Bertrand Russell
QUYỀN LỰC
Nguyễn Vương Chấn & Đàm Xuân Cận dịch
Nxb. Hiện đại, 1972
--- o0o ---
QUYỀN LỰC
[Phần 1]
Chương I
SỰ THÔI THÚC CỦA QUYỀN LỰC
Giữa con người và thú vật có nhiều dị biệt hoặc về phương diện trí năng
hoặc về phương diện cảm xúc. Khác với thú vật, con người có một số ham
muốn tự bản chất đã
vô hạn nên không thể được thỏa mãn hoàn toàn. Khi no mồi con trăn
ngủ yên cho tới lúc cơn thèm đói mới thức giấc; nếu những con thú khác
không ngủ sau bữa ăn chính là vì chúng chưa đủ no hay chúng sợ kẻ thù.
Các hoạt động của loài vật bắt nguồn từ những nhu cầu về tồn sinh
và truyền sinh, và không những đòi hỏi của những nhu cầu này – ngoại
trừ một vài biệt lệ hiếm hoi.
Với loài người vấn đề khác
hẳn. Thật tình mà nói, đa số nhân loại phải làm việc vất vả để kiếm
miếng ăn đến nỗi chỉ còn ít năng lực dành cho những mục đích khác: nhưng
những kẻ có đời sống bảo đảm cũng vẫn không ngừng hoạt động. Xerxes[1]không
thiếu thực phẩm hoặc cung tần mỹ nữ vào lúc ông ta lên đường viễn chinh
Athenes. Từ khi được bổ nhiệm chức giảng sư Trinity, Newton[2]chắc chắn được hưởng đầy đủ tiện nghi vật chất, nhưng sau này ông mới viết cuốn Principia nổi tiếng. Thánh Francis[3]và Ignatius Loyola[4]không cần lập dòng tu để thoát khỏi cảnh túng bấn. Những vị vừa kể là những nhân vật phi thường, nhưng ta thấy mọi người đều
có đặc tính hiếu động ở những cấp độ khác nhau, ngoại trừ một thiểu số u
mê, đần độn rất nhỏ. Nếu chẳng phải làm việc, bà A sẽ cố sao ăn mặc
lịch sự hơn bà B mới được. Có lẽ bà A muốn chồng bà có ngày được vào
quốc hội. Mỗi người chúng ta đều
có quyền mơ tới những vinh quang chiến thắng bất tận, và nếu như ta có
thể thực hiện được bất kỳ giấc mơ nào, hẳn ta sẽ không ngại nhọc mệt mà cố gắng làm việc.
Tưởng tượng chính là kích thích tố thúc đẩy con người vào những hoạt động không ngừng sau khi những nhu cầu căn bản đã được thỏa mãn. Phần lớn chúng ta rất hiếm khi có được những phút giây thực sự hạnh phúc:
Nếu ta phải chết lúc này
Ta vui vẻ sẵn sàng
Ôi ta sợ
Hồn ta chẳng còn khi nào hoan lạc như bây giờ.
Và thật tự nhiên nếu trong những giây phút được hưởng hạnh phúc toàn
vẹn ta ước mơ nỗi chết giống như Othello, vì ta biết sự thỏa mãn không
thế kéo dài. Chỉ có Thượng Đế mới có hạnh phúc tuyệt đối với chính ngài
“là Thiên quốc, là quyền năng, là vinh quang”. Các vương quốc trần gian
bị giới hạn những vương quốc khác; quyền lực trần gian bị chấm dứt bởi
sự chết; danh vọng trần thế phai tàn với thời gian cho dù ta có xây kim
tự tháp hay được lời thơ bất diệt xưng tụng. Những ai chỉ có một ít
quyền lực và danh vọng thường hay nghĩ là được thêm chút nữa họ sẽ thỏa
mãn, nhưng họ đã lầm: những ước muốn này vô hạn và chỉ trong vô cùng của
Thượng Đế họ mới được nơi an nghỉ.
Trong khi thú vật thỏa mãn tồn sinh và truyền sinh. Con người muốn
được bành trướng, và những ước muốn về phương diện này bị giới hạn bởi
những gì mà tưởng tượng đã gợi ra. Mỗi người đều
muốn làm Thượng Đế nếu như điều này có thể xảy ra được; một số người
không chịu chấp nhận lý do họ không thể trở thành Thượng Đế. Hẳn đây
là những kẻ tạo dựng theo khuôn mẫu Santan trong tác phẩm của Milton [5]nên
không thừa nhận giới hạn cho quyền lực con người. Nơi đó họ có cả những
yếu tố cao cả lẫn lòng bất kính. Sự kết hợp này dễ nhận thấy nơi các
nhà chinh phục lừng danh, nhưng còn hiện diện cách mờ nhạt nơi tất cả
mọi người. Chính điều này làm cho sự hợp tác xã hội trở nên khó khăn vì
mỗi người chúng ta thường thích quan niệm nó theo mẫu mực của sự hợp tác
giữa Thượng Đế và các kẻ tôn kính Ngài, và chúng ta ở vào vị thế của
Thượng Đế. Từ đó nảy sinh cạnh tranh, sự cần thiết của thỏa hiệp và
chính quyền, khuynh hướng nổi loạn, sự bất ổn định và bạo động. Và chúng
ta thấy có đạo đức để kìm hãm những hành động vô chính phủ.
Lòng đam mê quyền lực và danh vọng là những ước muốn vô hạn chính của
con người. Hai đam mê này không hoàn toàn giống nhau dù chúng liên kết
chặt chẽ với nhau. Thủ tướng có nhiều quyền lực hơn danh vọng, nhưng Vua
Anh có nhiều danh vọng hơn quyền lực. Thường thường cách dễ nhất để có
danh vọng là đoạt được quyền lực, nhất là đối với những người hoạt động
trong đời sống công cộng. Do đó tác động của lòng ham muốn danh vọng gần
giống như ở lòng ham muốn quyền lực. Ta có thể coi hai động lực là một
trong thực tế.
Những kinh tế gia chính thống (Marx đồng ý với họ về điểm này) thật đã
lầm lẫn khi cho rằng quyền lợi kinh tế có thể coi là động lực căn bản trong những khoa học xã hội.
Những ước muốn vật chất khi tách khỏi quyền lực và danh vọng thì hữu
hạn và có thể thỏa mãn hoàn toàn với một khả năng vừa phải. Lòng yêu
thích tiện nghi vật chất không tạo nên những tham vọng thật sự (tốn
kém). Người ta muốn có chẳng hạn một quốc hội gia nô hay một phòng trưng
bày những danh tác của những bậc thầy hội họa là để thỏa mãn quyền lực
hay danh vọng, chứ không phải vì muốn kiếm chỗ nghỉ ngơi thoải mái. Khi
đã có một đời sống tiện nghi vừa phải, cả cá nhân lẫn cộng đồng sẽ theo
đuổi quyền lực hơn là muốn làm giàu: dĩ nhiên người ta có thể kiếm giàu
có vì giàu có là phương tiện đưa tới quyền lực, hay làm giàu thêm để có
thêm quyền lực. Nhưng ta cần nhìn rõ là trong cả hai trường hợp động lực
nền tảng không phải là động lực kinh tế.
Chúng ta nêu ra sai lầm căn bản này
trong kinh tế chính thống và Mácxít không phải là nói chuyện lý thuyết
cho vui, nó đã khiến chúng ta hiểu sai một số biến cố chính yếu trong
thời gian gần đây. Chỉ khi nào nhận ra rằng lòng yêu quyền lực là căn do của những hoạt động xã hội quan trọng ta mới có thể giải thích lịch sử xưa nay một cách đứng đắn.
Tôi sẽ cố gắng chứng tỏ quyền lực là ý niệm căn bản trong khoa học xã hội,
cũng như ý niệm năng lực trong khoa vật lý. Giống như năng lực, quyền
lực có nhiều hình thức, chẳng hạn như tài sản, vũ khí, thẩm quyền dân
sự, ảnh hưởng trên dư luận. Không một hình thức nào có thể bị coi là
phụ thuộc vào hình thức khác, mà cũng không hình thức nào gây ra hình
thức còn lại. Toan tính xét một hình thức quyền lực (chẳng hạn như tài
sản) một cách riêng rẽ chỉ có thể thành công một phần, đúng như việc
nghiên cứu một dạng của năng lực sẽ khiếm khuyết ở một số điểm, trừ khi
ta xét nó trong tương quan với các dạng quyền lực khác. Tài sản có thể
là kết quả của quyền lực dân sự hay do ảnh hưởng trên dư luận mà nói
quyền lực quân sự hay ảnh hưởng trên dư luận do tài sản mà có cũng không
sai. Ta chỉ có thể trình bài các luật của động lực học xã
hội (social dynamics) theo tác dụng của quyền lực. Thời xưa, quyền lực
quân sự đứng biệt lập nên thắng bại có vẻ như do tài năng của viên
tướng. Bây giờ người ta thường coi quyền lực kinh tế là nguồn gốc của
mọi loại quyền lực khác. Đây cũng là một lầm lẫn không kém lầm lẫn của
các sử gia quân sự thuần túy. Lại còn có những người coi tuyên truyền là
hình thức quyền lực căn bản.
Ý kiến này thật ra không mới mẻ gì. Nó được thể hiện trong những thành
ngữ cổ như “magna est veritas et prevalebit”(sự thực vĩ đại sẽ thắng) và
“máu của các thánh tử đạo là hạt giống của giáo hội”. Quan điểm tuyên
truyền cũng có phần sai, phần đúng như quan điểm quân sự hay quan điểm
kinh tế. Nếu tuyên truyền gây nên được một dư luận đồng tình, nó tạo ra
một truyền lực bất khả kháng; những người có quyền lực quân sự hay kinh
tế có thể dùng nó vào mục đích tuyên truyền. Trở lại luận cứ vật lý học, ta thấy quyền lực giống như năng lực, có thể liên tục chuyển từ hình thức này sang hình thức khác, và khoa học xã
hội có nhiệm vụ tìm kiếm những luật chi phối những chuyển dạng này.
Toan tính cô lập bất kì hình thức quyền lực nào (hiện nay là quyền lực
kinh tế) là một sai lầm nghiêm trọng.
Những xã hội hành xử quyền lực theo nhiều cách khác nhau. Trước hết
là mức độ quyền lực trong tay cá nhân hay tổ chức, rõ ràng bây
giờ Nhà Nước có nhiều quyền hành hơn thời trước vì guồng máy tinh vi
hơn. Mỗi xã hội lại có một tổ chức riêng: chế độ độc tài quân sự, thần
quyền, tộc quyền rất khác nhau. Chúng cũng khác biệt về những phương
thế thủ đắc quyền lực: việc vua chúa cha truyền con nối đưa ra một loại
người ưu tú, không giống như loại người của dân chủ, hay chiến tranh
chẳng hạn.
Nơi không có định chế xã hội nào (thí dụ chế độ quý tộc hay chế độ
tập ấm) giới hạn số người nắm quyền thì nói đại khái ai ham quyền nhất
chắc sẽ có quyền. Ta suy ra những kẻ làm lớn trong một xã hội cởi mở
thường là những kẻ ham quyền khác hẳn người thường. Dù là một trong
những động lực mạnh nhất của nhân loại, lòng yêu quyền lực được phân
phối rất không đồng đều,
vì bị giới hạn bởi nhiều động lực khác như lòng ham tiện nghi, lòng ham
khoái lạc, và đôi khi lòng ham đồng ý. Nó được ngụy trang nơi những kẻ
rụt rè thành khuynh hướng phục tùng khiến cho những kẻ bạo tợn càng
khoái nắm đầu thiên hạ. Ít khi những người của thời thế lại là những
người không ham quyền lực cho lắm. Những kẻ thay đổi xã hội thường là
những kẻ nhiều đam mê. Do đó lòng yêu quyền lực là đặc tính của những kẻ
quan trọng. Dĩ nhiên ta sai lầm nếu coi lòng yêu quyền lực là động lực
duy nhất của con người, nhưng cho dù ta có nghĩ vậy thì cũng không có gì
nghiêm trọng lắm. Tôi nhấn mạnh lòng yêu quyền lực là động lực chính
yếu tạo nên những thay đổi mà khoa học xã hội phải coi là đối tượng nghiên cứu.
Tôi sẽ chứng tỏ người ta chỉ có thể trình bày những luật động lực học xã hội
theo tác dụng của quyền lực dưới các hình thức khác nhau của nó. Muốn
khám phá những luật này, trước hết cần phải phân loại các hình thức
quyền lực rồi xét tới cách gây ảnh hưởng trên đời sống tha nhân của các
tổ chức và cá nhân trong lịch sử.
Tôi có hai mục đích rõ ràng. Mục đích thứ nhất là trình bày một lối
phân tích những thay đổi xã hội nói chung theo tôi thỏa đáng hơn phương
pháp của các kinh tế gia. Mục đích thứ hai là giúp cho những người còn
bị ám ảnh bởi các thế kỷ mười tám vá mười chín có thể hiểu thời hiện tại
và tương lai gần đây rõ ràng hơn. Những thế kỷ này đặc sắc về nhiều
phương diện và dường như chúng ta đang trở lại một số lề thói sinh hoạt
và tư tưởng quen thuộc của thời đại cũ.
Phải nghiên cứu lịch sử thượng cổ và lịch sử trung cổ để hiểu thời đại
của chúng ta và các nhu cầu của nó. Chỉ có làm như vậy chúng ta mới đạt
được một tiến bộ khả quan không bị các định đề của thế kỷ mười chín chế ngự quá đáng.
ChươngII
NGƯỜI LÃNH TỤ VÀ KẺ TUÂN HÀNH
Sự thôi thúc của quyền lực hiển nhiên nơi những lãnh tụ và những ẩn
tàng nơi những kẻ tuân hành. Người ta theo một lãnh tụ là để chiếm quyền
cho phe nhóm mình và để chia sẻ các chiến thắng của lãnh tụ mình.
Số đông người cảm thấy thiếu khả năng lãnh đạo kẻ khác nên mới tìm tới
một lãnh tụ xem ra có đủ đảm lược đem lại chiến thắng. Ngay trong tôn
giáo cũng vậy. Nietszche[6]kết án
Thiên chúa giáo rao giảng một nền luân lý nô lệ, những người nô lệ này
cũng tìm tới chiến thắng cuối cùng. “Phúc thay cho những kẻ vâng lời
vì trái đất sẽ là của họ”. Hay một bản thánh ca nổi tiếng đã minh thị:
Xông pha thời chinh chiến
Tìm kiếm ánh quang vinh
Dưới lá cờ hoen máu
Quyết một lòng tiến lên
Ta hãy quên thống khổ
Và nén tiếng thở dài
Đưa thập giá lên vai
Vui trên đường phụng sự.
Nếu là một thứ nô lệ thì ta phải coi người lính nghề đã từng chịu đựng
gian khổ nơi chiến trường và các chính trị gia “cầm cờ” làm việc cực nhọc trong
mùa tranh cử là những kẻ nô lệ. Nhưng về phương diện tâm lý kẻ tuân
hành không là nô lệ hơn người lãnh tụ trong bất kỳ một cuộc hợp tác
thành thật nào.
Chính điều này khiến cho các bất bình đẳng về quyền lực phải có trong
một tổ chức vẫn tồn tại được và có khuynh hướng gia tăng hơn là giảm đi
khi xã hội trở nên ngày càng phức tạp.
Chúng ta thấy việc phân phối quyền lực không đều luôn luôn tồn tại trong các cộng đồng nhân loại. Đó là do nhu cầu ngoại tại một phần và cũng vì những căn nguyên
nằm sẵn trong nhân tính. Ta chỉ có thể thực hiện được phần lớn các công
tác tập thể nếu có một ban quản đốc điều hành công việc, nếu xe lửa
chạy điều hòa thì thời biểu không thể cho các tài xế đầu máy quyết định;
nếu ta muốn xây một căn nhà hẳn
phải có người quyết định chọn đồ án; nếu muốn đắp một con đường ta phải
xác nhận lộ trình trước đã. Một chính phủ có bầu cử đàng hoàng vẫn
là một chính phủ. Do đó phải có kẻ chỉ huy và những người tuân hành nếu
các công tác tập thể muốn thành tựu vì những lý do không liên hệ chi tới
tâm lý học cả. Nhưng khi giải thích ta phải dùng tâm lý học và sinh lý học cá
nhân. Một số người có những đức tính khiến họ luôn luôn ở vào cương vị
chỉ huy trong khi những kẻ khác phải vâng lời; giữa hai thái cực này là
khối đông đảo quần chúng thích chỉ huy trong vài trường hợp nhưng lại
muốn phục tùng trong những trường hợp khác.
Trong cuốn Tìm Hiểu Nhân Tính (Understanding Human Nature),
Adler phân biệt mẫu người phục tùng và mẫu người hiên ngang. Ông viết:
“Kẻ phục tùng sống theo lề lối và luật lệ của kẻ khác, và hầu như bị
thôi thúc tìm tới một địa vị tuân hành. Trái lại kẻ hiên ngang luôn luôn
tự hỏi phải làm thế nào để hơn người khác.”Mẫu người hiên ngang
chỉ có thể giữ những chức vụ quan trọng và leo tới tột đỉnh trong các
cuộc biến động. Theo Adler cả hai mẫu người này đều xấu (ít nhất là ở những hình thức cực đoan) và đều
là sản phẩm của giáo dục. Bất lợi lớn nhất của một nền giáo dục độc
đoán là đào tạo cả mẫu người nô lệ lẫn độc tài vì theo nền giáo dục này
chỉ có kẻ ra lệnh và kẻ tuân lệnh hợp tác với nhau được.
Lòng yêu thích quyền lực dưới nhiều hình thức gần như phổ quát, nhưng
hình thức tuyệt đối của nó rất hiếm. Một người đàn bà thích ăn hiếp
chồng con chưa chắc đã muốn ra làm việc nước; trái lại Abraham Lincoln
không ngán cai trị Hiệp chủng quốc lại rất sợ cảnh lục đục gia đình. Nếu
chiếc Bellerophon bị đắm có lẽ Napoleon đã ngoan ngoãn tuân lệnh các
viên sĩ quan người Anh thoát lên thuyền cấp cứu. Con người ưa thích
quyền lực chừng nào có đủ tự tin, nếu không họ thích theo một lãnh
tụ cho chắc ăn hơn.
Khuynh hướng phục tùng cũng còn bắt nguồn từ nỗi sợ hãi. Trong trường
hợp nguy cấp như trong một trận hỏa tai đám trẻ còn ngỗ nghịch nhất sẵn
sàng nghe theo một người lớn đủ uy quyền, khi thế chiến thứ nhất bùng
nổ, những phụ nữ thuộc phong trào Pankhurst[7]làm hòa với thủ tướng Lloyd George[8].
Mỗi khi có nguy cơ thật sự, phần đông sẵn sàng đặt mình dưới sự che chở
và sử dụng của nhà cầm quyền; những lúc này ít ai mơ tưởng tới cách
mạng. Nếu chiến tranh bùng nổ, chính phủ sẽ lên chân vì dân chúng tự
nhiên bớt cứng đầu cứng cổ hơn thường lệ.
Chỉ có một số ít tổ chức được đặt ra là nhằm vào việc đối phó với những
nỗi nguy hiểm. Một tổ chức kinh tế như nghiệp đoàn công nhân mỏ than có
thể gặp nguy hiểm, nhưng chỉ khi có tai nạn mà thôi.
Nếu loại trừ được các nguy hiểm, các tổ chức kinh tế sẽ phát triển
tốt đẹp hơn. Nói chung đối phó với những nguy hiểm không hề là mục đích
chính yếu của các tổ chức kinh tế hay những cơ quan công quyền đặc trách
nội vụ. Nhưng chắc chắn người ta đóng thuyền cấp cứu, tổ chức đội
nón đồng cứu hỏa, lục quân và hải quân để đương đầu với nguy hiểm. Điều
này cũng đúng nơi các đoàn thể tôn giáo, vì chúng tồn tại phần nào nhằm
giải tỏa những lo âu siêu hình ẩn sâu nơi bản tính chúng ta. Ai nghi ngờ xin đọc lại bản thánh ca sau đây:
Hỡi tảng đá thiên thu
Hãy cho ta trú ngụ
Hay:
Chúa Jêsu yêu mến
Xin đón con vào lòng
Mặc biển đời bão tố
Và gió gào sóng dâng.
Trong niềm tuân phục Thánh Ý có hàm chứa niềm an toàn sau cùng khiến
nhiều quân vương trở nên sùng đạo dẫu họ không thể hạ mình trước bất cứ
hiện diện trần thế nào. Lòng tuân phục trong trường hợp này bắt rễ từ
nỗi lo sợ dù rằng kẻ được tuân phục là người trần hay thần thánh.
Nhiều người cho rằng tính hiếu thắng cũng bắt rễ từ nỗi lo sợ. Tôi nghĩ
thuyết này đi quá xa. Có thể nó đúng với một loại tính hiếu thắng nào
đó, như của D.H.Lawrence chẳng hạn; nhưng tôi không tin những người trở
thành trùm thảo khấu lại sợ cha như cọp dữ hay Napoleon thực sự buồn
phiền vì mẫu hậu lúc ở Austerlitz[9].
Tôi mù tịt về bà mẹ của Anila nhưng tôi ngờ rằng bà đã quá nuông chiều
đứa con yêu dấu của bà nên khi lớn lên Anila không thấy hài lòng với thế
giới lắm vì nhiều khi dám làm nghịch lại ý muốn của hắn. Tính hiếu
thắng do nhát sợ không tạo nên những lãnh tụ vĩ đại. Nói cho rõ, những
lãnh tụ vĩ đại phải có lòng tự tin phi thường, không phải chỉ hời hợt
bên ngoài mà còn ăn sâu vào tiềm thức.
Lòng tự tin cần thiết cho một lãnh tụ có thể được tại nên do
nhiều đường lối khác nhau. Theo lịch sử, lối thông thường nhất là có địa
vị chỉ huy thế tập. Ta hãy đọc câu ca dao Việt Nam sau đây:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa.
Ta cũng hãy đọc lại các diễn văn của nữ hoàng Elizabeth [10] trong các thời kỳ khủng hoảng, bạn sẽ thấy con người quân vương lấn át bản tính
phụ nữ và Nữ hoàng biết phải làm gì để cứu nước. Quyền lợi của quốc gia
và quyền lợi của Nữ Hoàng là một. Đây là lý do khiến Nữ hoàng được tôn
xưng là “Nữ Hoàng Đáng Tôn Kính”. Bà có thể tán dương phụ thân mình mà
không khiến ai khó chịu hết. Chắc chắn thói quen ra lệnh khiến ta dễ
nhận trách nhiệm và đưa ra các quyết định mau lẹ. Một bộ lạc theo vị
lãnh tụ thế tập chắc là hăng hái hơn khi vị lãnh tụ được chọn bằng cách
rút thăm. Mặt khác khi một đoàn thể như Giáo hội thời trung cổ chọn lựa
lãnh tụ theo tài đức (thường là trong số những người đã có kinh nghiệm
cai trị) thì đoàn thể này gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp hơn là các nền
quân chủ thế tập trong cùng một thời kỳ.
Đọc lịch sử ta thấy một số lãnh tụ lỗi lạc nhất đã bắt đầu sự nghiệp
trong những hoàn cảnh biến động. Ta hãy xét các đức tính đã mang lại
thành công cho Cromwell[11],
Napoleon, Lênin. Cả ba đã làm chủ xứ sở của họ vào những thời kỳ khó
khăn và dùng được những kẻ có khả năng nhưng chưa chắc dễ bị sai khiến.
Cả ba đều
can đảm và tự tin vô biên, thêm vào óc phán đoán mẫn tiệp vào những
giây phút khó khăn. Tuy nhiên họ không giống nhau. Cromwell và Lênin
thuộc cùng một loại, còn Napoleon thì ở loại khác. Cromwell và Lenin bị
nung nấu bởi lòng tin mãnh liệt vì họ tự coi được giao phó sứ mạng siêu
nhân. Họ cho những thúc đẩy quyền lực nơi họ là chính đáng. Họ chẳng
màng tưởng những phần thưởng vật chất như một cuộc đời xa hoa nhàn hạ,
vốn là những điều tầm thường khó mà hòa điệu với các mục đích siêu phàm.
Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp Lênin, còn Cromwell đã ý thức
sa ngã của mình vào những năm cuối đời. Dẫu sao sự phối hợp giữa niềm
tin và tài năng xuất chúng đã giúp cả hai có thừa tự tin và gây được tin
tưởng nơi kẻ dưới.
Trái với Cromwell và Lenin, Napoleon là điển hình của lính nghề. Ông
hưởng ứng cuộc cách mạng vì nó giúp ông cơ hội thi thố tài năng mà thôi,
chứ thực ra thì ông rất thờ ơ. Dẫu rằng ông cảm thông với lòng ái
quốc Pháp đối với ông chỉ là một cơ hội không hơn không kém. Lúc còn trẻ
ông từng có ý tưởng sẽ chiến đấu cho Corsica chống lại nước Pháp. Ông
thành công không hẳn do những đức tính đặc biệt mà vì ông thấu đáo kỹ
thuật chiến tranh: ông đã chiến thắng trong nhiều trường hợp kẻ khác nắm
chắc thất bại. Vào những giây phút quyết định như ngày 18 Brumaire và
Marengo ông biết chớp thời cơ cướp đoạt công lao của kẻ khác. Ta cũng
nên nhớ quân đội Pháp lúc đó có nhiều người trẻ tuổi nhiều tham vọng.
Những chiến thắng liên tiếp khiến ông tin tưởng vào số mệnh, nhưng trớ
trêu thay sự tin tưởng thái quá này đã đưa ông tới thất bại ê chề vào
lúc chung cuộc.
Ta phải xếp Hitler vào một loại với Lenin và Cromwell, Mussolini với
Napoleon về phương diện tâm lý. Thực ra tên lính nghề hoặc trùm thảo
khấu là loại người quan trọng trong lịch sử hơn là những sử gia khoa học thường
tưởng. Một đôi khi hắn may mắn trở thành lãnh tụ của những tổ chức mục
đích phần nào vượt khỏi cá nhân, giống như Napoleon. Có nhiều người tin
đạo quân cách mạng Pháp là những kẻ giải phóng Âu châu, nhưng chính
Napoleon lại chỉ nghĩ tới việc giải phóng khi nào cần tăng uy tín cho cá
nhân mình. Rất nhiều khi người ta chẳng cần giả vờ mang một mục đích
cao cả nào hết. Có lẽ Alexander cho rằng ông đã bắt tay vào việc Hy Lạp
hóa phương Đông, nhưng những người lính Macedonians của ông chẳng quan
tâm tới khía cạnh này làm chi. Trong thế kỷ cuối cùng của nền Cộng hòa
những viên tướng La Mã chỉ đánh giặc vì tiền và mua chuộc lòng trung
thành của thuộc hạ bằng đất đai, của cải Cecil Rhodes bày tỏ lòng tin
tưởng thần bí của đế quốc Anh nhưng chính niềm tin tưởng này đã mang lại
nhiều lợi lộc. Ông ta dùng tiền bạc để khuyến dụ các binh sỹ theo ông
trong cuộc chinh phục Matabeleland. Lòng tham lợi, dù được che đậy hay
không, đóng vai trò quan trọng vào những cuộc chiến tranh trên thế giới.
Có thể rằng một công dân bình lặng phục tùng một lãnh tụ do sợ sệt
nhưng điều này không đúng với bọn thảo khấu, trừ khi chúng bị bắt
buộc đi ăn cướp. Một khi quyền lợi của một lãnh tụ đã được xác định đàng
hoàng, ông ta có thể khiến cho những cá nhân lộn xộn khiếp sợ, nhưng
trước khi trở nên lãnh tụ và được đa số công nhận ông ta không làm cho
ai ngán cả. Muốn trở thành lãnh tụ, ông ta phải có đầy đủ lòng tự tin,
quyết đoán mau lẹ và chọn những biện pháp đúng. Tuy vậy, quyền lãnh đạo
chỉ tương đối. Ceasar là người duy nhất có thể sai khiến Antony. Đa số
người thấy sinh hoạt chính trị khó khăn và tốt hơn cả là theo một lãnh
tụ như thể những con chó có nghĩa với chủ. Không vậy thì làm sao quan
niệm hành động chính trị tập thể được.
Vậy thì lòng yêu quyền lực (coi như một nguyên động lực) và cả ý muốn
tự chỉ huy bị hạn chế bởi tính nhút nhát. Vì quyền lực giúp ta thực hiện
nhiều tham vọng và khiến kẻ khác trọng nể ta, tự nhiên chúng ta mong
muốn quyền lực đến một mức độ nào đó. Quá độ mức độ này, tính nhút nhát
sẽ can thiệp. Tính nhút nhát sẽ giảm bớt nếu ta quen nhận lãnh trách
nhiệm có khuynh hướng muốn gia tăng ước muốn quyền lực. Kinh nghiệm về
sự tàn ác và bất thân thiện có thể làm cho những kẻ nhát sợ tha mình vào
một chỗ trong khi những kẻ bạo tợn thì ráng kiếm những việc hành hạ kẻ
khác.
Sau tình trạng vô chính phủ gần như chắc chắn đối có chế độ độc tài
vì thiên hạ đã làm quen với lề thống trị và bị trị ở trong gia đình quốc
gia hay lĩnh vực kinh doanh. Sự hợp tác bình đẳng khó hơn là độc tài và
không dính dấp tới bản năng
(chỉ huy và tuân phục). Trong một cuộc hợp tác bình đẳng người ta phải
tự chủ hoàn toàn không được để lộ ý muốn phục tùng. Mỗi bên đều
phải trung thành với một điều thiêng liêng nào đó. Ở Trung Hoa những
công việc kinh doanh trong gia đình thường thành công nhờ lòng trung
thành gia đình đúng theo truyền thống Khổng Mạnh, nhưng những công ty
tổ hợp xem chừng không hoạt động được bởi chẳng có lý do gì bắt buộc
kẻ này phải đối xử thân thiện đối với người góp vốn khác. Muốn cho một
chính quyền do bầu cử làm việc người ta phải tôn trọng luật pháp hay
chính quyền hoặc một nguyên tắc chung nào đó được mọi người chấp nhận.
Hội Liên Hữu không tổ chức bầu cử. Khi có vấn đề nào
khó xử, họ thảo luận bàn cải cho đến khi đạt tới “thực chất” của cuộc
họp, tin là do Chúa Thánh thần mặc khải. Dĩ nhiên Hội Liên Hữu là một
cộng đồng nhất khác thường. Nhưng nếu thiếu một dức độ đồng nhất nào đó
không thể cai trị bằng thảo luận được.
Một gia đình như họ Fuggers hoặc họ Rothchilds, một tổ chức như nhóm
Thanh giáo, một bộ lạc man rợ hay một quốc gia lâm chiến hoặc sắp lâm
chiến thường có một tình liên đới đủ mạnh để thảo luận mọi vấn đề mà khỏi
phải dùng các biện pháp cực đoan. Nhưng ta nên nhớ cần có áp lực từ bên
ngoài: các hội viên bám lấy nhau vì sợ phải đứng một mình. Một cơn nguy
biến chung là cách dễ nhất để tạo ra sự đồng nhất. Tuy nhiên đây không
phải là giải pháp cho vấn đề quyền lực cho toàn thế giới. Hiển nhiên là chúng ta ngăn ngừa những hiểm họa như chiến tranh chẳng hạn, nhưng vấn đề này
khó khăn về phương diện tâm lý cũng như chính trị và chúng ta thấy có
lẽ chỉ có thể giải quyết nổi nếu có một nền độc tài chuyên chính ở một
quốc gia nào đó. Việc các quốc gia hợp tác với nhau cũng khó giống như
đám quý tộc Ba Lan trước khi phân ly. Nhân loại cần có tổ chức chính
quyền, nhưng ở những nơi mà trước kia tình trạng vô chính phủ đã từng
chế ngự, lúc đầu người ta chỉ thuần phục chế độ chuyên chế. Do đó, việc
đầu tiên là phải nắm vững chính quyền, dù là một chính quyền chuyên chế,
và chỉ khi nào chính quyền này trở nên quen thuộc ta mới mong biến nó
thành chính quyền dân chủ một cách êm thấm. Quyền lực tuyệt đối hữu ích
trong việc xây dựng tổ chức. Tuy áp lực xã hội đòi hỏi rằng quyền lực
phải phục vụ mọi người liên hệ phát triển chậm hơn nhưng cũng không kém
chắc chắn. Áp lực này thường xuyên trong lịch sử giáo quyền và lịch sử
chính trị đã xuất hiện trong phạm vi kinh tế.
Tôi đã nói về những kẻ chỉ huy và những kẻ tuân hành, nhưng còn phải
nói về kẻ thứ ba: những kẻ đứng bên lề. Nhiều người có can đảm từ chối
tuân lệnh kẻ khác, nhưng cũng không thích chỉ huy. Họ đứng bên lề xã hội
và tìm nơi trú ẩn mà họ có thể hưởng một thứ tự do phần nào cô độc,
nhiều lúc loại người này rất quan trọng; chẳng hạn những tín đồ Thiên
chúa giáo thời sơ khai hay các kẻ tiền phong ở Hoa Kỳ. Nơi trú ẩn có
thể là tinh thần, có thể là thân xác, có khi là một sự cô đơn hoàn toàn
của một nơi ẩn dật, có khi là sự cô đơn tập thể của một tu viện. Trong
số những kẻ trú ẩn về phương diện tinh thần, có những ẩn sĩ, những kẻ
thích thú những đam mê vô hại, những kẻ ám ảnh bởi những hình thức bí
hiểm và không mấy quan trọng của ti thức. Trong số những kẻ trú ẩn về
phương diện thân xác là những kẻ đi tìm biên cương văn minh và những nhà
thám hiểm, ví dụ như Bates nhà vạn vật học của
vùng Amazon, kẻ đã sống sung sướng suốt mười lăm năm chỉ bầu bạn với
người da đỏ. Kẻ ẩn dật cũng có một số đức tính có thể khiến họ tạo dựng
những công trình tuyệt hảo vì họ cặm cụi làm việc mà chẳng màn danh lợi,
mặc cho thiên hạ lãnh đạm hay đả kích. Họ là những kẻ dám có những ý
kiến nghịch đời.
Một số kẻ đứng ngoài không hẳn là thờ ơ với quyền lực, nhưng
chỉ vì họ không thể chiếm được quyền lực theo phương thức thông thường.
Những người này có thể nên thánh hay trở thành những tư tưởng gia tiên
phong, kẻ sáng lập dòng tu hay trường phái văn chương nghệ thuật. Họ
thâu nhận những đệ tử vừa có khuynh hướng phục tùng, vừa có khuynh hướng
phản kháng, những kẻ không theo chính thống và chấp nhận cái mới. Ta
còn nhớ trường hợp Tolstoy và các môn đệ của ông. Loại cô đơn hoàn toàn
thì khác. Tên hầu cận rầu rỉ sẵn sàng chia sẽ đời sống lưu đày với tướng
công tốt lòng của mình và dù sao này vị tướng công có đổi tính đổi nết
đi chăng nữa, hắn vẫn sẵn lòng ở lại rừng xanh hơn là về với triều đình.
Ta cũng đã biết nhiều tên khai phá tiền phong Hoa Kỳ đã bán trang trại
của họ và lên đường tây tiến trước khi bị văn minh bắt kịp. Với họ, thế
giới ngày càng khan hiếm cơ hội. Một số nhúng tay vào tội ác, một số trở
buồn phiền chán đời. Tiếp xúc với người đồng loại nhiều quá khiến họ
chán chường đến độ nếu không sống cô đơn được thì họ bạo động chém giết.
Tổ chức được tăng cường vì những người nhút nhát dễ tuân phục lãnh
tụ và cảm thấy an tâm được thuộc về một đám đông có cảm nghĩ giống nhau.
Trong một buổi họp công cộng hào hứng, ta thấy sảng khoái, pha lẫn ấm
cúng và an tâm; cảm xúc được chia sẽ càng lúc trở nên càng mạnh mẽ đến
khi nó lấn át mọi cảm nghĩ khác trừ ý thức quyền lực sôi nổi do sự gia
tăng bản ngã. Khích động tập thể chính là một nhiễm độc ngọt ngào dễ dàng làm quen sự tỉnh táo, lòng nhân đạo và ngay cả bản năng
sinh tồn. Những đám đông bị kích động dễ dàng phạm tội tàn sát ghê tởm
hay chịu hy sinh anh hùng. Loại nhiễm độc này, như những loại khác, thật
khó cưỡng lại khi ta đã một lần nếm mùi. Nhưng cuối cùng cũng chỉ là
nỗi chán chường hờ hững, để rồi phải có liều kích thích tố ngày càng
mạnh hơn nếu ta muốn tạo lại hăng say ban đầu.
Xúc động này có thể do âm nhạc tuyệt diệu hay một biến cố sôi nổi tiếp
diễn trước mặt đám đông, nhưng lời nói của một nhà hùng biện dễ quyến
rũ đám đông nhất. Vậy một yếu tố quan trọng trong quyền lãnh
tụ là khả năng ăn nói hấp dẫn. Nhà lãnh tụ không cần phải chia xẻ những
cảm xúc do ông gây ra. Ông ta có thể tự nhủ như lời lẽ của Antony[12] (trong kịch bản của Shakespeare) như sau:
Hỡi sức mạnh hãy mặc sức hoành hành
Đám đông kia nào đáng kể băn khoăn.
Người lãnh tụ khó mà thành công nếu ông không có tâm lý sài sễ, hành
hạ những kẻ theo mình. Ông ta sẽ thích một loại hoàn cảnh, một loại đám
đông nào đó dễ đưa thành công lại cho ông. Hoàn cảnh tốt nhất là một nỗi
nguy hiểm đủ trầm trọng khiến người ta muốn tòng quân cứu nước nhưng
đừng khủng khiếp tới độ làm người ta sợ hãi chẳng hạn như chiến tranh
bùng nổ với một kẻ thù đáng ngại nhưng không hẳn đã là vô địch. Muốn
khích động lòng hiếu chiến, nhà hùng biện ráng gây nên hai lớp tin
tưởng: bề ngoài ông bảo họ rằng kẻ thù rất mạnh nên ta phải có nhiều can
đảm: sâu hơn ông đoán chắc là họ sẽ chiến thắng. Nói nhẹ nhàng thì ta
có thể dùng những biểu ngữ đại loại như: “Công lý thắng cường quyền”,
hay những câu bất hủ như:
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.
Đám đông lý tưởng của nhà hùng biện là loại dễ bị xúc động lôi cuốn hơn
là suy tư, dễ sợ hãi, dễ căm thù, không thích những biện pháp đúng đắn
nhưng chậm chạp, dễ tuyệt vọng nhưng cùng lúc lại tràn đầy hy vọng. Nếu
chẳng phải là một kẻ quá quay quắt, nhá hùng biện sẽ ráng kiếm một số
tin tưởng biện minh cho việc ông làm. Ông cho rằng người ta nên hành
động theo cảm xúc hơn là theo lý trí, rằng mọi ý kiến nên xuất phát từ
con tim hơn là do não tủy, và những yếu tố tốt đẹp nhất trong con người
có tính cách tập thể hơn là cá nhân. Nếu ông ta có quyền, ông sẽ biến
giáo dục thành một cuộc tập luyện xen lẫn với việc nhồi sọ tập thể, và
trí thức cũng như phán đoán chỉ giữ vai trò hết sức thứ yếu.
Tuy nhiên không phải mọi cá nhân yêu thích quyền lực đều
thuộc loại người hùng biện. Có hạng người mà lòng yêu thích quyền lực
là do kiểm soát được cơ động. Chúng ta hãy nghe Bruno Mussolini
mô tả những chiến công của mình trong trận chiến tranh Abyssinia:
“Chúng ta phải đốt cháy những ngọn đồi rậm rạp, những cánh đồng, và
những đồi nhỏ bé kia… thú vị thật… những trái bom chưa chạm đất đã nổ
tung thành những đám khói trắng và một ngọn lửa cực lớn và cỏ khô bắt
đầu cháy. Tôi nghĩ đến những con vật: Chúa ơi! Chúng chạy cuống cuồng…
sau khi các máng bom đã hết, tôi bắt đầu ném bom bằng tay… thích thú quá
chừng: một zariba lớn bao bọc bởi những tàn cây không dễ chi đụng tới
được. Tôi phải nhắm vào mái rơm kia cho cẩn thận và chỉ ném trúng với cú
thứ ba. Những tên khốn khổ bên trong thấy mái rơm cháy, vụt nhảy ra và
chạy như điên.”
“Bị vòng lửa bao vây, khoảng năm ngàn tên Abyssinians tới bước đường cùng. Chẳng khác gì địa ngục vậy”.
Nhà hùng biện phải sử dụng tới thứ tâm lý trực giác mới mong thành
công. Tên phi công thuộc loại Bruno Mussolini thấy thống khoái đâu
có cần biết chết cháy chẳng thú vị gì. Nhà hùng biện thuộc mẫu người
xưa: mẫu người dựa vào cơ động mới chỉ có đây. Thực ra không phải hoàn
toàn như vậy. Chẳng hạn chúng ta hãy đọc lại những trang sử chép về cuối
trận đánh Punic thứ nhất khi ở thành Carthage người ta đã dùng những
con voi dày xéo những kẻ đánh thuê cho tới chết, chúng ta thấy cùng một
thứ khoái lạc thú vật như của Bruno Mussolini, dẫu rằng một bên thì dùng
voi, đằng khác dùng khoa học tân tiến. Nói một cách tương đối, quyền lực cơ động tiêu biểu cho thời đại chúng ta hơn bất kỳ thời đại nào trước đây.
Người ta chưa hề mô tả cặn kẽ tâm lý một kẻ chủ trương độc quyền chính
trị dựa vào quyền lực cơ khí. Mà đây là một sự kiện khả hữu chứ không
phải viễn vông đâu. Bằng việc kiểm soát phi cơ, tàu bè, nhà máy điện,
các phương tiện chuyển vận… một nhóm thiểu số có huấn luyện kỹ thuật
có thể thiết lập một nền độc tài tuyệt đối mà kẻ bị trị chỉ có quyền răm
rắp tuân lệnh. Đế quốc Laputa được duy trì vì có khả năng ngăn chặn mặt
trời chiếu vào một khu vực nổi dậy; vậy thì một tập đoàn các kỹ thuật
gia khoa học có
thể thi hành một biện pháp ít ra là như thế. Họ có thể bỏ đói một vùng
bất trị, cúp ánh sáng, cúp hơi nóng, cúp điện lực sau khi làm cho những
vùng này quen với các tiện nghi tối tân trên. Họ có thể phun hơi độc và
vi trùng. Trong trường hợp này chống cự hoàn toàn vô ích. Và vì được
huấn luyện cẩn thận về cơ động những người nắm quyền sinh sát sẽ nhìn
con người chẳng khác gì máy móc, nghĩa là những vật vô tri giác bị chi
phối bởi những luật lệ nằm trong tay họ. Một chế độ như thế phi nhân hơn
bất kỳ một chế độ khắc nghiệt nào từ trước tới giờ.
Đề tài
của tôi trong cuốn này là quyền lực trên con người chứ không phải quyền
lực trên vật chất. Thế nhưng tôi vẫn đôi khi phải nói tới quyền lực
trên vật chất vì hiện nay người ta có thể tạo được một quyền lực kỹ
thuật lý học (a technicological power) trên con người, đặt căn bản của
quyền lực trên vật chất. Những kẻ có thói quen kiểm soát những cơ động
mạnh mẽ, và qua sự kiểm soát này thành ra có quyền lực đối với con người
sẽ nhìn con người một cách khác hẳn lối nhìn của những kẻ dựa trên
thuyết phục, dẫu chỉ là lối thuyết phục láo khoét. Đã có khi nhiều người
trong chúng ta ra tay đập nát một tổ kiến và khoái trá nhìn kiến vỡ tổ.
Khi ta nhìn xuống đường phố Nữu – Ước từ nóc một tòa nhà chọc trời,
những người ở dưới trông không còn vẻ người, và trở nên như con sâu cái
kiến vậy. Giả dụ ta có mang một lưỡi tầm sét như anh chàng Jove[13]có
lẽ ta sẽ khoái quật vào đám đông, vì cùng thứ nguyên động lực đã làm ta
ngứa tay phá tổ kiến chơi. Đây cũng là cảm nghĩ của chàng phi công
Bruno Mussolini khi anh ta ngồi trên máy bay nhìn đám dân Abyssinians
khiếp đảm. Hãy tưởng tượng một chính phủ khoa học,
vì sợ bị ám sát, nên lúc nào cũng sống trên phi cơ, lâu lâu mới đáp
xuống bãi đậu trên các đỉnh tháp cao hay các chiếc bè neo ngoài khơi.
Một chính phủ như vậy có thể nào có chút lưu tâm đến hạnh phúc của dân
chúng chăng? Chắc là không rồi. Trái lại gần như chắc chắn chính phủ này
sẽ nhìn dân chúng chẳng khác máy móc khi mọi chuyện êm đẹp. Nhưng khi
có gì chứng tỏ rằng đám đông không hẳn là máy móc, thì chính phủ này hẳn
sẽ nổi điên và lập tức ra lệnh dập tắt mọi chống đối một cách quyết
liệt, tàn nhẫn.
Bạn đọc có thể cho tôi là mê hoảng rồi. Tôi mong rằng quả thực tôi đã
quá bi quan. Nhưng tôi tin chắc quyền lực cơ khí có khuynh hướng tạo nên
một tâm thức mới, cho nên điều cần thiết là phải tìm mọi cách kiểm soát
các chính phủ. Nền dân chủ có thể trở nên khó khăn hơn vì các tiến
bộ kỹ thuật, nhưng nó cũng trở nên quan trọng hơn. Kẻ nào có quyền lực
cơ khí lớn lao mà không bị kiểm soát sẽ cho mình là một vị thần không
phải là vị thần của tình yêu, nhưng là ác thần Thor[14]hay Vulcan[15].
Leopardi [16] đã mô tả cảnh núi lửa hoành hành trên ngọn Vesuvius với những dòng thơ bi thiết:
Những giải đất ngổn ngang bọt đá khô ran
Những giải đất tràn ngập giòng phún thạch kết tinh
Reo vang dưới gót chân kẻ hành hương cô độc
Kìa con rắn cuộn tròn trong tô dưới mặt trời chói bỏng
Kìa con thỏ vội về hang trong khe hông tảng đá
Ngọn núi bất trị đã tuôn trào trăm giòng thác lửa
Nơi xưa kia có nông trại hạnh phúc
Có giải đất phì nhiêu, có mùa lúa chín vàng
Và tiếng kêu của bầy thú vật
Nơi có vườn tược, có lâu đài
Nơi ẩn trú mến yêu của những lãnh chúa đầy uy quyền
Nơi có những thành phố hoa lệ
Ngọn núi bất trị đã tuôn trào trăm giòng thác lửa
Thiêu đốt tất cả và tàn sát dân cư
Ôi! Nơi đây chỉ còn hoang tàn đỗ nát.
Sức tàn phá của con người khốc hại không kém. Ta hãy nhớ lại những bi thảm ở Guernica[17].
Có thể chẳng bao lâu nữa sẽ tới kinh thành Luân Đôn. Ta có thể hòng
mong những gì ở những kẻ đã leo lên tới địa vị thống trị bằng những tàn
phá như thế? Và nếu cho là các thành phố thù nghịch Bá Linh
và La-Mã (chứ không phải Luân Đôn hay Ba-lê) bị các vị thần mới dùng
lưỡi tầm sét triệt hạ, liệu có còn chút tình nhân loại nào nơi những
kẻ tàn phá sau hành động tệ hại đó chăng? Liệu những kẻ còn chút tình
người có tránh khỏi điên dại vì lòng trắc ẩn bất lực, và trở nên xấu xa
hơn những kẻ chẳng cần phải đè nén lòng thương xót (vì chúng không có)
hay không?
Ngày xưa con người bán linh hồn cho quỷ để đạt tới những quyền lực ma thuật. Ngày nay khoa học cho
họ quyền lực và họ thấy bị bắt buộc phải trở thành quỷ dữ. Nhân loại
không còn hy vọng nào trừ khi quyền lực được thuần hóa, và được sử dụng
vào việc phụng sự, không phải phụng sự bọn bạo chúa này hay bọn bạo chúa
khác nhưng phụng sự cho cả nhân loại vì khoa học ngày nay đã đưa chúng ta tới tình trạng hoặc tất cả được sống hoặc tất cả phải chết.
(còn tiếp)
Nguồn: Bertrand Russell. Quyền lực. Nguyễn Vương Chấn – Đàm Xuân Cận dịch, Nxb Hiện đại, 1972. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.
[1] Xerxes: Vua Ba Tư từ 456 đến 485 trước Tây lịch.
[2] Newton: triết gia khoa học Anh (1612-1727) phát kiến những luật động lực học.
[3] Thánh Francis (1181?-1226) sáng lập dòng Franciscan vào khoảng năm 1209.
[4] Thánh Ignatius Loyola (1491 – 1556) sáng lập dòng Jesuit.
[5] Milton(1608-74) thi hào Anh tác giả “Paradise Lost” paradise Regained và nhiều thi bản khác.
[6] Nietzsche (1844-1900). Triết gia Đức, cha đẻ của thuyết siêu nhân.
[7] PanKhurs (1858-1928) lãnh tụ phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ.
[8] Lioy George (1863-1945) chính trị gia tự do Anh, làm thủ tướng từ 1916-1922.
[9] Austerlitz. Nơi Napoleon đánh bại quân Áo và Nga năm 1805.
[10] Elizabels I (1533-1603) Nữ hoàng Anh trị vì từ năm 1558 đến 1603.
[11] Oliver Cromwell (1599-1658) lãnh đạo Anh quốc từ 1653 đến 1658.
[12] Antony (khoảng 82-30 trước Tây lịch) bị Cleopatra quyến rũ, mất hết quyền bính và sau đó tự tử chết.
[13] Thần chiến thắng Jupiter.
[14] Thần sấm sét, chiến tranh.
[15] Thần chiến thắng Jupiter.
[16] Giacomo Leopardi (1798-1837) Thi sĩ Ý đại lợi, cũng là một học giả.
[17]
Địa danh nổi tiếng trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Đây cũng chính là
tên mà Picasso đã dùng để chỉ bức họa ông mô tả nỗi rợn người của cuộc
chiến tranh thảm khốc này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét