Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2012

Từ điển Triết học II

Từ điển triết học giản yếu
21 (tiếp theo)




Ái khổ/dolorisme từ do Paul Souday đặt ra trong một bài báo ra ngày 6 tháng ba năm 1919 điểm tác phẩm La possession du monde/Chiếm hữu thế giới  của Georges Duhamel: Tác giả đã đưa ra trọn vẹn điều tôi gọi là chủ nghĩa ái khổ, nghĩa là một lý thuyết về tiện ích, thiết yếu, tuyệt vời về đau khổ.” Từ này sau đó được Julien Teppe dùng lại, với ý nghĩa tốt đã trở thành thông dụng. Teppe xác định “chủ nghĩa ái khổ là một học thuyết đóng góp một giá trị cao về mặt đạo đức, thẩm mỹ, và trên hết là trí thức về sự đau khổ - chủ yếu là đau khổ thể chất, không những về điều nó mang lại nhậy cảm cho con người về những nỗi đau khổ của tha nhân, mà còn cả về việc làm ngừng lại những xung động của đời sống động vật, cũng như cho phép tinh thần thủ đắc được quyền tối thượng đặc biệt hữu hiệu trong việc sáng tạo văn học nghệ thuật.”

Trong những tác phẩm Apologie pour l'anormal, manifeste du dolorisme/Biện hộ cho cái bất thường, tuyên ngôn của chủ nghĩa ái khổ, 1935Dictature de la douleur, ou précisions sur le dolorisme/Chuyên chế  của đau khổ, hay những minh xác về thuyết ái khổ, 1936 J. Teppe cũng làm nổi bật vai trò của bệnh tật và ích lợi tâm linh của sự cấm đoán do bệnh tật gây nên. (theo Lalande, Từ  vựng triết học)


Ái tha chủ nghĩa/Altruismus/Altruisme: từ do Auguste Comte đề ra để đối lập với từ égoisme/chủ nghĩa vị kỷ và Herbert Spencer dùng lại, trở thành thông dụng trong ngôn ngữ triết học.

Trong Từ vựng triết học, Lalande xét thuyết ái tha trên hai bình diện:

-    Về mặt tâm lý học, để chỉ tình cảm thương yêu tha nhân, hoặc là kết quả theo bản năng của những  dây liên lạc giữa những sinh vật cùng loài; hoặc là kết quả của phản tư và quên mình của cá nhân. Trong Biểu đồ của tác phẩm Catéchisme positiviste/Sách giáo lý của chủ nghĩa thực chứng, Comte coi ái tha bao gồm quyến luyến, tôn kính và nhân từ.

-    Về mặt đạo đức, để chỉ học thuyết đạo đức, đối lập với chủ nghĩa khoái lạc/hédonisme, chủ nghĩa vị kỷ/égoisme, và trong một mứcđộ nào đó đối lập với chủ nghĩa thực dụng/utilitarisme (khi chủ nghĩa này trên nguyên tắc không muốn kêu gọi động lực tinh thần nào khác hơn ở tác nhân ngoài sự tìm kiếm lợi lộc thựcsự của y). Thuyết ái tha như vậy là một lý thuyết của điều thiện lấy khởi điểm là lợi ích của đồng loại như thể mục đích của hạnh kiểm luân lý. Cho nên Comte đề ra những khẩu hiệu như Sống cho tha nhân; Lấy tình yêu làm nguyên tắc, trật tự làm nền tảng, tiến bộ làm mục đích, v.v...

Lalande phê phán là khi phân biệt rõ ràng hai sắc thái của thuyết ái tha về mặt tâm lý, không những chỉ vì quan điểm này đáp ứng hai thái độ khác nhau, mà còn dựa trên nhận định của Baldwin (xem: Dictionary, sub V) là từ ái tha chỉ được dùng khi nào chỉ ra một đề xuất ý thức, không phải một bản năng hay những thói quen do tương giao hữu cơ tạo ra. Trong Discours préliminaire, nhiều khi Comte còn dùng từ quên mình/abnégation như đồng nghĩa với ái tha.

Ái tha đối lập với vị kỷ trên phương diện đạo đức đã được Nicolai Hartmann bàn đến trong tác phẩm Ethik/Đạo đức học, 1926 trong chương VIII, tiết 3 phần 1 (dưới tiêu đề Những phương pháp sai lạc của Đạo đức triết học”). Lý luận phê phán này nhằm rọi chiếu vấn đề cơ bản thường được nói đến trong triết học hiện sinh là một xu hướng ở nửa đầu thế kỷ XX, mối quan hệ giữa Ta và Tha nhân/Ich und Du. Hartmann đi đến kết luận: mối quan hệ cơ bản của Ta và Tha nhân rốt cuộc khó có thể tách rời về mặt lý luận vị kỷ và ái tha. Ông phê phán cái đúng và sai của lý luận vị kỷ khởi từ khái niệm tự bảo toàn của bản ngã/suum esse conservare, diễn tả nơi những nhà khắc kỷ chính xác trong quan niệm eanton threin - mọi đạo đức phải mang tính vị kỷ nếu như lơi thân là động lực duy nhất và , cao nhất, như vậy mọi hình thức ái tha, kể cả tình yêu, tình bằng hữu, tự hy sinh chỉ là vị kỷ được ngụy trang (hành động cứu một đứa trẻ, chiến đấu như một chiến sĩ, làm việc ngày đêm để giúp đỡ vợ con một cách lương thiện cũng chỉ là mưu tìm thỏa mãn” chính mình. Mâu thuẫn của lý luận này là cứu cánh tột cùng luôn luôn là một cái gì đó thỏa mãn bản thân trong hành động hy sinh là thỏa mãn tha nhân, loại thỏa mãn này rõ ràng là điều thường gọi là ái tha. Vấn đề siêu hình ở đây đặt ra một khó khăn lớn là làm sao tha nhân được nhận biết trong ý thức? Giác quan chỉ cho ta thân thể tha nhân, không chỉ ra hữu nội tại tha nhân. Ngay trong khái niệm đồng cảm cũng chỉ ra tự đánh giá bản ngã qua việc đánh giá tha nhân. Mọi lý luận vị kỷ đều dựa trên cái trừu tượng bắt buộc. Mối quan hệ giữa thuyết vị kỷ và ái tha nổi lên hai điểm: có cội rễ độc lập nơi con người, mà mỗi con người đối mặt với mọi tha nhân trong đồng nhất sâu xa của nhân loại, đồng thời vẫn giữ tính phi đồng nhất bất khả diệt, nghĩa là hiện tượng cơ bản của Ta và Tha nhân vừa phân cách vừa ràng buộc con người lại. Thống nhất và đối lập giao hỗ với nhau, phân biệt với tương ứng nhận thức luận giữa chủ thể và khách thể. Chính mối quan hệ này khiến không thể phân cách vị kỷ và ái tha về mặt lý luận; mặt khác, vị kỷ tự nó không phải là không có giá trị, mà có giá đối với ái tha cũng như là một điều kiện riêng phần của ái tha Trong Wesen und Formen der Sympathie/Bản chất và những hình thái đồng cảm, 1913/1923   và tiểu luận Das Ressentiment im Aufbau der Moralen (in trong Vom Umsturz der Werte/Từ cách mạng giá trị), Max Scheler cũng phê phán những lý luận đạo đức/tâm lý của phong trào Khai sáng Pháp trong việc xây dựng những tình cảm ái tha trên quan niệm bản chất vị kỷ của con người.

Vào đầu thế kỷ XXI, một xu hướng triết học nhân sinh với Vittorio Hösle (trong Moral und Politik: Grundlagen einer politischen Ethik für das 21. Jahrhundert, 1997) quan niệm: mẫu số chung nhỏ nhất của những đức tính xã hội nằm trong siêu viêt vị kỷ tự nhiên, đạp đổ những ràng buộc ám ảnh với chính mình, dã xảy ra trong những hành vi đồng cảm, và những khả năng thông diễn có thể hữu ích. Theo chiều hướng này, mọi đức hạnh xã hội bao hàm ái tha. Khoa xã sinh học hiện đại với R. Dawkins,  E.O. Wilson đặc biệt quan tâm đến đạo đức, như tác phẩm của Dawkins The Selfish Gene, 1976 phân tích về mặt sinh học vấn đề vị kỷ và ái tha. Di tố/gene trong ứng xử vị kỷ tất yếu chiếm ưu thế đối với di tố trong ứng xử ái tha (chỉ thị một loại ứng xử đối với những cơ chế khác).

Trong Mạnh tử tự nghĩa sớ chứng, Đái Chấn nói đến quan hệ giữa tình và lý: khác biệt giữa tình và lý ra sao? Đáp án của ông là, ở ta và tha nhân đều có tình, nhưng khi tình không đi quá, không bất cập thì gọi là lý/Tại kỷ dư nhân giai vị chi tính, vô quá tình vô bất cập tình chi vị lý.

Lý ở đây đã được chỉ ra từ Khổng tử, thâu tóm trong một câu của Tăng Tham: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hĩ/ Đạo của phu tử bao gồm trong trung thứ. Trung là ý thức đạo đức cư xử với tha nhân và thứ là quan hệ ái tha, như đề ra trong châm ngôn ở Luận ngữ: kỷ sở bất dục, vật thi vu nhân, điều gì mình không muốn cũng đừng xui người khác làm. Lý luận trung thứ là chủ nghĩa ái tha phương đông diễn đạt tác động qua lại giữa ta và tha nhân, bao hàm ý nghĩa của thực hiện đạo nhân. Mạnh tử ở một thế kỷ sau cũng nói rõ cái nghĩa của chữ thành/phản thân nhi thành trong ý thức bản thân và chữ thứ trong ý thức tha nhân ngõ hầu thực hiện chữ nhân, khi đó vạn sự hoàn tất trong ta/vạn vật giai bị vu ngã hĩ.( Chính ở điểm này, nhà Hoa học F. Jullien trong Dialogue sur la Morale, 1995 phê phán Legge và Phùng Hữu Lan về điểm hai tác giả này cho quan niệm đạo đức ở đây của Mạnh là thần bí, mà theo Jullien không phải là từ bỏ tự thân/dépouillement de soi hay vượt thế/dépassement du monde như Trình Hạo: dư vật vô đối, dự ý của Mạnh là đạt tới nhân qua ngả ái tha/thứ).


Ẫn chất của cảm giác/subreptions des sensations/Subreptionen der Empfindungen: diễn ngữ của Kant trong Kritik der reinen Vernunft/Phê bình lý trí thuần túy (I, Erster Teil: Die transscendentale Ästhetik)  để chỉ những phẩm tính như màu sắc, âm thanh, nóng lạnh chuyển dịch cho giác quan chúng ta một số những đặc tính thực của cơ thể, xem như những khách thể định vị trong không gian. Những phẩm tính này phụ thuộc những điều kiện chủ quan trong cảm giác tính của con người, khác biệt với những hình thái này vì chúng không phải là khách quan hay tiên nghiệm và ngay cả việc chúng không có tính lý tưởng nào cả/Daher ihnen, genau zu reden, gar keine Idealität zukommt. (Theo Lalande, Từ vựng triết học).


Ảo kích luận/Quintaine/Rennpfahl: Học thuyết ảo gán cho đối thủ để có cơ hội phủ bác nó.

Áp chế, chủ nghĩa/Despotism: từ nguyên nghĩa, Despot để chỉ GewaltherrscherLettres persanes/Thư Ba tư  qua những minh họa các đế chế Cận Đông và Nam Á để nói về chuyên chính của châu Âu. Chuyên chính sử dụng một tể tướng cai trị trong khi bạo chúa sống hoang đàng, ăn chơi phè phỡn. Nguyên lý của chuyên chính là sợ hãi/crainte (nhân vật Usbek rời Ba tư sống dưới đế chế sợ hãi), thi hành một chính sách bạo ngườc đàn áp quần chúng. Chuyên chính là một loại chính quyền phi nhân nhất, xuẩn động và đồi bại. Riêng ở châu Á, khí hậu và địa lý phối hợp khiến không tránh khỏi chuyên chính. Trong những trường hợp như vậy, tự tại chuyên chính không có khả năng biến đổi cơ bản. Hiện hữu của chuyên chính tùy thuộc vào việc thường trực dùng bạo ngược sắt máu.

Ở thế kỷ XX, Karl Wittfogel (1896-1988) trong Oriental Despotism, 1957 đưa ra một lý luận tương tự về châu Á khi nghiên cứu những công trình thủy lợi đòi hỏi những cấu trúc chính quyền có khả năng bảo đảm công cuộc này, gây áp lực trên xã hội. Nhà nước phải tổ chức một lực lượng lao động cưỡng bách từ nhân dân, do đó đòi hỏi một hệ thống thư lại rộng lớn và phức hợp, sẵn sàng đàn áp xã hội dân sự hay bất kỳ lực lượng nào khác có khả năng huy động quần chúng chống lại nhà nước. Một nhà nước như vậy tất yếu phải là chuyên chính.

Quan niệm những xứ sở rộng lớn tất yếu trở thành chuyên chính có vẻ phổ biến ở thời đại nhóm The Federalist (1787-1788) lý giải tư tưởng Montesquieu thông tục (chỉ những nước nhỏ mới có chính quyền cộng hòa), vì  một điều là những quốc gia lớn cần cai trị chuyên chế mới có khả năng lãnh đạo chiến tranh, chống lại nhòm ngó gây hấn của những nước lân bang.

Trái lại, John Stuart Mill (1806-1873) quan niệm chủ nghĩa áp chế, chuyên chính là một phương thức biện minh chính quyền cho man rợ, nếu như cứu cánh là lợi dụng cơ hội của họ. Chuyên chính đòi hỏi sự thần phục của quần chúng, kể cả chuyên chính rộng lượng. Tại sao vậy? Trong chuyên chính, quyền lợi cá nhân không được bảo đảm vì  phải tùy thuộc vào bạo chúa. Mill cũng đưa ra lý luận đề cao chế độ đại nghị, tức dân chủ đai biểu, chính quyền của nhân dân, phản bác quan niệm thông tục biện hộ cho chuyên chính nói ở trên, dựa trên ba lý do: Chế độ dân chủ bảo vệ quyền lợi cá nhân, thúc đẩy sự phát triển luân lý và trí thức cao nhất, và quan trọng hơn nữa là sự phát triển cá nhân tột đỉnh cũng dựa trên văn minh tiên tiến, chỉ khả hữu ở một quốc gia rộng lớn.



Ảo tưởng/Màyà/Huyễn/Illusion: nguyên ngữ của từ này ở tiếng La tinh là illusio (in-và ludus, có nghĩa là lừa gạt, sai lạc của giác quan.

Từ màyà/huyễn/huàn trong tiếng Phạn/Sanskrit, căn ngữ “mà”= đo lường, giới hạn, tạo hình, có nghĩa là ảo tưởng, mưu mẹo lừa dối, bề ngoài. Trong Ấn giáo, màyà là một nguyên lý phổ quát bắt nguồn từ Advaita Vedanta, làm cơ sở cho vật chất và tinh thần. Màyà là một lực của Brahman (coi phi thực như thực), do đó kết hợp vĩnh viễn với brahman (ví như hơi nhiệt kết hợp với lửa). Ishvara là vị thần kết hợp của brahman và màyà duy trì và làm tan rã vũ trụ (chỉ nguyên nhân vô thuỷ đem lại ảo tưởng của thế giới). Theo Advaita Vedanta, màyà là nguyên lý bất xác mang lại biểu hiện ảo tưởng của vũ trụ, con người chỉ nhìn thấy đa diện của vũ trụ hơn là nhìn thấy thực tại. Màyà có hai bộ diện: avidyà/vô tri thức và vidyà/tri thức. Vô tri thức đưa con người xa rời Đại ngã, bi giam hãm trong vật chất dẫn tới mê si. Tri thức dẫn tới Đại ngã, biểu lộ trong những đức hạnh tinh thần. Nguyên lý ảo tưởng là khái niệm then chốt của trường phái bất nhị này, giải thích tại sao thực tại nhất thể xuất hiện như phức thể. Nó cũng là quyền năng đem lại sai lầm và chỉ có ý nghĩa trên mức độ thường nghiệm, tương đối. Màyà có sáu mặt: vô thủy/anàdi; tận cùng ở chân tri thức/jñàna-nivartya; che khuất/àvarana và dự kiến/viksepa; bất định/anirvacanìya; có bản tính hiện hữu tích cực/bhàvarùpa; ở trong cá thể/jìva hoặc đại ngã/Brahman.

Trong Phật giáo, màyà để chỉ thế giới hiện tượng của bộ diện và hình tướng, biến đổi không ngừng, tạm bợ, ảo tưởng mà tâm không giác ngộ coi như duy nhất là thực. Khái niệm màyà đối lập với khái niệm tuyệt đối cơ bản, bất biến được biểu thị qua Pháp thân/dharmakàya, đồng nghĩa với Chân như, tức quy luật vận chuyển trong vũ trụ [xem: Pháp thân]. Nhận thức mọi pháp như thể màyà đồng nghĩa với kinh nghiệm Giác ngộ/bodhi. Thiền học quan niệm thực ra ảo ảnh không phải là nhìn thế giới hiện tượng như là thực, ảo tưởng chú trọng vào việc coi thế giới hiện tượng như bất biến và duy nhất là thực, nên đã có cái nhìn sai lạc đâu là chủ yếu. Cái tương đối và tuyệt đối về cơ bản là một và đồng nhất, mê và ngộ chỉ là một. Phái Thiên thai quan niệm ba chân lý: không, giả và trung. Những ảo ảnh của tư tưởng và dục, gọi là kiến tư hoặc là một trong ba phạm trù ảo ảnh, gồm những ảo ảnh của tư duy làm sai lạc tri gíac chân lý, của dục vọng là những xu hướng thấp kém do ngũ quan tiếp cận với khách thể tạo ra, như tham lam và sân si.       
                                                                               
Trong tư tưởng Trung quốc, huyễn/ảo tưởng là một trong những phạm trù du nhập vảo từ Phật giáo trong phạm vi hiện tượng và thực như hữu, vô, hư, huyễn, không, thực. Một vài phạm trù đã có trong Đạo giáo.

Từ  illusion/ilusión được sử dụng nhiều trong những nghiên cứu triết học tây phương về tri giác. Vấn đề đặt ra là liệu tri giác có thể cho ta nhận thức trực tiếp và đúng về thế giới? Chính những ảo tưởng dẫn đến tranh biện tri giác không thể được tin cậy là một nguồn nhận thức ngoại giới, mà chỉ đề ra nhận thức ttrực tiếp về ngoại diện hay cảm giác.

Ảo tưởng do lý giải sai lạc một tri giác, mang tính cách không tư hoá giải đưọc khi có ý thức. Tính kiên định xác lập khác biệt giữa ảo tưởng và sai lầm: một phán đoán sai lạc có thể sửa, song người ta không thể ngăn chặn được vặn vẹo của giác quan hay tinh thần.

Ảo tưởng diễn ra dưới nhưng hình thức khác nhau: một, những ảo tưởng đúng nghĩa do nhận thức bị lừa trong khi nhận diện đối tượng được tri giác (những ảo tưởng thị giác chẳng hạn, như những đường bằng nhau xem có vẻ không bằng nhau; những ảo ảnh trên màn hình điện ảnh minh họa rõ ảo tưởng này, như chuyển động do những hình ảnh khác nhau ở trạng thái tĩnh, màn ảnh phẳng xem như ba chiều kích v.v..); hai, tính tương đối của những tri giác (cái đĩa tròn từ một góc nhìn xem như hình ellip; cùng một giòng nước có vẻ lạnh với người này, nhưng ấm đối với người khác, những ảo tượng vì cận thị, hay khiếm khuyết một giác quan gây ra); ba là ảo giác (những ảo giác thuần túy do say rượu, bệnh thần kinh, ảo giác của người cụt chân  vẫn cảm thấy như đang có cái chân đã mất). 

Những triết gia thuộc phái hoài nghi như Sextus Empiricus quan niệm chúng ta chỉ có những phán đoán ngoại diện, do cảm giác biến đổi không ngừng và mọi vật hiện ra với chúng ta luôn luôn sai biệt. Do đó con người phải bằng lòng với những phán đoán ngoại diện về tự nhiên cũng như cư xử của con người.

Kant quan niệm ảo tưởng là sự kiện của tri năng bị giác tính dẫn đắt. Không như phái hoài nghi nghĩ, con người có thể điều khiển tinh thần sao cho có thể nhận thức sự vật xác thực ngay trong một thế giới mà tất cả chỉ là ảo tưởng. Tuy nhiên , người ta có thể điều chỉnh trí năng, mà không thể thực hiện với giác tính, vì một tri giác ảo tuân theo những quy luật tất yếu và đủ mà con người không thể thay đổi. Mặt khác, như Kant chỉ ra trong Luận lý  là khát vọng phán đoán và quyết định ngay cả khi do tính cách hạn chế, chúng ta không có quyền năng phán đoán hay quyết định, là nguyên nhân ảo tưởng nơi chúng ta.

Nietzsche quan niệm ảo tưởng có thể chứng thực, đó là nghệ thuật, tức ảo tưởng con người chế ra là nguồn kích động lớn cho cuộc đời, nếu không có nó, sự tàn nhẫn và phi lý của tự nhiên không thể chịu nổi. 


Từ điển triết học giản yếu
22 (tiếp theo)




Ảnh/Ảnh tượng/Tri tưởng/Image/Bild/Vorstellung/Imaginaire/Imaginär/Imagination/Einbildungskraft/Phantasie:

Ảnh/Image/Bild:  Ảnh là một cái gì có thực và không có thực.

Ảnh/image bắt nguồn từ tiếng La tinh imago mang nhiều nghĩa như biểu tượng, mô phỏng, ảnh tưởng, bóng người khuất; những từ hy lạp tương ứng είκων (mô phỏng), είδωλον (có vẻ không thực),  φαντασμα (ảo tượng/bóng ma); từ tiếng Đức Bild (cấu thành<Bildung: hình trạng).

Quan niệm về ảnh đã hình thành ngay từ triết học cổ đại, với Platon trong lý luận hang động, giải thích sự vật được nhận thức trong trí tưởng con người ví như một tù nhân bị giam hãm, quay lưng ra ngoài, chỉ nhìn thấy bóng của sự vật chiếu trên vách. Cái đó chỉ là ảo tượng/φantasma, giả và phi hữu. Với Aristote, ảnh được quan niệm tích cực như một điều kiện của nhận thức vì “không thể tư duy nếu không có một hình ảnh thuộc về tinh thần/tâm linh. Aristote đã đặt nền tảng khởi đầu cho khoa tâm lý học sau này.  Đối với những nhà triết học thuộc phái nguyên tử cổ đại, ảnh được quan niệm theo chiều hướng duy vật khi nhận thức ảnh/eidola thuộc về thị giác là những mảnh vỏ mỏng của nguyên tử theo hai chiều kích, và mắt nhìn chỉ việc tiếp nhận; có thể nói mắt không tham gia vào việc hình thành nên ảnh, cho nên chân tướng sự vật vẫn ẩn dấu giác quan, chân lý thuộc về trật tự của bất kiến.

Thời Trung cổ, quan niệm hình ảnh thường coi như đồng dạng và đôi khi còn để chỉ dấu hiệu. Sang thời cận đại, Hume cũng nghĩ tư duy với tâm ảnh như Aristote, khi ông coi niệm và ảnh cùng là một thứ trong Treatise of Human Nature “một ấn tượng trước hết đánh động giác quan khiến chúng ta tri giác được nóng hay lạnh, khát hay đói, thích thú hay đau đớn loại này loại kia; từ ấn tượng này có một bản sao từ tinh thần, vâ còn lại sau khi ấn tượng đã ngưng, cái đó gọi là ý niệm”. Những nhà triết học khác như Descartes, Leibniz, Spinoza cũng nhận thức quan hệ giữa tư duy và ảnh. Tuy nhiên ở đầu thế kỷ 20, một quan niệm về tư tưởng phi ảnh/imageless thought theo O. Külpe (trường phái Wurzburg) và K. Bühler gây tranh biện với Edward Titchener.

Trong Từ vựng triết học, Lalande  dẫn hai nhà tư tưởng Pháp là Voltaire trong Dictionnaire philosophique  “ thị giác chỉ cho những hình ảnh” (A), và Taine trong De l'Intelligence  “người ta có thể dùng những từ khác nhau để diễn tả ảnh, như một dư vị, một tiếng vọng, một võng tượng, một ảo tượng, một hình ảnh của cảm giác nguyên thủy; tất cả những so sánh này có ý nghĩa là sau một cảm giác do bên ngoại gợi lên và không phải tự phát, có một diễn biến tương ứng, không do bên ngoài gợi lên, tự phát, giống với cảm giác này, dầu yếu hơn, kèm theo cùng những xúc cảm, thú vị hay bất hứng ở một mức độ kém hơn, đi kèm cùng những phán đoán và không phải là tất cả. Cảm giác lập lại, dầu kém rõ ràng, kém năng động và loại bỏ nhiều phụ cận”, (B) tóm lại là lập lại thuộc tâm linh một cảm giác đã nhận được trước đó, nói chung là yếu đi. Trong nghĩa D, ông dẫn Bergson theo ý nghĩa khai triển từ ảnh với mọi biểu hiện cảm giác: “hình ảnh tri giác được khi tôi mở những giác quan của tôi ra, không nhận được khi tôi đóng những giác quan của tôi lại; tất cả những hình ảnh này vận động và phản động lẫn nhau trong mọi phần cơ bản của chúng theo những luật bất biến, mà tôi gọi là những luật của tự nhiên” trong Matière et Mémoire.

Sartre sau khi tiếp cận hiện tượng luận Đức đã viết hai tác phẩm L'Imagination, 1936L'Imaginaire, Psychologie phénoménologique de l'imagination, 1940  (quyển sách trước, cuối chương 4 khảo về Husserl đã báo hiệu quyển sau qua dòng kết: Con đường về tâm lý học hiện tượng luận ảnh thật thênh thang; trong tác phẩm chính L'Être et le Néant, 1943 phần luận về nguồn gốc hư vô, ông dẫn lại quyển sách đầu nói về ảnh). Sartre phê phán quan niệm ảnh của các nhà tư tưởng Pháp đi trước, như Taine, Ribot, Bergson từ những quan niệm về chủ thể và ý thức khi viết “lạm dụng việc gọi là “ý thức” những thực tại thụ động mà ý thức có thể lĩnh hội, và đi đến một siêu hình học không phải khởi đi từ thế giới như thể ý thức, mà từ những ý thức đối diện với thế giới. Để tìm hiểu bản chất của ảnh, trong một tâm lý học mới, ảnh không phải là một sự vật nội tại, nhưng là ý thức (ảnh của tờ giấy mà tôi tri giác, không phải là một ảo tượng mà tôi mang theo và qua đó tôi lại nắm bắt được đối tượng tri giác của tôi). Cái gọi là ảnh là một hành vi trong đó ý thức nhắm trực tiếp cùng đối tượng đã cho trong tri giác (chỉ có cùng một người tên X, đối tượng của tri giác và ảnh, và ảnh chỉ là một từ cho một cách nào đó của ý thức để nhắm đối tượng, hình ảnh X là một trong những cách thế khả hữu để nhắm hiện hữu thực của X). Để vượt khỏi những nan giải trong vấn đề phân biệt hình/morphé và chất/hylé của ảnh mà Sartre theo Husserl trong khi viết quyển sách xuất bản năm 1936 này, ở Hữu và Vô, 1943 Sartre viết: Aûnh phải chứa trong cấu trúc của nó một luận cương hư vô hóa. Nó cấu thành như ảnh khi đặt để đối tượng của nó như hiện hữu nơi khác hoặc không hiện hữu. Nó mang một hủy thể kép trong nó:là hư vô hóa thế giới trước tiên , rồi tiếp theo là hư vô hóa đối tượng của ảnh và đồng thời hư vô hóa chính nó.

Quan niệm ảnh mang ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ của con người (tranh biện giữa Berkeley và Locke: Berkeley phê phán lý luận của Locke về hiện hữu của những ý niệm tổng quát trừu tượng là bất khả, ảnh tinh thần phải là đặc thù vì không thể hình thành ý niệm tổng quát, nghĩa là ảnh của một tam giác nếu không phải là tam giác cân, tam giác đều, tam giác vuông) là đề tài phê phán trong triết học và tâm lý học ở thế kỷ 20. Wittgenstein gọi nó là một giả ảnh/ein falsches Bild trong quá trình thừa nhận/Wiedererkennen như thể thừa nhận luôn luôn dựa trên so sánh hai ấn tượng với nhau, khi đưa ra nhận xét: “Như thể tôi mang một hình ảnh đối tượng với tôi và nhận diện một đối tượng như đã được hình ảnh biểu hiện. Ký ức của chúng ta đối với chúng ta như can dự vào so sánh này, qua việc gìn giữ một hình ảnh của cái gì đã nhìn thấy trước, hay cho phép chúng ta nhìn vào quá khứ/Es ist, als trüge ich ein Bild eines Gegenstands bei mir und agnoszierte danach einen Gegenstand als den, welchen das Bild darstellt. Unser Gedächtnis scheint uns so einen Vergleich zu vermitteln, indem es uns ein Bild des früher Geschenen aufbewahrt, oder uns erlaubt…in die Vergangenheit zu blicken”.

Thời hiện đại là thời của khoa học kỹ nghệ, như Heidegger gọi nó là thời đại của ảnh hình thế giới/Weltbild, thế giới được quan niệm như ảnh. Nhiếp ảnh như một kỹ thuật đã được phát kiến, ống kính được mệnh danh là tấm gương của thế giới, ảnh tuy không là thực tại, mà là một tương tự/analogon của sự vật (Barthes), thiên nhiên với máy chụp hình thì khác thiên nhiên nói với con mắt (W. Benjamin). Nhiếp ảnh chính là cái khả năng thực hiện sự đồng nhất trong cái duy nhất [Xem: Đặng Phùng Quân, Tẩu khúc, 2004]

Ảnh trong Kinh Dịch gọi là Tượng/hsiang: trong thiên Hệ từ nói Dịch có Thái cực/t'ai chi, sinh ra hai Nghi/I, hai Nghi sinh ra bốn Tượng, bốn Tượng sinh ra tám quẻ/pa kua. Nghi tức là hình thái gồm Âm và Dương, Tượng là ảnh do hình thái sinh ra Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Quẻ gồm có Kiền, Đoái, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Trương Hoành Trung thông diễn ý nghĩa của Dịch: có Lý rồi mới có Tương, có Tương rồi mới có Số. W.T. Chan giải thích quẻ trong Dịch là một biểu tượng trình bày hiện tượng được ghi nhận trong thiên nhiên, và gợi lên một ý hay hình tùy thuộc vào đó mà sự vật hay hoạt động diễn ra.

Bernard Bolzano trong Wissenschaftslehre/Khoa học luận, 1837 trong tranh biện về ảnh và niệm tưởng hệ/schema xác định niệm tượng hay ảnh tượng/phantasma là một biểu tượng kết hợp khái niệm và trực quan, và phê phán Kant đã đồng hoá tỉ dụ và ảnh tương. Tỉ dụ, đối với một khái niệm đã cho, là một đối tượng mà nó bao nhiếp. Ảnh tượng là một biểu tượng chủ quan bao nhiếp cùng đối tượng mà một khái niệm không biểu thị những đặc chất của nó: ảnh tượng chỉ đi kèm khái niệm. Niệm tưởng hệ của Kant chính là ảnh tượng của một đối tượng, kết hợp với khái niệm của đối tượng này.

Ảnh tượng/Imaginaire: từ bắt nguồn ở tiếng La tinh imaginarius đã được Sartre dùng làm nhan đề trong tác phẩm xuất bản năm 1940 nhằm mô tả chức năng chính “không thể thực hiện được của ý thức hay tri tưởng và đối ngữ tri kiện của nó, ảnh tượng/décrire la grande fonction “irréalisante” de la conscience ou “imagination” et son corrélatif noématique, l'imaginaire.

Từ ngữ imaginaire được Lacan dùng trong phạm trù toàn bộ thuật ngữ và khái niệm ở hội luận 1974-75 của ông gọi tắt là R.S.I., nghĩa là thực, tượng trưng và ảnh tượng: người ta chỉ có thể nghĩ ảnh tượng/l'imaginaire trong những quan hệ của nó với cái thực/le réel và cái tượng trưng/le symbolique và cấu thành sổ ghi chép dụ hoặc/leurre và đồng nhất/identification. Những sổ ghi ảnh tượng và sổ ghi tượng trưng của Lacan là những công cụ làm việc cần thiết cho nhà phân tâm học để đánh dấu trong hướng chữa trị, cái thực được đánh dấu như trong trật tự của cái bất khả hữu. Aûnh tượng được hiểu khởi từ ảnh (chẳng hạn, trẻ sơ sinh giữa thời kỳ sáu và mười tám tháng sống như chia vụn, không khu biệt giữa cái gì là nó và thân thể người mẹ, giữa nó và ngoại giới; được mẹ cưu mang bồng bế, nó nhận ra ảnh hình nó trong tấm gương, dự tưởng về mặt ảnh tượng hình thái toàn diện thân thể nó). Một trong những tiêu biểu của sổ ảnh tượng cũng là dấu mốc cho quan điểm lý luận (chẳng hạn, khi nói đến từ ngữ cha, phải minh thị nói đến cha thực, cha ảnh tượng và cha tượng trưng): người cha ảnh tượng là ảnh thuộc về cha sinh ra từ diễn ngôn của người mẹ, ảnh hình nó cho và cách thế thật chủ quan mà toàn bộ những thành tố được tri giác.

Christian Metz trong Le Signifiant imaginaire, 1977 trong phản tư phân tâm học đã sử dụng những từ ngữ của Lacan để khai phá đối tượng-điện ảnh của ảnh tượng và để chinh phục nó về tượng trưng. Điện ảnh là một kỹ thuật cuả ảnh tượng, theo hai nghĩa: nghĩa thông thường chỉ những truyện phim là những truyện kể giả tưởng, mà ý nghĩa dựa trên ảnh tượng đầu tiên của nhiếp ảnh và máy hát; nghĩa thứ hai theo Lacan, ảnh tượng đối trọng của tượng trưng, cùng chỉ thị cái dụ hoặc cơ bản của cái Tôi, dấu ấn nhất định của Oedipe, dấu mốc của tấm gương làm tha hoá con người (phản ảnh riêng của nó, nhị trùng, dục vọng, cốt lõi sơ khởi của vô thức).

Tri tưởng/Imagination : Từ ngữ  bắt nguồn ở tiếng La tinh imaginatio/imago/imitari.  Quan năng tri tưởng có một địa vị nhất định chỉ thị khả năng sản xuất nơi con người. Trong hiện tượng luận tri tưởng, từ ngữ Bild trong khái niệm Bildbewußtsein/ý thức ảnh (mô tả quá trình tâm linh hình thành ra những ảnh mà người ta lĩnh hội như thể những đối tượng dự hướng được trung tính trong giá trị hiện hữu tương phản với những đối tượng của tri giác ngoại tại) để phân biệt với khái niệm Phantasie (chỉ thị quyền năng tưởng tượng của chủ thể). Roman Ingarden trong Vom Erkennen des literarischen Kunstwerks/Từ nhận thức tác phẩm văn học nghệ thuật, 1968 xây dựng lý luận mẫu hình của những đối tượng mỹ học khác nhau như hội họa, âm nhạc trên cấu trúc của ý thứcảnh, được coi như tri tưởng chủ yếu là tri kiện, phân biệt rõ sự bền vững của ảnh tượng/Bild đối với tri tưởng/Phantasieren tức là hoạt động ảnh tượng. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long nói đến thần tư/shen ssu mà nhiều học giả  coi như đồng nhất với từ hiện đại nói về tri tưởng. Coleridge quan niệm tri tưởng chủ yếu có sinh lực, trong khi mọi đối tượng chủ yếu là chết, khác với Lưu Hiệp coi sự vật không chết mà có thần. 

Tuy triết học cổ đại Hy lạp, từ Platon vẫn coi nhẹ vai trò tri tưởng, song chính Aristote đã liên kết từ tri tưởng/Phantasia với căn nguyên từ ánh sáng/phôs - nghĩa là nếu không có ánh sáng, không thể nhìn thấy, như vậy có một sợi dây liên hệ giựa tri tưởng/phantasia và hiện tượng/phainomenon. Dilthey, nhà tiền phong của thông diễn học văn chương trong Die Einbildungskraft des Dichters, Bausteine für eine Poetik/ Tri tưởng của thi sĩ, những yếu tố cho sáng tạo, 1887 đã làm nổi bật thần trí sáng tạo của tri tưởng: Tri tưởng của thi sĩ trong vị thế đối với thế giới kinh nghiệm xây dựng khởi điểm thiết yếu cho mọi lý luận thực sự muốn đi giải thích cái thế giới muôn màu muôn vẻ của văn chương trong những biểu hiện tiếp nối nhau. Trong nghĩa này, sáng tạo học là dẫn nhập thực trong lịch sử văn chương, giống như tri thức luận là dẫn nhập trong lịch sử vận động tinh thần/Die Phantasie des Dichters in ihrer Stellung zur Welt der Erfahrungen bildet den notwendigen Ausgangspunkt für jede Theorie, welche die mannigfaltige Welt der Dichtungen in der Aufeinanderfolge ihrer Erscheinungen wirklich erklären will. Die Poetik in diesem Sinne ist die wahre Einleitung in die Geschichte der schönen Literatur, wie die Wissenschaftslehre in die Geschichte der geistigen Bewegungen.
Trong tư tưởng Descartes, khác với thường kiến nghĩ ông là người coi nhẹ vai trò tri tưởng trong những Suy niệm siêu hình học, ở những ghi nhận hai mươi năm trước khi viết Suy niệm, ông đã có những suy tư giống như Dilthey về sáng tạo văn chương, ở đó thi sĩ viết với sức mạnh tri tưởng và nhiệt tình mang những ý nghĩa phôi thai những hạt giống khoa học, mà nhà triết học suy ra từ lý trí (Xem: Cogitationes privatae).

Quan điểm của nhiều nhà triết học khác cũng chứng tỏ hàm hồ về vị thế của tri tưởng. Chẳng hạn, Hume coi không có gì nguy hiểm cho lý trí hơn là những phiêu lưu của tri tưởng, song mặt khác, ông lại coi tri năng là những đặc tính khái quát và lập thành hơn của tri tưởng. Trong Phê phán lý trí thuần tuý, Kant quan niệm tri tưởng như một chức năng mù lòa song cần thiết cho tâm hồn, vì nếu không có tri tưởng, không thể có troi thức. Từ những tác phẩm sau, như Phê phán quyền năng của phán đoán/Kritik der Urteilskraft, Nhân học trong quan điểm thực nghiệm/Anthropologie in pragmatischer Hinsicht ông luận về khả năng của tri tưởng/Bildungsvermögen: tri tưởng là quyền năng hình thành ảnh tượng, phân biệt với quyền năng tạo hình cho trực giác/Bildungskraft ở chỗ nó tạo ảnh không cần hiện diện của một đối tượng, hoặc do sáng tạo/fingendo, hoặc do trừu tượng hóa/abstrahendo.

Một số những từ đi kèm với ảnh tượng như:

Ảnh tượng vật chất/Image matérielle: Thực tại vật chất do cái nhìn, tái tạo một thực tại khác, có thể là vật chất, tinh thần, trừu tượng, hay võng tượng.

Ảnh tượng biện chứng/Image dialectique/dialektisches Bild: khái niệm của Walter Benjamin trong quan niệm triết học lịch sử, đối lập với quan niệm đường thẳng về lịch sử.

Ảnh tượng sáng tạo/Image poétique: khái niệm của Gaston Bachelard, vẽ lên ảnh tượng dưới dạng động, cư ngụ trong ngôn ngữ, đưa văn chương tới vị thế cao của nghệ thuật.

Những khái niệm ảnh tượng khác như ảnh tượng liên tục, ảnh tượng tâm thần, ảnh tượng phát sinh, ảnh tượng điển hình thuộc về tâm lý học.


Ando Shoeki/An đằng Xương Ích: sinh năm 1703 ở Akita và mất năm 1762, là nhà tư tưởng độc đáo trong lịch sử tư tưởng Nhật, tuy thực sự phải đợi tới năm 1899 năm thứ 32 thời Minh trị (1868-1912) mới được phát hiện. Sinh thời ông theo ngành y, đã đến Nagasaki, hải cảng đầu tiên của nước Nhật để học hỏi về những phong tục xứ ngoại. Tương truyền, ông dạy học trò theo phong thái riêng, không dẫn kinh điển Trung hoa ngoậi trừ để phê bình, khuyến khích môn đệ làm lao động chân tay theo người nhà nông, để tiếp cận với thiên nhiên. Chính vì lối sống riêng đó nên ông ít được biết đến. Mãi đến những năm cuối thế kỷ 19, tập bản thảo mang tên Shizen Shin Ei Do/Đường lối hoạt động của Tự nhiên may mắn lọt vào tay Kano Kochiki (1865-1942), Hiệu trưởng trường Trung học quốc gia ở Tokyo và là người sưu tầm sách cổ, quý, lại thiên về khoa học tự nhiên, Kano nhận ra bản thảo của Shoeki là một thiên khảo luận bách khoa, ông đem giới thiệu sách với bạn bè, đồng nghiệp. Kano đã viết bài Dai Shisoka Ari/Một nhà tư tưởng lớn vào năm 1908 trên tập san Naigai Kyoiku Hyoron giới thiệu tư tưởng Shoeki với công chúng. Kano còn tìm được một bản thảo khác của Shoeki To Do Shin Den/Truyền giao toàn diện Chính Đạo vào năm 1925. Kano xuất bản sách viết về Ando Shoeki của ông vào năm 1928. Một học giả người Canada sinh ở Nhật E.H. Norman (1909-1957) quan tâm đến tư tưởng chống đối qua nhiều thế kỷ phong kiến đã nghiên cứu Shoeki và viết Ando Shoeki and the Anatomy of Japanese Feudalism/Ando Shoeki và Giải phẫu chủ nghĩa phong kiến Nhật, 1949, sách được dịch sang tiếng Nhật với nhan đề nhà tư tưởng bị lãng quên/Wasurerareta Shisoka đã gây chấn động giới trí thức Nhật thời hậu chiến.

Tư tưởng Shoeki có hai mặt chính mang dấu ấn nhà tư tưởng tiền phong và độc đáo không chỉ ở thời đại ông mà cả một thế kỷ về sau. Một, tư tưởng triết học xã hội của ông, phê phán nghiêm chính giới cầm quyền; hai, tư tưởng triết học tự nhiên của ông thiên về khoa sinh thái, có thể nói là một trong những triết gia đầu tiên chú trọng đến một ngành chỉ mới phát triển vào thế kỷ vừa qua. Shoeki sớm nhận thức quá trình hủy diệt sinh thái ở thời đại ông và ông lên án hành động này. Tự nhiên theo ông là khí lực trường cửu, năng lực vật chất cần thiết; thiên nhiên không phải để chinh phục, nhưng để hiểu biết; con người thuận theo tự nhiên sẽ tìm ra lý tưởng. Tư tưởng tự nhiên của Shoeki có thể so với Lý tự nhiên (vật lý nhân luân) của Lý Chí (1527-1602) cuối thời  Minh bên Trung hoa, hay đồng tình với một nhà tư tưởng phương tây cùng thế kỷ Jean Jacques Rousseau (1712-78).

Đối với Shoeki, mọi âm thanh của thế giới tự nhiên là những ký hiệu: Không có gì trong Thiên địa/Tenchi giữa loài người, chim , thú, vật, cá, cây cỏ lại không sinh ra âm. Không có âm nào mà con người ta không thể hiểu (trong Shizen Shin Ei Do). Con người theo tự nhiên không chỉ giới hạn ở diễn ngôn của người, mà có thể hiểu mọi thông điệp của mọi vật trong tự nhiên, thông hiểu và thông giao với mọi hiện sinh. Theo Shoeki, tự nhiên, ngôn ngữ và nhân thân không tách rời nhau.Phá hoại thiên nhiên, gây xáo trộn quan hệ giữa người và tự nhiên là kết quả của những sai lầm cơ bản trong tri giác của con người về tự nhiên và ứng xử phi nhân dựa trên những lầm lẫn tri giác này. Ông cho là toàn thể nhân loại bệnh hoạn cả về tâm hồn lẫn thể xác: Không có con người chân chính, tất cả đều bệnh hoạn/To Do Shin Den, Kyu Sei Shitsu kan.

Ở thế kỷ 21 này, những báo động về sinh thái, về trái đất nóng dần, những hủy hoại tự nhiên đang diễn ra, phải chăng những nhà tư tưởng như Shoeki đã từng tiên liệu từ nhiều thế kỷ trước?

                 Hết phần chữ A.

Từ điển triết học giản yếu
23 (tiếp theo)



Chữ B

B/Bamalip: Chữ đầu ở mỗi từ giúp nhớ mỗi cách trong tam đoạn luận. Bamalip là dạng thứ tư (a/a/i: hai tiền đề có tính phổ quát, mệnh đề kết luận có tính đặc thù) rút ra từ Barbara (xem dưới đây) do chuyển vị/transposition những tiền đề và chuyển hoán/conversion từng phần của kết luận:
                 Tất cả P  là M
                 Tất cả M là S
               Vậy vài S là P
S: chủ từ, P: thuộc từ và M là trung từ trong ba hạn từ của tam đoạn luận.
Ví dụ:               Nếu tất cả trái cây (P) đều có thể ăn được (M)
                         Thì mọi thứ ăn được (M) đều đáng thèm (S)
                         Vậy một vài thứ đáng thèm (S)  là trái cây (P)
Tương ứng với quy tắc sau đây của luận lý sơ đẳng về lượng:
                        (Λx(Hx→Gx)^Λx(Gx→Fx))→vx(Fx^Gx)
đúng như khi dùng những chữ S, P và M diễn tả trong luận lý cổ điển là:
                 (PaM ^ MaS) → SiP
trong đó trật tự a/a/i được dùng trong từ Bamalip để dễ nhớ.
                           (theo José Ferrater Mora, Diccionario de Filosofía de bolsillo)

Baralipton: Cách gián tiếp của dạng thứ nhất (xem: những dạng này trong những phần về dạng thức tam đoạn luận) do chuyển hoán kết luận của tam đoạn luận tương ứng ở Barbara:
                 Tất cả M là P
                 Tất cả S là M
               Vậy vài P là S
Cách này tương đương với Bamalip (nói đến ở trên) vì tiểu từ theo định nghĩa là chủ từ của kết luận, cho nên hai tiền đề trao đổi chức năng , tiền đề thứ nhất trở thành tiểu tiền đề theo chuyển hoán này, và tiền đề thứ hai trở thành đại tiền đề.

Barbara: Cách thứ nhất của dạng thứ nhất trong tam đoạn luận:
                 Tất cả M là P
                 Tất cả S là M
         Vậy Tất cả S là P
Ví dụ:
                 Nếu tất cả mọi người đều phải chết
                 Và mọi người Tàu đều là người
                 Vậy mọi người Tàu đều phải chết
Tương ứng với quy luật:
                    (Λx(Gx→Hx)^Λx(Fx→Gx)) →Λx(Fx→Hx)
diễn tả trong luận lý cổ điển:
                 (MaP ^ SaM) → SaP
trong đó trật tự a/a/a dùng trong từ Barbara cho dễ nhớ.

Barbari: Cách sai đẳng của dạng thứ nhất, nhận đượcdo phụ thuộc vào kết luận của Barbara:
                 Tất cả M là P
                 Tất cả S là M
                 Vậy vài S là P
Luận lý học của phái Port-Royal  đặt tên Barbari cho cách của dạng thứ tư theo AAI (Bamalip) qua ví dụ: “Tất cả phép lạ của tự nhiên là bình thường; thế mà tất cả cái gì bình thường không gây cho chúng ta xúc động; vậy, có những sự không gây chúng ta xúc động, và đó là những phép lạ của tự nhiên.” Theo Lalande, đây là một sai lầm, bởi vì chuyển vị những tiền đề (M) và chuyển hoán kết luận (P) thiết yếu để đi từ Barbara sang một cách lập thành như vậy. Trái lại, Leibniz dùng từ Barbari theo nghĩa xác định ở trên.

Baroco/Baroko: Cách của dạng thứ hai, dẫn về Barbara do thoái hóa hay giảm trừ vào phi lý:
                 Tất cả P là M
                 Vài S không là M
           Vậy vài S không là P
Ví dụ:
                 Nếu tất cả loại rượu là có hại
                 Và vài loại nước khoáng không có hại
                 Vậy thì vài loại nước khoáng không thuộc loại rượu
Tương ứng với quy luật:
     ((^x(Hx→Gx)^vx(Fx^]Gx))→v x(Fx^]Hx,
diễn tả trong luận lý cổ điển:      
                 (PaM ^ SoM) →SoP
trong đó a/o/o dùng trong từ Baroco để nhớ theo thứ tự PM-SM-SP.

Bocardo/Bokardo: Cách của dạng thứ ba dẫn về Barbara qua thoái hóa (giảm trừ vào vô lý):
                 Vài M không là P
                 Tất cả M là S
                   Vậy vài S không là P

Nhóm từ ngữ La tinh
Beneficium accipere lībertātem est vendere: nhận một ân sủng là bán tự do của mình.
Bene quī latuit bene vīxit: người sống một cuộc đời ẩn dật, sống thoải mái – trong Tristia của Ovid và như một châm ngôn đối với Descartes
Bona fidēs: thiện ý
Bonum: thiện

Nhóm từ ngữ hy lạp
Bios: sống, cách sống

Nhóm từ ngữ phạn
Baddha; giới hạn
Baddha-jīva: con người cá thể bị hạn chế
Bādha: mâu thuẫn; giả
Bādhaka: tương ứng với từ Aufhebung trong tiếng Đức của Hegel để chỉ phủ định, thăng hoa
Bādhaka-pratīti: nhận thức thăng hoa; Bādhāyām sāmānādhikaranya là một lý luận ngữ pháp của phái vô nhị Advaita Vedanta lý giải những pháp ngôn trong Upanisad, ví dụ sơ khởi người ta tri giác một vật như cái cột, sau đó nhận ra là con người; tri giác sơ khởi đã thăng hoa/bādhita để chỉ lý mâu thuẫn, thăng hoa.
Bahih-prajñā: nhận thức ngoại tại
Bahir-dravyatva: bản thể ngoại tại
Bāhyānumeya-vāda: một bộ của Tiểu thừa, còn gọi là Kinh lượng bộ/sautrāntika xây dựng trên tri thức học duy thực. Bao gồm thực tại, độc lập với tinh thần và khách thể ở bên ngoài/bāhya ý thức và chỉ nhận biết qua những chức năng của giác quan.
Bāhyapratyaksa-vāda: một bộ của Tiểu thừa duy thực, còn gọi là Tỳ-bà-sa luận, coi đối tượng ở bên ngoài tinh thần và ý thức, nhưng phải trực tiếp, không qua tham chiếu
Bandha: câu thúc thuộc bốn loại: tự nhiên/prakti-bandha, không gian-thuộc lượng/pradesa-bandha, thời gian-thuộc phẩm/sthiti-bandha, tập trung vào thực hiện/anubhāga-bandha. Đa số trường phái triết học Ấn liên kết câu thúc với ngu dốt/avidyā, chỉ thân phận hữu hạn, u minh của con người.
Bhagavān: Thế Tôn, từ căn ngữ: bhag< sở hữu.
Bhakti: lòng sùng bái, tận tụy, từ căn ngữ: bhaj
Bhāsya: bình luận →Bhāsyakāra: bình luận gia.
Bhāva: hiện hữu, cảm xúc, thái độ, từ căn ngữ: bhū
Bhāvanā: trầm tư, hồi ức. Theo Kỳ na giáo, đó là một loại tri thức bằng lời, giai đoạn nhận biết bản nhiên của một hiện tượng quen thuộcđể một hiện tượng mới được biết qua liên tưởng với nó ngõ hầu có thể hiểu được. Theo phái Vaisesika, đó là một mẫu gạch/guna từ ấn tượng tiềm ẩn/samskāra, phẩm tính của bản ngã nhờ đó sự vật thường xuyên được thực hành, nhận biết.
Bhāva-padārtha: thực thể hiện hữu.
Bhāvarūpa: hình thái hiện hữu; theo phái bất nhị Advaita Vedanta, đây là một thuộc tính của ngu dốt/avidyā.
Bheda: khu biệt, phân liệt. Khái niệm then chốt của phái nhị nguyên Dvaita Vedānta, gồm năm mặt: khu biệt giữa Chí tôn và cá thể, giữa những cá thể khác nhau, giữa Chí tôn và vật chất, giữa cá thể và vật chất, và giữa chính vật chất với vật chất trong những hình thái đa dạng của nó. Có ba loại: khu biệt nội tại/svagata-bheda; khu biệt hiện hữu giữa hai đối tượng cùng loại/sajātīya-bheda; khu biệt hiện hữu giữa hai đối tượng thuộc các loại khác nhau/vijātīya-bheda.
Bhedābhava: Khuyết nhị nguyên hay khu biệt.
Bhedābheda: quan hệ của thống nhất trong khu biệt (tương ứng với quan niệm: đồng qui nhi thù đồ); khu biệt-với-phi khu biệt; nhất thể trong phức thể. Phái Bhatta Mīmāmsaka, Nimbīrka có quan điểm này.
Bhedābheda-vāda:lý luận phi khu biệt trong khu biệt.
Bhedād-anyah: Một cái gì khác khu biệt.
Bhedāgrahana: Phi lĩnh hội khu biệt.
Bheda-sahisnu: Tương hợp với khu biệt.
Bheda-samsarga: Quan hệ nhị nguyên.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                
Bheda-virodhi: cái đối lập với khu biệt
Bhoga: lạc thú; kinh nghiệm
Bhogabhūta: hành động phi ý chí
Bhoga-sthāna: sở cứ của lạc thú
Bhoga-vastu: đối tượng của sở cứ
Bhogopakarana: phương tiện của lạc thú
Bhogya: đối tượng của kinh nghiệm
Bhrama: sai lầm; ảo tưởng, huyễn tượng
Bhūta: yếu tố; nguyên tắc yếu tố hay sự vật cụ thể xuất phát từ sự thống nhất trừu tượng, siêu hình thông qua một quá trình đặc thù hóa và giới hạn vô cùng
Bhūtādi: trạng thái quán tính/tamas thống trị thuần khiết/sattva và hoạt động/rajas. Từ trạng thái này dấy lên những yếu tố tế vi/tanmātra, theo phái Sānkhya
Bhūta-pañcaka: năm yếu tố: đất/pŗthivī, khí/vāyu, lửa/tejas, nước/ap, và ê-the/ākāśa (không gian) – đó là những thành tố cấu tạo nên vũ trụ vật lý; theo vũ trụ luận của phái Sānkhya, những thành tố này rút ra từ những yếu tố tế vi nói trên
Bhūtārtha-vāda: tình trạng của một sự kiện chưa được rõ; để chỉ lý luận về những đối tượng hiện hữu
Bhūta-tathatā: Tính thể (dịch sang tiếng Anh là “that”-ness) của những thành tố; theo Kurt F. Leidecker (trong Dictionary of Philosophy, edited by Dagobert D. Runes), dich sang tiếng Anh là “So-ness” là tình trạng cao nhất được Duy thức tông/Vijñāna-vāda quan niệm, coi như một trùng hợp đối lập/coincidentia oppositorum của hữu và những yếu tố tri thức; còn coi là trực tiếp đồng nhất với A-đề Phật/Adi-Buddha, hay Phật bất hoại, vô lượng thọ trong phái Kim cương thừa
Bhuvah: thế giới chuyển hóa< Bhuvana: vũ trụ, thế giới
Bimba-pratibimba-vāda: lý luận về nguyên ủy và phản ảnh, theo phái vô nhị ý thức được coi là phản ảnh trong những điều kiện ngẫu nhiên. Theo quan niệm này, cá thể là một phản ảnh của trí khôn hiện diện nơi ngã tính, do không có khác biệt giữa phản ảnh và nguyên ủy nên hồn cá thể/jīva không khác với Tuyệt đối/Brahman/Đại ngã

Từ ngữ Nga/Anh/Đức
Ъазис/basis/Grundlage: cơ sở, nền tảng
Ъезбóжие/atheism/Gottlosigkeit: vô thần
Ъезграничный/unlimited/grenzenlos: vô hạn
Ъезнравственность/Immorality/Unsittlichkeit/: vô luân
Ъезуслόвный/unconditional/unbedingt: vô điều kiện
Ъесклассовое όбщество/classless society/klassenlose Gesellschft: xã hội phi giai cấp
Ъесконéчность/infinity/Unendlichkeit: vô cùng
Ъеспредéльный/boundless/grenzenlos: vô biên
Ъеспричинный/uncaused/unverursacht: phi nguyên nhân
Ъессмéртие/immortality/Unsterblichkeit: bất tử
Ълáга/goods/Güter: thiện
Ъог/god/Gott: thượng đế
Ъогослóвие/theology/Theologie: thần học
Ъытиé/being/Sein: hữu thể
Ъытиé общéственное/social being/gesellschaftliches Sein: hữu thể xã hội
Вáжность/importance/Wichtigkeit: quan trọng
Введéние/introduction/Einführung: dẫn nhập
Вековéчный/eternal/ewig: vĩnh cửu
Вéра/faith/Glaube: niềm tin
Вéрность/fidelity/Treue: trung tín
Вéрный/correct, true; faithful/richtig, wahr; treu: đúng/thực/trung thành
Вéчность/eternity/Ewigkeit: vĩnh cửu
Вéчные истины/eternal truths/ewige Wahrheiten: chân lý vĩnh cửu
Веществó/matter/Dinglichkeit: vật chất/chất thể
Вещь/thing/Ding: sự vật
Вещь в себé/thing-in-itself/Ding an sich: vật tự nội
Вещь для нас/thing for us/Ding für uns: vật đối với ta
Взаимность/reciprocity/Gegenseitigkeit: Tương hỗ
Взаимодéйствие/interaction/Wechselwirkung: Hỗ tác
Взаимозависимость/interdependence/gegenseitige Abhängigkeit: Phụ thuộc lẫn nhau
Взаимообуслóвленность/mutual conditioning/gegenseitige Bedingtheit: Quy định hỗ tương
Взаимоотношéние/inter-relation/Wechselbeziehung: quan hệ hỗ tương
Взаимоотношéние теóрии и прáктики/inter-relation of theory and practice/Wechselbeziehung von Theorie und Praxis: quan hệ hỗ tương giữa lý luận và thực tiễn
Взаимоперехóд/mutual transition/penetration/Ineinander-Übergehen/gegenseitiges Durchdringen: thấu triệt/xâm nhập hỗ tương
Взаимосвязь/correlation/Wechselbeziehung: Tương quan
Взгляд/view/Sicht;Ansicht: Nhìn; thị kiến
Вздор/nonsense/Unsinn: Vô nghĩa
Вид/appearance;species/Aussehen;Art: bộ diện; loại
Видимость/appearance;visibility/Schein;Sichtbarkeit: Bề ngoài; khả thị
Видовóе понятие/specific concept/Artbegriff: khái niệm đặc thù
Видоизменéние/alteration;modification/Veränderung;Modifizierung: biến chuyển
Видообразовáние/formation of species/Artenbildung: hình thành chủng loại
Власть/power/Macht: quyền lực
Влияние/influence/Einfluß: ảnh hưởng
Вмешáтельство/interference/Eingreifen: giao thoa;can thiệp
Внéшний мир/external world/Außenwelt: ngoại giới
Внýтренний/internal;intrinsic/inner:nội tại
Воээрние/view/Anschauung:quan niệm
Воэмóжность/possibility/Möglichkeit: khả hữu
Воэникновéние/origin;genesis/Ursprung;Entstehen: nguồn gốc;khởi sinh
Вóльность/liberty/Freiheit: tự do
Вóля/will/Wille: ý chí
Воображéние/imgination/Einbildungskraft: tri tưởng
Воспиятие/perception/Wahrnehmung: tri giác
Впечатлительность/receptivity;sensibility/Empfänglichkeit;Sensibilität: cảm thụ;cảm giác
Враэумительный/intelligible/einsichtig: khả tri
Врéмя/time/Zeit: thời gian
Всвéдение/omniscience/Allwissenheit: toàn trí
Вселéнная/universe/Weltall: vũ trụ
Всеóбщая свяэь явлéний/universal connection of phenomena/universeller Zusammenhang der Erscheinungen: liên kết phổ quát những hiện tượng
Всеóбщность/generality;universality/Allgemeinheit;Universalität: tổng quan; phổ quát
Всесторóнный/comprehensive/allseitig: hàm súc
Выбор/choice/Wahl: chọn lựa
Вывод/inference/Schlußfolgerung;Ableitung: suy luận;diễn dịch
Вывóдимость/deducibility/Ableitbarkeit:tính khả suy
Вымыселл/fiction/Erfindung;Erdichtung: giả tưởng
Выражéние/expression/Ausdruck: biểu hiện
Выскáэывание/proposition/Aussage: đề nghị
Выяснéние/explication/Erklärung: giải thích

Những từ Tây ban nha
Bello: cái đẹp, cái mỹ
Bicondicional: lưỡng kiện. Es el nombre que recibe la conectiva binaria (o conector binario) ‘si y sólo si’ – từ để chỉ sự liên kết đôi ‘nếu và chỉ nếu’ qua ký hiệu ≡ (cũ) và nay là ↔: p↔q có nghĩa là: ‘p nếu và chỉ nếu q’ qua ví dụ: X là cha của Y nếu và chỉ nếu Y là con của X. Điều kiện đôi này tương đương với cặp điều kiện theo cách:                      (p↔q)↔((p→q) ^ (q→p))
Bien: thiện; tương ứng với những từ ‘la bondad’ và ‘lo bueno’.
Buena voluntad: thiện chí, trong Fundamentación de la metafísica de las costumbres/Cơ sở siêu hình của đạo đức, Kant mở đầu phần thứ nhất: “Ni en ninguna parte en el mundo ni, en general, inclusive fuera del mundo es posible pensar algo que se pueda considar sin restricción como bueno excepto una buena voluntad” (Trong bất cứ thành phần nào của thế giới nói chung hay kể cả ngoài thế giới, không thể khả hữu tư duy cái gì là thiện, không hạn chế, ngoại trừ một thiện chí).

Bachelard, Gaston: Triết gia Pháp, sinh năm 1884 ở Bar-sur-Aube, làm việc ở Bưu điện rồi trở thành giáo sư môn vật lý sau khi tốt nghiệp kỹ sư và toán học, ông đậu thạc sĩ triết năm 1922. Đệ trình hai luận án triết về khoa học có nhan đề Essai sur la connaissance approchée/Luận về tri thức tiếp cậnÉtude sur l’évolution d’un problème de physique: la propagation thermique dans les solides/Khảo về tiên hóa của một vấn đề vật lý học: phát nhiệt trong những chất rắn năm 1928, ông giảng dạy tại đại học Dijon từ năm 1930, rồi ở Sorbonne những năm 1940-1954.
Bachelard sống vào thời đại khoa học tự nhiên có những bước tiến nhẩy vọt về mọi mặt trong toán học, vật lý học, hóa học nên ông đã ý thức một thái độ khoa học mới, thể hiện trong những tác phẩm Le nouvel Esprit scientifique, 1934; La Philosophie du Non. Essai d’une Philosophie du Nouvel Esprit scientifique, 1940. Tinh thần duy lý và thực nghiệm thật ra đã có truyền thống lâu đời từ Descartes, xu hướng thực chứng từ Comte, và trước Bachelard đã có những Claude Bernard, Duhem, Rey, Bergson, Poincaré, Brunschvicg, Meyerson. Khi đề ra một tinh thần khoa học mới, Bachelard muốn đưa ra một tranh biện phê phán quan điểm của những người đi trước bằng một cuộc cách mạng trong cách nghĩ và viết, về mặt tri thức luận/épistémologie cũng như về mặt lịch sử những khoa học. Ông phê phán tinh thần duy linh và duy tâm của những triết gia về triết học khoa học và khẳng định: “Một triết học muốn thực sự tương ứng với tư tưởng khoa học trong tiến hóa kiên định phải xét nghĩ phản ứng của những tri thức khoa học trên cấu trúc tinh thần/Une philosophie qui veut être vraiment adéquate à la pensée scientifique en évolution constante doit envisager la réaction des connaissances scientifiques sur la structure spirituelle”. Điều đó muốn nói đến việc triết học phải biến đổi để phản ảnh được vận động của tư tưởng hiện tại. Cho nên mục đích đề ra ngay từ tác phẩm trước (1934) suy nghĩ về tinh thần khoa học mới nhằm thực hiện cái thuần lý này, và trong một định thức ở tác phẩm sau (1940) là tinh thần phải phục tòng những điều kiện của tri thức. Khi xác định những điều kiện tri thức luận của tiến bộ khoa học, Bachelard phát hiện một đoạn tuyệt của khoa học hiện đại với khoa học cổ điển, tri thức thông tục về nhiều mặt. Điều mà ông gọi là “bất liên tục tri thức luận/discontinuité épistémologique “ (chẳng hạn giữa vật lý học và vi vật lý học) cho chúng ta một sự giải phóng choáng ngợp: “giải phóng tinh thần đối với chính nó”. Quan niệm bất liên tục tri thức luận này của Bachelard đối lập với những quan niệm liên tục của Brunschvig, Bergson, Duhem hay Meyerson và có ảnh hưởng sâu rộng tới những nhà triết học về sau như Canguilhem hay Althusser.
Trong tác phẩm dẫn trên Triết học của cái Không như một tuyên ngôn của tinh thần khoa học mới, biểu hiện hành vi đoạn tuyệt trong khoa học, nói không với hình học chẳng hạn, nên có hình học phi Euclide, có vật lý phi Maxwell và cơ học phi Newton như thuyết tương đối của Einstein, cơ học lượng tử và ba động phi tất định, hoá học phi Lavoisier, luận lý học phi Aristote v.v..   Trong Tinh thần khoa học mới Bachelard phê phán thuyết duy thực chủ trương mọi sự do kinh nghiệm trực tiếp và thuyết duy lý tin tưởng có thể suy luận mọi sự khởi từ những phương thức tư tưởng giả định là vĩnh cửu: “Chính ở đó có thể nắm được vật lực luận mới của những triết học tương khắc này, cái vận động kép mà khoa học đơn giản hóa cái thực và phức tạp hóa lý trí.”
Triết học khoa học của Bachelard có xu hướng duy vật, song đã giải vật hóa/dé-matérialisation, có xu hướng duy lý, song là một duy lý chủ nạp/inducteur, phản Descartes/anticartésien (như ông phê phán trong sách dẫn trên: phương pháp của Descartes là quy nguyên/réductive, không có gì là quy nạp. Một giảm trừ như vậy làm sai lạc phân tích và ngăn trở sự phát triển mở rộng của tư tưởng khách quan).
Chính Bachelard mô tả lý luận của ông là một phân tâm học tri thức/psychanalyse de la connaissance  hiểu theo nghĩa phát hiện những nguyên mẫu/archétype – Jean Hyppolite trong những chương sách viết về Gaston Bachelard gọi triết học Bachelard là một chủ nghĩa lãng mạn của trí năng/romantisme de l’intelligence ở tác phẩm Figures de la pensée philosophique II, 1971 (ba chương: G. Bachelard ou le romantisme de l’intelligence; L’épistémologie de G. Bachelard; L’Imaginaire et la science chez G. Bachelard). Theo Hyppolite, đó là một lý luận siêu nghiệm của tri tưởng sáng tạo, một quyền năng từ khước mọi giới hạn cho một tri tưởng sáng tạo mở ra không ngừng những viễn cảnh mới và phủ nhận mọi khép kín, mọi phủ định giam hãm tư tưởng trong một vòng đai kín, hay ngay cả trong một hệ thống – chủ nghĩa lãng mạn này không đối lập với chủ nghĩa duy lý.
Hyppolite cũng muốn nói rõ tri tượng sáng tạo ông dùng ở đây có lưỡng tính hàm hồ, vì thực sự những tác phẩm của Bachelard cũng phong phú hàm hồ, vì một đằng là những sách viết nghiêm túc bênh vực một quan điểm triết lý về những khoa học chỉ ra một chủ nghĩa duy lý ứng dụng/rationalisme appliqué, một chủ nghĩa duy vật thuần lý/matérialisme rationnel, mặt khác là những tác phẩm về phân tâm học lửa, nước và những giấc mơ, khí trời và mộng, đất và những mơ mộng của ý chí, sáng tạo thi vị của mơ mộng khởi từ 1938 cho đến năm ông mất vào năm 1962 (như  La Psychanalyse du feu, 1938; L’Eau et les Rêves. Essai sur l’imagination de la matière, 1942; L’Air et les Songes. Essai sur l’imagination du mouvement, 1943; La Terre et les Rêveries de la volonté. Essai sur l’imagination des forces, 1948; La Terre et les Rêveries du repos. Essai sur les images de l’intimité, 1948; La Poétique de l’espace, 1957; La Poétique de le rêverie, 1960). Không có gì mâu thuẫn nơi con người cũng như tác phẩm của Bachelard trong việc nghiên cứu song hành giữa những khoa học (đặc biệt như ông chú trong đến vai trò toán học trong phát minh khoa học) và tri tưởng sáng tạo vì ông nhận ra tính phân cực của trí năng và tri tưởng/polarité de l’intellect et de l’imagination. Ông xác định: vấn đề tri thức ngoại giới  không thể tách rời những đặc tính văn hoá của nó. Những tiểu đề dưới mỗi tác phẩm dẫn trên của ông, như khảo về tri tưởng của vật chất (trong tác phẩm 1942 về Nước và Mơ), của vận động (trong tác phẩm 1942 về Khí trời và Mộng), của lực (trong tác phẩm 1943 về Đất và Mộng) chỉ ra sự kết hợp giữa tinh thần khoa học mới xây dựng trên một dự tính/se fonde sur un projet với một tri tưởng ngoại giới  tự tri tưởng trong mơ mộng của người/s’imaginer dans la rêverie humaine. Bachelard cũng chỉ ra ảnh tượng sáng tạo  rút ra từ một hữu thể luận trực tiếp. Nếu tinh thần khoa học mới nhằm lĩnh hội một điều gì ở tinh thần con người thì văn chương, như thơ chẳng hạn là một hiện tượng luận của tâm hồn/phénoménologie de l’âme.
Những triết gia sau ông thẩm định vị trí của ông, như yêu cầu một triết học đồng hành với khoa học của ông không nhằm làm tê cóng những triết gia cùng thời mà nhằm kích động họ, vì quá khứ của văn hóa có chức năng sửa soạn một tương lai cho văn hóa, và Bachelard không ngừng sống theo đuổi công trình triết học đồng hành với công trình khoa học (nhận xét của Georges Canguilhem) hay tác phẩm của ông chiếm một vị trí chiến lược trong trường hợp lý luận ở nước Pháp (nhận xét của Dominique Lecourt).
Ngoài những tác phẩm dẫn trên của Gaston Bachelard, phải kể đến: La Valeur inductive de la relativité, 1929; Le Pluralisme cohérent de la chimie moderne, 1932; Les Intuitions atomistiques, 1933; La Dialectique de la durée, 1936; L’Expérience de l’espace dans la physique contemporaine, 1937; La Formation de l’esprit scientifique, 1938; Lautréamont, 1940; Le Rationalisme appliqué, 1949; L’Activité rationaliste de la physique contemporaine, 1951; Le Matérialisme rationnel, 1953; La Flamme d’une chandelle, 1961; xuất bản sau khi mất: Le Droit de rêver, 1970; L’Engagement rationaliste, 1972.

Bachelard, Suzanne: sinh năm 1919, là con gái của triết gia Gaston Bachelard. Như  Hyppolite nhớ lại kỷ niệm ông lui tới căn nhà ở Montagne Sainte-Geneviève của Gaston Bachelard, ông thường gặp Suzanne sát cánh với cha trong công việc. Bà là một nhà hiện tượng luận, lý giải tư tưởng luận lý của Husserl, đặc biệt trong hai tác phẩm: dịch Formale und transzendentale Logik/Luận lý hình thức và siêu nghiệm của Husserl cùng với La Logique de Husserl, étude sur “Logique formelle et logique transcendentale/Luận lý học Husserl, nghiên cứu tác phẩm “Luận lý hình thức và luận lý siêu nghiệm, cả hai xuất bản năm 1957.
Trong tác phẩm La conscience de rationalité, Etude phénoménologique sur la physique mathématique/Ý thức thuần lý, nghiên cứu hiện tượng luận về khoa vật lý toán học năm 1958, Suzanne Bachelard quan niệm mọi khoa học thuần lý là khoa học phân nhánh, ảnh hưởng tư tưởng Husserl cũng như chính thân phụ của bà.
Suzanne Bachelard dạy triết ở Cao đẳng Sư phạm Sèvres, Đại học Văn khoa Lille và Đại học Sorbonne. Bà mất năm 2007 và mai táng cạnh thân phụ ở Bar-sur-Aube.
Những tác phẩm khác: Les Polémiques concernant le principe de moindre action au XVIIIè siècle, 1960; La Représentation géométrique des quantités imaginaires, au début du XIXè siècle, 1966.
Từ điển triết học giản yếu
24 (tiếp theo)


Ba Lan, Triết học:  Ba Lan đã có một truyền thống triết học lâu đời như Anh, Pháp và Đức, có thể kể khởi điểm của phát triển triết học là năm sáng lập ra Đại học Kraków vào 1364. Tuy nhiên tham dự vào sinh hoạt trí thức vào thời Trung cổ của những học giả Ba lan dã bắt đầu sớm từ thế kỷ 13. Triết gia sáng giá nhất thời này là Witelo, còn gọi là Erazmus Ciolek Witelo/Witelon/Vitellio/Vitello Thuringopolonis/Vitulon, cha đến từ Thuringia và mẹ con nhà quyền quý Ba lan nên ông còn gọi là filius Thuringorum et Polonorum/người con của Thuringia và Ba lan. Ông sinh khoảng 1230 ở Borek trong vùng hạ Silesia, mất trong khoảng 1280-1314. Ông là bạn thân của William of Moerbeke, dịch giả tác phẩm Aristote (ông đã viết một thiên siêu hình học về ánh sáng Perspectiva để tặng William). Perspectiva hoàn tất chung quanh thập niên 70s dựa trên quang học của Ibn al-Haytham, có những tranh luận siêu hình theo Platon, quan niệm mọi vật phát sinh từ Thiên quang; ánh sáng là thực thể thứ nhất của mọi thực thể khả giác. Matthew ở Kraków/Matthäw von Krakow (1335-1410) là một học giả danh tiếng ở thế kỷ 14, có nguồn gốc Đức và từng dạy tại Đại học Heidelberg và tham chính dưới triều Ruprecht. Ông viết những biên khảo thiên về thần học như De consolatione theologiae, De modo confitendi, De puritate conscientiae v.v..        
Thế kỷ 15 là thời nở rộ của triết học Kinh viện tại Ba lan với Matthaeus von Urakau (mất năm 1410). Những nhà triết học tiêu biểu như Andrew von Kokorrzyn, Benedyk Hesse, Jan ở Glogów, Michal Twaróg, Jan ở Stobnica, Grzegorz ở Stawiszyn v.v..  tiêu biểu cho những trào lưu tư tưởng kế thừa Thomas, Scot, Averroès đến những xu hướng duy danh hay thường nghiệm, theo lối cổ/via antiqua hay theo hiện đại/via moderna. Ở nửa đầu thế kỷ, phong trào hiện đại phát triển, trong vật lý, luận lý, đạo đức. Phái duy danh chịu ảnh hưởng của nhà tư tưởng Pháp Jean Buridan, quan niệm xung lực/impetus là lực tạo vật thể chuyển động, tỷ lệ với vận tốc của vật thể được Jan Kanty (1390-1473) quảng diễn ở Kraków. Ở nửa sau thế kỷ, phái kinh viện cổ ưu thắng với những học thuyết của Thomas (như Jan ở Glogów, Michal ở Wroclaw), Albert (như Jakub ở Gostynin), và Scotus (như Michal Twaróg, Jan ở Stobnica), phái duy danh  (với Jacques Lefèvre d'Eùtaples, Jan Szyling, Grzegorz ở Stawiszyn). Chủ nghĩa Kinh viện còn tồn tại trong những thế kỷ 16, 17 và một phần của thế kỷ 18 ở Kraków, trong những Đại học Dòng Tên, Đa minh và Phan xi cô.
Sang thời đại Phục hưng, trào lưu kinh viện suy thoái khi những sinh hoạt nhân văn, nghệ thuật phát triển vào thế kỷ 16. Tinh thần nhân bản thực sự đã khởi từ giữa thế kỷ 15, thúc đẩy những nghiên cứu về ngữ học, chính trị học, và khoa học tự nhiên thường nghiệm. Nhà tư tưởng danh tiếng nhất của xứ sở là Mikolaj Kopernik/Nicolaus Copernic (1473-1543), mặc dầu ông không chú trọng đến những vấn đề triết học chủ yếu, song khoa thiên văn học của ông khởi từ những nguồn triết học, qua Marsilio Ficino, ông nhận biết triết học Platon và Pythagore, qua Cicéron và Plutarque ông học hỏi ở những nhà cổ đại đã sớm có quan niệm về chuyển động của trái đất. Lý luận nhật tâm/heliocentric đã làm con người biến đổi cái nhìn về cấu trúc của vũ trụ. 
Andrzej FryczModrzewski/Andreas Fricius Modrevius (1503-1572) sinh  trưởng ở Wolbórz là một học giả dưới thời Phục hưng theo học Học viện Kraków, từng sống ở Đức, theo học tại Đại học Luther. Năm 1541 trở về Ba lan, ông làm việc trong triều Sigmundus Augustus năm 1547 tới 1553 về hưu tại quê nhà. Ông viết những tác phẩm như Lascius sive de poena homicidii/Laski albo o karze za mezobojstwo/Luận về hình phạt đối với tội sát nhân, 1543; De Republica emendanda/O poprawie Rzeczpospolitej/Luận về canh cải nền Cộng hòa, 1554 có ý phê phán luật lệ bất bình đẳng đối những giai tầng xã hội khác nhau (chẳng hạn hình phạt giết một nhà quý tộc từ phạt vạ 120 grzywna, tù chung thân hay bị tử hình, trong khi giết một nông dân chỉ bị phạt vạ 10 grzywna), hay canh cải toàn diện Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của mọi giới, từ sở hữu đến tham chính, cải tổ giáo dục, đòi hỏi phân biệt đời và đạo v.v..
Tuy tư tưởng Platon được sùng bái ở những nước như Ý vào thế kỷ 16, ở Ba lan qua Adam ở Lowicz song triết học Aristote phi kinh viện vẫn thịnh hành qua Szymon Maricius (1516-1573) và Sebastian Petrycy ở Pilzno (1554-1626) là người giảng dạy tư tưởng này trong những lý luận về nhận thức, về thường nghiệm và quy nạp, trong tâm lý học về cảm giác và ý chí, trong chính trị học về những ý niệm dân chủ. Petrycy đã hoàn thành việc dịch thuật Aristote, đưa vào những thuật ngữ triết tiếng Ba lan cũng phong phú như tiếng Pháp hay tiếng Đức.
Một trào lưu khắc kỷ mới thịnh hành trong những tư trào thời Phục hưng với những đại biểu như Jakub Górski (khoảng 1525-1585), viết những tác phẩm về biện chứng (như Commentatorium Artis Dialecticae Libri Decem, 1563), ngữ pháp, tu từ học, có ý liên kết chủ nghĩa khắc kỷ với triết học Aristote. Một nhà triết học khác là Adam Burski
(khoảng 1560-1611) ở Zamosc, tác giả Dialectica Ciceronis, 1604 nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp coi như tiên khu của Bacon, thuyết cảm giác và thường nghiệm khắc kỷ. Ông cũng sớm nhận thức tầm quan trọng và đặc sắc của Luận lý khắc kỷ (trước Lukasiewicz ở thế kỷ 20) và coi luận lý mệnh đề là phần cơ bản của luận lý diễn dịch.
Về triết học chính trị, xu hướng nhân bản còn sản xuất những tác phẩm lý thú như De optimo senatore, 1568 của Wawrzyniec Grzymala Goslicki (1530-1607), lý luận về một Nhà nước mới của Jan Ostroróg.
Trong thời quá độ từ thế kỷ 16 qua thế kỷ 17, Ba lan trở thành một trung tâm quốc tế của phong trào Cải cách triệt để gọi là Fratres Poloni/Huynh đệ Ba lan, có thể coi như những người tiên khu của những phong trào chống Gia-tô/Tam vị nhất thể theo Socinus/Socinians, Nhất thể/Unitarians, Thần luận/Deists là những trào lưu trí thức và chính trị sáng giá của Anh, Mỹ ở những thế kỷ 17, 18 và 19. Phong trào Huynh đệ Ba lan có nhiều nhà tư tưởng tích cực trong những hoạt động trí thức, giao tiếp với những nhà triết học Tây Âu, có đạo lý xã hội chủ trương bất bạo động, công bằng xã hội, khoan dung và tự do nghiên cứu. Những quan điểm về những vấn đề triết học và xã hội, hòa nhi bất đồng, tạo những tranh luận sinh động ở Ba lan cũng như ra ngoài nước có ảnh hưởng sâu sắc đối với sinh hoạt tư tưởng ở Âu châu. Những khuôn mặt nổi bật như Jan Jonston (1603-1675) với tác phẩm Naturae Constantia, 1632 xuất bản ở Amsterdam với phương pháp hình học và những khái niệm phiếm thần, duy nhiên về vũ trụ hẳn đã ảnh hưởng tới triết gia Spinoza sau này.
Sau những thập niên đầu của thế kỷ 17, chiến tranh, xâm lăng, phân hóa nội bộ đã làm Cộng hòa Ba lan suy thoái về chính trị xã hội, triết học bị cô lập trong thế kỷ thường được mệnh danh là thế kỷ của thiên tài, do xu hướng Kinh viện nổi lên, với những trường Dòng Tên độc quyền giáo dục. Tư tưởng cổ hủ của một loại Kinh viện hình thức, không hợp thời.
Sau hơn một thế kỷ suy thoái, triết học Ba lan hồi sinh vào giữa thế kỷ 18, với những thay đổi xã hội vào thời Khai sáng. Wawrzyniec Mitzlof de Kolof (1705-1770) cùng với hai nhà nghiên cứu khác là Antoni Wisniewski (1718-1774) và Piotr Switkowski (1744-1793) đã đưa tư tưởng triết gia Đức Christian Wolff vào Ba lan, Marcin Swiatkowki đề cao phương pháp luận Bacon. Dưới thời Poniatowski (1764-1795) trào lưu Khai sáng Ba lan chịu ảnh hưởng tư tưởng Pháp như Condillac, nhóm Bách khoa,  bãi bỏ việc cưỡng bách  giáo dục thần học. Triết học Khai sáng theo thường nghiệm và thực chứng với những nhà tư tưởng quan trọng như Jan Sniadecki (1757-1830) quan niệm con đường tư tưởng mới như xu hướng thường nghiệm Anh, Stanislaw Staszic (1775-1826) và Hugo Kollataj (1750-1812) lãnh đạo phong trào cải cách xã hội, thiên về triết học đạo đức và triết học lịch sử. Staszic đề cao vai trò giáo dục và tranh đấu của giới bị áp chế chống lại kẻ áp bức; Kollataj tổng hợp tư tưởng Condillac, Helvétius và phái trọng nông có những ý niệm tiên khu của lý luận lịch sử và văn hóa thế kỷ 19.
Triết học Kant du nhập khá muộn vì bị nhiều nhà triết học đương thời Ba lan kết án là có tinh thần nịch tín/fanatical, tối tăm và huyền ám, như Jan Sniadecki, Staszic, Kollataj, Aniol Dowgird. Chính Jan Sniadecki viết: Xét lại Locke và Condillac, muốn tri thức tiên nghiệm mọi sự mà bản chất con người chỉ có thể nhận được qua những hệ quả là một thác loạn tinh thần đáng thương. Tuy nhiên người em của ông là Jedrzej Sniadecki (1768-1838) cũng là một nhà khoa học chủ trương áp dụng những ý niệm của Kant vào những khoa học tự nhiên, nhìn ra mối quan hệ giữa lý trí và kinh nghiệm đã dự tưởng những điều mới mà phái tân Kant quan niệm vào thế kỷ 19. Jedrzej kết hợp ý niệm Kant với quan niệm lẽ thường của triết học Tô cách lan trong nhận xét “kinh nghiệm và quan sát chỉ có thể thu tập những chất liệu mà từ đó lẽ thường có thể xây dựng khoa học”. Những nhà triết học khác có thiện cảm với Kant như Jozef Kalasanty Szaniawski (1764-1843) đã từng theo học Kant tại Königsberg có ý giới thiệu cả tư tưởng chống siêu hình của Kant và siêu hình học mới của phái duy tâm sau Kant, Feliks Jaronski (1777-1827) giảng dạy tại Kraków, song tựu chung chủ nghĩa Kant với triết học Tô cách lan kết hợp ở Ba lan vẫn là nét đặc sắc duy nhất (theo Wladyslaw Tatarkiewicz, trong Zarys dziejów filozofii w Polsce/Lược sử triết họcBa lan).
Chủ nghĩa lãng mạn khởi sự vào cuối thời đại này với Maurycy Mochnacki (1804-1834) và một học trò của Schelling là Józef Goluchowski (1787-1858), dẫn đến xu hướng theo chủ nghĩa Cứu thế tiếp cận tư tưởng của Schelling, Hegel, Kraus và Lamennais, cùng vớì chủ nghĩa thần bí theo Jakob Boehme, Louis-Claude de Saint-Martin và Andrzej Towianski. Đại biểu cho xu hướng này như Józef Maria Hoene-Wrónski (1778-1853) quan niệm một hệ thống triết học tuyệt đối, August Cieszkowski (1814-1894) phát triển triết học Hegel về mặt lịch sử, Bronislaw F. Trentowski (1800-1869)  quan niệm một hệ thống siêu hình học duy lý. Xu hướng mỹ học như Karol Libelt (1807-1875) và Józef Kremer (1806-1875) kết hợp giữa chủ nghĩa Hegel và chủ nghĩa Cứu thế. Những khuôn mặt văn chương quan trọng trong lịch sử của chủ nghĩa Cứu thế là những thi sĩ Juliusz Slowacki (1809-1849), Zygmunt Krasinski (1812-1859),  Adam Mickiewicz (1798-1855) có ý biến cải chủ nghĩa Cứu thế thành một cẩm nang quốc gia mang màu sắc huyền bí, nhấn mạnh đến thiết yếu tái sinh đạo đức. Nói chung chủ nghĩa này quan niệm sứ mạng triết học không chỉ đi tìm chân lý, còn mưu cầu cải cách đời sống và cứu vớt nhân loại. Chủ nghĩa Cứu thế quy tụ những nhà thơ và nhà triết học như một đáp ứng tình trạng mất độc lập vào năm 1795 và cuộc nổi dậy thất bại vào năm 1830, hoài bão một hy vọng cho đất nước, mở một kỷ nguyên lịch sử mới. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa những nhà thơ với những nhà triết học ở chỗ nhà thơ hoài vọng sáng tạo một triết học đặc biệt Ba lan trong khi nhà triết học hoài vọng một triết học phổ quát tuyệt đối. Nhà thơ mang tiếng vọng một triết học thần bí, nhiều triết gia là những nhà duy lý, như Wronski hay những người theo Hegel như Tytus Szczeniowski (1808-1880), Edward Dembowski (1822-1846) - một nhà cách mạng trẻ bị giết trong một cuộc biểu tình, biến những cảm hứng theo Hegel thành một lý luận cách mạng dân tộc và xã hội, tin vào động lực lịch sử nơi quần chúng và những xung đột với kẻ áp bức họ, vai trò phổ quát của nhân dân là thành quả tất yếu của lịch sử con người. Henryk Kamienski (1812-1865) là một trong những nhà tư tưởng quan tâm đến dân chủ, người muốn đổi tiêu ngữ Cogito của Descartes ra “tôi sáng tạo, vậy tôi hiện hữu”, quan niệm lịch sử và xã hội liên hệ mật thiết với quan niệm rộng lớn hơn của sáng tạo nơi con người và quan hệ nơi con người với thực tại văn hóa và tự nhiên.
Sau cuộc nổi dậy lần thứ hai thất bại năm 1863, khung cảnh triết học Ba lan lại biến đổi với “chủ nghĩa thực chứng Ba lan”.  
Những người tiên khu của chủ nghĩa thực chứng là Michal Wiszniewski (1794-1865) từng học ở Krzemieniec, dự nghe những bài giảng của Victor Cousin, ngưỡng mộ học thuyết Bacon, Józef Supinski (1804-1893) và Dominik Szulc (1797-1860).
Chủ nghĩa thực chứng Ba lan không hẳn lập thuyết, song muốn tạo phong trào trí thức sâu rộng nhằm cải thiện kinh tế, giáo dục quần chúng, xóa bỏ những thành kiến và định chế xã hội lỗi thời. Julian Ochorowiecz (1850-1917) là người đã cấu trúc cương lĩnh triết học mới này.
Vào cuối thế kỷ 19, mặc dầu tình hình chính trị khó khăn song hoạt động triết học vẫn phát triển. Trong thời quá độ, đánh dấu sự phát triển qua tạp chí triết học đầu tiên ở Ba lan là Przeglad Filozoficzny/Tập san Triết học xuất bản năm 1898 do Wladyslaw Weryho (1868-1917) chủ trương.  Trào lưu tư tưởng thực chứng chủ trương một quan điểm chống siêu hình với Adam Mahrburg (1855-1903), Marian Massonius (1862-1945), Wladyslaw M. Kozlowski (1858-1935). Người học trò của Avenarius là Wladyslaw M. Heinrich (1869-1957) sáng lập tạp chí triết học Kwartalnik Filozoficzny chú trọng đến thuyết kinh nghiệm phê phán, tâm lý học và lý luận khoa học. Wladyslaw Bieganski (1857-1917) thường được coi là Claude Barnard của Ba lan, là tác giả của nhiều công trình luận lý, tri thức luận, đạo đức học ít nhiều tương tự với chủ nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa duy vật lịch sử manh nha ở Ba lan với Ludwik Krzywichki (1859-1941) và Kazimierz Kelles-Kraus (1872-1904).
Những nhà tư tưởng thực chứng quan trọng khác như Edward Abramowski (1868-1918), một triết gia xã hội, một tâm lý gia uy tín có những đóng góp vào tâm lý học, mỹ học, phương pháp luận khoa học với quan niệm những trạng thái tinh thần qua thử nghiệm mở đường cho trí năng đạt được thực tại khách quan. Stanislaw Brzozowski (1872-1911) là một người phê phán chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa duy nhiên và nghệ thuật, phiêu lưu không ngừng trong lãnh địa triết học qua Nietzsche, Sorel, Marx, Newman có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong lãnh vực văn chương.. Wincenty Lutoslawski (1863-1954) khai triển một hệ thống siêu hình duy linh, tuyên xưng thể hiện triết học dân tộc Ba lan. Leon Petrazycki (1867-1931)  từng giảng dạy triết học pháp lý tại Đại học St. Petersburg và Warsaw phát triển nhiều ý tưởng phong phú từ hình thành khái niệm, cấu tạo lý luận trong những khoa học xã hội đến tâm lý học và đạo đức học.
Thế kỷ 20 cùng với độc lập của Ba lan đã phát triển triết học rực rỡ chưa từng thấy trong lịch sử với những phát triển trong lãnh vực luận lý học, và phê phán văn học có tầm ảnh hưởng siêu quốc.
Tuy nhiên triết học Ba lan trong quá khứ không được nhiều nhà viết lịch sử triết học phương Tây nói đến (những bộ triết sử của Windelband, Alfred Weber, E. Gilson, Maurice de Wulf, đến những nhà hiện đại như  Lambros Couloubaritsis), thực là một bất công và sai lầm xuẩn động.
Từ điển triết học giản yếu
25 (tiếp theo)



Trường phái Lwów-Warszawa - Triết học khoa học đối đầu chủ nghĩa Mác ở Ba lan. 

Ba Lan, Triết học: Thế kỷ 20 mở ra một kỷ nguyên mới hai lần trong lịch sử Ba lan. Lần thứ nhất vào lúc Thế chiến thứ nhất chấm dứt và lần thứ hai vào 1989-1990 khi phong trào Đoàn kết thắng lợi kết thúc cai trị của đảng Cộng sản trong quĩ đạo Liên xô. Trong giai đoạn giữa Thế chiến cho tới khi độc lập, triết học Ba lan đã đạt tới đỉnh cao và có ảnh hưởng quốc tế ra khỏi biên vực quốc gia, với trường phái Lwow-Warszawa (và những khuôn mặt lớn trong lịch sử triết học thế giới, như  Kazimierz Twardowski, Kazimierz Ajdukiewicz, Tadeusz Kotarbiński, Stanisław Leśniewski, Jan Łukasiewicz, Alfred Tarski) vì tầm quan trọng phát triển khoa luận lý học hiện đại và một kiện tướng của phong trào hiện tượng luận thế giới là Roman Ingarden.
Khởi từ những xu hướng triết học thống lĩnh này, nhiều nhà biên soạn lịch sử triết học cũng như Từ điển triết học phải tìm hiểu và nói đến triết học Ba lan, một thiếu xót trong nhiều bộ triết sử về những giai đoạn lịch sử triết học về trước. Trong Thế chiến thứ hai, triết học Ba lan gánh chịu một mất mát lớn lao do Đức Quốc xã muốn tiêu diệt văn hóa Ba lan (nhiều nhà triết học Ba lan bị giết trong vùng chiếm đóng và trong những trại tập trung). Sau Thế chiến thứ hai, triết học Ba lan lại chịu một thử thách mới trước bạo lực và hệ thống triết học chủ đạo (chủ nghĩa duy vật biện chứng kiểu Liên xô). Thế kỷ 20 đánh dấu sự phát triển của triết học Ba lan và tranh biện với chủ nghĩa Mác.
Trường phái Lwów-Warszawa/Szkoła lwowsko-warszawska do KazimierzTwardowski thành lập vào cuối thế kỷ19 ở Lwów (lúc bấy giờ còn thuộc Đế chế Áo-Hung), phát triển mạnh trong những năm 1918-1939, đóng góp nhiều cho tư trào luận lý hình thức của triết học Tây phương. Những công trình của các thành viên dẫn trên phần lớn viết bằng tiếng Ba lan, chỉ có một ít viết bằng tiếng Đức. Theo một thành viên của trường là Tadeusz Kotarbinski, người lãnh đạo phái là Jan Łukasiewicz (1878-1956), không những là đồng nghiệp mà còn là người thày của nhiều thành viên trẻ trong nhóm. Łukasiewicz được đào tạo trong triết học, phần lớn thời gian đại học ở tỉnh nhà Lwów. Ông bị lôi cuốn bởi một tuyến nghiên cứu mới mà Twardowski phát triển là luận lý học giống như đại số học và ông đã mở ra trong luận lý những viễn cảnh có thể so sánh với những viễn cảnh của những hệ thống hình học phi Euclide. Song Łukasiewicz không chỉ phát triển con đường mới, ông còn tái xây dựng những gì công chính trong luận lý học Aristote. Một trong những tác phẩm đầu của ông luận về nguyên lý mâu thuẫn trong sách Aristote. Ông nghiên cứu phép tính mệnh đề ba giá trị trong O logic trójwartosciowej/Luận lý ba giá trị, 1920 . Một người học trò của ông là Stanislaw Leśniewski (1886-1939) chú trọng đến phụ lục của tác phẩm trên về đại số học của luận lý, muốn xây dựng một hệ thống cơ sở luận lý của toán học, vượt khỏi những tương phản, thuần lý và công chính về mặt tri thức, tuy ông không phải là nhà toán học. Łukasiewicz và Leśniewski đều dạy tại Đại học Warszawa trong những năm đầu của Ba lan độc lập (1918) và phát triển lãnh vực những khái niệm và định lý của lý luận tập hợp, điểm giao tiếp giữa luận lý và toán học. Trường phái Lwów-Warszawa không chỉ phát triển luận lý toán học, còn chú trọng đến ngữ nghĩa học và ứng dụng những công cụ phân tích mới vào những địa hạt triết học khác nhau. Sự phát triển luận lý học ở Warszawa trong giai đoạn giữa hai Thế chiến (1918-1939) như Zbigniew A. Jordan nhận xét đã đưa tên tuổi của nhóm luận lý gia Ba lan trường phái này (mặc dầu khó nhớ và khó phát âm) trở nên quen thuộc trong giới chuyên môn toàn vũ. Có thể chia làm hai giai đoạn nhỏ là thời kỳ 1918-1929 đánh dấu những công trình khoa học giảng dạy của Łukasiewicz và Leśniewski, mặc dầu những thành quả chưa được xuất bản nhiều, chỉ phổ biến rộng rãi vào thời kỳ sau 1929. Những tên tuổi quan trọng khác vào thế hệ này là Kazimierz Ajdukiewicz (1890-1963), Tadeusz Czezowski (1889-1981), Tadeusz Kotarbiński (1886-1981) và Zygmunt Zawirski (1882-1948). Những môn đệ của Twardowski và Łukasiewicz sau ngày Ba lan độc lập ở rải rác các nơi trong xứ, giữ những ghế luận lý và triết học ở ba đại học Warszawa, Poznań và Wilno. Thế hệ thứ hai có thể kể Adolf Lindenbaum (1904-1941?), Stanisław Jaśkowski (1906-1965), Moses Presburger (1904-1943), Jerzy Slupecki (1904-1984), Bolesław Sobociński (1904-1980), Mordechaj Wajsberg (1902-1942?) và người nổi bật nhất là Alfred Tarski (1901-1983). Khoa luận lý toán học nở rộ ở Ba lan một phần nhờ sự cộng tác của những nhà toán học triết học ở Warszawa; đặc điểm quan trọng khác là những người sáng lập trường phái toán học đã có kinh nghiệm hiếm có nhờ mời hai nhà triết học với một quá trình đào tạo toáùn học khiêm tốn là Łukasiewicz và Leśniewski làm giáo sư ở Phân khoa Toán học và Khoa học tự nhiên - điều không xẩy ra ở bất kỳ quốc gia nào khác. Tuy nhiên, khoa luận lý toán học vẫn được coi là một khoa học tự trị, không chỉ giới hạn vào toán học mà đòi hỏi sự cộng tác của mọi lãnh vực khác có thể sử dụng luận lý. Cho nên theo Łukasiewicz, luận lý học là luân lý của tư tưởng và ngôn từ, Tarski còn quan niệm: tôn giáo phân hóa con người, luận lý đem con người lại với nhau. Điều đó có nghĩa luận lý học chống lại mọi chủ nghĩa phản lý.
Bên cạnh trường phái Lwów-Warszawa, Đại học Krákow cũng phát triển luận lý học độc lập với nhóm này. Người có thể so sánh với Łukasiewicz là J. Śleszyński  (1854-1931)  có công quảng bá khoa luận lý mới, với hỗ trợ của nhà vật lý học S. Zaremba cũng quan tâm đến môn luận lý ứng dụng vào vật lý học và toán học. Nghiên cứu của Śleszyński tập hợp do Zaremba phụ trách biên tập gồm hai quyển dưới nhan đề Teoria dowodu/Lý thuyết về chứng cớ, 1925-1929 dẫn nhập luận lý toán học, chứng cớ toàn diện, chứng cớ toán học, trình bày lý luận những mệnh đề, phép tính Boole, luận lý Grassmann, đại số Schröder, bẩy luật của Porecki, học thuyết Peano, Burali-Forti. Người học trò của Śleszyński và Zaremba là Leon Chwistek (1889-1942) cùng ở lứa tuổi của thế hệ thứ nhất của trường phái Lwów-Warsawa là một trong những tên tuổi lớn trong đời sống trí thức ở Ba lan, cùng với W. Wilkosz và O. Nikodym nổi tiếng vì công trình của họ về lý luận tập hợp. Những công trình nghiên cứu của Chwistek xuất bản bằng hai thứ tiếng, Anh và Ba lan. Nét đặc sắc của trường phái Kraków là quan niệm liên hệ mật thiết giữa luận lý với toán học, là phương tiện và phương pháp giải quyết những vấn đề cơ bản của toán học cũng như một vài ngành trong vật lý học.
Tuy triết học Ba lan bị triệt hủy trong Thế chiến, đã hồi phục và phát triển trong những điều kiện mới. Nói chung trong giai đoạn 1945-1949, tình hình tương tự như trước 1939, với những nỗ lực xây dựng lại đời sống trí thức bình thường, phát triển triết học theo những trình độ khác nhau, hiện diện của nhiều xu hướng triết học với những tác phẩm mới của Ajdukiewicz, Kotarbiński, Ingarden, Tatarkiewicz, Czezowski, Maria Ossowska, Andrzej Mostowski, cũng như những triết gia Thiên chúa giáo hoạt động trong Đại học Thiên chúa giáo ở Lublin.
Trước hết hãy nói về luận lý học triết lý khoa học. Những công trình của O. Wojtasiewicz xây dựng một lý luận ngôn ngữ dựa trên luận lý hình thức toàn phần/mereology <μερος:thành phần, từ mới do Leśniewski đề ra, coi ngôn ngữ như một hệ thống dấu chỉ; của Adam Schaff về những vấn đề ngữ nghĩa; của H. Stonert về một số vấn đề luận lý của cú pháp, ngữ nghĩa và thực dụng; của R. Suszko về lược đồ cấu trúc ngôn ngữ . J. Katarbińska khảo những lý luận khác nhau về khái niệm dấu chỉ theo hai xu hướng: xu hướng chủ quan tìm những liên hệ giữa dấu chỉ và hàm thị/denotatum trong một phạm vi những đáp ứng của tác nhân sử dụng dấu chỉ và xu hướng khách quan tìm những liên hệ giữa dấu chỉ và chỉ định/designata độc lập với tác nhân lý giải cũng như sử dụng. K. Ajdukiewicz đưa ra hai định nghĩa về một câu phân tích: những định đề dựa trên quy ước thuật ngữ cũng như những hệ quả cấu thành những câu phân tích theo nghĩa thứ nhất; những thay thế trong trùng phức ngữ luận lý và những câu có thể giản lược vào những thay thế này qua quy ước thuật ngữ là những câu phân tích theo nghĩa thứ hai. M. Kokoszyńska phát triển khái niệm của Ajdukiewicz theo chứng thực diễn dịch qua hai ý niệm, những công lý/tiên đề là những câu phân tích tất yếu và những công lý/tiên đề không cần là những câu phân tích; chỉ có diễn dịch theo ý niệm thứ hai này có thể ứng dụng trong những khoa học tự nhiên.
Nói chung nhiều nhà luận lý học trong giai đoạn này quan tâm đến luận lý học quy nạp (như Ajdukiewicz, Cerwiński, Giedymin, Gordon, Greniewski, Kokoszyńska, Wójcicki, Ziemba v.v..), ứng dụng những kết quả từ lý luận xác suất là diện chung của những nghiên cứu này. S. Łuszczewska-Romahnowa và Batóg tổng quát hoá khái niệm phân chia luận lý và khái niệm trực giác vào việc phân loại và phân ngành. Alfred Tarski, Kubiński, Zandarowska, Zarneka-Biały nghiên cứu lý luận những hệ thống diễn dịch. Trong giai đoạn 1956-1966, một số nhà luận lý quan tâm đến những ma trận luận lý, như R. Suszko phân tích một số những đặc tính của luận lý đa giá, cấu thành một phương sách đại số, Turowicz đưa ra phương pháp kiểm chứng những công thức của phép tính câu lưỡng giá, liên hệ với nhiều công thức của đa thức đại số mà biến số chỉ có hai trị giá: 0,1.
Nhà triết học được biết đến nhiều ở bên ngoài là T. Kotarbiński (1886-1981) với một thế giới quan trong đó thuyết chủ vật/reism hay cụ thể giữ vai trò chủ đạo. Thuyết chủ vật xác định hiện hữu của đối tượng vật chất và chỉ có những đối tượng này. Như một đề cương của ngôn ngữ biện luận, thuyết chủ vật giả định giản lược mọi câu chứa tên của những sở hữu, quan hệ, quá trình vào những câu chỉ chứa tên sự vật. Định đề này nhằm tác động như một biện luận dao cạo của Ockham, loại trừ những giả thực thể là nguyên nhân của những lý chứng triết học vô ích. Một phần công trình của Kotarbiński đề ra trong một khoa ông mệnh danh là thực tiễn luận/praxiology/praxéologie là một khoa học nghiên cứu khái quát hành động con người từ quan điểm về tính kỳ thành. Mục tiêu của thực tiễn luận trước hết là phân tích ý nghĩa của những từ cơ bản dùng để mô tả những hành động nhắm về mục đích. Những khái niệm như “mục đích”, “tác nhân”, “vật liệu”, “công cụ” được phân tích và xác định lại để hình thành một khung kiên định cho lý luận tổng quát về những hành động kỳ thành.
Sau thời kỳ hồi phục từ sự tàn phá của chiến tranh, khi đời sống trí thức và triết học bắt đầu sống lại trong khoảng 1949-1950 thì chủ nghĩa Mác bắt đầu thống trị, trở nên hệ tư tưởng chính thức trên hầu hết những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Trong nhiều lãnh vực nhân văn nghệ thuật, chủ nghĩa duy vật lịch sử chiếm vai trò chỉ đạo, với những luật lệ chế tài. Mọi trường phái triết học phải quy phục vào chủ nghĩa Mác, hoặc bị tiêu diệt. Ở Ba lan, tình hình có khác. Theo Henryk Skolimowski trong Polish Analytical Philosophy, 1967 chiến dịch chính của Nhà nước là chống triết học phân tích hơn là chống triết học Thiên chúa giáo, vì triết học phân tích có nhiều điểm hội tụ với chủ nghĩa Mác (tính cách duy thực và duy vật, xóa bỏ những giả vấn đề như Tuyệt đối, Siêu việt, Hữu thể) trong khi giữa triết học Thiên chúa giáo và chủ nghĩa Mác không có nhịp cầu thông giao, nên không sợ ảnh hưởng lên chủ nghĩa Mác, trong khi phải ngừa ảnh hưởng lan truyền của triết học phân tích vào chủ nghĩa Mác. Do đó chủ trương của Nhà nước là cường điệu những khu biệt qua việc phê phán và so sánh mọi luận điểm của triết học phân tích với những giáo điều của chủ nghĩa Mác. Một tranh biện diễn ra sôi nổi của người Mác-xít với những nhà triết học phân tích. Skolimowski nhận xét là do truyền thống và môi trường luận lý của những trường phái triết học phân tích ở Ba lan, kết quả chống áp lực của triết học phân tích lên chủ nghĩa Mác dẫn đến một sản phẩm đặc thù Ba lan mà ông gọi là chủ nghĩa Mác ngữ học-phân tích. Phát triển của hiện tượng này có thể chia làm ba giai đoạn: một, giai đoạn xung đột giữa chủ nghĩa Mác và các triết gia phân tích vào những năm 1951-1955 dẫn đến việc những người Mác-xít phải thay đổi thái độ của họ trong việc tấn công đối phương; hai là giai đoạn xét lại trong chủ nghĩa Mác với những xung động xã hội trong những năm 1955-1958; ba là giai đoạn phát triển có hệ thống dưới tiêu đề chủ nghĩa Mác sáng tạo thay đổi những dị biệt/heresies trong khi bành trướng viễn quan chính thống từ 1958 trở đi.       
Tại sao lực tấn áp của chủ nghĩa Mác lại mất sức thúc đẩy ở Ba lan? Tại sao nó không thành công trong việc quy phục những triết học khác vào chủ nghĩa Mác như mọi nước xã hội chủ nghĩa khác? Theo Skolimowski, có ba giải đáp đáng được cứu xét: một, thái độ của những triết gia “tư sản” Ba lan đối với những phê phán họ; hai, vấn đề thảo luận - trừu tượng và khá chuyên biệt vì thế không dễ hướng dẫn tranh luận theo những thuật ngữ kiểu lưỡng phân duy tâm-duy vật; ba, tinh thần tương đối cởi mở của người Mác-xít ở Ba lan. Trong giải đáp thư nhất, nét đặc thù của những đại biểu trường phái triết học phân tích ở Ba lan là có danh tiếng đáng kể ở châu Âu trước Thế chiến. Họ khá biết giá trị những công trình họ thành tựu đối với văn hóa nhân loại, do đó khó có thể bắt họ im lặng hay bắt buộc họ phải theo học thuyết mới áp đặt. Lý ưng xẩy ra tranh biện và những nhà triết học này được phép bảo vệ quan điểm của họ tự do và thông thoáng. Có thể nêu ra ở đây một vài điển hình, như Kotarbiński trả lời phê bình ông:
“Như khi tôi thực sự quan tâm đến những ý kiến chính trị xã hội và triết học của tôi, và mong được làm sáng tỏ về vấn đề này, tôi vừa nhận được một quyển sách mới xuất bản của Bronisław Baczko về chủ đề này. Khi đọc nó, tôi học được là những ý kiến của tôi về những vấn đề nêu trên, trong sự kiện hiện tại, hoàn toàn khác với những gì tôi nghĩ. Đúng như tác giảquả quyết, vì những ý kiến của tôi không thay đổi nhiều ít ra trong hai mươi năm qua, và vẫn như vậy, một điều không nhất quán nghiêm trọng dường như  hiện hữu giữa những ý kiến của chúng ta về những quan điểm triết học của tôi.” (Odpowiedź/Phản hồi, Myśl Filoz, 2(4), 1952)
Như Ajdukiewicz chỉ ra việc phê phán bất kỳ học thuyết nào muốn có giá trị đòi hỏi phải có khả năng và ước muốn hiểu nó; những nhà Mác-xít đã chẳng hiểu học thuyết của ông:
“Những vấn đề tôi nghiên cứu khác với những gì người Mác-xít quan tâm. Những vấn đề khác nhau đòi hỏi những phương pháp khác nhau.  Nhưng cái gì khác không thiết yếu là phải mâu thuẫn, ngay cả có thể tiếp cận được. Điều tôi chủ trương thường khác với học thuyết duy vật, như không hẳn mâu thuẫn với nó vì rõ ràng là xét đến những vấn đề khác nhau.” (W sprawie artykulu Profesora Schaffa o moich poglądach filozoficznych/Về vấn đề bài báo của giáo sư Schaff đối với những ý kiến triết học của tôi, Myśl Filoz, 2(8), 1953)
Hai dẫn chứng trên in trong tạp chí Myśl Filozoficzna/Tư tưởng triết học là “kết quả của nghị quyết Đại hội khoa học Ba lan lần thứ nhất” xuất bản từ năm 1951 thay thế tạp chí Myśl Wspólczesna/Tư tưởng hiện đại xuất bản từ năm 1946 để đáp ứng với tình hình mới ở Ba lan. Ngay từ số ra mắt, tạp chí mới đã xác định “triết học Mác-xít là nhân tố cơ bản để xây dựng xã hội đang tiến lên con đường tới chủ nghĩa xã hội” và “đấu tranh ý thức hệ mang ý nghĩa cơ bản”. Cho nên trong Đại hội nói trên, khởi sự tranh biện bút chiến chung quanh những vấn đề về ngôn ngữ là đối tượng nghiên cứu triết học, tương phản duy tâm-duy vật có thể giải quyết bằng phân tích ngữ học, chân lý của những biểu ngôn triết học và khoa học chỉ tùy thuộc vào một số những quy tắc ngữ học ước lệ, đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng xem chân lý độc lập với những ước lệ ngữ học.
Cuộc bút chiến tranh biện diễn ra trong phân ranh giữa người Mác-xít (Schaff, Holland, Baczko..) và những nhà triết học phi Mác-xít (chủ yếu là trường phái Lwów-Warsawa) trong hai năm, 1952-1953. Những luận điểm phê phán Mác-xít như phân biệt vai trò khách quan của một giai cấp hay cá nhân trong một khung cảnh xã hội nhất định với ý thức chủ quan của nó; thay đổi điểm đối chiếu biến những khái niệm theo trường phái triết học phân tích thành phản động về mặt khách quan: chẳng hạn Schaff tuyên bố là Ajdukiewicz không thừa nhận một số những luận điểm gán cho ông “thực ra đã hàm ngụ trong phân tích của ông, vì cá nhân không phải chỉ bị phê phán trên những điều y nói mà trên vai trò xã hội khách quan của y”; tương tự, Holland cũng cho là Twardowski không ý thức những hệ quả duy tâm, ước lệ trong những khái niệm của ông. Kotarbiński đã phát biểu là nhiều bài viết trong tạp chí nói trên dựa vào lý luận kiểu tam đoạn luận “những gì chúng ta viết là Mác-xít; chủ nghĩa Mác là môn khoa học duy nhất, và như vậy những gì chúng ta viết là khoa học duy nhất”. Theo Schaff, “triết học ngữ nghĩa” theo bản chất chủ yếu là duy tâm đã liên kết trường phái phân tích nói trên với chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, như Russell, tân thực chứng, như Schlick, Carnap, Neurath, Reichenbach v.v..,  và chủ nghĩa thực dụng, như Morris, là những trường phái người Mác-xít phê phán là tư sản, chủ quan, cá nhân, bảo thủ và suy đồi.                                                          
(Poglady filozoficzne Kazimierza Ajdukiewicza/Những khái niệm triết học của K. Ajdukiewicz, Miśl Filoz 1, 1952).  Nói tóm lại, những luận điểm mà các đại biểu Mác-xít phê phán căn bản triết học của trường phái phân tích chủ yếu và khách quan là triết học ngữ nghĩa duy tâm, ước lệ đối lập sâu sắc với tiên đề chính xác khoa học, bản chất người sáng lập trường phái Twardowski là tín ngưỡng, ngu dân, phản khoa học, tăng lữ v.v..
Phản bác của những nhà triết học của trường phái nói trên như Ajdukiewicz, ngoài những luận cứ về phê phán thiếu cơ sở của người Mác-xít, còn cả ngộ nhận về giá trị triết học của trường phái, tính hội tụ họ muốn chỉ ra là cũng như chủ nghĩa duy vật,  thế giới quan của họ xây dựng trên những cơ sở thuần lý và phản lý, trên thường nghiệm, kinh nghiệm và thực tiễn trên cơ sở đi tìm thực tại, thành quả lớn nhất của khoa học.                  
Năm 1956 đánh dấu chuyển biến lớn trong sinh hoạt triết học ở Ba lan. Nhiều nhà Mác-xít chính thống đã chuyển biến tư tưởng, bị Đảng CS khiển trách hay khai trừ, coi như theo chủ nghĩa xét lại. Adam Schaff (người Mác-xít được giáo dục ở Liên xô và là người đầu tiên giữ ghế dạy chủ nghĩa Mác ở Đại học Lódz) đã thấm đậm nhiều ý niệm của triết học phân tích trong luận về khái niệm chân lý của chủ nghĩa Mác, kết hợp luận lý biện chứng với luận lý hình thức trong những tác phẩm của ông (Z zagadnień marksistowskiej teorii  prawdy/Vài vấn đề về lý luận chân lý Mác-xít); Jeryk a Poznanie/Ngôn ngữ và tri thức; Marksizm a jednostka ludzka/Chú nghĩa Mác và con người cá nhân), trong tiểu luận bàn về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh nhìn nhận triết gia không chỉ chia theo duy tâm, duy vật mà còn theo ngả thừa kế trường phái Ionia quan tâm và khai phá  ngoại giới với trường phái Socrate quan tâm đến con người và đi tìm bản ngã. Leszek Ko?akowski là một nhà triết học Mác-xít trẻ đã phát triển những vấn đề đạo đức theo hướng tính cá nhân, không chính thống, đã phát biểu: Không đúng là sử quan/ historio-zofia xác định những chọn lựa cơ bản đời sống của chúng ta - chúng được ý thức đạo đức của chúng ta xác định (Odpowiedzizlnośċ i historia/trách nhiệm và lịch sử, 1957).
M. Przełęcki và J.J. Jadacki xét đến hai mươi năm 1969-1989 (thập niên 70, những khuôn mặt lớn của triết học Ba lan như Ajdukiewicz đã mất năm 1963, Ingarden 1970, Ossowska 1974, Tatarkiewicz 1980, Kotarbiński 1981, Tarski 1983 v.v.., 1989 chế độ cộng sản ở Ba lan sụp đổ) triết học Ba lan hiện đại  chia làm hai dòng triết học “phân tích” và triết học “tổng hợp”; triết học phân tích gắn liền với truyền thống trường phái Lwów-Warszawa trình bày ở trên, còn xu hướng không phân tích khó có thể quy vào một mối, phần đông khác với xu hướng phân tích ở chỗ không thừa nhận  lý tưởng tư tưởng khoa học là mẫu mực của hoạt động triết học và trông cậy vào những phương pháp đặc thù triết học như hiện tượng luận và thông diễn học. Luận lý học đã mất địa vị thống trị như giữa hai Thế chiến, tiến trình phát triển dựa trên luận lý triết học, trong khi luận ly toán học đã trở thành một phần cơ bản trong toán học. Các nhà triết học Ba lan chú ý đến những mô điển luận lý khác nhau, như những luận lý nghĩa vụ (Zdazisław Ziemba, Jerzy Kalinowski, Wojciech Suchoń), luận lý hình thái (Jerzy Perzanowski), luận lý thích đáng (Tokarz), luận lý thời tính hay luận lý biến chuyển (Stanis?aw Kiczuk), luận lý luyến ái (Andrzej Paweł Wejland, Kubiński, Robert Leszko), những triết gia tiếp nối công trình luận lý riêng của Ba lan như Wójcicki, Malinowski (phép tính của Łukasiewicz), Srzednicki, Rickey và Czelakowski (theo hệ thống Leśniewski), luận lý phi-Frege (Suszko, Mieczyław Omyła). Những nghiên cứu ngữ nghĩa về mọi trình độ, cú pháp, ngữ nghĩa, thực dụng khai sinh ra những lý luận hình thức ngôn ngữ như Barbara Stanosz, Adfam Nowaczyk, Henryk Hiź, Maria Nowakowska, Leon Koj. Triết học theo định hướng ngữ học như Anna Wierzbicka, Eugeniusz Grodziński, Alfred Gawroński.
Hiện tượng luận Husserl trước Thế chiến Hai do Roman Ingarden (theo học Husserl ở Göttingen) đã đưa vào Ba lan năm 1924, kết hợp hai truyền thống khác nhau:siêu hình học suy lý của Brentano và triết học phân tích Ba lan. Ông đã viết những tác phẩm lớn về hiện tượng luận. Vào thời Cộng sản, ông bị ngừng giảng dạy một thời gian và chỉ xuất hiện khoảng 1957 với tác phẩm mỹ học Studia z estetyki, 1957-1958. Trong hai thập niên nói trên, một người học trò của Ingarden tiếp tục nghiên hữu hữu thể luận như Antoni Bolesław Stępień theo định hướng hiện tượng luận. Ingarden còn được coi như người tiền phong của xu hướng nghiên cứu khoa nhân học triết lý ở Ba lan, với những Zdzisław Cackowski, Janusz Kuczyński.
[Xem những mục riêng về những triết gia chủ đạo của Ba lan].
Từ điển triết học giản yếu
26
(tiếp theo)


Ba tây/Brasil, Triết học: Ba tây nằm trong khu vực châu Mỹ La tinh song có truyền thống và ngôn ngữ khác (dùng tiếng Bồ đào nha/português) với những xứ khác trong vùng. Tuy nhiên triết học phát triển ở châu Mỹ la tinh này cũng rất tương tự với các nước Nam Mỹ.  Ba tây đã sớm du nhập chủ nghĩa thực nghiệm của Auguste Comte với Benjamin Constant Botelho de Magalhães (1836-1891), Miguel Lemos (1854-1917) và Raimundo Teixeira Mendes (1855-1927).
Botelho de Magalhães (sinh ở Niterói và mất ở Rio de Janeiro) là một nhà chính trị và quân sự, say mê chủ nghĩa thực nghiệm, đem rao giàng trong quân đoiä, ông được xem là người sáng lập ra nền Cộng hòa/fundator de República và xây dựng Hiến pháp 18914/Constituição de 1891 với khẩu hiệu Trật tự và Tiến bộ/Ordem e Progreso. Miguel Lemos (sinh ở Niterói và mất ở Petrópolis) theo học trường Bách khoa ở Rio de Janeiro, cùng với Teixeira Mendes và Botelho de Magalhães thành lập Hội thực nghiệm Ba tây/Sociedade Positivista Brasileira năm 1876. Ông từng sang Paris, gặp gỡ những học giả Pháp như Emile Littré và Pierre Lafitte, khi trở về Ba tây ông áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa thực nghiệm , cải tổ Hội như một giáo hội thực nghiệm/Igreja Positivista thay đổi nhiều việc xã hội, chính trị và tín ngưỡng, bênh vực những quyền lợi và lao động xã hội, công lý xã hội, phân định rõ rệt nhà nước và nhà thờ, đạo và đời. Ông để lại nhiều tác phẩm như O positivismo e a escravidão moderna/ Chủ nghĩa thực nghiệm và chế độ nô lệ mới, Pequenos ensaios positivistas/những thử nghiệm thực nghiệm nhỏ, O apostolado positivista no Brsil/tuyên truyền tư tưởng thực nghiệm ở Ba tây (viết chung với Teixeira Mendes).
Raimundo Teixeira Mendes (sinh ở Caxias và mất ở Rio de Janeiro) còn là một nhà toán học, và bạn đồng hành của  Miguel Lemos trong việc tuyên giáo chủ nghĩa thực nghiệm của Comte, xem như một Tôn giáo của Nhân loại/Religião da Humanidade, ông tham gia phong trào của Benjamin Constant xây dựng nền Cộng hòa, thủ tiêu chế độ nô lệ, cải tổ những định chế xã hội, sáp nhập người vô sản thành đoàn thể xã hội/incorporação do proletariado à sociedade.
Tobias Barreto (sinh năm 1839 ở Vila de Campos do Rio Real, mất năm 1889 ở Recife) là một triết gia, thi sĩ, phê bình gia và luật gia, có xu hướng chống thực nghiệm. Ông đã mở ra trường phái Recife, một tư trào triết học tin vào tiến hóa luận. Ông đọc Kant, Schopenhauer , Haekel, Büchner, Vogt, Moleschott, kết hợp thuyết duy cơ và mục đích luận. Ông để lại nhiều tác phẩm triết lý và thơ như Ensaios e estudos de filosofia e critica/Khảo luận và nghiên cứu triết học và phê bình, 1875; Ensaio de pré-história da literatura alemã, Filosofia e critica, Estudos alemães/Khảo luận tiền lịch sử văn học Đức, Triết học và phê bình, Nghiên cứu Đức, 1879; O génio da Humanidade/Thiên tài của nhân loại (thơ), 1866; A Escravidão/Nô lệ, 1868. Tư tưởng Tobias Barreto phức tạp ở chỗ chống thực nghiệm song theo tiến hóa luận, tựu chung có mấy nét chính: một, theo xu hướng suy luận của triết học Đức, coi thường những căn nguyên lịch sử tư tưởng cổ truyền, phản động; hai, tranh biện chống lại xu hướng chiết trung duy linh, dựa trên niềm tin vô hiệu; ba, theo phương cách tu từ suy lý. Người học trò của ông là Silvio Romero (1815-1914) thừa kế tinh thần tu từ học và tôn thờ những khoa học tự nhiên, tiến hóa luận kiểu Spencer và Darwin.
Raimundo de Farias Brito (sinh năm 1862 ở São Benedito và mất năm 1917 ở Rio de Janeiro) là một trong những tên tuổi lớn của triết học Ba tây. Ông theo học Phân khoa Luật ở Recife, là học trò của Tobias Barreto. Ông đã dạy Luật ở Belém do Pará, làm luật sư và dạy luận lý tại Colégio Pedro II cho đến cuối đời. Ông là một nhà duy linh, cmang tín ngưỡng chống lại chủ nghĩa duy vật của trường phái Recife, thuyết tiến hóa, quan niệm Thượng đế là nguyên lý giải thích tự nhiên và là nền tảng cơ bản của cơ chế điều hành đạo đức trong xã hội. Ông viết: Tự nhiên là biểu tượng Thượng đế, ánh sáng là bản chất của Thượng đế và ý thức là Thượng đế đươc tri giác/A natureza é Deus represendado, a luz é Deus em sua essência e a consciência é Deus percebido. Những tác phẩm của ông như A Filosofia coma Atividade Permanente do Espirito/ Triết họcnhư hoạt động hằng cửu của tinh thần, 1895, A Filosofia Moderna/triết học hiện đại, 1899, Evolução e Relatividade/Tiến hóa và Tương đối, 1905, A Verdade como Regra das Ações/Chân lý như luật của cổ phần, 1905, A Base Fisica do Espirito/Cơ sở vật lý của tinh thần, 1902, O Mundo Interior/Nội giới, 1914.
Từ Tobias Barreto đến Farias Brito, sách vở của những nhà tư tưởng ngoại quốc vẫn là nguồn nuôi dưỡng tinh thần suy lý của họ. Triết học Tô-mít của Jacques Maritain có ảnh hưởng mạnh đến Alceu Amoroso Lima (1893-1983), nhà tư tưởng Thiên chúa giáo hàng đầu như Jackson de Figueiredo (1891-1928). Figueirdo là một người duy tín ngưỡng tuyệt đối, xem Pascal là nhà tư tưởng duy nhất có khả năng hủy triệt lý trí trong tác phẩm Pascal y la inquetud moderna/Pascal và nỗi bất ổn hiện đại; ông quan niệm ý thức chỉ là niềm tin vào mối ràng buộc nội tại thống nhất chúng ta với hữu, đời sống, hiện hữu cũng là những hành vi của niềm tin - credo quia absurdum esse/tin tưởng vì đó là phi lý. Figueiredo có một tranh luận nổi tiếng với Alceu Amoroso Lima và ông này theo đạo vào 1928; khi Figueiredo mất, ông thay thế điều hành trung tâm Dom Vital, tham gia việc xây dựng Đại học Thiên chúa giáo Rio de Janeiro vào 1941. Những tác phẩm của ông như O problema do trobalho/ vấn đề lao động, 1946; O existencialismo e outros mitos de nosso tempo/Chù nghĩa hiện sinh và những huyền thoại khác ở thời đại chúng ta, 1951 biểu hiện cho chủ nghĩa nhân bản Thiên chúa giáo như một trả lời cho những chủ nghĩa Mác và hiện sinh.
Đại biểu cho chủ nghĩa hiện sinh ở Ba tây là Vicente Ferreira da Silva (1916-1963). Ông đã cùng với triết gia Miguel Reale thành lập Institute Brasileiro de Filosofia, tập hợp những nhà tư tưởng của mọi khuynh hướng. Ông xuất bản  Exegese de Ação/luận bình hành động năm 1949 và tác phẩm nổi tiếng Dialética das Consciências/biện chứng của ý thức  năm 1950. Chịu ảnh hưởng Heidegger và chủ nghĩa hiện sinh, ông đã lần lượt viết những tác phẩm như  Utopia e liberdade/Không tưởng và Tự do, 1948; Para uma moral lúdica/Về một đạo đức của trò chơi, 1949; Meditação sobre a morte/Trầm tư về sự chết, 1948;  A concepção do homem Segundo Heidegger/Quan niệm nhân bản của Heidegger II, 1951. Tác phẩm này bắt nguồn từ cảm hứng Thư về chủ nghĩa nhân bản Heidegger gửi Jean Beaufret [Xem: Heidegger].
Miguel Reale (1910-2006) là nhà triết học, luật học và làm thơ, là một trong những người lãnh đạo tư trào chính thống/integralismo ở Ba tây. Ông viết tác phẩm Filosofia do Direito/Triết học về luật Lições preliminares do Direito/Những bài học dự bị luật trở thành tư tưởng triết-luật cổ điển của Ba tây. Ông góp phần vào việc tu chính Hiến pháp, sáng lập Viện triết học Ba tây, tham dự nhiều Hội nghị quốc tế về triết học. Ông viết nhiều tác phẩm, về triết học tổng quát như A doutrina de Kant no Brasil/học thuyết Kant ở Ba tây, Estudos de Filosofia e Ciência do Direito/Nghiên cứui triết học và Luật học, mới nhất như O Belo e Outro Valores/Mỹ và những giá trị khác (1989), Estudos de Filosofia Brasileira/Nghiên cứu triết học Ba tây (1994), Paradigmas da Cultura contemporânea/Những nguyên hình văn hóa hiện đại (1996), về triết học Luật như Fundamentos do Direito/Cơ sở Luật,Filosofia do Direito/ Triết học luật (1953), Teoria Tridimensional do Direito/Lý thuyết luật ba chiều (1968), mới xuất bản như Nova fase do Direito moderno (1990), Fontes e modelos do Direito (1994) trong đó tác phẩm năm 1953 trình bày một triết lý giá trị, đề cao con người là nguồn suối mọi giá trị, tác phẩm năm 1968 định thức lý luận ba chiều của luật pháp, là sự kiện/fato, giá trị/valor và quy phạm/norma bao hàm khái niệm hợp pháp của luật. Ngoài ra còn những tác phẩm chính trị học, thực tiễn luật, văn chương v.v.. Triết học văn hóa của Reale chịu ảnh hưởng tư trào tân Kant, những tầng luận lý của Nicolai Hartmann, bình dện giá trị học của Max Scheler. Theo Siacca, Reale là triết gia nổi nhất trong triết học Ba tây hiện đại.
Một nhà triết học, luật học khác là Francisco Cavalcanti Pontes de Miranda (sinh ở Maceiõ na9m 1892, mất ở Rio de Janeiro năm 1979) là người đưa tư tưởng thực chứng của trường phái Vienne vào triết học Ba tây. Một trong những tác phẩm chính của ông O Problema Fundamental do Conhecimento/Vấn đề cơ bản của nhận thức, 1937 quan niệm nhận thức xây dựng trên khu biệt giữa objectum/objeto/khách thể  và subjectum/sujeito/chủ thể trong đó hai từ vẫn giữ căn tố jectum<jet/jacto/ tia (phóng) cử hoạt như một vec-tơ xác định chuyển biến khách thể thành những ấn tượng chủ thể - mối quan hệ chủ/khách này chỉ ra những vấn đề suy luận thành những vấn đề ngôn ngữ. Trong lãnh vực triết lý khoa học, có những tên tuổi như Leônidas Hegenberg, Amoroso Costa - truyền thống khoa học mà nhiều thế hệ sau xao lãng.

Bantu, Triết học: Châu Phi có một triết học, như các châu đại lục khác? Chắc hẳn vậy. Cái khó là ở một đại lục mênh mông, đời sống bộ lạc, con người có tiếng nói song không có chữ viết. Đó cũng là một vấn đề. Thế nên, khi linh mục P. Tempels (1906-1977) xuất bản quyển sách La philosophie bantoue ( do A. Rubbens dịch từ tiếng Hòa lan năm 1945 sang tiếng Pháp, ấn bản lần thứ hai năm 1949 N.x.b. Présence africaine), ông được coi như người tiên khu của triết học Phi châu. Tempels sinh năm 1906 tại vùng Antwerp, nước Bỉ, cha mẹ gốc từ Limburg, khi theo học trường Dòng và thụ phong linh mục Thiên chúa giáo, ông đổi tên từ Frans ra Placide. Ông làm công việc truyền giáo ở Congo từ năm 1930, hoạt động tại vùng hồ Mọra, nhiều năm ở dại lục này ông nghiên cứu dân tộc và văn hóa tại đây, cảm nhận như chính mình mang linh hồn Bantu, viết nhiều sách trong đó tác phẩm nói trên là quan trọng nhất và đưa ra trong nhiều hội nghị liên quan đến châu Phi.
Từ ngữ Bantu trong sách vở của Tempels có khi qua tiếng Pháp là bantoue, tiếng Hòa lan là Bantoe ( như bài viết Pleidooi voor de Bantoe-Filosofie/Biện thuyết cho triết học Bantu của ông) chỉ ra hai vấn đề: một, từ này để chỉ một nhóm văn hóa của những chủng tộc chiếm một phần ba cư dân châu Phi, trải rộng từ những khu vực Xích đạo với Mũi tây bắc về Duala-Yaunde ở Cameroun/Cameroon đến Cap, trừ vùng tây nam thuộc văn hóa Khoisan, những chủng tộc thuộc Bantu này có những yếu tố chung cùng một văn minh; hai, công trình của Temples theo những triết gia châu Phi đánh giá là một công trình nhân chủng học với những kỳ vọng triết học nằm trong phạm trù triết học dân tộc/ethnophilosophy (Xem: Triết học/phi triết học in lại trong Cơ sở tư tưởng thời quá độ, 2007 tôi đã nói đến sự khác biệt giữa triết học dân tộc và triết học nhà nghề/professional philosophy với những người tiền phong khai phá con đường tư tưởng triết lý Phi châu).
Bantu là gì? Trong phân loại ngữ học, từ thuộc số ít là MU-ntu và số nhiều là BA-ntu, có nghĩa là người; căn ngữ là ntu, MU và BA là hai hình thái của cái phân loại. Cho nên trong khi các từ khác thay đổi mặc dù trong cùng cấu trúc, từ Bantu vẫn cố định. Đa số những ngôn ngữ gọi là Bantu diễn tả từ muntu/bantu số ít/số nhiều dưới những dạng khác nhau như sau:
                                         Số ít                 Số nhiều
                                         Muntu             wantu
                                         Muntu             antu
                                         Mundu            andu
                                         Mtu                 watu
                                         Mur                 bar
                                         Mot                 bot
                                         Mutchu            Atchu 
Nên nhớ là nền văn hóa này chưa có văn tự, do đó con người trao đổi ngôn ngữ với nhau, nghĩa là tiết hợp những tiếng mà không theo quy luật ngữ pháp thành văn nào. 
Temples có công hệ thống hóa, nghĩa là đưa ra những khái niệm để có thể trình bày theo trí năng.
Sau Temples, Alexis Kagame là người đã đưa ra một phương pháp nghiên cứu triết học Bantu đề xuất năm 1956:
-    Về mặt luận lý hình thức, những ngôn ngữ Bantu có phân loại để diễn tả cái trừu tượng: 1/ thuộc loại ngẫu nhiên, biểu hiện những thực thể không có khả năng hiện hữu độc lập trong tự nhiên: ví dụ, với căn ngữ gabo, từ chỉ cụ thể là mugabo/bagabo (số nhiều) có nghĩa là một người can đảm, với tiếp đầu ngữ bu để chỉ trừu tượng, có từ bugabo để chỉ sự can đảm, hùng dũng; 2/ thuộc loại bản chất, biểu hiện những bản chất hiện hữu trong tự nhiên: ví dụ, muntu với tiếp đầu ngữ bu, để chỉ cái trừu tượng: bumuntu: nhân tính.
2/ thuộc loại mệnh đề, ở đây để chỉ phán đoán. Trong những ngôn ngữ Bantu, một số có nguyên âm đầu mỗi từ, một số không có, ví dụ: uRUkwavu: thỏ, iKImasa: bò rừng con trong những mệnh đề sau:
     1. uRUkwavu RUhura n'iKImasa
         thỏ nó gặp một bò rừng con
     2. KIRUhonye KIraRUsuzugura
         Nó thấy nó, nó khinh nó
     3. RUraKIramutsa, KIraceceka
         Nó chào nó, nó giữ im lặng
Mỗi từ diễn tả những thành phần viết hoa theo thứ tự sau:
a/ trong mệnh đề thứ nhất, RU gắn liền với động từ  Ruhura/nó gặp chỉ thị động từ này hợp với chủ từ thuộc loại RU/uRUkwavu;
b/ trong mệnh đề thứ hai, từ quan hệ KI cũng chỉ thị chủ từ mà loại từ là KI/iKImasa; trong mệnh đề 2 này, KI ở đầu chỉ chủ từ giữ vai chủ thể, RU ở vị trí thứ hai để chỉ chủ từ uRUkwavu giữ vai trò thuộc từ trực tiếp cho động từ thấy;
c/ trong mệnh đề thứ ba, RU/uRUkwavu là chủ thể, trong khi KI/iKImasa là bổ ngữ trực tiếp cho động từ chào, tiếp theo KI/iKImasa là chủ từ của mệnh đề.
Như vậy trong mọi ngôn ngữ Bantu,khởi sự của diễn ngôn là chỉ cần hô lên tên của những tác nhân; ở mỗi tên tương ứng có một từ quan hệ - cũng giống như loại từ - không cần thiết phải minh thị cái gì giữ vai trò chủ từ hay thuộc từ trong mệnh đề, mọi sự cũng rõ ràng.
3/ thuộc loại tam đoạn luận, lên quan đến việc lý luận, tính đặc thù văn hóa Bantu là tam đoạn luận thì lược tỉnh/elliptique: nó có thể mang đại tiền đề và kết luận, hay chỉ dẫn đến kết luận khi lý luận đã cô đọng trong  một ngạn ngữ, không cần hiện diện của bất kỳ tiền đề nào. Trong trường hợp cái được diễn tả mà ta gọi là đại tiền đề, không trình bày dưới dạng một nguyên tắc tổng quát, mà thông thường diễn ra như sau:
     Đại tiền đề: “Vì khi chúng ta xem thấy cái này và cái kia,
     Kết luận: vậy thì phải thừa nhận cái này và cái kia”.
-    Về mặt tiêu chuẩn học, những vấn đề của tiêu chuẩn học theo Kagame nơi triết học Bantu có tính ám chỉ: nhận thức ẩn tàng của những nguyên tắc sâu xa cùng thể hiện trong những hành động đơn giản nhất. Ví dụ: những nguyên tắc đầu tiên của lý trí, nơi mọi người bình thường, phát hiện trong việc sử dụng thuộc về khẳng định hay phủ định, vì nó chứng minh ở đó là đã dựa trên những nguyên tắc đồng nhất, mâu thuẫn và khử tam/tiers exclu. Họ sẽ chỉ cho bạn điều đó nếu như khi bạn ở với họ trong cuộc, bạn nói với họ: Hãy ra xem nếu chúng ta thấy chúng ta đang ở bên ngoài”, phản ứng của họ chắc chắn sẽ là rũ lên cười. Mặt khác, nếu bạn muốn hiểu xem họ có ý thức về nguyên tắc nhân quả hay không, hãy đặt với họ câu hỏi: “Anh bao nhiêu tuổi khi mẹ anh sinh ra?”, bạn nhận ra lập tức dưới mắt họ, hậu quả không bao giờ có thể đi trước nguyên nhân của nó trong cái hiện hữu.
Khởi từ những nguyên tắc thứ nhất này, văn hóa Bantu dồi dào những nguyên tắc gián tiếp, thường thấy trong những ngạn ngữ, những công lý xác thực trong tình trạng những tam đoạn luận luợc tỉnh.
Còn đối với lãnh vực những tri thức thuộc về tôn giáo, hay thuộc về khoa học, người Bantu tin vào những tiêu chuẩn có tính cách chứng nhân, dựa trên truyền thống cổ, dựa vào thẩm quyền của cổ nhân, hay dựa vào quyền năng của những thày mo, thày pháp.
-    Về mặt hữu thể luận, những phạm trù của hữu thể chia ra làm bốn loại:
1/ MUntu: hữu có trí năng (người)
2/ KIntu: hữu không có trí năng (vật)
3/ HAntu: hữu định vị (nơi chốn-thời gian)
4/ KUntu: hữu hình thái (cách thế hiện hữu của hữu thể)
Trong chỉ danh của bốn phạm trù trên, căn ngữ ntu chỉ thị hữu thể trong ý nghĩa khởi sinh và không xác định. Đó là loại từ xếp loại nó khi làm rõ bản chất, nghĩa là “nó chính là cái nó phải là như thế, không có thực thể nào ra ngoài bốn phạm trù kể trên. Xét cấu trúc ngữ học xác định bốn phạm trù này có thể nói là triết học Bantu có tính năng độnghậu nghiệm vì khởi từ cách thái hoạt động: muntu là hữu cử hoạt theo trí năng, kintu là hữu không cử hoạt theo trí năng, hantu là hữu định vị trí và kuntu là hữu theo cách thế. Phạm trù thứ nhất đã nói nơi trên (MU (số nhiều là BA) = có tri năng, có lý trí; NTU = hữu), phạm trù thứ hai KIntu (và biến thể của nó là KItu) được dùng ở vùng phía đông (từ Kenya-Tanzania đến trung tâm của Congo-Kinshasa và phía nam đến Malawi-Rhodesia), ở vùng phía tây dùng căn ngữ uma đi kèm tiếp đầu ngữ KI = KIuma, căn ngữ loko thành KIloko (ở Congo-Brazza đến Congo-Kinshasa), căn ngữ ro/lo thành CIro (ở nam Mozambique) căn ngữ into ở vùng Botswana, căn ngữ nima/ina ở nam Angola và phía bắc của vùng Tây nam châu Phi. Những biến thể chỉ ảnh hưởng trong hình thức nói, song bản chất vẫn chỉ sự vật. Phạm trù thứ ba HAntu và tương đương PA dùng ở vùng phía đông, sang vùng phía tây, tương đương là VA đi với căn ngữ uma, vùng phía nam là GO đi với căn ngữ lo/ro, các vùng có căn ngữ ntu, uma, ro để chỉ sự vật, lại được dùng để chỉ vị trí:
                 Kintu = sự vật; hantu = vị trí
                 Kiuma = sự vật; vuma = vị trí
                 Ciro = sự vật; golo = vị trí
Phạm trù này thống nhất cả nơi chốn và thời gian, còn khi nói đến thời đại, ngày tháng thì người ta định vị hữu trong chuyển động của nó theo chiều hướng kỳ gian, ví dụ biến cố xẩy ra năm 1900 được định vị một cách loại suy từ một công trình như vậy ở Paris chẳng hạn. Phạm trù thứ tư KUntu là cách thế hiện hữu của hữu là giống chung cho mọi thực thể gắn bó, được diễn tả với tiếp đầu ngữ bu/bo/ou/u/vu v.v..với căn ngữ của từ, có thể dùng động từ hay trạng từ nhằm tập trung những biến cải của hữu thể hoặc của chính nó (lượng, phẩm), hoặc đối với tha thể (tương quan, vị trí, sở hữu v.v..).
Về hiện hữuhư vô trong triết học Bantu, khi phát biểu muntu, kintu nhằm chỉ bản chất không thiết yếu hàm ngụ khái niệm hiện hữu vì trong các ngôn ngữ Bantu, cái tương đương với động từ Être/Sein không chỉ thị hiện hữu (như định thức je pense, donc je suis của Descartes) diễn tả dưới hai căn ngữ li (không có thể vị biến cách/infinitif/infinitive, hay quá khứ, tương lai) và ba chỉ vị biến cách như ku = kuba. Động từ để chỉ hiện hữu thành lập bằng cách thêm vào hai căn ngữ trạng từ ho =đó; liho = ở đó (hiện hữu trong hiện tại) và kubaho - ở đó (hiện hữu) - động từ này diễn tả thời gian ở quá khứ cũng như tương lai, hiện hữu nói chung phi thời gian.
Liho có những biến thể lipo, liko tùy vùng, trong khi kubaho trở thành kubapo, kuwapo, kuvako. Có nhiều vùng động từ hiện hữu là kuikala/kukala/kuzala.
Căn ngữ liho để chỉ hiện tại, ở đó song sẽ ngừng hiện hữu, trái lại kubaho diễn tả hiện tại, trải rộng cả quá khứ và tương lai. Đối lập với hiện hữu là hư không. Khi phân tích những yếu tố văn hóa, phải kết luận là hư không hiện hữu mà thực thể là căn bản của phức thể. Một hữu thể này phân biệt với hữu thể kia vì ở giữa chúng có khoảng không hư vô: không khí mà ta hít thở thổi trong hư không, chim bay trong không khí và trong hư không.
Tranh luận về triết học Bantu hiện hữu có thể phải xét về mặt thông diễn, sử dụng tư liệu và trở lại vấn đề: có thể dựa trên văn học (có chữ viết hay không chữ viết) để thành lập diễn ngôn triết lý? triết học dân tộc như một văn hóa đặc thù, hay một tâm lý học tập thể, hơn là một triết học mang tính phổ quát chân thực?
Từ điển triết học giản yếu
27
(tiếp theo)



Bảo gia lợi/Bulgaria, Triết học: Triết học Bảo gia lợi bắt nguồn từ thế kỷ 10 với Johann Exarch và phong trào Bogomil bao gồm tư tưởng phê phán tôn giáo, có thể xem như khởi đầu sinh hoạt triết học ở xứ này. Nếu coi lịch sử của triết học là lịch sử của một dân tộc, thì lịch sử Bảo gia lợi chia làm ba kỷ nguyên:
Thời Trung cổ: đánh dấu qua việc người Bảo gia lợi theo Thiên chúa giáo vào thế kỷ thứ 9, cũng ghi nhận qua việc những phong trào dị giáo chống lại hàng tăng lữ chính thống. Đó là phong trào Bogomile chủ trương một tư tưởng cấp tiến về thần luận và vũ trụ luận, cùng với những tư trào nhị nguyên như học thuyết duy trí, học thuyết nhị nguyên thiện ác, học thuyết Paul. Phong trào Bogomile bài bác thuyết Nhập thể, cũng như mọi biểu hiện tôn giáo qua tư tưởng và thực hành đạo như phép bí tích, thánh giá, nhà thờ, lễ lạc v.v.. và chủ trương tu khổ hạnh và sùng bái tinh thần. Mặc dầu bị ngăn cấm nghiêm nhặt, phong trào này bành trướng về phía tây đến tận Bosnia, băng ngang vịnh Balkan. Phong trào này bị tiêu diệt từ khi người Thổ đô hộ Bảo gia lợi vào thế kỷ 14 suốt năm trăm năm.
Thời phục hưng văn hóa dân tộc: Cuộc đô hộ Thổ chấm dứt vào năm 1878 với hoạt động văn hóa dân tộc ở mọi chiều hướng. Hàng trăm hàng ngàn người Bảo theo học tại nhiều đại học ở Nga và các nước Tây Âu, đặc biệt là ở Đức,khi trở về nước dấy động tinh thần người dân với những tư tưởng, học thuyết mới, dịch thuật những tác phẩm kinh điển của triết học phản ảnh mối quan tâm vào phát triển lịch sử tư tưởng.
Trong cuộc tranh đấu giành tự do, Peter Beron (1798-1871) nổi tiếng là một đại biểu của Bách khoa và khai sáng Bảo gia lợi. Ông viết những tác phẩm bằng tiếng Đức như Slawische Philosphie enthaltend die Grundzüge aller Natur-und-Moralwissenschaften/Triết học slave/tư lạp phu bao gồm đặc điểm chính của khoa học tự nhiên và khoa họcđạo đức, (Prag)1855; Origine des sciences physique et naturelles et des sciences métaphysiques et morales/Nguồn gốc khoa học vật lý và tự nhiên và khoa học siêu hình và đạo đức, (Paris)1858. Beron đã có công hệ thống hoá bản chất và vị trí tư tưởng tư lạp phu khích động triết học Bảo gia lợi phát triển vào cuối thế kỷ 19, đặc biệt trong chiều hướng xây dựng cơ sở thế giới quan cho cuộc tranh đấu cho tự do.
Sinh hoạt văn hóa làm nổi bật những khuôn mặt như Ivan Georgoff (1862-1936) về nghiên cứu lịch sử triết học, Krusto Krustev (1866-1919) về phê bình văn học, Stoyan Michaillovsky (1856-1927) về thơ, Pencho Slaveykov (1866-1912) du nhập tư tưởng Nietzsche. Nhà triết học Dimiter Michaltschev (sinh năm 1882) dạy tại Đại học Sofia là người năng động phát triển triết học Bảo gia lợi, viết nhiều tác phẩm và là biên tập tạp chí triết học. Ông đã viết những tác phẩm như Philosophische Studien/Nghiên cứu triết học, x.b. Leipzig, 1909; Forma y Otnosshenie/ Hình thái và Quan hệ, Sofia, 1914: Filosofiata Kato Nauka/Triết học như một khoa học, Sofia, 1946. Ông chịu ảnh hưởng người thày là Johannes Rehmke (1848-1930) coi triết học như một khoa học cơ bản/Grundwissenschaft, tri giác trực tiếp sự vật và những phẩm chất của chúng, thực tại của tinh thần và thế giới được tri giác không chỉ ra thực tại siêu hình siêu việt nào, cũng như những quan hệ và phát triển có tính khách quan và chúng ta trực tiếp nhận biết.  Thời gian không là một hình thái của tinh thần lãnh hội những diễn biến nó tri giác, mà là sự kế tục của những biến đổi. Vận động từ chỗ này qua chỗ kia là một sự kiện khách quan, như vị trí không gian là phẩm tính của sự vật. Trong lãnh vực triết học thực tiễn, Michaltchev cũng theo Rehmke phê phán những đạo đức học chủ trương nhiệm vụ, và đề xuất nguyên tắc ý chí cũng như hành động bất vụ lợi mới thực sự là đạo đức. Lý luận của Rehmke và Michaltchev có tầm ảnh hưởng nhất định ở Bảo gia lợi, gây sinh động trong những tranh luận triết học.[Xem: Rehmke, Johannes]
Thời cộng sản: Sau Thế chiến Hai, Bảo gia lợi cũng như một số quốc gia Đông Âu khác trở thành nước xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, “chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ tư tưởng chủ đạo trong mọi lãnh vực văn hóa, từ giáo dục, văn chương văn nghệ đến tư triết học, tôn giáo v.v.. tên cơ sở duy vật biện chứng. Thực sự, thời tiền chiến, một nhà tư tưởng Dimitri Blagoev (1855-1924) đã có xu hướng xã hội này. Dưới chế độ cộng sản, những tư tưởng phi Mác-xít bị triệt hạ trong lãnh vực triết học. Nhà tư tưởng đại biểu của chế độ là Todor Pavlov (1890-1977), Chủ tịch Viện Khoa học Bảo gia lợi, tác phẩm chính của ông là Теόрия отраҗéния ( Teoriia otrazheniia)/Lý luận phản ánh, 1936 quan niệm phản ánh dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở này, những vấn đề đặc thù của lý luận nhận thức như chân lý, thực tiễn, hệ thống những phạm trù biện chứng hay những quy luật biện chứng là đề tài của rất đông nhà tư tưởng như Stephan Vassilev-Vassev, Nedialka Mihova, Ljuben Sivilov, Mitrjo Yankov. Pavlov không chỉ chủ đạo trong lãnh vực nhận thức mà cả trên lãnh vực phê bình văn học và mỹ học, trong quỹ đạo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” (phổ biến khắp khối xã hội chủ nghĩa), với tác phẩm chính là Основнóй вопрóсй на Эстéтика (Osnovny Vuprosy na Estetika)/những vấn nạn cơ bản Mỹ học, 1949. Michaltchev chính là đối tượng để các nhà công tác tư tưởng của chế độ phê phán (theo Leszek Kolakowski, phê phán cái gọi là chủ nghĩa Rehmke) - theo Radoslav Tsanoff, Michaltchev bảo vệ kiên cường quan điểm của ông.
Ở Bảo gia lợi, khi chủ nghĩa Mác thống trị, trở thành một học thuyết chính thức, bất khả tư nghị, chỉ có triết học duy nhất được giảng dạy ở Đại học Sofia, dập khuôn hệ thống giáo dục Liên xô (nghĩa là chủ nghĩa duy vật lịch sử và biện chứng, lịch sử triết học tập trung vào lịch sử triết học Mác-xít và phê phán triết học, luận lý, đạo đức và mỹ học tư  sản hiện đại). Cho nên Tzotcho Boiadjiev (dạy Lịch sử triết học cổ đại và trung cổ ở Đại học Sofia) nhận xét: chỉ có một lối thoát tinh thần là hoạt động trong những lãnh vực mà khả năng kiểm soát tư tưởng bị giới hạn, ví dụ như khó kiểm duyệt để chế tài nghiên cứu về một tác giả cổ đại, vì tối thiểu đòi hỏi phải có một vài kiến thức cổ ngữ; ngoài ra biên giới giữa triết học và những lãnh vực khoa học nhân văn khác cũng khó tiếp thu đối với luật lệ, tiêu chuẩn ý thức hệ. Cho nên nhiều công trình của những nhà triết học trẻ tập trung vào những nghiên cứu liên ngành và cổ điển, những tên tuổi Angelov, Bǒjadziev, Bukharov, Iribadzakov, Radev v.v..trong lãnh vực triết học và xã hội học, I. Passi, Avramov, Goranov, Mitsev, Natev, Tsoneva trong lãnh vực mỹ học, Andonov, Georgiev, Nechev, Prodanov, Stankov trong lãnh vực đạo đức.
Một nền triết học bí mật, như chữ của Boiadjiev, hoạt động dưới những hình thức thay đổi địa danh của triết lý thực qua tổ chức những hội luận, diễn thuyết và giảng dạy với sinh viên ngoài những cơ sở đại học chính thức. Tuy nhiên ngay việc gặp gỡ trao đổi giữa những nhà triết học Bảo gia lợi với những triết gia của các nước khác trong khuôn khổ những hội nghị quốc tế không hẳn tốt đẹp, vì tham dự những hội nghị này phải thông qua Hiệp hội triết học của Nhà nước, do Sở Mật vụ trực tiếp kiểm soát; người tham gia những diễn đàn phải chính thức được nhà nước nhìn nhận. Hơn nữa, rất khó khăn tìm đọc được những tác phẩm triết học nhất là của những triết gia hiện đại, kể cả những tập san, tạp chí triết học. Sinh hoạt triết học thực sự chỉ bình thường sau 1989, với số lượng đáng kể dịch  những công trình của các nhà tư tưởng cận hiện đại. Mặt khác, những trường phái và tác giả  về cấu trúc luận, phê bình văn học như Vladimir Propp, Hình thái luận Nga có ảnh hưởng rộng rãi ở phương Tây cũng rất quen thuộc với sinh hoạt triết học bí mật ở Bảo gia lợi, vì những sự kiện này tiêu biểu cho nỗ lực vượt rào cản hệ tư tưởng Mác-xít. Trong thập niên 80, những tác phẩm có xu hướng Mác xít phương Tây như Theodor Adorno, W. Benjamin, E. Bloch, Louis Althusser khá quen thuộc trong những nhóm triết gia và xã hội học mới. Những nhà học giả nhân văn quay sang những trào lưu triết học phân tích, thông diễn v.v.. Hiện nay là thời kỳ phát triển  và hội nhập vào sinh hoạt triết học cộng đồng châu Âu, mở ra một triển vọng mới.


Bỉ, triết học: Sinh hoạt triết học Bỉ có liên hệ với những nước chung quanh, dưới hình thức đa ngữ - nhà triết học có thể viết bằng tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hòa lan, tiếng Anh.
Sống thời Trung cổ, triết gia Bỉ Henri Bate de Malines (1246 sinh ở Malines-1310 mất ở Tongerlo) là môn đệ của Aquinas, mà Nicolas de Cuse xem là người lập ra thuyết ngẫu hợp những mặt đối lập/théorie de la coincidence des opposés. Ông đã viết Magistralis compositio astrolabii luận về thiên văn học. Gilles de Lessines sống vào thế kỷ 13, mất năm 1304 là môn đệ của Albert le Grand, viết tác phẩm khảo về de Unitate Formae, 1278 luận về hình thái: “Mặc dầu những hình thái trừu tương của tri năng (chẳng hạn, đường thẳng trên mặt phẳng, mặt phẳng trên vật thể) thực sự là nhirều và khác nhau về mặt hình thái, tuy nhiên trong một chủ thể duy nhất mà chúng là những thành phần, mỗi thành phần có một vai trò, chúng chỉ là một hữu thể duy nhất đến từ hình thái này mà chúng là hữu thể lý và từ ở đó sinh ra những chức năng, giống như những hành vi thứ cấp đến từ hành vi sơ cấp. Godefroid/Godfrey de Fontaines (tên tiếng La tinh là Godefrius de Fontibus) sinh ở Liège năm 1250 và mất năm 1309, dạy Đại học Paris, cũng là học trò của Aquinas, chuyên luận về siêu hình học hiện thể và tiềm thể; quan niệm hữu thể của ông đối lập với Henri de Gand (phân biệt hữ bản thể/esse essentiae và hữu hiện thrể/esse existentiae) khi xác định hữu thuộc tri năng ở trong tinh thần và hữu thực ở ngoài tinh thần. Tuy nhiên cũng như Henri de Gand, ông cũng để lại những Quodlibeta/Linh tinh ghi lại những tranh biện triết lý mở ra cho công chúng (Maurice de Wulf sưu tập có bẩy phần của những Quodlibets này, xuất bản năm 1904 và 1914).
Ở đây chỉ nói về triết học Bỉ cận hiện đại, mặcdầu giữa Bỉ và Pháp có chung biên giới và ngôn ngữ, song những vấn đề và tranh luận triết học có những sắc thái riêng của nó. Những triết gia Bỉ sống ở thế kỷ 19 như Joseph Delbœuf (1831-1896),vào thời kỳ đầu thế kỷ XX như Paul Decoster (1886-1939), Philippe Devaux (1902-1979), Maurice De Wulf  (1867-1947) chuên về lịch sử triết học Trung cổ, Georges Hostelet (1875-1960), Max Loreau (1928-1990) chuyên về Mỹ học thời Phục hưng, Phần đông các triết gia này dạy ở Đại học Liège và Louvain.  Chïam Perelman (1912-1984) dạy ở Đại học Bruxelles, sáng lập Tu từ mới, Tại Bỉ, nhiều nhà triết học chuyên sâu về luận lý học, có những trao đổi quan tâm tương tự như  Hoa kỳ. Họ cũng đặc biệt chú trọng đến triết học về cáckhoa học cũng như ngành mới về kỹ thuật ứng dụng. Nhiều tác phẩm xuất bản thiên về triết học thiên chúa giáo hiện đại, những nghiên cứu về lịch sử tư tưởng thời Trung cổ tại Đại học nói tiếng Pháp Louvain-la-Neuve và Đại học nói tiếng Hòa lan ở Louvain,  Mặt khác nơi đây chứa những bản thảo của Husserl nên cũng xuất phát nhiều công trình hiện tượng luận.
Về mặt nghiên cứu luận lý học, phải kể đến Trung tâm quốc gia nghiên cứu luận lý học dưới sự điều hành của J. Ladrière (1921-2007), quy tụ nhiều nhà luận lý học của sáu đại học nói tiếng Hòa lan và năm đại học nói tiếng Pháp. Trong khoảng 1980-1992, bẩy tập san Cahiers du Centre de logique đã xuất bản  bàn về những chủ đề như thuyết trực quan, lý luận chứng minh, forcing (kỹ thuật do Paul Cohen đặt ra , dùng để chỉ sự độc lập của giả thiết liên tục và công lý chọn trong lý luận tập hợp Zermelo-Fraenkel), lý luận những toàn nhóm/ensembles của Quine, luận lý và thông tin học, và cả xu hướng phi nền tảng trong luận lý học và trong lý luận toàn nhóm. Những hội luận này với những khuôn mặt chủ đạo như Th. Lucas, M. Crabbé, R. Lavendhomme đưa ra nhiều thành tích mới. Những thành tựu trong luận lý ứng dụng vào tri năng nhân tạo và thông tin học cũng được xuất bản, như A Primer on Expert System/Sách nhập môn Hệ thống Giám định  năm 1985 của F. Vandamme và các cộng sự viên, “Non Classical Logic for Expert System” của A. Heffer năm 1986, Non-Standard Logics for Automated Reasoning/Luận lý phi tiêu chuẩn của lý luận tự động năm 1988 là thành quả của giao ngộ hệ thống của các phương pháp và kết quả  cuủ những luận lý mô hình, thời tính, trực quan, xác suất áp dụng vào tri năng nhân tạo, Approche logique de l'intelligence artificielle/Tiếp cận luận lý của tri năng nhân tạo, 1988-1991 một từ điển bách khoa từ luận lý cổ điển đến thảo chương luận lý, Logisch Redeneren/Nói về luận lý năm 1986 của M. Sergant trình bày luận lý tượng trưng cổ điển, Inleiding to moderne Logica/Dẫn vào tân luận lý năm 1991 của J.-P. Van Bendegem, Logienbœk năm 1992 của D. Batens, Logica: Formeel en Informeel năm 1992 của W. de Pater và R. Vergauwen gồm những phần về tam đoạn luận, lý giải chịu ảnh hưởng từ Geulinckx, những phương pháp cú pháp và ngữ nghĩa, luận lý phi hình thức, Vergauwen khai triển một lý luận về ý nghĩa và tham chiếu, những tranh luận của chủ nghĩa duy thực và duy bản trong ngữ nghĩa học, lý luận về chân lý của Tarski, duy thực nội tại của Putnam. Cùng với những tri thức thủ đắc từ siêu luận lý học, ông khai triển một ngữ nghĩa học duy thực  có thể tích hiệp thuyết chủ bản Aristote; ông cũng trình bày một lối giải luận lý học nội hàm khác của Montague có thể biểu hiện hình thái của thuyết chủ bản nói trên.
Lý luận nhận thức trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX cũng phát triển hợp với khoa học hiện đại qua những công trình của M. De Mey với The Cognitive Paradigm, 1982 vẽ lại khởi sinh theo quan điểm tri năng gần với Piaget, áp dụng những phương pháp theo lượng  vào truy cập những nguyên mẫu để phát hiện những cấu trúc xã hội, Theory and Experiments, 1988 do D. Batens và J.-P. Van Bendegem xuất bản là những tham luận trong hội nghị quốc tế về lịch sử và triết học về những khoa học tổ chức ở Gand và Bruxelles năm 1986, nói đến những vai trò của thực nghiệm trong khởi sinh và thử nghiệm những lý luận, cũng như vai trò của những quan niệm lý luận trong khoa học. Khảo về năng động của nhận thức, D. Batens xuất bản Menselijke Kennis, Pleidooi voor een bruikbare rationaliteit/Kiến thức con người, Biện thuyết cho một lý tính hữu ích, 1992 phê phán chủ nghĩa duy lý truyền thống cũng như chủ nghĩa phản lý. Ông cũng xây dựng một quan niệm nhận thức dựa trên ý nghĩa, chấp nhận và thông giao một cách hệ thống, bảo vệ một hình thái lý tính không đề ra những yêu cầu khó đạt của chủ nghĩa duy lý cổ điển và tiện cho con người thu nhận như những hệ thống phụ của thực tại.
Trong thập niên 80 này, triết học về những ngành khoa học đặc thù cũng phát triển trên cơ sở giải thích chức năng, tiêu biểu qua tác phẩm Evolutionary Explication in the Social Sciences, an Emerging Paradigm, 1981 của Philippe Van Parijs (1951-), tác giả truy vấn những điều kiện để hoàn tất một giải thích chức năng, những khả năng truyền giao/transfert giải thích chức năng trong những khoa học xã hội. J.-P. Van Bendegem ở Đại học Văn khoa Gand viết một chuyên luận nhan đề Finite, Empirical Mathematics, Outline of a Model, 1987 còn triệt để hơn những nhà duy trực giác và duy cấu trong việc bác bỏ vô cực hiện năng cũng như tiềm năng và tái xây dựng toán học cổ điển trên cơ sở duy hạn (ví dụ, 1/3 không còn được quan niệm như một số thập phân 0.3 mà coi như một thủ tục tiến hành chia 1 bởi 3), nhằm giúp cho tri giác những những chỗ tách mà toán học vô cực xóa bỏ, chẳng hạn, tương phản giữa cái nhỏ hữu hạn và cái lớn hữu hạn tương ứng trong một đo lường nhất định với đối lập giữa cái giải được và cái khả xác (không giải được  trong lý luận chứng cớ. I. Prigogine và I. Stengers viết tác phẩm Entre temps et l'éternité/Giữa thời gian và vĩnh cửu, 1988 tra vấn những lý do mà khoa vật lý học từ khởi nguồn  đã chọn phủ nhận mũi tên thời gian và mô tả một bản nhiên quán tính , nhằm lập lại vô hạn cái đồng thể đó, dựa vào những định luật phi thời và tất định; các tác giả này chỉ ra thái độ này đã làm cho thế giới khoa học và thế giới đời sống xa lạ vgới nhau một cách triệt để, đồng thời họ cũng vẽ ra một khoa học mới xuất hiện có khả năng giảm trừ xa cách này và chứng nhận hiện diện của mũi tên thời gian ở mọi mức độ của thế giới vật lý, từ nguyên tử H cho đến vũ trụ xét trong toàn bộ. Những công trình  của P. Kerszberg The Invented Universe, 1989 nghiên cứu tranh biện giữa Einstein và De Sitter chỉ ra sự phát triển của khoa vũ trụ luận tương đối, M. Ghins  đưa ra một phân tích triết học trong L'inertie et l'espace-temps absolu de Nrewton à Einstein, 1990 chứng minh cấu trúc của không-thời gian tương ứng với một lý thuyết vật lý làm sao cho những hiệu quả quán tính phải được giải thích đúng  và trong chiều hướng này có thể quan niệm một không-thời gian tuyệt đối. Năm 1992 Les dieux postmodernes của G. Miedzianagora chỉ ra những thăng trầm trong quan hệ của triết học và vật lý học, đồng thời đưa ra một quan niệm mới về hữu vật lý, ý thức, tình cảm và tư tưởng.
Về mặt triết học tổng quát, phải kể công trình của J. Ladrière (dạy Đại học Louvain) L'articulation du sens, 1984  bao gồm toàn trường sở triết học, khởi từ ý niệm của Wittgenstein coi ngôn ngữ có thể sử dụng theo nnhững mô thái khác nhau, liên đới chặt chẽ mang một hình thức sống trong khoa học cũng như tín ngưỡng. A. Burms và H. de Dijn xuất bản De Rationaliteit en haar grenzen, Kritiek en deconstructie/Lý tính trong toàn bộ, Phê phán hủy tạo, 1986 chỉ ra ba mối ưu tư cơ bản của con người làkhát vọng tạo ảnh hưởng đến những sự biến, khát vọng hiểu biết và khát vọng mang lại một ý nghĩa; quan hệ giữa ba chuyên niệm này là khởi điểm của việc nghiên cứu nguyên ủy những vấn đề triết học tiếp cận chủ nghĩa cá nhân, đến tôn giáo và quan hệ giữa khoa học và thực tại. Cùng thời điểm này. M. Meyer (1950-) đưa ra De la problématologie, xem triết học như một vấn tính luận vì tra vấn là nguyên lý tiếp âm/principe articulatoire của lý tính hiện đại. Meyer muốn vạch ra con đường thứ ba ra ngoài chủ nghĩa hư vô và thực chứng đưa vấn tính trong vận động tích cực của nó; trong tác phẩm mới xuất bản năm 2000 Questionnement et historicité ông xác định vấn tính luận vẫn là triết học mới trong tính triệt để sâu sắc nhất cho thế kỷ 21 này trở đi.
Triết học Bỉ cũng có thiên hướng đạo đức như  Pháp nên rất nhiều tác phẩm tập trung vào mối liên hệ với sự phát triển mau lẹ của kỹ thuật như Pour une éthique dans un univers technicien (le Paradigme historique), 1984, Evaluier la technique, 1988, Du sens cơmun à la Société de communication, 1988 của G. Hottois (1946-) quan niệm nhân loại là một giây liên kết những khả hữu hơn là bản chất hay tự nhiên; Ta al en Ethiek/Ngôn ngữ và đạo đức, 1989 của J. Ruytinx gồm những tiểu luận đặt trọng tâm vào những hỗ trợ khả hữu của những khoa học khác nhau đối với đạo đức học, những thuộc từ đạo đức tổng quát có một nội dung xuất phát từ hệ tư tưởng, những năng hướng tinh thần có thể thống nhất con người bị những ý thức hệ trái nghịch nhau phân rẽ.
Về mặt mỹ học, Expérience esthétique et ontologie, 1988 của D. Lories lần đầu tiên đã đề xuất một sở cứ chung cho hai truyền thống mỹ học xa lạ với nhau là hiện tượng luận và triết học phân tích, dựa trên tiên đề lẽ thường trong tác phẩm Phê phán quyền năng phán xét của Kant. Cũng trong năm này, H. Parret đưa ra một nghiên cứu hiện tượng luận về Cái cao nhã thường ngày/Le sublime du quotidien vén mở những mối quan hệ nhân quả không ngờ liên kết những tình cảm nhẹ nhàng đột phát với chỗ đoạn tuyệt của cao nhã.
Triết học luật/Rechtsphilosophie là một bộ môn có truyền thống lâu đời, song khá phức tạp về mặt ý nghĩa, bản chất  (xác định pháp luật hay quyền của con người? - từ thời cổ đại hy lạp, óρθóς là một ẩn dụ hình học, trong những ngôn ngữ hệ La tinh, hệ Đức/Nhật nhĩ man, hệ Sê-mít/Tiếu Á tế Á như  ngữ Ả rập, ngữ Do thái - mà ý nghĩa cơ bản là phù hợp với quy tắc/rectum. Kant định nghĩa là hành động phù hợp với bổn phận, hay toàn bộ những điều kiện mà ý chí cá nhân của người với tha nhân phù hợp với quy luật phổ quát của tự do. Erich Fechner so sánh triết học luật với triết học hiện sinh, triết học luật về mặt xã hội học và siêu hình học. Xem: luật) với G. Haarscher (dạy ở Đại học Bruxelles) trong hai tác phẩm Philosophie des droits de l'homme/triết học về những quyền của con người, 1987La raison du plus fort/Lý của kẻ mạnh, 1988 xét đến chuyển biến ghê gớm của quan niệm chính trị trong thời đại mới, đi đôi với trói buộc lý trí vào một vai trò thuần túy công cụ và ông đưa ra quan niệm phục hồi thuần lý trong những đặc quyền phê phán. Van Parijs khảo sát những đáp ứng hiện đại của lý luận thực dụng, lý luận tự do chủ nghĩa, lý luận Mác-xít phân tích, lý luận của John Rawls hay những xu hướng cộng đồng cho vấn đề  “thế nào là một xã hội công bình? trong tác phẩm xuất bản năm 1991 Qu'est-ce qu'une société juste? Introduction à la pratique de la philosophie politique.
Marc Richir, triết gia hiện tượng luận đương đại, người được coi như làm cuộc cải cách hiện tượng luận Husserl (với năm tác phẩm từ 1981 đến 1990: Recherches phénoménologiques I và II, Phénomènes,temps et êtres: ontologie et phénoménologie, Phénoménologie et institution symbolique, La Crise du sens et la phénoménologie) đã phác họa một triết học chính trị mới trong tác phẩm Du sublimes en politique, 1992 đặt vấn đề cơ sở xã hội chính trị hiện đại qua những chấn động cách mạng, nhằm tách rời tính đặc thù của vấn đề dầy những phức tạp này với truyền thống cổ của chủ nghĩa chuyên chế. Những công trình về lý luận hành động dưới quan điểm triết học phân tích do M. Neuberg xuất bản năm 1991,
Về mặt lịch sử triết học, những công trình đồ sộ của Lambros Couloubaritsis (gốc hy lạp, sinh ở vùng Congo thuộc Bỉ năm 1941) từ 1980 La Physique d'Aristote, l'avènement de la science physique nhằm chỉnh lại lối nhìn truyền thống về lý luận chuyển động của Aristote, Mythe et Philosophie chez Parménide, 1986, Aux origines de la philosophie européenne - de la pensée archạque au néoplatonisme, 1992, Histoire de la philosophie ancienne et médiévale,1998. Trong tác phẩm triết sử 1992, tác giả muốn rút ra những vấn đề ở mỗi thời đại tương ứng với con người trong thế giới vây quanh và theo viễn cảnh chung của những nguyên lý cho con người để giải thích nguyên ủy của mọi vật; trong tác phẩm triết sử 1998, khởi từ nghiệm đoán những khả hữu của hành trình triết học trong suốt lịch sử của nó tạo thành một chướng ngại vật nghiêm trọng do việc không thể làm chủ toàn bộ những khả hữu này. Những công trình như Etudes de philosophie ancienne,1986 của J. Croissant, Historische Inleiding tot de Wijsbegeerte/Nhập môn lịch sử triết học, 1989  của C. Steel, An Annotated Bibliography of Ibn Sina, Including Arabic and Persian Publications and Turkish and Russian References, 1991 của Jules Janssens trong khu vực triết học Cận Đông, dịch thuật và nghiên cứu triết học Nhật bản của Bernard Stevens như Topologie du néant. Une approche de l'école de Kyoto,2000; Le néant évidé. Ontologie et politique chez Keiji Nishitani,2003; Invitation à la philosophie japonaise. Autour de Nishida, 2005; những chuyên khảo về Hobbes, Descartes, Hume, Kant, Hegel và những triết gia đương đại  của nền triết học Pháp, Anh-Mỹ v.v... S. Ijsseling và nhóm của ông ở Đại học Katholieke Universiteit Leuven góp phần vào việc xuất bản những tác phẩm của Husserl trong Thư khố Husserl; những triết gia như J. Taminiaux, Isseling với những công trình hiện tượng luận, hay liên hợp hiện tượng luận với triết học phân tích  của H. Parret.     
Từ điển triết học giản yếu
28
(tiếp theo)


Bồ đào nha, Triết học Triết học của xứ sở Pessõa và Saramago cho đến nay không phát triển nhiều, kể từ thời Chống Cải cách. Trường phái dòng Tên đã giữ vai trò chủ đạo ngay từ thời Trung cổ, với Pedro da Fonseca (1528-1599), người được mệnh danh là Aristote của Bồ đào nha, dạy ở Evora và Lisbão, viết những bình luận siêu hình học của Aristote và một tác phẩm Institutiones dialecticae, 1564, Damião de Góis (1502-1574) nhân vật biểu tượng thời phục hưng với tinh thần bách khoa, giữ vai trò sứ thần qua nhiều nước như Lituanie, Đan mạch, Đức, Thụy điển, Pháp, Ý, là bạn thân của Ėrasme, dịch nhiều tác phẩm từ tiếng La tinh của Cicéron. Những dòng tư tưởng chính là chủ nghĩa tăng lữ, chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa Kant. Vào cuối thế kỷ 18, triết học của Locke và Condillac thống trị ở đại học Bồ; tác phẩm Art de Penser của Condillac được dịch sang tiếng Bồ và xuất bản năm 1818, những tu sĩ Giáo đoàn Oratoire như John, Luiz Antonio Verney và Theodoro d'Almeida giới thiệu những hệ thống tư tưởng mới vào sinh hoạt triết học. Cuối thế kỷ 19, Hàn lâm viện dòng Thomas được thành lập ở Coimbra, và tạp chí Insticoes christas xuất bản để quảng bá triết học Tô-mít.Nhiều tác phẩm triết học của viện xuất bản nhằm làm sống lại triết học tân Kinh viện với Thiago Sinibaldi, Pereira Gomez de Cavalho và  Bernado Augusto de Madureira. 
Cuộc cách mạng cho tự do xã hội, mệnh danh là Cách mạng Cẩm chướng vào năm 1974 đã mở ra những triển vọng mới theo đà triết học của vùng Lusitanie. Ở một chừng mực, tinh thần đa nguyên đã tồn tại muôn màu muôn vẻ, như chủ nghĩa thực chứng duy lý mới của A. Sérgio đến chủ nghĩa duy tâm của L. Coimbra, chủ nghĩa hợp nhất bảo thủ của A. Sardinha hay Arturo Moreira đến chủ nghĩa hư vô với A. Forjaz, chủ nghĩa Mác với B.J. Caraça, chủ nghĩa chiết trung với Joaquim de Carvalho. Song vào lúc cuộc chiến chống thực của Angola và Mozambique kết thúc giành được độc lập từ Bồ đào nha, những người trí thức của nước này phải xét lại ý thức dân tộc, đến việc thiết lập nền dân chủ chính trị và mở cửa với các nước châu Âu và thời đại mới. Triết học Bồ cũng muốn vươn lên khỏi mặc cảm tự ti và tinh thần chờ đợi.
Tinh thần tăng lữ muốn vươn lên khỏi trì trệ trung cổ với những thuyết tân Tô-mít và tân Suarez, nhất là từ Đại hội triết học toàn quốc lần thứ nhất tổ chức vào năm 1955 ở Đại học Thiên chúa giáo Braga. Dưới sự thúcđẩy của những nhà tu dòng Tên, tư tưởng của F. Súarez, Molina và Fonseca là đối tượng thảo luận trong tinh thần đổi mới, với những biểu tỏ của José Bacelar de Oliveira và Lucio Craveiro da Silva trên tạp chí Revista portuguesa de filosofia, nhằm tiếp cận với những nguồn triết học khác biệt nhất.
Dòng tư tưởng Phan xi cô, hay theo Bonaventure, Scotus tuy là thiểu số song có ảnh hưởng  cũng phát triển ở Leira với João Ferreira và tạp chí Itinerarium, ở Lisboa với Francisco Da Gama Caeiro.
Chủ nghĩa duy nhân từ tạp chí Esprit của người sáng lập Emmanuel Mounier ở Pháp có những truyền  nhân ở Bồ như Joao Benard da Costa, Isidoro Ribeiro da Silva, Alcada Baptista v.v…Học thuyết của Teilhard de Chardin cũng được truyền bá ở đây với Ana Luisa Janeira trong tinh thần tiến bộ. Ngoài ra, tư tưởng của nhiều triết gia Pháp cũng tạo nhiều ảnh hưởng, như Alvaro Ribeiro du nhập triết học Ravaisson, Boutroux và Bergson, nhiều người khác theo Paul Ricoeur, hay Lavelle. Luis de Araújo trong A etica como pensar fundamental/Đạo đức học như một tư tưởng cơ bản dựa trên Unamuno, Kierkegaard và José Aranguren.
Những chủ nghĩa hoạt lực và hiện sinh phát triển trong thời kỳ này, như José Marinho với Verdade, condição e destino no pensamento português contemporâneo/chân lý, điều kiện và định mệnh của tư tưởng bồ đào nha hiện đại, Eduardo Lourenço với những tác phẩm luận về trầm cảm như Huyền thoại học trầm cảm, Mê cung trầm cảm/O Labirinto da saudade dưới cái nhìn tâm phân học huyền thoại về định mệnh bồ đào nha. Lourenço đã viết nhiều tác phẩm về văn hào vĩ đại của Bồ đào nha Fernando Pessõa (như Pessõa, người xa lạ tuyệt đối; Pessõa, quân vương xứ Bavière của chúng ta/Fernando Rei da Nova Baviera ), cũng như José Gil (sinh năm 1938 ở Muecate xứ Mozambique, từng bị lưu đày dưới thời Salazar) dạy ở Đại học tân lập Lisboa/Universidade Nova de Lisboa và Đại học quốc tế triết học ở Paris/Collège Internationale de philosophie khảo về siêu hình học chủ cảm của Pessõa (Fernando ou A Metafisica das Sensações, 1988), hay Virgilio Ferreira tuyên xưng chủ nghĩa hiện sinh vô thần cũng bắt nguồn từ cảm hứng Pessõa.
Hiện tượng luận đã thực hành ở Bồ đào nha trước năm 1975 thực sự phát triển từ hội nghị 1985 ở Braga với Eduardo Silvério Abranches de Soveral (nghiên cứu Deleuze, Derrida, Desanti và Duméry), Pedro Araujo Figueiredo (nghiên cứu Husserl); tạp chí triết học Revista portuguesa de filosofia ra số đặc biệt về Heidegger với những nghiên cứu của Carlos Henrique do Carmo Silva , của Costa Macedo xét quan hệ của Heidegger với khoa học trên tạp chí Văn khoa Revista da Faculdade de Letras, Luis de Araújo sử dụng phương pháp hiện tượng luận với quan điểm hiện thực để nói về bản chất triết học trong O problema da filosofia cristà I. Sobre a essência da filosofia.
Chủ nghĩa tân duy lý xuất hiện với Manuel Antunes (theo Hegel và dạy ở đại học Lisboa), Joel Serão (dạy đại học Lisboa, chủ tịch hội triết học Bồ), Barahona Fernandes, Sottomayor Cardia, Lourenço Heitor Chaves de Almeida. Chủ nghĩa Mác đã du nhập từ trước Thế chiến thứ nhất, với Bento Gonçalves, Bento de Jesus Caraça, Vasco de Magalhàes-Vilhena theo trường phái Lenin song bài bác chủ nghĩa giáo điều, quan niệm cái thực phản ánh trong óc con người không như tấm gương hay máy chụp ảnh, nhưng như những hệ thống tự điều khiển , những thiết bị điều khiển học, hay lớp thế hệ sau như Vital Moreira, Alvaro Mateus, Eduardo Chitas. Chủ nghĩa tân thực chứng phát triển luận lý và nhận thức , từ đầu thế kỷ XX với Sampaio Bruno, từ 1928 với Delio Nobre Santos, José Tiago de Oliveira. Như Manuel Maria Carrilho quan niệm phải đặt lại câu hỏi khoa học là gì? trong những quan hệ với toàn trường của phi khoa học, xét đến những vấn đề tổ chức và truyền bá tri thức khoa học, phát kiến và thay thế những lý luận, nhằm phát triển và thống nhất những tri thức khoa học, dựa trên lý luận của Foucault, Peirce, Popper và Kuhn. Trong viễn tương chủ nghĩa thực chứng luận lý, xuất hiện những Fernando Gil, Ruiz Luis Gomes, Abel Salazar, Luis Neves Real, Adalberto Dias de Carvalho. Ana Luisa Janeiro viết về những người tiên khu trong khoa học về Canguilhem, Jacob, Foucault v. v..Adelio Costa Melo phê phán Wittgenstein và Carnap.
Nhiều nhà triết học tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử triết học, từ cổ đại đến hiện đại, những chuyên luận về Descartes, Kant, Hegel. Những công trình về lịch sử triết học Bồ đào nha như Historia da filosofia em Portugal của Lopez Praça, Historia da filosofia em Portugal nas suas conexōes politicas e sociais của Manuel Dias Duarte, Correntes de sentimento religioso em Portugal của José Sebastiāo da Silva Dias, những công trình của Francisco da Gama Caeiro. José Marinho nhận xét về triết học Bồ đào nha hiện đại “ở trong một khu vực kỳ bí, ở đó con người và lý trí con người tra vấn tích lũy và đa biệt về chính người và lý trí của người.                                  


Badiou, Alain: Alain Badiou sinh năm 1937 ở Rabat, thủ đô xứ Maroc, theo học trường Cao đẳng Sư phạm từ 1956 đến 1961 và dạy ở Đại học Paris VIII/Vincennes-Saint Denis từ 1969. Như vậy, ông là một trong những người như Camus, Althusser, Derrida đến Paris từ những thuộc địa cũ của Pháp và thành danh. Thế hệ của Badiou với những François Laruelle, Michel Haar, André Glucksmann, Dominique Janicaud cùng sinh năm 1937, Marguerite Léna, Clément Rosset (1939), Lacoue-Labarthe, Jean-Luc Nancy, J. Bouveresse, Jean-Marc Lévy-Leblond (1940), Michel Fichant, Julia Kristeva, Michel Malherbe, Jean-Claude Milner (1941), Jacques Poulain, Etienne Balibar, Jean Greisch, Eric Blondel, Jean-Marie Benoist (1942), Dominique Lecourt, Gilles Lipovetsky, Jean Petitot (1944), Sylviane Agacinski, Benny Lévy, Jean-Michel Berthelot (1945), Jean-Marc Ferry, Rainer Rochlitz (1946), Alain Renaut, Bernard Henri-Lévy, Gérard Bensussan (1948), Luc Ferry (1951)… cùng những tác phẩm của họ xuất bản khoảng thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi thể hiện một sinh hoạt triết học mở đường vào thế kỷ 21.
Hành trạng tư tưởng Badiou có thể kể từ tác phẩm Théorie du sujet/lý luận chủ thể, 1982 đến L'Être et l'Evénement 1/Hữu thể và Sự biến 1, 1988 rồi tới 18 năm sau Logiques des Mondes/Những luận lý về những thế giới - l'Etre et l'événement 2, 2006 là một hệ thống - kể từ cấu trúc luận, nhà triết học không ngần ngại trở lại truyền thống hệ thống hóa lý luận.
Nhìn toàn bộ văn bản của Badiou, người ta có thể nhận xét ông cũng như nhiều nhà triết học đương đại như Agamben, Alliez, Zizek, Hưsle, Poulain, François Wahl v.v.. là những người khởi sự của triết học thế kỷ 21.                                               
Badiou được đào tạo trong lãnh vực triết học, song ông quan tâm đến toán học (đã viết một quyển sách nhan đề Le Nombre et les nombres/Số và những con số cùng với quan niệm: những toán học là hữu thể luận), về mặt chính trị, sau biến động tháng Năm 1968, như nhiều người cùng thế hệ đã có khuynh hướng cực tả thành lập Đảng Xã hội thống nhất/PSU và tham gia những nhóm cộng sản cực đoan và phong trào theo Mao/Mao-ít, như UCFML (như nhóm Tel Quel, Rossana Rossanda ở Ý, nhóm Philip Corrigan, Harvie Ramsay, Derek Sayer ở Anh) - phong trào này đã tàn mau vì không có cơ sở lý luận thích đáng. Tuy Badiou bầy tỏ không hối tiếc thời gian hoạt động theo Mao-ít, song khi trưởng thành, ông đã từ bỏ con đường lầm lạc đó.
Con đường nghiên cứu của Badiou có thể vẫn tiếp tục khai triển như tham vọng trí thức của ông muốn kết tập thành một Luận lý học lớn (có thể sánh với bộ Wissenschaft der Logik của Hegel; đề cương luận lý của Hegel trình bầy thành hai quyển: Erstes Buch là lý luận về hữu thể/die Lehre vom Sein, Zweites Buch là lý luận về bản thể/die Lehre vom Wesen - Hegel gọi những lý luận này thuộc Luận lý học khách quan để phân biệt với Luận lý học chủ quan là lý luận về khái niệm/die Lehre vom Begriff. [Xem: Hegel]) là tác phẩm Logiques des mondes tiếp theo quyển l'Etre et l'événement 1 với đề cương gồm bẩy quyển trong một bộ: quyển 1: Lý luận hình thái về chủ thể/Théorie formelle du sujet (Siêu-hình học); quyển hai mệnh danh là khoa Đại luận lý xét về khái niệm siêu nghiệm/le transcendantal và tất yếu của một tổ chức siêu nghiệm của những tình thế hữu thể/situations d'être; quyển ba của Đại luận lý xét về một tư tưởng mới cho khách thể/l'objet và luận lý vi trần/logique atomique; quyển bốn của Đại luận lý xévề quan hệ/la relation với đề cương hai của chủ nghĩa duy vật coi mọi quan hệ phô bầy phổ biến; quyển năm là bốn hình thái của biến đổi và luận lý của những cảnh sắc/sites; quyển sáu là lý luận của những điểm/points và cấu trúc luận thế/topo-logique của những điểm trong một thế giới; quyển bẩy hỏi cơ thể là gì? Kết luận của toàn bộ luận lý là để hỏi: sống là gì?
Triết học theo Badiou dưới bốn điều kiện như một chuỗi xích xuyên suốt dòng tư tưởng: khoa học, nghệ thuật, chính trị và ái tình. Như trong lời tựa tác phẩm dẫn trên, Badiou đưa ra bốn ví dụ: toán học như con số, nghệ thuật như ngựa, chính trị như nhà cách mạng, ái tình như từ Vergile đến Berlioz. Bốn phạm trù Badiou đề ra tương ứng với tứ tượng/geviert trong quan niệm của Heidegger là trời, đất, thần, nhân song ở nơi Badiou cụ thể và rất người là nhà khoa học, nghệ sĩ, nhà chính trị và tình nhân. Cho nên trong quan niệm của Badiou, không chỉ có một đạo đức mà bản chất mang tính cách tôn giáo, tập trung vào Nhất thể, nhưng có nhiều đạo đức như đạo lý chính trị, đạo lý tình yêu, đạo lý khoa học, đạo lý nghệ thuật tùy vào sự biến đối với chủ thể đương đầu, không phải chủ thể hiện còn, điều đó nhằm minh thi một đạo đức sự biến không phải một đạo đức hữu thể luận.
Hữu thể và Sự biến là tác phẩm xuất bản năm 1988 với liênj tự và/et có một lịch sử nối dài từ Hữu và Thời/Sein und Zeit của Heidegger đến Hữu và Vô/L'Être et le Néant  của Sartre, như một thách đố triết lý vì những lý do:
Vấn đề hữu thể luận là xét đến hữu thể như thể hữu thể/l'être en tant qu'être, như thể nó/being as such? Hay có thể nói đến hữu thể theo nhiều lối?
Hiểu như cách thứ nhất, có phải xác định như Parménide: có hữu, không có vô-hữu, hiểu như duy nhất, vô thủy vô chung, không nguyên nhân, thống nhất tư duy với hữu? Hay như nguyên văn của Aristote: to de on lέgetai men pollacώσ mở đầu thiên sách bốn của bộ Siêu hình học, nhắc lại nhiều lần như trong thiên sách thứ sáu, bẩy v.v.. mà Franz Brentano mở đầu chương một trong tác phẩm Von der mannigfachen Bedeutung des Seienden nach Aristoteles, 1862 khai triển bốn khu biệt là tùy thể/on kata symbebekos, trong ý nghĩa thực/on hos alethes, của những phạm trù/on, trong hiện thể và tiềm thể/on dynamei kai energeia. Hữu thể mang nhiều nghĩa, chủ yếu là bốn điều kiện dẫn trên, như vậy không là nhất thể như Parménide, nhưng là nhất thể và phức thể, nơi Aristote là bản thể và những phạm trù khác.
Ở Heidegger, hữu thể và thời gian xác định lẫn nhau , nhưng không phải theo nghĩa  có thể nói đến hữu thể như một cái gì có thời tính hay thời gian như một cái gì như thể hữu - có hữu thể (có ở đây hiểu theo nghĩa es gibt/il y a) và có thời gian. Ở Sartre, có hư vô ở trong lòng hữu thể, để người ta có thể hiểu được thực tại của cái gọi là tính phủ định. Cả hai Sartre và Heidegger đề khởi từ quan niệm hiện tượng luận.
Badiou thuộc thế hệ triết học chống hiện tượng luận; khởi đi từ quan hệ hữu thể và sự biến, là xét đến mặt hữu thể luận, tức là khoa học tìm hểu hữu thể như chính nó, song mặt khác, sự biến là cái gì xẩy đến như một cắt đứt với hiện tượng luận, có thể xét theo quy trình như sơ đồ sau đây
                        1                                  2
                hữu của sự biến    ↔         sự biến của hữu
                 ↕                                          ↕
                         3                                  4
               sự biến liên kết              và” của hữu và sự biến
               hữu và xuất hiện                  gọi là “chủ thể

Chủ thể: đó là chủ đề của tác phẩm Théorie du sujet, 1982 vào thời kỳ Badiou chịu ảnh hưởng của hai người thày: Louis Althusser và Jacques Lacan song đã rõ ràng xác định vị thế duy vật, và biện chứng cấu trúc. Trong giai đoạn này, Badiou còn đang trên đường dò dẫm tìm hiểu chủ thể chính trị để lĩnh hội khu biệt của lịch sử và chính trị, quần chúng và giai cấp, cũng giống như lĩnh hội khu biệt giữa Toàn thể và Nhất thể . Ông nhận ra trong Đại Luận lý của Hegel trực giác duy vật thâu gồm trong bộ tứ/quadruple: bốn hạn từ của phân nhịp kép là trường sở/lực lượng/chủ thể tính/khách thể tính, không phải ba hạn từ của tha hóa là khẳng định/phủ định/phủ định của phủ định. Ông cũng tìm thấy ở Hegel hai công lý: trật tự đạo đức chủ yếu dựa trên quyết định trực tiếp, và quyền tuyệt đối của ý thức đạo đức là tác dụng kỳ thành không gì khác hơn điều nó biết; tuy nhiên ông không đồng ý với Hegel về đạo đức/Sittlichkeit phụ thuộc vào luân lý/Moralität vì đạo đức chính là quyết định (ví dụ ông nêu ra, như Villiers de l'Isle-Adam và Rimbaud, dầu tự sâu xa phi chính trị, đã đứng về phía Công Xã - nếu không có những quyết định, đã không có vấn đề chính trị). Ngay từ Théorie du sujet, kết thúc bằng chương VI là những mục tiêu của đạo đức, Badiou đã có tham vọng xây dựng hệ thống tư tưởng.
Trong tác phẩm này, ông đã nói đến việc sử dụng toán học cho riêng ông, vì toán học là khoa học của cái thực và những biểu thị của toán học thật đáng kể. Le Nombre et les nombres, 1990 thực hiện lý luận của Badiou về toán học, giải đáp mối quan tâm sử dụng toán học như một quá trình phương pháp luận, nói đúng hơn, một hữu thể luận. Tác phẩm này xuất hiện sau tác phẩm chính L'Etre et l'Evénement như một giải đáp cho quan niệm: toán học là hữu thể luận. Tại sao lại con số? Badiou nói ngay cái nghịch lý: chúng ta sống thời đại chuyên chính của con số, tư tưởng quy phục dưới quy luật của những phức số liệt cử. Trong cái đế quốc hiện tại của số, không phải về tư tưởng, nhưng về những thực tế (điển hình như trong quan niệm chính trị, con số nói lên những cuộc thăm dò dư luận, bầu cử; con số ngự trị hầu như toàn diện những khoa học nhân văn, tràn ngập thống kê, trong những biểu tương văn hóa, kinh tế v.v..). Badiou khẳng quyết: song chúng ta không biết con số là gì, cho nên chúng ta không biết chúng ta là gì.
Tuy nhiên công trình của Badiou không giống như công trình số học của Frege,  Husserl, hay Russell tuy ông thảo luận và phê phán những nhà toán học Frege, Dedekind, Peano, Cantor vì như ông xác định: “học thuyết Số mà tôi chủ trì ngay cả thuật ngữ của tôi và phản hưởng mà tôi cho nó trong tư tưởng triết học (tôi cho in nghiêng-ĐPQ) rất khác biệt…  nhằm minh thi quan điểm “con Số là một hình thái của Hữu thể.
Những vấn đề chính của triết học Badiou đưa ra là: Sự biến, Nhất thể hay Phức thể, Siêu việt hay Nội tại, Duy tâm hay Duy vật, chân lý và chân không…
Một tư tưởng công chính về phức thể tiêu biểu là hai nhà triết học thời quá độ: Deleuze và Badiou. Có thể nói Deleuze là người thày và cũng là đối tượng tranh biện trên cuộc hành trình đi tìm chân lý của Badiou. Vậy đâu là vị thế triết học?
Hữu thể và Sự biến khởi đầu bằng phân tích tình trạng triết học mà ba dòng chính là: Với Heidegger, định tính lại triết học do con đường khúc chiết từ Parménide trong cái gúc mắc hữu/vô hữu/tư duy (gúc mắc này bắt nguồn triết học); với triết học phân tích, những đột biến tóan học, luận lý học, trường phái Vienne đã dấy động cách mạng toán luận mang tên Frege-Cantor chỉ ra những định hướng mới cho tư tưởng; sau cùng phải nhìn nhận là không một bộ máy tư niệm nào thích đáng nếu không đồng tính với những hướng đi lý luận-thực tiễn của tân học thuyết chủ thể, mà chính học thuyết này nằm trong những quá trình thực tiễn (có thể thuộc về chính trị, hay lâm sàng; có thể là phi triết học mang những tên tuổi như Lenin, Freud, Lacan, Foucault?).
Từ góc nhìn triết học, Badiou nhận xét, chúng ta là người cùng thời với kỷ nguyên thứ ba của khoa học, sau thời hy lạp và Galileo, thời cải cách xác thực bản nhiên của bệ đài toán học thuần lý, cùng thời với kỷ nguyên thứ hai của học thuyết Chủ thể, không phải chủ thểxây dựng, sáng lập và phản tư, như từ Descartes tới Hegel, thông qua Marx, Freud, Husserl rồi Sartre, mà là chủ thể rỗng không, tách thớ, phi bản thể, vô phản tư, và sau cùng là đồng thời với một khởi đầu  liên quan đến hoc thuyết chân lý, sau khi quan hệ liên tục hữu cơ với tri thức đã thất bại.
Alain Badiou từ tác phẩm này thử một lộ đồ khởi sự triết học mà tôi gọi là vì thế kỷ mới trong cái phức hợp hiện đại những điều kiện triết học” như lịch sử tư tưởng phương tây”, những toán học hậu Cantor, phân tâm học, nghệ thuật hiện đại và chính trị. Những phạm trù này cấu thành trật tự chung của một tư tưởng có thể thao tác trong suốt dọc lộ trình quy chiếu đương đại.
Từ điển triết học giản yếu
29
(tiếp theo)


Badiou, Alain: (tiếp theo) Triết học về sự biến đã khởi từ Gilles Deleuze nói lên mối quan hệ tương tranh bằng hữu giữa Badiou và Deleuze (hiển nhiên, trong quá trình lịch sử triết học đã diễn ra nhiền lần, từ Platon/Aristote đến Husserl/Heidegger …); sự biến là đối tượng chủ yếu trong các tác phẩm của Deleuze, như ông xác định trong cuộc mạn đàm với Raymond Bellour  và François Ewald về triết học: trong tất cả những sách của tôi, tôi đi tìm bản tính của sự biến, đó là một khái niệm triết lý, khái niệm duy nhất có khả năng phá hủy động từ être/hữu/là và thuộc từ. (tháng chín năm 1988), trong một mạn đàm khác cùng năm, Deleuze còn nói rõ hơn về lý luận sự biến khi ông phân tích sự khác biệt giữa quan niệm của giới truyền thông về sự biến thường chỉ ra khởi đầu hay kết cuộc, trong khi một sự biến ngay cả ngắn ngủi hay tức thời cũng vẫn liên tục, truyền thông chỉ muốn cảnh tượng, trong khi sự biến không tách rời quãng nghỉ/temps morts: quãng nghỉ ở trong sự biến”chính nghệ thuật, không phải truyền thông, có thể nắm được sự biến (chẳng hạn, như điện ảnh với Ozu, hay Antonioni) cho nên ông đã viết về khái niệm sự biến này, chính vì ông không tin vào sự vật. Tác phẩm Deleuze muốn nói đến là Le Pli/Nề nếp, 1988 về Leibniz, Whitehead với quan niệm tất cả là sự biến”. Badiou đã giành một bài viết trên Annuaire philosophique/Niên giám triết học 1988-1989, tỏ ra cảm nhận sâu sắc về tác phẩm này. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa Deleuze và Badiou chung quanh những vấn đề phức thể, nội tại, sự biến, duy vật, chân không và vô cùng diễn ra tranh biện, như Badiou nhận xét thật là một lịch sử lạ lùng như lịch sử về mối phi quan hệ của tôi với Gilles Deleuze, nghĩa là chạm mặt song không gặp gỡ - Badiou đã viết hẳn một thiên sách Gilles Deleuze: la clameur de l'être/ầm ĩ của hữu thể, 1997  và tiếp nối là Court traité d'ontologie transitoire/sơ khảo hữu thể luận ngoại tại, 1998 nhằm phê phán Deleuze. Khác biệt là cơ bản, vì chính Deleuze từng phát biểu: một triết học không làm phiền lòng người và không nói nghịch với người không là một triết học.
Badiou nhận xét Deleuze là người đầu tiên hiểu hoàn toàn việc một siêu hình học hiện đại tất yếu phải là một lý luận những phức thể, và nắm bắt được những đơn nhất…Ông đã xác định rõ là thực hiện chân lý của hữu đơn nghĩa đòi hỏi người ta nghĩ đến sự biến đến của hữu này. Chương trình đáng kể này cũng là chương trình của chúng tôi.
Về phần Deleuze, ông ít nói về Badiou, song trong tác phẩm viết chung với Guattari Qu'est-ce que la philosophie?/triết học là gì?, 1991 ở chương luận sự khu biệt giữa triết học sáng tạo những khái niệm với khoa học lập thành những chức năng và trạng thái sự vật (khái niệm triết học không thể giản lược vào những chức năng khoa học và luận lý vì những khái niệm triết lý khiến người ta có thể hiểu tính ảo và sự biến mà nhờ đó có thể vẽ ra sự xác định và tham chiếu một trạng thái của sự vật, của một đối tượng, một cơ thể hay một cái sống một cách tương đối và chuyển tiếp), một chức năng đúng ra như Deleuze khẳng định, một so sánh như vậy có vẻ tương ứng với công trình của Badiou, đặc biệt đáng quan tâm trong tư tưởng hiện đại.
Hai nhà triết học dự tính một cuộc đối thoại trao đổi, song có lẽ vào thời khoảng này, cái chết của người đồng hành trên con đường triết lý của Deleuze là Guattari, cộng với tình trạng sức khỏe suy yếu nên thư tín qua lại chấm dứt vào năm 1994. [Xem: từ mục về Deleuze, để rõ quan điểm và nhận xét của Deleuze về những vấn đề phức thể, tập hợp của Badiou].
Những phê phán trong Deleuze: la clameur de l'être, 1997 của Badiou (sau khi Deleuze đã qua đời vào 1995) cũng như những ý kiến trong hội luận quốc tế ở Bordeaux giành cho tư tưởng Badiou, những trao đổi qua lại trên những tập san dường như không đóng góp vào việc tỷ giảo, ngoài việc làm rõ hơn quan điểm của mỗi bên.
Theo Badiou, quan niệm cố chấp tính đơn nhất của hữu thể trong tư tưởng Deleuze dẫn đến tái lập siêu việt, đi ngược lại với định ý nội tại của ông. Như vậy vấn đề cơ bản của Deleuze không phải là giải tỏa phức thể mà là gấp tư  tưởng về phức thể lại trong khái niệm mới về Nhất thể. Trong Logiques des mondes gần mười năm sau, Badiou lại giành một tiết để luận về khái niệm sự biến của Deleuze. Trước hết, Badiou muốn minh xác là sự biến là một từ chung của phần lớn triết gia hiện đại, từ Wittgenstein (phát biểu: thế giới là tất cả những gì xẩy đến) đến Heidegger (hữu như thể hữu-đang-đến/Ereignis) chuyển tới do bốn động lực chồng chất, trong chính trị như Cách mạng, trong ái tình như giải tỏa tình dục, trong những nghệ thuật, trình diễn, trong những khoa học, trong đoạn tuyệt tri thức - như vậy, sự biến không là khái niệm của riêng Deleuze, song là cốt lõi trong tư tưởng của Badiou cũng như của Deleuze, nhưng tương phản, trình ra cái hàm hồ nguyên ủy của khái niệm. Một đằng chứa chiều kích cấu trúc, như thể một đoạn tuyệt, xuất hiện một hạng số thặng dư/terme surnuméraire, một đằng là chiều kích lịch sử của đời sống, như tập trung của chuyển biến, hữu như đến-tự-tại, hứa hẹn. Theo Badiou, trong trường hợp thứ nhất, sự biến giải trừ với Nhất thể, phân ly, tiền quy đề của chân không/assomption du vide, vô nghĩa thuần túy; trong trường hợp thứ hai, sự biến là trò chơi của Nhất thể, hợp thành, cường độ của tràn đầy, kết tinh (hay luận lý) của giác/sens. Ông phát hiện trong tác phẩm Logique du sens/Luận lý của giác của Deleuze có bốn công lý: 1/ diễn biến là thực hiện hữu thể luận của chân lý vĩnh cửu của Nhất thể, của quyền năng vô hạn của Sống, như vậy diễn biến là chuyển biến của chuyển biến; 2/ diễn biến là một tổng hợp của quá khứ và vị lai, vì trong thực tế, biểu hiện của Nhất thể trong những chuyển biến là đồng nhất vĩnh cửu của vị lai như một chiều kích của quá khứ; 3/ sự biến có bản tính khác với hoạt động và thụ động của cơ thể, nhưng là kết quả của khu biệt hoạt động và thụ động này; 4/ đời sống được phối trí bởi cùng một Sự biến duy nhất, dầu có biến hóa, phối trí ở đây hiểu theo nghĩa âm nhạc, sự biến là cái phối trí một đời sống, giống như nhạc chỉ/thème cấu thành một tấu khúc nhạc. Biến hóa ở đây phải hiểu như thay đổi trên một nhạc chỉ, như vậy, sự biến rõ ràng là Trở về vĩnh cửu của cái đồng nhất (cho nên trong Deleuze: la clameur de l'Etre Badiou mệnh danh Deleuze là một người theo Platon bất như ý), quyền năng vô tình của cái Đồng thể, như vậy đối với moi phức thể, bản chất của sự biến là phối trí chúng thành ra như Nhất thể và phô diễn phối trí duy nhất này trong những biến đổi vô hạn về mặt tiềm năng. Với bốn công lý này, theo Badiou, Deleuze minh thi quan niệm riêng của ông về tính hàm hồ sự biến là định mệnh của Nhất thể; cũng như mọi triết gia quan niệm liên tục sinh lực, Deleuze không thể tách giác quan, quy luật siêu nghiệm của cái xuất hiện với những chân lý là những ngoại lệ vĩnh cửu. Luận lý sinh lực áp đặt hiện thực hóa những phức thể theo quy luật của Toàn-Nhất ảo, không nhận ra cái tôn giáo thuần túy khi đồng thời tuyên bố những sự biến là giác, tính tôn giáo tiềm tàng trong lý luận sự biến của Deleuze. Cũng như Marx muốn đảo ngược phép biện chứng Hegel, Badiou đảo ngược bốn công lý của Deleuze để chỉ ra lý luận sự biến của mình: Đối với Deleuze, sự biến là kết quả nội tại của những chuyển biến hay của đời Sống, còn với Badiou, sự biến là nguyên lý nội tại của những ngoại lệ với chuyển biến hay những Chân lý. Đôi khi ông cũng dựa vào Lacan để củng cố lập luận, như khi chỉ ra mặt tôn giáo trong luận lý về giác của Deleuze, là theo Lacan, buông xả mọi thứ cho giác, có nghĩa là củng cố chủ quan tôn giáo, vì “tính trì cửu/stabilité của tôn giáo đến từ chỗ giác luôn luôn mang tính tôn giáo. Khi nói đến tương phản giữa lý luận của ông với Deleuze, chủ đích của Badiou nhằm chống lại Nhất thể, như trong L'éthique, 1993 ông xác định những công lý riêng của mình, như không có Thượng đế. Điều đó cũng muốn nói: Nhất thể không hiện hữu/Il n'ya a nul Dieu. Ce qui se dira aussi: l'Un n'est pas”. Như Badiou từng xác định toán học là hữu thể luận, ông dùng những công lý trong lý luận tập hợp Zermelo-Fraenkel (như công lý chọn lựa, công lý nền tảng, công lý thay thế, công lý tập hợp chân không v.v..) để rút ra những hệ luận, như Nhất thể không hiện hữu, cơ sở của mọi tập hợp ở trong chân không (có một tập hợp hiện hữu không có yếu tố nào cả), nối mọi hiện hữu vào hoàn cảnh lịch sử-xã hội của những phức thể của tập hợp. Dùng toán học, ông gọi toán vị/mathème  của sự biến để xác định: sự biến của cảnh X (gọi là sự biến của cảnh X một phức thể được họp bởi một bên là những yếu tố của cảnh/site, một bên là chính nó); giả sử S là hoàn cảnh/situation, và X € S (X thuộc về S, X được trình diện bới S) là cảnh sự biến; eⁿ là sự biến (đọc là: sự biến của cảnh X, định nghĩa được viết như sau: eⁿ = {x € X, eⁿ} có nghĩa là: sự biến tạo nhất-phức thể/un-multiple một đằng của tất cả những phức thể thuộc về cảnh của nó, đằng khác là của chính sự biến.Vấn đề đặt ra là: trong chừng mực nào định nghĩa này tương ứng với ý niệm trực giác của sự biến và xác định xem những kết quả của định nghĩa về vị trí của sự biến trong hoàn cảnh nó là sự biến, hiểu theo nghĩa nơi mà cảnh của nó là một phức thể tuyệt đối đơn độc của hoàn cảnh này. Badiou minh họa vấn đề thứ nhất qua ví dụ cú pháp vị/syntagme “Cách mạng Pháp”, có thể hiểu là sự biến “Cách mạng Pháp”  là một trong những cái tạo ra cảnh của nó, chẳng hạn nước Pháp trong khoảng 1789 và 1794, những đại biểu chính trị, nông dân, người cách mạng, lính tráng v.v.., giá sinh hoạt, máy chém, những cuộc tàn sát, tóm lại mọi thứ của thời đại để lại dấu vết và sự kiện; trong liệt kê mọi yếu tố của cảnh, có thể một trong sự biến không còn nữa, song liệt cử luôn luôn vô hạn những động thái, sự vật, chữ nghĩa cùng tồn tại, cái làm điểm dừng của phân bố này là phương cách mà Cách mạng là một hạng trục/terme axial của chính Cách mạng, nghĩa là cách mà ý thức thời gian , cũng như can dự phản hồi của chúng ta, lọc lọi toàn cảnh bằng một trong những định phẩm chất sự biến (chẳng hạn, Saint-Juste tuyên bố vào 1974 là cuộc Cách mạng bị băng giá  đã chỉ ra vô số những chỉ dấu của ngán ngán và bực bội chung, nhưng ông cũng thêm vào nét vạch-một này là chính cuộc Cách mạng , như thể ý nghĩa này của sự biến, có thể được định giá (Cách mạng bị băng giá”) chứng nhận nó chính là một hạng của sự biến.). Sự biến là phức thể hiện diện toàn cảnh, vừa là một trong phức thể vô hạn, chứng cớ thường nghiệm này tương ứng với toán vị trong định nghĩa eⁿ nói trên. Về vấn đề thứ hai: đâu là những hậu quả của tất cả những gì liên quan đến quan hệ của sự biến với hoàn cảnh, cũng như sự biến có là một hạng của hoàn cảnh, theo Badiou khó trả lời. Ông đưa ra khái niệm “không thể quyết đoán” trong việc sự biến phụ thuộc vào hoàn cảnh có thể lý giải theo hai chức năng: sự biến hàm súc chân không và đứng giữa chân không và chính nó.                          
Đến đây, lập trường của Badiou khá rõ vị trí của L'être et l'événement  ít ra là trong cách đọc thiên Parménide  của Platon về hai phát biểu nhất thể hiện hữunhất thể không hiện hữu khi ông khẳng định không hữu thể nào cách ly với nhất thể có thể quan niệm được(trong tác phẩm dẫn trên) tới kết cuộc là một không thể quyết đoán tuyệt đối(trong Court traité d'ontologie transitoire). Khởi điểm của Badiou là hỏi: liệu người ta có thể khai phong nhất thể ra khỏi hữu thể, cắt đứt cái nói lý lẽ siêu hình về hữu thể bằng nhất thể không? Trong thiên Suy niệm hai: Platon của L'être et l'événement ở đề từ Badiou đã dẫn nếu nhất thể không là/hiện hữu, không là/hiện hữu/si l'un n'est pas, rien (n')est/ούδέν έοτιν.” Lối lý giải minh thị trong cách dịch khác với thông thường nếu nhất thể không hiện hữu, không gì hiện hữu là khẳng quyết hữu thể luận của Badiou: nhất thể không là/hiện hữu. Điều đó cũng nói lên những cái khác/tha thể/άλλα với nhất thể; cho nên ông dịch τά άλλα έτερα έστιν/những cái khác là khác thành “những cái khác là Tha thể/les autres sont Autres, như vậy cái khác ở đây không hàm chỉ phân biệt giữa nhất thể với những cái khác với nhất thể, vì nhất thể không hiện hữu. Chỉ có phức thể thuần túy là không trước sau như một, là chân không. Điều này chỉ ra rõ trong lý thuyết những tập hợp của toán học, danh từ nguyên thủy của hữu là chân không, toàn không/l'ensemble vide. Badiou nhận lý luận phức thể của ông là một chủ nghĩa Platon hiện đại, một chủ nghĩa Platon về phức thể.
Phê phán lý luận nhất thể/phức thể của Deleuze như nói trên sau khi Deleuze đã mất, nên không có tranh biện trực tiếp, chỉ có những phản bác của những người theo Deleuze. Vấn đề sẽ thảo luận khi nói về Deleuze. Tuy vậy, sự khác biệt giữa hai triết học khá phức tạp, ngay cả mặt khái niệm và định nghĩa, lẫn lối đọc và lýù giải, chẳng hạn Badiou đọc Platon qua thiên Parménide, trong khi Deleuze bàn về thiên Sophiste của Platon. Cuộc tranh luận nhiều khi như giữa hai người điếc.
Lý luận chân không/phức thể thuần tuý/Vô hiện hữu của Badiou có thể so với lý luận của Long Thọ hay Nishida Kitar?, sẽ nói đến ở hai từ mục này.
Lý luận phức thể thể hiện trong việc phê phán quan niệm một đạo đức trong truyền thống do thái/ki tô bản chất tôn giáo, tập trung vào Nhất thể - đó là chủ điểm của Badiou trong tập sách nhỏ L'Ethique, Essai sur la conscience du Mal/Đạo đức học, luận về ý thức điều Ác, 1993 nhằm chỉ ra có nhiều đạo đức của chính trị, tình yêu, khoa học, nghệ thuật v.v..nghĩa là một đạo đức duy sự biến, không phải đạo đức duy bản. Ông xác định: Sự thực, ngày nay đạo đức để chỉ một nguyên lý quan hệ với cái gì diễn ra”, một điều chỉnh mơ hồ bình luận của chúng ta về những hoàn cảnh lịch sử (đạo đức nhân quyền), những hoàn cảnh khoa học-kỹ thuật (đạo đức của sinh vật, sinh-đạo), những hoàn cảnh xã hội (đạo đức sống chung/être-ensemble), những hoàn cảnh truyền thông (đạo đức thông giao) v.v.. cho nên trong cảnh lạm phát xã hội hóa quy chiếu đạo đức đó, ông muốn khảo sát bản tính chân xác hiện tượng này,mặt khác thảo luận đạo đức dưới một ý nghĩa khác, thay vì liên kết nó với những phạm trù trừu tượng như con Người, Quyền, Tha thể ông muốn xét đến tương quan với những tình thế/hoàn cảnh, thay vì cho nó một chiều hướng thương hại đối với nạn nhân, ông xét đến cách ngôn lâu bền của những quá trình độc đáo, thay vì loay hoay với lương tâm bảo thủ, ông xét đến phần số của những chân lý. Cho nên, cũng như những người đi trước như Heidegger, Lacan, Althusser, Foucault ông phê phán chủ nghĩa nhân bản (từ Kant đến Ricoeur, Habermas) nhằm để chỉ ra cái bất kỳ thành của diễn ngôn đạo đức trước bạo động của thế giới hiện thực, chủ nghĩa ái tha (như Levinas) nhằm phê phán ý định làm tan rã triết học trong thần học, Tha thể của Levinas chỉ là một hình thái thế tục của Thượng đế, chủ nghĩa hư vô nhằm chỉ ra cái bất lực của thế giới hiện đại trong réo gọi và muốn điều Thiện, thật ra chỉ là triệu chứng của một an phận, chịu đựng trước những gì diễn ra, một thái độ chấp nhận số phận, chỉ hướng về cái chết, không phải hướng về cái sống. Ông cũng hàm ngụ loại đạo đức ý thức hệ, như kiểu đạo đức đồng hành dưới sự chi phối của luận lý thị trường.
Một đạo đức học tích cực theo Badiou phải có chân lý, trung tín, chủ thể và sự biến - bốn phạm trù cơ bản đã nói ở trên. Ông chỉ ra chân lý có một phận vị phức thể, cho nên ông gọi là đạo đức những chân lý (chương bốn trong L'éthique), tính cách thời thế của sự biến mà chân lý cấu tạo. Sao gọi là trung tín? Đó là quyết định tương quan với hoàn cảnh từ điểm nhìn bổ sung sự biến. Trung tín với một hoàn cảnh mới, như tình yêu chẳng hạn, là thay đổi phương cách thông thường ở trong hoàn cảnh, mà phải thực hiện một đoạn tuyệt nội tại trước thử thách. Cũng trong ví dụ này, Badiou chỉ rõ chủ thể ở đây không phải là chủ thể tâm lý, phản tư (theo kiểu Descartes), hay siêu nghiệm (theo kiểu Kant) cho nên chủ thể dẫn bởi trung tín tới một gặp gỡ ai tình, chủ thể của ái không phải là chủ thể yêu như những nhà đạo đức cổ điển mô tả, vì một chủ thể tâ lý ấy là từ tính người, luận lý đam mê (ông không công nhận bất kỳ tiền hiện tự nhiên). Những tình nhân  vào trong một phối trí của một chủ thể của ái tình, làm mệt lử họ. 
Chủ thể ở đây không lệ thuộc chân lý, trong quan hệ thụ động, nhận và bị trị, mà là hủ thể tiến hành trong quá trình chân lý, là chính quá trình ấy.
Badiou cũng khởi từ điều Thiện để nghĩ về điều Ác: nếu Ác đồng nhất với một hình thái của hữu-phức thể, nó xuất hiện như hiệu quả của chính Thiện. Phác thảo một lý luận về Ác, ông xét đến cái ảo tượng và khủng bố, sự phản bội và tai họa như ba hình thái của Ác. Theo Badiou, khủng bố thiết lập cái đặc thù, không phải cái phổ quát trong chân lý, chẳng hạn trong chủ nghĩa cộng sản hay quốc xã (đảng viên quốc xã, hay cộng sản chỉ trung thành với ngẫu tượng, thay vì trung tín với chủ thể và chân lý - sức mạnh của ngẫu tượng đúng là nhái chân lý, bắt chước quá trình chân lý). Phản bội gắn liền với khủng hoảng trung tín, giây liên hệ trung tín và chân lý đề ra sự chọn lựa giữa quy phục cái Aùc với trung tín thực cho chủ thể. Đó là trường hợp những người theo cách mạng phải can đảm nhận ra lầm đường, tình nhân cũ hiểu tại sao không yêu người đàn bà nữa v.v.. Từ khủng bố rồi đến phản bội, sang nhận biết cái không kể tên được - đó là vấn đề quyền năng của những chân lý, của sức mạnh biến đổi. Từ lãnh địa tư kiến sang lãnh địa bổ nhiệm, làm rung chuyển những mã số thông giao : quyền năng của một chân lý về hướng những tư kiến là cưỡng bách những xưng danh thực dụng  (ngôn ngữ của hoàn cảnh khách quan) phải biến dạng và khuất phục khi tiếp cận với ngôn ngữ-chủ thể. Đối thủ của cái không thể nói tên là tai họa, nghĩa là tuyệt đối hóa quyền năng và cự tuyệt trên bất lực đơn độc.Ác trở thành tai họa khi tư kiến nỗ lực vạch giới hạn cái vô danh, ghi nó vào trong cái thực thay vì nghĩ nó trong cái tượng trưng: muốn gọi tên khoái lạc tình dục, phi mâu thuẫn hay cộng đồng, là khép kín tình yêu, lẫn lộn tính toán với toán học, quỷ quyệt hóa chính trị. Thiện chỉ là Thiện khi không toan tính biến thế giới thành tốt, mọi tuyệt đối hóa quyền năng của một chân lý tạo thành cái Ác, dẫn đến tai họa của chân lý. Khi chân lý không có quyền năng toàn diện có nghĩa là ngôn ngữ-chủ thể, sản xuất của quá trình chân lý không thể nhiệm danh trên mọi yếu tố của hoàn cảnh thì tối thiểu có một yếu tố thực vẫn không thủ đắc trong những nhiệm danh chân thực, và chỉ có từ tư kiến, từ ngôn ngữ của hoàn cảnh, yếu tố này chính là cái vô danh của chân lý. vì không tiếp cận được Vĩnh cửu, nó là tượng trưng của cái thực thuần túy của hoàn cảnh, của đời sống không chân lý. Đó là một nhiệm vụ khó cho tư tưởng triết học xác định được điểm vô danh của một loại hình quá trình chân lý. Đạo đức học chân lý theo Badiou không đấu tranh chống cái Ác bên ngoài, mà trái lại, do trung tín với những chân lý, dự phòng cái Ác mà nó nhận ra Ác là bề trái, mặt tối của những chân lý này.
Ngoài những sách đã dẫn, tác phẩm khác của Alain Badiou gồm triết học như: Le Concept de modèle, 1969; Peut-on penser la politique? 1985; Manifeste pour la philosophie, 1989, Conditions, 1992; Saint-Paul. La fondation de l'universalisme, 1997, 2002; Abrégé de métapolitique, 1998; Petit Manuel d'inesthétique, 1998 - khảo luận phê bình: Rhapsodie pour le théâtre, 1990; Beckett, l'increvable désir, 1995, 2006; Le Siècle, 2005 - không kể tiểu thuyết, kịch, biên khảo chính trị.
Từ điển triết học giản yếu

Từ điển triết học kỳ 30
Baader, Franz Xaver von: Sinh năm 1765 tại München/Munich, mất tại đây năm 1841. Ông theo học quặng mỏ và cơ khí ở Anh từ 1792 đến 1796, song quan tâm đến triết học và thần học. Kết bạn với Jacobi và Schelling. Là một chuyên viên về quặng mỏ, về hưu từ 1820 để trọn thời gian cho việc nghiên cứu triết học. Hai tác phẩm chính là Fermenta Cognitionis, 1822-1825; Spekulativ Dogmatik, 1827-1828. Giáo sư triết học và thần học ở đại học München từ 1826. Quan niệm tri thức là một phần tri thức về Thượng đế.
Bachofen, Johann Jakob: sinh năm 1815 tại Basel, mất năm 1887, nghiên cứu luật, triết học tôn giáo và sử học tại đại học Basel, Berlin và Göttingen. Dạy luật La mã tại đại học Basel vào 1841, từ nhiệm  năm 1844 để nghiên cứu luật và dân tộc học, đi điền dã tại Hy lạp, Ý và Tây ban nha. Tác phẩm chính là Das Mutterrecht, 1861, quan niệm thần thoại là giải thích biểu hiệu/der Mythus ist die Exegese des Symbols, coi lịch sử thế giới là cuộc đấu tranh thường trực giữa ánh sáng và bóng tối, trời và đất, sống và chết, nam và nữ; đất chuyên chở mẫu hệ trong khi con trai chỉ đạo tiến hóa của nguyên tắc phụ hệ.
Bacon, Francis: sinh năm 1561 tại Luân đôn và mất ở đây năm 1626. Ông tham gia chính trị, và nghiên cứu mọi lãnh vực luật, văn chương, triết học, khoa học. Bacon được coi như người xây dựng khoa học mới của nước Anh, với dự án Instauratio magna chỉ hoàn tất được một phần (1620-1623), nhằm canh tân toàn bộ khoa học lý thuyết và ứng dụng. Bacon quan tâm chính yếu đến luận lý quy nạp, đối nghịch với phương pháp quy nạp của siêu hình học truyền thống. Để đạt được khoa học thực, trước hết cần loại bốn nhóm thành kiến bắt nguồn từ bản tính con người mà Bacon mệnh danh là ngẫu tượng, như ngẫu tượng bộ lạc” vì ăn sâu trong bản tính người ta, mang tính bộ lạc và chủng tộc, theo ông con người cho rằng giác quan mang lại tri thức thực, trực tiếp về thực tại, trong khi họ quên rằng tri giác phần nào phụ thuộc vào trí tuệ nên mọi tri thức thuộc về giác quan chỉ có tính tương đối.  Những quan năng tri giác luôn luôn hành xử như những tấm gương sai lầm” làm biến dạng những gì nhận được tự bên ngoài; hiểu biết của con người áp đặt một trật tự thường từ nơi chúng ta lên ngoại giới và không thuộc về chính thực tại. Hơn nữa, phán đoán của chúng ta nhuộm màu cảm tính mà chúng ta vẫn tin, ví dụ nếu ta có một giấc mộng xẩy ra thực, chúng ta thường kết luận ngay là mọi giấc mơ có thể tiên tri, quên rằng vô số giấc mơ không xẩy ra thực. Bacon xem cách sửa xu hướng này là phải chú ý đến những khoảng tiêu cực cũng như tích cực của những chu kỳ liên hệ đó. Nhóm kế là ngẫu tượng hang động”, hiểu theo nghĩa của Platon về huyền thoại con người sống trong hang động lầm tưởng những bóng ngang qua là thực tại. Theo Bacon, mỗi con người có một hang động riêng ngăn chặn và làm đổi màu ánh sáng của tự nhiên, nhìn toàn bộ trong ánh sáng của phần đặc biệt thân quen với họ. Ông đưa ra quy tắc sửa đổi xu hướng này bằng cách mỗi khi tinh thần nắm bắt và dừng lại với thoả mãn đặc biệt nào thì cần phải ngờ vực. Nhóm khái niệm sai lạc thứ ba Bacon gọi là “ngẫu tượng của thị tứ từ những sai lầm do thương mại và giao thiệp của con người với nhau. Giao ngộ của con người qua ngôn ngữ, với những phương tiện chữ nghĩa có hai nguy hiểm, một là thường hàm hồ và hai là coi như thay cho sự vật. Hai con người dùng cùng một chữ với ý nghĩa khác nhau và không thực hiện điều họ làm; họ nghĩ là đồng ý trong khi thực ra không đồng ý, và không đồng ý trong khi thực ra họ không bất đồng với nhau, dùng chữ nghĩa trong danh hư cấu coi như danh của thực thể thật. Nhóm thứ tư là ngẫu tượng sân khấu là những sai lạc len lỏi vào tinh thần con người từ những giáo điều khác nhau của những hệ thống triết học. Bacon biện luận là những hệ thống này thực ra là những bịa đặt như  những tuồng tích kịch trên sân khấu, không đưa ra bức tranh thực của vũ trụ. Một mẫu triết học này thất bại vì “dẫn dắt kinh nghiệm như kẻ bị bắt trong một diễn hành”, một mẫu loại triết học kia tệ hơn vì  “bỏ rơi kinh nghiệm”. Có những mẫu triết học vội vã từ một vài kinh nghiệm mơ hồ tạo thành một triết học tự nhiên toàn diện. Có mẫu lẫn lộn giữa triết học với thần học, đó là lỗi của Platon. Theo Bacon, không những triết học kỳ quái mà ngay cả dị giáo cũng khởi lên từ pha trộn phi lý giữa sự vật thuộc thần với người.
Những triết gia như Diderot, Joseph de Maistre cho Bacon là một người vô thần, có lẽ từ việc ông công kích siêu hình học và tôn giáo đi tìm những nguyên nhân mục đích là vô ích, không tạo ra được điều gì. Ông quan niệm tách rời siêu hình học và khoa học, tôn giáo không nên cuồng tín như Thiên chúa giáo, hay giáo phái Calvin, lãnh vực đức tin phân biệt với phạm vi tri thức.
Bacon phân biệt triết học tự nhiên với thần học tự nhiên, và cũng chia triết học thành hai ngành, lý luận tìm hiểu những nguyên nhân của hiệu quả và thực tiễn nhằm sản sinh ra những hiệu quả qua áp dụng nhận thức về nguyên nhân. Bộ phận triết học lý luận lại chia ra siêu hình học với vật lý học; siêu hình học quan tâm đến những nguyên nhân đầu tiên và hình thức, còn vật lý học quan tâm đến những nguyên nhân vật chất và kỳ thành.
Ông cũng chia nhận thức theo lý trí, ký ức (bao gồm cả nhận thức do giác quan) và tri tưởng. Ký ức và tri tưởng quan tâm đến sự vật, sự biến, sự kiện; ký ức liên hệ với cái thực còn tri tưởng liên hệ với cái giả. Lý trí quan tâm đến những luật và ý niệm tổng quát. Theo Bacon, con người có hai phần hồn: một chỉ riêng có ở người, một như các sinh vật khác.
Phương pháp khoa học theo Bacon gồm ba biểu đồ: biểu đồ khẳng định, hay quy luật hiện diện, và biểu đồ phủ định, hay quy luật vắng mặt, tập hợp mọi trường hợp nhận biết về một hiện tượng, chẳng hạn nhiệt  quan sát nơi ánh nắng, lửa, máu người v.v.. hay những trường hợp không sinh nhiệt, như  ánh trăng, máu nơi con vật chết v.v..; biểu đồ thứ ba là biểu đồ so sánh, hay quy luật của những độ khác nhau, nhằm nghiên cứu những biến dị nơi những hiện tượng khác nhau xem có liên hệ giữa những biến đổi khác nhau đã được quan sát. Những biểu đồ này tương tự như nơi phương pháp đồng thuận, khác biệt và biến thiên tương trùng của J.S. Mill sau này.
Quan niệm phương pháp khoa học của Bacon có những khuyết điểm như không phân biệt giữa dự tưởng/anticipations và giả thuyết/hypothesis làm việc; ông không biết gì về toán học nên không nhận thấy vai trò quan trọng của toán học trong sự phát triển những lý thuyết khoa học. Cho nên ông loại bỏ giả thuyết Copernic, suy luận của Gilbert về từ tính, hay những công trình của Harvey, Kepler, Galileo v.v.. Ông không nói đến chứng thực lý luận quy nạp và không nhận thấy vai trò của diễn dịch trong khoa học.
Ưu điểm của Bacon là đề ra khái niệm khoa học như một nghiên cứu hệ thống. Ông đã đề nghị với vua James đệ Nhất xây dựng một đại học lớn để người ta có thể theo đuổi khoa học thực nghiệm, lập những hội học gia để nghiên cứu và phát triển khoa học chuyên nghiệp tại Oxford và Cambridge. Không đề án nào được thực hiện lúc ông còn sinh thời, nhưng đã thành lập sau khi ông mất ít lâu, như Hoàng gia hội/Royal Society vào năm 1662 cũng như nhiều học viện khác ở Pháp, nơi ảnh hưởng của ông cũng lớn như ở Anh.
Những tác phẩm chính của Bacon là: Advancement of Learning, 1605; De Sapienta Veterum, 1609; New Atlantis, 1614-17; Novum Organum, 1620; De Prinicipiis atque Originibus, 1623-24.          
Baier, Annette (1929-); Kurt (1917-): Kurt Baier sinh trưởng ở Vienna nước Áo, tị nạn ở Anh vào 1938 vvà di cư qua Úc. Ông tốt nghiệp ở đại học Oxford năm 1952, dạy ở đại học Melbourne, Pittsbourgh. Gặp Annette Stoop ở Hiệp hội triết học Mỹ và kết hôn với nhau năm 1958. Kurt chuyên về đạo đức học, một trong những tác phẩm đầu tay của ông là From a Moral Point of View/Từ quan điểm đạo đức, 1955 có xu hướng thuần lý, khái quát về đường lối nào sự kiện ở trong những quyết định đạo lý. Annette  sinh năm 1929 ở Dunedin, Tân Tây Lan, tốt nghiệp đại học Otego chuyên khảo Hume và đạo đức học. Bà chỉ ra triết học đạo đức cũng như triết học tổng quát của Hume qua Treatise of Human Nature là một tổng thể gắn bó với nhau. Bà nhấn mạnh đến vị trí của tin cậy trong đạo lý.
Những tác phẩm chính của Annette Baier: Postures of the Mind: Essays on Mind and Morals, 1985; A Progress of Sentiments: Reflections on Hume's Treatise, 1991; The Commons of the Mind, 1997; Death and Character, Further Reflections on Hume, 2008.Những tác phẩm của Kurt Baier: The Rational and the Moral Order, 1995; Problems of Life and Death, 1997.
Bain, Alexander: sinh trưởng ở Aberdeen, năm 1818, tự học và sau đó theo học tại Marischal College.  Phụ giáo ở đây từ 1841 đến 1844. Liên lạc với phái thực lợi, quen biết J.S. Mill và làm việc cho Edwin Chadwick từ 1848 đến 1850. Trong thập niên 50 này, ông hoàn tất hai tác phẩm chính The Senses and the Intellect, 1855The Emotions and the Will, 1859 tìm hiểu những điều kiện thể chất ảnh hưởng lên những trạng thái tinh thần. Trong tác phẩm bàn về giác quan và tri thức, 1855 ông quan niệm tri giác phụ thuộc vào cảm giác cơ và phân biệt thân thể với ngoại giới trong bản chất gồm hai đặc tính thể chất và tinh thần. Trong tác phẩm 1859 luận về ý chí và xúc cảm, ông quan niệm niềm tin phụ thuộc vào tác dụng và hành động. Ông quan tâm đến khoa sinh lý học và tri thức học, với phương pháp dựa trên quan sát sự kiện hơn là nội quan.
Baden, trường phái: Trường phái Baden cùng với trường phái Marburg vào cuối thế kỷ 19 làm sống lại triết học Kant, và thường gọi là tân Kant. Hai đại biểu của trường Baden là Windelband và Rickert dạy tại những đại học vùng Tây Nam, nên trường Baden còn gọi là phái tây nam Đức. Tư tưởng của phái này tựu chung ở phân biệt giữa phạm vi thực tại khả tri/esse với tư tưởng và giá trị. Trên nguyên tắc, thực tại và tư tưởng thống nhất, song thực tế tư tưởng luôn luôn thu hút thực tại, như trong những khoa học tự nhiên. Trong những khoa học nhân văn, tư tưởng lại ảnh hưởng trên thực tại và thực hiện những giá trị. Giá trị có một ý nghĩa tuyệt đối nhất định. Quan điểm của phái này chỉ ra khoa học nhân văn tách khỏi thống trị của khoa học tự nhiên và luận lý học.
Bakhtin, Mikhail Mikhailovich: sinh năm 1895 ở thị trấn Orel gần Moscow/Москва, theo học cổ văn và bác ngữ học ở đại học Petrograd, dạy học ở trường sư phạm Mordovia từ 1936. Ông đã viết nhiều về ngôn ngữ và văn hóa, bị đi đày dưới thời thanh trừng của Stalin (Bakhtin bị bắt năm 1929 vì tình nghi dính líu với tổ chức Chính thống giáo, bị kết án sáu năm về Kazakhstan) cho đến thập niên 60 mới được trở về Moscow. Những nghiên cứu về Dostoyesky và Rabelais viết trong những năm 1929, 1940 mới được xuất bản và tạo một luồng gió mới trong phê bình văn học quốc tế. Ông có ảnh hưởng lớn với giới văn học Pháp như Todorov, Kristeva v.v.. Bakhtin cũng là một trong những trường hợp như Bataille, Barthes, Benjamin, Blanchot nổi tiếng về mặt phê bình văn học song vẫn có ảnh hưởng về mặt triết học.
Ông cũng là trường hợp gây tranh luận chung quanh vấn đề ai là tác giả thực của những tác phẩm viết về chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, phương pháp hình thái trong nghiên cứu văn học vì xuất hiện tên trên sách xuất bản là V.N. Vološinov, P.N. Medvedev. Giải mật được vấn đề này vẫn còn trong vòng tranh cãi, song quả thực có sự hiện diện của nhóm hội Bakhtin/krug Bakhtina quy tụ những người như Pumpianskii, Pavel Nikolaevich Medvedev, Voloshinov. Mặt khác, Bakhtin cũng tham gia trường phái triết học Nevel với những tên tuổi như Matvei Isaevich Kagan, Lev Pumpianskii, Mariia Iudina, Valentin Voloshinov, Boris Zubakin vào những năm 1918-1925 là giai đoạn hình thành tư tưởng của nhóm người này.
Trong những năm ở Nevel và Vitebsk,  ông cũng như những bạn ông thấm nhuần tư tưởng triết học tân Kant của trường phái Marburg và Cohen, ảnh hưởng trên những tiểu luận đầu tay của Bakhtin vào những năm 1919, về mặt liên hệ những vấn đề triết lý với những khai phá mới về tự nhiên và thế giới, về khái niệm tính dị chất của những cứu cánh. Ông đã viết ra những nhận xét như khi con người ở trong nghẹ thuật, thì không ở trong đời sống, và đảo lại; không có thống nhất giữa nghệ thuật và đời sống và không có xâm nhập nội tại trong thống nhất của một cá nhân.”
Trong những năm 1924-1929, Bakhtin đã viết một số tác phẩm trong một văn phong giản dị hơn, như  Những vấn đề trong nghệ thuật của Dostoevsky/Problemy tvorchestva  Dostoevskogo đã xuất bản vào năm 1929, sau đó ông bị đưa đi an trí, sống trong bóng tối dưới thời Stalin, tác phẩm này chỉ được những học giả trẻ ở Moscow phát kiến cũng như không ngờ tác giả vẫn còn sống; do yêu cầu của họ, một bản thảo sửa lại được xuất bản vào năm 1963 là Những vấn đề trong sáng tạo học của Dostoevsky/Problemy poetiki Dostoevskogo. Những tác phẩm khác như Diễn ngôn trong tiểu thuyết/Slovo v romane, Những hình thái thời gian và thời-không pháp trong tiểu thuyết/Formy vremeni i xronotopa v romane, Sử thi và tiểu thuyết/Epos i roman v.v..chỉ được in ra trong Những vấn đề văn học và mỹ học/Voprosy literatury i estetiki vào năm ông mất (1975), Công trình sáng tạo của François Rabelais và văn hóa bình dân thời Trung cổ/Tvorchestvo Fransua Rable i narodnaja kultura srednevekovja xuất bản năm 1965.                                                                                                                                      
Những tác phẩm của Bakhtin viết trong những thập niên 30 của thế kỷ khi được đưa ra ánh sáng đã tạo biến đổi trong nghiên cứu văn học thế giới và ông trở nên nổi tiếng trong học giới vì công trình sáng tạo như lý thuyết lễ hội, khái niệm đối thoại chỉ ra diễn ngôn đa dạng/raznorečie/raznogolosost. Trong Mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học (in lại trong Tẩu khúc Văn chương/Triết lý, 2004), tôi nói đến Bakhtin: Ở cùng một thời đại với Hình thái luận Nga là một tư tưởng văn học khác của Mikhail Bakhtin cũng đã bị chủ nghĩa Zhdanov áp chế ngay trên đất nước của nó...Vị trí của Bakhtin đối với phong trào Hình thái khá hàm hồ khiến các học giả nghiên cứu thời kỳ này vẫn còn cần thảo luận. Victor Erlich trong khi viết lịch sử chủ nghĩa Hình thái Nga đã không kể tên Bakhtin trong phong trào này vì cho là công trình của Bakhtin chỉ được chú ý đến từ thập niên 60. Gary Saul Morson ngược lại coi ông là một lãnh tụ dị giáo của chủ nghĩa Hình thái /Formalist heresiarch, đã nhận thức được những hệ biến hóa của khoa học văn chương mà trường phái Hình thái chỉ mới khởi sự. Hệ phái Bakhtin với những bạn đồng chí như Pavel Medveded và Valentin Voloshinov đã viết một số những công trình như Chủ nghĩa Freud: phác thảo phê phán/Frejdizm: kritičeskij očerk, 1927, Chủ nghĩa Mác và triết học về ngôn ngữ/Marksizm i filosofija jazyka, 1929, Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học/Formal'nyj metod v literaturovedenii, 1928 để chỉ ra những quan hệ mật thiết với chủ nghĩa Mác, đồng thời phê phán những hạn chế trong lý luận văn học mác-xít cũng như khuyết điểm của phân tâm học vì không nhận thức được chủ thể tập thể. Tuy nhiên đóng góp quan trọng của Bakhtin trong lĩnh vực lý luận văn học chính là nguyên lý đối thoại/dialog/dialogizm. Ông là người tiên phong phát hiện tính phá thể trong tiểu thuyết của Dostoevsky khi phân biệt tiểu thuyết đa thanh của Dostoevsky với tiểu thuyết đơn thanh (tiểu thuyết nhiều giọng hoàn toàn có tính đối thoại - không phải một tác giả/nhà văn đơn độc viết ra nhưng dăm bảy tác giả/nhà tư tưởng là những nhân vật trong tiểu thuyết của Dostoevsky như Raskolnikov, Myshkin, Stavrogin, Ivan Karamazov…). Trong Những vấn đề của phép sáng tạo nơi Dostoevsky, ông chỉ ra những quan hệ mà dựa vào đó tiểu thuyết được cấu trúc ra có khả năng như vậy vì đối thoại luận/dialogizm là tính cố hữu của ngôn ngữ vì đối thoại là phạm vi khả hữu duy nhất của đời sống ngôn ngữ” cho nên mặc dầu “những quan hệ đối thoại tuyệt đối không thể khả hữu nếu không có những quan hệ luận lý và chỉ thị ý nghĩa, nhưng không phải vì thế mà chúng bị giản lược vào những quan hệ này, những quan hệ đối thoại có tính đặc thù của nó.” Nếu thiết bị của Hình thái luận Nga với Shklovsky, Eikhenbaumlà biến dạng/deformirovanie và biến lệch/otklonenie thì thiết bị/priem trong lý luận văn học của trường phái Bakhtin là đối thoại và lễ hội. Khái niệm hội giả trang/karnaval chỉ ra nỗ lực giải phóng thân thể và những giai tầng thấp ra khỏi những áp chế nghiêm cách chủ nghĩa (hệ thống đẳng cấp lộn đầu như kẻ khùng trở thành thông thái, vua biến thành kẻ ăn xin, thiêng liêng thành trần tục, thực tế lẫn với tưởng tượng, thiên đường hòa với địa ngục). Khái niệm đối thoại chỉ ra trong văn chương không chỉ có một chân lý (của tác giả/độc thoại) mà chân lý đa điệu, đa dạng của diễn ngôn, mang tính lễ hội. Khái niệm diễn ngữ/slovo chỉ ra diễn ngôn là một hiện tượng xã hội và chữ là tín hiệu xã hội năng động. Nguyên lý đối thoại nhấn mạnh đến đường lối của ngôn ngữ được tạo ra để đối kháng giới cầm quyền/ có thẩm quyền và giải phóng những tiếng nói dị biệt. Giả trang hoá thực hiện nơi những tác phẩm lớn trong văn chương biểu hiện đa nguyên, phản kháng lại xu hướng nhất thống hóa. Phê bình luận đối thoại là thành tựu của triết học Bakhtin.
Mikhail Bakhtin đóng góp trong nhiều lãnh vực nên đặt ông trong ngôi nhà triết học có thể gây tranh cãi, song chính ông minh xác: phân tích của ông chủ yếu phải gọi là triết học bởi vì điều gì không là nó; không có loại phân tích nào là ngữ học, bác ngữ học, văn học hay bất kỳ loại đặc thù nào.
Những vấn đề Bakhtin chỉ ra trong những tác phẩm của riêng ông hay góp chung của nhóm Bakhtin/krug Bakhtina có ý hướng đối thoại với những tư trào trong thời đại, từ phân tâm học, hiện tượng luận đến chủ nghĩa Mác; ảnh hưởng của Husserl đến những điểm tương đồng với lý luận của Ingarden, Merleau-Ponty chứng tỏ Bakhtin là một trong những nhà tư tưởng được bàn cãi nhiều vào nửa sau thế kỷ XX.
Bị chú: Những từ ngữ Nga được chú thích qua dạng văn tự La tinh vì tiện nghi. Từ ngữ Xronotopa/хронотопа là tân ngữ của Bakhtin bao hàm thời gian/niên đại và không gian/trường sở. 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét