Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Bích Khê
Thi sĩ Bích Khê từng sáng tác thơ ca theo các thể hát nói và thơ Đường luật ở giai đoạn đầu rồi sau mới chuyển sang lối Thơ mới, in trên các báo Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới... Đương thời ông mới chỉ kịp in tập Tinh huyết do Trọng Miên xuất bản tại Hà Nội (1939). Tập thơ gồm bốn phần với tổng số 34 mục bài. Có thể vì thế mà đương thời Thơ mới - tính cho đến năm 1945 - những người giới thiệu, bình luận về thơ ông chưa nhiều.
PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
Chừng dư nửa năm trước
khi tập Tinh huyết ra đời, nhà phê bình Lê Tràng Kiều đã giới thiệu về
Bích Khê trên Tiểu thuyết thứ Năm:
"Mới đây, các bạn đã
được say sưa, càng đọc say sưa hơn, khi nghe được tiếng TỲ BÀ thần ảo ấy. Hãy
im! Tác giả Tỳ bà, ông Bích Khê Lê Mộng Thu sắp cho ta nghe hai khúc đàn
nữa, nó cũng như khúc Tỳ bà rất êm, rất nhẹ, có lẽ êm quá, nhẹ quá.
Khúc Hoàng hoa và
khúc Nghê thường. Nghê thường (đăng số sau) sẽ mời các bạn, trong
một đêm trăng sáng ngời những châu báu ngọc ngà, cùng Nàng Thơ nhịp nhàng lên
chơi trên cung Hằng, xem nàng Xuân Hương ngực để trần và xem khúc Nghê thường
của muôn Ngọc Nữ. Nhưng hãy để những nàng Ngọc Nữ trên tiên cung đấy! Kỳ này,
các bạn hãy theo khúc Hoàng hoa, đưa tâm hồn đến với những người chinh
phụ đang trông chồng nơi "ngàn khơi" kia! Chiều đã xuống. Ta hãy lắng
nghe..." (Lê Tràng Kiều: Hoàng hoa. Tiểu thuyết thứ Năm, số 30, ra ngày 11-5-1939)…
Báo Tiểu thuyết thứ
Năm (1937-1942)cũng là nơi Bích Khê đã cho in một số bài thơ. Trong
số đó có những bài không đưa vào Tinh huyết nhưng riêng ba bài trên thì
đều được tuyển chọn vào tập Tinh huyết và được đánh giá cao.
Không kể những lối thơ cổ
của Bích Khê từng được hoan nghênh trên báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc
Kháng, thơ mới Bích Khê chính thức trình làng bằng tập Tinh huyết cùng
với bài tựa Bích Khê thi sĩ thần linh hết sức trang trọng và sâu sắc của
thi sĩ Hàn Mặc Tử. Trong lời giới thiệu này Hàn Mặc Tử kể lại mối duyên thơ với
Bích Khê trong tâm tình của một người đã thành danh về một người đang trên
đường khẳng định mình. Với giọng điệu chủ ý ra vẻ kẻ cả, thẳng thắn của người
hơn nhau bốn tuổi, Hàn Mặc Tử đã góp phần kích thích nảy nở một tài năng thi
ca: "Cái hy vọng của tôi sốt sắng quá, nóng nảy quá, đã một lần đưa tôi
vào sự thất vọng chán chê và tức bực. Cuối năm ấy, chàng gửi ra cho tôi nhiều
thơ, mà tôi chẳng lựa dược bài nào cả. Tôi gửi trả lại chàng kèm với bức thư mà
tôi đã dùng rất nhiều lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Quả nhiên
chàng giận run người lên và vội trả lời, thề với tôi rằng: Trong sáu tháng sẽ
trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến làm thi sĩ
nữa. Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nẩy thiên tài của chàng ra. Không đợi
đúng sáu tháng, chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được một tập thơ,
viết bằng máu huyết tinh túy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một
hồn thi sĩ" (Hàn Mặc Tử: Bích Khê thi sĩ thần linh, trong tập Tinh
huyết -1939)…
Không chỉ kỳ vọng, trông
mong, đón đợi Bích Khê làm thơ mà Hàn Mặc Tử còn thực sự rung động, đồng cảm,
nhập thân và nhiệt thành đánh giá cao thơ Bích Khê. Trước hết Hàn Mặc Tử thấy
rõ nguồn cảm xúc mới mẻ trong thơ Bích Khê - cũng như bản thân dòng chảy Thơ
mới - có sự tiếp xúc, tiếp nhận ảnh hưởng của thi ca phương Tây, trực tiếp là
nguồn thơ Pháp: "Lối tượng trưng và huyền diệu ngời sáng như màu sắc của
Paul Valéry, cho ta nhận thấy thi sĩ đã chịu ảnh hưởng nhiều của tác giả tập
thơ Charmes. Nhưng chịu ảnh hưởng với một tài trí thông minh, khiến
người đọc chỉ biết phục thiện mà không dám chê... Bích Khê là người có tài, có
sẵn cái tài đã lâu, chỉ gặp cơ hội phát triển, là bao nhiêu anh hoa đều tiết lộ
ra cả". Sau khi phân tích những tương đồng ở nguồn cảm hứng và chiều sâu
khát vọng thẩm mỹ giữa Thơ mới và thơ Pháp, Hàn Mặc Tử xác định: "Tới đây,
ta nhận thấy văn thơ của Bích Khê nhuốm đầy máu huyết của Baudeleire, tác giả
tập Les Fleurs du Mal. Thơ lúc ấy sẽ ham thích hết sức những cái gì
thanh cao, như hương thơm nhơn đức của vì á thánh, hay say mê điên dại cái gì
hết sức tội lỗi mà người thế gian chưa từng phạm tới". Trong việc đọc và
thẩm thơ Bích Khê, Hàn Mặc Tử đã mã hoá được những đặc trưng hết sức cơ bản của
tập Tinh huyết. Với vốn kiến văn sâu rộng và trực giác thi ca nhạy bén,
trong khi Bích Khê xếp đặt thơ mình theo bốn chủ điểm (Nhạc và lệ - Đẹp và
dâm - Cuồng và ánh sáng - Châu) thì Hàn Mặc Tử lại "phân chất",
chia thơ Bích Khê theo ba tính cách (Thơ tượng trưng - Thơ huyền diệu - Thơ
trụy lạc) và đi đến so sánh, đối sánh, khái quát: "Ở khu vực tượng trưng
và huyền diệu, ta đã ngợp với màu sắc chang chói, no ớn với nhạc hương dịu
dàng, bây giờ ta hãy sang chơi địa hạt Trụy Lạc. Ở đấy dây thần kinh và gân
huyết ta rung động say mê bởi những làn khoái lạc của xác thịt nóng, thơm, ran
ran lên cả người"... Hàn Mặc Tử nhập thân đồng điệu với hồn thơ Bích Khê
và phát hiện ra chính cái phần trực giác hết sức sâu lắng của Bích Khê ở dòng
thơ mà ông duy danh là địa hạt Tượng trưng: "Thi sĩ Bích Khê là
người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế, thì sự thực sẽ trở
thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao thì lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu...
Với những cảnh trí, sự vật rất tầm thường, hơn nữa, tội lỗi, nhuốc nha, rùng
rợn mà chàng, trái lại, thấy ở những chỗ ấy lại là cao siêu, là nhơn đức, là
thơm tho, khoái lạc cả (...). Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhan
sắc lên hương, thấy cả sóng nghê thường đương nao nao gợn, và so sánh hai hàng
nước mắt trong trắng của Nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc u huyền
xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ"...
Chuyển sang xem xét địa hạt Huyền diệu, Hàn Mặc Tử nhấn mạnh đến
"âm thanh và màu sắc" với những lời phân tích, bình luận sang trọng,
thể hiện một năng lực và tầm văn hoá cao: "Thi nhân kéo ta đi lướt thướt
trong cõi u hoài đằm thắm từ những bản đàn xốn xang hồi hộp như Tỳ bà, Mộng
cầm ca, Hoàng hoa, sang qua một thế giới hào quang; nảy cho ta nghe một
điệu nhạc hiền hậu và ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng (...). Âm
thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới Huyền diệu. Còn một nửa khác
phải là màu sắc phương phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ cả một trời lưu ly,
mã não, trân châu"... Bàn tới địa hạt Trụy lạc, Hàn Mặc Tử tiếp tục
có những quan sát hữu lý về ảnh hưởng thơ Pháp trong thơ Bích Khê mặc dù biết
Bích Khê quá thấm nhuần nguồn cội Đường thi truyền thống: "Ở địa hạt dâm
cuồng nầy, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn toàn là Baudeleire. Vì trong tác phẩm
chàng, gợi dục tình thì ít, mà làm cho người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh
trần truồng khả ố thì nhiều. Tới đây, ta tưởng là đi đến chỗ tận cùng của vườn
hoa nghệ thuật, nhưng không, chàng còn mở rộng biên giới để cho ta thấy chàng
là một thi sĩ Đông phương rất "tàu" mà lời thơ chàng nhuộm đầy màu
sắc của các thi gia đời Đường". Rõ ràng phải có sự am hiểu và nghiệm sinh
ngay trong bầu khí quyển của cả hai nền văn hoá Đông - Tây đương thời thì Hàn
Mặc Tử mới có được những nhận xét sâu sắc đến vậy về thơ Bích Khê, biện luận và
chỉ ra được lý tưởng thẩm mỹ "cái đẹp không thấy" và lý giải việc thi
sĩ tìm đến với những "cái gì đời đời", "cái gì hằng sống"
và "thơ chàng sắp bay sang thế giới huyền bí để đi đến chỗ tuyệt đỉnh là
Tôn giáo".
Có thể khẳng định lời tựa
tập thơ Tinh huyết của Hàn Mặc Tử cho đến nay vẫn là bài đứng đầu trong
số các trang viết về thơ Bích Khê cũng như tính chất mẫu mực của lối văn bình
luận thơ ca nói chung. Xét trên một phương diện khác, dường như sau tập thơ Gái
quê (1936) chủ yếu "tả tình quê trong cảnh quê", có lẽ gần cận
với khoảng thời gian viết tựa cho tập thơ của Bích Khê thì Hàn Mặc Tử mới có
chuyển biến rõ nét về phía lối thơ Tượng trưng, Siêu thực, Thơ điên và
trở thành "thi sĩ của đội quân thánh giá", "khơi mạch thơ ở Đức
Chúa trời" vào những năm 1937-1938. Điều này cho thấy một mặt Hàn Mặc Tử có
sẵn cơ duyên để có thể cảm nhận, hoà nhập, thấu suốt hồn thơ Bích Khê; mặt
khác, rất có thể những trang thơ Tượng trưng - Huyền diệu - Trụy lạc (và Tôn
giáo) của Bích Khê đã ảnh hưởng trở lại và được đẩy cao hơn trong chính thơ Hàn
Mặc Tử ở chặng đường cuối cùng của cuộc đời, trong khoảng hai năm 1939-1940.
Nói cách khác, Hàn Mặc Tử đã khơi mở một lối thơ riêng độc đáo cho Bích Khê thì
chính Bích Khê đã củng cố, tác động trở lại tới phong cách thơ Hàn Mặc Tử.
Cùng với Hàn Mặc Tử,
Trọng Miên trong bài bạt Tinh huyết không đi sâu vào phân tích thơ ca
nhưng đã có những cảm nhận, khái quát ngắn gọn và đánh giá cao Bích Khê cả về
nguồn cảm xúc và thi tứ đạt đến tột đỉnh mọi sắc độ: "Tôi yêu Baudelaire
đắm đuối, say sưa Hồ Xuân Hương sôi nổi, thì Bích Khê tuôn ra những lời nóng
hổi, mê man nhủ cùng tôi chung một tấm tình thơ ngây ngất (...). Tinh huyết vang
dội một nỗi đau khổ tuyệt vọng phủ qua màu sắc trụy lạc ồ ạt như muốn chảy tràn
vào đường gân, mạch máu của tôi (...). Nhưng đau đớn, tuyệt vọng, oán hận, điên
cuồng nung nấu máu huyết chàng tràn ứ ra những lời thơ ham mê, khát khao bồng
bột, chói rực lạ thường". Phát hiện ra vẻ đẹp trong thơ Bích Khê như là sự
đối nghịch của những cảm xúc và hình ảnh, Trọng Miên còn nhấn mạnh những ảnh
hưởng thuận chiều, đồng vọng từ Hàn Mặc Tử tới Bích Khê: "Những đứa con
cưng của địa ngục trong khi đắm đuối hồn vẫn ngước mắt nhìn trời, ước ao cao
cả, thiêng liêng. Và nguồn cảm hứng đã khơi mạch thơ ở những cái gì sáng láng
thanh cao. Ở đây tôi thấy Bích Khê chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử, thi sĩ đau
thương, huyền diệu. Nhạc và lệ, đẹp và dâm, cuồng và ánh sáng, Bích Khê hoà hợp
thành một dòng tinh huyết tân kỳ"... Trong vai trò người viết lời bạt và
đứng ra in sách, Trọng Miên đã bày tỏ tiếng nói tri âm tri kỷ và tiếp nhận thơ Bích
Khê bằng tất cả sự trân trọng, am tường, ngưỡng vọng, tôn vinh.
Trong tập sách phê bình -
truyện ký Hàn Mạc Tử (Huế, 1941),
Trần Thanh Mại kể thêm một vài chi tiết về mối quan hệ giữa thi sĩ họ Hàn với
Bích Khê:
“Sự thành công rực rỡ của
Thế Lữ càng làm cho thanh niên say sưa lắm. Kế đến, Phạm Huy Thông, Đỗ Huy
Nhiệm, Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Văn Kiện, Vũ Đình Liên, Nguyễn Vĩ, Thao Thao,
Lan Sơn, Thái A, B. Blan, chen nhau mà nhảy lên thi đàn mới. Ở Trung Việt thì
có Lưu Trọng Lư, Thái Can, Thanh Tịnh... Bích Khê cũng từ giã vườn thơ của Tiếng Dân, trở về thu mình như một con
rắn thay vỏ tại Thu Xà (Quảng Ngãi) để chiêm nghiệm một lối thơ thuần túy…
Ngày 24 Juillet 1938,
chàng viết thư cho Bích Khê, lúc bấy giờ còn chưa viết xong quyển Tinh huyết nữa: “Bích Khê anh ơi! Anh có
đau khổ lắm không? Bao giờ thì chết? Và còn lâu hay đã gần rồi? Tôi cũng đang
chết đây, nhưng vẫn thản nhiên lắm. Tôi mong anh sống đã, sống để đọc tập thơ
điên Đau thương của tôi trước khi
chết”.
Thế mà rồi chàng giới
thiệu Xác thu của Hoàng Diệp ra năm
1937, viết bài ca tụng Điêu tàn của
Chế Lan Viên ra năm 1938, đề tựa cho Tinh
huyết của Bích Khê ra năm 1939, và đề bạt cho Một tấm lòng của Quách Tấn ra cùng năm ấy, trong khi chính tác phẩm
của chàng thì vẫn không ra được...
Hàn Mạc Tử bảo Bích Khê
rằng: “Sáng tạo là điều kiện cần thiết, tối yếu của thơ, mà muốn tìm nguồn cảm
xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế thơ văn mới
trở nên trọng vọng, cao quý, có một ý nghĩa thần bí”…
Tiếp đến Hoài Thanh -
Hoài Chân ở lời dẫn Một thời đại trong thi ca trong sách Thi nhân
Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, 1942), có ý đặt Bích Khê về phía lực
lượng cách tân, khác biệt với những người "giữ chừng mực": "Tôi
vừa nói Chế Lan Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi tới thơ tượng trưng Pháp có lẽ
đúng hơn, tuy hai lối thơ này có chỗ giống nhau. Điều ấy thấy rõ ở tác phẩm một
người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê. Từ Xuân Diệu, Huy Cận, thơ
Việt Nam
đã có tính cách của thơ Pháp lối tượng trưng. Nhưng còn dè dặt. Bích Khê và ít
người nữa như Xuân Sanh muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong
thơ tượng trưng: Mallarmé, Valéry (...). Các ông Bích Khê và Xuân Sanh noi theo
gương Mallarmé, Valéry không thèm gìn giữ gì hết. Trong tác phẩm của họ vẫn
chừng ấy tiếng ta rất quen nhưng thảng hoặc ta mới tìm được dấu tích những ý
tứ, những tình cảm ta vẫn quen gửi vào đó. Họ chạm trổ rất tỉ mỉ, không phải
những rồng những phượng như ngày trước, mà những gì chẳng ai biết tên. Những gì
đó đôi khi cũng đẹp. Đôi khi hình như họ đã diễn tả được những điều sâu kín,
nhưng lời thơ rắc rối quá, dầu sao phần đông chúng ta cũng đành... kính nhi
viễn chi"(4). Đến khi trực tiếp luận bình thơ Bích Khê, hai ông
dường như không nói được gì nhiều hơn so với Hàn Mặc Tử ba năm về trước. Khi
Hàn Mặc Tử dẫn bài thơ Tỳ bà có hai câu kết tuyệt bút:
Ô! Hay buồn vương cây ngô
đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu
mênh mông
đã hết lời ngợi ca:
"Đây là cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm
hưởng, buồn nảo buồn nê: Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông" thì đến
hai ông xác định: "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay
vào bực nhất trong thơ Việt Nam:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng...". Khi Hàn Mặc Tử dẫn mười câu thơ
trong bài Tranh lõa thể thì hai ông cũng biểu đồng tình dẫn lại và tán
thưởng: "Mấy câu ấy đã được Hàn Mặc Tử phẩm bình bằng những lời xứng đáng
(...). Vừa bước vào đã thấy vàng ngọc sáng ngời như thế, ai không tin đây là
biệt thự một nhà triệu phú. Huống chi chủ nhân còn nói: Không, quý gì những vật
mọn ấy! Kho tàng của tôi chính ở trong mấy phòng kia"…
Thống nhất với ý kiến
không mấy thiện cảm về những lối thơ lạ từ trong Một thời đại trong thi ca,
Hoài Thanh - Hoài Chân tỏ ra ngập ngừng khi làm quen với thơ Bích Khê:
"Nhưng tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục
lần bài Duy tân. Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không
dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn
còn gì nữa. Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ
Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc". Song dù thế nào thì đây
cũng là những lời đánh giá thật sự chân thành, tâm huyết, chuẩn mực và thành
thực của hai ông về thơ Bích Khê. Qua hơn nửa thế kỷ, thơ Bích Khê đã có vị trí
vững chắc trong phong trào Thơ mới và trong nền thơ hiện đại thế kỷ XX. Và quả
thật, thơ Bích Khê ý tại ngôn ngoại, "vẫn còn gì nữa", còn vẫy gọi,
gợi mở, thách thức, chập chờn ở phía trước, phía bến bờ hiện đại. Hơn nữa, thơ
Bích Khê trước sau vẫn nghiêng hẳn về lối thơ cao siêu, trí tuệ, tân kỳ, kén
chọn bạn đọc, không phải thuộc dòng thơ truyền thống, quen thuộc, đại chúng,
phổ cập, bình dân, bình dị, dễ nhớ, dễ thuộc. Song không phải Bích Khê đã cắt
đứt với thơ truyền thống, không làm được những bài thơ dung dị, mượt mà. Trái lại,
Bích Khê vẫn có những khổ thơ man mác thần thái Đường thi, vẫn có những bài lục
bát nhuần nhị như Cuối thu, Mơ tiên, Huế đa tình... Xét cho kỹ, Bích Khê
thân thuộc như bao người ở lối thơ truyền thống nhưng khác người, hơn người và
siêu việt ở những dòng thơ ma quái, hiện đại, tân kỳ.
Chung qui, những ý kiến
của người đương thời nói trên chí ít đã đề cập đến ba vấn đề cơ bản: 1) Xác
định đặc điểm nội dung, hình thức nghệ thuật thơ Bích Khê trong phong trào Thơ
mới; 2) Xác định khả năng giao lưu, tiếp nhận và ảnh hưởng đồng đại của thơ
Bích Khê với nền thơ Pháp; 3) Đặt thơ Bích Khê trong tương quan thơ Chế Lan
Viên và Hàn Mặc Tử; thơ Bích Khê trong tương quan thơ Nguyễn Xuân Sanh và nhóm
Xuân thu nhã tập... Có thể nói đây cũng là những vấn đề cơ bản mà các nhà
nghiên cứu hôm nay đang tiếp tục đi sâu khai thác, tìm hiểu.
Sau khi lược khảo những ý
kiến người đương thời bàn về thơ Bích Khê, tôi trở lại nhấn mạnh một vài quan
sát về vấn đề văn bản trong tập Tinh huyết và Thi nhân Việt Nam. Trước
hết, trong bài tựa Bích Khê thi sĩ thần linh, Hàn Mặc Tử ghi nhận và
trích dẫn ba bài Thi tứ, Ảnh ấy, Thời gian từng khiến ông "sửng sốt
với cái khởi điểm của một thiên tài sắp sửa" song trong tập Tinh huyết
của Bích Khê lại chỉ tuyển duy nhất một bài Ảnh ấy? Có bài được Hàn Mặc
Tử nhắc tới (Khách sạn) và bình giá "đã đưa đến cho ta những sự
nhận xét rõ rệt" nhưng cũng không thấy Bích Khê đưa vào thi tập?... Đến Thi
nhân Việt Nam, hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân đồng ý với Hàn Mặc Tử và
trích dẫn những câu, những đoạn thơ hay ở hai bài Tỳ bà, Tranh lõa thể
nhưng đều không tuyển cả hai bài này. Trong phần chú thích, hai ông ghi rõ:
"Trong một bức thư gửi cho chúng tôi đề ngày 7-1-41, Bích Khê nói rằng ba
bài người thích nhất là Duy tân, Nấm mộ Bích Khê, Giờ trút linh hồn. Trong
một bức thư khác đề ngày 25-10-41, Bích Khê lại nói người thích bài Xuân
tượng trưng hơn cả"... Rút cuộc, trước số lượng thơ khá phong phú của
Bích Khê nhưng hai ông đã không chọn một bài nào trong chính văn tập Tinh
huyết và cả hai bài được tuyển cũng không từng được Hàn Mặc Tử trước đây
nhắc tới trong bài tựa. Nguồn xuất xứ hai bài thơ này đều theo báo Người mới.
Theo bản in lại tập Tinh huyết (Nxb Hội Nhà văn, H, 1995), cả hai bài
chọn in (Xuân tượng trưng, Duy tân) đều được xếp vào mục "Những bài
thơ khác" và đều có ý kiến đề cử của chính Bích Khê. Điều thú vị là ở thư
trước Bích Khê nói thích ba bài (không có Xuân tượng trưng) nhưng đến
thư sau lại nói thích nhất một bài mới được ông nghĩ lại, nghĩ thêm, tuyển thêm
đích thị là Xuân tượng trưng. Có thể vì thuận theo Bích Khê mà hai ông
chấp nhận tuyển bài này và chú rõ: "Chúng tôi trích bài này vì chiều theo
lời yêu cầu của ông Bích Khê". Điều này cho thấy có những sự thay đổi
trong chính nhận thức của Bích Khê về thơ mình; những so le, chênh lệch nhất
định giữa Hoài Thanh - Hoài Chân với Hàn Mặc Tử trong cách cảm nhận thơ Bích
Khê; việc Hoài Thanh - Hoài Chân trong lời mở đầu Một thời đại trong thi ca
đánh giá cao nét độc đáo nhưng lại ngại ngần trước lối thơ tượng trưng Bích Khê
và đến lời Nhỏ to cuối sách đã không một lần nhắc đến Bích Khê và cũng
không xếp chung bên cạnh Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên của xóm thơ Bình Định nữa. Rõ
ràng với việc coi Bích Khê là người chịu ảnh hưởng lối thơ tượng trưng điển
hình và sâu sắc nhất cũng như việc chỉ tuyển chọn có hai bài (bên cạnh người
hàng xóm Hàn Mặc Tử bảy bài, Chế Lan Viên tám bài) đã cho thấy khá rõ quan điểm
của Hoài Thanh - Hoài Chân với ý nghĩa là người đương thời Thơ mới bàn về thơ
Bích Khê…
Vừa
hai năm sau khi tập thơ Tinh huyết của
Bích Khê ra đời, Kiều Thanh Quế với bút danh Mộc Khuê trong chuyên khảo tổng
kết Ba mươi năm văn học
(NXB Tân Việt, H., 1941) đã điểm danh và đặt trong tương quan chung “Làng
thơ mới (mới lẫn cũ) của văn học quốc ngữ trong vòng mười năm nay” rồi trân
trọng ghi nhận: “Bích Khê noi gương chim hải nga đem Tinh huyết (1939) dâng hiến cho đời”…
Xét trong toàn cảnh hoạt động phê bình Thơ mới
, sau khi bộ sách tổng
thành luận giải Thơ mới của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời, nhà phê bình Kiều
Thanh Quế đã có bài điểm sách công phu Nhân
đọc “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, trong đó ông lên tiếng
phản bác mạnh mẽ hai nhà phê bình và đưa ra chủ kiến riêng trong cách tiếp nhận
lối thơ Hàn Mặc Tử - Bích Khê:
“Trong số các nhà thơ
có tên trong quyển Thi nhân Việt Nam,
tuy cũng có người đáng lẽ không nên liệt vào - và đọc họ bao nhiêu lần tôi cũng
không có được cảm giác nào rõ rệt cả - nhưng có hai thi sĩ làm tôi bực tức nhất
là: Hàn Mặc Tử và Bích Khê (…).
Đến Bích Khê mà Hàn Mặc
Tử hết lời khen tặng trong bài tựa tập Tinh
huyết, tôi rất lấy làm lạ sao tác giả Thi
nhân Việt Nam, đã viết được những trang thật giá trị, lại cũng thiếu sáng
suốt như Hàn Mặc Tử mà bảo rằng: “Tôi đã gặp trong Tinh huyết (của Bích Khê) những câu hay vào bậc nhất trong thơ Việt
Nam.
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng,
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
Hai câu ấy có hay vào
bậc nhất không, khỏi nói tất ai cũng biết nó may ra chỉ đọc nghe được mà thôi.
Đã hết đâu! Đối với
bài Duy tân tác giả Thi nhân Việt Nam, còn dám bảo: “Tôi đã
đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân.
Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp”.
Xin tìm một vài câu
thật đẹp ấy:
…
Vì hình dung những sắc mát non tơ,
Như
mặt trời lọc qua khóm liễu, một
Hoàng
hôn…
Trong ba câu thơ ấy, tôi thấy Bích Khê làm
một cái liên cước (enjambement) sai luật thơ Pháp.
Theo luật thơ Pháp,
phàm muốn làm liên cước, người ta chỉ được phép nối liền câu thơ trên với câu
dưới bằng một động từ (verbe) với một túc từ (conplément), hay bằng một chủ từ
(sujet) với một động từ, như trong hai câu thơ này của Trần Huyền Trân:
Tôi
nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng
kinh thành lững thững đi
(Giao thừa)
Cái liên cước của Bích Khê lại nối liền một
quán từ (article) với một danh từ (nom): chữ một trong câu thứ hai là quán từ nối liền với hoàng hôn trong câu kế là danh từ. Rõ ràng Bích Khê không hiểu luật
thơ!
Thơ của Bích Khê, Hàn Mặc Tử đầy tưởng tượng.
Nhưng các hình tượng, do óc tưởng tượng của hai ông tạo ra, rời rạc, vấp váp và
rơi như lá vàng buổi chiều thu!” (
Tri tân,
số 134, tháng 3-1944)...
*
Trong điều kiện đổi mới
và hội nhập hôm nay, sau những bước lùi tương đối trong cách thức đánh giá,
khai thác, tiếp thu những giá trị Thơ mới, chúng ta đã hội đủ điều kiện để
khẳng định lại vị trí của Bích Khê trong nền thơ dân tộc. Việc xác định diện mạo
thơ Bích Khê trong tầm nhìn người đương thời một mặt nhằm khẳng định những
tiếng nói trung thực, giàu cá tính và tri thức - qua đó cho thấy không khí một
thời đại phê bình và sáng tạo thơ ca dân chủ, đa phương; mặt khác đưa lại bài
học cần hiểu biết và tôn trọng đặc trưng sáng tạo nghệ thuật, về nhu cầu tiếp
xúc đồng đại với thế giới hiện đại, về việc cần sưu tập một cách hệ thống chính
các nguồn tư liệu người đương thời bàn về thơ Bích Khê cũng như người đương
thời Thơ mới bàn về phong trào Thơ mới. Điều này cũng tạo nên sự đối sánh cần
thiết với hoạt động nghiên cứu, đánh giá Bích Khê và Thơ mới ở giai đoạn sau.
Hậu thế sẽ nhìn vào từng trang chữ trong lịch trình nghiên cứu Thơ mới và thơ
Bích Khê mà bảo rằng: "Mỗ này trắng! Mỗ này đen! Mỗ này nhờ nhờ!"...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét