Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Thơ lục bát, hình thức và diện mạo Khúc Hà Linh.


Thơ lục bát, hình thức và diện mạo Khúc Hà Linh.  


Thơ lục bát còn gọi là thơ trên sáu dưới tám bởi lục là sáu, bát là tám. Thường mở đầu bằng câu thơ có sáu từ, rồi tiếp theo là câu tám từ,  và cứ thế xen kẽ một câu sáu lại một câu tám …cho đến hết bài thơ.  Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm thơ lục bát tiêu biểu, một áng văn chương châu báu của dân tộc. Mở đầu  truyện Kiều là câu sáu “ Trăm năm trong cõi người ta”, vượt qua 3254 câu thơ, rồi được kết thúc bằng  câu tám “ Mua vui cũng được một vài trống canh” . Nhưng  biệt lệ có bài thơ lại kết thúc ở câu sáu, tạo nên một trạng thái lửng lơ để người đọc tự suy ngẫm. ..
Đến nay vẫn chưa ai khẳng định rõ rệt được dân tộc Kinh hay tộc Chăm đ• sản sinh ra thể thơ lục bát đầu tiên . Thơ lục bát dễ đọc, dễ thuộc. Nhiều người không biết chữ, nhưng vẫn thuộc hết cả truyện Kiều, còn kể lại cho người khác nghe . Các cụ già ở làng quê cũng mượn thể lục bát mà làm thành những bài ca dao mộc mạc, thành câu vần vè để giao lưu và gi•i bầy tâm sự. Các câu lạc bộ thơ Người cao tuổi  sử dụng thơ lục bát khá nhiều, bởi dễ làm, dễ tả chỉ cốt vần là được?
Nhưng thực ra làm một bài thơ lục bát hay thật khó.
1. Thể cách thơ lục bát.
a. Niêm luật thơ lục bát:
Niêm chữ Hán có nghĩa là dính. Nó có sự dính kết  giữa các từ  trong câu thơ một cách hợp lý với nhau. Khi vị trí “từ” đúng thể cách, khuôn phép ấy là luật. Bài thơ sử dụng từ sai quy cách, ấy là thất niêm- sai niêm luật.
 Khác hẳn thơ Đường, thơ lục bát có niêm luật khá giản dị.
 Một cách thông thường nhất là từ thứ 6 của câu sáu; từ thứ 6 và từ thứ 8 của câu tám là thanh bằng ( tức không dấu và dấu huyền):
* Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Kiều
* Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò
Ca dao
Những từ :  ta, là, nhau, và sông, không, đò đều là thanh bằng . ấy là câu thơ bằng vận.
Trường hợp đặc biệt từ  thứ 6 của câu sáu và từ thứ 6 của câu tám đều là thanh  trắc( dấu ng•, nặng, hỏi ):
Tò vò mày nuôi con nhện
  Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
 ( nhện, quện là thanh trắc). ấy là câu thơ trắc vận. Hiện tượng này thật là h•n hữu, nhưng trong văn học đ• thấy.
 b. Thơ lục bát cũng có luật bằng trắc.
 Đọc một bài thơ lục bát ta thường nghe thấy âm điệu dào dạt hay khoan thai là bởi nhạc điệu của thanh âm nặng nhẹ, bằng trắc của những từ ngữ trong mỗi câu thơ.
* Các chữ lẻ(1,3,5,7) trong câu thì bằng hay trắc đều được.
:
Đêm qua mới gọi là đêm
              Ruột xót như muối dạ mềm như dưa.
Mong chàng như cá mong mưa
Ca dao
Những chữ được gạch chân: đêm, mới, là, ruột, như, dạ, như , mong, như, mong ( tức chữ lẻ) dù là thanh bằng hay thanh trắc đều được.
Chẳng hạn ta thay đổi bằng trắc bằng cách đặt các từ có thanh bằng thành trắc và ngược lại, để tạo ra một câu thơ mới :
Tối qua em thức trắng đêm
Gan xót tựa muối lòng mềm tựa dưa
Ngóng chàng tựa cá ngóng mưa
Đây là giả dụ về sự thay đổi bằng trắc.Tuy câu thơ không hay, gượng ép, nhưng vẫn nhận ra đó là thơ lục bát.
* Các chữ chẵn( 2,4,6,8) thì phải phục tùng luật định.
Bây giờ ta để nguyên các chữ lẻ, và thay đổi  các chữ chẵn theo cách thay đổi thanh bằng thành thanh trắc, trắc thành bằng, ta  được những câu thơ  ngô nghê như  người ngoại quốc nói tiếng ta thế này:
Đêm quá mới goi là đếm
Ruột xot như muôi dạ mếm như dứa.
Mong cháng như ca mong mứa
* Để cho câu thơ lục bát thanh thoát, người ta thường phải thay đổi âm thanh của chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu tám. Cụ thể là hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu huyền và ngược lại.
   Ví dụ:          -  Ruột xót như muối dạ mềm như dưa.
( chữ thứ 6 là mềm- dấu huyền, thì chữ thứ 8 là dưa- không dấu)
Hay:            - Nhớ chàng như nhớ bữa trưa đói lòng
( chữ thứ 6 là trưa- không dấu, thì chữ thứ 8 là lòng- dấu huyền).
Nếu không tuân thủ nguyên tắc này sẽ tạo ra những câu thơ vô nghĩa thậm chí lủng củng,  hài hước:
Đêm qua mới gọi là đêm
              Ruột xót như muối dạ mềm như dừa.
Mong chàng như cá mong mưa
Nhớ chàng như nhớ bữa trưa đói long.
 2- Vần và gieo vần :
Thơ Đường có  vần chân ( ở cuối câu) chữ Hán gọi là cước vận. Thơ lục bát có vần chân và thêm vần lưng ( ở giữa câu) gọi là yêu vận. Tuy khác nhau về vị trí nhưng chúng đều có chức năng lặp lại ngữ âm làm cho dòng này chuyển sang dòng khác, ý này nối sang ý kia, làm cho mạch thơ gắn với nhau và tạo nên câu thơ uyển chuyển nhẹ nhàng .
Vần chân :
Chữ cuối của câu tám phải gieo vần với chữ cuối của câu sáu:
      -  Ruột xót như muối dạ mềm như dưa.
                            Mong chàng như cá mong mưa…
        -  Chiều chiều ra đứng đầu làng ngóng trông
                           Con đường xa tít bờ sông..
      Trong câu thơ trên, thì  dưa vần với mưa, trông vần với sông là vần chân.
 Vần lưng:
a. Phổ biến nhất là các thanh bằng vần với nhau.
* Có khi là chữ cuối của câu sáu,  vần với chữ thứ 6 của câu tám:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa  bộ hành chơi xuân
Kiều
( ba vần với là, anh vần với hành đều là vần lưng .) .
      * Có khi là chữ cuối của câu sáu,  vần với chữ thứ 4 của câu tám:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
( hoa vần với cà, là vần lưng)
b. Biệt lệ  các thanh trắc vần với nhau:
* Có khi là chữ cuối của câu sáu,  vần với chữ thứ 6 của câu tám:
Tò vò mày nuôi con nhện
 Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
( nhện, quện  thanh trắc vần với nhau)
* Có khi là chữ cuối của câu sáu,  vần với chữ thứ 4 của câu tám:
 Đường lội, xắn quần em lội
 Trên đầu em đội rá gạo về nhà
 Thổi xôi thờ  mẹ cúng cha
 Cho tròn chữ hiếu xứng là dâu ngoan
( lội , đội là thanh trắc, vần với nhau).
 Vần chính và vần thông .
Vần chính : 
Trong khi gieo vần chân và vần lưng, ta thấy có những từ hoàn toàn  trùng âm với nhau:
Đêm qua mới gọi là đêm
Ruột xót như muối dạ mềm như dưa.
Mong chàng như cá mong mưa
Nhớ chàng như nhớ bữa trưa đói lòng
Ca dao
( đêm vần với mềm; dưa vần với mưa, trưa đều là trùng âm, đều là vần chính.) .
Gặp những câu thơ như thế , người đọc cảm thấy êm ái, nhẹ nhàng và thú vị.
Vần thông:
Nhưng trong trường ca, hay truyện thơ dài như Kiều, nhà thơ không phải lúc nào cũng tìm được những từ trùng âm, mà ý tứ phù hợp tình tiết câu chuyện đang mô tả. Vì thế phải dùng những từ có âm điệu na ná như nhau, gần nhau nhưng không hề bị lạc lõng. Những cách gieo vần thế gọi là vần thông. Nghĩa là thông thoát âm  điệu  chứ không được nuột nà như  vần chính.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung
Một trai con thứ rốt lòng
(   vàng gieo xuống  Vương ;  trung gieo với lòng …đều là vần thông) . Chúng tuy không trùng âm, nhưng đọc lên người nghe vẫn không bị lạc lõng điệu giọng. Có rất nhiều ví dụ trong thơ lục bát Việt Nam.
Hiện tượng trùng ngữ
Một điều rất cần chú ý là để bài thơ lục bát đỡ nhàm vì đơn điệu, người ta cố gắng để không trùng ngữ trong những đoạn thơ quá gần nhau. Thường sau hai chục dòng thơ mới để trùng ngữ. Khi đó mạch thơ đ• gi•n ra, với những nội dung tương đối đa dạng, sẽ không tạo ra cảm giác bị lặp lại và nghèo nàn ngôn ngữ.
 Ví dụ đoạn thơ như sau nên tránh:
 Nhớ em thở ngắn than dài
 Nhớ em ngơ ngẩn đứng ngồi không yên
 Nhớ em lòng những buồn phiền
Nhớ em thao thức suốt đêm canh dài
Mới có bốn câu thơ , tác giả đ• bị trùng ngữ than dài và canh dài. Tất nhiên sau đó lại gieo vần ai, tạo thành sự nhàm chán đến phản cảm.
Xét đoạn truyện Kiều sau đây:
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Nẻo xa, mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành giao.
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Suốt 10 câu thơ chỉ có một vần thông( tình gieo xuống xanh, quỳnh ), chứ tuyệt nhiên không có trùng ngữ, nên cả đoạn thơ vừa êm tai lại vừa hấp dẫn không bị nhàm chán.
3. Nhịp, và đối trong thơ lục bát.
Có thể coi nhịp là tiết tấu của câu thơ. Nếu cứ một nhịp đều đều thì chỉ vài ba câu thơ là khiến cho người đọc nhàm chán. Vì thế nhà thơ thường tìm cách thay đổi nhịp để tránh lì mòn tẻ nhạt, giống như trong âm nhạc người ta thay đổi tiết tấu và giai điệu. Thơ lục bát thường xen vào các nhịp 2-3-4 một cách linh hoạt, không gò bó làm cho câu thơ tung tẩy hoặc dịu dàng, khoan thưa hay dồn dập tuỳ thuộc vào tình huống của mạch thơ.
Ví dụ:                Ngày xuân / con én đưa thoi                          ( nhịp 2- 4 )
                          Thiêù quang chín chục / đ• ngoài sáu mươi   ( nhịp 4 -4)
Hoặc :                Kiều càng sắc sảo / mặn mà                   ( nhịp 4 – 2)
   So bề tài sắc / lại là phần hơn                   ( nhịp 4 - 4)
Hoặc:                 Người nách thước/ kẻ tay dao                     ( nhịp 3 -3 )
   Đầu trâu/ mặt ngựa/ ầo ào như sôi           ( nhịp  2 -2- 4 )
Rõ ràng đọc những câu có nhịp khác nhau, ta thấy  nhạc điệu phong phú và tạo ra cảm xúc luôn luôn mới.
4- Về đối trong thơ lục bát.
Về nguyên tắc, thơ lục bát không phải đối. Tuy nhiên trong các trường hợp cụ thể người ta vẫn dùng tiểu đối để cho câu thơ được rành mạch, khúc chiết gây hiệu quả xúc cảm cao hơn.
* Có khi tiểu đối trong một câu thơ:
   Người nách thước, kẻ tay dao
( người – kẻ;  nách- tay ; thước- dao là đối nhau)
* Có khi tiểu đối ở hai câu thơ sáu và câu tám:
Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
( Đầu năm ở câu sáu – Cuối năm ở câu tám đối nhau. Thanh yên ở câu sáu và bưởi ở câu tám đối nhau).
 * Có khi chỉ là đối ý:
   - Đũa mốc lại chòi mâm son…
   - Lọng vàng che nải chuối xanh
   Tiếc cho loan phượng đậu cành tre khô
 * Có khi đối chéo ở hai câu sáu và tám:
   - Khách tình lại nhớ thuyền tình
    Thuyền tình lại nhớ khách tình là duyên.
* Cũng như thể thơ luật Đường, thơ lục bát khi cần đối, vẫn phải đối nhau theo từ loại. Nghĩa là danh từ với danh từ; tính từ với tính từ …vân vân.
Một ví dụ khá tiêu biểu là :
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Kiều
Ta thấy các danh từ đối nhau: thu với xuân, thuỷ với sơn, hoa  với liễu. Tính từ thắm với xanh, động từ ghen với hờn, phó từ thua với kém; quán từ làn và nét đối nhau  rất chỉnh . Làm cho ý tứ so sánh càng nổi bật.
5- Lục bát biến thể:
Lục bát chính thể chỉ có câu sáu và câu tám  hoàn chỉnh. Còn lục bát biến thể nó phát triển các câu lục bát hoàn chỉnh ra, gi•n ra trên cơ sở cái cốt cũ chứ không hề phá vỡ. Quá trình phát triển của đời sống, con người đ• thừa hưởng cái đẹp của thơ lục bát để soạn ca từ cho các bài ca. Họ đ• thêm chữ đệm, làm  rõ ý hơn của bài thơ. Các nhạc sĩ, nghệ sĩ dân gian thường sử dụng lục bát biến thể để sáng tạo ra một loại hình nghệ thuật mới. Đó là bài hát chèo, dân ca, quan họ….
Chẳng hạn câu  lục bát chính thể hoàn chỉnh là:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
 Các nghệ nhân chuyển thành biến thể để hát sẩm:
Nghĩ trăm năm trong cái cõi người ta
Giữa chữ tài chữ mệnh, vẫn khéo là ghét nhau.
Nay đ• trải qua một cuộc bể dâu
Có những điều trông thấy,  mà đau đớn lòng../.

1 nhận xét: