làng làm gì không? Nó đã phải đi trâu, đi chặt củi,
cõng nước, mà áo không có mặc, để hở bụng xanh xao. Chúng ta làm cách
mạng để làm gì? Là để giải phóng dân tộc, là để cho nhân dân ta ấm no
hạnh phúc, để cho các cháu bé, con em chúng ta như cháu này đều được ăn
no mặc ấm, và được đi học. Nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc giải phóng là như
vậy. Chúng ta hứa với cụ già, đồng chí phụ nữ và cháu bé là phấn đấu hy
sinh để đạt được mục đích như vậy....
Mấy câu cuối, Bác nói với một giọng rất xúc động ngắt ra từng
tiếng. Giọng nói của Bác đi thẳng vào gan ruột người nghe. Chúng tôi
đứng chung quanh nhiều người rơm rớm nước mắt.
Cũng chiều hôm ấy dưới bóng cây đa Tân Trào đã có cuộc tiễn một đơn
vị Giải phóng quân lên đường tiến về Thái Nguyên, do đồng chí Văn chỉ
huy. Anh Liệu lại thay mặt Uỷ ban dân tộc giải phóng chào mừng đơn vị
Giải phóng quân và chúc đơn vị đánh thắng quân Nhật ở Thái Nguyên. Có
một đại biểu Mỹ (thay mặt quân đồng minh, mới nhảy dù xuống khu giải
phóng mấy hôm trước) cũng có mặt trong buổi tiễn đưa này và nói: “Đối
với chúng tôi chiến tranh đã kết thúc. Đối với các ngài, chiến tranh mới
bắt đầu. Chúc các ngài thành công”.
Chúng tôi còn ở lại Tân Trào một đêm một ngày nữa. Tôi nhớ đêm hôm
Đại hội bế mạc, Hồ Chủ tịch đến thăm anh Trần Huy Liệu, anh Trần Đức
Thịnh và các đại biểu ở cùng nhà. Tôi ở cùng nhà với anh Liệu cho nên
được nghe những lời Bác dặn. Anh Liệu và anh Thịnh là hai đồng chí hoạt
động đã lâu năm mà tính tình lại sôi nổi. Hai anh nghĩ rằng: Về Hà Nội
mà lại gặp bọn thực dân Pháp nhảy dù xuống hay đổ bộ vào là phải đánh
ngay. Tôi còn nhớ anh Liệu nói: “Mấy thằng Tây quèn quỳ gối đầu hàng
Nhật, chúng ló mặt ra là phải quét ngay”. Anh Thịnh cũng gật gù tán
thành.
Tôi nghe Bác giải thích, giọng chậm rãi, tiếng hơi khàn vì
còn mệt: “Chú nói mấy thằng Tây quèn nhưng cả đế quốc Pháp thì nó chưa
quèn đâu. Nhất định là nó lăm le cướp lại nước ta. Và nhất định là ta sẽ
đánh lại. Nhưng phải đánh như thế nào cho thắng, phải tích luỹ lực
lượng, không đánh theo kiểu một trận anh hùng rồi ra sao thì ra”. Sau đó
tôi nhớ Bác giải thích thêm: “Về, ta phải lợi dụng việc đồng minh vào
giải giáp quân Nhật làm cho đồng minh thấy ý chí độc lập của dân ta và
ta phải tổ chức lực lượng”. Tôi nhớ anh Liệu cũng ngẫm nghĩ nghe ra dần
lời bàn luận của Bác. Bác lại còn đưa cho chúng tôi xem lời kêu gọi của
Bác ký tên
là Nguyễn Ái Quốc gửi quốc dân đồng bào, và nói: “Các chú có ý kiến gì
thêm bớt không”. Bác nhắc lại: “Uỷ ban dân tộc vừa được bầu ra phải lãnh
đạo nhân dân nắm lấy cơ hội giành chính quyền, giành độc lập”. Và Bác
dặn: “Uỷ ban về xuôi thì một bộ phận vào Hà Nội, nhưng phải để một bộ
phận ở ngoài, phòng tình thế khó khăn và khi cần thiết. Các uỷ viên chia
nhau đi các nơi, đi vào Trung bộ Nam bộ để kịp thời kêu gọi đồng bào,
và tổ chức chống lại thực dân Pháp khi nó đổ bộ”. Tôi nhớ lúc đó Bác
gầy, má hóp, trên trán nhìn rõ nếp nhăn nhưng đôi mắt rất sáng, như cả tinh lực của Bác dồn cả vào đôi mắt.
Tôi biết Bác quê ở Nghệ An, nhưng nghe giọng Bác thì giọng trại đi
nhiều không còn rõ giọng Nghệ Tĩnh nữa. Ở Tân Trào ra về, tôi cùng đi
một nhóm với anh Nguyễn Lương Bằng và anh Trần Huy Liệu. Về qua Bắc
Giang, Bắc Ninh gặp nước lụt to, các cánh đồng nước bạc mênh mông những
lá cờ đỏ sao vàng rất tươi màu phấp phới trên các ngọn cau, nhìn rất
đẹp. Chúng tôi đi thuyền cặp bến Gia Lâm, từ Gia Lâm có mấy đồng chí đưa
ô tô đón về Hà Nội.
Mấy hôm sau Bác Hồ cũng về Hà Nội, mặc quần soóc, áo sơ mi ka ki,
đội một cái mũ cát và tay cầm ba-toong dáng rất khắc khổ, nhưng Bác đã
bớt mệt và bước đi của Bác rất nhanh nhẹn. Bác cử một đoàn đại biểu ba
người gồm có anh Trần Huy Liệu (trưởng đoàn), anh Nguyễn Lương Bằng và
tôi, thay mặt Chính phủ lâm thời vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại.
Trước khi chúng tôi lên đường, Bác dặn: “Đoàn có người nhiều tuổi, người
thanh niên giúp nhau mà làm việc cho tốt”. Bác dặn thêm tôi: “Chú trước
có học ở Huế, quen người quen cảnh chú phải giúp cho anh Bằng, anh Liệu
tiếp xúc với đồng bào trong ấy”. Chính phủ lâm thời đã điện cho Bảo Đại
yêu cầu thoái vị, và Bảo Đại cũng đã có điện trả lời chấp nhận yêu cầu
của Chính phu cách mạng và chờ đoàn đại biểu Chính phủ lâm thới vào để
làm lễ thoái vị và trao quốc quyền cho Chính phủ cách mạng.
Cách đây đúng 43 năm ngày 27 tháng 6 năm 1945, ba chúng tôi lên
đường vào buổi sáng bằng một chiếc xe hơi sơn đen, mượn của hãng xe STAI
(tôi nhớ hình như là xe Pô-giô).
Xe có sáu người: anh Bằng, anh Liệu và tôi, một đồng chí cán bộ
giúp việc, một đồng chí bảo vệ, và đồng chí lái xe. Chúng tôi mượn được
những bộ quần áo mới, khá sang, riêng tôi thì một người bạn cho mượn bộ
tờ-rô-pi-can mầu ghi rất lịch sự. Chúng tôi tính rằng đi xe suốt ngày
đêm thì khoảng 28 đến Huế và đã đánh điện cho Uỷ ban nhân dân cách mạng
Huế như vậy. Nhưng chúng tôi không thể tính đến việc nhân dân náo nức
đón đoàn dọc đường. Từ Hà Nội đến Ninh Bình, chúng tôi đi tương đối
nhanh, xe cắm cờ đỏ sao vàng. Hai bên đường đồng bào thấy xe đứng lại
chào và vỗ tay hoan hô.
Nhưng từ Thanh Hoá trở đi thì cứ khoảng mươi cây số lại có một đám
đông đồng bào cờ đỏ sao vàng rực chói đón chặn xe để chào mừng đại biểu
Chính phủ lâm thời. Chúng tôi giơ tay ngỏ ý xin đi thì có người nói:
“Cho chúng tôi nhìn mặt Chính phủ lâm thời một chút”. Chúng tôi nghe mà
ứa nước mắt.
Đồng bào hô khẩu hiệu khản cả cổ. Bốn tiếng “Chính phủ lâm thời”
sao mà thiêng liêng đối với tất cả mọi người đến thế! Cả đoàn chúng tôi
lại xuống xe chào đồng bào và chúng tôi quên cả oi bức, đồng bào và
chúng tôi quyện lấy nhau trong một tình cảm thiêng liêng dào dạt. Anh
Trần Huy Liệu đứng trên mui xe, nói chuyện rất hùng hồn, đồng bào nghe
rạo rực như nuốt từng lời. Bao giờ anh cũng bắt đầu bằng mấy câu: “Thưa
các đồng chí, thưa quốc dân đồng bào! Sau ngót 100 năm bây giờ nước ta
mới lại độc lập, dân ta mới lại nắm chính quyền đồng bào cả nước ta mới
thoát khỏi cảnh nô lệ bị áp bức, bóc lột và mới rửa được cái hận mất
nước tủi nhục của dân tộc ta. Có được sự vô cùng vinh quang như ngày nay
mà chúng ta khắc sâu trong tâm trí là nhờ ở tinh thần yêu nước, chống
ngoại xâm của đồng bào ta đã lên đến đỉnh cao chưa từng có, nhờ ở sự
tuyên truyền vận động và tổ chức của Mặt trận Việt Minh vô cùng sáng
suốt. Đồng bào cả nước đã nhất tề nổi dậy, hăng hái thực hiện lệnh Tổng
khởi nghĩa của Uy ban giải phóng dân tộc do quốc dân Đại hội ở Tân Trào
bầu ra.... Anh nói chừng mươi phút, tất nhiên đồng bào nghe còn thòm
thèm. Khẩu hiệu lại vang lên “Việt Nam độc lập muôn năm?”, có khi đồng
bào hô: “Việt Nam độc lập! Việt Nam độc lập!”
Từ Hà Tĩnh trở đi, những đoàn đồng bào ra đón dọc đường ngày càng
nhiều, càng đông. Có nhiều chặng đường xe phải dừng lại, thậm chí có
chặng đường cứ mỗi một cây số xe lại phải dừng để đoàn nói chuyện với
đồng bào. Hôm sau vượt đèo Ngang đến bến phà Ròn thì trời mưa tầm tã.
Trời đã chiều.
Đồng bào tập hợp
đông nghịt. Chúng tôi đề nghị đồng bào ra về kẻo trời mưa ướt hết. Đồng
bào trả lời: “Chúng tôi chờ đoàn dưới mưa đã từ trưa....
Thấy vậy, chúng tôi lập tức xuống xe, vào nhà thương chánh
(nhà đoan) cạnh bến phà để nói chuyện. Nhiều người nghe anh Liệu nói đến
cảnh nước mất nhà tan trước kia thì nước mắt cứ cháy ròng ròng, chúng
tôi cũng không cầm được nước mắt. Nhưng khi anh Liệu nói đến cuộc Tổng
khởi nghĩa của đồng bào ta từ Nam chí Bắc thì mọi người đều dạt dào phấn
khởi. Trời vẫn mưa như xối, mà sao lạ! Giữa rừng cờ đỏ sao vàng, với
những nét mặt đồng bào rắn chắc, vui mừng mà cương nghị, chúng tôi có
cảm giác như trời vẫn nắng khắp vùng. Qua phà lại một đoàn đồng bào đã
chờ tại bến. Cứ như thế cho đến Quảng Trị, đến Huế. Sáng 29 khoảng 9
giờ, chúng tôi đến bến phà Mỹ Chánh thì gặp đồng chí Tố Hữu, Chủ tịch Uỷ
ban khởi nghĩa Huế, ra đón. Anh giới thiệu đoàn với đồng bào và nói:
“Chính phủ này là của ta, thật sự là của ta”. Đoàn chúng tôi mãi đến gần
trưa ngày 29 mới đến Huế và đi thẳng tới sân vận động phía chợ Cống.
Đến đó, các đồng chí Uỷ ban nhân dân cách mạng Huế cho biết đồng bào đã tập hợp
ở sân vận động từ tối 27, suốt ngày 28 và từ sáng đến giờ để chờ đón
đoàn. Ở đó chúng tôi gặp anh Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Lao động trong
Chính phủ lâm thời, từ Đà Nẵng mới ra. Cuộc mít tinh trọng thể và náo
nức. Đồng bào diễu qua lễ đài, hô khẩu hiệu không ngớt, lại có một đoàn
đại biểu nữ của nhân dân tặng hoa đoàn. Ngay trong lúc mít tinh, ông
Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Ngự tiền văn phòng của Bảo Đại tiếp xúc với đoàn.
Buổi chiều 29, ông Hòe, áo dài đen, đội khăn chữ nhất đến gặp chúng
tôi tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cách mạng đóng tại toà khâm sứ cũ. Chúng
tôi đi ngay vào việc. Ông Hòe nói: “Nhà vua rất vui lòng thoái vị để
trao lại quốc quyền cho Chính phủ lâm thời, nhưng nhà vua có đề nghị mấy
việc: a) Xin Chính phủ đối xử với những người trong Hoàng gia như những
công dân (ý nói: không phân biệt đối xử). b) Đối với các quan lại cũ
của triều đình cũng xin Chính phủ cho phép tuỳ theo tinh thần, tuỳ theo
năng lực mà được đóng góp vào công cuộc giành độc lập. c) Đối với các
lăng miếu của nhà Nguyễn thì xin Chính phủ cách mạng đối xử “cho có sự
thể” (nghĩa là cho coi được, không phá các lăng tẩm).
Ông Hòe trình bày các đề nghị của Báo Đại và nói qua tâm trạng của
vua, cũng có ý nói ông đã góp phần thuyết phục Bảo Đại nhận ra thời cuộc
mà tự nguyện thoái vị. Thật ra, trước cuộc khởi nghĩa của nhân dân, Bảo
Đại đã phải đầu hàng và xin được thoái vị. Thật ra, quốc quyền đã được
nhân dân cả nước nổi dậy mà giành lấy trong cuộc Tổng khởi nghĩa thắng
lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chứ đâu phải do vua bù nhìn đã bị cách mạng đánh đổ “trao
lại” cho Chính phủ lâm thời?
Nghĩ vậy chúng tôi liền nói lại với ông Hòe là chính quyền đã về
tay nhân dân cả nước và chính sách của Chính phủ cách mạng là đoàn kết
toàn dân để giữ vững nền độc lập. Còn đối với lăng tẩm, cung điện của
triều Nguyễn thì không nên có một sự lo ngại gì. Đoàn đại biểu Chính phủ
lâm thời cũng có quy định thêm mấy điểm như sau:
1) Sau khi làm lễ thoái vị rồi, Bảo Đại phải ra khỏi hoàng cung và
được hưởng tất cả các quyền tự do dân chủ như mọi công dân khác.
2) Trừ những của cải thật là của riêng Bảo Đại Nam Phương và Từ
Cung (mẹ Bảo Đại) thì được đưa ra và tự do sử dụng, còn tất cả tài sản
khác và của triều đình đều thuộc về quyền sở hữu của Nhà nước cách mạng.
3) Các đền miếu, lăng tẩm của các vua triều Nguyễn đều do nhà nước cách mạng giữ gìn, việc lui tới thờ cúng ở đó được bảo đảm.
4) Lễ Bảo Đại thoái vị định vào chiều hôm sau ngày 30-8.
Ông Hòe lại nói: “Nhà vua thiết tha đề nghị lúc làm lễ thoái vị thì
cho treo cờ vàng một lần cuối cùng lên cột cờ Ngọ môn, rồi lúc tuyên bố
thoái vị xong thì sẽ hạ cờ vàng của vua xuống và kéo cờ đỏ sao vàng của
cách mạng lên”. Đoàn đại biểu Chính phủ lâm thời đồng ý. Cũng chiều hôm
ấy, ngày 29, trước khi vào thành nội gặp Bảo Đại, chúng tôi bàn nên
xưng hô thế nào. Nhất định là không gọi Bảo Đại là hoàng thượng, hay
ngài ngự, hay bệ hạ. Nhưng nếu gọi là “ông” thì nghe cũng mới quá. Sau
cùng chúng tôi nhất trí là sẽ dùng tiếng ngài.
Hơn 4 giờ chiều, xe của đoàn cắm cờ đỏ sao váng đi thẳng vào Ngọ
môn (tức là cửa chính chỉ mở trong những ngày lễ rất lớn, và trước đây
chỉ dành riêng cho vua và toàn quyền đi), và đến điện Kiến Trung nơi Bảo
Đại ở Đến đó, chúng tôi đã thấy ông Hòe chờ ở dưới tam cấp. Chúng tôi
bước lên, Bảo Đại vận áo dài xanh ra đón ở cửa diện. Chào hỏi xong, ông
ta nói đại ý rất sung sướng được trao quốc quyền lại cho Chính phủ lâm
thời. Theo lời ông ta, hơn 20 năm ông ta làm vua cũng chỉ “ngậm đắng
nuốt cay”, ý nói ông ta ra điều muốn phân trần “có những điều muốn làm
cho nước, cho dân cũng không làm được”.
Anh Liệu thay mặt đoàn đại biểu nói hoan nghênh vua thoái vị, và
nói rõ chính sách đoàn kết toàn dân, giữ vững độc lập của Chính phủ. Bảo
Đại nói xin nhận các điều khoản của Chính phủ lâm thời đề ra (do ông
Hòe đã trình bày lại) và cảm ơn đoàn về cách đối xử với lăng miếu.
Sau đó chúng tôi lại về toà khâm sứ cũ. Hôm sau ngày 30-8, đúng 4
giờ chiều, đoàn vào hoàng thành lên lầu Ngọ môn để tiếp nhận sự thoái vị
của Bảo Đại.
Đồng bào đã đứng chật cả bãi cỏ rộng trước Ngọ môn từ cửa Thượng Tứ
đến chân thành, ước chừng năm, sáu vạn người (của nội ngoại thành Huế).
Lên lầu Ngọ môn, chúng tôi thấy Bảo Đại đã chỉnh tề trong bộ hoàng bào,
đầu đội khăn vàng, chân đi giày cườm. Đó là lần cuối cùng ông vua cuối
cùng của nhà Nguyễn vận triều phục. Ông ta cùng ông Hòe đón chúng tôi
lên lễ đài. Có mấy vị quan cũng đi theo Bảo Đại trong buổi lễ. Tôi nhớ
có cả hoàng thân Vĩnh Cẩn.
Sau câu chuyện xã giao, buổi lễ bắt đầu. Trước hết
chúng tôi đọc bức điện mới nhận được của Hà Nội cho biết Chính phủ lâm
thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân tại Hà Nội vào 2-9
và Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ, sẽ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Chúng
tôi cũng đọc danh sách Chính phủ lâm thời cho đồng bào nghe. Đồng bào
vỗ tay và hô khẩu hiệu hồi lâu.
Sau đó Bảo Đại đọc bản tuyên bố thoái vị, đọc lẩm bẩm không rõ lời,
có lẽ một phần vì ông ta bị xúc động trong giờ phút đặc biệt ấy và một
phần vì ông ta không quen nói tiếng Việt hằng ngày.
Bảo Đại đọc xong thì cột cờ hạ cờ vàng của vua xuống và kéo cờ đỏ
sao vàng lên. Đồng bào vỗ tay như sấm dậy. Bảo Đại trao quốc ấn bằng
vàng, đúc từ đời Minh Mạng, nặng gần 10kg và quốc kiếm, vỏ bằng vàng nạm
ngọc nhưng lưỡi đã gỉ. Anh Liệu chuyển lại cho tôi và các đồng chí
trong Uỷ ban nhân dân cách mạng ấn và kiếm rồi đọc bản tuyên bố của đoàn
đại biểu của Chính phủ lâm thời. Đoàn mở đầu bản tuyên bố như sau: “Anh
chị em đồng bào? Lịch sử nước nhà đã đến một giai đoạn mới. Chính thể
đế chế đã phải nhường chỗ cho chính thể dân chủ cộng hoà. Đó là nguyện
vọng chung của toàn thể quốc dân và là bước tất nhiên trên con đường
lịch sử. Một điều mà chúng ta phải nhận là: Chính thể dân chủ cộng hoà
không phải tự nhiên được đem lại cho quốc dân mà là do sức đấu tranh lâu
dài của bao nhiêu chiến sĩ và nhân dân trong mấy chục năm nay. Cuộc đấu
tranh giành cho được nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn đi kèm luôn
luôn với cuộc đấu tranh giành độc lập cho xứ sở....
Bản tuyên bố đọc xong, mấy vạn đồng bào hô khẩu hiệu vang cả một
góc trời: “Chính phủ lâm thời muôn năm!” “Việt Nam độc lập muôn năm!
Việt nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!” Có một phút ngỡ ngàng cho Bảo Đại.
Ông ta lúng túng, không biết làm gì, nói gì. Một lúc sau ông ta nói:
“Bây giờ tôi được làm dân của nước độc lập. Xin đoàn đại biểu Chính
phủ cho tôi một vật gì làm kỷ niệm giờ phút này”. Sau khi trao đổi ý
kiến với anh Liệu, anh Bằng, tôi lấy một huy hiệu cờ đỏ sao vàng (mà Uỷ
ban Nhân dân cách mạng Huế đã gài vào áo chúng tôi) gài cho Bảo Đại và
đề nghị đồng bào hoan nghênh người công dân Vĩnh Thuỵ. Rồi Bảo Đại chào
chúng tôi ra về. Ông Hòe và các vị quan cũng theo Bảo Đại về lầu Kiến
Trung. Lễ thoái vị đến đây kết thúc.
Đồng bào rầm rập kéo ra cửa Thượng Tứ rồi tuần hành qua các phố từ
tả ngạn sông Hương, vượt cầu Tràng Tiền sang hữu ngạn, với cờ và khẩu
hiệu rợp trời.
Chúng tôi về đến Uỷ ban nhân dân cách mạng (toà khâm sứ cũ)
trời còn sáng. Nhìn về phía Ngọ môn, lá cờ đỏ sao vàng cao chót vót tung
bay trong gió. Sáng hôm sau, ngày 31-8, chúng tôi lên đường về Hà Nội
để kịp báo cáo với Chính phủ trước buổi lễ tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945.
Anh Lê Văn Hiến còn ở lại Huế một thời gian để cùng Uỷ ban Nhân dân
cách mạng Thừa Thiên và Uỷ ban Nhân dân cách mạng Huế tiếp quản hoàng
cung kiểm kê các tài sản của triều đình Huế và của vua (trừ những của
cải riêng của Bảo Đại) từ nay thuộc về quyền sở hữu của Nhà nước cách
mạng.
Thừa lệnh Hồ Chủ tịch anh Lê Văn Hiến đã đến thăm hai bà hoàng (vợ
vua Thành Thái, vợ vua Duy Tân) và tặng hai bà một số tiền. Hai bà hết
sức cảm động về cử chỉ ân cần của cách mạng. Bà Duy Tân khóc nức nở.
Sau khi giải phóng miền Nam tôi đã có dịp nhiều lần về thăm Huế.
Tôi thăm lại thành cũ và lầu Ngọ môn đã có nhiều phần đổ nát, do khí hậu
và một phần do chiến tranh. Điều lý thú là chính Nhà nước cách mạng của
chúng ta lại lo tu bổ các lăng miếu và cung điện của triều Nguyễn (có
lẽ quá sức ước vọng của Bảo Đại), vì chúng ta xem đây là những công
trình nghệ thuật của nhân dân và đã được xây dựng lên bằng mồ hôi, nước
mắt và xương máu của nhân dân nữa. Đã 45 năm rồi mà tôi thấy những sự
kiện như mới xảy ra ngày hôm qua. không khí Cách mạng tháng Tám, tinh
thần Cách mạng tháng Tám sao mà chói lọi thế, sao mà tươi tắn thế!
Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra đời với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc ở quảng trường Ba Đình chiều ngày 2-9-1945.
Nhân dân cả nước rạo rực, phấn khởi - chính quyền nhân dân địa phương
được thiết lập từ Nam chí Bắc, với Uỷ ban nhân dân các cấp (cấp miền,
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) Với sắc lệnh số 63 (xây dựng chính quyền
địa phương), các UBND sẽ đổi thành Uỷ ban hành chính.
Đúng 3 tuần sau ngày Tuyên ngôn độc lập, ngày 23-9-1945 giặc Pháp
với sự đồng loã của quân đội Anh (thay mặt đồng minh vào giải giáp quân
đội Nhật ở phía Nam) đã gây hấn ở Sài Gòn, cả nước lập tức chi viện cho
Nam bộ chống thực dân bằng những đoàn quân Nam tiến. Có những chuyến tàu
hoả từ Hà Nội ra đi chật ních thanh niên từ nhiều tỉnh dồn về, áo quần
đủ kiểu. Đồng thời mỗi tỉnh mỗi địa phương lớn nhỏ lại khẩn trương tổ
chức lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đánh bọn thực dân
Pháp nếu chúng nhảy dù hoặc đổ bộ.
Ở Hà Nội và một vài tỉnh phía Bắc (Phú Thọ, Lào Kay, Vĩnh Yên),
chính quyền cách mạng non trẻ lại còn phải dẹp bọn Đại Việt Quốc dân
đáng bám gót Tàu Tưởng về phá rối cách mạng (số đồng bọn chúng đã được
tổ chức ở trong nước với sự che chở của quân đội Nhật).
Trên bối cảnh lịch sử phức tạp ấy, chính quyền nhân dân đang còn
trứng nước đã phải giải quyết những vấn đề có tầm chiến lược cực kỳ quan
trọng.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách:
1- Phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói.
2- Mở chiến dịch xoá nạn mù chữ (bình dân học vụ)
3- Tổ chức tổng tuyển cử, phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội (tổng tuyển cứ vào ngày 6-1-1946).
4- Thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, đoàn kết tôn giáo.
5- Bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, nghiêm cấm việc hút thuốc phiện.
6- Mở phong trào giáo dục tinh thần cần, kiệm liêm, chính; bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại.
Cùng với nhiệm vụ chống giặc Pháp trở lại cướp nước ta, 6 nhiệm vụ
trên đây được thi hành khẩn trương, và cũng chính là để bồi sức dân,
đoàn kết dân tộc để giữ vững độc lập mới giành được qua Tổng khởi nghĩa
tháng Tám. Trong hoàn cảnh ấy phải đề cao kỷ cương của chính quyền mới,
chính quyền của dân, do dân, vì dân. Bên cạnh những hành động cách mạng
khẩn trương có hiệu quả lớn của các UBND, cũng xuất hiện lẻ tẻ những
hiện tượng lạm quyền; bắt người không đúng nguyên tắc, chiếm công vị tư
của một số ít cán bộ ở vài tỉnh. Đã có một số đơn vị nhân dân ở địa
phương tố cáo những việc làm sai ấy.
Để an lòng dân và để giáo dục cán bộ của bộ máy chính quyền
non trẻ theo tinh thần cần kiệm, liêm chính, ngày 23-11-1945 Hồ Chủ tịch
đã ký sắc
lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, và cử hai vị thanh
tra Đặc biệt là: Cụ Bùi Bằng Đoàn và tôi (Cù Huy Cận), lúc đó là Bộ
trưởng Bộ Canh nông. Lúc Hồ Chủ tịch gọi tôi đến, giao thêm nhiệm vụ mới
này tôi có thưa: “Thưa Cụ, Cụ cho con làm Bộ trưởng Bộ Canh nông đã là
nhiệm vụ quá nặng nề trong lúc này. Nay Cụ bảo con kiêm làm thanh tra
Đặc biệt thì sợ con không đảm đương nổi”. Bác Hồ giải thích: “Ban Thanh
tra Đặc biệt chỉ có 2 người: một già, một trẻ. Già là Cụ Bùi, vị quan có
tiếng liêm khiết của triều đình cũ, có uy tín trong giới phụ lão. Trẻ
là chú, một thanh niên hăng hái một nhà thơ có tiếng nhiều người biết.
Trẻ già kết hợp nhất định làm tốt. Công việc chú bàn thêm với chú Nam
(Hoàng Hữu Nam)”. Thấy tôi ngần ngừ, Bác mỉm cười nói thêm: “Còn như chú
muốn cho có vẻ chững chạc thì dễ thôi; chiều nay, chú mang đến một thỏi
mực tàu và một cây bút lông, tôi sẽ vẽ râu cho chứ! Bây giờ thì chú đi
bàn ngay còng việc với Cụ Bùi”. Như vậy là tôi đã nhận nhiệm vụ làm một
trong hai vị thanh tra đầu tiên của Chỉnh phủ cách mạng. Mọi việc tôi
đều trao đổi với anh Hoàng Hữu Nam, lúc đó làm ở Bộ Nội vụ và là uỷ viên
Ban liên kiểm Việt - Pháp. Xong tôi lại trình bày bàn bạc với cụ Bùi
Bằng Đoàn. Cụ Bùi rất tốt, và rất tin ở sự làm việc mẫn cán mà thận
trọng của tôi; cụ lại có nhiều kinh nghiệm về công tác pháp lý. Anh Nam
liên hệ chặt chẽ với các tỉnh uỷ (lúc đó bí mật), nắm tình hình các vụ
cần xử lý, giúp Ban Thanh tra Đặc biệt rất nhiều. Chúng tôi đã về Hưng
Yên và cách chức vài cán bộ cấp tỉnh vì chiếm tài sản của công; về Hà
Nam, vào xem xét nhà giam và cho thả mấy người có tội nhẹ, chỉ đáng phạt
kỷ luật hành chính. Chúng tôi còn về Thanh Hoá xử lý những vụ tương tự.
Sau mỗi chuyến thanh tra về, chúng tôi báo cáo với Hồ Chủ tịch và được
Bác chỉ dẫn thêm. Công tác của Ban thanh tra Đặc biệt thật ra làm không
được nhiều lắm, nhưng mấy vụ được đưa ra xử lý nói trên cũng gây được
tiếng vang. Lúc bấy giờ chưa có quy chế làm việc rạch ròi, lớp lang. Cụ
Bùi và tôi, với sự giúp sức đắc lực của anh Nam đã cố gắng làm theo chỉ
thị của Hồ Chủ tịch: “Xử lý đích đáng một số vụ để an lòng dân, và đề
cao kỷ cương của chính quyền cách mạng”.
Một chiều ba mươi Tết bên cạnh Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc
Năm
đó, 1951, như thường lệ vào mùa đông cơ quan Phủ Chủ tịch và Phủ Thủ
tướng đóng ở Bản Vèn, thuộc tỉnh Bắc Cạn, từ Đầm Hồng đi vào khoảng vài
chục cây số. Rồi đến mùa hè, hai cơ quan lại dọn về ở Châu Tự do, hoặc
huyện Định Hoá, ở bên núi Hồng, từ Quảng Nạp đi vào cũng hơn 10 cây số.
Hôm ấy chiều cuối năm âm lịch, trời tạnh ráo, nhưng gió buốt, lại các
lán của cơ quan ở dưới bóng những cây to nên cái rét càng thấm vào da
thịt. Chúng tôi, anh em ở Phủ Thủ tướng đốt củi ngồi sưởi ấm, nướng mấy
củ sắn ngồi nói chuyện, kể những kỷ niệm về Tết ở quê nhà cho đỡ buồn,
cho đỡ nhớ gia đình. Bếp của chúng tôi là những khúc gỗ to chụm lại, lúc
lửa đã bén, thì các đầu gỗ cứ thế mà cháy âm ỉ, có khi suốt đêm suốt
ngày không tắt, mường tượng như những đầu than âm và dương trong một
bóng điện khổng lồ phát ra sức nóng và ánh sáng. Khoảng nửa tiếng đồng
hồ một, mới cần đẩy các cây đầu gỗ lại gần với nhau. Bên bếp lửa hồng
cháy đượm như vậy anh em đỡ rét, và đỡ lạnh lẽo trong lòng. Mọi người
thi nhau nói những kỷ niệm lý thú nhất về cái Tết ở quê nhà, về những
cái Tết lúc còn nhỏ, về cái thú đốt pháo, về cái thú theo mẹ theo cha,
theo bà đi chợ Tết...
Câu chuyện đang đượm như lửa ấm, thì Bác Hồ đi tới. Chúng tôi đứng
dậy để chào, thì Bác giơ tay ra hiệu bảo ngồi xuống và Bác cũng ngồi xen
vào giữa chúng tôi bên cạnh bếp lửa trại. Ghế của Bác ngồi là một khúc
gỗ được cưa bằng. Bác hỏi chúng tôi đã nấu bánh chưng chưa, và chương
trình tết của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi báo cáo với Bác những trò
vui mà chúng tôi định tổ chức với nhau ba ngày Tết. Bác dặn ngay là
phải đi thăm đồng bào trong bản, cùng đồng bào tổ chức vui chơi ngày tết
đánh còn, thi bắn chim, thi bắt cá trong hang suối...
Bỗng nhiên có một anh đứng dậy mạnh dạn thưa với Bác: “Thưa Bác tha
cho, cho con được hỏi Bác một câu?”. “Chú cứ hỏi, và chú cứ ngồi xuống
nói chuyện” - “Thưa Bác, tại sao Bác không lập gia đình?” Tất cả chúng
tôi lặng im đi một phút, một phần vì sợ Bác mắng do câu hỏi đường đột
của đồng chí chúng tôi, một phần vì thấy nét mặt của Bác cũng dường như
trầm ngâm trước câu hỏi đó. – “Người ta ai cũng muốn có gia đình (giọng
Bác nói thong thả và dường như có hạ cung bậc). Bác cũng là người như
các chú, Bác cũng muốn có đời sống gia đình đầm ấm. Nhưng các chú xem,
hoàn cảnh của đời Bác không cho phép Bác lập được gia đình, đó là điều
thiệt thòi cho Bác, mà Bác đâu có muốn thế!” Rồi Bác cười: “Bây giờ thì
muộn quá rồi!... Bây giờ gia đình Bác là tất cả các cô các chú, là tất
cả bà con, đồng bào. Không có gia đình riêng, thì Bác lấy gia đình chung
làm cái vui của Bác, làm cái ấm áp của Bác.... Giọng Bác nói khẽ trầm
ngâm, chúng tôi nghe có người ứa nước mắt. Thấy vậy, Bác lại khuấy động
không khí và bảo chúng tôi hát lên cho vui, và bảo bới củ sắn ra cho Bác
ăn với. Chúng tôi hát những bài hát kháng chiến quen thuộc, còn sắn thì
mải câu chuyện không ai lật trở cho đều, cho nên đã cháy thui gần hết.
Tuy vậy Bác cũng cầm một mẩu nhỏ cùng ăn và khen sắn cháy càng thơm”.
Trong đời chúng tôi đã ăn bao nhiêu cái Tết vui, ấm, lúc trong gia đình
khi xa quê hương, nhưng chưa bao giờ lại có được một buổi chiều cuối năm
ấm lòng như chiều tết ở bản Vèn bên cạnh Bác. Rồi chiều mùng 1 Tết
chúng tôi đi đánh còn với đồng bào ở ngoài đám ruộng khô, trong một
thung lũng khá rộng, đi chúc tết đồng bào, đi lội suối bắt cá... Sống
cái tết gần như cổ sơ, mà ngày tháng, giờ giấc tính theo độ lên xuống
của mặt trời trên núi, mà sớm hay khuya không cần nhìn đồng hồ, chỉ nghe
độ gió buốt lọt vào chăn cũng biết. Ai có ngờ lúc đó chúng tôi là một
cơ quan đầu não kháng chiến, là Phủ Thủ tướng của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà...
Tôi vinh dự được Bác Hồ tặng một bài thơ
Giữa năm 1963 tập thơ Bài thơ cuộc đời của tôi xuất bản, tôi gửi dâng Bác Hồ bản đầu tiên. Mỗi lúc ra một tập thơ tôi đều có gửi dâng Bác, và bao giờ tôi cũng xin Bác cho ý kiến nhận xét. Có lần Bác gặp tôi nói là Bác đã đọc tập thơ này, tập thơ
kia và có chú ý một số bài. Trên kia tôi đã kể khi Bác đọc bài Năm
người con gái anh hùng Cẩm Phả đăng trên báo Nhân dân, thì Bác đã căn cứ
theo bài thơ mà gửi 5 huy hiệu của Bác về cho Uỷ ban Cẩm Phả để tặng
năm gia đình có 5 cô con gái liệt sĩ này. Lần này sau mấy hôm, anh Việt
Phương một buổi trưa mang đến cho tôi một tờ giấy của Bác có ghi bài tứ
tuyệt Bác tặng tôi. Anh Việt Phương nói “Đây là vinh dự lớn nhất của nhà
thơ đây” mở giấy ra tôi thấy một bài tứ tuyệt viết theo lối phóng
khoáng của Bác:
Cảm ơn chú biếu Bác quyển thơ,
Bác xem quyển thơ suốt mấy giờ.
Muốn Bác phê bình, khó nói nhỉ!
Bài hay chen lẫn với bài vừa.
Tôi sung sướng quá, anh Việt Phương cũng chia xẻ nỗi vui
sướng với tôi, đồng thời anh Việt Phương cũng đưa cho tôi một bức thư
nhỏ của đồng chí Phạm Văn Đồng đại ý khen ngợi tập thơ
của tôi, nói là đồng chí đọc thấy có nhiều bài hay, và rất hứng thú
được nói điểu đó với tác giả. Trong những năm kháng chiến ở Việt Bắc,
mỗi lúc Bác Hồ có làm bài thơ mới nào bằng chữ Hán, hoặc bằng tiếng Việt
thì thường tôi cũng được vinh dự Bác gọi đến đọc cho nghe, và bao giờ
Bác cũng hỏi có ý kiến gì góp không. Khi Bác sáng tác bài tứ tuyệt Trăng
vào cửa sổ bằng tiếng Hán thì tôi được Bác giao cho dịch ra tiếng Việt
bằng thể Đường luật hoặc lục bát tuỳ ý. Tôi đã cố gắng diễn ra lục bát
bốn câu súc tích của Bác:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.
Chuông lầu gọi tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận biên khu mới về.
Bài dịch này đã được in trong tập Thơ
Hồ Chủ tịch. Trước khi tôi dịch anh Phạm Văn Đồng có trao đổi ý kiến
với tôi, đặn tôi cố thể hiện qua câu thơ tiếng Việt cái phong thái ung
dung của Bác giữa trăm công nghìn việc của kháng chiến. Nhân đây, tôi
cũng xin kể là những phiên họp Hội đồng Chính phủ trong kháng chiến
chống Pháp, ở Việt Bắc, gần thác Dẩng thường được kết thúc bằng một buổi
tối lửa trại (sau hai ba ngày họp). Ở buổi lửa trại ấy, Bác Hồ là người
“trưởng trò”, Bác nói chuyện vui, Bác động viên mọi người có chuyện gì
thích thú thì kể cho nhau nghe. Và bao giờ Bác cũng nói: “Chú Phan Anh
đâu, phải có mấy câu tập Kiều”. Anh Phan Anh cũng biết vậy nên thường đã chuẩn bị sẵn mấy câu lục bát tập Kiều,
và đứng dậy đọc, giọng sang sảng bên ngọn lửa rất đượm của các khúc củi
to chụm lại với nhau. Thơ và lửa làm cho buổi liên hoan thật là ấm áp.
Và đến lượt tôi cũng bị Bác gọi “Còn thơ chú Cận đâu?”. Tôi cũng cố gắng
làm mấy câu ca dao tức cảnh và đọc nhanh như là nộp bài. Nhưng cũng có
khi Bác bắt tôi đọc một bài thơ cũ của tôi, và tôi không thể thoái thác,
đành phải đọc những bài tả thiên nhiên đất nước, có gửi gắm nỗi lòng
mình trong đó như bài Tràng giang.
Có một lần đang họp Hội đồng Chính phủ bàn vấn đề chuyển lương của
cán bộ từ hiện vật (số ki lô gạo) sang tiền. Anh Lê Văn Hiến Bộ trưởng
Bộ Tài chính vừa trình bày xong phương án chuyển gạo ra tiền thì có một
đồng chí trong Hội đồng phát hiện rằng giá gạo rất chênh lệch nhau giữa
huyện Đại Từ phía Bắc núi Tam Đảo, và tỉnh Vĩnh Yên phía Nam núi Tam
Đảo. Tôi liền đứng dậy xin đọc mấy câu không phải là tức cảnh mà là nói
lên sự lúng túng của Chính phủ trong quyết định giá lương tiền này:
Mây Tam Đảo! Mây Tam Đảo!
Mây dừng tại khoan bay, cho ta bảo:
Cớ sao cùng một đồng lương,
Mà bên cơm, bên cháo!
Sau tham luận bằng văn vần của tôi, Hội đồng Chính phủ bèn hoãn lại việc chuyển lương gạo ra lương tiền.
Thường trực ở Bắc Bộ phủ
Từ ngày lập Chính phủ lâm thời (2-9-1945) cho đến ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946),
có một tổ chức thường trực ở Bắc Bộ phủ (tổ gồm 5 người, được Hồ Chủ
tịch duyệt). Năm người trong tổ: anh Võ Nguyên Giáp (gọi là anh Văn),
anh Hoàng Văn Thái, anh Khuất Duy Tiến, anh Hoàng Hữu Nam, và tôi. Trong
5 người nay đã 3 anh qua đời: anh Thái, anh Tiến và anh Nam. Anh Nam
mất những ngày đầu kháng chiến, tại thị xã Tuyên Quang chết đuối ở ghềnh
Quýt. Năm anh em luân phiên nhau trực ban đêm tại Bắc Bộ phủ, thường là
hai người trực đêm, cũng có khi bận quá thì một người. Tôi nhớ là anh
Hoàng Hữu Nam và tôi thường hay trực với nhau, khi nào anh bận việc đột
xuất thì giao tôi trực một mình.
Mấy tháng đầu, tôi vừa làm việc ở Bộ Canh nông (Bộ trưởng,
rồi sau thứ trưởng), buổi chiều đến làm việc với Hồ Chủ tịch (như là một
trong những thư ký riêng
của Bác), ban đêm thì trực ở Bắc Bộ phủ. Tình hình căng thẳng ngay từ
những ngày đầu của cách mạng. Bọn Pháp bọn Quốc dân đảng bám theo quân
đội Tưởng Giới Thạch và mọi loại phản động luôn luôn tìm cách phá, thậm
chí lật đổ chính quyền cách mạng. Bọn họ hoạt động riêng rẽ, nhưng cũng
có khi liên kết với nhau để phá ta. Vì vậy việc trực đêm ở Bắc Bộ phủ
cũng rất căng thẳng.
Luôn luôn có điện thoại gọi, khi thì cơ quan an ninh, khi thì Uỷ
ban hành chính Hà Nội, khi thì ban liên kiểm Việt Pháp, khi thì Uỷ ban
thành phố Hải Phòng... Điện thoại để báo cáo tình hình, cũng có khi để
xin chỉ thị của Hồ Chủ tịch, và cũng thường khi là hỏi tình hình ở Hà
Nội, ở Bắc Bộ phủ có diễn biến gì không. Lúc bấy giờ mọi cơ quan, nhất
là những đồng chí chủ chốt, đều cảnh giác cao độ, và làm việc gần như
không kể ngày đêm.
Những đêm trực ở Bắc Bộ phủ, tôi ngủ ngay bên cạnh điện
thoại, trên một chiếc giường con, có khi trên một cái ghế dài xích đu.
Cũng đôi khi
có một nữ đồng chí điện thoại viên ở giúp việc, có điện thoại thì gọi
chúng tôi nhưng về sau chúng tôi chỉ yêu cầu đồng chí điện thoại viên ở
đến 9 giờ tối, sau đó thì chúng tôi trực luôn cả điện thoại. Có những
đêm như một ngày giữa tháng sáu 1946, tình hình hết sức căng thắng: bọn
lính Pháp bắn phá ở Bạch Mai, chúng dùng cả súng lớn bắn vào rạp chiếu
bóng Bạch Mai. Chúng tôi ở Bắc Bộ phủ nghe các loạt súng rất rõ, cho
người ra đường xem tình hình thì không thấy có lính Pháp xê dịch, mà
công chúng cũng không thấy chộn rộn. Tôi gọi ngay dây nói cho anh Hoàng
Hữu Nam để anh can thiệp ngay với bọn Pháp ở trong Ban liên kiểm Việt
Pháp... Anh Hoàng Văn Thái hôm ấy không phải phiên trực cũng đến ngay
Bắc Bộ phủ để nắm tình hình và trao đổi cách đối phó với anh Nam trong
Ban liên kiểm... Nhưng sau một chặp, thì tiếng súng im, và có người về
báo là một toán lính Pháp đã bắn bừa vào rạp chiếu bóng, và mấy nhà xung
quanh nhưng tự vệ ta chống cự, sau đó chúng rút lui. Về sau chúng tôi
phán đoán rằng đây là một cách bọn Pháp nắn gân chúng ta, nếu ta không
cứng thì chúng làm ào tới.
Ngày hôm sau, anh Hoàng Hữu Nam đã đến Ban liên kiểm Việt Pháp phản
đối kịch liệt bọn Pháp, thì chúng thoái thác giả lời bừa rằng đó là
hành động tự phát của một nhóm lính bực bội trong tình hình căng thẳng
mấy ngày đó... Lúc đó tôi với anh Xuân Diệu cùng ở ngôi nhà 50 Hai Bà
Trưng, đằng sau thư viện quốc gia.
Tối nào tôi phải đi trực, thì anh Diệu nhắc tôi ăn cơm sớm, và nên
đi sớm đến Bắc Bộ phủ, vì đi tối có thể gặp bọn khiêu khích, hoặc bọn
lính mũ đỏ Pháp, hoặc bọn Việt cách, Việt quốc được bọn Tầu Tưởng đỡ
đầu.
Những ngày tháng Hồ Chủ tịch sang Pháp (từ cuối tháng 5
đến tháng 9-1946), chính phủ ở nhà phải liên lạc hàng ngày với phái
đoàn ở Paris, một phía để Hồ Chủ tịch hiểu tình hình ở Hà Nội và nói
chung trong cả nước căng thẳng đến đâu và ngược lại để ở nhà được biết
chính phủ Pháp gây khó dễ với Hồ Chủ tịch như thế nào... Nhưng làm thế
nào mà thông báo tình hình phức tạp ấy, trong lúc chúng ta không có điện
tín thẳng với phái đoàn được, càng chưa có mật mã để điện cho phái
đoàn... Anh Hoàng Hữu Nam bèn nghĩ ra một thứ “mật mã”, qua những bức
điện công khai nhờ điện đài Pháp chuyển. Tôi còn nhớ rõ như thế này: “Ở
nhà đánh đi, thì chỉ quanh quẩn nói tình hình tốt, tốt vừa, hay rất tốt.
Nhưng đã ước lệ ngầm với nhau rằng: khi trong điện nói tình hình tốt có
nghĩa là Pháp vẫn quấy rối; khi điện nói tình hình bình thường thì có
nghĩa là Pháp đang ráo riết chuẩn bị tấn công ta; khi điện nói tình hình
rất tốt thì có nghĩa là ở nhà các cơ quan trọng yếu đang chuẩn bị sơ
tán khỏi Hà Nội; khi nói tình hình rất yên tĩnh thì có nghĩa là: chúng
tôi chuẩn bị rút khỏi Hà Nội... Còn từ Paris điện về thì chỉ tập trung
đưa tin về sức khỏe của Hồ Chủ tịch. Khi điện nói sức khoẻ của Chủ tịch
bình thường, thì có nghĩa là chính phủ Pháp vẫn ngoan cố không nhân
nhượng gì cả; khi nói sức khỏe của Hò Chủ tịch tốt thì có nghĩa là Pháp
vẫn gây sức ép; khi nói sức khỏe của Chủ tịch hết sức tốt thì có nghĩa
là: Pháp cực kỳ ngoan cố, không đi đến ký kết
được gì... Còn một số câu ở nhà đánh đi và ở Paris đánh về thăng giáng
một chút ít, nhưng đại để cũng là đưa tin theo “mật mã” ấy.
Chúng tôi ở nhà cũng như các đồng chí bên cạnh Hồ Chủ tịch tại
Paris nhận được rất đều điện do phía Pháp chuyển. Người Pháp làm việc
chuyển điện đều đặn cũng muốn tỏ rằng họ có thiện chí, và nhất là tỏ
lòng kính trọng Hồ Chủ tịch. Chỉ có một điều là cái mật mã không mật mã
do anh Hoàng Hữu Nam sáng tác ra thì họ không tài nào mở khoá được...
Cái bảng đối chiếu mật mã này anh Nam viết tay và giao cho tôi giữ để
hàng ngày thảo điện gửi đi Paris, hình như anh cũng giữ một bản, nhưng
lúc anh bị chết đuối không biết có ai tìm ra trong người anh không...
Còn điện tôi thảo thì bao giờ cũng theo ý kiến đã trao đổi giữa các anh
em với nhau và điện thảo xong thì tôi giao cho anh Dũng lúc đó làm công
tác điện đài, gửi đi.
Đã 40 năm trôi qua (1946-1986), mà tôi còn nhớ rõ mồn một cái không
khí trực đêm ở Bắc Bộ phủ còn nhớ rõ ràng dáng đi của mỗi anh: anh
Hoàng Văn Thái bao giờ vào phòng cũng dáng vội vã, với cái mũ ca lô đội
lệch một chút về phía phải, anh Hoàng Hữu Nam thì nét mặt luôn lo nghĩ,
nhưng bước đi lại ung dung, và luôn luôn ăn bận com lê rất đàng hoàng có
thắt ca vát nữa vì anh luôn luôn sẵn sàng đến Ban liên kiểm Việt Pháp
(vì anh là trưởng ban về phía Việt Nam); anh Khuất Duy Tiến với cái đầu
to đi trước, miệng luôn luôn tươi cười, anh Văn (tức là anh Võ Nguyên
Giáp) thì xách một cái cặp đầy giấy tờ những đêm trực anh vẫn làm việc ở
cái phòng tầng dưới, dưới cái phòng của Hồ Chủ tịch ở trên gác, là nơi
anh làm trụ sở của Bộ Nội vụ, mà lúc đó anh làm Bộ trưởng (kiêm Thứ
trưởng Bộ quốc phòng, kiêm tổng chỉ huy Vệ quốc đoàn). Chúng tôi trực
đêm, thật sự là phải thức đến suốt sáng, mà không cảm thấy mệt, những
ngày ấy làm việc hăng say, và công việc cuốn đi... Về sau anh Hoàng Hữu
Nam có dặn người phục vụ thỉnh thoảng mua được hộp sữa thì pha cho anh
em trực một cốc sữa vào đêm khuya. Nhắc đến anh Hoàng Hữu Nam, tôi nhớ
anh và tôi nhiều đêm cùng nằm trên chiếc giường, bên điện thoại bàn
chuyện đối phó với Pháp, bàn công tác thanh tra đặc biệt mà lúc đó tôi
phụ trách cùng cụ Bùi Bằng Đoàn... Thỉnh thoảng chả biết anh kiếm được ở
đâu ra một ít kẹo ngon anh lại dúi cho tôi mấy chiếc vào túi... Đến lúc
anh bị chết đuối ở Tuyên Quang, may tôi đến kịp nơi người ta vừa vớt
thi hài anh lên, đang chuẩn bị liệm anh. Trên mặt anh người ta đã để một
tờ giấy bản to. Tôi đến bên anh và nói “Anh Nam ơi, tôi đây này Cận đây
này. Khổ quá! Anh đi tắm làm gì cho đến nỗi.... Thế là máu trong miệng
anh ộc ra ướt hết cả giấy bản, và còn lênh láng xuống cả cổ áo... Chiều
hôm ấy anh em Bộ Nội vụ và tôi chôn cất anh gần thị xã Tuyên Quang, cùng
với hai anh cán bộ nữa cùng chết một lúc với anh, trong lúc hai anh này
nhảy xuống sông để cứu anh.
Cái đẹp của ánh tà dương
Một chiều
tháng chạp 1946 tôi quên mất ngày, cụ Huỳnh đang ngồi chờ trong phòng
khách lớn của Bắc Bộ phủ ở trên gác để tiếp một vị khách quan trọng.
Tôi đến để giúp cụ tiếp khách. Khách chậm đến, cụ nói với tôi: “Anh
Cận ạ, anh có biết đọc thơ Đường không?” Tôi đáp: “Thưa cụ, tôi cũng
thuộc một số bài”. - “Tôi đọc cho anh nghe câu sau đây: “Đẹp ánh tà
dương sắp lặn đi” (tôi không nhớ câu chữ Hán là thế nào, chỉ nhớ câu
diễn nôm của cụ Huỳnh). Anh có biết không, buổi chiều này nắng rất đẹp,
tự nhiên tôi nhớ câu thơ trên, và thật ra tôi cũng đến cái lúc “ánh tà
dương sắp lặn đi”. Cụ nói câu ấy với tôi với giọng hơi bùi ngùi, cái bùi
ngùi đáng quí biết bao thốt ra từ miệng một nhà thi sĩ.
Những ngày đêm Điện Biên Phủ trên không tôi bám Hà Nội Tối hôm 18-12-1972,
chúng tôi đang duyệt một vở kịch tại rạp Hồng Hà ở phố Hàng Da, thì còi
báo động vang lên, và đèn trong nhà hát tắt. Rồi tiếng bom nổ ầm vang
một góc trời thành phố. Chúng tôi lập tức nhưng bình tĩnh rút ra khỏi
nhà hát, và ai nấy trở về nhà, riêng tôi đi bộ về số nhà 24 Điện Biên
Phủ, xuống hầm trú ẩn cùng mọi người trong gia đình, và có một vài bà
con láng giềng đến ẩn nấp nhờ vì cái hầm ở nhà tôi tương đối kiên cố.
Thế là đợt ném bom của Mỹ bằng máy bay B52 bắt đầu. Sáng hôm sau, ngày
19, đến Bộ Văn hoá, chúng tôi bàn việc cấp tốc sơ tán các cơ quan của bộ
về các hướng Sơn Tây, Hà Bắc... Chỉ cần để lại ở Bộ một bộ phận thường
trực mươi lăm người mà lúc đó chúng tôi gọi là “Đội trực chiến”. Tôi
xung phong ở lại làm đội trưởng đội trực chiến này, còn các đồng chí bộ,
thứ trưởng khác và hầu hết các đồng chí vụ trưởng đều sơ tán về ngoại ô
thị xã Sơn Tây, một số cơ quan sự nghiệp đi về phía Bắc Giang, cũng có
một số anh em đi về Tuyên Quang để coi ngó các kho sách phim, và những
hiện vật quý của bảo tàng. Đồng chí Lương Hữu Lễ, lái xe của tôi, tất
nhiên là ở lại với tôi.
Trong gia đình tôi thì vợ tôi sơ tản theo Trường đại học
Ngoại ngữ về Hải Hưng, gần quán Gỏi, và các con tôi thì sơ tán về chùa
Thầy ở chân núi Sài Sơn. Anh Xuân Diệu cũng tự nguyện ở lại với tôi và
đêm đêm chúng tôi đến ngủ ở dưới hầm của Bảo tàng Mỹ thuật ở số nhà 66
Nguyễn Thái Học. Ngôi nhà bảo tàng này khá kiên cố, nhất là cái hầm thì
được xây dựng bằng bê tông cốt sắt dày, nhà có thể sập vì bom, mà cái
tầng hầm có thể vẫn đứng vững. Ngôi nhà này ngày xưa là Phủ toàn quyền
đã xây làm ký túc
xá cho các nữ sinh Pháp (con các công sứ, khâm sứ, các giám đốc người
Pháp nắm quyền cai trị ở Đông Dương học ở các trường Anbe Sarô, và ở các
trường cao đẳng thuộc đại học Đông Dương. Cứ tối đến, khoảng 8, 9 giờ
là máy bay B52 của Mỹ đến ném bom. Đội phòng không của chúng ta đã bắn
rơi nhiều máy bay B52 ngay đêm đầu và những đêm tiếp B52 vẫn tiếp tục
“rụng như sung” (có cả thảy 34 chiếc B52 bị rơi trong đợt này). Hễ nghe
còi báo động nói là máy bay đã đi xa, thì mọi người chạy ùa ra phố đi
bắt giặc lái và tìm xác máy bay. Tôi cũng theo bà con đi tìm giặc lái,
có lần chạy lên đến tận Hồ Tây, và thấy bà con bắt được một thằng giặc
lái rơi xuống hồ Trúc Bạch... Còn xác máy bay B52, thì cái rơi ở xóm
Ngọc Hà, cái rơi ở vườn Bách Thảo, có những cái rơi xa hơn ở ngoại
thành, và rơi ở tận phía Hà Đông, Sơn Tây... Đêm Nôen 1972, mọi người
đinh ninh là giặc Mỹ sẽ không ném bom Hà Nội, vì đây là lễ thiêng liêng
của đồng bào công giáo. Nhưng một loạt máy bay B52 ồ ạt đến ném bom giữa
đêm Chúa Giáng sinh... Quân đội cũng như đồng bào đã cảnh giác, nên
phản kích kịp thời. Báo chí quốc tế đã đưa tin đầy đủ về cuộc chiến đấu
cực kỳ ác liệt của quân dân ta, tôi không nhắc lại đây các chi tiết của
cuộc chiến đấu, và của cuộc chiến thắng mà ngay lúc đó báo Nhân Dân và
Đài phát thanh cũng đã gọi là “Điện Biên Phủ trên không”.
Mỗi một sáng, tôi và chú Lễ phóng xe đến những chỗ vừa bị ném
bom để nắm tình hình, như ở khu An Dương (ngoài đê Yên Phụ), và dãy phố
Khâm Thiên... Có lúc chúng tôi đi ô tô, có lúc tôi đi chiếc Sô-lếch mù
(Solex), đầu đội mũ rơm để quan sát những thiệt hại do cuộc ném bom gây
ra. Đến khu An Dương sáng hôm ấy, người chết khá nhiều, các xác cái thì
mới đào lên, cái thì đang chắp lại cái đầu, cái tay cái chân vì mỗi bộ
phận của cơ thể bị xé văng ra nhiều nơi... Và chỉ có những chiếc chiếu
tạm đắp các thi hài đầy máu me. Tôi có mở chiếu ra xem mặt các đồng bào
bị hy sinh, có những mặt chưa kịp thâm tím, có người tay đang nắm lại
như sắp cầm một vật gì thì bị bom sát hại... Tôi và chú Lễ ở hồi lâu
với cán bộ của khu phố coi sóc việc chở xác đi chôn. Mấy hôm ấy quan
tài không đóng kịp, cũng có những thi hài xếp vào mấy miếng ván bó
lại... Còn buổi sáng tôi đến phố Khâm Thiên, thì đã thấy một dãy dài các
thi hài xếp trên hè phố với những nén hương đang cháy, và bên một số
thi hài đã có người nhà vừa khóc vừa bó liệm người đã mất. Sự căm thù
của nhân dân lên đến cực độ, nhưng thể hiện bằng một tư thế trầm tĩnh,
như là cắn răng lại, cầm nước mắt để trả thù cho người đã mất...
Xúc động trước sự tang tóc, trước sự mất mát, chúng tôi
không nỡ ở lâu trước những quan tài và những thi hài chưa bó liệm ở dãy
dài trên thềm phố. Chúng tôi đi ra phía đằng sau phố Khâm Thiên là nơi
bị bom phá hoại nặng nề, nhiều dãy nhà bị đánh sạt, gạch ngói sụp đổ
từng đống ngổn ngang, có nơi lứa còn cháy âm 1 chưa dập tắt được...
Chính quyền khu phố và nhân dân đang tập trung
cứu gấp những người còn bị nghẽn trong hầm, hoặc bị chèn dưới các đống
vôi gạch. Nơi khác thì người ta còn tìm cứu gà lợn bị nghẽn trong chuồng
không có lối ra. Cảm động biết mấy khi chúng tôi thấy ở một ngõ đi vào
đường hẻm mấy dòng chữ bằng phấn trắng viết lên một cánh cửa đã lung lay
sắp rời khỏi tường: “Gia đình chúng tôi tạm sơ tán về quê ở Vân Đình.
Tất cả đồ đạc trong nhà chúng tôi xin gửi lại nhờ Uỷ ban nhân dân khu
phố trông nom hộ. Liên lạc với chúng tôi ở Vân Đình... ở dưới ký tên
chủ nhà và địa chỉ cụ thể. Ở một nơi khác chúng tôi lại thấy treo một
tấm bìa các tông cũng viết mấy lời dặn cho người nhà biết là bà mẹ đã sơ
tán các cháu về quê ở Hà Đông, và đồ đạc xin gửi lại bà con láng giềng
khu phố... Những bức thư và những lời dặn ở ngoài trời như vậy tôi cũng
đã từng thấy ở Hải Phòng những ngày tháng 8 năm 1972 lúc địch cũng ném
bom bằng máy bay B52 ở nội ngoại thành, ở khu Vạn Lý và ở làng...
Có những trường hợp hết sức xúc động, ai nghe kể cũng không cầm
được nước mắt: Có hai em bé dăm bảy tuổi, bố mẹ đi vắng, lúc bom dội
xuống thì hai em tỉnh dậy, khóc oà và cứ kêu “bố mẹ ơi, bố mẹ ơi?” nhà
láng giềng cũng bị sạt một mái, chưa kịp cứu chữa đồ đạc của mình và con
lợn trong chuồng, nhưng nghe tiếng hai em bé kêu khóc thì chạy sang cứu
ngay hai em, dẫn em xuống hầm cho em ăn uống, chờ hai em ngồi yên mới
trở lên nền nhà cứu chữa phần nhà mình, cứu những đồ vật gì còn có thể
thu lượm lại được. Người ta thường bảo “cháy nhà ra mặt chuột”, nhưng,
đẹp đẽ thay, nhân tình thay, ở đây cháy nhà lại thổ lộ ra tình nghĩa
đồng bào cưu mang lấy nhau trong cơn hoạn nạn, đùm bọc lấy nhau trong
cái nạn lớn của đất nước. Nức lòng thay, ấm lòng thay... Chính đêm Nôen,
mà địch ném bom dữ dội thành phố thủ đô thì ở dưới hầm nhà Bảo tàng Mỹ
thuật tôi đã viết liền một hơi bài Trường ca Thiếu niên anh hùng họp mặt
(hình thức thơ sân khấu) mà liền sau đó báo Thiếu niên tiền phong đã in
kịp vào số tết, và Nhà xuất bản Kim Đồng cũng đã kịp xuất bản bán vào
dịp Tết. Bài thơ sân khấu này cũng đã được đoàn Tuồng Khu 5 dựng thành
vở tuồng ngắn đã được diễn nhiều lần và được chiếu trên vô tuyến truyền
hình. Bom cứ dội ngoài thành phố, mà tiếng vang làm rung chuyển cả ngôi
nhà Bảo tàng thì những Phù Đổng Thiên Vương, những Trần Quốc Toản, những
Kim Đồng những Võ Thị Sáu, những em Tám đuốc lửa sống... lại náo nức về
tụ họp dưới hầm bảo tàng với tôi. Tôi viết bài Trường ca này với ấn
tượng rõ rệt là bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc là một nền móng vô
cùng vững chắc mà không một loại bom nào, loại vũ khí hiện đại nào của
giặc Mỹ có thể làm rung chuyển được Những ngày ấy mỗi sáng, sau khi đi
thăm những nơi bị ném bom, anh Diệu, chú Lễ và tôi lại đến báo Nhân dân
để lấy tin tức và để đưa một vài bài ngắn (hoặc thơ hoặc văn xuôi) cho
báo đăng kịp thời. Anh Thép Mới mỗi sáng gặp chúng tôi ở toà báo cứ cười
xoà “Thật sự đây là đội trực chiến của Điện Biên Phủ trên không... Tôi
còn giữ bức ảnh mà đồng chí nhiếp ảnh của báo Nhân dân chụp ba chúng tôi
đang ngồi trao đổi tin tức và bài vở ở toà soạn (anh Thép Mới anh Xuân
Diệu và tôi). Vừa rồi anh Thép Mới và tôi gặp nhau ở Mátxcơva, sau ngày
anh Diệu mất, hai anh em đã nhắc lại kỷ niệm những ngày trực chiến của
chúng tôi trong bầu không khí hào hùng của Thủ đô chiến đấu và chiến
thắng. Sau những ngày Điện Biên Phủ trên không, các cơ quan của Bộ Văn
hoá cũng chưa dọn về ngay ở Hà Nội, cho nên tôi và một vài anh em trong
đội trực chiến lại phải lên Sơn Tây báo cáo tình hình và công việc cho
ban lãnh đạo của Bộ biết. Những ngày đó, nhân dân Hà Nội sơ tán vợi hẳn
đi đi ngoài đường có nhiều phố vắng hẳn, có nhiều cơ quan đóng cửa,
nhưng trật tự ở các phố lại rất nghiêm và đi lại giữa Thủ đô quá nửa là
sơ tán lại có cảm giác yên tâm. Về sau tôi nghe anh em công an kể lại
rằng có những dãy phố mà những nhà sơ tán toàn bộ gia đình chỉ khoá cửa
bằng một cái khoá bóp mà nhà vẫn được an toàn, đến lúc chủ trở về không
mất mát đồ đạc gì, từ áo quần cho đến thức ăn vật dụng...
Điện Biên Phủ trên không là một trang sử hiển hách trong lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, của nhân dân thủ đô anh
hùng. Tôi đã có cái may mắn và vinh dự được sống cùng đồng bào những
ngày ấy, được tắm mình trong dòng lịch sứ nóng bỏng ấy, và tôi vẫn kể
lại với các con tôi những ngày là “bố đi Sô lếch, solex mù và đội mũ
rơm” giữa thủ đô nghìn năm văn vật với một lòng tự hào, tự tin mà tôi đã
tiếp nhận được của đồng bào và chiến sĩ...
HỒI KÝ SONG ĐÔI
BÌNH LUẬN
Vợ Cù Huy Cận
Như Bình
Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, số 57, tháng 4-2006
Trong
mường tượng, tôi ngỡ bà sẽ khác hơn nhiều. Không phải là dáng mỏng như
một nhánh cây khô mà tôi bất chợt thấy. Không phải là sự nhẫn nhịn pha
chút thu mình đến còm cõi của một người luôn thấy mình quá bé nhỏ trong
cái thế giới mênh mông của cuộc đời để mà xem sự tồn tại của mình đã là
một hạnh phúc quá lớn. Bà đến gặp tôi ở tòa soạn theo lời hẹn. Mái tóc
bạc xóa, đôi mắt
cười chan chứa và hiu hắt. Dường như bà đã chuẩn bị quá lâu cho cái sự
rồi sẽ một mình ở trọ lại cuộc đời này chờ tới khi đoàn viên với ông,
thế nhưng trong giọng nói, trong câu chuyện, trong nụ cười nhòa ướt nước
mắt của bà, tôi vẫn cảm thấy chút gì đó tựa như là bơ vơ, như là chống
chếnh đến ngơ ngác mà đáng ra cuộc sống hiện tại đủ để lấp đầy với bà,
sự ra đi của người chồng gắn bó hơn 40 năm nặng tình tri kỷ và ân nghĩa
xem ra đã để lại trong bà một khoảng trống quá lớn. Một vực sâu thiếu
hụt mà không gì có thể lấp nổi. Thuyết phục mãi rồi bà cũng dẫn tôi trở
về ngôi nhà mà trong đó có căn phòng nhỏ ở 24 Điện Biên Phủ nơi bà và
ông đã có quãng thời gian chung sống gần 40 năm (hai năm cuối đời, nhà
thơ Huy Cận về sống chung với con gái ở Tây Hồ). Bà nói lúc còn sống ở
đây, nhà thơ Huy Cận rất ít khi tiếp khách tại nhà. Bấy nhiêu lâu rồi cả
bà và nhà thơ quên đi cái nhu cầu ấm áp vui vẻ ấy, vì vậy bà không muốn
dẫn tôi về đó. Không hiểu sao, tự dưng tôi cũng trở thành ké rón rén
khi cùng bà băng qua căn phòng nhỏ với lối đi cửa sau vòng qua mảnh sân
đầy lá rung để tìm lối đi lên căn gác của ông bà. Lần đầu tiên tôi được
thở cùng bà trong cái không gian quá nhiều những ký ức
của hai thi nhân Việt Nam, Xuân Diệu và Huy Cận nổi tiếng trong mối
tình thơ, tình bạn cảm động có một không hai trong lịch sử văn chương.
Tôi
bước cùng bà những bước nhỏ, chậm rãi, cố để cảm nhận cho hết khung
cánh nơi đây, hồn cốt của thi nhân xưa còn vương lại trên từng đồ vật
cũ, cảnh cũ. Rất nhiều lá khô rơi và mục nát dưới lối đi. Chiếc cầu
thang cỗ cũ kỹ và ẩm mốc vương đầy lá khô bay nhè nhẹ trên từng bậc
thang. Căn buồng của bà và nhà thơ Huy Cận lâu rồi không có hơi ấm của
người giờ phủ đầy bụi. Vốn là người ít nói kiệm lời, bà Trần Lệ Thu chỉ
vào đống ngổn ngang những bản thảo cũ từ lâu mờ bụi phủ của nhà thơ Huy
Cận: "Bây giờ tôi sống bằng tất cả những thứ ấy và vì đó mà sống”. Bà
đang tận dụng đến tối đa quỹ thời gian ít ỏi còn lại của mình để hoàn
thành trọn vẹn tập Hồi ký song đôi, hồi ký của bà, và nhặt nhạnh, tập hợp
lại những di cáo của nhà thơ để lại. Cho dù sự "ra đi" khỏi căn nhà của
nhà thơ Huy Cận đã từ trước đó 2 năm và bà dù đến bây giờ hằng ngày vẫn
cố gắng cần mẫn lại trở về làm việc và ngủ trên chiếc giường cũ, nơi
ngôi nhà cũ thì hơi ấm xưa dường như không bao giờ còn trở lại. Giường
chiếu phủ bụi, ngập nhà là ngổn ngang bản thảo cũ, cả những thứ lúc còn
sống nhà thơ đã buông đi, cho vào đống tạp pí lù nhưng bà tiếc đã cố
công cất giữ lại. Giờ đây mỗi một phong giấy vụn có vài nét chữ của ông,
cả những bức thư bè bạn cũ, và muôn thứ ngỡ là tầm phào, vớ vẩn ngày
ông còn sống thì với bà là cả một gia tài. Nhìn bà đeo mục kỉnh cặm cụi
tỷ mẩn trong căn phòng bừa bộn giấy tờ, toàn bộ con người bà dường như
đã thuộc về quá khứ, thuộc về một đời sống của ký ức.
Trong
sự cố gắng thu giấu mình đi giữa ngổn ngang đời thực và những “lỗi xót
đau nhân tình thế thái", bà chỉ muốn đơn thuần nương tựa vào những câu
thơ của ông để lại cho bà. Chút đời sống tinh thần ngớ như là nhỏ nhoi
ấy với bà là biển lớn, là cuộc đời, là cả sự nghiệp. Sự nghiệp chính của
cuộc đời bà ấy là sống cùng với ông, chia sẻ cuộc đời với ông và giờ
đây là thu vén lưu giữ cho hơi thở của ông vẫn mãi mãi nóng ấm giữa
những trang viết mà ông để lại.
Mối
tình của bà với nhà thơ Huy Cận bước sang năm 2006 này đã tròn 42 tuổi.
Bà còn nhớ như in cái ngày định mệnh của ông và bà 4-7-1964, dưới bàn
tay sắp đặt của bà Phạm Thị Trường (vợ của nhà văn Nguyễn Đình Thi) ở
phố Trần Quốc Toản. Nhà thơ Huy Cận lúc đó 46 tuổi, đã qua biết bao
ghềnh thác cuộc đời. Bà Trần Lệ Thu lúc bấy giờ là cô giáo dạy tiếng Nga
ở Đại học Ngoại ngữ, đã 28 tuổi nhưng chưa một lần mở lòng mình với
tình yêu. Từ đó nhà thơ Huy Cận được tắm táp và bình yên trong tình yêu
trắng trong, thuần khiết và rất đỗi dịu dàng của người vợ hiền thảo luôn
tôn kính và ngưỡng mộ chồng mỗi lần nhớ lại, bà Trần Lệ Thu không quên
được câu nói của nhà thơ Xuân Diệu với bà trong lễ cưới, sau này bà viết
lại trong hồi ký:
"Anh Diệu nói với em, anh có một nghị lực phi thường, có linh tính báo
trước hạnh phúc của đời mình, mà em thì có một tấm lòng kiên trì chờ
đợi, nên tất nhiên là hai người phải gặp nhau”.
Thế
nhưng, bà Trần Lệ Thu đã rơm rớm nước mắt khi kể cho tôi nghe một “lời
đau” của một người thân trong gia đình đã nói rằng bà lấy nhà thơ Huy
Cận để được ngồi xe ôtô. Nói rồi bà thổn thức. Ít ai biết rằng thuở nhỏ
bà và chị gái của bà đều đi học ở trường tây Félix Faure bằng ôtô riêng
của gia đình. Bà Trần Lệ Thu chính là con gái yêu của nhà tư sản nổi
tiếng ở Hà Nội thời bấy giờ với thương hiệu hãng dệt Đại Tân nức tiếng ở
40 Lê Lợi, sau này là 124 Bà Triệu. Mẹ bà là con gái Hà Nội gốc, ông bà
ngoại làm nghề đăng ten ở làng La Khê - La Cả, năm mẹ bà 19 tuổi đã
cùng cha sang hội chợ Đấu Xảo ở Paris một tháng để triển lãm sản phẩm,
vì cụ nói tiếng Pháp thông thạo. Trong tuần lễ Vàng năm 1946, cha của bà
đã cúng 400 cây vàng cho Tổ quốc. Sau cách mạng, ông được bầu làm Chủ
tịch ủy ban Hành chính khu phố Liên Trì, năm 1948 bị giặc Pháp bắt đi
mất tích đến giờ. Năm 1961, toàn bộ tài sản gồm mấy ngôi nhà của gia
đình bà hiến cho Nhà nước quàn lý, từ một gia đình tư sản, trở thành
tiểu thương nhỏ, và cũng vì thế mà bà được kết hôn với nhà thơ Huy Cận -
cán bộ cao cấp do Trung ương quản lý (lúc bấy giờ cán bộ cao cấp không
được lấy vợ thành phần gia đình tư sản). Nhớ lại những năm tháng mặn
nồng hạnh phúc, bà Lệ Thu lại ứa nước mắt. Là một nhà thơ nổi tiếng,
nhưng Huy Cận lại là người chất phác, hiền lành, đôn hậu. Không rượu,
chè, thuốc lá, ông sống giản dị và chân chất. Với bà Lệ Thu, nhược điểm
lớn nhất của ông nhiều lúc làm cho trái tim của bà nhói đau ấy là vì nhà
thơ quá đa tình, cả khi ông đã bước sang tuổi thất thập cổ lai hy. Có
lẽ, để giữ được tình yêu lâu bền cho một cuộc hôn nhân với nhà thơ, bà
phải biết cách chịu đựng và tha thứ. Bà nói, ngay từ hồi đang
còn yêu nhau, khi chở bà đi chơi, thấy một cô gái xinh đẹp đi đằng
trước, Huy Cận đạp rướn lên nhìn bằng được cô gái đó mới thôi. Bà hiểu
trái tim của thi sĩ không hoàn toàn thuộc về bà, mà đã thuộc về thơ ca,
ông cần phải có những khoảng tự do, những niềm rung động thì ông mới
thăng hoa trong sáng tạo được. Ngay từ ngày đứng trước ngưỡng cửa của
hôn nhân, bà Lệ Thu đã nhìn thấy và lường trước được những gì mình cần
phải vượt qua khi làm vợ của một thi sĩ nổi tiếng. Bởi lẽ thế mà suốt cả
quãng đời sau cuối, cho dù trong một tâm thế "buồn bã và xót đau nhân
tình thế thái” nhưng nhà thơ Huy Cận luôn hàm ơn người vợ hiền thục của
mình. Nhớ lại cuộc hôn nhân với bà ông đã viết:
Khi anh cưới.
Mẹ em rằng
“Thu nó hiền thôi ít nói năng.
Từ đấy hai sông hòa một biển
Nước gần với nước gắn bằng trăng
Từ đấy lòng anh cứ lắng nghe
Lặng im trong mỗi bước em về
Lời thầm trong mỗi câu em nói”.
Trong mỗi làn tay em vuốt ve
Khi anh mệt nhọc khi anh đau
Công việc anh lo lửa nóng đầu
Anh cứ cảm nghe từ ánh mắt
Tình em ôm toa tựa hương ngâu
Em hỡi đời ai chẳng nửa thầm
Lặng yên mới có được vang âm
Tóc mềm sợi sợi nằm êm lắng
Vạn suối lòng anh chảy trở trăng
Rồi một ngày kia anh với em
Nằm yên trong đất giấc im lìm
Tai xương anh sẽ còn nghe ngóng
Hoa lá hồn em trong lặng im
(Hỡi em yên lặng).
Ngọn
lửa thiêng đã về trời. Nhà thơ Huy Cận rời bỏ dương gian từ mùa xuân
năm trước. Đến nay đã qua hơn một năm nhưng với bà Lệ Thu, dường như Huy
Cận đang làm chuyến công cán xa chưa về kịp. "Những lúc tưởng nhớ tới
anh Cận, tôi đều cảm thấy mình được an ủi bởi những năm tháng cuối đời
của anh tôi được chứng kiến anh Cận đã sung sướng tắm mình trong nguồn
nước ấm được dội từ lòng thương yêu trìu mến của bạn bè tri kỷ ngay từ
khi anh vẫn còn tồn tại. Mỗi lần đi đâu, gặp gỡ chuyện trò với bạn tri
âm, về nhà anh đều thủ thỉ kể lại cho tôi nghe với một niềm vui sướng
nhẹ nhàng, thanh thoát, pha chút ngây thơ, hồn nhiên của tâm hồn trẻ nhỏ
luôn thường trực trong con người anh. Tôi có cái sung sướng nhất đời là
chuyện gì tôi cũng được anh kể cho nghe. Có những chuyện sống để dạ,
chết mang theo anh cũng chia sẻ với tôi, chỉ mình tôi duy nhất”. Bà Lệ
Thu lần giở cho tôi xem những di bút những dòng lưu niệm của nhà thơ Huy
Cận để lại, nói về mối tình cảm ấm áp và chia sẻ trong những tháng năm
êm đềm của hai ông bà. Kể từ sau khi nhà thơ - người bạn tri kỷ của Huy
Cận là Xuân Diệu rời bỏ dương gian, thì bà chính là người đầu tiên lắng
nghe thơ ông mỗi khi ông vừa thốt viết chưa ráo mực. Một mối tình trọn
vẹn như vậy, hẳn khi rời bỏ chốn nhân gian này, nhà thơ Huy Cận đã mãn
nguyện lắm thay.
Một nhà thơ làm bộ trưởng
Báo An ninh thế giới cuối tháng, số 6 2.2002
Ông Bộ trưởng 26 tuổi
Huy
Cận tên thật là Cù Huy Cận sinh năm 1919 tại Hương Sơn, Hà Tnh trong
một gia đình trung nông lớp dưới. Người cha là một nhà Nho, còn người mẹ
chuyên chăn tằm dệt cửi, sau khi lấy chồng cày ruộng. Sau khi đỗ Tú
toàn phần ở Huế chàng thanh niên họ Cù dạy tư hai tháng ở Vinh, quyết
định thi vào Trường cao đẳng Nông- Lâm (CĐNL). Hồi đó,
Trường Nông-Lâm ở ngay Hà nội vị trí của trường đặt tại khu vực Vườn
Bách Thảo bây giờ, mỗi khoá chỉ tuyển khoảng 20 sinh nên. Khoá đầu tiên
có ông Nghiêm Xuân Yêm học, khoá thứ hai có ông Đào Thiện Thi và Huy Cận
học khoá thứ ba... Huy Cận còn nhớ rất rõ: Khi vào trường anh thi đậu
điểm cao thứ 5; khi ra trường, thi tốt nghiệp cũng đứng thứ 5
Lý
do Huy Cận thi vào Trường cao đẳng Nông-lâm thật đơn giản: Học các
trường khác thì phải mất học phí, nhưng học Nông-Lâm thì sinh viên lại
được ưu tiên trả học bổng tới 25 đồng tiền Đông Dương mỗi tháng. Hồi ấy,
đó là một khoản tiền có giá trị khá lớn, có thể mua được mấy tạ gạo
ngon. Chàng sinh viên Huy Cận chi tiêu tiết kiệm, nên cả tháng chỉ hết
có... 3 đồng. Số tiền còn lại, anh dùng để nuôi hai người em đi học và
gửi về giúp gia đình...
Huy Cận bí
mật tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1941. Cuối tháng 7.1945, anh
tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân trào và được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải
phóng toàn quốc Huy Cận đã vinh dự được Uỷ ban cử vào Huế để tham gia
tiếp nhận sự thoái vị của Vua Bảo Đại.
Khi
Chính phủ lâm thời nước Việt nam dân chủ cộng hoà được thành lập từ một
nhà thơ nổi tiếng lại có bằng kỹ sư Nông nghiệp Huy Cận đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông. Năm ấy, anh mới 26
tuổi.
Theo Huy Cận nhớ lại thì cả cơ quan Bộ Canh nông hồi đó
chỉ có vài chục người. Trụ sở đóng phố Ngọc Hà và số 20 phố Lý Thái Tổ –
Hà nội (nay là trụ sở của Viện Văn học). Phương tiện đi lại của Bộ
trưởng và Thứ trưởng chủ yếu bằng xe đạp, nhung không khí làm việc thì
hăng hái lắm!
Nạn đói năm 1945 đã
làm cho hơn hai triệu người Việt nam bị chết thảm. Khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, nước lụt vẫn còn mênh mông ở miền Bắc nước ta... Hàng
núi công việc đang chờ Bộ Canh nông giải quyết Nhưng việc đầu tiên là
phải tăng gia sản xuất để cứu đói. Vận động, tuyên truyền cho bà con
nông dân trồng những thứ được nhanh thu hoạch như ngô ba tháng, khoai
lang, rau muống... với khẩu hiệu tấc đất tấc vàng” và kiên quyết không
để sót một tấc đất bỏ hoang. Vốn liếng lớn nhất của Bộ Canh nông thời
bấy giờ không phải là tiền bạc mà là sức lao động của nông dân!
Chú có quyền làm trước, báo cáo sau...
Tuy làm việc ở Bộ Canh nông, nhưng nhiều buổi chiều, Huy Cận vẫn được về Phủ Chủ tịch để giúp việc như một thư ký riêng cho Bác Hồ. Có thời gian anh còn được điều động để làm một nhiệm vụ đặc biệt...
Ngày 23.11.1945. Hỗ Chủ tịch ký Sắc
lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Và cử 2 người tham
gia: Cụ Bùi Bằng Đoàn (nguyên Thượng thư Bộ Hình của triều đình cũ) và
Cù Huy Cận. Trước khi ký quyết định bổ nhiệm, Bác Hồ cho gọi Huy Cận đến Văn phòng và nói:
- Từ ngày mai, chú có thêm một việc nữa là làm thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Chú nghĩ sao?
Huy
Cận lo lắm, vì nghĩ mình còn trẻ chưa đủ uy tín để thực thi một việc
quan trọng như thế. Anh đắn đo một lúc rồi mạnh dạn nói:
-
Thưa Bác! Bác cho cháu làm Bộ trưởng Canh nông là quá sức rồi. Bây giờ
Bác giao cho cả việc “Thanh tra đặc biệt” nữa thì e rằng cháu không làm
nổi. Vả lại, chức này phải cần những người có tiếng tăm và tuổi tác mới
thuận.
Bác Hồ mỉm cười và động viên:
-
Chú vẫn cứ làm Bộ trưởng Canh nông, chỉ kiêm thanh tra đặc biệt thôi.
Việc này Đảng và Chính phủ đã cân nhắc kỹ mới cử hai người: Một người
già là cụ Bùi rất có uy tín, một người trẻ là chú. Chú là nhà thơ cũng
nổi tiếng lắm chứ. Còn nếu chú ngại mình trẻ quá, thì chiều nay chú mang
đến một thỏi mực Tàu và một cây bút lông. Chú chịu khó mài mực, tôi sẽ
vẽ... râu cho chú!
Đến đấy thì nhà thơ Huy Cận hết lý do từ chối.
Cần phải nói thêm điều này: Sở dĩ có chuyện phải thanh tra đặc biệt là bởi hồi ấy
Chính quyền cách mạng non trẻ, cán bộ phần lớn còn trẻ, rất hăng hái
nhưng chưa có kinh nghiệm công tác. Một số ít địa phương đã có biểu hiện
lạm quyền, bắt người không đúng phép thậm chí còn có cả chuyện tham ô
và tiêu cực... Thanh tra đặc biệt chính là để đề cao phép nước và an
lòng dân! Muốn đạt được điều đó, Ban “Thanh tra đặc biệt” của Chính phủ
đã được trao cho quyền hạn rất lớn:
-
Cụ Bùi và chú có quyền... “Làm trước, báo cáo sau” - Bác Hồ nói - Có
thể cách chức cán bộ tỉnh tại chỗ, nếu chứng minh được người ấy có tội
và trở về báo cáo sau.
Nhà thơ Huy Cận nhớ
lại: Đoàn “Thanh tra đặc biệt” đã được Chính phủ cho xe tô đưa về các
địa phương. Trước khi đi đến tỉnh nào, họ thường nắm trước thông qua Văn
phòng của Bộ Nội vụ về địa phương ấy. Chánh Văn phòng của Bộ N vụ lúc
đó là đồng chí Phan Bôi, một người tùng bị mật thám Pháp bắt lưu đày ở
đảo Mađagátxca, nhưng đã khôn khéo trở về nước bằng máy bay, rồi nhảy dù
xuống Việt nam, tiếp tục hoạt động cách mạng... Phan Bôi đã nhiệt tình
cung cấp đầy đủ những thông tin về vấn đề tiêu cực cần giải quyết ở địa
phương mà đoàn thanh tra đặc biệt sắp đến.
Về
đến tỉnh thì đoàn “Thanh tra đặc biệt” dựa vào tỉnh uỷ và đặc biệt là
“Nông hội Nông dân - Lực lượng chủ yếu đã làm nên Cách mạng tháng Tám
1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta). Họ thường khôn khéo, tế nhị cho một
vị cán bộ có lỗi đến, rồi phân tích, thuyết phục... Cái khó cho “Thanh
tra đặc biệt” là, hầu hết những vị cán bộ ấy đều có thành tích trong
Cách mạng và bây giờ đang giữ trọng trách của địa phương... Những câu mà
đoàn “Tthanh tra đặc biệt” thường nói là “Ban Thanh tra đặc biệt xin
chào đồng chí Chủ tịch! Chúng tôi rất hoan nghênh đồng chí đã lãnh đạo
quần chúng cách mạng cướp chính quyền nhanh chóng, thành công tốt đẹp và
trong những ngày vừa qua đồng chí đã lãnh đạo xây dựng địa phương tốt.
Nhưng bên cạnh đó, cũng còn một số khuyết điểm mà quần chúng nhân dân
phê bình, phản ảnh lên trên... Sau khi hội ý thống nhất với Tỉnh uỷ, Uỷ
ban hành chính và Nông hội... Chúng tôi đề nghị đồng chí giúp đỡ Cách
mạng bằng cách: Chuyển đổi công tác, thôi giữ chức vụ hiện nay. Tỉnh uỷ
sẽ bố trí cho đồng chí một nhiệm vụ khác, thích hợp hơn...
Nói
tóm lại là phải bằng mọi cách để người ấy tự nguyện từ chức một cách êm
đẹp. Cứ thế, chỉ trong một thời gian ngắn, đoàn “Thanh tra đặc biệt” đã
lần lượt cách chức vài vị chủ tịch tỉnh có lỗi với nhân dân. Những địa
phương mà đoàn chưa tới, nhiều cán bộ khác cũng phải tự điều chỉnh mình,
cố gắng công tác tốt hơn để “Thanh tra đặc biệt” của Chính phủ không
phải về làm việc...
Bị cất chức Bộ trưởng trong gần... 40 năm
Tháng
3.1946, để đối phó với thù trong giặc ngoài, Hồ Chủ tịch cùng Đảng ta
đã chủ trương thành lập “Chính phủ liên hiệp kháng chiến” với sự tham
gia của nhiều lực lượng chính trị, đảng phái khác nhau... Một hôm, nhà
thơ họ Cù được Bác Hồ đến và bảo:
- Từ ngày mai chú thôi làm Bộ trưởng nhé.
Huy Cận không chút thắc mắc, lễ phép nói ngay:
- Thưa Bác, nếu Bác và Cách mạng bảo làm gì, thì cháu xin làm nấy.
- Không, chú vẫn công tác ở Bộ Canh nông, chỉ không làm Bộ trưởng nữa. Nhưng mọi việc chú vẫn làm hết. Chỉ nhớ là khi nào cần ký, thì chú đưa cho ông Bồ Xuân Luật (một nhà yêu nước, người của Cách mạng Đồng minh Hội) ký. Ông ấy được mời làm Bộ trưởng để ký thay cho chú...
Từ
đó, Huy Cận làm Thứ trưởng cho đến gần... 40 năm sau và trải qua công
việc của 5 Bộ: Canh nông, Kinh tế Văn hoá và Văn phòng Hội đồng Chính
phủ...
Riêng ở Bộ Canh nông, tính ra Thứ
trưởng Cù Huy Cận đã lần lượt “giúp việc” cho 4 đời Bộ trưởng: Bồ Xuân
Luật, Huỳnh Thiện Lộc, Ngô Tấn Nhơn và Nghiêm Xuân Yêm.
Tháng 9.1947, Cù Huy Cận được điều về tăng cường cho Bộ Kinh tế. Hồi ấy,
Bộ trưởng Bộ Kinh tế là ông Phan Anh. Huy Cận được bổ nhiệm làm Thứ
trưởng phụ trách về sản xuất, còn Thứ trưởng phụ trách Thương mại là ông
Bùi Công Trùng. Công việc cụ thể của Thứ trưởng Cù Huy Cận là lo đôn
đốc sản xuất những thứ để kịp thời phục vụ kháng chiến: Vận động nông
dân trồng dâu nuôi tằm để lấy cái mặc; cố gắng sản xuất gang để sản xuất
vũ khí cho bộ đội.
Riêng về chuyện
sản xuất gang, vị Thứ trưởng - Nhà thơ đã cho mời một người tên là Vũ
Quý Huân, Việt kiều ở Pháp về để làm cố vấn tổ chức cho xây dựng cả một
lò luyện gang ở Nghệ An... Nhưng hì hụi nấu quặng mãi mà vẫn không ra
được gang, cuối cùng đành phải chuyển phương án tận dụng sắt vụn để nấu
lại..
Sau kế hoạch luyện gang Thứ trưởng
Huy Cận còn ủng hộ việc sản xuất acide sunfuric ở Chu Lễ (Hà tĩnh) và
lãnh đạo việc chuẩn bị tổ chức thăm dò khảo sát nguyên khoáng sản cho
đất nước sau này.
Cuối năm 1949, một lần nữa nhà thơ của chúng ta “chuyển nghề”: Ông được điều động về Văn phòng Chính phủ làm Thứ trưởng Tổng thư ký Hội
đồng Chính phủ (tương tự như Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ hiện nay)
cho đến năm 1955. Nhưng chuyện về “thâm niên” làm Thứ trưởng của nhà thơ
họ Cù thì phải đợi đến năm 1956, khi ông được điều về Bộ Văn hoá. Tại
đây, Huy Cận đã đảm nhiệm chức Thử trưởng Bộ Văn hoá liên tục cho tới
năm 1978. Nghĩa là ông giữ trọng trách này bền bỉ trong suốt... 22 năm!
Đó là một “kỷ lục” mà sau này rất khó có ai vượt qua nổi.
Chưa
hết. khi đến tuổi 65, nhà thơ Huy Cận còn được Hội đồng Nhà nước cử làm
Bộ trưởng Đặc trách Văn hoá - Nghệ thuật trong 3 năm (1984 - 1987). Như
vậy, trong cuộc đời hành chính của mình, Huy Cận đã có hai lần làm Bộ
trưởng. Đó cũng chính là quãng thời gian khởi đầu và kết thúc “sự nghiệp
quan chức” của ông. Nhà thơ Huy Cận nói rằng: Ông quan niệm chức vụ Bộ
trưởng hay Thứ trưởng chỉ đơn giản là “trách nhiệm xã hội”, vì trước hết
mình phải là một Con Người, sống và làm việc cho tốt... Bây giờ, rất ít
người còn nhắc đến chức danh Bộ trưởng của Huy Cận, nhưng danh hiệu cao
quý Nhà thơ của ông thì còn mãi với đời!
Mùa xuân năm con Ngựa này, nhà thơ họ Cù đáng kính của chúng ta đã bước sang tuổi 83. Dù bước đi của ông đã chậm, đôi tai
nghe có kém hơn trước, nhưng trí nhớ và sự minh mẫn của nhà thơ lão
thành này vẫn thật đáng nể. Vốn tính xởi lởi, ngồi nói chuyện với nhau,
thỉnh thoảng Huy Cận lại ghé sát vào tai tôi bảo: “Khoe riêng với anh
nhé, tôi vẫn làm thơ rất đều và hay. Sướng thật!”. Rồi ông bật cười rất
tự nhiên và thoải mái.
Tiếng cười của Huy Cận vẫn hào sảng như mỗi lần ông lên đọc thơ và công chúng đang vỗ tay nồng nhiệt chào đón ông...
Hà nội tháng 2.2002
Đặng Vương Hưng
Nguyễn Trọng Tạo
Vĩnh biệt nhà thơ Huy Cận: Giữa sầu đau và bi tráng, thanh cao và hương thơm
21-02-2005
Nhà thơ Huy Cận tên thật Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Trước
Cách mạng Tháng Tám, Huy Cận đã theo học hết bậc tú tài ở Huế, tốt
nghiệp Cao đẳng Nông Lâm... Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
ông đã tham gia hoạt động văn học. Năm 1936, Huy Cận có viết trên Tràng
An, Sông Hương (bút danh Hán Quỳ), năm 1938 đăng thơ ở Ngày nay. Năm
1940, xuất bản tập Lửa
thiêng được thi đàn đánh giá là người đã đem một phong cách thơ, một
hồn thơ mới lạ, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng trong sự nghiệp
thơ của Huy Cận.
Từ tháng 7-1945
đến tháng 9-1984, nhà thơ Huy Cận giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ
máy Nhà nước. Ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1957.
Năm
1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật cho các tác phẩm thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ
cuộc đời, Hai bàn tay em, Cô gái Mèo, Chiến trường gần đến chiến trường
xa, Ngày hằng sống, ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo.
Ông qua đời tại thủ đô Hà Nội, lúc 20 giờ 53 phút ngày 19-2-2005 (11 tháng giêng năm Ất Dậu), thọ 86 tuổi.
***
Gần 20 tập thơ đã được xuất bản, dù có tập có
bài rơi rụng theo thời gian, nhưng những gì còn lại của thơ ông cũng đủ
để làm nên một ngọn Thi Sơn Huy Cận thật đáng trân trọng
Vào
năm cuối cùng của thế kỷ XX, trong một cuộc trò chuyện về thơ, tôi có
nói với nhà thơ Huy Cận rằng, nếu chọn tốp ten các nhà thơ Việt Nam thế
kỷ thì nhất định phải có tên ông, và nếu chỉ chọn thất tinh thi sĩ (7
ngôi sao) thì vẫn có Huy Cận.
Ông không
lấy làm ngạc nhiên về nhận xét của tôi, mà còn tươi cười nói thêm: “Nếu
rút lại 5, ngũ hổ thơ ca chắc vẫn không loại Huy Cận ra ngoài được đâu!”
Ông quả là một nhà thơ đầy tự tin về tài năng thơ ca của chính mình.
Huy
Cận xuất hiện trên thi đàn Thơ Mới cuối những năm ba mươi, khi đang là
sinh viên của Trường Cao đẳng Nông Lâm và làm xôn xao làng thơ bằng tập thơ đầu tay Lửa thiêng in năm 1940. Hai năm sau, ông xuất bản liên tiếp tập thơ Vũ trụ ca và tập văn
xuôi Kinh cầu tự, khẳng định tài năng văn chương khi vừa bước qua tuổi
20. Vừa đi học, vừa làm thơ, vừa bí mật hoạt động cách mạng đến tháng
7-1945, ông được tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy
ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà) và cùng Trần Huy Liệu vào Huế nhận ấn
kiếm của Bảo Đại, chấp nhận sự thoái vị của ông vua cuối cùng triều
Nguyễn. Có thể nói, Huy Cận là nhà thơ đầu tiên giữ chức bộ trưởng trong
chính phủ mới (Bộ Canh Nông). Từ đó ông luôn là một quan chức cao cấp
với nhiều chức danh khác nhau: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Kinh
tế, Thứ trưởng Tổng Thư ký Hội
đồng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách văn hoá -
thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Từ hồi ông
về làm việc hẳn ở Ủy ban Trung ương LHVHNTVN 51 Trần Hưng Đạo, thỉnh
thoảng tôi được gặp ông. Ông sống thật giản dị, chuyên mặc bộ vét tông
cũ, và buổi trưa thường ăn bánh mì, cơm nắm muối vừng hoặc bún lá đậu
phụ mắm tôm của mấy bà hàng rong ghé cổng cơ quan. Nhưng khi trò chuyện
thì ông rất vui. Ông bảo ông sống khỏe và đầu óc luôn minh mẫn vì ông có
bí quyết giữ vệ sinh tinh thần, chuyên nghĩ những điều tốt. Câu chuyện
của ông thường quay về những vấn đề văn hoá và thơ ca, và phải nói là
ông rất am hiểu các nền văn hoá đông tây kim cổ. Đến các địa phương, ông
thường nhắc nhở các vị lãnh đạo phải quan tâm tới lực lượng văn nghệ sĩ
thiết thực hơn nữa, vì văn nghệ sĩ là những người làm ra sản phẩm tinh
thần cao cấp cho xã hội.
Đọc được
một bài thơ hay của lớp trẻ trên báo, ông không tiếc lời khen. Có lần,
ông thích bài Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn tôi viết về tài năng
thi ca của nhạc sĩ họ Trịnh, thế là lần nào gặp tôi, ông cũng nói một
câu đầy cảm động: “Cảm ơn Trọng Tạo đã cho Huy Cận biết Trịnh Công Sơn
là một nhà thơ”. Tôi đùa ông: “Em đã nghe anh “cảm ơn” mấy lần rồi mà!”
Ông cười: “Khi mình đã thích thì cảm ơn bao lần cũng không thừa đâu”. Có
hôm Huy Cận ghé vào phòng làm việc của tôi và đưa ra một ý kiến khá bất
ngờ, ông nói rằng ông muốn đề nghị đuổi hai từ “thông cảm” ra khỏi từ
điển tiếng Việt. Chả là khi đó người ta đang xử một vụ án lớn tham ô
tham nhũng thất thoát hàng nghìn tỉ đồng và phạm nhân muốn được... thông
cảm về trình độ quản lý non kém của họ. Sau ý nghĩ đó, ông lại nói thật
vui: “Chỉ tội ăn cắp sách hay là có thể tha thứ được”.
Một
con người giản dị mộc mạc như thế lại là một thi sĩ mang tư duy vũ trụ
với một ngôn ngữ cao sang, chắt lọc hiếm thấy ở đời. Người Việt Nam
không mấy ai không thuộc những bài thơ thật hay của ông như Tràng giang,
Đường thơm, Các vị La Hán chùa Tây Phương... Thơ ông có sầu đau và bi
tráng, có thanh cao và hương thơm, có phận kiếp và cảm quan vũ trụ. Gần
20 tập thơ đã được xuất bản, dù có tập có
bài rơi rụng theo thời gian, nhưng những gì còn lại của thơ ông cũng đủ
để làm nên một ngọn Thi Sơn Huy Cận thật đáng trận trọng.
Nguyễn Trọng Tạo
Trần Mạnh Hảo
Huy Cận - Lửa vẫn còn thiêng
Trần Mạnh Hảo
Từ
độ Nguyễn Du lục bát hoá đời Kiều để ngự trên ngôi báu thi ca, chừng
như long mạch thơ nước Việt đã mấy lần rót về Hà Tĩnh, khơi nguồn cho
những dòng thơ lớn khác xuất hiện: Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu và Huy
Cận. Sau tám năm từ độ ra đời, Thơ Mới (1932-1945)
đang cuồn cuộn chảy như một dòng sông lắm ghềnh nhiều thác, lúc ẩn, lúc
hiện, chợt bùng lên rồi lắng lại sững sờ, như ngẩn ngơ, như luyến tiếc
cội nguồn? Kể cũng lạ, khi dòng Thơ Mới cuộn chảy, gầm reo tới cao trào
với Xuân Diệu thì cũng là lúc nó chợt phình ra giống một cái hồ cho mưa
nguồn chớp bể trong hồn sông nước được nghỉ ngơi, trầm lắng, ưu tư mà
hoài cổ. Khúc sông giống hồ nước của dòng Thơ Mới ấy chính là Huy Cận
với tập Lửa
thiêng gồm 50 bài thơ ra mắt năm 1940. Nếu không có khúc sông hoá hồ
nước Huy Cận giúp Thơ Mới có cơ hội lắng xuống, thảnh thơi và điềm tĩnh,
chùng chình và mênh mông lại, biết đâu nó đã chẳng chảy tuột vào bể
thẳm Tây phương? Chừng như hình thức complet, cravate của Phương Tây Huy
Cận khoác lên người không mang nổi hồn vía Đông phương u uẩn, thẳm vời
trong ông? Sau khi nhà thơ từng thổn thức nỗi Verlaine, cái hồn ấy phiêu
du ông về vạn cổ, kéo ông lạc vào Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du... ngay giữa lòng thế kỷ 20 ồn ào phố xá... Thành ra, trong
dòng thơ mới sục sôi với tầng tầng lớp lớp thi nhân, Huy Cận tuy không
khăn đóng áo the như Đông Hồ, không nâu sồng dân dã như Nguyễn Bính,
nhưng hồn ông đã ràng buộc với thất ngôn và lục bát xưa. Ông hoá nỗi
buồn xưa mà lênh đênh nguồn cội, một mình bơ vơ ngay giữa “Hội trùng
dương” Thơ Mới, bơ vơ ngay giữa hồn mình. Có thể nói, Huy Cận cô đơn
ngay cả trong niềm nồng cháy ban đầu Xuân Diệu. Vì sao một gã trai mười
chín đôi mươi lại có một tâm hồn nghìn tuổi, một niềm thơ vạn cổ rất tân thời như Lửa thiêng?
Ta
bắt gặp trong Lửa thiêng một Huy Cận buổi “Tựu trường-Thơ Mới”, tuy
không mê đắm đến điên cuồng “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” như
Xuân Diệu, nhưng cũng rất tinh khôi niềm yêu đời, một niềm cách tân cả ý
tưởng đến hồn vía: “Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát” (Tựu trường).
Chiếc tủ-hình-thức-Tây phương vừa đánh verni, tưởng chỉ có thể treo
những bộ áo quần tân thời ý tưởng như câu thơ rất Tây trong bài Tình tự:
“Sáng hôm nay hồn em như tủ áo / Ý trong veo là lượt xếp từng đôi”.
Huy Cận đi giữa tủ, rương như đi giữa những thời đại bảo tàng, những
thời đại ngọc ngà dễ vỡ, tưởng chừng ông toan biến đời mình thành chiếc
rương cất giữ vẻ tân kỳ hôm nay: “Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc”
(Tựu trường). Một cậu trai thuần khiết “Quần áo trắng đẹp như lòng mới
mẻ” thuở ấy ai ngờ lại có thể viết được những câu thơ rất mới, rất Tây:
“Anh hãy bận hồn em màu sáng chói” (Tình tự)... “Lòng giắt sẵn ít hương
hoa tưởng tượng” (Đi giữa đường thơm)... hoặc “Bắt gặp mùa tươi lên rún
rẩy” (Xuân)... Huy Cận chìa câu thơ thất ngôn truyền thống ra như chìa
bàn tay mình để bắt tay ngọn gió mới Tây phương, bằng cách đột ngột gieo
một liên từ làm vần cuối câu thơ thứ hai, khiến câu thơ vừa đứt, vừa
nối, vừa chênh vênh, hụt hẫng lại vừa an nhiên, tự tại: “Khi bóng hoàng
hôn phủ núi xa / Khi niềm tư tưởng vướng chân, và... (Em về nhà). Ta còn
có thể bắt gặp trong Lửa thiêng nhiều vẻ đẹp Tây phương mới lạ của Huy
Cận, nhất là trong 15 bài thơ 8 chữ khá phóng túng của ông như bài Trò
chuyện: “Phố không cây thôi sầu biết bao chừng”, “Buồn vạn lớp trên mái
nhà dợn sóng”, “Chiều hiu hiu khêu gợi nhớ nhung hờ”, “Hồn bơ vơ không
biết tựa vào đâu / Mây không bay thương nhớ cũng không màu / Nắng không
xế và lòng sầu mất hướng”... Huy Cận thậm chí Tây không kém gì Xuân Diệu
với nỗi sầu, nỗi chết ban đầu với tận cùng cảm giác kiểu “Tay bồng
thân, và tay nữa ôm mồ” (Trình bày)... “Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài
đường”... “Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn” (Ngủ chung)... hoặc “Ôi
chiều buồn sao nắng quá mong manh” (Nhạc sầu). Ta có một Huy Cận hướng
ngoại tới tận trời tượng trưng Verlaine cả trong buồn, vui, sống, chết,
trong thế giới khả giác lúc nào như cũng muốn nổi da gà. Có khi, Huy Cận
thử tìm tới tất cả, thử vồ vập tất cả nhưng vì sao ông chưa thoả nỗi
rưng rưng, dù khi ông viết về tình yêu thời đi học với những câu thơ hay
đến kinh ngạc: “Một hôm trận gió tình yêu lại / Đứng ngẩn trông vời áo
tiểu thơ” (Học sinh). “Trận gió tình yêu” mới mẻ phương Tây rất nồng
nhiệt kia đã thổi bay đi tất cả niềm vui mong manh chớm hé. Chỉ còn lại
nhà thơ “Đứng ngẩn trông vời...” hiện tại, dù hiện tại kia, tình yêu kia
kỳ diệu tới mức, lãng mạn tới mức thần tiên: “Em lùa gió biếc vào trong
tóc / Thổi lại phòng anh cả núi non”(Áo trắng). Nhờ “Em”, nhờ ngọn gió
tóc kia mà căn phòng anh được nới rộng ra cả đất trời? Hay chính là “Em”
đã nhốt núi non, nhốt cái sừng sững cao vời vào căn phòng thi ca anh để
vô hạn hoá cái hữu hạn? Niềm vui tình đầu Huy Cận đẹp thế, hay thế
nhưng chỉ là gió thổi qua, chỉ là thoáng chốc. Trong thơ, Huy Cận cần
một cách giải thoát khác Xuân Diệu.
Huy
Cận đi từ “ngẩn” tới “vời”: “Đứng ngẩn trông vời..., đi từ tha nhân đến
bản thân mình, từ niềm vui đến nỗi cô đơn, như chiếc thuyền trong bài
Mưa sau: “Lòng êm như chiếc thuyền trên bến / Nghe rét thu về hạ bớt
mui”. Câu thơ này mới đích thực thần thái Huy Cận; nó hay một cách hoang
vắng, se se, tồi tội, khẽ khàng, hiu hắt. Tâm hồn Huy Cận là chiếc
thuyền miền sơn cước thi ca, lặng lẽ “hạ bớt mui” khi rét thu về, lặng
lẽ rút vào tranh thuỷ mặc xa xưa mà u tịch. Nếu Xuân Diệu nhảy bổ vào
tình yêu như nai kia khát nước nhảy bổ vào nguồn suối, lăn xả vào đời
sống con người mà choàng ôm tất cả, mà mê cuồng, say đắm tất cả thì Huy
Cận ngược lại, cứ một mình thui thủi tìm về nơi hoang vắng, tránh xa nơi
phồn hoa đô hội. Huy Cận tĩnh bên một Xuân Diệu động. Huy Cận xưa bên
một Xuân Diệu nay. Huy Cận buồn bên một Xuân Diệu vui, dù cả hai đều
“Hai chàng thi sĩ choáng hơi men” (Tình trai -X.D.). Những bài thơ hay
nhất trong Lửa thiêng là những bài Huy Cận thu hồn về ở ẩn trong một
thiên nhiên hoang vắng, thẫn thờ, như thể ông đã bị cuộc đời dồn đến
trước lầu “Ngưng Bích”, cùng Thuý Kiều lẫn vào “Vẻ non xa tấm trăng gần ở
chung” (Kiều). Trong 50 bài Lửa thiêng, chỉ có 8 bài thơ lục bát: Buồn
đêm mưa, Trông lên, Chiều xưa, Đẹp xưa, Thuyền đi, Xuân ý, Thu rừng và
Ngậm ngùi. Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, Lửa thiêng dù có
nhiều bài thất ngôn hay ví như Tràng giang thì cũng chưa thể làm nên một
Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài lục bát, đã
đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du
từng ít nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu
riêng mình. Thấm đẫm hồn thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hoá câu thơ
sáu tám Việt Nam. Ông như người kế thừa trung thành của phả hệ lục bát
Nguyễn Du rồi phát triển nó về u tịch. Đọc thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ
như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như thể bút thần xưa được hậu thế
cầm lên viết tiếp, như bài Đẹp xưa:
Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người...
Câu
thơ “Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang” trên của Huy Cận làm ta nhớ
đến “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn
muôn năm trước mà hiện đại hoá câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa vàng
đẫm lá thu nay: “Vi vu gió hút nẻo vàng”. Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng
nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng
là mái thơ: “Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người”. Cũng như bài
Đẹp xưa, bài lục bát Buồn đêm mưa và bài Chiều xưa hay đến từng câu từng
chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng rời, đẹp đến ngơ ngác, hoang
vu. Viết về nỗi bơ vơ kiếp người, về nỗi buồn bản thể, nỗi buồn xa
vắng, mù tăm tưởng không ai bằng Huy Cận: “... Lòng run thêm lạnh nỗi
hàn bao la / Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nặng nặng, nghe ta
buồn buồn” (Buồn đêm mưa). Tưởng chừng Huy Cận phải đội trên đầu cả vòm
“trời nặng nặng” mà nghe “ta buồn buồn”, rồi thơ thẩn đi hết cõi “Lửa
thiêng”, để nghe trọn vẹn trong hư không: “Những chân xa vắng dặm mòn lẻ
loi”, “Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ”. Huy Cận gom mình về thành
quách xưa mà cô đơn một thuở với trời đất; tuy ông vẫn để ngỏ các cửa
thành cho gió ngàn năm bơ phờ cư ngụ: “Gió về, lòng rộng không che”.
Thổi hiu hiu, thổi u u trong lục bát Huy Cận loài gió hạc vàng, gió tùng
bách, gió khói sóng. Những hồn gió liêu trai từng thổi qua Đường thi,
Tống thi, thổi qua sao Khuê ở ẩn Nguyễn Trãi, qua vầng trăng xẻ nửa
Nguyễn Du mà thành bờ “lau thưa” Huy Cận:
Buồn veo theo gió bên hồ
Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về
Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Trên thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu... (Chiều xưa)
Nhà ẩn sĩ của nỗi buồn xưa để tâm hồn mình trôi qua hai bờ lục bát như bóng cờ kia quằn quại trôi qua đôi bờ
trời chiều và “Thành son nhạt”, càng trôi càng sững lại, càng phải vật
vã với gió mà níu lấy hồn xưa ngơ ngẩn. Phải chăng tinh thần của Lửa
thiêng là tinh thần của lá cờ quá vãng ăn toàn gió xưa mà tồn tại, mà
nghi ngút khói mây: “Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về”? Huy Cận mang
hồn Nguyễn Du để làm nên giọng điệu lục bát rất riêng, rất mới của mình
như bài Thu rừng sau đây:
... Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng...
Hai cặp lục bát trên đều đi nhịp đôi khe
khẽ, rón rén, thi thoảng, theo kiểu cứ một bước sương lại một bước
khói, như trời thu theo nai xuống núi, theo “chim đi” vì không nỡ bay sợ
làm động vỡ hồn thu. Huy Cận mượn bút vẽ Tề Bạch Thạch mà vẽ bức thuỷ
mặc lục bát Thu rừng có một không hai. Chỉ thấy nai, thấy chim, thấy sắc
trời, thấy lá rụng, tuyệt nhiên không thấy người đâu, mà không đâu
không ám ảnh hồn người. Cảm giác, ấn tượng của những câu thơ trên mạnh
tới nỗi rùng mình, người đọc chợt được hoà tan vào từng câu chữ, khiến
bài thơ như chợt vượt ra ngoài trang giấy mà hoá vô biên thu, hoá vô tận
rừng, hoá mênh mông hồn thu Huy Cận. Nói đến lục bát Huy Cận, không thể
không nhắc tới Ngậm ngùi. Bài Ngậm ngùi tuy không tuyệt bích như các
bài Thu rừng, Đẹp xưa, Buồn xưa, Buồn đêm mưa, nhưng nó mang yếu tố mới
của thơ tình, trước đó thơ ta chưa có chuyện người đàn ông “hầu quạt” ru
người con gái ngủ. Bài thơ mang được phẩm chất sầu mộng của thời đại,
được phổ nhạc thành bài hát rất hay, rất quen thuộc nên người ta dễ nhớ
hơn những vần lục bát thần diệu trên. Thơ thất ngôn Huy Cận đạt tới
tuyệt đỉnh với Tràng giang, với nỗi buồn hoài cổ tầng tầng lớp lớp sóng,
lớp lớp mây tâm trạng, như thể nhà thơ đã kéo dài mạch chảy của những
dòng sông thi ca Vương Bột, Thôi Hiệu..., những dòng sông thi ca “Trông
vời trời nước mênh mang” Nguyễn Du xưa mà trải hồn mình ra nghìn dặm xưa
sau. Huy Cận là nỗi buồn tiếp nối ông cha: “Vạn lý sầu lên núi tiếp
mây”, như thể ngàn xưa còn vọng mãi nỗi niềm rơm rớm nắng mưa nay: “Nắng
đã xế về bên xứ bạn / Chiều mưa trên bãi nước sông đầy”(Vạn lý tình).
Hãy đọc thất ngôn Huy Cận lên để nghe không gian chùng xuống đến tận
cùng dây tơ thời gian: “Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để
tơ chùng?” (Nhớ hờ).
Huy Cận
với Lửa thiêng còn ở bên trời “đàn lẻ”, là nỗi buồn xưa, hồn xưa lưu
lạc tới hôm nay vẻ hiu hắt, ngậm ngùi kiếp người. Ông mang đến cho thi
đàn một nỗi buồn đẹp như quê hương, như nước mắt trời xanh. Hình như sự
vĩnh cửu từng níu lấy áo Huy Cận mà kéo ông về bất tử thi ca ngay từ
thuở vừa ngoài tuổi đôi mươi. Lửa thiêng có lẽ là tập thơ toàn bích nhất trong các tập thơ ra đời từ 1932-1945
trong phong trào Thơ Mới? Cây cổ thụ Huy Cận sẽ còn xanh tươi mãi trong
vườn thơ dân tộc như câu thơ ông từng viết trong bài Hoạ điệu: “Cây
không đi mà tình cũng nghiêng nghiêng”.
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Bình luận 2
Phạm Minh Ngọc
Nguồn: Báo An ninh thế giới cuối tháng, số 43, tháng 2-2005
Kỷ niệm Cách mạng mùa thu
Nhà
thơ Huy Cận: Lúc vào Đại hội Tân Trào, anh Trần Huy Liệu giới thiệu tôi
vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng. Tôi nhớ là hôm đó bầu 15 người. Đến lượt
tôi, anh Trần Huy Liệu giới thiệu: “Nhà thơ Huy Cận, bây giờ đã “bỏ bút
nghiên theo việc đao cung”, xin Đại hội bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải
phóng”. Bỗng nhiên, ở hàng đầu có một ông dáng cao cao đứng lên nói:
“Tôi không đồng ý!”. Tôi chột dạ, chắc ông này không muốn bầu mình vào
Uỷ ban. Anh Trần Huy Liệu mới hỏi tại sao, thì ông phản đối mới nói thế
này: “Tôi không đồng tình với việc “bó bút nghiên theo việc đao cung”;
bầu nhà thơ Huy Cận nổi tiếng vào Uỷ ban thì tôi đồng tình, nhưng mà bỏ
bút nghiên là không đúng. Bút nghiên cũng là vũ khí đấu tranh cho độc
lập dân tộc”.
Người ấy là ai? Người
ấy là đồng chí Tống, bí danh của đồng chí Phạm Văn Đồng. Cả ông Liệu và
tôi thở phào một cái... Ở Đại hội Tân Trào có hai người làm thư ký đoàn
là anh Khuất Duy Tiến và tôi... Đây này, đây là ảnh của Chính phủ lâm
thời năm 1945! Cụ Hồ đây; còn đây là ông Trần Huy Liệu, Phó chủ tịch;
ông Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia, ông Võ Nguyên Giáp, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ; ông Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Tài chính ông Nguyễn
Mạnh Hà, Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia; ông Hoàng Tích Chí, Thứ trưởng
Bộ Y tế ông Hoàng Minh Giám, Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ; ông Vũ Trọng
Khánh, Bộ trường Bộ Tư pháp; còn đây nữa, ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ
Canh nông (cười). Còn đây là ảnh Chính phủ trong kháng chiến ở Việt Bắc,
Cụ Hồ đây, tôi được ngồi cạnh Cụ Hồ. Hôm đó, tôi đang tìm chỗ đứng thì
Cụ bảo: “Chú ngồi đây”. Thế là Cụ Hồ ngồi đây và tôi ngồi đây. Lúc ấy,
tôi 30 tuổi, năm 1949... Còn đây là hình Huy Cận năm Lửa thiêng ra đời,
cũng khá đẹp trai đấy chứ (cười).
Phóng viên: Năm 1945, 26 tuổi, ông là Bộ trưởng Bộ Canh nông. Trên cương vị ấy, ông có làm được gì không?
Huy
Cận: Trời ơi, rất có công! Anh nói như vậy là anh nghi ngờ thành tích
của Bộ Canh nông hả? (cười). Được rồi, để tôi nói cho mà nghe. Tôi làm
Bộ trưởng Bộ Canh nông từ tháng 9-1945 cho đến hết tháng 3-1946, khi
thành lập Chính phú Liên hiệp kháng chiến thì tôi không làm Bộ trường
nữa và Cụ Hồ giao cho ông Bồ Xuân Luật làm Bộ trưởng. Nhưng tôi không đi
đâu cả Cụ Hồ bảo: “Chú cứ ở đấy nhưng mà chú làm Thứ trưởng, và bây giờ
mọi việc chủ cứ làm như trước, chi có việc ký là
người khác”. Sau trận đói Ất Dậu, đen lúc bấy giờ vẫn đói, nhiệm vụ của
Bộ Canh nông rất cụ thể là tăng gia sản xuất gấp để cứu đói Tôi lúc đó
được các anh em giúp việc như Hoàng Văn Đức, Bùi Huy Đáp... Chương trình
của Bộ Canh nông là phải tăng gia sán xuất cứu đói bằng cách sán xuất
những thứ ăn ngay, ăn nhanh như ngô 3 tháng, lúa 3 tháng, trồng rau, rau
muống trồng khắp nơi, rồi nuôi gà, nuôi vịt,... Thế nhưng lấy vốn đâu,
lấy gì ra để đầu tư. Thì đây có một nguồn đầu tư rất lớn là sức lao động
đông đảo của bà con nông dân. Và những biện pháp mà Bộ Canh nông đưa ra
đã có kết quả ngay: trên đường đi chỗ nào cũng thấy trồng rau. Thế là
công tác cứu đói có kết quả ngay, cái thành tích lớn là như thế. Đồng
thời, thành tích thứ hai là xây dựng cơ sở cho bộ máy canh nông, từ Bộ,
rồi Cục, Viện nghiên cứu, Sở Canh nông ở các tỉnh... Việc tổ chức bộ máy
rất nhanh và anh em làm việc tích cực lắm. Tôi xin nói với các anh một
câu mà thường thường người ta hay quên, đó là “thần thiêng nhờ bộ hạ”.
Tôi là Bộ trưởng, tất nhiên tôi cũng là một kỹ sư canh nông, nhưng nhờ
có anh em đoàn kết chung sức với mình, Hoàng Văn Đức rất có công, Bùi
Huy Đáp rất có công. Phải biết là trong Cách mạng Tháng Tám, Nông hội có
uy tín rất lớn. Nhân đây, tôi cũng xin nói với các anh rằng, Cách mạng
Tháng Tám là do nông dân làm nên là chủ yếu. Nông hội hồi đó có uy tín lắm, gần như là chính quyền thứ hai rồi...
Phóng
viên: Khi ông còn rất trẻ, ông làm Bộ trưởng thì nói chung là rất khó
khăn rồi, vì khi ta trẻ ta đã có kinh nghiệm gì đâu...
Huy Cận: Cứ làm thì nó ra kinh nghiệm. Các anh không biết cái câu nổi tiếng à: “Làm thì ra kinh nghiệm”!
Phóng viên: Thế việc ông làm Bộ trưởng so với sau này khi ông đã lớn tuổi làm Thứ trưởng thì...
Huy
Cận: Khoan, khoan!... Nhà nước, cụ thể là Đáng và Bác Hồ giao gì thì
tôi làm nấy, không có băn khoăn thắc mắc là tại sao lại hạ chức...
Phóng viên: Không, ý chúng tôi muốn hói là, khi nào ông cảm thấy khó khăn hơn?
Huy
Cận: Tôi nói cho các ông nghe nhé, khi ấy tôi mới 26 tuổi, cũng mới ra
trường được vài năm thôi, đã làm Bộ trưởng, mà tôi làm được. Cái ấy là
nhờ anh em, nhưng mà trên hết là được sự dìu dắt của Bác Hồ, của Đảng...
Hai nữa, không biết là tôi khoe hay cái gì nữa, nhưng có một cái mẫn
cán như thế nào đó công việc nặng mình cảm thấy mình cũng nắm được, và
bởi vì mình có ý thức về chính trị, mình có ý thức về văn hoá, thành thử
mình dễ nắm. Và, quan trọng nhất là dựa vào anh em, “thần thiêng nhờ bộ
hạ” mà (cười).
Tình thơ sóng đôi
Phóng viên: Ông với nhà thơ Xuân Diệu gặp nhau như thế nào?
Huy
Cận: Tôi với Xuân Diệu gặp nhau lần đầu tiên ở Trường Quốc học Huế
tháng 9-1936. Lúc bấy giờ, đấy mới chỉ là trường tú tài ở Huế, gọi là
Trường Khải Định. Những người học sinh quê ở Trung Kỳ thường về học năm
thứ 3 ở Huế. Anh Diệu đậu phần tú tài thứ nhất ở Hà Nội, ở Trường Bưởi,
nhưng đến năm thứ ba, không chi mình anh Diệu mà còn một số người nữa
cũng về học ở Trường Khải Định. Lúc bấy giờ, tôi mới vào năm thứ nhất
của trường tú tài, còn anh Diệu đã năm thứ 3. Gặp nhau thì có một người
giới thiệu, bảo: Ồ hai ông Hà Tĩnh mà đều làm thơ cả! Đọc thơ thì thích,
nên có thể nói là kết nghĩa ngay lập tức, từ đó trở đi thành đôi bạn
suốt đời 50 năm, kết bạn từ năm 193e, cho đến lúc anh Diệu qua đời tình
bạn chúng tôi đã có với nhau hơn 49 năm, 49 năm mấy tháng, có thể nói
là nửa thế kỷ tình bạn.
Phóng viên:
Trong tập Thơ thơ Xuân Diệu có viết là “Tôi thích Rimbaud và Verlaine.
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men. Say thơ xa lạ, mê tình bạn, Khinh rẻ
khuôn mòn, bỏ lối quen....
Huy Cận: Viết
trước khi gặp tôi. Đó là ông nghĩ đến cái tình giữa Verlaine và Rimbaud
thôi, chứ không phải viết là do tôi và Xuân Diệu gặp nhau.
Phóng viên: Cả ông và nhà thơ Xuân Diệu hồi trẻ đều uống rượu chứ!
Huy
Cận: Anh Diệu có uống rượu nhưng không uống nhiều, chỉ thưởng thức
rượu. Còn tôi thì tuyệt đối từ trước đến nay không bao giờ uống rượu. Từ hồi đi
học, rồi tới tuổi thanh niên và cho đến mãi sau này, ngay cả khi đi
hoạt động quốc tế, hễ ai mời uống rượu thì tôi cũng nói rất thăng thắn
là tôi không biết uống rượu. Tôi không uống rượu, không hút thuốc lá,
nhờ thế mà khóe đấy Một số nhà thơ bị ung thư, mất sớm là do uống rượu
nhiều quá đấy...
Ký ức tình yêu
Phóng viên: Hồi trẻ ông đẹp trai như thế này, thì nhiều cô mê lắm...
Huy
Cận: Cũng có đẹp trai. Tôi nói thế này, tình yêu của tôi cũng như tình
yêu của nhiều người, không có cái gì đặc biệt. Có những tình yêu lâu
dài, dai dẳng cho đến tận sau này, cũng có những tình yêu ngắn ngủi và
cũng có cả những tình yêu không thành, chứ không có gì đặc biệt. Anh
cũng thế, ai cũng thế thôi, có những tình yêu không thành, mình muốn mà
không thành, có những tình yêu thì thành nhưng mà ngắn ngủi, có những
tình yêu dai dăng suốt đời... Tôi cũng may là có được nhiều tình yêu,
cho nên...
Phóng viên:... Làm được thơ?
Huy Cận: Tất nhiên, nhưng nó cũng chi là một nguồn thôi chứ không phải là nguồn đuy nhất. Tình yêu đôi lứa
không phải là nguồn thơ duy nhất. Còn có tình yêu đất nước, tình yêu
thiên nhiên... Nhưng tôi cũng có những cái tình yêu hấp dẫn. Năm 1940,
chưa ra tập “Lửa thiêng”, nhưng báo Ngày nay liên tục đăng thơ tôi. Thế
là tôi liên tiếp nhận được thư của một người không ký tên,
nhưng trời ơi! Thư viết hay lắm, mê lắm, xúc động lắm! Mà tôi tiếc là
tập thư ấy cháy mất trong kháng chiến, tôi để nó trong một cái hòm ở
Hương Khê, nhà bị cháy nên cháy luôn, tôi tiếc ngơ tiếc ngẩn. Cô này có
trình độ văn hoá, có cả trình độ văn học nữa, mà không ký tên.
Có cái lạ là, tôi đi đến đâu thì thư đi đến đấy Tôi đi nghi ở Đồ Sơn
với Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, không biết lần mò địa chỉ thế nào mà
thư đến kịp gặp tôi ở Đồ Sơn. Tôi học Trường Canh nông chủ yếu là ở Hà
Nội, nhưng cũng có mấy tháng học ở Sài Gòn, thư cũng đến Sài Gòn. Lạ
quá! Cái cô này, cô theo dõi mình một cách kinh khủng. Thư viết xúc động
lắm!
Phóng viên: Chả lẽ sau này lại không gặp được nhau nữa?
Huy
Cận: Cứ để tôi nói cho các anh nghe. Cái người viết ấy chữ không khác
gì như chữ con trai, nhưng lời lại như lời con gái. Có một hôm, mùa đông
năm 1940, tôi sắp sửa xách xe đạp đi học (Trường Canh nông hồi ấy
ở Bách thảo, gần Lăng Bác Hồ bây giờ) thì có một cái bưu phẩm đến. Mình
mở ra. Trời ơi! Một cái áo trắng rất đẹp. Đằng sau cổ thêu một câu thơ
của tôi: “Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh”; câu ở trong bài Tình tự.
Nhưng mà mình mở ra thì mặc không vừa, dù mình chưa béo như bây giờ...
Thì mình cũng chả trách vì đã bao giờ người ta ôm mình đâu, mà mình cũng
đã ôm người ta đâu mà biết vừa hay không (cười). Thành ra áo thì rất
đẹp nhưng phải gói lại cho vào hòm rồi lại xách xe đạp đi. Hôm ấy trời
rét nhưng mình cảm thấy ấm vô cùng. Sau đó mấy tuần, bấy giờ tôi ở ngõ
Tân Hưng, nay là ngõ Tức Mạc, anh em ở chung khoảng 10 người, thì có một
cô tự nhiên đến, mặc cái áo trắng rất đẹp, các ông ạ. Cái áo trắng bằng
lụa Hà Đông. Cô ấy nói chuyện với tất cả mọi người nhưng mà phân biệt
đối xử đối với tôi Thế thì mình cũng đủ thông minh và đủ linh tính,
thôi, chắc người này viết thư cho mình rồi. Cô ấy là sinh viên Đại học Y
học sau tôi một lớp, thua tôi một tuổi. Hết buổi nói chuyện, cô dắt xe
đạp ra về, thì tự nhiên cái chân tôi đi theo. Tôi xin nói là cái chân
tôi đi theo chứ không phải là tôi đi theo (cười). Ra đến cửa ngõ, tự
nhiên cô ấy dừng lại. Lúc bấy giờ, cô nói như thế này: “Anh có nhận đủ
thư em không?”. Tôi bảo: “Có!”. Thế là cô lên xe cô ấy đi không kịp nói
câu gì nữa. Cách đó mấy hôm, tôi nhận được một cái thư viết như một chỉ
thị: “Chủ nhật tới, anh đến gặp em”. Thế là mình ngoan ngoãn nghe thôi.
Hẹn 9 giờ, 9 giờ kém 10', mình đến đã thấy cô ấy cũng đứng ở trước
Trường Thú y trên đường Bạch Mai. Bây giờ gọi nhau thế nào? Tiếng Việt
Nam tài lắm, mình định gọi em nhưng mà chưa đủ tình cảm để gọi em, gọi
nàng thì “Tự lực Văn đoàn” quá (cười) gọi cô thì lại khách sáo. Không
cô, không nàng, không em thì phải làm thế nào? Thế là hỏi một câu không
có chủ từ: “Đi đâu bây giờ?”. Nhưng cô rất chủ động: “Anh đi theo em”.
Thế là cô ấy lên xe đạp. Chỗ nào đường đông thì cô đi trước, mình lẽo
đẽo theo sau; chỗ nào đường hơi rộng thì đi song song.
Từ đó đi vào Thanh Xuân, trên đường vào Hà Đông thì dắt qua bờ ruộng đi
vào một cái khóm cây, một cái rừng nhỏ, có một cái nhà thờ họ đạo nhỏ.
Nói chuyện với nhau trên trời dưới đất, không đả động đến tình yêu. Gặp
nhau lúc 9 giờ, đi đến nơi 10 giờ, từ 10 giờ đến 12 giờ không nói đến
tình yêu. Trước khi đi, cô ấy có chuẩn bị bánh mỳ xúc xích đi theo. Đến
12 giờ, thì chuông nhà thờ đổ. Tôi nghe chuông nhà thờ đổ, tôi cũng xúc
động đấy nhé, mà chuông chùa cũng thế! Lúc ấy cô ấy hỏi: “Anh có thuộc
bài hát Cinema không?”. Tôi bảo tôi có thuộc, để tôi hát cho cô nghe, cô
ấy bảo để em hát trước. Một bài hát rất hợp cánh với chúng ta, một cái
bài hát trong đó có một thôn nhỏ, một cái nhà thờ nhỏ, một buổi sớm mùa
xuân. Cô ấy hát xong thì khóc nức nở... (Huy Cận hát: “Tình yêu ơi, ta
thấy mặt em trong một sáng mùa xuân... Tình yêu ơi, ta được thấy mặt em
và cá lòng phản bội của ta...). Lúc bấy giờ thì tôi nói thật là chưa đủ
tình cảm, thế nhưng người ta hát vì mình, người ta xúc động vì mình! Tôi
ôm cô ấy, xúc động, một hồi lâu.
Rồi khi cô ấy hết khóc thì lại nói chuyện trên trời dưới đất, không đả
động đến tình yêu, rất lạ! Trong một hoàn cảnh như thế, tôi nói anh em
thanh niên bây giờ các cậu không trong sáng bằng bọn tôi đâu. Chúng tôi
lãng mạn nhưng rất trong sáng. Bây giờ chỉ 5 phút các cậu giải quyết
hết! (Cười). Bọn tôi ngồi cả buổi sáng, đến 6 giờ chiều về mà vẫn chỉ êm
ru thế thôi!
Phóng viên: Nhưng lớp
trẻ bây giờ không có được khu rừng nhỏ với tiếng chuông nhà thờ như của
ông. Bây giờ rừng nhỏ hết rồi toàn là đường sá với nhà nghỉ thôi. Còn
đâu được sự trong sáng lãng mạn nữa!
Huy
Cận: Không đi ra giữa thiên nhiên, các cậu không hiểu hết được sự kỳ vĩ
của tình yêu đâu. Đã yêu nhau bao giờ cũng phải đi ra giữa thiên nhiên,
bởi vì chỉ có kích thước của vũ trụ mới đo nổi nỗi xúc động của tình
yêu. Đó là quy luật mà tôi khám phá ra. Chi có kích thước của vũ trụ mới
đo nổi cái bề rộng, bề dài của rung động tình yêu. Các anh cũng đi ra
giữa thiên nhiên thôi, các anh giấu tôi làm gì! (Cười). Tình yêu mà chỉ
ngồi trong phòng thì không đủ, có đúng không? Buổi chiều về, về theo
đường Tàu Bay, hồi ấy
không có đèn đường mà chi có đèn dinamo. Cô ấy mua hai thẻ hương, cô ấy
cầm một, tôi cầm một trên tay để người ta đỡ đâm vào mình. Về đến chỗ
Trường Thú y thì dừng lại, cô ấy gục vào vai tôi giục: “Thôi anh về!”.
Tôi khóc. Buổi trưa cô ấy khóc, buổi chiều mình khóc. Tôi khóc thật,
khóc nức nở...
Phóng viên: “Chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm...
Huy
Cận: Không, không... Tại sao tôi khóc? Tại vì tôi thấy mối tình đẹp
quá, cái tâm hồn đẹp quá, vậy nên tôi khóc. Cô ấy bảo: “Thôi, anh về!”.
Anh thấy cái tình lạ không. Sau này, tôi đi hoạt động ở Paris nhiều lần,
người ta cho tôi biết địa chi, telephone của một phòng mạch ở miền Nam
nước Pháp, đông khách mà cô ấy làm chủ. Tôi không lại. Tại sao? Tại vì
tình ngày xưa nó đẹp như thế, bây giờ thì hai ông bà già hết rồi, con
đàn cháu đống (cười) Thôi cứ để êm đi cái quá khứ. Nhưng cô ấy thỉnh
thoảng có viết thư về cho một người bà con ở Hà Nội, bác sĩ Đặng Hiếu
Chương. Anh Đặng Hiếu Chương bác tôi, chị ấy vẫn hòi thăm anh đấy. Bây
giờ thì tôi tiết lộ được rồi. Cô ấy là người Bình Định...
Phóng viên: Cô ấy có đẹp không?
Huy
Cận: Tôi nói rất công bằng. Cô ấy không xấu, không đẹp, nhưng mà xinh,
có một cái duyên. Đẹp khác, xinh khác, nhưng cô ấy có một tâm hồn làm
cho mình mê...
Phóng viên: Lâu hơn, dai dẳng hơn, sâu sắc hơn?
Huy
Cận: Sâu sắc à? Nhưng đó chỉ là một trong những cái tình. Kháng chiến
rồi thành ra dở dang. Về sau gặp nhau lại chỉ khóc thôi...
Phóng viên: Ông có phải là một người đa tình không?
Huy Cận: Anh đánh giá như thế nào thì đánh giá, nhưng qua cuộc đời thì tôi cảm thấy tôi đa tình. Đam mê...
Thích mọi giai đoạn
Phóng viên: Bây giờ nhìn lại cả đời thơ dằng dặc của mình, ông thích nhất giai đoạn nào?
Huy
Cận (cười): Nói thế này thì hơi ham, tôi thích tất cả các giai đoạn.
Giai đoạn trước Cách mạng, thơ của tôi thành công rất rõ nhé. Không phải
thành công ở Lửa thiêng mà Vũ trụ ca cũng rất thành công. Như bài Xuân
hành nổi tiếng. Anh Hoài Thanh hết lời ca ngợi cái bài này. Chế Lan Viên
cũng ca ngợi... Nguyễn Đình Thi thấy bài Xuân hành ra đời, mừng quá,
coi đấy là một bước tiến mới của Huy Cận và đã có một sức mạnh gì đó mới
ở trong thơ. Sau này thì có hàng loạt bài các anh biết rồi đấy. Thơ của
tôi, cả ở hai giai đoạn đều phát triển ở độ cao. Giai đoạn trước Cách
mạng cũng cao và giai đoạn sau Cách mạng cũng cao. Bây giờ, người ta vẫn
hay nhắc đến bài Các vị La Hán chùa Tây Phương. Trong thơ Chế Lan Viên
có một cái đoạn thơ ông ấy nhắc đến ý cái câu đấy: “Một câu hỏi lớn
không lới đáp/ Cho đến bây giở mặt vẫn chau”.
Phóng viên: Một nhà thơ mà yêu tất cả các tác phẩm, các giai đoạn của mình, kể cũng lạ...
Huy
Cận: Và sau này còn nhiều bài nữa chứ, bài Trò chuyện với Kim Tự
tháp... Bao nhiêu người đi xem Kim Tự tháp rồi, cả thế giới có bao nhiêu
người viết về Kim Tự tháp? Đặt vấn đề về Kim Tự tháp? (Cười). Hay là
cái bài Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa có 4 câu:
“Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ mào đó thắp bình minh
Mênh mông đứng gáy cho mùa chín
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thuý Tinh”.
Phóng viên: Bây giờ ông còn viết thơ tình?
Huy Cận: Không bao giờ hết tình đâu...
Phóng viên: ông có một chút buồn nào không khi không một đứa con nào cua mình theo nghiệp thơ?
Huy Cận: Không, tôi không buồn. Bởi tôi làm thơ là khiếu trời sinh... Khóc thể khóc theo Cách mạng
Huy
Cận: Hôm nay, ông phó mộc ngồi nói chuyện với các ông! Ông Nguyễn Xuân
Thiều từng nói với ông Vũ Quần Phương thế này: ông Huy Cận trông giống
một ông phó mộc, nhưng lại tinh tế... Bây giờ sức làm thơ của tôi vẫn
tốt, mỗi ngày ba bài.
Phóng viên: Và “bài hay xen lẫn với bài vừa”?
Huy
Cận (cười): Tôi nói với các ông, ông Trường Chinh với tôi có nhiều ái
duyên lắm. Về văn chương, lúc tôi hứa đi theo Cách mạng, năm 1940, thế
mà ông Trường Chinh đọc thơ tôi, ông có nói với ông Lê Quang Đạo: “Cái
thằng cha này chắc chắn phải đi theo Cách mạng”. Ông ấy đọc và cảm thấy
trong thơ tôi một tâm hồn đầy chất dân tộc. Ông Trường Chinh rất mê bài
Tràng giang và bảo, sao mà trong bài thơ ấy, đất nước đẹp thế, sao mà
tiếng Việt Nam tuyệt diệu đến thế! Khi tập Lửa thiêng ra đời, ông Trường
Chinh nhờ ông Lê Quang Đạo mua ngay một quyển... Tình quê hương với ai
cũng quan trọng!
Đổ khuôn toàn thân nhà thơ Huy Cận
27-02-2005
Giam
mình trong phòng lạnh, nơi bảo quản thi hài nhà thơ Huy Cận suốt một
ngày trời, làm việc cật lực trong mùi hoá chất nồng nặc, ''căn'' thời
gian đến từng phút, 6 người trong nhóm Đinh Gia Lê chỉ ''hoàn hồn'' khi
đổ xong tượng cố nhà thơ, chuyển thi hài trở về ngăn lạnh.
Họ
bước ra thì trời bắt đầu tối, về đến nhà thì ''quy” luôn. Sáng hôm
24-2, khi mọi người chuẩn bị đưa nhà thơ Huy Cận về cõi vĩnh hằng, thì
Đinh Gia Lê, giọng khàn đi vì cái lạnh bị nhiễm hôm trước, thong thả kể
lại công việc thiêng liêng vừa mới hoàn thành, để cho vóc dáng nhà thơ
lưu lại mãi mãi...
5 giờ sáng, Đinh
Gia Lê và kíp thợ của anh đã có mặt tại nơi đặt thi hài nhà thơ Huy Cận,
mang theo lỉnh kỉnh đồ nghề. Anh thú thật: Tôi rất bất ngờ và lo lắng
khi nhận được lời mời. Tự đổ tượng bản thân mình thì tôi làm rồi. Tự
mình “dày vò” cái thân mình thì có ảnh hưởng đến ai, có hỏng cũng không
sao. Thi thoảng bạn bè cũng đổ cho nhau, nhưng là đổ cho người sống. Chứ
tôi chưa từng đổ tượng cho người chết. Bảy năm học điêu khắc ở bên Đức,
tôi cũng chưa thấy ai làm theo cách này. Cụ Huy Cận là danh nhân, di
hài được bảo quản trong phòng lạnh, bây giờ chuyển cụ ra môi trường
ngoài để đổ khuôn, nhanh cũng phải ngót một ngày trời, không biết có bảo
đảm không? Huống chi khi chuyển từ phòng lạnh ra nhiệt độ bình thường,
bao giờ cũng bị đổ mồ hôi, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chất chống dính,
không khéo đổ khuôn xong lại không bóc khuôn ra nổi...
Từ
khi nhận được lời mời, chỉ còn chưa đầy 1 ngày để chuẩn bị. Không còn
thì giờ nữa, phải bắt tay vào thử nghiệm ngay. Anh đã triệu tập ê-kíp
đến, phổ biến tình hình, “lột” ngay một cậu thợ ra để “đổ” thử, giả định
các tình huống xấu nhất để bảo đảm rằng chất chống dính sẽ phát huy tác
dụng. Thông thường, anh sử dụng chất chống dính là kem và bột đất sét
mịn. Bột đất sét rất tốt, nhưng cho khuôn hình kém sắc nét. Mà yêu cầu
của gia đình là phải đổ tượng chi tiết đến từng vân tay, từng nếp nhăn
nhỏ nhất trên mặt cụ. Anh cũng rất lo lắng đến vấn đề tâm linh, làm sao
để khi khuôn dỡ ra, không bị đứt theo các lông chân lông tay, vì chỉ làm
suy chuyển đến một mảy may thân thể cụ anh cũng thấy là mình có tội...
Suy đi nghĩ lại, anh thấy mấu chốt là phải “pha chế” được chất chống
dính với liều lượng thích hợp nhất!
Tôi
hỏi anh là tại sao không đổ khuôn bằng thạch cao như anh cũng đã làm,
nhanh hơn và thông dụng hơn silicon. Anh cho biết, cũng đã cân nhắc đến
chất liệu này. “Khi tự đổ khuôn mình bằng thạch cao, tôi nhận thấy nó
rất nóng, khoảng 60 độ. Nhiệt độ đó tôi có thể chịu được, nhưng không ổn
khi bọc quanh di hài vừa lấy ra từ phòng lạnh. Tôi lại sợ nữa là lúc dỡ
khuôn. Thạch cao khi khô rất cứng, không có độ co giãn, khi tôi tự đổ
nửa trên của mình, tôi phải hóp má, thu người lại mới dỡ được khuôn ra,
nếu vướng có thể làm rách da....
Sáu người
lặng lẽ bước vào phòng lạnh. Thi hài từ ngăn lạnh được chuyển sang một
cái bàn inox, anh hiểu rằng thời gian làm việc lúc này phải được căn đến
từng phút. Silicon được lấy ra, pha chế chung cùng chất đông cứng với
hàm lượng tối đa. Bởi anh biết rằng để đổ khuôn tượng 100% như yêu cầu
của gia đình, anh phải làm 4 lớp silicon mỗi khuôn. Phải đổ 2 nửa khuôn
(mặt trước và mặt sau người) thì tổng cộng là 8 lớp, cùng 1 lớp thạch
cao bọc cứng ở ngoài nữa. Nếu cứ với tốc độ đông cứng thông thường (vài
giờ một lớp) thì không biết mấy ngày mới xong. Phải tăng nhanh độ đông
cứng, nhưng nếu pha quá nhiều chất đông cứng thì khuôn giòn, dễ vỡ. Anh
tăng đến khi đạt khoảng 30 phút cho một lần đông cứng thì dừng lại.
“Be” khuôn chia đôi người
xong, 5 người chia ra phụ trách từng phần cơ thể để làm khuôn nửa
trước. Trời lạnh nhưng vã hết mồ hôi ra vì rất nhiều thao tác phải dùng
sức. Đúng như anh dự tính, silicon ăn vào từng khe nhỏ, từng kẽ vân tay,
bảo đảm khuôn ra y như thật. Để cho chắc chắn, hết một lớp silicon, anh
lại cho trải một lớp vải lên nhằm tăng độ dai... Thời gian tính từng 5
phút một. Buổi trưa mỗi người chỉ kịp tu một hộp sữa Vinamilk. Nửa khuôn
trước làm xong, thì lật lên làm nốt nửa khuôn sau. Và anh chỉ thở phào
nhẹ nhõm khi 2 mặt khuôn dỡ ra an toàn và từ lúc bấy giờ mới dám... trả
lời điện thoại bạn bè! Nhìn lại, 50 kg silicon hết veo.
Đinh
Gia Lê nói rằng, có may mắn là trong quãng thời gian học bên Đức, anh
đã được đổ phóng tay tất cả các loại nguyên liệu, trong đó có silicon vì
được bao cấp toàn bộ. Cả một thùng silicon 25 kg, pha ra rót từ đầu đến
chân mẫu tượng theo ý thích của mình. Một thùng như thế có biết bao
nhiêu tiền không - anh hỏi tôi? Rẻ nhất bây giờ là silicon Đài Loan
200.000 đồng/kg, đắt là loại của Pháp 360.000 đồng/kg. Cho nên không
phải ai cũng “thạo” về silicon.
Khuôn
silicon tượng toàn thân cố nhà thơ Huy Cận có thể nói là khuôn người
thật đầu tiên ở Việåt Nam được làm sau khi vừa mất. Theo anh, từ khuôn
này có thể đổ ra các tượng chân dung nhà thơ để đem trưng bày, bảo đảm
100% so với nguyên mẫu. Nếu đổ bằng chất liệu sáp thì hoàn toàn như
người thật. Tôi tưởng tượng ra cảnh từ chiếc khuôn thiêng liêng kia, mai
đây tác giả Lửa thiêng sẽ lại run rẩy bước ra cuộc đời. Vóc dáng ấy,
thân xác ấy sẽ là bất tử!
Theo Đinh Gia
Lê, đổ khuôn sllicon hoàn toàn có thể sẽ trở thành một giải pháp để làm
tượng chân dung (trưng bày) hoặc lưu giữ hình tượng của người thân vì
mục đích kỷ niệm. Có thể làm trên người lúc sống hoặc sau khi chết. Nếu
làm lúc sống thì người mẫu phải có một sức khỏe nhất định mới chịu được
lớp khuôn khá nặng, bó chặt người trong vòng vài tiếng (có trích lỗ
trước mũi để thở)... Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là anh nghĩ đến
chuyện hành nghề này...
Doãn Phương
HỒI KÝ SONG ĐÔI
Bình Luận 3
Tuệ Chương Hoàng Long Hải
June 15, 2005
Tuệ Chương Hoàng Long Hải
Mãi
đến bây giờ, nhiều người bạn tôi vẫn còn thắc về sự có mặt của Huy Cận
trong phái đoàn 3 người của Chính phủ Cách mạng Lâm thời đến Huế nhận ấn
kiếm của vua Bảo Đại thoái vị. Hai người kia, Nguyễn Lương Bằng và Trần
Huy Liệu là những cán bộ Cộng sản từng bị thực dân Pháp bắt, bị tù,
nhiều người biết. Sự có mặt của họ chẳng có gì phải suy nghĩ. Huy Cận
thì khác. Ít người cho rằng trước Cách Mạng Tháng Tám, ông là cán bộ
Cộng sản.
Hồi ức về buổi lễ thoái vị của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, Huy Cận viết như sau:
“Đời
tôi đúng là có duyên nợ với Huế. Năm 1927, tôi rời Hà Tĩnh vào Huế học
và sống ở đây đến tận năm 1939, tức là suốt thời học sinh mơ mộng, bắt
đầu làm thơ và thành danh cũng ở đây. Tôi coi Huế như quê hương thứ hai
của mình. Khi rời Huế vào năm 1939, thực sự tôi không thể ngờ là sáu năm
sau, tức là vào những ngày tháng Tám năm 1945, tôi lại được trở lại Huế
với cương vị thành viên của phái đoàn Chính phủ lâm thời để tiếp nhận
thoái vị của vị vua cuối cùng của triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt
Nam.
Phái đoàn do ông Trần Huy
Liệu, Phó Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Tuyên truyền làm trưởng
đoàn, cùng với hai thành viên là ông Nguyễn Lương Bằng và tôi. Lên đường
từ Hà nội sáng 27 tháng 8, chúng tôi dự tính chiều 28 sẽ đến nơi, nhưng
kế hoạch đã bị đảo lộn vì suốt dọc đường, nhất là từ Thanh Hoá trở vào,
nhân dân hai bên đường tập trung chào đón đoàn quá đông, trung bình cứ
khoảng 10 cây số lại gần như có một cuộc mít-tinh nho nhỏ. Nhiều bà con
từ xa cơm đùm gạo bới tìm đến, có người đang làm lụng trên đồng, cứ để
nguyên quần áo lấm láp mà chạy tới. Có cụ già cứ đòi nhìn vào tận xe để
“coi mặt Chính phủ lâm thời một chút mô…” mỗi lần như thế chúng tôi đều
dừng xe và anh Trần Huy Liệu lại đứng trên mui xe để trò chuyện với bà
con. Buổi chiều đến phà Ròn trời mưa tầm tã, rất đông bà con vẫn đội mưa
chờ chúng tôi. Cảm động quá, anh Trần Huy Liệu đứng lên nói như van xin
“Xin đồng bào về đi, kẻo mưa to quá, ướt hết rồi…” Tiếng râm ran đáp
lại: “Chúng tôi đã chờ dưới mưa từ trưa tới chừ rồi…” Thế là phải dừng,
ghé vào khu nhà Đoan trò chuyện chừng 10 phút. Bà con rất cảm động,
nhiều người khóc. Nước mắt hoà lẫn với nước mưa. Tối 28 nghỉ lại Quảng
Trị. 9h sáng hôm sau tới Mỹ Chánh, không có phà, bà con địa phương phải
kết đò lại thành cầu phao cho xe qua. Sang tới bên kia sông đã thấy anh
Tố Hữu, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên Huế, ra đón. Anh em ôm
chầm lấy nhau. Tôi và anh Tố Hữu biết nhau từ thời Quốc học, anh ấy học
sau tôi hai năm và đã bắt đầu làm thơ và hoạt động cách mạng từ trên ghế
nhà trường. Lúc nầy thì Tố Hữu như cờ gặp gió, anh sung sướng quá thét
to lên với đồng bào của mình: “Đồng bào ơi! Đây là Chính phủ của ta,
thật sự của ta đấy…” Mọi người hoan hô rầm rĩ. Và xe của chúng tôi đã đi
trong tiếng hoan hô chào đón như thế cho đến gần trưa thi tới sân vận
động Chợ Cống, Huế. Đồng bào Huế đã chờ chúng tôi ở đây từ sáng, có
người chờ cả ngày hôm trước. Khoảng 40 ngàn người. Khi đoàn ra mắt,
tiếng vỗ tay vang lên như sấm. Một đoàn thiếu nữ Huế áo dào tha thướt
lên tặng hoa, và trong số đó tôi còn kịp nhận ra cô Phùng Thị Duy Cúc,
sau nầy chính là nhà điêu khắc nổi danh Điềm Phùng Thị và là một người
bạn thân thiết của tôi.
Trưa
hôm đó, ông Phạm Khắc Hòe, đổng lý văn phòng của triều đình chuyển lời
vua Bảo Đại mời chúng tôi vào tiếp kiến. Đoàn xe cắm cờ đỏ sao vàng của
chúng tôi ngắm cổng chính Ngọ Môn tiến vào. Xưa nay, chỉ có nhà vua, các
quan toàn quyền và khâm sứ Pháp mới đi cổng chính nầy, còn tất cả quan
lại khác của triều đình đều đi cửa ngách. Trên lầu Kiến Trung, Bảo Đại
bận áo xanh, đi giày cườm đã chờ sẵn để đón đoàn. Trước khi gặp Bảo Đạo,
anh Trần Huy Liệu và chúng tôi có cuộc hội ý chớp nhoáng xem nên xưng
hô như thế nào. Gọi là “Ngài ngự” hay “Hoàng thượng” đã đành không được,
nhưng gọi “ông” thi mới quá. Cuối cùng chúng tôi quyết định gọi “Ngài”.
Và buổi tiếp đã diễn ra khá thoải mái. Bảo Đại bày tỏ sung sướng được
tiếp phái đoàn đại diện của Chính phủ lâm thời và trưởng đoàn Trần Huy
Liệu cũng bày tỏ vui mừng vì nhà vua đã chấp nhận thoái vị. Vẻ mặt bùi
ngùi, Bảo Đại nói giọng ân hận: “Thưa phái đoàn, thực ra trong hai mươi
năm làm vua, tôi cũng chỉ ngậm đắng nuốt cay, vì có nhiều việc muốn làm
cho dân cho nước mà người ta không cho làm…” Sau đó, ông ta đề nghị với
đoàn ba nguyện vọng: Một là, xin Chính phủ cách mạng xem mọi người trong
Hoàng gia như những công dân bình thường
khác (ý nói không phân biệt đối xử); hai là, cũng xin Chính phủ xem các
quan lại trong triều như mọi đồng bào khác và được tham gia vào những
công việc cứu nước tuỳ khả năng và hoàn cảnh của từng người; và cuối
cùng là, xin Chính phủ cách mạng đối xử với lăng tẩm, đền miếu của nhà
Nguyễn cho có sự thể.
Lễ thoái vị
chính thức được tổ chức vào chiều 30 tháng 8, với sự có mặt của năm, sáu
vạn người dân Huế đứng tràn ngập trước Ngọ Môn. Nhà vua bận triều phục
đại lễ, áo hoàng bào khăn vàng, đi giày cườm vàng. Theo nguyện vọng của
nhà vua, lá cờ vàng của triều đình được kéo lên một lần cuối cùng, sau
khi nhà vua đọc xong tuyên bố thoái vị thì kéo xuống để kéo lá cờ đỏ sao
vàng của cách mạng lên đỉnh Ngọ Môn.
Sau
khi Bảo Đại đọc xong lời tuyên bố thoái vị, tới nghi thức trao ấn kiếm.
Chiếc kim ấn truyền quốc làm bằng vàng ròng nặng dễ đến ngót
10kilogram, anh Trần Huy Liệu vốn sức yếu, phải gồng lên mới cầm nổi,
còn tôi dĩ nhiên với cái tuổi 26, thì mười cân cũng nhẹ nhàng thôi. Thú
vị nhất là khi cầm cây kiếm, thấy vỏ ngoài dát vàng nạm ngọc rất đẹp,
tôi thuận tay rút kiếm ra xem, ai dè bên trong lưỡi kiếm đã bị rỉ, tôi
hồn nhiên nói ngay vào micrô: “Thưa đồng bào! Kiếm nhà vua bị rỉ hết
rồi”. Mọi người cười ồ. Bảo Đại cũng cười. Ông ta nói: “Thưa phái đoàn,
từ nay tôi là một người dân bình thường
của nước độc lập, xin phái đoàn cho tôi một vật gì để kỷ niệm cái ngày
này”. Ý kiến bất ngờ. Chúng tôi hội ý và tôi nhanh tay rút chiếc huy
hiệu cờ đỏ sao vàng mà Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Thừa thiên Huế, tặng
các thành viên của phái đoàn cài lên ngực Bảo Đại, đoạn nói to: “Xin
đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thuỵ”. Nhiều tiếng vỗ tay vang lên.
Bảo Đại thực sự cảm động và lặng lẽ rút lui. Triều đại phong kiến cuối
cùng của Việt Nam đã ra đi trong cảnh chợ chiều, tôi nhìn quanh chỉ thấy
hoàng thân Vĩnh Cẩn và một vài quan lại thưa thớt. Trong khi đó, dưới
kia, cuộc mít tinh đã trở thành một cuộc biểu đương lực lượng khổng lồ
của quần chúng cách mạng Huế. Ấn tượng thật hùng vĩ. Tôi đã sống với Huế
những năm của tuổi trẻ. Trước đây, tôi chỉ biết Huế tình tứ dịu dàng,
Huế hiền hoà và thơ mộng, nhưng nay tôi biết thêm một Huế cách mạng, một
Huế khi cần đã vùng dậy như những ngọn sóng trào…”
Năm
1945, khi từ chiến khu về Hà Nội thành lập Chính phủ lâm thời, Hồ Chí
Minh biết sức của ông cũng như đảng ông còn yếu, nên tranh thủ lòng yêu
nước của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản thành thị, trung nông, phú nông,
và cả quan lại của triều đình Huế. Những người có uy tín, được dân
chúng yêu mến và ngưỡng mộ đều được mời tham gia giữ những chức vụ không
quan trọng lắm trong Chính phủ, và cả những thành phần các đảng phái
quốc gia khác, nếu ông bị áp lực. Vua Bảo Đại trở thành Cố Vấn Vĩnh
Thuỵ, cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình trong triều chính đời
Bảo Đại hay Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, Phan Anh,
Hoàng Xuân Hãn, v.v… đều ở trong chiến lược của họ Hồ. Chờ tới khi đảng
Cộng sản vững mạnh, Hồ Chí Minh sẽ thay đổi, loại trừ hoặc cho “ngồi
chơi xơi nước”.
Huy Cận cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.
Ông
được người Huế yêu mến vì tài nghệ của ông. Chính ông nổi tiếng ở đó
như ông đã xác nhận “suốt thời học sinh mơ mộng, bắt đầu làm thơ và
thành danh cũng ở đây”. (Bài đã dẫn)
Nhà
thơ Huy Phương, trong bài “Nghe ta buồn buồn” viết nhân dịp nghe tin Huy
Cận qua đời, ghi lại tình cảm của những người Huế với thơ Huy Cận và
những nhà thơ tiền chiến như sau:
“Cái tên
Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Tế Hanh… nói đến như soi rọi
lại một quãng đời niên thiếu như vùng vẫy, lặn hụp trong dòng sông dịu
mát của những vần thơ của các thi sĩ, gọi là tiền chiến, được trịnh
trọng chép tay trên những tờ giấy mỏng manh đóng thành tập hay chuyền
tay nhau trong lớp học. Nỗi buồn trong thơ Huy Cận cũng là nỗi buồn của
những chàng trai mới lớn, bâng quơ, nhen nhúm chút tình…”
Nhận
xét của Huy Phương nói ở trên không phải chỉ có trong lớp thanh thiếu
niên thời hậu chiến, mà ngay cả một hời gian dài trước những biến cố
trọng đại năm 1945, một tầng lớp thanh thiếu niên Huế, chìm đắm trong mơ
mộng, yêu đương, say mê thơ ca lãng mạn, cũng đã dành cho Huy Cận một
chỗ đứng vững chắc trong lòng họ rồi.
Ghi
lại đây nhận xét của Huy Phương về Huy Cận đối với Huế, như thế là quá
đủ để khỏi trích dẫn những nhận xét của Hoài Thanh trong “Thi Nhân Việt
Nam” bởi vì những nhận xét của Hoài Thanh mang nét chung nhiều hơn là
nhận xét của Huy Phương nói về Huy Cận đối với Huế.
Hồ
Chí Minh là người mưu lược chính trị, vậy thì trong những người đến Huế
nhận ấn kiếm vua Bảo Đại thoái vị, ngoài Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy
Liệu mang nặng tính đảng, phải có một nhân vật khác, môt nhân vật thứ ba
từng được cảm tình của người dân Huế mà không phải là thành phần có mầm
mống chống đảng, người ấy không ai khác hơn Huy Cận. Điều nầy giải
thích được những thắc mắc của những người bạn tôi mà tôi nói ngay ở đầu
bài, một thắc mắc đã mấy chục năm chưa có dịp để được nói ra.
Nếu phê bình một
cách rốt ráo trên lập trường “Cách mạng triệt để”, những người Cộng sản
không thể chấp nhận Huy Cận đứng trong hàng ngũ văn nghệ của họ. Thứ
nhất, ông thuộc tầng lớp thường được gọi là “Những nhà thơ lãng mạn tiền
chiến”, những nhà thơ bị Cộng sản Việt Nam đánh giá thuộc giai cấp tiểu
tư sản thành thị, phục vụ cho giai cấp tiểu tư sản dư ăn dư mặc mang
nhiều tính giai cấp xấu bị Cộng sản đánh phá dữ dội. Giai cấp nầy cùng
giai cấp trung nông và phú nông, dù “có công với cách mạng” vẫn bị phê bình, loại trừ hoặc đấu tố để triệt tiêu.
Không
riêng gì đối với Huy Cận, một người từng gắn bó và yêu thương với Huế,
cứ mỗi lần đọc những bài văn bài thơ của những nhà văn Cộng sản, hay
nghe một bài hát của họ nói về cái dũng khí cách mạng của người dân Huế,
tôi khó tránh không nghĩ tới năm ngàn người bị chôn sống hồi Tết Mậu Thân. Tôi tin Huy Cận yêu Huế thật, nhưng ngay trong hồi ký nói
trên của ông, không thể không có những khoa trương, theo kiểu Cộng sản
để tuyên truyền vì mục đích của người Cộng sản, bao giờ cũng chỉ là
tuyên truyền, theo cách “dạy” của Trường Chinh trong đại hội văn hoá thứ
nhất của Cộng sản năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc, trong bài gọi là “Luận Cương (“nổi tiếng”) Về Văn Hoá và Chính Trị” của lý thuyết gia Cộng sản nầy.
Huy
Cận viết: “Đời tôi đúng là có duyên nợ với Huế…” Vậy thì Huy Cận có
“duyên nợ” gì với năm ngàn người bị chôn sống ở Huế Tết năm đó. Ông muốn
quên họ đi, ông muốn lờ họ đi. Hay cũng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông
cũng cho rằng họ là “Những con rắn độc”. Ông không có “duyên nợ” gì với
những con rắn độc đó hết.
“Trong khi đó,
dưới kia, cuộc mít tinh đã trở thành một cuộc biểu đương lực lượng khổng
lồ của quần chúng cách mạng Huế. Ấn tượng thật hùng vĩ”. (Bđd)
Ai trong số “lực lượng khổng lồ của quần chúng cách mạng” đó, đã gây “Ấn tượng thật hùng vĩ” cho Huy Cận thì đã bị chôn sống hồi Mậu Thân?
Cách
viết như Huy Cận là cố ý nhằm xoá tan mọi tội lỗi của cán bộ Cộng sản,
của đảng Cộng sản về trách nhiệm tàn sát dân Huế năm đó. Một người có
lương tâm không thể chấp nhận một cách viết dối trá, che lấp tội ác như
thế được!
Những nhà hoạt động văn nghệ
Cộng sản, khi bàn về vấn đề văn học, họ thường lúng túng giữa lập trường
vô sản, duy vật biện chứng, và vay mượn dân tộc để giải thích lý thuyết
cực đoan, nên ý tưởng họ có rất nhiều mâu thuẫn làm cho người đọc cảm
thấy khó chịu. Chẳng hạn như những câu trả lời trong bài phỏng vấn Huy
Cận sau đây, ta thấy rõ ràng ông bị vướng mắc những cái đối chọi nhau
khá kịch liệt, và ông đã cố gắng giải thích một cách gượng gạo, khó làm
người đọc đồng ý. Một mặt, ông vẫn đề cao vai trò thơ Mới, qua đó, ông
đã “thành danh” như ông ta tự nhận, nhưng bên cạnh đó, ông phủ nhận thơ
Mới chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn Pháp, đã kích chủ nghĩa tư bản Tây
phương, và cố gắng đưa thơ Mới về với dân tộc, để chứng minh thơ Mới là
của dân tộc, trong khi những nhà văn đồng thời với ông trong thời kỳ
tiền chiến, như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, buộc lòng lên tiếng phủ
nhận công trình của mình để “chạy tội” với Cọng Sản.
Xin trích:
Nhà thơ Huy Cận:
Người
ta đã bàn nhiều về nguồn gốc, giá trị của thơ Mới. Đó là cuộc cách mạng
lớn của thơ ca Việt Nam ở thế kỷ 20, sự ảnh hưởng của nó còn phát sang
đầu thế kỷ 21. Về nguồn gốc thơ Mới, ai đó cho rằng nó chủ yếu ảnh hưởng
của thơ Pháp là sai, là xuyên tạc. Thơ Mới trước hết nhận ảnh hưởng
trực tiếp thơ ca dân tộc, thấm đẫm văn hoá Việt Nam, sau đó là văn hoá Á
Đông: Trung Quốc, Ấn Độ, và sau nữa mới đến ảnh hưởng thơ Pháp, Anh,
Đức với những tác giả như Shakespeare, Gớt, Ranh-bô, Véc-len, Bô-Đờ-Le…
NT Trần Anh Thái:
Như vậy theo nhà thơ, trước khi xảy ra cuộc cách mạng, Thơ Mới đã có sự manh nha?
NT Huy Cận:
Đúng
như vậy. Sự ra đời chữ “Tôi” ở Việt Nam vốn tiềm tàng từ những năm ba
mươi của thế kỷ 20. Chính cái tôi ấy là động lực thúc đẩy cái tôi trong
thơ ca phát triển. Có một điều người ta phân biệt chữ tôi Việt Nam khác
với Chủ Nghĩa Cá Nhân Tây Phương thời Phục Hưng. Cá nhân thời Phục Hưng
ra đời đồng thời với Chủ Nghĩa Tư Bản. Nó ăn khớp máu thịt với chủ nghĩa
tư bản. Khái niệm cá nhân ở nước ta ra đời sau, nó bắt nguồn từ tinh
thần dân tộc được hâm nóng lại bằng cuộc hoạt động cách mạng của Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Và cuộc khởi nghĩa Yên Báy.
Trong bối cảnh tinh thần được hâm nóng, mỗi người đều gắn bó máu thịt
với dân tộc, nó làm thức dậy tinh thần văn hoá dân tộc, thúc đẩy ý thức
về nền quốc học Việt Nam. Đến đây có thể thấy “cái tôi” của Việt Nam
không phải là cá nhân đơn lẻ mà là cái tôi - Việt Nam; Cá nhân - Dân
Tộc.
Đọc câu: “Sự ảnh hưởng của nó còn
phát sang sang đầu thế kỷ 21”. Người ta sẽ tự hỏi, có phải thơ bây giờ
(đầu thế kỷ 21) là tiếp nối trào lưu thơ Mới thời tiền chiến đó chăng?
Không, nó không phải “tiếp nối” mà “sống lại” trong kiểu cách thơ Mới
thời tiền chiến.
Thật ra, thơ Mới đã
chuyển mình trong thời kỳ cách mạng tháng Tám, trong cuộc chiến đấu
chống Thực Dân Pháp tái xâm lăng Việt Nam. Cuộc Cách Mạng Tháng Tám đã
làm cho thơ Mới chuyển mình từ những bài thơ lãng mạn, yêu con người,
yêu trăng, yêu gió, yêu thiên nhiên một cách vu vơ, trở thành tình yêu
nước mạnh mẽ, biến những lời thơ uỷ mị nhẹ nhàng thành những bài thơ
hừng hực lửa, cứng như thép để đủ sức đối kháng với vũ khí hiện đại của
quân viễn chinh. Nhưng chỉ kéo dài chừng đó. Khi thơ Mới bị buộc vào
những khuôn phép của cuộc “cách mạng đỏ” thì nó biến thành những bài vè,
những bài tuyên truyền không thể gọi nó là thơ được, nhất là sau thời
kỳ “Nhân Văn - Giai Phẩm” năm 1956, 57.
Thơ Mới chết từ đó. Chính Phùng Quán đã nói lên điều đó:
Hễ đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khôn cùng
Thơ chết áo đắp mặt.
Giống
như cái chết của Đỗ Phủ, thơ đã chết rồi, chết trong cảnh khốn cùng,
phải lấy áo đắp mặt thay vì một chiếc khăn liệm. Làm gì thơ Mới còn tiếp
nối đến ngày hôm nay, những năm đầu thế kỷ 21.
Cho
dù đất nước thống nhất năm 1975, thơ Mới vẫn chưa đọi mồ đứng dậy. Mãi
tới thời kỳ đổi mới, mặc dù “cỡi trói văn nghệ” chỉ là lời nói suông,
thơ Mới đã sống lại cùng với dân tộc, vì mầm sống của nó chưa bị triệt
tiêu hoàn toàn, (Không ai có thể triệt tiêu hoàn toàn được thơ!), vì
đảng Cộng sản Việt Nam không xây dựng được “thiên đường Cộng sản” trên
đất nước Việt Nam. Huy Cận không đủ can đảm để nói lên điều đó, mặc dù
có lúc ông đã từng là thứ trưởng Bộ Văn Hoá.
Huy
Cận cũng không thể phủ nhận sự phát triển của văn hoá Việt Nam vào
những năm ba mươi. (“vốn tiềm tàng từ những năm ba mươi của thế kỷ 20.”)
Ngay từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ đã đi tới, chữ Nho thì thụt lùi.
Tiến trình nầy có hai lý do chính yếu: Một là chế độ thực dân Pháp dính
liền với chữ quốc ngữ trong việc cai trị, phổ biến các văn thư, tin tức
báo chí. Thứ hai là sự thụ lùi của chữ Nho cùng với sự co cụm của triều
đình Huế càng ngày càng bị tước đoạt dần dần quyền lực. Qua tình hình
đó, càng ngày vai trò của chữ Nho càng yếu đi. Đến năm 1916, đời Duy Tân
là khoa thi chữ Nho cuối cùng được tổ chức theo lệ xưa ở tại Huế.
Với
chính sách cai trị thuộc địa, người Pháp cần người biết chữ Pháp và chữ
quốc ngữ hơn là chữ Nho, để cộng tác với họ trong việc cai trị. Bên
cạnh đó, chiến tranh Nga-Nhật năm 1904 và sự canh tân nước Nhật của Minh
Trị Thiên Hoàng đã mở ra một tầm nhìn mới đối với thế giới bên ngoài
cho giới sĩ phu thời đó. Nó khơi nguồn cho Phong Trào Đông Du, Phong
Trào Duy Tân cũng như mở rộng con đường tân học cho người Việt, qua đó,
chữ quốc ngữ càng ngày càng có một vai trò quan trọng hơn.
Tuy
vậy, sau một thời dọ dẫm ở hai thập niên đầu của thế kỷ 20, chữ quốc
ngữ phát triển khá mạnh và nhanh trong khoảng thời gian chỉ có 15 năm,
từ 1930 đến 1945. Cũng trong khoảng thời gian nầy, vai trò của giáo dục,
thi cử và sách báo, thông tin đóng một vai trò quan trọng. Trong lĩnh
vực văn chương và báo chí, Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh đã xuất sắc
hoàn thành công tác của mình.
Chính vì
những người làm báo, viết văn thời kỳ ấy phần đông thuộc giới tiểu tư
sản thành thị, chính vì sự thành công của Tự Lực Văn Đoàn mà đứng đầu là
Nhất Linh, một lãnh tụ đảng phái quốc gia, một người chống Cộng, một
nhân vật cách mạng mà Cộng sản thù ghét, từng bôi lọ ông, bằng những lời
tuyên truyền, những vỡ kịch (“Nguyễn Tường Tam ăn cắp hai triệu” -
kịch) nên Huy Cận chỉ nói một cách chung chung, mơ hồ. Ông không thể phủ
nhận thời kỳ phát triển của văn chương quốc ngữ thập niên 30 vì ông đã
“thành danh” trong đó, nhưng ông cũng không thể ca ngợi nó rõ hơn vì sợ
“phạm trường qui”. Chỉ chừng đó, khó đánh giá Huy Cận là người can đảm,
mặc dù ông phát biểu những lời nói trên trong thời kỳ được gọi là “Cỡi
trói văn nghệ” rồi.
Lý luận về sự xuất hiện và phát triển của thơ Mới, ông có những lập luận loanh quanh, cứng nhắc theo đường lối chủ trương của đảng.
Người ta nói thơ Mới là để phân biệt với thơ Cũ.
Sự phân biệt thơ Mới thơ Cũ chủ yếu đặt căn bản trên hình thức hơn là nội dung. Ví dụ, các nhà phê bình văn
học thường cho bài thơ “Tình Già” là bài thơ Mới đầu tiên, là bài thơ
tiên phong trong phong trào thơ Mới. Sau đó, nhiều nhà thơ khác như Lưu
Trong Lư, Hàn Mặc Tử, v.v… nối gót theo Phan Khôi. Bài thơ “Tình Già” có
hình thức mới mẻ, không giữ âm vận nghiêm nhặt, không theo mẫu mực “đề,
thực, luận,
kết” và phép đối như trong thơ Đường mà Lư Trọng Lư có lần mai mỉa rằng
“Hễ con mèo đi ra thì con chó đi vô”. Hình thức không cần thiết, câu
thơ không bị lệ thuộc như thơ thất ngôn, ngũ ngôn, miễn sao dễ dàng diễn
tả tình cảm rong tâm hồn người thơ mà thôi.
Thực
ra, câu dài câu ngắn không đều nhau vẫn là một hình thức thơ cũ đã có
mà người xưa thường gọi là “Trường đoản cú” như trong “Chinh Phụ Ngâm”
bản chữ Hán của Đặng Trần Côn.
Nếu bàn về
chữ tôi (hay cái ta) trong thơ Cũ, Huy Cận tách bạch cũng không phân
minh, còn phiến diện, méo mó, v.v… Ví dụ “Chiếc thuyền lơ lững bên sông,
biết đem tâm sự ngõ cùng ai hay…” thì đó cũng là nói về cái ta của
Nguyễn Trãi vậy, đâu phải cái Tôi - Việt Nam, Cá nhân - Dân tộc, như Huy
Cận nói. Hay “Một mảnh tình riêng ta với ta” thì cũng chẳng phải cái
Tôi - Việt Nam, Cá nhân - Dân tộc, mà chính là của cả một tầng lớp sĩ
phu Bắc Hà “Hàng thần lơ láo” khi ra phục vụ triều đại nhà Nguyễn. Nói
cái Tôi - Việt Nam, Cá nhân - Dân tộc chỉ là một cách nói gượng ép, mượn
dân tộc để nguỵ trang cá nhân.
Vẫn biết
người Tây phương theo chủ nghĩa cá nhân, từ đó họ đòi hỏi nhiều quyền
lợi cho con người, quyền lợi tinh thần hơn là quyền lợi vật chất. Đó là
những quyền lợi tinh thần thuộc về các tự do căn bản là những điều rất
“kỵ” với chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng các dân tộc Á Đông, và cả dưới chế độ
Cộng sản không ít người còn “cá nhân” hơn cả những người theo chủ nghĩa
tư bản Tây Phương. Họ ích kỷ, tham lam, ngại hy sinh cho đất nước, dân
tộc, bảo vệ quyền lợi riêng của mình, cả quyền lợi vật chất cũng như
tinh thần còn hơn cả người Tây phương rất xa. So sánh như thế để thấy
rằng Huy Cận méo mó, phiến diện khoa trương rất nhiều về những cái mà
người Cộng sản Việt Nam không có. “Lấy của ban ngày” không phải là một
câu chuyện hữu ích nói về lòng tham lam ích kỷ của số đông người Á Đông
hay sao?!
Khái niệm cá nhân ở nước ta ra
đời sau, nó bắt nguồn từ tinh thần dân tộc được hâm nóng lại bằng cuộc
hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc.
Và cuộc khởi nghĩa Yên Báy.
Câu nói trên
của Huy Cận có ý nghĩa khá mơ hồ. Những người như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh là những nhà cách mạng. Họ hy sinh cá nhân họ cho đất nước và
dân tộc, họ làm thơ làm văn kêu gọi lòng yêu nước, hy sinh của mọi người
cho đất nước, họ đâu có khơi dậy cái tôi trong mỗi người như Huy Cận
nhận xét.
Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh là một
cán bộ lãnh đạo Cộng sản, chủ trương xây dựng chủ nghĩa tập thể, cho
Quốc tế vô sản. “Đem đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứ không đem
chủ nghĩa xã hội xây dựng đất nước”, hy sinh dân tộc cho quốc tế vô sản,
tại sao lại vơ vào mà nói tới việc Hồ Chí Minh “hâm nóng” cái tôi trong
thơ ca Việt Nam? Nói tới cái tôi, với cá nhân ích kỷ của Hồ Chí Minh
thì điều ấy vốn có thật. Việc Nông Thị Xuân “phục vụ” “bác” mà đẻ ra Hồ
Chí Trung, nhưng vẫn không được Hồ Chí Minh nhận làm vợ, lại âm mưu cho
thủ tiêu, thì cách sống và hưởng thụ của ông Hồ có khác chi vua chúa bên
Trung Hoa ngày xưa hay các những người giàu có bên ấy thời phong kiến.
Ông Hồ còn tàn ác hơn họ khi đồng ý cho thủ tiêu thị Xuân, một người
“đầu gối tay ấp” với Hồ.
Riêng về cuộc
khởi nghĩa Yên Báy, các nhà sử học Cộng sản thường cho rằng đó là một
cuộc nổi dậy ngông cuồng, thiếu cơ bản của những một số trí thức Bắc Kỳ,
còn nặng tính tiểu tư sản, ảnh hưởng nặng nề chủ nghĩa cá nhân. Thành
ra, những nhận xét của Huy Cận hoàn toàn trái ngược với quan điểm sử học
của Cộng sản. Có lẽ ngày nay, có sự cỡi trói nên Huy Cận kéo cuộc khởi
nghĩa Yên Báy vào đây để chứng tỏ có sự tiến bộ, sự cởi mở trong quan
điểm triết học và sử học ngày nay của Cộng sản Việt Nam đó chăng?
Dĩ
nhiên van học Việt Nam có nền tảng của nó, bắt ngườn từ trong đời sống
dân tộc từ khi đất nước hình thành. Nhưng trên thế giới không bao giờ có
một nền văn học nào thuần tuý mà không vay mượn ít nhiều tư tưởng, học
thuật của những dân tộc khác qua sự tiếp xúc giữa các dân tộc đối với
nhau, và có những ảnh hưởng hỗ tương hay một bên nặng, một bên nhẹ.
Những phương cách sinh hoạt về văn hoá, chính trị và cả quân sự cũng như
thời gian tiếp xúc giữa các dân tộc nên ảnh hưởng đó đậm lạt nhiều khi
khác nhau. Trong viễn tượng đó, khi nước ta bị Tàu đô hộ, hay khi làm nô
lệ cho Tây, hay qua nếp sống tôn giáo, học thuật tư tưởng của ta chịu
ảnh hưởng Tàu, Ấn Độ, các nước Tây phương, đặc biệt với Pháp là điều
đương nhiên, cần chi phải phủ nhận nó như Huy Cận, cũng như những người
làm công tác văn hoá Cộng sản Việt Nam, cái gì của ta cũng là nhứt,
không chịu ảnh hưởng của ai hết.
Lập
trường văn hoá của họ như thế, mặc nhiên phủ nhận tính cách văn hoá Việt
Nam rồi. Tinh thần dân tộc ta không bao giờ tự cao tự đại quá lố như
kiểu Cộng sản, bởi vì:
Trong nhà nhất mẹ, nhì con
Ra đường lắm kẻ săn dòn hơn ta!
Người
Pháp cai trị ta tính chung chung là một trăm năm. Họ đem cái cung cách
của họ mà cai trị ta. Chỉ riêng chừng đó, ta cũng đã ít nhiều chịu ảnh
hưởng của họ rồi. Chữ quốc ngữ của ta không phải từ văn hoá Âu Tây mà ra
đó hay sao?! Nếu chữ quốc ngữ không phải là cái hay tự khắc nó sẽ không
được tồn tại và phát triển. Viết văn bằng chữ quốc ngữ, làm thơ bằng
chữ quốc ngữ, lại phủ nhận ảnh hưởng văn hoá Âu Tây là một csự chủ quan
khá kỳ lạ, nếu không muốn nói là ngu ngốc và cực đoan. Thêm một điều,
Pháp từng là một nước có một nền văn hoá cao nhất thế giới, tư tưởng học
thuật của nó phát triển sáng chói đến độ khi những tư tưởng đó phát
triển chỉ trong thời gian một trăm năm, với những tư tưởng của
Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot, v.v…, người ta phải đặt tên
cho nó là “Thế kỷ ánh sáng”. Cái “Thế kỷ ánh sáng” không chỉ chiếu sáng
nước Pháp mà thôi mà còn chiếu rọi khắp cả châu Âu, châu Mỹ. Nó là niềm
hứng khởi cho cuộc Cách Mạng Mỹ và là tư tưởng chủ đạo cho bản Tuyên
Ngôn Độc Lập” Hoa Kỳ, (Hồ Chí Minh “cóp” lại trong bản tuyên ngôn độc
lập đợc ở Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945), cho cuộc Cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, cho các cuộc cách mạng Châu Âu năm 1848, v.v… Nó khơi dậy
những tư tưởng mới của các nhà văn hoá tư tưởng Anh, Đức, Áo Nga, Nhật.
Tàu, là ngọn đuốc dẫn đường cho Mác viết “Tư bản luận”,
v.v…. Nói chung, những người Cộng sản muốn “quên” việc ấy đi, muốn “lờ”
nó đi mà thôi. Nhưng nhìn chung, đó là một thực thể trong tiến trình
phát triển tư tưởng của nhân loại.
Chánh
sách cai trị của người Pháp khá thâm độc. Họ tự cho họ là có sứ mạng
“khai hoá” cho các dân tộc bán khai khi đêm tàu sắt súng đồng xâm lăng
thuộc địa, nhưng họ không truyền bá những tư tưởng của “Thế kỷ ánh sáng”
đó sang cho dân tộc ta. Họ hỗ trợ sự truyền bá đạo Thiên Chúa vì công
việc nầy có lợi cho công cuộc thực dân cai trị của họ hơn. Nggười Việt
Nam được những tư tưởng của “Thế kỷ ánh sáng” chiếu rọi tới không phải
bằng con đường từ Paris Saigon mà qua ngã Trung Hoa. Người Việt Nam bắt
đầu làm quan với tự do, dân chủ, nhân quyền, v.v… qua những sách của
người Tàu tryền bá sang ta. (Cho nên Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 quên với
những danh từ Mạnh Đức Tư Cưu, Lư Thoa do người Tàu dịch từ
Montesquieu, Voltair, v.v…).
Ngoài hiện
tượng Xuân Diệu thú nhận một cách trung thực (“Tôi nhớ Rimbeau với
Verlaine”) hoặc những tư tưởng về tự do, dân chủ, nguyên tắc phân quyền
mà ngay chính hiến pháp của nước Việt Nam Cộng sản không thể không nhắc
tới, người ta còn thấy ngay trong thơ Huy Cận chịu ảnh hưởng tư tưởng Âu
Tây khá rõ, khá đậm.
Ví dụ như trong bài thơ Trình bày:
Trình Bày
Tôi sẽ đến trước mặt người, Thượng Đế
Để kêu than khi tôi đã lìa đời
Khi tôi chết và hồn tôi đã xế
Sang bên kia thế giới của loài người
Trước Thượng Đế hiền từ tôi sẽ đặt
Trái tim đau khô héo thuở trần gian
Tôi sẽ nói: Nầy đây là nước mắt
Ngọc đau buồn nguyên khối vẫn chưa tan
Người biết đấy lòng tôi trong trắng lắm
Người cho sao tôi giữ vậy như gương
Mặt trời đẹp sắc đời đua nở thắm
Tôi đã đành mang nặng nghiệp yêu thương
Từng bước lạnh teo, một mình thui thủi
Tin ngây thơ: hồn sẽ hiểu qua hồn
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi
Chia biệt người ra từng xứ cô đơn
Cả linh hồn tôi đem cho trọn vẹn
Vốn nhà nghèo không quen thói bán buôn
Đến những kẻ mới vờ duyên hứa hẹn
Tôi cũng cho trọn vẹn cả linh hồn
Đầu gối rã tôi đứng chờ đã mệt
Tôi trông mong hai mắt tối đen rồi
Tôi đã khóc những đêm sầu đến chết
Thuở trần gian xin Thượng Đế thương tôi
Tuổi non dại lòng tôi say mến bạn
Khi thanh xuân tôi mãi chạy theo tình
Nhưng cô độc đã ghi thầm trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh
Lòng tôi đây trọn một đời thương nhớ
Hồn tôi đây thiên hạïbỏ đìu hiu
Người nhìn xem chân tay muôn dấu rỗ
Thủng gai đời đây tay với tình yêu
Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đàng
Rồi tôi khóc và đầu tôi ngã gục
Mắt tôi mờ vàtay của tôi xuôi
Không biết nữa thiên đường hay địa ngục
Quên, quên đi, đã mang trái tim người!
Nhìn
vấn đề một cách tinh tế, người ta khó phủ nhận bài thơ “Trình Bày” của
Huy Cận chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nietzsche, một triết gia Đức chủ
trương vô thần, chống đối những giá trị truyền thống của tư tưởng Âu
Tây, đặc biệt chống lại thần học của giáo hội Thiên Chúa La-Mã.
Nietzsche có hai chủ trương rất đáng lưu ý, một là ủng hộ thuyết tiến
hoá (Theory of evolution), chủ trương vô thần, tuyên bố rằng “Thượng Đế
đã chết” (God is dead) và thứ hai là thuyết “Siêu nhân”.
Về
vô thần, tư tưởng của Nietzsche có ảnh hưởng lớn, không những chỉ Châu
Âu mà còn lan rộng sang Mỹ, làm nền tảng tư tưởng cho nhiều triết gia,
văn gia Pháp như Jean Paul Sarter, Albert Camus, từ cuối thế kỷ 19 cho
đến cuối thế kỷ 20 và cũng là nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh
(Existentialism) .
Nhìn chung, vô thần là
một trào lưu tư tưởng khá phổ biến trong khoảng thời gian một thế kỷ vừa
qua. Do đó, nếu Huy Cận là một người Tây Học (Ông đậu kỹ sư canh nông),
nếu có chịu ảnh hưởng thuyết vô thần, hay rõ hơn, chủ trương loại bỏ
Thượng Đế thì cũng không có chi lạ.
Tôi
không tìm cái hay ở mỗi câu mỗi chữ trong bài Trình Bày nói trên, một
bài thơ rất được nhiều người ưa thích. Bởi vì tôi không làm công việc
phân tích, phê bình thơ
Huy Cận. Nhìn một cách tổng quát, đây không phải là lời van xin trước
Thượng Đế. Huy Cận kêu gọi Thượng Đế đó để phủ nhận Thượng Đế. Khi ông
chết, ông sẻ trả lại cho Thượng Đế trái tim ông, cơ quan căn bản của con
người, nơi hàm chứa sự sống và tất cả yêu thương buồn giận của con
người. (Trước Thượng Đế hiền từ tôi sẽ đặt, Trái tim đau khô héo thuở
trần gian). Thượng Đế đã cho ông sự sống với tất cả những lời răn dạy.
Ông đã sống và đã làm tất cả những gì Thượng Đế răn dạy ông; “yêu
thương” là trước nhứt. Ông yêu thương cả những người không yêu ông, ghét
ông, phản bội lại ông (Các đoạn 3, 4, 5, 6, 7, 8) nhưng cuối cùng ông
chẳng được gì cả, mọi người đều lạnh nhạt xa lánh (Lòng tôi đây trọn một
đời thương nhớ, Hồn tôi đây thiên hạïbỏ đìu hiu). Ông tin vào Thượng Đế
nhưng chẳng được gì hết. Cũng như Nietzsche, Nietzsche chỉ mong chờ
thành quả ở cõi đời nầy, không phải những phần thưởng hứa hẹn ở cõi đời
mai sau. Huy Cận trả lại cho Thượng Đế những gì Thượng Đế đã cho ông, dù
đó là một kiếp người:
Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đàng.
Ngay
chính bản thân ông suy nghĩ như vậy, thế mà Huy Cận phủ nhận rằng thơ
Mới không chịu ảnh hưởng văn thơ Pháp mới là điều lạ?!
Dù
Huy Cận có nói lắc léo như thế nào chẳng qua cũng chỉ để khỏi “phạm
trường qui”. Trong Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, Phan Khôi từng mai
mỉa: “Ới cụ đồ Chiểu ơi là cụ đồ Chiểu. “Ở đây nào phải trường thi, Ra
đề hạn vận một khi buộc ràng”. Ngày xưa chỉ phải “Ra đề hạn vận” ở một
kỳ thi, nay thì “Ra đề hạn vận” kéo dài suốt cả một đời người.
Huy
Cận có cái may, ông không có những bài thơ làm ra sau kỳ “Chỉnh Đảng”
như Xuân Diệu, Lư Trọng Lư, nhưng những bài thơ ông làm sau khi “theo
Cách Mạng” chẳng có bài nào ra gì. Thật vậy, nhà thơ Huy Phương đã chứng
minh như sau đây:
“Có lẽ những bài thơ ca
tụng “bác” của Huy Cận không nồng nàn, tận tuỵ như của Tố Hữu, nên chức
vụ của Huy Cận cũng là một chức vụ không có mấy thực quyền, trong một
Chính phủ có rất nhiều loại “Thứ… Mấy câu thơ của Huy Cận làm trong thời
gian ở Việt Bắc (1948) sau đây thấy không có gì là thơ, mà cũng chẳng
có gì là “huy cận”:
“Về đây ở với đồng bào
Người quen ngõ thuộc vui nào vui hơn”
(Quanh nơi làm việc)
hay một bài thơ khác ca tụng đất Nghệ Tĩnh:
“Đất nầy đất Xô Viết
Đảng mở hội cờ hồng
Tự tuổi vàng đá biết
Mặn nồng tình công nông”
(Gởi Người Bạn Nghệ Tĩnh)
Hay loại thơ chống Mỹ:
“Giặc Mỹ! Mày hung ác quá chừng!
Bom gieo sạt phố, đổ xiêu tường
Nhưng bao người viết thư tường ấy
Sẽ tống xô mày xuống đại dương
(Những Lá thư trên tường Hải Phòng)
Trước
1945, Huy Cận làm nhiều bài khá hay, vừa mang cái tính lãng mạn sầu
muộn vu vơ, “sầu đến chết” của thi ca tiền chiến, vừa mang tính cổ thi,
những hình tượng và đường nét xưa cũ, mênh mông như vũ trụ, bàng bạc
trầm tư về thân phận người như Trần Tử Ngang (*). Đó là những bài thơ
thật hay. Đặc biệt trong bài Tràng Giang có mấy câu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi một càng khô lạc mấy giòng
Bèo giạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Khôngcầu nối lại niềm thông cảm
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cầu
là phương tiện nối liền hai bên bờ sông, cho người qua lại, thăm hỏi
chuyện trò và… thông cảm nhau. Không cầu, khi cầu đã gãy thì Trầm Tử
Thiêng phải viết “Chuyện một câu cầu đã gãy” để thương tiếc là điều
đương nhiên.
Trước Trầm Tử Thiêng không
lâu, Nhất Linh có kể lại khi ông viết truyện dài “Cô Mùi”, ông có dự
tính đặt tên là “Bèo Giạt” lấy ý trong câu thơ trên của Huy Cận.
Còn
một bài nữa, bây giờ không biết tại sao ít thấy phổ biến, nhưng lại là
một bài thơ rất hay, rất triết học, buồn hơn cả mấy câu thơ sau đây của
Hàn Mặc Tử:
Sáng nay vô số lá vàng rơi
Người gái trinh kia đã chết rồi
Có một chiếc xe mầu trắng đục
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi.
Bài Nhạc sầu của Huy Cận, tôi thấy Huy Phương ghi lại có mấy câu. Tôi nhớ cũng không hoàn toàn, xin tạm ghi như sau:
Nhạc sầu
Ai chết đó, nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu lá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả
Những bước lạnh teo mộng hồn úa lá
Chim vui đâu cây đã gãy vài cành
Ô chiều buồn sao nắng quá mong manh
Mọi tái nhợt nào cười mà héo vậy
Ai chết đó trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao nay thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng sẽ xa miền
…..
Và ngựa ơi! Đi nhịp đằm chớ nhảy
Kẻo thân đau chưa quen nệm giường đời
Ai đi đưa xin đưa đến tận nơi
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết một vài ba đầu cúi
Năm, bảy lòng thương xót đến bên mồ
Ôi chiều buồn khi sắp xuống hư vô
Woecester, Mass mùa hè 2005
Hoàng Long Hải (Tuệ Chương)
Chú thích:
Tình già
Phan Khôi
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở
- Ôi đôi ta, tình thương nhau thì đã nặng
Mà lấy nhau hẵn là không đặng
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
- Hay mới bạc làm sao chớ?
Buông nhau làm sao cho nỡ
Thương được chừng nào hay chừng nấy,
Chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thuỷ chung?
Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc,
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi
Con mắt còn có đuôi!
Trần Tử Ngang
U-Châu Đăng Đàn Ca
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thượng nhân nhi lệ hạ!
Hỡi người xưa qua rồi
Hỡi người sau chưa tới
Nhìn trời đất vô cùng
Mình ta tuôn giòng lệ.
Nietzsche
sinh tại Rocken, thuộc Phổ (nay thuộc Đức). Thân phụ ông là mục sư đạo
Tin Lành, qua đời khi Nietzsche mới 5 tuổi. Mẹ ông lo nuôi ông trong một
ngôi nhà gồm bà nội (ngoại?), hai bà dì và chị ông. Ông học triết học
cổ điển tại viện đại học Bonn và Leipzig và được bổ nhậm làm giáo sư
triết học cổ điển tại việc đại học Basel khi mới 24 tuổi. Sức khỏe yếu
vì bệnh mắt và chứng nhức đầu kinh niên dằn vặt ông suốt đời, khiến ông
xin nghỉ việc năm 1879. Mười năm sau, ông bị chứng bệnh tâm thần mà
không bao giờ hồi phục được. Ông qua đời tại Weimar năm 1900.
Ông
chịu ảnh hưởng văn hoá Hy-Lạp, đặc biệt triết học của Plato và
Aristote. Ông cũng chịu ảnh hưởng thuyết tiến hoá của nhà triết học Đức
Arthur Schopenhauer và tình bạn của ông đối với nhà soạn nhạc Richard
Wagner.
Ông
có quan điểm chống đối kịch liệt tư tưởng truyền thống, đặc biệt do giáo
hội cơ đốc đại diện, quyền lực của họ giới hạn chủ nghĩa cá nhân. Sức
chống đối đó mãnh liệt đến nỗi ông tuyên bố rằng “Thượng Đế đã chết” và
cho rằng đạo đức truyền thống chỉ là một thứ dùng để nô lệ hoá con
người. Ông chủ trương thuyết “siêu nhân” là một lý thuyết mang tính cá
nhân cao, độc lập, tập trung vào thế giới hiện tại hơn là những phần
thưởng hứa hẹn ở thế giới mai sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét