Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012

Tưởng niệm về nhà văn Phan Khôi

ng niệm về nhà văn Phan Khôi

Tên ông Phan Khôi tôi được nghe lúc tôi còn học Trung Học Khải Định tai Huế. Năm 1947-1948 tên nhà văn Phan Khôi lại đến với tôi trong một hội nghị văn hoá tại Hạ Hoà – Phú Thọ. Tiếp theo là lớp chỉnh huấn tại Việt Bắc.

 Năm 1949 tôi lại được ăncùng lán với nhà văn Phan Khôi tại cây số 7 đường Tuyên Quang – cơ quan của Hội Văn Học Nghệ Thuật.
 Năm 1956 – 1957. Một số anh em văn nghệ sĩ đề nghị nhà văn Phan Khôi giúp họ ra tờ báo Nhân Văn mà ông làm chủ nhiệm, còn tôi làm thư ký toà soạn.
 Năm 1959 anh Phan Thao báo tin cho tôi:”Bác Phan mất”.Tôi đến hôm liệm bác – anh Phan Thao bỏ giấy đắp mặt và tôi gập Bác lần cuối cùng lúc 10h sáng.
 Trong 5 thời kỳ của một đời người, cũng là 5 thời kỳ tôi được tiếp xúc với một con người mà mọi người đều biết , đều e ngại, đều cảm phục, và cũng là người mà ai cũng xem như một ẩn số cần nghiên cứu và tìm hiểu.
 Tôi không nhằm nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ông Phan Khôi, vì vậy hôm nay nếu được trình bầy một vài ý nghĩ về ông Phan Khôi thì cũng chỉ là một vài hoài niệm riêng tư bên lề đời sống của con người ấy mà thôi.
 Vì tôi làm nghề vẽ, nên nhìn người thiên về cái đẹp của sắc diện – do đó tôi nhìn nét mặt Phan Khôi đẹp như một tác phẩm điêu khắc tạc vào đá, như đồng bộ nói lên cái khí tiết, cái cương nghị, cái quắc thước của con người Phan Khôi, nhưng nếu sống gần ông, vẫn thường nghe tiếng chép miệng, thdài của một tâm hồn nhậy cảm.
 Trong giao tiếp ông là người rất ít nói, nếu cần phải nói thì cũng rất ngắn gọn mà có người không hiểu cho là bẳn gắt, ông ít nói về người thứ ba, nếu phải nói ông thường dùng “ông ấy”, “anh ấy” không mấy khi ông dùng “hắn” hay “nó”.
 Những ngày gập nhau trong lớp chỉnh huấn mọi người trnên ít nói, không vui đùa. Không khí trnên nặng nề và dè chừng. Anh Văn Cao đến tìm tôi và nói:
- Cậu nên nói qua về quan hệ gia đình, nếu không người ta cho là dấu thành phần, không thành khẩn thì việc học tập thiếu kết quả.
Trong số những người nghe, ông Phan Khôi hỏi tôi:
- Hiện anh có còn quan hệ với những người anh vừa kể tên không?”
Tôi trả lời:
- Không!.
Ông Phan Khôi cười:
- Chẳng ai biết ai, thì kể ra cũng chẳng ích gì cho ai.
Tôi hỏi:
- Nhưng nói ra như vậy có sao không?.
Ông trả lời:
- Ngày nào thì ngày ấy lo, biết thế nào để mà lo trước.
Tiếp năm ấy có hội nghị văn hoá tổ chức tại Hạ Hoà – Phú Thọ có thuyết trình về truyện Kiều – do đó cần có chân dung Nguyễn Du.
Ông Tố Hữu gọi tôi và bảo tôi vẽ chân dung Nguyễn Du, tôi nói không có tài liệu nào tả về Nguyễn Du để vẽ. Ông Tố Hữu cười và bảo:
- Cứ vẽ một nhà Nho, trí thức, đẹp.
Anh Tú Mỡ đứng cạnh đó nói thêm:
- Nhớ là nhà Nho râu ba chòm.
Trên những hiểu biết ấy tôi lấy giấy bút vẽ chân dung Nguyễn Du.
Tôi nghĩ chắc chắn chẳng có ai để ý đến bức tranh đó, Nhưng tôi đã nhầm - có một người đã để ý đến bức tranh, người ấy là ông Phan Khôi, cuối buổi họp ông Phan Khôi gập và hỏi tôi:
- Anh dựa vào đâu để vẽ Nguyễn Du?
Tôi lúng túng đáp:
- Mọi người bảo cháu vẽ, và chẳng có tài liệu nào cả.
Ông bảo tôi ngồi xuống cạnh ông, rồi ông nói:
- Lời nói gió bay, nhưng viết thành văn, vẽ thành tranh không dối trá được. Đối với một nhân vật lịch sử như vậy mà anh dối trá đến thế thì rất có thể có rất nhiều dối trá kiểu như thế tồn tại trong lịch sử.
Lần đầu tiên có người răn đe tôi về việc làm hàng nghệ thuật giả.
 Sau một thời gian qua nhiều nơi công tác, anh Nguyễn Huy Tưng gọi tôi về Hội Văn Học Nghệ thuật sđóngcây số 7 đường Tuyên Quang, và tôi đã thành hàng xóm, cùng lán với ông Phan Khôi.
 Một dẫy lán dài, chia từng ô cho mỗi người, bắt đầu từ Ông Phan Khôi, Trần Duy, đến Xuân Diệu, Trần Văn Cẩn, Kim Lân…và cuối cùng lán là Phùng Cung. Mỗi người trong tập thể ấy đều phải nghĩ kế để cải thiện bữa ăn của mình. Người trồng thuốc lá, người trồng cải, trồng cà chua, có người đánh cá về ăn có khi đổi bán cho anh em, riêng ông Phan Khôi nuôi 2 con gà, mỗi sáng đều đặn có 2 quả trứng tươi, hôm nào gà kém ăn chỉ một con đẻ trứng, nhưng có một hôm ông ra lấy trứng thì phát hiện có một quả trứng đập ra chỉ có nước. Anh Phùng Cung nói có thể trứng bị rắn ăn, Ông Phan Khôi thắc mắc rắn ăn bằng cách gì mà không thấy vết nứt? Nhưng sau hỏi qua Kim Lân mới biết Phùng Cung đùa đã lấy kim tiêm rút hết trứng rồi bơm nước vô lấy vôi bít lỗ kim lại, Tôi bảo Phùng Cung đến xin lỗi, Bác Phan vui vẻ nói:
- Việc đầu tiên tôi vui vì đã biết được cách rắn ăn trứng của anh Phùng Cung. Tôi không tiếc quả trứng, nhưng tôi tiếc thì giờ để thắc mắc về cách rắn ăn trứng, giữa cái thật và cái dối.
Ông nhìn Phùng Cung cười và tiếp: “Anh thông minh và hóm hỉnh đấy nhưng dễ để cho mọi người hiểu lầm là dối trá thì nguy hiểm”!!!
 Dạo ấy rét, Tôi nằm cạnh giường Ông Phan Khôi, suốt đêm nghe ông trằn trọc có thể là thiếu chăn, giường nứa ọp ẹp – Tôi ngồi dậy cùng thức với ông vì cũng khó mà được ngủ bên cạnh một người không ngủ được, sáng hôm sau tôi nghĩ ra cách lấy lá chuối khô xé nhỏ lót xuống dưới chiếu làm đệm, quả nhiên là ông ngủ ngon.
 Có hôm tôi sốt, nằm bẹp mấy ngày liền - có thể là sốt rét, ông Phan Khôi tỏ vẻ lo lắng vì mấy ngày liền tôi không ăn uống gì. Ông chép miệng:
- Nếu có một ít đường pha với chanh thì uống tốt.
Nhưng khi ấy lấy đâu ra đường và chanh! Suốt ngày hôm ấy tôi nằm liệt cho tới sẫm tối mới tỉnh.Thấy ông Phan Khôi đi từ bếp lên bưng một cái bát – ông bảo tôi:
- PhĐất đó - cố gắng ăn đi.
Ông chủ hàng phTuyên Quang tên là “Đất” nổi tiếng vì bán một thứ canh bánh đa khô, thêm một ít thịt gà hoặc thịt lợn, ông cười:
- Phải lấy một cái ống nứa để đựng nước ph! Vì tên gọi là phthì cứ phải ăn như ăn ph!!!
 Tôi vẫn biết, ông không có tiền và nếu có ông cũng không bao giờ cho ai vay mượn, ông không làm phiền ai và cũng không bao giờ muốn ai làm phiền mình nếu không có gì cần thiết, và cũng từ ngày ấy tôi đã nợ ông một món nợ khó trả!!!
 Năm 1954 .Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, vào đầu tháng 6 tôi được điều về Tuyên Quang giúp phòng địch vận tại trại tù binh đóngnúi Cố.
 Ông Phan Khôi đến trại thăm tôi và cho biết cơ quan cây số 7 sắp chuyển về xuôi. Ông sợ đi không gập nên ghé lại thăm tôi.
 Từ ngày đó tôi không được gập ông cho tới 14/10/1954 tôi về Hà Nội cùng Hội Mỹ Thuật.
 Tôi gập ông và được biết ông đang dịch Lỗ Tấn và thuộc biên chế Hội Văn Học nghệ thuậtngay tại 51 Trần Hưng Đạo – ông được Hồ Chủ Tịch tặng quà, ông có chế độ người giúp việc (chính là bà Huệ vợ ông). Tôi mừng lắm, nhưng cũng chính vìngay trong Hội mà ông phát hiện những gì không sòng phẳng trong việc chấm giải thưng văn học và các giải thưng khác. (Con người ông có một nguyên tắc đặc biệt dị ứng với sự dối trá, gian dối và lừa đảo). Do vậy mà ông ngầm có những bất đồng với những người phụ trách Hội, mối bất đồng ấy dần lây lan đến các cấp lãnh đạo khác.
 Một hôm có một người phụ trách cao cấp đến Hội nói chuyện với số đông anh em văn nghệ sĩ về vấn đề sáng tác, về dân chủ, về chế độ đãi ngộ, ý thức phục vụ cách mạng và thái độ làm công trả lương. Sau cùng có dẫn dụ về một người nhận định sai lầm về dân chủ, thái độ sai của người ấy về đấu tranh đòi dân chủ, nghe xong buổi nói chuyện, mấy hôm sau gập tôi ông nói:
- Một người cao cấp của một cơ quan đấu tranh cho dân chủ mà định nghĩa dân chủ như vậy thì rất nguy hiểm cho những ai muốn đấu tranh cho dân chủ.
Ông Chép miệng nói tiếp:
- Người được nói đừng nói lấy được.
 Tiếp sau đó là sự việc chấn động của bài thơ “Nhất định Thắng“của Trần Dần..
 Cuộc họpngay trụ sHộI 51 Trần Hưng Đạo. Qua bình đọc, trao đổI, qua nhiều nhận xét, lãnh đạo cuộc họp kết luận: “Bài thơ có xu hướng phản động…, có gián điệp nhúng tay vào!…”
Người nói lời sau cùng là một nhà văn lớn:
“Đây không còn là một bài thơ của văn thơ, mà là một tài liệu gián điệp”.
Trên đường đi về ông Phan Khôi nói với tôi:
-Ông ấy nhận định về sự nghiệp văn học của một con người như khen chê một bát ph!!!
Ông hỏi tôi:
- Anh có biết anh Trần Dần không? Và anh có đọc bài thơ này không? Theo tôi thì bài thơ không đáng để làm to chuyện.
Thật ra tôi không mấy lưu tâm đến phần thơ ca của Hội vì tôi đang chú tâm vẽ một bức tranh “Công xưng xe lửa Gia Lâm” Hiện nay tôi vẫn còn giữ tài liệu và ký hoạ.
Tôi mời hoạ sỹ Mai Văn Nam (bạn học cũ từ trường quốc học Huế) đến xem và cho ý kiến Anh Nam xem tranh và nói:
“Cậu không hiểu biết về công nhân mà lại vẽ về công nhân nên cậu sẽ bơi trong một đề tài không thuộc về cậu.”
Nhận xét ấy nhắc tôi nhớ lời răn của ông Phan Khôi khi tôi vẽ chân dung Nguyễn Du, nên tôi nhờ ông Phan Khôi tới xem và nhắc lại ý kiến của Mai Văn Nam cho ông nghe, ông xem các ký hoạ, các tranh nghiên cứu về công nhân và nói:
- Thật ra anh đã yêu đề tài này chưa? nếu vì một lý do nào đó buộc mình phảI cưỡng – tranh không có hồn thì hỏng – tranh chết và người vẽ cũng chết theo.
Tôi bỏ không vẽ tiếp bức tranh ấy nữa, và cũng từ đó tôi rơi vào khủng hoảng: Vẽ cái gì là đẹp và đề tài nào thuộc về tôi và phù hợp với tôi?
Tôi bước theo cuộc kháng chiến có lẽ vì tuổi trẻ cần phải làm cái gì đó cho tuổi trẻ. Tôi bước theo cuộc kháng chiến như một người mộng du, theo cách mạng mà không hiểu cách mạng đi về hướng nào, nên gập việc gì làm việc ấy. Gập anh Hoàng Minh Chính bàn việc đánh trường bay Gia Lâm, tôi tham gia đội quyết tử quân đánh trường bay Gia Lâm cho đến khi anh Hoàng Minh Chính bị trọng thương, ông Đặng Việt Châu bảo tôi về khu X dưới quyền chỉ huy của ông Song Hào, về khu X ông Hoàng Thế Thiện bảo tôi phụ trách ban địch vận, tôi vui vẻ vẽ tranh áp phích, viết truyền đơn kêu gọi binh lính địch. Sau đó, ban chỉ huy lại cử tôi lên đường 4 tăng cường cho công tác địch vận dưới sự chỉ huy của anh Đặng Văn Việt ( là bạn học trung học cùng tôiHuế) và tôi đã lên đường 4 hiểm tr.
Tôi đã đi như vậy trong suốt 10 năm kháng chiến chống Pháp khôngtrong một tổ chức nhất định nào, không có một ngườI phụ trách nào nhất định, nay làm việc này, mai làm việc nọ…Riêng về nghề cũng còn may cho tôi trong thời kỳ học trường Mỹ thuật chuyển lên Sơn Tây tôi đã tiếp xúc với đình chùa, với người dân quê, với đồng lúa và cái đẹp ấy còn lưu lại mãi trong tâm hồn tôi. Tôi cứ lênh đênh trên con đường may rủi ấy, và tôi đã gập nhóm Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hoàng Cầm, Văn cao, là những người tôi không hề thân thiết và chưa lần nào trao đổi chuyện trò.
Như Gide đã nói: “Toutes rencontres sont plus ou moins fatidiques” Cuộc gập gỡ không ít nhiều mang tính định mệnh đã đưa không chỉ riêng tôi mà cả ông Phan Khôi vào một bước ngoặt.
Ông Phan Khôi không hề quen biết nhóm người trên, một hôm ông Phan Khôi rủ tôi đi ăn phcạnh phố Phan Chu Trinh, ăn xong chúng tôi rẽ phố Phan Chu Trinh về thì gập nhóm Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, mọi người hình như đang bàn một công việc gập bế tắc. Gập chúng tôi họ reo lên:
- Trần Duy đây rồi!
Ông Phan Khôi nói thầm vào tai tôi: Bàn cái gì mà như bọn buôn lậu vậy. Mọi người mời chúng tôi vào một quán cà phê gần nhà anh Minh Đức, Anh Đang và Văn Cao cùng cho biết họ đang định ra một tờ báo chuyên về văn thơ.
 Mỗi người một ý, nhưng cái khó là không ai giải quyết được là việc xin giấy phép ra báo, người chịu trách nhiệm đứng tên báo, tiền mua giấy, nhà in nào nhận in…
 Mọi người bàn ra bàn vào, ai cũng muốn được phần mình nhưng không mấy ai chịu cái vạ đá sẽ rơi lên đầu mình, xong cuộc họp lộn xộn ấy ông Phan Khôi dục tôi về.
Sáng hôm sau Văn Cao tới tìm tôi:
“Cậu đưa tôi tới gập Ông Phan Khôi, hôm qua ồn ào sợ cụ khó tính”.
Tôi đưa Văn Cao đến gập ông Phan Khôi, Văn Cao nói về những bế tắc về sang tác, tính độc quyền trong sang tác văn thơ…
 Ông Phan Khôi im lặng, không nói thêm gì, Văn Cao ra về - Ông Phan Khôi bảo tôi: “Có vẻ ông Văn Cao muốn làm lãnh tụ thơ sao?”
Tôi trả lời:
- Anh em vẫn gọi ông ấy là ông tiên chỉ !
Ông Phan Khôi cười. Cuộc trao đổi giữa Văn Cao, tôi và ông Phan Khôi kéo dài trong mấy ngày liền, và cuối cùng ông Phan Khôi hỏi anh Văn Cao:
“Vậy các anh muốn tôi giúp gì?”
Sau khi Văn Cao có ý mờI ông đứng ra làm chủ nhiệm, ông hỏi tôi:
- Theo anh có nên làm không? Việc tài chính tôi không biết gì, việc giấy tờ ra báo anh lo lấy – ông Phan và tôi cùng đồng ý.
Như vậy lời anh Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn của cô Thuỵ Khuê đài RFI về việc anh Hoàng Cầm mời ông Phan Khôi tham gia báo nhân văn là không đúng sự thật. Tờ báo có tên chủ nhiệm, thư ký toà soạn, nhưng thực tế có thể nói không ai có trách nhiệm gì cả. Bàn cãi như kiểu trao đổichợ trời, ai nhiều lời thì được, ai to tiếng thì thắng, nhưng hệ luỵ của mọi việc do tờ báo gây ra thì không đơn giản nhưchợ trời!!!
 Ông Phan Khôi có hôm ngồi nghe rồi hỏI tôi:
- Vậy tờ báo ai là người chịu trách nhiệm?
Mọi người mượn tên Phan Khôi nhưng thực ra thì Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang là những ngườI chủ trương bài vvà nội dung của tờ báo, anh em xem ông Phan là một cái etiquette cần thiết và đẹp. Nhân bài viết trả lời ông Nguyễn Chính trên báo Nhân Văn tác giả ký tên bốn người: Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
 Ông Phan tìm hỏi tôi:
- Anh có biết ông Nguyễn Chính không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông hỏi tiếp:
- Anh có đọc bài viết của ông Nguyễn Chính trong báo Nhân Dân không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông Phan khôi nói:
- Anh không biết người ta, anh không đọc bài người ta viết mà anh dám ký tên vào bài người khác viết đẻ đả kích người ta.
Tôi không trả lời – ông nói tiếp:
- Anh làm ăn kiểu gì lạ vậy? Mục đích khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị, chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng đấy!!!
Sau cùng ông hỏi:
- Thật ra bài ấy của ai?
Tôi trả lời:
- Của Nguyễn Hữu Đang.
Ông khó chịu nói:
- Ông Đang có đủ chữ để viết một bài như vậy mà lại không đủ can đảm để nhận là tác giả của bài viết ấy, lại còn gắp lửa bỏ tay người, làm việc cách này dễ dắt nhau vào tù lắm!!!
Mấy hôm sau có giấy của Phủ Thủ Tướng mời thư ký toà soạn hoặc chủ nhiệm báo Nhân văn lên văn phòng thủ tướng. Thủ tướng Phạm Văn đồng tiếp tôi, có anh Phan Mỹ ngồi cạnh, Thủ tướng nói: “ Công việc rất bận, giờ này tôi còn phải tiếp khách Quốc tế bên phủ Chủ Tịch, nên tôi chỉ nói với anh vài lời, còn mọi việc sẽ do anh Phan Mỹ giải quyết sau. Anh về nói lại với anh em, nếu cần trình bầy, yêu cầu điều gì nên trình bầy yêu cầu cụ thể đừng làm như báo chí tư bản đấu tranh! đấu tranh với ai?”
 Trước khi ra đi, Thủ Tướng quay sang nói với anh Phan Mỹ:
- Nếu anh em cần điều gì thì anh giải quyết cho anh em.
Tôi về gập mọi người tại một quán ănphố Hàng Quạt – góc Hàng Nón, chưa trình bầy hết ý thì mọi người đã cho rằng tôi bỏ cuộc, đầu hàng và bán rẻ anh em. Có ý kiến để Trần Công thay tôi, ông Phan phản đối, ông nói:
- Vì anh em mà làm việc, có giấy tờ tuyển dụng, tuyển bổ đâu mà xử sự vậy được.
Nguyễn Hữu Đang bỏ đi, Văn Cao nói:
- Chắc Đang đến nhà in.
Lê Đạt nói:
- Nó đến nhà in là rắc rối đấy, làm việc theo ông này mệt mỏi quá!!!
Hữu Đang tự ý thay đổi báo Nhân văn số 5, thay các bài về biểu tìnhTiệp Khắc,HungGaRi…
Trước tình hình ấy ông Phan Khôi lo lắng hỏi tôi:
- Anh gập ông Đồng, thái độ Ông ra sao?
Tôi thuật lại mọi chuyện, nghe xong ông nói:
- Ông Đồng là người hiểu anh em trí thức, văn nghệ và báo chí – Theo anh nên thế nào?Theo tôi tờ báo có vẻ thành tờ báo mà nội dung là “Đối phó”.
Một hôm tôi,Văn Cao và ông Phan ngồimột hàng nước tràphố hàng Quạt thì Nguyễn Sáng đến. Sáng gọi thẳng tên tôi và nói:
- Bọn mày là bọn lừa đảo. tại sao Trần Dần chỉ kéo da cổ để cắt ăn vạ bon báo Quân Đội mà chúng mày lạI bảo là cắt cổ tự tử, và đẩy tao minh hoạ bài báo Trần Dần.
Văn Cao là người khôn và tròn trịa, không muốn xẩy ra to chuyện nên nói với Sáng:
- Bài viết ấy của Hoàng Cầm, Trần Duy không hay biết gì về việc này, cậu nghe tin nàyđâu?
Sáng vừa trả lời vừa bỏ đi:
- Tụi Văn Nghệ Quân Đội.
Chiều hôm ấy gập tôi ông Phan Khôi vừa cười vừa nói:
- Vậy là thiên anh hùng ca không có anh hùng!
Trước khi ra về ông nói với tôi:
- Xem ra khi đến với nhau bằng chữ “Nghĩa” nay nghĩa cũng không còn thì cũng nên lo liệu trước.
Và ông hỏI tôi:
- Tiền nong như thế nào? Ai nắm? Các phiếu bưu điện bạn đọc gửi cho toà báo ai giữ?
Tôi đáp:
- Cháu.
Ông bảo:
- Theo tôi anh nên ra bưu diện hoàn trả lại người gửi, vì mình không rõ lai lịch của người gửi, họ là ai? Gửi tiền nhằm mục đích gì? Anh nên gửi trả lại để tránh trước những điều không hay.
Cũng nhờ vậy, sau này có tin đồn báo Nhân Văn đã nhận tiền của nước ngoài, tập biên lai của bưu điện Hà Nội đã chứng minh được sự lành mạnh về tiền nong tài chính của toà báo.
 Cũng từ dạo ấy tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa sút, ông đi không vững, có thể ông khó th, ông nói với tôi ông sốt thường xuyên, xin được đi khám nhưng không ai ký giấy giới thiệu, một buổi chiều tối tôi tới 51Trần Hưng Đạo thì cũng là lúc gập cảnh một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông Phan Khôi ra khỏi số nhà 51Trần Hưng Đạo, người quan chức đó quát lớn:
- Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!
Bác Huệ ôm chăn màn, sách v, ông Phan Khôi lảo đảo theo sau, ra cổng gập tôi, ông chào và nói:
- Thôi, anh về đi…buồn không cần thiết!
Đến buồn mà cũng không cần thiết, kể cả khi đổ bát nước đi mà biết là không hớt lại được.
Hôm sau tôi gập lại vị quan chức hôm trước (nguyên là bạn học cùng tôi thời tiểu họcBình Định – Quy Nhơn) tôi nói:
- Ăn nói và đối xử với nhau như vậy có quá lắm không? Nhất là tầm tuổi ông Phan cũng ngang hàng cha chú chúng mình!
Ông bạn tôi cười và nói:
- Cậu có biết chuyện lên đồng không? Người lên đồng nói những điều không do họ chịu trách nhiệm, họ nói những điều đến từ thế giới khác.
Và cũng nhân câu nói ấy, tôi nhớ một nhà viết kịch nói với tôi về ông này:
“ Nhà ông này có một cái tủ lạnh, lúc vắng ông, có người mtủ ra thì thấy trong tủ toàn là lưỡi – có thể vì thế mà ông này nói được bằng nhiều thứ lưỡi”!!!
 Có một hôm đã rất khuya, ít ra cũng trên 12h đêm, anh Phan Thao đến nhà tôi62B Khâm Thiên và hỏi:
- Anh có thể nói thật với tôi về chuyện tiền nong của bố tôi như thế nào không?
Tôi hiểu, Ý anh Thao muốn hỏi tôi về tin đồn chúng tôi đã nhận tiền của ngoại quốc, của sứ quán Pháp, của ông Durand trợ giúp.
Tôi trả lời:
- Thật ra tôi không biết mặt ông Durand, cũng không biết đồng đô la ra làm sao, nói thật với anh là tôi và ông Phan vừa đi bán cái đồng hồ đeo tay của tôi trên hàng ông Sinh ThànhTràng Tiền để mua thuốc kháng sinh cho Ông Phan theo đơn của bác sĩ Nguyễn Xuân Ty (bác sĩ bệnh viện Việt đức) bạn của tôi.
 Lần cuối cùng tôi gập ông là hôm ông đi về nhà ông qua phố Hàng Điếu – ông mệt lắm. Cuộc đời đã bỏ rơi ông, quên lãng ông trong cô độc!!!
 Ông Phan Khôi là một người có nghị lực, những nỗi lo buồn ít khi ông bầy tỏ cùng ai. Riêng một điều ông vẫn thường nói vớI tôi về một số bài báo của một nhân vật lão thành cách mạng nào đó quy cho ông Phan cái tộI tay sai của mật thám Pháp cài vào theo dõi một cuộc họp ĐảngSài Gòn - Chợ lớn. tại một hiệu ăn, bằng cách nhét ông ngồi dưới gầm bàn của cuộc họp ấy
Ông nói: với tôi việc ấy không nhằm minh oan, nhưng chính là đề chứng minh sự ngu dốt của người bịa đặt ra câu chuyện này.
Ông nói tiếp:
- Việc đưa một tên mật thám để theo dõi cuộc họp quan trọng
 của Đảng, bọn mật thám Pháp sao lại ngây thơ đưa tên gián điệp xuống gầm bàn, lỡ người ngồi họp duỗi chân ra đụng phải thì sao? Nhà hàng ăn nào chẳng có chó mèo, lỡ chúng phát hiện có người dưới gầm bàn sủa ầm lên thì sao? Có lẽ người bịa ra câu chuyện này chưa biết và chưa hiểu mật thám Pháp là thế nào!!!
Nhưng tôi nghĩ chắc chắn mật thám Pháp lại biết rất rõ Phan Khôi là ai – ông là cháu ngoại của người anh hùng dân tộc Việt nam - Hoàng Diệu
 Ông nói :
Cái ngu dốt của riêng con người bịa chuyện thì con người ấy chịu trách nhiệm – nhưng câu chuyện lại được mọi người tin mới là chuyện đáng bàn. Nhà sư Ngô Tịnh Không năm 1170 có câu thơ: “Trí nhân vô ngộ đạo - ngộ đạo tức ngu nhân”
 Vậyđây: Ai là trí nhân? Ai là ngu nhân? Ai là ngộ đạo?
 Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất đời ông vẫn chưa có người giải!!!
 Trong văn học “Nỗi oan nàng Đậu Nga trong kinh kịch nổi tiếng Trung Quốc đã được minh oan. Nỗi oan trái của gia đình Nuyễn Trãi - Thị Lộ đã được minh giải, Nguyến Du chưa đến ba trăm năm người Việt chúng ta đã thấu hiểu. Riêng nỗi oan của Phan Khôi  - cái quý nhấtcon người là phẩm giá đã bị bôi nhọ, trà đạp, giết chết sinh mạng, tâm hồn một con người, nhưng chưa ai đề ra để minh giải
 Tiếng thdài và chép miệng của ông trong những ngày cuối đời như còn vọng lại, đối với ông nhắc đến nỗi oan khuất ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời!!! Gió mưa là do chuyển hoá Đông Tây của thời tiết – nhưng vẫn có người tốt bụng cho rằng: trời mưa nhờ có cóc kêu!!!
Theo trannhuong.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét